hoangnt

2012 - Cuộc Chuyển Thế Vĩ Đại (Tiếp Theo 4)

2 bài viết trong chủ đề này

Chương X

CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

"Ta chẳng phải là vị Phật đầu tiên hay cuối cùng ... đến thời điểm sẽ có một vị Phật khác xuất hiện cứu đời: Một Đấng Chí Thánh, một Đấng Đại giác cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn Đạo vô song, một Đấng là Chúa tể của các Thánh, Thần và loài người. Đấng ấy sẽ truyền dạy cho các con một Đạo: vinh diệu buổi sơ khai, vinh diệu buổi thịnh hành và vinh diệu buổi kết cục

Phật Thích Ca Mâu Ni.





Các chương trước, chúng ta đã nhận biết được các dữ liệu lịch sử của Phật giáo, Bà La Môn giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo khác đều xuất phát cùng một nguồn gốc, Đức Phật A Di Đà là vua Đế Minh hay cũng chính là thần Shiva của đạo Bà La Môn, là thần Amon-Ra của tôn giáo Ai Cập cổ đại… cũng như Phật Bà Quan Âm là chính thất của Phật A Di Đà, Cửu Thiên Huyền Nữ trong Đạo giáo, là nữ thần vĩ đại Hathor của tôn giáo Ai Cập. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua Kinh Dương Vương, cũng là thần Vishnu của Bà La Môn, hay thần Ra của tôn giáo Ai Cập cổ đại, Thánh Alla của Hồi giáo, Chúa Trời của Cơ Đốc giáo… và những thần thánh lịch sử khác. Tuy nhiên, Thánh nhân của các lời tiên tri cổ kim khắp các châu lục sẽ là ai trong các thần thánh nêu trên? Hay ngài sẽ là một người khác chưa xuất hiện? Và sẽ hiện ra một cách ngoạn mục trong giai đoạn chuyển thế?.



Theo các nhà chiêm tinh, trái đất của chúng ta đang bỏ lại quy luật của cung Song Ngư và đi vào quy luật của cung Bảo Bình, một sự di chuyển sẽ đưa loài người đến một kỷ nguyên thống nhất tôn giáo và khoa học, được đánh dấu bằng các lý tưởng cao hơn và bởi những nỗ lực chung.



Thánh Maitreya là Đức Phật Thứ Năm và thời gian đã chín muồi cho sự phục hồi quy luật thánh thần trên trái đất. Mỗi tôn giáo phải quay lại với những chân lý vĩnh cửu, những chân lý truyền cảm hứng cho họ. Sự quay về nguồn cội là điều cần thiết cho các tôn giáo ngày nay. Thế giới đang vận động để kết thúc một thời đại và bắt đầu một thời đại mới. Bởi vì thời gian đã chín muồi cho sự xuất hiện của sự nghiệp giáo dục mới quan trọng, cuối cùng Thánh Maitreya sẽ xuất đầu lộ diện trước toàn bộ dân chúng thế giới như là một bậc thầy cho tất cả.



Phật Vương Di Lạc

Tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc






Lạc Sơn Đại Phật còn gọi là Lăng Vân Đại Phật hay Gia Định Đại Phật, là tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới, khởi đầu công việc tạc tượng vào năm 713 và hoàn thành sau 90 năm xây dựng. Bức tượng Phật Di Lạc này được tạc vào vách đá Thê Loan của núi Lăng Vân, nằm ở chỗ hợp lưu của ba con sông là Mân Giang, Đại Độ và Thanh Y ở miền nam tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, cách địa cấp thị Lạc Sơn khoảng 3 km về phía đông. Bức tượng đá đối mặt với Nga Mi sơn, và dòng sông chảy dưới chân của Phật. Với chiều cao 71m, bức tượng mô tả Phật Di Lạc đang ngồi với hai tay đặt trên đầu gối. Thân của tượng Phật cao 59,98 m, đầu cao 14,7m, rộng 10m, mắt rộng 3,3m, mũi dài 5,6m, miệng rộng 3,3m, tai dài 7m, cổ cao 3m, vai rộng 28m, thân thể rộng 28,5m, chân dài 10,3m, rộng 9m. Đỉnh đầu có 1.021 búi tóc và móng tay nhỏ nhất cũng đủ lớn để có thể đủ cho một người ngồi vào.



Maitreya là Đức Phật thứ năm được các tín đồ chờ đợi, Đấng Cứu Thế Messian được biết đến bởi người Do Thái, hiện thân thứ mười của thần Vishnu là Kalki, được miêu tả trong kinh thánh Hindu. Tất cả những tên gọi này, được coi là một và tồn tại như nhau (Tham khảo một phần cuốn Tiếng gọi của mặt trời, tác giả Surya Green, Nxb Từ điển Bách khoa, 2009). Vậy, chúng ta hãy cùng tiếp tục xem xét lại các dữ kiện của lịch sử.



Trong quá khứ, một số Thánh kinh của các tôn giáo trên thế giới do Thượng Đế và các vị Thánh thần mặt khải, con người đã cảm nhận được mối liên hệ với các vị Thánh thần vô hình. Và từ 3.000 năm tr.CN đến nay, các nhà hiền triết, các vị giáo chủ của những tôn giáo lớn đã xuất hiện, giảng đạo với giáo lý có khác biệt nhau theo từng thời kỳ, tùy theo trình độ nhân loại tại mỗi khu vực nhưng các ngài đều chung lý tưởng xây dựng nên một thế giới hạnh phúc. Ngày nay, bằng quyền năng ban ân huệ và cứu rỗi, Thượng Đế đã sáng lập ra đạo Cao Đài tại Việt Nam (1926), mà Tòa Thánh Tây Ninh là hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh - nơi Thượng Đế ngự tại thế.



Cao Đài là danh hiệu của một tôn giáo mới do đức Ngọc Hoàng Thượng Đế sáng lập ra để cứu rỗi nhân loại lần thứ ba, tôn giáo này có gốc rễ từ những triết lý và bí pháp cổ xưa. Tính cách đặc biệt nhất của đạo Cao Đài là tinh thần tổng hợp và đại đồng, coi tất cả nhân loại là anh em, có cùng một nguồn gốc thiêng liêng nên buộc phải thương yêu và hiểu biết lẫn nhau, không phân biệt màu da và tôn giáo. Hơn thế nữa, với tôn chỉ: “Thiên, địa, vạn vật đồng nhất thể và bảo sinh, nhân nghĩa, đại đồng” sẽ giúp đạo Cao Đài có vai trò hòa giải, đem lại những đóng góp lớn lao cho hòa bình của nhân loại.



Toàn bộ giáo lý và bí pháp Cao Đài, cũng như bản thiết thiết kế Tòa Thánh Tây Ninh được xây dựng từ một quá trình câu thông lâu dài, được hướng dẫn trực tiếp từ chính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Lão Tử,… được minh họa trên nền mỹ thuật, kiến trúc của Tòa Thánh Tây Ninh.



Thiên nhãn và vòm trời Cung Đạo

Hình vẽ trên trần Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam





Chung quanh Thiên Nhãn của vòm trời Cung Đạo gồm: cây đại ngọc cơ, ống xăm và hai miếng âm dương, cây tiểu ngọc cơ với vòng cung mẫu tự ABC..., một cái đĩa nhỏ để gieo tiền quẻ, một cái bàn ba chân dùng xây bàn, một lỗ tai, một bộ sách buộc băng vàng đề chữ Tứ Kinh hình một ông già có râu đen đứng trên quả địa cầu, một cái bảng đá mở ra có 3 dòng chữ Nôm. Ngoài các hình trên, còn có quyển sách, một bảng màu đen cho thấy bài thơ chữ Nôm có liên hệ Ngọc Hoàng Thượng Đế:



Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.




Một bàn tay cầm bút lông từ trong mây đưa ra viết bài thơ liên hệ với Đức Phật Mẫu:



Ký thành một cuốn gọi Thiên Thư,

Khai Đạo muôn năm trước định giờ.

May bước phải gìn cho mạnh trí,

Nắm đuôi phướn Phụng đến dương bờ.



Ngoài ra còn có tập giấy viết bài thơ chữ Nômliên hệ với Đức Lý Giáo Tông (nhà thơ Lý Bạch) về sứ mệnh dân tộc Việt Nam:



Viết thử Thiên Thư với nét trần,
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
Chuyển luân thế sự đưa Kinh Thánh,
Trừ diệt tà ma múa bút thần.
Kìa trông non Kỳ reo tiếng Phụng,
Này xem nước Lỗ biến hình Lân.
Công danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa móc dân sinh gắng gội nhuần.




Ba bài thơ được trích chọn trong hàng trăm bài thi trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển được đưa lên vòm trời thiêng liêng kỳ diệu của Cung Đạo, diễn đạt tất cả yếu lý then chốt của nền Đại Đạo và sự tương quan đặc biệt giữa nền Đại Đạo và sứ mệnh dân tộc Việt Nam. Việt Nam là một nước nhỏ nghèo khó như nước Lỗ trước đây, mà được Thượng Đế chọn khai mở nền Đại Đạo và chính ngài làm giáo chủ là một sự may mắn ngàn năm một thuở, có đôi câu đối trước Tòa Thánh viết rằng:



Nhân bố tứ phương, Đại Đạo dĩ nhân hưng xã tắc,
Nghĩa ban vạn đại, Tam Kỳ trọng nghĩa chấn sơn hà.




Nghĩa là:



Tình thương đem rải khắp bốn phương, Cao Đài lấy đó làm hưng thịnh xã tắc,

Điều nghĩa khí ban cho muôn đời, Tam Kỳ lấy đó làm rạng rỡ núi sông.



Trời - Thiên nhãn và Người - ông râu đen trên quả địa cầu có thể thông công với nhau, nhờ đó nhân loại tiếp nhận được các bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng để lưu truyền và dạy dỗ nhân sinh về mặt vũ trụ quan, đạo lý nhân sinh, bí pháp tu luyện như Thượng đế giảng chân lý, Thánh ngôn hiệp tuyển... Hình tượng con mắt, lỗ tai và bàn tay cầm bút mang ý nghĩa Trời thấy, nghe và ghi chép tất cả, không có gì trong Càn Khôn vũ trụ này mà giấu giếm được.



Từ lịch sử hình thành nên kinh sách của các tôn giáo như trình bày ở trên, chúng ta thấy có sự liên hệ thực tế giữa con người và các Đấng tâm linh vô hình, mặt khác, chúng ta cũng đã được chứng minh trong các chương sách trước linh hồn của vạn vật hữu tình là bất tử, sẽ trường tồn mãi mãi theo năm tháng (tham khảo thêm về thế giới của các linh hồn trong bộ sách Huyền Môn lược ký I, II và III, tác giả nhà ngoại cảm Nguyễn thị Thanh Lan), do vậy các nguồn tài liệu liên quan đến tâm linh cũng là những chứng cứ khách quan cần nghiên cứu và phải được kiểm chứng. Ngay chính trong lịch sử Phật giáo, cũng có những truyền thuyết về những mối liên hệ vô hình này, đặc biệt liên quan đến Bồ Tát Di Lạc: Trong Đại Tạng Kinh bản Hán dịch ghi Bồ Tát Di Lạc là tác giả của những bộ luận Du Già Sư Địa, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, Biện Trung Biên Luận Tụng, Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận. Trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng ngoài các luận nói trên còn có ghi thêm Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Pháp Tánh Phân Biệt Luận và Đại Thừa Cứu Cánh Yếu Nghĩa Luận. Tương truyền Bồ Tát Di Lạc là thầy của ngài Vô Trước, sáng tạo ra lý Du già duy thức và sau truyền trao cho Vô Trước. Theo Vasubandhu Pháp Sư Truyện, Vô Trước từng lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn Bồ Tát Di Lạc về lý “Không quán” của Đại Thừa, do đó mà xem Bồ Tát Di Lạc cũng là thầy của Vô Trước, còn người đời sau thì cho rằng ngài chính là Đức Phật Vương Di Lạc trong tương lai của nhân loại.



Phật Di Lạc

Núi Cấm, An Giang, Việt Nam





Để làm rõ vị Thánh nhân của nhân loại theo những lời tiên tri của các dân tộc trên thế giới, chúng ta hãy xem qua nội dung Kinh Di Lạc độ thế, mục Bài tựa Kinh Đức Phật Di Lạc hạ sinh xuống đời, có thể nhận thấy rằng để Phật Vương Di Lạc hạ sinh thì trước đó, sẽ có sự giáng sinh một vị Phật với tôn hiệu là Phật Ngọc mà tiền thân là Đức Tôn giả Bồ Tát Đầu Nhất trong thời quá khứ, đế cứu độ chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp. Vậy thì, vị Phật Ngọc là ai và đã xuất hiện trên thế gian chưa?.



Đối chiếu thực tế tại Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, hiện tượng tâm linh này xuất hiện ngày càng dồn dập, đó là những bài thơ giáng bút qua khả năng câu thông của các nhà ngoại cảm, với nhiều bút danh khác nhau của các thánh nhân, danh nhân, các anh hùng hào kiệt trong lịch sử nước nhà, trong đó có nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - là vị “Phật Ngọc Hồ Chí Minh”, hoàn toàn trùng khớp với danh hiệu “Phật Ngọc” trong Kinh Di Lạc độ thế. Như vậy, chúng ta cũng cần phải tham khảo thông tin để nhận biết và so sánh, đối chiếu với các dữ kiện của lịch sử nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ này.



Hồ Chủ tịch nói chuyện tại Đền Hùng

Ảnh tư liệu tham khảo






Kể năm hơn bốn nghìn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là Tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.


Trích Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca - Hồ Chí Minh



Có rất nhiều tài liệu tâm linh như Toàn tập Hồ Chí Minh khai cơ giáng bút, Phật Di Lạc ban truyền…, trong đó bài thơ tâm linh Lời dạy của Ngọc Phật ngày 13/08/2011 mang hoàn toàn “hơi thơ” của Người:

Muốn đạo, đời được chu toàn - Muôn người đoàn kết, mới an cửa nhà - Năm châu bốn biển đồng hòa - Muôn dân mới được nhà nhà hiển vinh - Đức Ngọc Phật, Hồ Chí Minh - Từ Thiên, Bác giáng Chân Kinh dạy đời - Các cháu ở khắp muôn nơi - Nhớ lời Bác dạy, sinh thời trước đây

Mùa xuân là tết trồng cây,
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân,
Vì đất nước tươi xanh, phải trồng cây,
Vì hạnh phúc trăm năm, phải trồng người,
Phải trồng cây Đức mới tồn đời sau,
Sao cháu nay lại phá núi non?
Phá rừng, phá biển, đâu còn môi sinh.
Bao lời Bác dạy tận tình,
Thương dân, từ cõi vô hình vấn vương.
Nhớ câu hò xứ Nghệ, càng thương,
Vì thương, Bác lại chỉ đường cháu nay.
Ở đời phải sống thẳng ngay,
Không phòng xăng lửa, có ngày hỏa thiêu.
Hỏng đức, đời ắt phải tiêu,
Bác xưa đã dạy tám điều, không dư.
Lời vàng, ngắn gọn Kinh Thư,
Cần - Kiệm - Liêm - Chính
Chí - Công - Vô – Tư,
Đó là quốc sách, không từ một ai.
Đời người ngắn lắm, đâu dài!
Vì dân, vì nước, đừng sai tấc lòng.
Rời Trần, lòng Bác ước mong,
Bốn phương con cháu như trong một nhà.
Muốn giữ nghiệp nước, phải giữ đức nhà,
Kính già, yêu trẻ, cả nhà từ bi.
Đời người khi thịnh, lúc suy,
Đạo Trời, phép nước phải thì kỷ cương.
Tu tâm, cháu chớ coi thường,
Trước sau phải tỏ, phải tường tổ tiên.
Nước Việt Nam ta
Có hơn bốn ngàn năm lịch sử,
Lấy Đức làm đầu, Vua Hùng dựng nước
Cảm hóa lòng người mới được như nay.
Bạc tình đâu có thể lay
Mà sao có cháu hàng ngày đỏ đen,
Khách sạn, nhà hàng chứa nòi giăng hoa
Bày ra là hỏng đức nhà.
Phá văn hiến, phép nước và Đạo Trời.
Bác giăng đàn, dạy cháu thời phải nhớ,
Long Hoa Hội Thiên nay đã mở.
Bác đợi chờ cháu ngoan hiền đức,
Cháu thảo hiền, Bác nay tiếp dẫn.
Độ cho cháu sang thế kỷ Hậu Tiên,


Đây là lệnh của Trời, của Phật,
Long Hoa Hội độ người tâm Phật.
Hỡi cháu con đang tất bật muôn nơi,
Có duyên phúc, cháu thời tìm đến.
Long Hoa độ cháu đến bến, đến bờ,
Hãy mau chân, đừng có thẩn thơ.
Long Hoa Hội đã giương cờ rồi đó,
Bảy trăm năm, Cửa Trời sáng tỏ.
Dạy cho đời điều rõ Phật Tiên,
Chùa Đồng - Yên Tử, kinh đô Phật hiền.
Con nào tâm Phật, tâm Tiên,
Con thảo hiền được nhận Kinh về giáo hóa.
Kinh này giáng tự đâu ra,
Giáng vào tâm con, tu thiện đó mà.
Người dịch Kinh, mệnh là Thái Tử,
Con thảo hiền của Mẹ, của Cha.
Người đời trần thế, cũng như là con thôi,
Đã qua bao kiếp tu rồi.
Nhận truyền Kinh mới cho đời hồi xuân,
Con cháu hư, Bác sẽ phạt liền.
Đường tới Hậu Tiên đã gần.
Con thuyền cập bến muôn phần hiển vinh.


Nhớ lời Bác dạy đinh ninh,
Tu mau, mới có tên mình Long Hoa.
Vừa ích nước vừa lợi nhà,
Năm châu bốn biển, nhà nhà bình an.
Mai này tôn giáo hòa đồng,
Còn mười tám nước, không còn chiến tranh.
Các sắc tộc, tôn giáo một cội muôn cành,
Con Trời, cháu Phật, Tiên hiền anh linh.
Chỉ có một Tâm duy nhất,
Tâm hòa đồng, Tâm Phật, Tâm Tiên.
Để trái đất này ngàn hoa đua nở,
Hoa Thiên Tiên, hoa của bầu trời.
Hoa ấy chính là con người thế kỷ,
Cùng hoa thiên nhiên,
Bao cảnh đẹp huy hoàng,
Đợi đến ngày Long Hoa Hội vẻ vang,
Bác cháu ta cùng nhau đoàn tụ.
Thoắt đà đã ba ngàn thu,
Thỉnh Đức Di Lạc trụ trì thế gian.
Sự đời khi kết khi tan,
Long Hoa mới thực huy hoàng ngày mai.




Cũng thông qua pháp đàm vô vi, Tam Thiên Đại Toàn Phổ Giáo Bồ Tát Lâm Thanh Điền (Thiên Phong lần thứ 3) - kênh thông tin đại diện Ngọc Hoàng Thượng Đế tại “Trần Đời” đã trực tiếp “gặp lại” Hồ Chủ Tịch - “Bác Hồ Tâm Linh” với những lời chỉ dạy gần gũi và sâu sắc của Người, trước đó, hãy cũng xem lại những lời chỉ dạy của Người tại khu di tích Đá Trông qua thông linh của nhà ngoại cảm (hiện tượng này giống phương pháp đoạt xá Phowa của Phật giáo Tây Tạng). Bác Hồ Tâm Linh khẳng định lại, chúng ta là dòng dõi của con Rồng cháu Lạc, đất nước ta là một nơi linh thiêng, là cổ tích bao đời để lại không chỉ cho riêng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà cho cả toàn thế giới. Vị trí phong thủy Tứ Linh của nước Việt, thứ nhất là Hồ Gươm, thứ hai là Hồ Tây, thứ ba là chùa Hương Tích và thứ tư là “chỗ cao Tứ Linh” là nơi mà Tổ tiên vua Hùng đã có công dựng nước, còn Đá Trông cũng là một nơi phong thủy tuyệt diệu của nước Việt. Tất cả các khu vực phong thủy linh thiêng phải được bảo vệ cẩn thận, nó là bảo bối của tổ quốc, nếu không biết giữ gìn thì sẽ là tai họa cho đất nước.



Trong các chương trước chúng ta đã biết: Hồ Gươm là chốn linh thiêng của Phong Đô Đại Đế Lạc Long Quân và Quan Âm Bồ Tát Âu Cơ; Hồ Tây là chốn linh thiêng Phật A Di Đà Đế Minh và Phật Bà Quan Âm Vũ Tiên; chùa Hương là chốn linh thiêng của Phật Bà Quan Âm Vũ Tiên và hai em dâu của bà là Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát; còn “chỗ cao Tứ Linh” là “Tổ tiên của vua Hùng nằm một nơi và nơi ở vua Hùng nằm ở một nơi” được Bác Hồ Tâm Linh nhấn mạnh hai lần trong buổi nói chuyện, ý nghĩa của câu nói trên và vị trí chỗ cao Tứ Linh chính là nơi chôn cất các vua Hùng cũng sẽ được xác định trong chương này. Như vậy, thông tin tâm linh của Bác Hồ Tâm Linh là hoàn toàn chính xác và Bác Hồ Tâm Linh cũng khẳng định rằng: “cái Tâm linh của Việt Nam là đứng nhất thế giới, mọi người cần phải nghiên cứu và quan tâm, giữ gìn cái bảo bối… Nếu phần Âm có yên thì phần Trần mới được hường hồng phúc, sống là phải có Đức, từ Đức mới có Hạnh, có Hạnh mới có Phúc, trên trần gian mà được Trời độ cho thì phải sống… phải biết ơn Trời, ơn Đất”.



Chúng ta tiếp tục tham khảo phần trích của bài thơ tâm linh Về 18 chi Hùng Vương, người nhận thông tin linh cảm Ông Ma Văn Cát (1931-2008), quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, ghi xong lúc 22h00’ ngày 7/1/1999. Trong bài thơ này nói số lượng các đời vua trong mỗi triều đại, trích đoạn:



Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân,

Di Lạc - Phật Tổ, hiện thân chính Người.

Cõi Trần mù mịt khắp nơi,

Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi?

Thời gian, năm tháng qua trôi,

Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài.

Lạc Long, Di Lạc chẳng sai,

Ra tay tế độ mở khai cõi đời.

Đã đem đạo lý làm người,

Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây.

Đức nhân, lễ, nghĩa dựng xây,

Làm cho xã hội đổi thay khác thường.

Người như vầng Nhật Thái Dương,

Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời.



Người dạy sống ở trên đời,

Thật thà, lương thiện là nơi an lành.

Thiện tâm - bản tính Trời sinh,

Đó là chí cốt tâm linh con người.

Bính Thìn, năm đó ra đời,

Di Lạc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần.

Chính là Đức Lạc Long Quân,

Tháng Ba mười tám ngày xuân thanh bình.

Là ngày Phật Tổ giáng sinh,

Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay.

Tính đến năm Hai Ngàn này:

Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất trời,

Văn Lang - Bách Việt đón Người,

Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì,

Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy.



Chính nhờ bài thơ này, chúng tôi đã có thể đối chiếu với các dữ liệu lịch sử ghi nhận trong hệ thống tranh thờ miền Bắc Việt Nam, tranh dân gian Hàng Trống và Đông Hồ mà tìm ra được số lượng đời vua trong mỗi chi của các thời đại Hùng Vương. Đồng thời cũng ghi nhận thông tin mới khẳng định vua Lạc Long Quân chính là Di Lạc Phật Vương và ngày sinh 18 tháng Ba âm lịch. Nếu theo gia phả vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 tr.CN lúc 41 tuổi, theo ẩn ý của bài thơ tâm linh trên thì vua Lạc Long Quân sinh vào năm Bính Thìn (theo bảng Lục Thập hoa giáp), nhận ngôi sau khi vua Kinh Dương Vương làm vua được 27 năm. Cũng tính toán như trên thì Lạc Long Quân được mẫu thân sinh ra lúc vua Kinh Dương Vương 35 tuổi. Theo gia phả ghi chép thì ngày sinh của vua Lạc Long Quân khả năng vào trong ngày 18 tháng Hai hoặc ngày 28 tháng Hai âm lịch, tuy nhiên ngày 18 tháng Ba âm lịch này cũng được nhắc lại trong những bài thơ tâm linh của Phật Ngọc Hồ Chí Minh, do vậy chúng ta khẳng định ngày 18 tháng Ba âm lịch (tháng Thìn) là ngày chọn lựa. Trong những lời tiên tri của Phật Sống Lưu Công Danh có nói Độ 4.800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có Trăng”, câu nói này mang ẩn ý cách đây hơn 4.800 năm vua Kinh Dương Vương - Ngọc Hoàng Thượng Đế đản sinh, chứ không phải nói vua Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc phục sinh với biều tượng là “ông Trăng”.






Như vậy, trước khi xác định Phật Di Lạc là ai thì chúng ta phải chứng minh Hồ Chủ Tịch chính là Phật Ngọc bằng các chứng cứ hiện thực khách quan thay vì bằng các dữ liệu tâm linh, chúng ta hãy cùng tìm hiểu cuộc đời của một vị Phật người Việt rất nổi tiếng trên thế giới, nhưng lại ít được biết tại Việt Nam, đó là “Phật Sống” Lưu Công Danh, ông là người sinh ra cùng thời đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã từng gặp và làm việc trực tiếp với Người.



“Phật Sống” Lưu Công Danh



Câu chuyện kể về cuộc đời Phật Sống Lưu Công Danh giống như một huyền thoại. Ông sinh ngày 29/12/1900 tại tỉnh Kiên Giang và hóa vào ngày 31/5/2003 (năm vào rừng 1934, năm ra khỏi rừng 1939, cũng năm này ông về Ấn Độ và năm 1941 sang Campuchia trụ trì ở chùa Prệp Pra). Cuộc đời ông trải qua bao thăng trầm, từ việc ra đi tìm kế sinh nhai, có cơ duyên lập gia đình với người vợ Ấn Độ, sau đó đi tu thành Phật, du hành qua nhiều quốc gia và quay trở về tổ quốc tham gia kháng chiến, được gặp nói chuyện thân mật và nhận nhiệm vụ từ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã đóng góp một phần công sức không nhỏ trong việc làm chuyển đổi nội dung đàm phán có lợi cho nước nhà khi hội đàm với đoàn Ấn Độ, cũng như làm tăng thêm uy tín quốc gia trong tiến trình ngoại giao với các nước bạn khác (Tham khảo cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, tác giả Hà Văn Thùy, Nxb Văn học, 2008).



Phật Sống

Ảnh trích từ cuốn Phật Sống Lưu Công Danh, Nxb Văn học, 2003





Trong cuộc gặp gỡ với bà vợ tổng thống Ấn Độ Praxa, bà là một phật tử, cùng với hai quan chức tháp tùng, ông đã nói bằng chính thứ tiếng Hindu giọng New Delhi trầm ấm:



“Mừng các con tới đất nước Việt Nam. Thầy ban phước cho các con. Bữa nay thầy cho các con biết một phần của đời thầy. Chắc các con vẫn nhớ, quy định của người tu Phật, sau khi thành Phật, có thời gian hai năm để tế độ chúng sinh thì trở về trời trong giàn lửa. Nhưng năm ấy, thầy đã không về trời theo cách đó vì thầy còn có việc phải làm. Trong đêm thầy được chánh quả, Phật Tổ có dạy rằng, sau thời gian ở Ấn Độ, thầy phải về nước Phật giáo sát bên nước của thầy để khi nước nhà được độc lập thì vế tế độ đồng bào mình. Vậy theo lời Phật Tổ, thầy đã về nước anh em là Miên quốc. Thầy tế độ chúng sinh ở đó. Khi nước Việt Nam được độc lập thì theo lời Phật Tổ, thầy về nước. Nhưng lúc đó giặc Pháp trở lại xâm lược. Không còn cách nào khác, thầy phải cùng chính phủ đánh Pháp cứu chúng sinh, giữ vững nền độc lập cho Việt Nam. Cũng trong đêm thành chánh quả đó, Phật Tổ có đem giáo lý đạo Phật truyền cho thầy. Trong những điều thầy được nghe chính Phật Tổ nói: “Đạo Phật ưa sống hòa bình, nhưng nếu có bọn ác tới tàn hại chúng sinh thì phải đánh đuổi chúng đi”. Khi thầy về thì đánh nhau rất ác liệt, chính phủ Việt Nam lo cho an nguy của thầy nên khuyên thầy trở lại Cao Miên vì chúng sinh nơi đâu cũng là con của Phật Tổ, giúp cho nhân dân Miên cũng chính là giúp nhân dân Việt. Nhưng thầy xin ở lại cùng đánh giặc với đồng bào, Đức Phật Tổ dạy rằng, không được sát sinh nhưng nếu có kẻ ác muốn giết mình thì phải cùng mọi người đánh lại chúng. Hơn nữa, thầy biết rằng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Thánh nhân. Được chiến đấu dù có hy sinh đưới ngọn cờ của Bác Hồ cũng là làm tròn Phật sự”. Ông nói tiếp: “… giúp cho người Việt Nam cũng chính là giúp cho nhân dân Ấn Độ, rồi sau này, hai nước sẽ được sống hòa bình trong tình anh em”.



Theo truyền thuyết, sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni đắc đạo, ngài dẫn 30.000 tín đồ đến núi Kê Túc phía Bắc Ấn Độ. Tại đây có một hang động lớn, phong cảnh đẹp lại âm u tĩnh mịch để hành đạo. Ngài tổ chức thành các nhóm thiết kế, hậu cần, thi công, bảo đảm sức khỏe… làm trong 30 năm mới hoàn hành ngôi chùa mang tên Tây Phương. Trong ngôi chùa còn giữ ấn Phật Tổ và những bảo pháp của Phật Thích Ca để dóng dấu những ai đắc quả thành Phật Sống được lưu truyền và giữ tại chùa này, không chùa nào khác trên toàn thế giới có được.



Ngôi chùa nằm trong một dãy núi cao hùng vĩ, xung quanh bao bọc bởi những khu rừng già nghìn năm tuổi, có suối vây quanh, phong cảnh xung quanh thật là thủy tú sơn kỳ. Ngôi chùa nằm trong hang núi được thiết kế tráng lệ, nguy nga, giống như một cung điện, sân vườn toàn là kỳ hoa dị thảo. Tượng Phật được làm bằng đá hoa cực kỳ đẹp và tinh xảo. Bước vào trong thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi chính giữa, xung quanh hương hoa tỏa mùi thơm ngào ngạt, không khí trang nghiêm cực độ. Dưới tượng Thích Ca có một vị hòa thượng ngồi xếp bằng, tay trái đưa lên ngang tim, tay phải để trên đầu gối. Thân người chỉ còn da bọc xương, hai mắt nhắm nghiền. Trước mặt có một tô nước và một đĩa hoa quả tươi. Vị này ngồi yên không thấy cử động. Ngoài cửa chùa có một vị ngồi trên một tảng đá, dựa lưng vào vách núi, hai tay chắp lại, tư thế ngồi bằng. Rễ cây bồ đề mọc phủ hai bên má. Trước mặt vị này cũng có một tô nước và một đĩa hoa quả tươi.



Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp dưới cội bồ đề

Động Đôn Hoàng, Cam Túc, Trung Quốc





Sau khi xây xong chùa Tây Phương, Phật Thích Ca có quy định ranh giới vùng đất Phật. Chùa Tây Phương nằm trong vùng đất này. Ranh giới chia đất Phật và đất trần gian có chứng tích của Phật Thích Ca khắc vào vách đá. Trên đá có khắc một mũi tên chỉ hướng chùa Tây Phương, dưới mũi tên ghi ba chữ “Đổi Tâm Linh”, tạm hiểu có nghĩa là ai đi qua khỏi mũi tên là đất Phật thì tâm linh người đó được biến đổi thì mới đến chùa Tây Phương được. Ai đến chùa Tây Phương được sẽ đắc quả. Trước khi tới được chùa Tây Phương, ông đã gặp được phiến đá khắc chữ ngay trên đường đi, khi một cơn gió xoáy cuốn bay lá rừng làm lộ nó ra, mặt dù chỉ là một phiến đá nằm giữa rừng xanh đại ngàn mà để thấy được nó quả là chuyện không tưởng. Sau khi đắc đạo, trên đường về, biết sẽ không còn cơ hội gặp lại chùa Tây Phương một lần nữa, ông mong ước gặp lại phiến đá này và đã đạt được như ý nguyện, dường như có người dẫn đường, thật là kỳ diệu.



Để tới chùa Tây Phương, phải đi qua ngôi ngôi chùa nữa, tại nơi đây các nhà sư dạy ông các bài thuốc chữa bênh bằng các loại lá, rễ, củ cây rừng; tập các phương pháp Yoga, luyện cách điều hòa nhịp tim; tập sống chung với rắn độc và cách thức xử trí khi gặp các loài ác thú; cùng với việc học thuộc các bài kinh Phật. Trong suốt quãng đường ròng rã gần 10 năm đơn thương độc mã trong rừng già hoang vắng, gặp không biết bao nhiêu hiểm nguy như đối mặt với chúa tể sơn lâm, phải vượt qua thác dữ, sông sâu. Nguy hiểm nhất là trên đường về sau khi đắc đạo, ông lạc vào một hẻm núi đá cheo leo, nhìn xuống đáy là đủ chóng mặt, chỉ cần trượt chân là mất mạng, ngủ nghỉ ngay trên vách đá, may mắn lắm thì có hốc đá chui vào nghỉ, đói ăn rêu xanh, khát uống nước rỉ ra từ vách núi, phải mất vài tháng trời mới thoát nạn.



Sự tích cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni

Trích Thiền tông Phật giáo, Nxb Tôn giáo





Một lần, trên đường đi về, bất ngờ ông gặp một nhóm người dân tộc, họ bắt trói ông đưa lên giàn hỏa thiêu sống, lúc này ông chỉ còn biết đọc kinh mà thôi, nhưng khi lửa vừa xém tới lưng bỗng tắt ngấm, chứng tỏ ông được sự gia trì của Phật theo như lời của nhà sư trụ trì chùa Tây Phương, bằng chính bảo bối luôn đem theo bên mình là hai viên ngọc quý được trao tặng ở chùa Tây Phương. Một viên ngọc có thể uống được sữa của người mẹ đẻ con so và viên kia biết bò. Sau này, hai viên ngọc thất lạc theo dòng nước.



Sau khi đắc đạo, ông ở lại chùa Tây Phương 3 tháng nữa để học thêm kinh và những lời dạy của Phật. Khi ngồi thiền định 3 ngày đêm không ăn không uống, hai tay chắp lại, hai mắt nhắm, với lòng thành kính cao độ. Mãi đến đêm thứ ba, tâm linh nhận được điều răn dạy thuyết pháp.



Trước đó, tôi cảm thấy một luồng ánh sáng chói lòa sau đó có màu xanh hòa vào màu sáng, cảm giác như là gió hiu hiu, ông cố mở mắt nhưng không tài nào mở được. Toàn thân cũng không cử động được nữa, nhưng trong con người cảm thấy nhẹ nhàng, hân hoan kỳ lạ!



Bỗng tai tôi nghe tiếng nói, giọng nói trầm phát ra từ đâu đó vọng tới:



- Này đệ tử, nay ngươi đã đắc đạo và được công nhận là Phật sống, ngươi phải trở lại nơi xuất phát để truyền giảng đạo cho phật tử và người ngoài đời rõ nguyên lý đạo Phật chân chính. Tin ngươi đắc đạo đã được truyền đến ngôi chùa nơi ngươi xuất phát, ở đó đang mong chờ ngươi về. Ta đã gắn cho ngươi hai bảo pháp là điện cơ nhân và tâm linh đồ bằng hình thức đóng ấn lên đầu nhà ngươi 12 nốt. Từ nay cuộc sống của nhà ngươi phải hết lòng vì đạo và do ta điều khiển.



Ta là thần Tam Tông chuyên lo về tôn giáo. Muốn đạo Phật tồn tại bền lâu và phát triển thì phải có lòng tin cao sâu tuyệt đối ở tâm linh, biểu hiện ra hành động từ vị chân tu đến hàng phật tử để cảm hoá mọi tầng lớp xung quanh. Lòng tin tuyệt đối, bền vững là một sức mạnh cực kỳ to lớn sẽ giúp cho Ðạo, cho quốc gia được an cư lạc nghiệp, nền đạo đức của đạo và quốc gia được toàn thiện. Muốn được thế thì phải làm được một cách hoàn chỉnh và triệt để như: Loại ra khỏi đạo Phật mọi truyền thuyết hoang đường và mê tín dị đoan trong đạo và ngoài đời càng nhanh càng tốt, để tiến tới 3 tôn giáo lớn là Phật giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo sẽ thống nhất lại để cho toàn thế giới sống trong cảnh đời đạo hoà đồng vui sống trong đoàn kết. Vì giáo chủ Jesus, giáo chủ Môhamet và giáo chủ Thích Ca đều do ta tạo lập nên. Tuy ba đạo có nhiều điều khác nhau nhưng cùng chung một việc lớn: làm thiện tránh ác, vì mọi người và đưa mọi người đến tâm linh thánh thiện. Ta đang tìm người và phương cách hoà hợp thống nhất 3 đạo lớn do ta tạo lập.



Phật chỉ có một lòng thành mong muốn đem lại cho mọi người được hưởng công bằng, bác ái, giúp đỡ nhau mọi trường hợp khó khăn gặp phải: người giúp đỡ người chứ Phật không có phép màu nào để trị các bệnh tật mà con người mắc phải. Người mắc bệnh thì có người tìm mọi cách chữa trị, đó là việc làm thực tế giữa người với người. Phật không bao giờ can thiệp mà cũng không can thiệp được. Phật dạy cho mọi người phải có lòng từ bi hỷ xả với mọi người. Làm được việc này thì tâm linh sẽ được thanh thản.



- Từ bi hỉ xả có nghĩa là: Không cố chấp không gây hận thù, không đố kỵ không vu oan điều ác. Không oán không hờn, không giận, có lòng thành cảm hoá người khác. Nghiêm khắc với mình, phải rộng rãi tha thứ, có lòng bao dung quảng đại.



- Từ bi bác ái có nghĩa là: phải có lòng yêu thương mọi người vô hạn, cưu mang người bất hạnh.



Cứu độ chúng sinh thoát khỏi cảnh trầm luân bể khổ, có nghĩa là dạy người làm thiện tránh điều ác, tà tâm. Cứu giúp người khi gặp nạn do mưu sinh cuộc sống chính đáng. Giáo hóa mọi người làm điều thiện tránh điều ác để khỏi bị lao tù, bị tra khảo, bị tàn tật do hiềm khích gây nên. Làm điều ác thất đức là mình tự tạo cho mình sa vào cảnh trầm luân bể khổ vậy. Người làm được nhiều việc thiện thì cuộc sống được vui tươi, tâm linh trong sáng và vui vì mình có ích cho mọi người.



Người hành đạo không được vụ lợi, không tham danh lợi, phải làm chủ được mình trong mọi trường hợp hỉ, nộ, ái, ố, nhất là với tửu, sắc. Nghiêm cấm không được dùng mỹ nữ ca múa trước bàn thờ Phật.



Ta có giảng cho Thích Ca việc : "Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời" câu này có nghĩa là: một số người nào đó vốn hiền lành, vì thiếu suy nghĩ, lỡ làm điều ác, thất đức, sau đó ăn năn, hối hận, tỉnh ngộ từ bỏ cái ác, làm việc thiện thì được hưởng ân huệ câu nói trên.



Còn những hạng người từ vua, quý tộc đến thứ dân luôn nghĩ đến điều ác, làm nhiều việc ác, thất đức, không hề làm điều thiện, khi gặp tai họa thì đến cầu xin với lòng giả dối, cầu mong Phật cứu tai qua nạn khỏi để sau đó lại làm ác. Hạng người nầy không được hưởng ân huệ câu trên. Phật đâu có phép mầu nào để cứu! Phải để cho hạng người đó bị luật đời nghiêm trị nhằm răn đe kẻ khác.



Còn vô số người đến cầu lộc, cầu tài, cầu duyên. Nếu hạng người nầy làm việc có nhân đức, không làm việc phi pháp thì không cần phải cầu khẩn gì cả. Còn nếu khi cầu khẩn mà lòng không thành, dạ không ngay, có tính lợi dụng thì Phật nào ban cho. Mà thực tế Phật cũng không cho được! Thích Ca từ bỏ mọi quyền quý cao sang tột đỉnh để lo cứu độ thì đâu có nghĩ tới những việc đó nữa.



Khi ta đưa Thái tử đi hành đạo ta có dạy cho Thái tử 5 điều cấm như sau:

1. Nhất bất sát sinh.
2. Nhị bất vu đạo.
3. Tam bất tà dâm.
4. Tứ bất vọng ngữ.
5. Ngũ bất ẩm tửu.




Riêng điều cấm thứ nhất phải hiểu như sau: không được giết người cướp của và vì tư thù vô cớ. Ðược quyền bảo vệ mình khi có kẻ muốn giết mình.



Bài cầu nguyện cho các phật tử:

Nay với lòng thành cầu nguyện: trên có Trời, dưới có Ðất, được chia bốn phương tám hướng cầu mong Phật tổ cải tạo cho được huệ tâm, huệ tánh, huệ nhãn, huệ nhĩ, huệ tưởng tâm linh siêu phàm hướng về Tây Phương, nay nguyện cải tà quy chánh theo Phật, lo tu tâm dưỡng tánh, luôn luôn làm đúng theo lời răn dạy của Phật. Làm không đúng xin chịu mọi hình phạt của Phật!



Trong dân gian có nói:

Các vị ở cõi trên được giáng thế đầu thai làm con của người trần, những người này được nổi danh, tài ba lỗi lạc, sức khoẻ phi thường, uyên thâm nhiều lĩnh vực. Hoặc có người ngớ ngẩn bỗng nổi lên thông minh. Việc nầy trong đạo Phật phải được loại ra vì mang tính hoang đường mê tín dị đoan. Ai tự xưng như vậy là kẻ mị dân, lừa bịp. Không có đấng trên trời đầu thai hay giáng thế, không thể có và không bao giờ có việc đó. Việc tồn tại của con người là do quy luật tự nhiên ban cho, tuyệt nhiên không có đấng nào can thiệp vào việc sinh tồn của con người và cũng không thể can thiệp được!



Mỗi con người sinh ra có hai bảo vật:

1. Ðiện cơ nhân: sự sống.

2. Tâm linh đồ: trí tuệ.



Nhưng điện cơ nhân và tâm linh đồ của mỗi người đều ở trạng thái khác nhau. Người cực mạnh, người mạnh vừa, người trung bình, người thì yếu. Vì thế cho nên sự phát triển thể chất và trí tuệ khác nhau như : có người mới sinh ra đã có thể lực cường tráng, có người bình thường bỗng phát triển toàn diện, có người thông minh kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, có người phát triển kém. Tất cả các việc đó không phải do ăn uống mà giúp cho sự phát triển nên hay có một vị thần nào ban cho. Ðó là do bao lớp người cường tráng, thông minh đã qua đời ở mọi lứa tuổi, khi chết thì điện cơ nhân và tâm linh đồ xuất khỏi thể xác và tập hợp lại từng cặp bay lơ lửng trong không gian ở trạng thái vĩnh hằng bất diệt. Lớp lớp người sau sinh ra mà có sự trùng hợp với điện cơ nhân và tâm linh đồ của những người trước thì người sau được cộng hưởng thừa kế: cực mạnh, mạnh, trung bình, yếu mà biểu hiện ra.





Tôn giáo đẳng cấp xem thường và khinh rẻ thứ dân bần hàn mặc dù hàng thứ dân này làm ra mọi thứ nuôi sống họ và hoa quả cúng tế hàng ngày cho thần linh mà họ thờ. Cũng là tôn giáo lại đố kỵ, chia rẽ kẻ chính, kẻ tà cấm kỵ nhau. Mọi hình thức này đều do người đứng đầu tôn giáo chủ quản tạo ra cả. Vì thế ta quyết định thành lập một tôn giáo chân chính để đem lại niềm tin cho đại đa số người bần hàn đang bơ vơ và bị khinh rẻ. Số người này thật đáng thương.



Muốn thu phục lòng tin và nhân tâm mọi tầng lớp trong quốc gia, ta suy nghĩ kỹ, chọn người giáo chủ hiện tại phải có quyền thế tột đỉnh, giầu sang nhất mà dám từ bỏ mọi thứ danh lợi đó để hành đạo. Người đó tiêu biểu là người xả thân vì từ bi bác ái vì người bần hàn; góp công xây dựng nền đạo đức cho xã hội mới. Cho nên ta chọn Thái tử sắp được truyền ngôi để hành đạo thực hiện Chân - Thiện - Mỹ sẽ được mọi người kính nể, lớp quyền quý kính phục. Trong người Thái tử cũng có hai bảo bối:

- Ðiện cơ nhân: bảo toàn sự sống.

- Tâm linh đồ: nguồn tư duy trí tuệ.

Nhưng bảo bối của ta cũng vậy, mà có nội dung siêu đẳng hơn ở chỗ:

- Có sự sống để làm gì?

- Có tư duy trí tuệ siêu đẳng để làm gì?



Tâm linh đồ sinh ra trí tuệ siêu đẳng để góp phần với mọi người tạo nên nền đạo đức mới: thương yêu nhau, xoá bỏ mọi hận thù, không tư thù cá nhân vì tư thù cá nhân dễ biến thành ra thù cả họ hàng làng nước. Từ bi hỷ xả - từ bi cứu độ - xả thân vì mọi người - không vụ lợi. Ðiện cơ nhân: Bảo toàn sự sống. Sự sống phải có ích cho mọi người, sống để làm việc thiện, sống không tà tâm.



Về cứu nhân độ thế: Phật không có phép màu nào để cứu người hay giúp người đến cầu khẩn mọi điều mong ước: giàu có, tai qua nạn khỏi, công danh vững bền, con cháu thành đạt, hiển vinh. Người trần thế bị các bệnh tật thì cũng do người trần thế tìm phương cứu chữa. Phật không cứu chữa các loại bệnh tật được. Người trần thế muốn làm giàu thì nên làm giàu chân chính bằng tài sức của mình còn muốn tai qua nạn khỏi thì đừng làm điều ác, lừa gạt, gian dối, tham lam, ích kỷ thì tránh được tai họa vậy.



Nguyên lý của đạo Phật:

- Dạy mọi người làm điều thiện tránh điều ác.

- Cải tà quy chính, tu nhất kiếp ngộ nhất thời.

- Loại bỏ các thuyết hoang đường, mê tín dị đoan.

- Không có việc luân hồi nhiều kiếp.

- Không có Diêm Vương xử đối với người trần thế làm ác. Người làm ác nhất là các hung thần gây chiến tranh xâm lược.



Tôn giáo đối với quốc gia:

Tôn giáo không đứng ngoài quốc gia. Tôn giáo cũng là con dân của quốc gia, vì quốc gia bảo vệ tôn giáo nên tôn giáo phải trung thành với quốc gia, phải làm tròn nhiệm vụ công dân với quốc gia.
Tôn giáo không làm chính trị, mà tôn giáo cùng quốc gia xây nền đạo đức hướng thiện, bác ái, công bằng. Ðức tin: Chân - Thiện - Mỹ góp phần cho cuộc sống thanh bình. Mỗi tín đồ tôn giáo có hai trách nhiệm:


- Tôn trọng và chấp hành nghiêm minh luật pháp quốc gia ban ra vì lợi ích quốc gia.

- Tôn trọng các điều nguyện, điều răn của Đạo ban hành một cách tự nguyện thành tâm và nghiêm minh.

- Ðời có trước, đạo có sau nên đời đạo phải yêu thương nhau như tình cốt nhục. Ðạo phải làm gương và phải tôn trọng mọi thuần phong mỹ tục của tổ tiên truyền lại.



Phần ta thuyết pháp về đạo cho ngươi nghe, ngươi nhớ mà ứng dụng khi hành đạo, không làm sai.

- Thiện cũng có tiếng thơm lưu truyền cho mai sau, được đời kính trọng.

- Ác cũng có tiếng xấu lưu truyền là lời nguyền rủa, bị đời oán trách.

- Khi chết con người chỉ mang theo Thiện và Ác.



Năm 1958 Phật Sống sang Anh cùng phái đoàn Chính phủ Việt Nam đi thăm một số nước trên thế giới. Tại Anh, ông tiếp kiến với nữ hoàng Elisabeth Đệ Nhị theo lời mời và được bà trao tặng huy hiệu hoàng gia trên có khắc chữ “Bất khả xâm phạm”. Ông còn cùng phái đoàn ngoại giao thăm hoàng gia và tiếp kiến vua Lào, nhằm xây dựng tình quốc gia anh em.



Riêng sau khi đắc đạo, ông đã đi thăm các cảnh chùa nổi tiếng Trung Quốc, viếng nơi Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo tại Nepal và thăm đất nước Thái Lan. Tại Thái Lan ông cũng được nhà vua tiếp đón trọng thị với tất cả nghi lễ của một nước lấy đạo Phật làm quốc giáo. Sau này, ông xin về hoằng pháp ở một ngôi chùa ở Campuchia và tại đây, ông cũng đã tiếp kiến với hoàng gia và nhà vua Campuchia. Lúc ở hoàng cung, vua Nôrôdôm chọn người kế vị, có hỏi ông thấy hoàng tử Sihanuc thế nào? Ông nói: “Được đó, nhưng phải cái hơi bị lùn, nếu cao hơn thì ngon”. Sau đó hoàng gia Campuchia tạc tượng ông bằng bạc và thờ ở trong Chùa Bạc.



Đền Angkor Wat

Tỉnh Siem Reap, Campuchia










Như vậy, qua niềm tin sắt đá của Phật Sống Lưu Công Danh bằng câu nói: “Hơn nữa, thầy biết rằng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Thánh nhân. Được chiến đấu dù có hy sinh đưới ngọn cờ của Bác Hồ cũng là làm tròn Phật sự, chúng ta hiểu rằng đây chính là sự thông hiểu và đồng cảm giữa một vị Phật và một Thánh nhân trong việc cùng chung gánh vác sứ mệnh của dân tộc.



Đặc biệt, trong câu truyện Phật Thích Ca Mâu Ni đã lấy tên chùa là Tây Phương - hàm ý đất Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Dà - vua Đế Minh. Chùa Tây Phương và Chùa Cực Lạc là hai ngôi chùa cổ ở Xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất. Theo phả cũ Đế Thiên Phục Hy định đô ở vùng này, Đế Thiên Phục Hy được thờ ở Thiên Cổ Miếu trên núi chùa Tây Phương, còn chùa Cực Lạc là nơi thờ Địa Mẫu.



Chùa Tây Phương

Thạch Thất, Hà Tây, Việt Nam





Mặt khác, cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ viết rằng:



“Thái tử người Ấn Độ Tất Đạt Đa mới đến Lại Giã đất Việt tu hành đắc đạo, về nước sáng lập, theo Sa Môn Phật giáo thờ phụng thiên địa sơn thủy bách thần; thỉnh Lôi âm chân kinh ở bảo sái Tây Phương Cực Lạc nước Văn Lang thờ phụng từ Bách Việt Thiệu Tổ về trước, đến đời vua Hùng Duệ Vương gọi là Bách danh chân kinh



“Theo phả cũ còn nói rõ: Đây là trung tâm giáo chủ của 37 vương quốc theo đạo Sa Bà. Về sau, Thái tử Tất Đạt Đa đã sang đây ở chùa Sùng Nghiêm, xã Phú Lương ngày nay và đã tu thành chính quả, trở về truyền bá Phật Pháp”.



“Phật Ngọc” Hồ Chí Minh



Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ Người là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868, là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái.



Ngôi nhà quê nội Chủ tịch Hồ Chí Minh

Làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An





Thuở nhỏ tên là Nguyễn Sinh Côn hay còn gọi là Cung (Côn là tên môt con cá khổng lồ huyền thoại được nói đến trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử 365-290 tr.CN). Nguyễn Sinh Côn từ nhỏ đã lộ rõ tư chất thông minh, và có những suy nghĩ khác thường, có lần trong lớp học, học trò Côn đã sáng tác một đôi câu đối hết sức tuyệt vời, được thầy giáo và bạn bè nể phục (Trích cuốn Búp sen xanh, tác giả Sơn Tùng, Nxb Nhi đồng, 2002):



Chung Sơn vượng khí thành kiên cố,

Trắc Lĩnh đa vân thị lão niên.

Núi Chung khí vương nên kiên cố,

Non Lĩnh nhiều mây hóa lâu năm.

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành.

Từ năm 1901 đến 1905, Nguyễn Tất Thành đã được học chữ Hán với các thầy đồ nổi tiếng hay chữ và giàu lòng yêu nước ở vùng Nghệ Tịnh như Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý. Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt theo học lớp dự bị trường tiểu học Pháp - bản xử ở thành phố Vinh. Ở đây, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Tháng 5 năm 1906, Nguyễn Tất Thành vào học lớp trung đẳng tại Quốc học Huế.

Học xong lớp nhất 1907 - 1908, Nguyễn Tất Thành đạ điểm xuất sắc đã vượt qua năm thứ nhất vào thẳng năm thứ hai trường Quốc học. Năm 1908 vì tham gia phong đòi giảm sưu thuế ở Trung Kỳ. Cha ông bị triều đình khiển trách vì hành vi của hai con trai. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.

Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hánchữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành.

Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà Nho yêu nước đương thời, khâm phục và ngưỡng mộ các bậc tiền bối như Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng tự hỏi tại sao tất cả những con đường cứu nước của các cụ đều dẫn đến thất bại?

Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy đi thẳng vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son, vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân. Sau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây và tìm chính sách để cứu nước.

Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, Người rời Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille) Pháp bằng cách phụ bếp cho tàu Amiran Latúsơ Têrêvin (Amiral Latouche Tréville), bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành nói với người bạn thân về chuyến ra đi nước ngoài của mình: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Người đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con đường cứu nước.



Tàu Đô đốc Latútsơ Têrêvin

Ảnh tư liệu tham khảo






Nguyễn Tất Thành với tên Văn Ba làm phụ bếp, rời Sài Gòn ngày 5/6/1911 và bắt đầu cuộc sống vừa lao động vừa tự học trên hành trình tìm đường cứu nước.



Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vesailles bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa.

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lê Nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và Người bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới là con đường của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.

Theo nhà sử học Mỹ, bà Stenson thì Nguyễn Tất Thành đã đến thăm tượng thần Tự Do và đã ghi cảm tưởng: “Ánh sáng trên đầu tượng thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người đấu tranh da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”.



Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp, xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam.



Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua

Ảnh tư liệu





Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Châu Á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp là sản phẩm tổng hòa tất của tất cả các tri thức - chính trị, triết học, xã hội lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn được tiếp thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người. Nó không để chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam, mà đây còn là bản cáo trạng luận tội chủ nghĩa thực dân nói chung, chẳng những kẻ thù của đối với các dân tộc thuộc địa của chúng mà cũng là kẻ thù đối với nhân dân lao động.



Nguyễn Ái Quốc với đoàn đại biểu dự hội nghị Đệ Tam quốc tế lần thứ V, Moscow, năm 1924

Ảnh tư liệu





Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội.



Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Uy tín và vai trò của Nguyễn Ái Quốc làm cho đế quốc Pháp phải hoảng sợ và tìm mọi cách để ám hại. Câu kết với đế quốc Pháp, ngày 6/6/1931, mật thám Anh đã bắt giữ một cách trái phép Nguyễn Ái Quốc (khi đó Người mang bí danh Tống Văn Sơ) tại ngôi nhà số 186 phố Tam Lung, Cửu Long (Hồng Công) và bí mật giam giữ với ý định sẽ giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương.

Nhờ sự giúp đỡ của các chiến sĩ yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Hồng Công và đặc biệt nhờ vào sự nhiệt tình của ông Lôdơbai (Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh có thế lực ở Hồng Công, vụ án liên quan đến việc mật thám Anh bắt giữ Nguyễn Ái Quốc đã phải đưa ra tòa án tối cao Hồng Công. Vì không đủ chứng cớ buộc tội, nhà cầm quyền Hồng Công phải tuyên bố Nguyễn Ái Quốc trắng án nhưng buộc phải trở về Đông Dương, có nghĩa là đẩy vào tay đế quốc Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã khán án lên Tòa án tối cao Hòang gia Anh ở Lôn Đôn. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị ốm và nương náu tại gia đình Luật sư Lôdơbai. Tháng 2-1933, Tòa án tối cao Anh tuyên bố trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Trên đường tới nước Anh, Nguyễn Ái Quốc lại bị bắt giữ tại Xingapo rồi trả lại Hồng Công. Một lần nữa, nhờ sự giúp đỡ của ông Lôdơbai, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Trung Quốc để tiếp tục hoạt động bí mật.

Từ năm 1933 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.



Ngày 28 tháng 1 nǎm 1941, Người về nước, chọn Cao Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng. Vùng Khuổi Nậm Pác Bó là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương (tháng 5 nǎm 1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp huấn luyện xây dựng lực lượng cách mạng. Pác Bó có hang Cốc Bó, nơi Bác Hồ chọn làm chỗ ở và làm việc của mình.



Ngày 6 tháng 6 nǎm 1941, Người gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết lại đánh đuổi đế quốc, Việt gian cứu nước.



Tháng 8 nǎm 1942, Người sang Trung Quốc, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, giải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này, Người đã viết tác phẩm thơ nổi tiếng Nhật ký trong tù, cho đến nay đã được dịch ra hơn 10 thứ tiếng. Trong đó, bài thơ Ngắm trăng đơn giản mà sâu sắc:



Trong tù không rựu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.



Tháng 9 nǎm 1943 Người được trả tự do. Tháng 3 nǎm 1944 tham dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu, Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1944, Người trở lại Cao Bằng, gửi thư cho đồng bào toàn quốc kêu gọi chuẩn bị triệu tập Quốc dân đại hội. Tháng 12 nǎm 1944, Người quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dânViệt Nam.



Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân

làm lễ xuất quân 16/8/1945

Thái Nguyên, Tuyên Quang, Việt Nam





Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12/8/1945, Hồ Chí Minh cùng Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23/8/1945 thắng lợi ở Huế, ngày 25/8/1945 thắng lợi ở Sài Gòn. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Có thể coi đây là một tác phẩm “thiên cổ hùng văn” tiếp sau bài Bình Ngô đại cáo của đại thi hào Nguyễn Trãi và Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt.



Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập

Ảnh tư liệu, Hà Nội, Việt Nam





Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời 3 tháng 9 năm 1945, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách lúc đó là động viên toàn dân chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.



Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Ảnh chụp năm 1946, Hà Nội, Việt Nam





“Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công Thương nỗ lực khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập “Công Thương Cứu quốc Đoàn” cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”, đó là nội dung lá thư đề ngày 13/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các giới công thương Việt Nam sau khi nghe tin thành lập Công Thương Cứu quốc Đoàn và tổ chức này gia nhập Việt Minh.



Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà công thương

Phủ Chủ tịch ngày 18/9/1945, Hà Nội, Việt Nam





Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Sáng ngày 20 tháng 12nǎm 1946, trên làn sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi cứu nước của Người đã truyền đi khắp nước: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...”.



Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh

Ảnh tư liệu





Ngày 18/12/1946, tại hang chùa Trầm, Hà Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc và phát lệnh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Sau đó, vị sư cụ trụ trì đến chúc phúc, Người dặn sư cụ "cầu Phật phù hộ cho kháng chiến…" và tặng nhà chùa câu đối:



Cao sơn hữu ý, thiên niên bút,
Lưu thủy vô thanh, vạn cổ cầm.


Non cao có ý, bút (lưu) ngàn năm,
Nước chảy không kêu, đàn (ca) muôn thuở.




Tròn 10 năm sau, ngày 13/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa lặng lẽ đến hang chùa Trầm. Hồi ký của ông Vũ Kỳ cho biết: "Hôm đó Bác đi một mình không cho ai đi theo, Bác đến chùa Trầm…". Người sỹ quan đóng quân tại chùa Trầm kể lại: "Hôm ấy Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chùa Trầm, Bác bảo chúng tôi, các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác…”. Sau này, chúng tôi mới biết là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử "Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước”. Chiều tối về, Bác dặn thêm: "Phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân… giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hòa bình làm nơi tham quan rất tốt…”.



Thăm chùa Trầm

Năm 1966, Hà Tây, Việt Nam





Hai văn bản tuyệt bút, ghi nhận một giai đoạn lịch sử hào hùng, mãi mãi ghi nhận trong dòng triết học, tư tưởng và văn hoá của nhân dân Việt Nam. Cụ Huỳnh Thúc Kháng được làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hết lời ca ngợi một trí tuệ siêu việt:



Tầm con mắt trông cao tột bậc,

Nhận rõ đại cuộc xét thấu thiên cơ.



Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.



Bộ chỉ huy và cắm cờ chiến thắng trên hầm tướng De Castries ngày 7/5/1954

Ảnh tư liệu tham khảo



Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu đồng bào theo đạo Thiên Chúa ngày 10/3/1955 và Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu Hội Phật giáo Việt Nam, ngày 3/1/1957.





Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.



Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đoàn Nghị sĩ Quốc hội Anh sang thăm Việt Nam (4/5/1957)

Ảnh tư liệu





Nhân dân thủ đô Sofia nhiệt liệt chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm hữu nghị nước Cộng hòa Bulgaria (8/1957)

Ảnh tư liệu





Trong dịp sang thăm Cộng hòa dân chủ Đức (7/1957), Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Cộng hòa dân chủ Đức đến thăm và chụp ảnh lưu niệm với các cháu thiếu nhi Việt Nam lưu học tại Đức.

Ảnh tư liệu





Ngày 3/3/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đền Borobudur, nhân dịp Người thăm Cộng hòa Indonesia

Ảnh tư liệu





Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam (5/1/1959) và Văn Miếu - Quốc tử giám (29/1/1960)

Ảnh tư liệu



Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Hồ Chí Minh.





Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.



Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn

Ảnh 3/9/1960 tại công viên Bách Thảo, Hà Nội





Nǎm 1962, khi tiếp Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thǎm miền Bắc, Chủ tịch Hổ Chí Minh nói: "Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi".



Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Đoàn đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về Hà Nội ngày 25/11/1965

Ảnh tư liệu





Tháng 8 nǎm 1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", và từ tháng 2 nǎm 1965 đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên chống Mỹ cứu nước. Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!".



Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam 17/1/1967 - Ảnh tư liệu tham khảo





Bác Hồ nói chuyện với các cháu thiếu nhi trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào tỉnh Hà Bắc (9/2/1967)

Ảnh tư liệu





Do tuổi già sức yếu, mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa nhưng vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nhà văn Thu Bồn cảm tác:



Đã ngừng đập một trái tim,
Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng.


Nỗi đau vô tận thời gian,
Nhớ thương nhưng chớ lệ tràn đẫm mi.




Những nhà tu hành đạo Phật ở Nhật Bản đã xem Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam như một vị chân nhân bởi sự hy sinh vĩ đại của Người trong việc đấu tranh giải phóng dân tộc và chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy mà sau khi Người qua đời vào ngày 2/9/1969, hòa thượng cao niên người Nhật Onishi Ryokei, trụ trì chùa Phật Bà Quan Âm Kyomydo ở cố đô Kyodo, đã sáng tác một bài thi thất ngôn tứ tuyệt để bày tỏ lòng ngưỡng mộ:



Chân nhân cứu nước về trời,

Lạc đường dân chúng muôn lời khóc than.

Xưa nay hiếm bậc tài anh,

Gió thu chiếc lá lìa cành trong mưa.



Chủ tịch nhà nước Trung Quốc đã trân trọng gửi đôi câu đối viếng Người:



Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất,

Minh tinh quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song.

Chí khí cường tráng núi sông, anh hùng xưa nay chỉ có một,

Sao sáng chiếu soi vũ trụ, hào kiệt Á Âu không thể có hai.



Điếu văn tiễn biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi người hiền, có đoạn viết nhấn mạnh: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch… và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta… mỗi người Việt Nam ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của Người.”.




Lễ truy điệu và Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 9/9/1969, Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình



Sau khi Người qua đời, sự nghiệp giải phóng dân tộc vẫn tiếp diễn và cuộc chiến tranh ngày càng leo thang và khốc liệt, tội ác của quân xâm lược Mỹ ngày càng chồng chất nhưng quyết tâm thống nhất tổ quốc là không gì lay chuyển nổi.



Hiện thực đẫm máu ở Mỹ Lai

Ảnh chụp ngày 16/3/1968

Em bé napalm

Ảnh tác giả Nick Út, năm 1972









Mùa xuân năm Mậu Thân 1968, quân và dân Miền Nam đã mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, hòa cùng thắng lợi của Miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, làm đảo lộn chiến lược và làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán. Hội nghị Paris tại Pháp diễn ra là kết quả của quá trình đấu tranh nhiều mặt để có được, đó còn là cơ sở có tính hợp pháp khi nó là hội nghị của bốn bên.



Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ
CMLTCHMNVN kí Hiệp định






Hội nghị bắt đầu từ ngày 18 tháng 1 năm 1969 tại Paris, thủ đô nước Pháp. Hội nghị đã kéo dài trong 4 năm 9 tháng, qua 202 phiên họp công khai, 24 cuộc họp bí mật với sự ngoan cố đến phút cuối cùng của đế quốc Mỹ, chúng muốn “thương lượng” trên thế mạnh nhưng tình hình thực tế đã không cho phép bởi những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, đập tan cuộc không kích chiến lược với pháo đài máy bay B52 đánh vào Hà Nội. Chiến dịch ném bom rải thảm cực kỳ tàn bạo này theo các nhà nghiên cứu thì sức tàn phá của nó tương đương với 5 quả bom nguyên tử đã ném xuống Nhật Bản năm 1945, thêm vào đó với sức ép của nhân dân Mỹ và dư luận trên toàn thế giới... nên ngày 27/1/1973, đế quốc Mỹ đã phải bắt buộc ký vào “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.



Pháo đài bay 52 rải bom

Ảnh tư liệu





Ngày 30 tháng 4 năm 1975 chính thức đánh dấu sự kiện hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chiến tranh gian khổ, hy sinh và mất mát. Hình bóng của Người là một biểu tượng vĩ đại của một dân tộc anh hùng, Người chính là linh hồn và là vị cứu tinh của một dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ gần trọn một thế kỷ và Người là biểu tượng dẫn dắt cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc đi đến sự thống nhất vẹn toàn.



Mẹ con ngày gặp lại

Ảnh tác giả Lâm Hồng Long, 1975





Quả thật, Hồ Chí Minh đã trở nên bất tử trong trái tim của nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người trải qua bao gian khổ, hy sinh vô cùng sôi nổi và phong phú, vô cùng cao thượng và đẹp đẽ cho ta cảm nhận một hiện thực sống động và cảm động về “Con Người”, con người Việt Nam đẹp nhất của thế kỷ XX với sự hài hòa Chân, Thiện, Mỹ.



Hàng ngàn bài thơ, bài ca đã được sáng tác để ca ngợi một con người vĩ đại, trong đó Bài ca Hồ Chí Minh (Ballad of Ho Chi Minh) của Ewan MacColl (1915-1989), một ca sỹ, nhạc sỹ, nhà thơ, nhà soạn kịch người Anh gốc Scotland, sáng tác năm 1954, được trình diễn trên mọi miền trái đất, gây xúc động hàng triệu trái tim. Cảm hứng khi sáng tác bài ca này, như chính tác giả có lần tâm sự, chính là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ewan MacColl và ca sỹ Peggy Seeger - người bạn đời của ông, đã bao lần song ca bài hát này trong niềm mến phục của thính giả, dù là ở Anh, Pháp, hay ở Cuba, Mỹ Latin…: “Hồ Chí Minh, Người đi khắp năm châu. Lòng tin mặt trời chân lý sáng soi, rọi chiếu sáng dân mình. Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh...



Ewan McColl và Peggy Seeger

Ảnh chụp bởi tác giả Alamy





Giáo sư Trần Văn Giàu đã nêu một nhận xét xác đáng để bình luận về sự vĩ đại của Hồ Chí Minh: “Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay ảo ảnh, khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ Chí Minh thuộc loại hiền triết đó, vì đó mà Cụ “lớn” (Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, tác giả Trần Văn Giàu, Nxb Khoa học Xã hội, 1995).



Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thành phố Moscow, Liên bang Nga





Hồ Chí Minh là kiểu mẫu của sự hài hòa giữa dân tộc và nhân loại, danh nhân với con người bình thường, sống giữa trần thế, gần gũi với nhân dân với những tình cảm tha thiết nhất, có sức cảm hóa, thuyết phục, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ và tự nhiên nhất đối với con người - những cảnh đời, những số phận của con người lao khổ. Hồ Chí Minh vĩ đại trong sự giản dị, giản dị trọng sự vĩ đại: Đại Nhân - Đại Trí - Đại Dũng. (Trích từ cuốn Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới, nhóm biên soạn Trần Đình Huỳnh, Nxb Văn nghệ Tp HCM, 2002).



Câu cá

Ảnh tư liệu

Tập võ dân tộc

Ảnh tư liệu









Trong lĩnh vực tâm linh, chưa đầy ba tháng sau khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL ấn định nhiệm vụ cho Đông Phương Bác Cổ Học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt Nam. Người bảo vệ, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Dương Đại Lâm kể lại: "Thời gian ở Khuổi Nậm, Pắc Bó… đầu năm 1942, Người đã dời lán cũ lên lán trên ở sâu trong rừng, ở một gốc cây to gần lán có đặt một phiến đá dán giấy đỏ viết chữ Nho, lại có bát hương lên khói y hệt một cái miếu thờ Thổ thần. Bên trong lán, có tranh Phật Bà Quan Âm và câu đối đỏ dán ở vách.”. Năm 1958, sau ngày hòa bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành kính đến thắp hương Phật Bà Quan Âm tại Chùa Hương Tích, Hà Tây.



Hà Tây có nhiều di tích lịch sử, trong đó có di tích chùa Thầy và chùa Trầm, nơi ba đức Thánh Tổ tu hành đạt chính quả linh diệu, các ngài thiền sư Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải cầu mưa giải hạn, chữa bệnh cứu dân… nhiều ngôi chùa Việt có bàn thờ ba vị "Tam Thánh Phật", là danh phong linh ứng lạ kỳ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam. Những năm kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống và làm việc tại hai ngôi chùa linh thiêng này, và Hà Tây cũng chính là nơi mà “Bác Hồ Tâm Linh” thông qua nhà ngoại cảm nói về chốn địa linh mang tên “Tứ Linh” của đất nước, là nơi chôn cất các vua Hùng và còn hơn thế nữa, nơi đây là cội nguồn cổ tích và tâm linh của các dân tộc trên toàn thế giới.



Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thủ đô Hà Nội, Việt Nam

Khu di tích Đá Chông

Núi Tản Viên, Ba Vì, Hà Tây, Việt Nam









Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hiểu sâu sắc ý nguyện của Người, phát tỏa linh khí hồn thiêng hàng nghìn năm trường tồn của dân tộc, nhà nước đã xây dựng khu tưởng niệm K9 - Đá Chông ở chân núi Tản Viên trở thành khuôn viên đẹp đẽ, trang nghiêm. Đặc biệt, trên đỉnh cao nhất trong ba ngọn núi Tản Viên, xây đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhân dân thành kính, thắp hương tưởng niệm, biết ơn Người.



Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, từ đáy lòng chân thành, đồng loạt hàng vạn ngôi chùa, đền, đình, miếu, nhà dân… ở khắp các bản làng lập bàn thờ, treo ảnh, tượng Người, ghi nhận tấm lòng biết ơn một vị Phật, ông Tiên, Thánh nhân đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi gần một thế kỷ rên xiết dưới ách đô hộ thực dân bạo tàn. Người cũng là ngọn đuốc sáng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, là biểu tượng cho khối đại đoàn kết của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới vùng lên giành lại độc lập, tự do (trích một phần từ bài viết Yếu tố tâm linh trong tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Võ Giáp).



Cuộc chiến tranh thống nhất đất nước Việt Nam cũng giống hình bóng của những cuộc chiến đã xảy ra trong lịch sử của các dân tộc khác, và có lẽ tương tự như cuộc chiến giữa những anh em hai dòng họ trong việc tranh giành lãnh thổ được mô tả trong cuốn sử thi nổi tiếng Chí Tôn Ca (Bagavad Gita) của Ấn Độ. Một bên là 5 anh em Pandava và một bên là 100 anh em Kaurava, quân đội đồng minh của đôi bên đông tới hành triệu người. Chiến sĩ Arjuna là người em thứ ba trong năm anh em Pandava, muốn từ bỏ cuộc chiến vô nghĩa này nhưng thần Krishna đã thuyết giảng về sứ mệnh của một người đối với dân tộc, Arjuna đã chiến đấu và đã chiến thắng nhưng những người anh em khác chiến tuyến đã chết hết. Cuộc chiến thực sự đã không có kẻ chiến thắng và sau đấy, Arjuna học hỏi quả đại toàn thiện Yoga từ thần Krishna - người đánh xe ngựa của mình, chính là hóa thân thứ 7 của thần mặt trời Vishnu, nhằm đạt tới sự giác ngộ toàn diện. Phải chăng nội dung sử thi Chí Tôn Ca muốn nhắn gửi những cuộc chiến đã xảy ra - đấy chính là định mệnh của một dân tộc và những người còn lại sau trận chiến, phải nhận thức được điều đó để cùng nhau hòa giải và yêu thương? (tham khảo cuốn Nhập môn triết học Ấn Độ, tác giả Lê Xuân Khoa, Trung tâm Học liệu Bộ giáo dục và cuốn Quả toàn thiện của Yoga, tác giả Đức Thánh ân A. C. Bhaktivedanta Swami Prabhupada, Nxb Tôn giáo, 2011).



Krishna và Arjuna


Tranh tham khảo




Trong bài thơ tâm linh Lời Thiên báo Trần, bà Phạm Thị Xuyến ghi theo lời “Hồn Thiên” đọc tại đền Hòa Bình, Thái Nguyên ngày 27/10/2010, tức ngày 20 tháng 9 năm Canh Dần, có đoạn nêu yêu cầu của Thượng Thiên:



Danh nhân thế giới tiếng vang toàn cầu.

Thác được Nhà Trời tặng câu,

Một ngày Sinh Hóa đứng đầu, không hai.

Mồng hai tháng Chín (1945), không sai,

Tuyên ngôn độc lập, văn bài còn ghi.

Mồng hai tháng Chín (1969) Bác đi,

Vào ngày lịch sử trường kỳ cho Dân.

Một ngày phúc lớn, hồng ân,

Một ngày Trời tặng phúc phần thành Tiên.

Một ngày hai việc hồng chuyên,

Một ngày Sinh Hóa thiêng liêng cho Đời.

Nước Nam có một Hồn Trời,

Có một Hồn đời Trời gửi cho Dân.

Hồn của Ngọc Hoàng giáng Trần,

Hồn của Tổ nước, hồng ân, phúc dầy.

Hồn của Lạc Long Quân nay,

Tái thế nước này sinh Nguyễn Sinh Cung.

Sinh cho Trời, cho Nước cùng,

Một hành tinh lớn ung dung ra đời.

Cho nên một cửa thờ Trời,

Có hai câu đối viết lời bằng thơ.

Viết làm câu đối treo thờ,

Theo Lệnh Trời giáng bấy giờ đến nay:

Câu 1:

Ngọc Hoàng Thượng Đế,

Ngọc Phật Bác Hồ.

Câu 2:

Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng về nước Nam

Ngọc Phật Ái Quốc giáng Trần cứu Nước,

Đó là nguyện ước của Trời,

Trời sinh, tạo hóa ra người Trần gian.

Trời có phép xưa sinh sang,

Trời sẽ có phép dạy ban cho Đời.





Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn hóa độc đáo trong thế kỷ XX, Người được coi là một huyền thoại khi còn sống, và khi Người từ giã cõi đời này đi vào cõi vĩnh hằng, ai ai cũng cảm nhận từ chiều sâu thẳm tâm linh của mình rằng, Ngưỡi vẫn luôn luôn có mặt trong cuộc sống hôm nay, ở giữa cuộc đời, sống giữa mọi người hồn hậu, thiết tha, chu đáo, tận tình. Trí tuệ và tâm hồn Người vẫn lộng gió bốn phương của thời đại, trái tim Người vẫn mãi mãi là biểu tượng cao quý của lòng nhân ái, bao dung hướng tới nhân loại cần lao, trong đó có dân tộc mình, đồng bào mình trong hành trình không mệt mỏi phấn đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc.



Chủ tịch Hồ Chí Minh bế con gái đỡ đầu Elizabeth, bên cạnh là bà Lucie Aubrac

Ảnh tư liệu ngày 27/7/1946





Toàn tập thơ văn linh cảm có tên gọi Hồ Chí Minh khai cơ, giáng bút được bắt đầu ghi lại từ ngày 25 tháng 6 năm 1999, liên quan đến Hội Long Hoa mà kinh sách của các tôn giáo đề cập đến từ xưa đến nay, trong đó nói rằng Bác Hồ Tâm Linh vâng lệnh Thượng Đế cho trần gian rõ, hay nói đúng hơn cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới bằng: Tuyên giáo chính pháp Long Hoa Hội. Từ sự kiện này, chúng ta hiểu rằng Bác Hồ Tâm linh - Phật Ngọc Hồ Chí Minh là đại diện cho Cõi Thượng Thiên ra tuyên bố chính thức về Long Hoa Hội:

TUYÊN GIÁO CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI



Kể từ xưa, đời cổ lai hy tại nước Hy Lạp đã xuất hiện con người tinh xảo nhất. Con người đã biết tạo dựng cho mình một cái mốc thời gian, rồi chuyển hóa dần sang thời đại năng lượng của trời đất và biết tạo dựng trong thiên nhiên. Sự chuyển hóa của loài người từ thế hệ này đến thế hệ khác, cùng tồn tại với bầu không trung hư vô của các tâm linh mà đời thường chúng ta không ai biết được.



Từ cõi hư vô ấy các tâm linh được xuất thần nhập thân khai nên bút tích của lịch sử, từ nền khoa học phát triển cho đến chuyển hóa sang thần thánh, cả hai mặt đều chuyển hóa dần trong cuộc sống hiện tại từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.



Tôi cũng đã xuất thân từ một con người, của một thời đại hiện đại. Tôi đã sống trên trái đất và dấu ấn lịch sử đã ghi bước chân của Tôi từ Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc châu rồi lại trở về Á châu. Nơi chôn nhau cắt rốn của Tôi là Việt Nam thân yêu! Tôi sống một cuộc sống cho đời! Làm người Tôi luôn luôn nghiên cứu sử sách của các bậc tiền bối từ đời cổ lai hy của các niên đại như: Cổ đại, Trung đại và Hiện đại; từ triết học, học thuyết tâm linh, Kinh Dịch, Mã Ấn, rồi học thuyết của chủ nghĩa Mác mà các bậc tiền bối đã để lại cho thế hệ hôm nay của thời hậu thế.



Từ đó, Tôi cô đúc trong thế giới bao la của trời đất, không phải không có thánh thần, không phải không có tâm linh, mà chính cõi hư vô ấy đã chỉ đạo cho con người chúng ta xuất phát trong tâm tưởng và bộ nhớ của chính mình. Mốc thời gian do trời đất tạo hóa ra loài người của chúng ta đều do Vô Vi mà có.



Nay Tôi về tuyên giáo CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI!



Bằng Hồn Thiêng Tâm Linh, Tôi mang sắc lệnh của Cha Trời với danh hiệu là “ĐỨC NGỌC PHẬT HỒ CHÍ MINH” tuyên giáo Chính Pháp Long Hoa Hội để toàn thể sinh linh phải thức tỉnh lòng mình, giữ cho mình một tấm lòng nhân hậu thật trong sạch, làm điều thiện vun trồng cội đức cho toàn dân, cả cõi kiếp người, cả Đại Đức các Chư Phật, Bồ Tát từ bao kiếp xưa nay đã về hưu giao lại cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Cha Trời phán xử, truyền chỉ sắc lệnh cho con trai Trời, con gái Trời xuống Hạ giới đầu thai mở cõi Nam Thiên Cực Lạc, mở đường sinh linh diệu hóa, xóa bỏ cõi sinh linh mà bao ngàn năm chứa chất tội lỗi.



Con trai Trời, con gái Trời xuống mở Nam Thiên Cực Lạc, trên quả địa cầu chỉ còn 18 nước - có nước Việt Nam thành Liên Bang Chủng Quốc. Từ đó trở đi, Đại Đức Cha Trời chiếu sắc lệnh ban về Hạ giới cho con trai Trời, con gái Trời lãnh đạo nhân loại trong cõi Dương thế, đời người chúng ta không còn lầm than, khổ ải nữa, sự sinh tồn của con người được trường thọ.



Nay Tôi mệnh danh ĐỨC NGỌC PHẬT HỒ CHÍ MINH, xin tuyên giáo CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI cho toàn thể nhân loại rõ để tu thành chánh qủa!



Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉnh sửa bài viết xong vào lúc 23h30’; tại 107 phố Phương Mai, quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội, Việt Nam; ngày 13 tháng Hai năm 2009; người thông linh trực tiếp ông Lâm Thanh Điền - Tam Thiên Đại Toàn Phổ Giáo Bồ Tát. Trích từ Tư liệu số 25: Thông điệp và các bài chỉ dạy của Trời năm 2009 cho Nhân Điện và nhân loại toàn cầu của tác giả Lâm Thanh Điền.



Cuối cùng, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Có người nào đã đúc kết được tinh hoa của một dân tộc hay hay không? Nếu có thì Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một trong những con người như vậy. Nhà thơ Osip Mandelxtamm có ấn tượng rất là sâu sắc sau lần gặp thân mật với Nguyễn Ái Quốc, ông đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ đó là nền văn hóa của tương lai… Qua dáng điệu trang nhã và giọng nói chậm rãi của Nguyễn Ái Quốc, người ta nghe thấy vọng lại âm thanh của ngày mai, âm thanh trầm hùng của của đại dương bao la tình hữu ái”.



Thực tế, chúng ta cũng đã thấy sự sáng suốt và thấu hiểu tinh hoa của các giá trị văn hóa Đông Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phật Ngọc Hồ Chí Minh đã từng nói với một nhà báo:

Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức. Tôn giáo Jesus có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách thích hợp với điều kiện thực tế nước ta. Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” (trích Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Thêm, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1997).



Không phải ngẫu nhiên mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc, cũng không phải ngẫu nhiên Người được Đại Hội đồng UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), đã vinh danh Người trên toàn thế giới: “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất”. Nghị quyết có viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.".



Những hiện vật của thời các vua Hùng dựng nước tự nói lên sự tồn tại của nó từ nhiều thiên niên kỷ trước Công nguyên. Người dân nước Văn Lang đã xây dựng một nền văn hiến vô cùng rực rỡ, ngày nay đọc lại những trang sử của cha ông để lại, chúng ta bồi hồi nghĩ về con đường thiên lý chiều sâu lịch sử:



Nghìn năm cũ đang hồi xuân thắm lại,

Ta đứng vậy, ngẩn ngơ mà ngắm mãi.



Và càng ghi sâu công ơn của Chủ tịch Hồ Chủ Tịch:



Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại,

Sau bốn nghìn năm ta lại là ta. Thơ Tố hữu.



Chuyển Luân Thánh Vương



Bao giờ đến Hội Long Hoa? Đó là câu hỏi đã có từ hàng ngàn năm trước, câu hỏi ấy càng trở thành cấp bách ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX, người ta bàn tán với nhau rằng đến năm 2000 tận thế xảy ra thì lúc ấy Hội Long Hoa xuất hiện, Đức Phật Vương Di Lạc ra đời cứu vớt những người tu phước hành thiện, còn những kẻ ác thì phải đọa địa ngục. Thế rồi dân gian đã tưởng tượng ra Long Hoa chính là cây xương rồng, rồi thì nhà nhà đều trồng cây xương rồng để trừ ma yếm quỷ, và tạo duyên để Đức Phật Vương Di Lạc hạ sinh, và cho tới nay thì "Ông bụng bự vui tính" vẫn còn ở tận đâu đâu nhưng niềm tin của con người vẫn còn vô cùng mãnh liệt.



Trong quyển Phật Tông Nguyên Lý, khi Đức Phật Thích Ca sắp viên tịch, đệ tử của Ngài là Ananda rơi lụy hỏi rằng: "Khi Tôn Sư nhập Niết Bàn rồi, còn ai dạy bảo chúng con?" Đức Phật đáp: "Ta chẳng phải vị Phật đầu tiên hay cuối cùng, ngày giờ đến, sẽ có một Đấng khác xuất hiện cứu đời, một Đấng chí thánh, một Đấng đại giác, cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn Đạo vô song, một Đấng Chúa Tể Thánh, Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền dạy các con một mối Đạo vi diệu buổi sơ khai, vi diệu buổi thịnh hành và vi diệu buổi kết cuộc, Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết", một lần nữa khẳng định Đức Phật Vương Di Lạc sẽ ra đời và chuyển luân pháp vương tại nhân gian.



Theo Kinh Di Lạc Thượng SinhKinh Di Lạc Hạ Sinh, vị Bồ Tát này xuất thân từ một gia đình Bà La Môn, về sau làm đệ tử Phật, nhập diệt trước Phật, dùng thân Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất thuyết pháp cho các vị trời ở cõi này. Di Lạc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sinh xuống cõi trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, làm Giáo chủ Đại Hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua quản lý Càn Khôn thế giới và vạn linh.



Tượng Đức Phật Di Lạc mạ vàng

Chùa Đại Kim Phật, Quý Châu, Trung Quốc





Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh điển chính thức nói về Di Lạc có đến sáu bộ. Sáu bộ kinh này thuật về việc sinh lên cõi trời Đâu Suất, từ cõi trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật, quốc độ, thời tiết nhân duyên, chủng tộc, xuất gia, hành đạo và chuyển pháp luân của Bồ Tát Di Lạc. Sáu bộ kinh bao gồm:

- Kinh Quán Di Lạc thượng sinh;

- Kinh Di Lạc hạ sinh;

- Kinh Di Lạc lai thời;

- Kinh Quán Di Lạc Bồ Tát hạ sinh;

- Kinh Di Lạc hạ sinh thành Phật;

- Kinh Di Lạc Đại Thành Phật.



Tựu trung, 6 bộ kinh trên được chia làm hai loại, đó là Thượng sinh và Hạ sinh. Tín ngưỡng Thượng sinh cho rằng hiện nay Bồ Tát Di Lạc đang nói pháp trên cung trời Đâu Suất, các kinh điển Thượng sinh diễn tả tỷ mỷ về cõi trời này, đây là tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục. Tuy là cõi Dục, nhưng cõi trời này có những cái đặc thù mà các tầng trời khác không có. Thiên cung Đâu Suất có hai phần là Nội viện và Ngoại viện, thiên chúng ở Ngoại viện vẫn hưởng thú vui ngũ dục nên dễ bị đọa lạc, chỉ có tại Nội viện, nơi Bồ Tát Di Lạc đang thuyết pháp thì không khác cảnh giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Nếu người phát nguyện vãng sinh về nội viện thiên cung Đâu Suất, nhất tâm giữ giới tu thiện thì sau khi mạng chung sẽ được vãng sinh. Tín ngưỡng Thượng sinh có từ rất sớm ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc đầu tiên có ngài Đạo An (314-385), Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp, Huệ Nghiêm, Đạo Uông, Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Võ… đó là những danh tăng có ảnh hưởng rất lớn giới Phật giáo đương thời. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang, Khuy Cơ cũng hoằng dương tín ngưỡng Thượng sinh Đâu Suất và trở thành truyền thống của tông Pháp Tướng.



So với tín ngưỡng Thượng sinh, tín ngưỡng Hạ sinh lại rất phổ biến, tín ngưỡng này cho rằng tương lai Bồ Tát Di Lạc sẽ giáng sanh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật dưới cội Long Hoa và thuyết pháp ba hội để cứu độ chúng sinh, vì thế có thuyết Long Hoa Tam Hội. Nếu chúng sinh tu tạo nhân duyên, phước báo, trụ sinh ở Diêm-phù-đề khi Phật Di Lạc giáng sinh thì sẽ được Phật giáo hóa. Đời Lưu Tống, vua Minh Đế (tại vị 465-471) soạn Long Hoa Thệ Nguyện Văn, Châu Ngung soạn Kinh Sư Chư Ấp Tạo Di Lạc Tam Hội Ký, Văn Tuyên Vương Tề Cánh Lăng soạn Long Hoa Hội Ký, ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn Lập Thệ Nguyện Văn, tất cả đều nói về thuyết Di Lạc hạ sinh. Do tín ngưỡng Hạ sinh được các vua chúa tôn sùng, nên việc khắc tạo tượng Phật Di Lạc ở Trung Quốc phát triển cực thịnh. Tượng Di Lạc được khắc tạc vào núi Thạch Thành cao đến hơn 300m vào đời Nam Tề, Hiến Văn Đế đời Bắc Ngụy cũng tạo rất nhiều tượng Di Lạc ở Vân Cương Đại Đồng, Long Môn… việc tạo tượng Di Lạc ở Trung Quốc cũng ảnh hưởng nhiều đến các nước Triều Tiên, Nhật Bản.



Phật Di Lạc

Tạc vào vách núi Lạc Sơn, Trung Quốc




Phật Di Lạc được thờ cúng rất phổ biến trong dân gian các nước Á Đông. Ở Trung Hoa, tín ngưỡng Di Lạc đã được thịnh hành từ lâu đời, thời Tây Tần xuất hiện tượng Di Lạc ở động đá chùa Bính Linh, Cam Túc. Tượng Di Lạc trước đời Ngũ Đại, Tống, chủ yếu có hình Bồ Tát và Như Lai, đều được làm theo các kinh Di Lạc thượng sinh kinhDi Lạc hạ sinh kinh. Tượng ngài chủ yếu thể hiện hình dáng Bồ Tát thuyết pháp với chư thần ở Đâu Suất Thiên Cung. Tượng ngài lúc này mặc trang phục Bồ Tát, hai chân ngồi đan chéo nhau, hoặc ngồi bán già tư duy, vế phải hạ xuống, tay phải chống vào má thể hiện ngài ở cung Đâu Suất đang chọn ngày hạ sinh. Tượng Phật Di Lạc hình Như Lai biểu hiện hình tượng sau khi Di Lạc trở thành Phật và hầu như không có gì khác lớn so với Phật Thích Ca. Ở Trung Hoa, vào khoảng thời Bắc Ngụy dần dần tính ngưỡng đối với Di Lạc, đồng thời cũng bắt đầu xuất hiện tượng Phật Di Lạc mặc áo Phật. Sau thời Ngũ Đại, trong dân gian còn có tượng Di Lạc cười (tham khảo bài viết Tìm hiểu về tín ngưỡng Di Lạc, tác giả Thích Nguyên Hiền, 2000).



Trong nội dung cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết về kinh Di Lạc và nước Âu Việt tức Âu Lạc hay nước Văn Lang, phân dã thuộc hai sao Dực, Chẩn như cổ thư đã nói:



Liền sai tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến từng người, ai nấy đều ngầm hiểu là việc này đã sắp sẵn cho Ngô Tử Chương, cho nên đều lấy lời lẽ khác nhau để từ tạ. Đến lượt Bột, Bột cũng muốn tỏ rõ tài năng của mình, liền không từ chối mà nhận lấy, diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: "Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời. Hãy xem hắn ta làm ăn ra sao!". Liền đứng dậy thay áo, lệnh cho một viên lại đứng ngay cạnh Bột:

- Xem y làm được câu nào, báo cho ta biết câu ấy. Ta sẽ có cách phán xử.

Bột trải giấy ra mặt án, cất bút lên viết ngay: Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Đô.

Viên lại đọc kỹ thưa lên, Diêm Bá Tự cười: Ai mà chẳng viết thế!

Câu tiếp: Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn - Tiếp giáp hai sông Hành, Lư.

Diêm Bá Tự cất tiếng: Đó là chuyện cũ.

Lại báo tiếp: Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ - Mở Di Kinh dẫn về Âu Việt.

Diêm Bá Tự không nói gì.

Các vỉên lại báo liên tiếp câu này sang câu khác, Diêm Bá Tự chống cằm ngồi ngẩn ra nghe. Đến câu:

Chiếc cò bay với ráng xa,

Sông thu cùng với trời xa một màu.

Diêm Bá Tự kinh ngạc:

- Thằng bé này kỳ lạ! Thật đúng là thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây để rót thêm hứng cho văn từ nào!

Lát sau bài văn xong, tả hữu đọc hết, bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói:

- Bài văn này đâu phải xuất từ đại tài của Vương huynh, mà là một sự giả mạo. Nếu không tin, Tử Chương này xin đọc, một chữ cũng không sai.

Mọi người kinh ngạc, thấy Ngô Tử Chương đọc thuộc làu từ "Quận cũ Nam Xương..." cho đến tận câu "Còn mong các ngài xét cho". Ai nấy đều sợ hãi. Bột liền cất tiếng:

- Ngô huynh thật có công nhớ kỹ, không kém gì Lục Tích thuở xưa. Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn có một bài thơ nhỏ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được chăng?

Ngô Tử Chương không biết trả lời sao, đành ôm nỗi xấu hổ mà ngồi xuống, lại thấy Vương Bột viết một mạch xong ngay bài thơ sau:

Gác Đằng cao ngất bãi sông thu,
Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu.
Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ,
Tây Sơn mưa tối cuốn rèm châu.
Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,
Mây phen vật đổi với sao dời.
Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá,
Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.


Diêm Bá Tự cùng Vũ Văn Quân xem xong, đều hết lời ngợi ca từng câu từng chữ, tặng ngay năm trăm tấm lụa, tài danh từ đó càng ngày càng nổi.

Hai người xuống đài, trông thấy từ góc Tây Bắc, một luồng khí đỏ như vẩy rồng thành một đám đài lớn, bốc lên ngùn ngụt. Tử Yên vội giương mắt nhìn theo, không giấu nổi vẻ kinh hoàng, vội vàng thưa:

- Đó chính là khí Thiên tử vậy, làm sao lại ở chỗ ấy cho được?

Dượng Đế vội quay lại nhìn quả nhiên sắc đỏ bừng bừng, hiện đủ năm màu, che khắp nửa bầu trời, thật mười phần kỳ lạ. Dượng Đế bất giác cũng sợ hãi, mới hỏi:

- Tại sao khanh lại biết đó là khí Thiên tử?

Tử Yên thưa:

- Hiện đủ năm màu, có hình dáng như rồng như phượng, làm sao mà không phải cho được. Ở nơi khí bốc lên như thế, nhất định là có bậc khác thường.

Dượng Đế lại hỏi:

- Đám khí này ứng với địa phận nào?

Tử Yên lại giơ tay chỉ:

- Đây chính là phận Sâm Tỉnh, cũng chẳng đâu xa, có lẽ ở vùng Thái Nguyên chăng?

Dượng Đế phán:

- Thái Nguyên ở Tây Kinh không xa. Ngày mai trẫm sai người đến lặng lẽ tìm khắp nơi, nếu thấy kẻ nào ra vẻ dị tướng, dị nhân, giết quách đi, thì họa này cũng hết hẳn, chẳng còn sợ gì nữa phải không?

Tử Yên thưa:

- Đây chính là ý trời, chỉ sợ sức người không trừ diệt nổi. Chỉ xin bệ hạ giữ gìn cẩn thận, nêu cao đức sáng, thì may ra điềm họa có thể tự tiêu. Nhớ lúc trước, ni cô già có truyền cho thiếp ba câu kệ ngăn sau đây:

Đuôi Trâu, đầu Cọp,
Binh đao loạn lạc,
Ai sẽ làm vua, con người thợ Mộc.


Nếu lấy chữ "Mộc" với chữ "Tử" là con mà đặt chữ "Mộc" trên, "Tử" dưới thì là chữ "Lý". Nhưng ý trời huyền diệu, thật khó mà suy đoán cho cùng.

Dượng Đế phán:

- Ý trời đã định, có lo âu sầu não cũng chẳng xong. Đêm nay đẹp thế này, hãy cùng khanh kịp thời hành lạc đã.

Rồi xuống đài, cùng với Tiêu Hậu và chúng phu nhân uống thêm mấy chén rượu. Tiêu Hậu dẫn chúng phu nhân ra về, Dượng Đế ở lại Hiển Nhân cung với Tử Yên đêm ấy.

Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân trên thuyền rồng cuốn tất cả các rèm gấm lên, nhìn cho rõ ràng cảnh đẹp thần tiên bốn phía, chưa gì đã ra khỏi Bắc Hải, tới gần một trong ba đảo thần tiên, cả bọn kéo nhau lên bờ. Đang lúc trèo lên, nghe một tiếng quẫy mạnh, trên mặt biển thấy một con cá lớn, những cánh vây dương rộng, vẩy sáng lấp lánh trên mặt sóng bạc, bơi đi bơi lại gần bờ đảo, trông thấy Dượng Đế như nhận ra người quen. Dượng Đế định thần nhìn kỹ, thì ra là một con cá chép lớn, dài tới một trượng ba bốn thước gì đấy. Toàn thân là những vẩy vàng đỏ sáng ngời dưới ánh nắng mặt trời, như những đốm sáng lân tinh vậy. Ở trán như có thấp thoáng nét chữ son, lúc tỏ, lúc mờ, trông như chữ "Giác", Dượng Đế mới sực nhớ ra buột miệng.

- Thì ra là con cá này?

Tiêu Hậu vội hỏi:

Con cá nào thế? Thưa bệ hạ!

Dượng Đế đáp:

- Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "Giải Sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "Sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "Giác" mà thôi. Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa?

Tiêu Hậu thưa:

- Cá chép có sừng, thì không phải vật tầm thường!

Tử Yên cũng thưa:

- Hãy nhân lúc nó chưa hóa được thành rồng, xin bệ hạ trừ đi, may ra có thể trừ được họa gió mưa sau này chăng?

Dượng Đế đáp:

- Khanh nói có lý lắm.

Rồi gọi cận thần mang ngay cung tên đến. Dượng Đế cầm cung tên, vén tay áo bào, đặt tên vào mũi dây cung, nhằm thẳng vào bụng cá phóng mũi tên ra. Bỗng trên mặt nước, một trận gió lớn nổi lên, làn sóng nổi cao cuồn cuộn, ngập tràn bốn phía, chẳng khác gì có hàng vạn con cá hóa rồng đang nhào lộn giữa sóng; nước tràn sâu vào bờ đảo, đến nỗi Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân đều bị ướt cả xiêm y. Cả bọn hoảng kinh, hồn bay phách lạc. Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân vội tìm chỗ tránh. Dượng Đế cũng sợ hãi, chân đứng không vững, Viên Tử Yên vội chạy lại bên Dượng Đế trấn an:

- Bệ hạ đứng cho vững. Đã có thiếp đây?

Dượng Đế hoảng sợ định níu lấy Tử Yên, thì thấy Tử Yên lấy trong tay áo ra một vật trông tròn như quả trứng bằng gỗ, tay trái lôi ra một cuộn dây ngũ sắc bằng lụa, xâu sợi dây vào quả trứng gỗ xong. Tử Yên giang tay phải ném mạnh ra phía biển, gần chỗ con cá. Cá trông thấy, quay đầu lặn biến mất.

Tử Yên thu lại sợi dây, gỡ quả trứng gỗ ra, lúc này Dượng Đế cũng đã trở lại bình tĩnh, lại gần Tử Yên, cầm quả trứng gỗ xem xét. Thì ra đó là một viên ngọc lấp lánh đủ năm màu. Dượng Đế hỏi:

- Viên ngọc này dùng làm gì, làm sao mà thủy quái cũng phải sợ được?

Tử Yên thưa:

- Vật này cũng chính do ni cô già ngày xưa cho thiếp. Dặn thiếp đây là quả cầu "Thái Dịch hỗn thiên", mà lúc còn ít tuổi ni cô đã luyện được, có thể kỵ tà khí, trừ được các loài thủy quái, lúc nào thiếp cũng đem bên mình, để phòng sự bất trắc.

Tiêu Hậu đáp:

- Kinh Dịch hay kinh Mỹ nhân thì đều chủ ở chỗ bồi đắp nhân tài cả thôi.

Dượng Đế cũng cười:

- Hoàng hậu từ lâu đã thuộc bài thơ Quan thư của Kinh Thi, vốn rất am hiểu lời dạy của kinh sách.

Tiêu Hậu cười đáp:

- Không bằng được bệ hạ chuyên chỉ có Kinh Xuân Thu.

Cả bọn từ phu nhân đến mỹ nhân đều cười rũ rượi một loạt.

Tần phu nhân lấy ở trong tay cung nữ một tập thơ, từ, dâng lên Dượng Đế. Dượng Đế giở tờ đầu tiên ra xem thấy ghi: "Thần thiếp Khương Quế ở viện Nhân Trí kính trình ngự lãm". Phía dưới là con dấu vuông nhỏ in ba chữ "Nguyệt Tiên Thị". Dượng Đế thấy thế nhìn Khương phu nhân cười:

Từ rằng:

Ngẫm thương người trần,
Bị quỉ thần chòng ghẹo,
Điên điên đảo đảo,
Dắt dẫn theo danh giáo.
Lại đem mồi chài,
Dây thuyền dài,
Roi ngựa ngắn,
Mấy ai được thảnh thơi.




Nhìn kỹ ra:



Sớm sớm gió quất tơi bời,
Ngày ngày bụi vùi cay rát,
Dù ai giảo hoạt anh hùng,
Vực sâu ngập xuống, dây thòng lọng treo.
Hám phú quý mà liều thể xác,
Mộ thần tiên thuốc độc uống vô,
Xương khô mà máu chẳng khô,
Bừng con mắt, ủa! Rặt trò xuẩn ngu,
Khuyên ai tỉnh trước mà ngừa.
Theo điệu "Ý nan vong".



Như vậy, cũng giống như các nhà tiên tri khác trước thời nhà Trần, Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng dự đoán rằng sẽ xuất hiện một thánh nhân mang họ “Lý”, con của người thợ “Mộc” hay cũng có thể hiểu con của “Mặt trời” tức “Thiên tử”. Quay trở lại cấu trúc các thần khí của bàn thờ Đạo Mẫu, Gia Tiên, Phật giáo, Đạo giáo… chúng ta thấy phương Bắc với biểu tượng là cái “lư hương”, còn theo cấu trúc Nhị thập bát tú là hướng của “rùa vàng” và tháp rùa hồ gươm - nơi có đền thờ vị tiên Lữ Đồng Tân - một trong Bát tiên, hướng Bắc cũng là hướng mà thần Huyền Thiên Trấn Vũ bảo vệ kinh đô Thăng Long, Hà Nội hay kinh thành Hoa Lư, Ninh Bình. Mà chúng ta cũng đã biết Lữ Đồng Tân chính là vua Lạc Long Quân, cho nên ngài cũng chính là Huyền Thiên Trấn Vũ, phương Bắc tượng trưng “Cõi Chết” và vua cõi chết là Phong Đô Đại Đế trong Đạo giáo là ngài, hoàn toàn chính xác khi so sánh tới Sự tích Hồ Hoàn Kiếm, Lê Lợi trả gươm lại cho thần Kim Quy chính là trả gươm lại cho vua Lạc Long Quân - Lữ Đồng Tân một tay cầm thanh kiếm và một tay cầm phất trần. Ở Cõi Âm phủ, ngài là Phong Đô Đại Đế hay thường gọi là thần Bắc Đẩu, tương ứng Ngài là Nam Cực Lão Nhân với biểu tượng chòm sao Nam cực trên bầu trời. Dân gian còn lưu truyền câu truyện về Sự tích Huyền Thiên Trấn Vũ nhưng không ghi nhận trong kinh sách:



Đức Huyền Thiên Trấn Vũ tu tiên đắc đạo. Khi thành chính quả, ngài bỏ lại thân xác của mình ở trần gian. Lâu ngày thân xác của Ngài thành Tinh và gây rối ở nhân gian. Ngài xuống trần gian trừng phạt. Nhưng vì yêu quái chính là thân xác của Ngài, nên pháp thuật của nó rất tinh thông. Vì gần như Ngài học được cái gì thì nó cũng học được như thế đó. Hai bên đấu bất phân thắng bại. Cuối cùng Đức Huyền Thiên Trấn Vũ cùng yêu quái thi tài viết chữ trong vòng một canh giờ xem ai viết được nhiều thì coi như thắng. Trong một canh giờ Đức Huyền Thiên Trấn Vũ viết được 100 chữ, yêu quái viết được 99 chữ. Yêu quái thua cuộc và bị Ngài bắt giải đi trị tội.



Chúng ta quay trở lại dòng tranh dân gian Việt Nam, một số hình ảnh minh họa từ hai bức tranh dân gian Đông Hồ chép bên sen mang tính tương phản nhau, một bức thể hiện 5 cá con tung tăng, vui vẻ bên cá chép mẹ giữa các cọng hoa sen, thì bức tranh tương phản lại chỉ vẽ các bộ xương cá, thật là kỳ lạ, nếu không ở vai trò của người nghệ sỹ tài hoa, mong muốn gửi gắm một bí ẩn gì đó thì chúng ta hoàn toàn bế tắc trong việc hiểu ý nghĩa của hai bức tranh tương phản này.



Cá chép bên sen

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Thần Osiris hình cá chép sông Nile

Tomb of Khabeknet, 19th dynasty, Ai Cập









Qua bức tranh tường Ai Cập cổ đại mô tả thần Anubis đang trang điểm xác ướp của thần chết Osiris dưới dạng một loài cá chép sông Nile, Osiris là vị thần đầu tiên được chôn cất nhưng lại tái sinh từ cõi chết. Chúng ta cũng đã biết, Orisis cũng chính là Phong Đô Đại Đế Lạc Long Quân và như vậy, bộ xương hóa thạch thể hiện “cái chết” và ngược lại chính là “tái sinh”. Bộ tranh nhị bình này vẽ các con cá chép cùng một hướng phải qua trái, dòng chảy Âm dương Ngũ hành, và sáu con cá chép chính là thể hiện độ số 6 của phương Bắc trên Hậu Thiên Bác quái. Bộ tranh nhị bình đã thể hiện sự tái sinh trong vòng quay một cung của Hoàng Đạo, điểm xuân phân kết thúc cung Song Ngư và bắt đầu đi vào cung Bảo Bình sau 2.160 năm. Cung Song Ngư (Hợi) trên vòng Hoàng Đạo cũng chính là biểu tượng của vua Lạc Long Quân.



Huyền Thiên Trấn Vũ

Tả Dinh, Cao Hùng, Đài Loan

Huyền Thiên Trấn Vũ

Đền Trấn Vũ, Hà Nội, Việt Nam








Tùy Đường diễn nghĩa khẳng định lại một lần nữa qua nội dung đối đáp: “Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "Giải Sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "Sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "Giác" mà thôi. Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa?“. Cá chép chính là thể hiện chữ “Giác” là cái “Thấy đến tận cùng nguồn gốc vạn vật” hay “Tính Thấy” được trình bày trong Kinh Lăng Nghiêm của Phật giáo, chúng ta hãy xem lại bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng Lý ngư vọng nguyệt, có thể nói dây là một bức tranh đẹp trong số những bức tranh đẹp nhất của nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam. Vẻ đẹp toát lên ngay từ hình tượng độc đáo với một bố cục rất ấn tượng, nhưng hài hòa và cân đối. Nhưng chính biểu tượng của bức tranh đã làm nên sự vi diệu, sâu lắng và là sự minh triết trong bức tranh này.



Lý ngư vọng Nguyệt

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam




Cá chép theo truyền thuyết nó được lựa chọn làm biểu tượng cho ý thức vươn lên trong cuộc sống: loài cá ứng cử cho đẳng cấp cao nhất trong vũ trụ là Rồng. Hình tượng cá chép trong tranh kết hợp với một hình tượng qui ước làm nên tính minh triết của bức tranh. Đó chính là mặt trăng và bóng trăng soi đáy nước. Trên thực tế, không có bóng trăng soi đáy nước, mà chỉ có bóng trăng soi mặt nước. Hình tượng bóng trăng đáy nước là biểu tượng cho ảo ảnh của một giá trị đích thực được biểu tượng bằng mặt trăng trên không gian. Hình tròn của mặt trăng là biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn đích thực, nhưng con cá chép trong tranh lại không tìm về giá trị đích thực, mà lại tìm những ảo ảnh của cuộc đời. Phải chăng hàm nghĩa của bức tranh muốn nhắn gửi thế nhân: hãy tìm về sự hoàn thiện, viên mãn của con người (trích Minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).

Ngẩng lên trăng vời vợi,
Ngụp xuống nguyệt hư không.
Suốt một đời chép miệng,
Ngẩn ngơ quên hóa Rồng.




Trong dân gian còn có câu chuyện về Cá chép hóa rồng hay Cá chép vượt Vũ Môn, cá chép vượt Vũ Môn biểu tượng cho sự kiên trì và bền chí. Truyện kể rằng:



Một năm, trời hạn hán rất lâu, vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hòa cho khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén chọn các con vật lên làm Rồng, gọi là “Thi Rồng”. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kỳ, mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng bạc đầu. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thi thì mới được Trời cho hóa thành Rồng.



Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả, vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba đuối sức ngã bổ xuống quá nặng, lưng còng lại, cứt lộn lên đầu.



Đến lượt cá Chép vào thi thì gió thổi ào ào, sấm chớp nổi lên, mây đen kéo đến đầy trời. Cá Chép ta vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng bạc đầu, và lọt vào cửa Vũ Môn, cá Chép đỗ. Vẩy, đuôi, râu, sừng mọc đủ, vóc dáng thật oai linh, thật đúng là Rồng. Cá chép hoá Rồng phun nước làm mưa, muôn loài sung sướng, sự sống đã hồi sinh. Dân gian có thơ làm chứng rằng:



Mồng Bốn cá đi hội thề,
Mồng Tám cá về, cá vượt Vũ Môn.


Vũ Môn là một chỗ có nhiều ghềnh thác trên sông Trường Giang tức sông Dương Tử thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay.



Vũ Môn cũng chính là hình ảnh chiếc cổng Tam quan của các ngôi chùa, đền, đình hay thôn ấp, làng quê và cũng là ba cửa huyệt quan trọng trên xương sống mà dòng khí phải vượt qua trong các phương pháp tu luyện khí công của Đạo gia, Phật giáo, Bà La Môn giáo... Đồng thời, Vũ Môn là cũng nói đến ba kỳ thi trong các triều đình thời xưa đó là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Sĩ tử nào giật một lúc ba giải một lúc gọi là Tam khôi. Sĩ tử giật giải Trạng nguyên sẽ mang lại danh dự cho làng xóm, họ hàng, lúc đó tại quê nhà người ta sẽ dựng một cái cổng chào đón quan Trạng “Vinh quy bái tổ”. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, có một bức tranh độc bình mang ý nghĩa này:



Vinh quy bái tổ

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam






Lọng xanh che rợp đất,

Nhành liễu bẻ làm roi.

Nhạc vàng nghe xoang xoảng,

Trạng Nguyên reo vang trời.

Trích sách Ấu học ngũ ngôn thi.



Ngày nay, không còn nhiều những chiếc cổng làng cổ xưa, trên mỗi cổng làng đều có các chữ đại tự và đôi câu đối. Cổng làng Chính Kinh, phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Hà Nội, trước kia làng thuộc xã Nhân Mục Môn, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Tên đầu tiên của làng là Hoa Kinh, đến năm 1841 đồi là Minh Kinh, sau cùng đổi thành Chính Kinh, có đôi câu đối:



Thiên niên văn hiến Hoa Kinh địa,

Tứ ứng giang sơn thọ lão môn.

Ngàn năm văn hiến kinh đô Phật,

Tứ khí non sông mãi cửa này.



Trong câu đối trên, chữ “Hoa” liên quan đến Hội Long Hoa, và cũng chính là biểu tượng của người phụ nữ, của nàng tiên và của Quan Âm Bồ Tát (Tham khảo cuốn Cổng làng Hà Nội xưa và nay, tác giả Vũ Kiêm Ninh, Nxb Văn hóa Thông tin 2007).



Cổng Tam quan

Chùa Báo Ân, Hà Nội, Việt Nam





Ngày nay, rằm Trung Thu mang ý nghĩa là ngày hội tụ của cá Chép, là ngày đẹp trong một khung cảnh trăng thanh, gió mát của cha mẹ trong niềm vui với con cái và trẻ nhỏ, đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là Tết trông Trăng hay Tết Trung Thu. Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn lồng hình ông sao, con cóc, con cá chép, gà trống, quả cầu, trống ếch, trống quân, pháo tép, mặt nạ... rồi bánh nướng hình vuông, bánh dẻo hình tròn. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ và người lớn tổ chức múa rồng, múa lân để các em vui chơi thỏa thích:



Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu,

Cán đây rất dài cán cao quá đầu.

Em cầm đèn sao em hát vang vang,

Đèn sao tươi màu của đêm rằm liên hoan.

Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh!

Đây ánh sao vui chiếu xa sáng ngời.

Tùng rinh rinh, rinh rinh tùng rinh rinh!

Ánh sao Bác Hồ tỏa sáng nơi nơi.

(Trích từ bài hát Chiếc đèn ông sao, nhạc sĩ Phạm Tuyên).



Trong các chương trước trước, chúng ta cũng đã biết vua Lạc Long Quân chính là vị Thần Tài, Ngài được tôn thờ trong mỗi gia đình với hình tướng là “Cóc ba chân” mà người Việt thường gọi là “ông Khiết”, trên lưng ông Khiết với hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh:



Chòm sao Đại Hùng tinh
Ông Khiết, ảnh tham khảo Internet





Khi bỏ đồng tiền trong miệng ông Khiết ra, thì xung lực xuất hiện là mạnh nhất tại vị trí này: hình tượng mang ý nghĩa khi con người còn vướng bận với tham, sân, si thì không thể đạt được quả vị giải thoát ngay cả khi đang tu luyện.



Trải qua hàng ngàn năm kể từ khi biểu tượng ra đời đã tồn tại rất nhiều chủng loại biểu tượng với các hình mẫu khác nhau trong dân gian, do vậy việc tìm ra được nguyên bản không phải là chuyện dễ dàng. Tuy nhiên thật là may mắn, với sự dự báo vượt thời gian và một kế hoạch bảo tồn di sản văn hóa thật siêu việt của tổ tiên, một phần của nội dung nguyên bản gốc vẫn còn giữ lại cho tới ngày như ông Khiết có ba chân, miệng ngậm đồng tiền âm dương cổ, dưới chân là các lớp đồng tiền chồng lên nhau, mỗi chân đều có bốn móng cùng với một sợi dây ngù xâu hai chuỗi đồng tiền nằm dọc sống lưng…



Theo truyền thuyết Đạo giáo, “Cóc” là do tinh hoa của áng trăng hóa thành, là thần linh của Thái âm nên cóc là thần vật, chỉ hít thở linh khí để sống và vì mang cốt cách tiên nên “Cóc” biểu hiện cho tinh thần, cho sự bất tử và được nhân cách hóa thành tiên nữ Hằng Nga, trong khi đó mặt trời là nguồn sáng và cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của Đấng tối cao, được nhân cách hóa thành Ông Trời. Như vậy, “Cóc” mang ý nghĩa lưỡng hợp, vừa là biểu tượng của dương và cũng là biểu tượng của âm, cả hai cùng thống nhất trong một tức là hình ảnh Thái cực trong vũ trụ quan Đông Phương. Bài thơ dân gian Con Cóc nhắc tới việc tôn thờ Cóc ở một thời rất xa xưa “Miếu đường có thuở còn vang tiếng lừng”.



Như vậy, qua nghệ thuật tạo hình ông Khiết, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (con ông Khiết chính là nòng nọc - chữ Khoa Đẩu - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà các chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó.



Con Cóc ngồi góc bờ ao,

Lăm le nó muốn đớp sao trên trời. Ca dao



Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, Cóc là cậu ông Trời và là độc quyền giảng dạy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đẩu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc và tạo sao dân gian gọi “Con Cóc là cậu ông Trời”?. Theo Ngọc Phả truyền Thư của từ đường họ Nguyễn, Văn Nội, Thanh Oai, Hà Tây “Cóc” thời cổ đại là biểu tượng của Bát Bộ Kim Cương trong Phật giáo, là tám em trai của cụ bà Đỗ Quý Thị, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Hương Vân Cái Bồ Tát, Phật Bà Quan Âm, chính thất của vua Đế Minh - Phật A Di Đà, là mẫu của vua Kinh Dương Vương và là bà nội vua Lạc Long Quân. Như vậy, dữ liệu lịch sử thật là chính xác, Bát Bộ Kim Cương chính là cậu của vua Kinh Dương Vương - Ông Trời.



Gò Cóc tía

Vùng Ba La, Hà Tây, Hà Nội, Việt Nam





Ngày nay, bia con cóc mộ của Bát Bộ Kim Cương ở gò Thiềm Thừ (con Cóc tía) ở vùng Ba La, Hà Tây, cách mộ cụ bà Đỗ Quý Thị cách mấy trăm mét đường chim bay. Trước đây gò này còn hai bia đá hình trụ vuông, trên đỉnh trụ bia có con “Cóc ôm quả địa cầu”, bốn mặt bia đề:



Phương phần bảo vật,

Vạn cổ nghiễm nhiên.

Chi hạng lưu hương,

Thiên thu thường tại.

Lối cũ dấu thơm,

Nghìn xưa vẫn đó.

Cây to báu vật,

Muôn thuở còn đây.

(Lời dịch của La Sơn Phù Tử Nguyễn Thiếp năm 1789).



Qua nội dung trính dẫn Ngọc Phả truyền Thư, chúng ta thấy hình ảnh của con cóc ôm trái địa cầu mang ý nghĩa là biểu tượng Cóc là “Báu vật vạn cổ” đã được lấy làm biểu tượng cho thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết về sự vận động có quy luật của tự nhiên, xã hội và con người đã có từ thời Bát Bộ Kim Cương. Theo thời gian, từ biểu tượng “Cóc ôm quả địa cầu” chuyển hóa thành biểu tượng “Cóc ba chân” với các cấu trúc điêu khắc cụ thể và gần gũi với chúng ta hơn nhưng biểu trưng cho Thần Tài - Lạc Long Quân, với ý nghĩa tái sinh, phục sinh. Bia con Cóc còn lại chính là chứng tích của một thời xa xưa để lại cho con cháu tìm về cội nguồn lịch sử.



Cùng với việc tôn thờ Cóc, trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu truyện ngộ nghĩnh Cóc kiện Trời, một câu chuyện hy hữu nhất, kỳ lạ nhất trong các dòng truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới, nói về sự chiến thắng của các con vật đối với Thượng đế và sự nhượng bộ của ngài:



Ngày xửa ngày xưa, không nhớ rõ năm nào, đời nào, trời hạn hán rất lâu, ruộng đồng nứt nẻ, cỏ cây chết đứng, trụi cả lá và thú vật không tìm đâu ra nước uống, muôn loài đều kêu than ai oán. Cóc thấy nguy quá, quyết lên Thiên đình kiện Trời. Đi được một quãng, gặp Cua, Cua hỏi đi đâu? Cóc kể rõ sự tình, Cua liền xin theo.



Đến một khu rừng, Cóc lại gặp Gấu và Hổ cũng khát khô cuống họng, đang nằm chờ chết, thấy Cóc và Cua dắt nhau đi, Gấu và Hổ hỏi nguyên do, Cóc đáp: Chúng ta sắp chết khát cả, phen này phải lên Trời hỏi xem sao. Các anh có đi cùng không? Gấu và Hổ đồng thanh nói: Thế thì cho chúng tôi đi với! Anh em chúng ta sống chết có nhau. Một lúc lại gặp Ong và Cáo. Ong và Cáo cũng năn nỉ xin theo. Thế là cả bọn kéo nhau lên Thiên đình.



Đến cửa Thiên đình, thấy một cái trống to đặt ở cạnh, Cóc nói: Anh Cua! Anh vào trong chum nước này! Anh Ong, anh núp sau cánh cửa! Còn anh Gấu và anh Cọp ra phía sau chờ đấy. Sắp đặt xong, Cóc một mình bước tới, lấy dùi đánh ba hồi trống. Ngọc Hoàng rất đỗi ngạc nhiên, sai Thiên Lôi ra xem. Nhìn quanh quất, không thấy ai cả, chỉ thấy một con Cóc xù xì, thân hình bé nhỏ. Thiên Lôi trở vào tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng tức giận, truyền lệnh thả Gà ra mổ con Cóc hỗn xược.



Gà vừa bay đến, Cóc ra hiệu cho Cáo ở đằng sau nhảy tới cắn vào cổ cắp đi. Ngọc Hoàng càng tức giận, sai Chó ra cắn Cáo. Chó vừa xông ra khỏi cửa, Cóc làm hiệu cho Gấu ra chộp lấy tha đi. Tin đến Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng phải sai Thiên Lôi ra trị Gấu. Thiên Lôi cầm lưỡi tầm sét hùng hổ xông ra, chưa kịp trở tay thì bị Ong bay ra đốt. Thiên Lôi vội nhảy vào chum nước tránh cho Ong khỏi đốt, thì bị Cua ở trong chum kẹp, la tru tréo lại nhảy ra.



Thiên Lôi đang luống cuống, chưa biết tính sao, thì đã bị Hổ nhảy ra xé xác. Ngọc Hoàng túng thế, bèn giảng hòa, mời Cóc vào, Cóc tâu: Muôn tâu Thượng Đế, đã ba bốn năm nay, trần gina không hề được một giọt mưa. Vạn vật khô héo cả. Nếu kéo dài mãi, e không còn một sinh vật nào sống sót.



Ngọc Hoàng sợ trần gian nổi loạn, dịu giọng nói: Thôi cậu về đi, Ta sẽ ra lệnh cho mưa xuống. Ngọc Hoàng dặn thêm: Hễ khi nào dưới trần gian nắng hạn lâu ngày, thì cậu cứ nghiến răng báo hiệu nhắc Ta. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay, Cóc không phải lên kiện Trời nữa. Dứt lời, Ngọc Hoàng sai Rồng phun mưa xuống.



Cóc về đến trần gian, thì nước đã ngập cả ruộng đồng. Từ đó, hễ Cóc nghiến răng, một lúc sau y như rằng là trời liền đổ mưa. Nên trong dân gian mới có câu hát:



Con Cóc là cậu ông Trời,

Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho.

Con cóc là cậu thầy Nho,

Ai mà nuôi nó ta cho đồng tiền.



Ý chí của đội quân dương gian đã chiến thắng quân nhà Trời, tác giả đã cấu trúc các nhân vật theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành qua Địa chi và La kinh phong thủy, cuộc đấu trí diễn ra gay cấn đến phút cuối là Thượng Đế đã sai Rồng cho mưa xuống trần gian, giải đi cơn khát đến tận cùng của vạn vật. Vậy thì, “nước mưa” ở đây là gì? Phải chăng là thuốc trường sinh cho nhân loại? Chúng ta cũng thấy “Cóc” cũng có nghĩa là “Không” hay “Cuội” - tức có nghĩa phải hiểu được “Tính Không” như trong kinh sách Phật giáo.



Ai người thánh thiện rõ đàng,
Lý huyền tiến hóa Thánh hiền ngày xưa.
Cầu Kiều mở lối rước đưa,
Đưa người trí dũng quê xưa trở về.
Giúp cho kẻ sĩ tâm mê,
Ngộ Không Lý pháp lời thề năm xưa.




Chúng ta hãy cùng tham khảo thêm các hình tượng thể hiện trên một số cổ vật đồ đồng đã được khai quật thời Tần Hán, Trung Quốc:



Gương đồng

Cổ vật đời Tần Hán, Trung Quốc





Hình khắc trong gương đồng thứ nhất là Tây Vương Mẫu ngồi trên ngai là con giao long, phía trước là một con Cóc cùng con Thỏ ngọc giã thuốc tiên cùng các nhân vật trên Thiên đình. Chiếc gương thứ hai thể hiện hình tượng con Cóc đang nhả ra “cái cây thuốc cải tử hoàn sinh”, bên cạnh là nàng tiên Hằng Nga và con Thỏ ngọc giã thuốc tiên. Như vậy, con Cóc chính là “Người cho thuốc trường sinh bất tử” hay chính là vua Lạc Long Quân, Phong Đô Đại Đế, thần chết Osiris mới có quyền cho phép sống lại sau khi đã trải qua “Ngày phán xét” như đã mô tả ở các chương sách trước. Điều này mang ý nghĩa Ngài có phương thuốc giúp cho các “linh hồn” sẽ đạt được niềm an lạc trong “Cõi vô hình”. Tuy nhiên, tại sao hình ảnh con Cóc lại ở trung tâm của chiếc gương đồng trong khi bốn phương thể hiện Tứ Linh, mà một trong đó là con Rùa - phương Bắc cũng là biểu tượng của Ngài? Vì con Cóc thể hiện sự tái sinh, phục sinh sau một chu kỳ vận động một cung của mặt trời quanh chòm sao Thiên Cực Bắc, kế thúc cung Song Ngư (Hợi) để trở thành “Thánh nhân” có khả năng cải tử hoàn sinh, Cóc ba chân đứng ở vị trí trung tâm trong bộ tranh dân gian ngũ bình Đông Hồ Ngũ Đức Ngũ Phúc, chúng ta hãy xem lại hai câu thơ:



Mồng bốn cá đi hội thề,

Mồng tám cá về, cá vượt Vũ Môn.



Hội thề ở đây chính là “Hội thề Trống Đồng” được biết thời nhà Lý tổ chức vào ngày mồng 4 tháng Bốn âm lịch hằng năm, với lời thề nguyện: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, Thần minh chu diệt”. Qua Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, chúng ta cũng biết rằng trống đồng là một trong các thần khí nước Việt như chuông, vạc, đỉnh, lư… nơi thờ tự và cũng là biểu tượng của Hùng Quốc Vương (Hùng Vương thứ III) hay gọi tắt là biểu tượng của các vua Hùng, hoa văn trống đồng thể hiện toàn bộ vũ trụ quan và nhân sinh quan của nước Văn Lang cổ, trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành phối hợp toàn bộ ý nghĩa của kinh sách của Tam giáo đồng nguyên, và cũng thể hiện lịch sử của Đạo Mẫu nước Văn Lang cổ đại. Như vậy, một cách hợp lý thì ngày mồng 4 tháng Bốn âm lịch chính là ngày tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, có bài thơ tâm linh rằng:



Chín tiếng ba hồi chuông ngân vang,
Từ Đền Hùng... Chấn động không gian.
Tiếng chuông thức tỉnh linh hồn chết,
Cảnh tỉnh linh hồn đang ngủ mơ.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">


Chuông ơi! Có tự bao giờ?
Mà sao im lặng như tờ bấy nay.
Phải chăng Yên Tử Rồng bay?
Non sông kết mạch... đến ngày chuông ngân.


Bài thơ Chuông ngân - tác giả Nhật Nguyệt Quang Tử.



Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn” hay là cá hóa Rồng, chính là ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch, là ngày đản sinh của Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật bà Quan Âm, và cũng là ngày đản sinh Phật Đức Phật Thích Ca. Cá chép Lạc Long Quân đã vượt Vũ Môn để chính thức trở thành một vị Phật - Phật Vương Di Lạc - Thánh nhân mà cả thế giới đang chờ mong trong khắc khoải. Chúng ta hãy cùng chiêm ngưỡng bức giá Thánh cổ sau:



Quốc Tổ Lạc Long Quân

Làng Bình Đà, Hà tây, Việt Nam





Trong bức giá Thánh, vua Lạc Long Quân được một nhân vật đội lên từ mặt biển, người khổng lồ rất có thể là Ngu Cường mà sách Sơn Hải Kinh có nhắc đến, một vị Phong Thần thống trị Bắc Hải. Do nhân thần và xà thần sinh ra, mình người đuôi rắn, đuôi dài lạnh buốt, bên cạnh có vô số tiểu xà yêu. Ngu Cường vẫy đuôi có thể khiến Bắc Hải nổi cuồng phong, nếu là gió Tây Bắc là nhân gian sẽ gặp một trận ôn dịch khủng khiếp, thương vong vô số. May là Ngu Cường ở sâu dưới đáy biển, 500 năm không lên khỏi biển một lần, chỉ thỉnh thoảng buồn bực mới ngoi lên quấy phá. Hình tượng này thể hiện sự “tái sinh” trở lại của Phong Đô Đại Đế hay Thần Chết mà hầu hết các truyền thuyết trên thế giới nói tới, đặc biệt là dân tộc Maya còn ghi chép về sự xuất hiện của Ngài trong một “Sự tấn phong vĩ đại”. Trong bức tranh, lớp ngai trên cùng thể hiện chính thất của 9 người con trai của vua Lạc Long Quân (Cửu Tử) và 10 đời truyền ngôi của Ngài (Thập Cực Chân Nhân), đây là chi tiết khẳng định chính xác về bức giá Thánh này vẽ chân dung vua Lạc Long Quân chứ không phải vua Kinh Dương Vương như một số nhận định, Có bài thơ tâm linh rằng:



Cuồng phong vũ trụ rồng mây,
Thiêng liêng vô tận bớ này sinh sinh.
Mừng mừng Thiên Chúa phục sinh,
Mừng mừng Chúa Thánh cung đình bỏ ngôi.
Mừng mừng Di Lạc cung trời,
Bỏ ngôi Thái Cực làm người thế gian.
Bí cơ Thiên cấm hóa vàng,
Bí mật Thiên cấm hóa vàng hiện ra.
Bí mật người nói Long Hoa,
Bí mật người viết thơ ca đất trời.
Đã hiện thực chốn trần đời,
Khổ thay thiên hạ trần đời mấy ai.
Mấy người hiểu huyền Như lai,
Để cho kẻ ấy được khai mây rồng.




Nhằm khẳng định lại vua Lạc Long Quân chính là Phật Vương Di Lạc, chúng ta cùng xem lại bố cục mặt bằng kiến trúc các ngôi chùa, phía trước điện Đại Hùng là Điện Thiên Vương, trong điện tôn thờ Bồ Tát Di Lạc, xung quanh là Tứ Đại Thiên Vương, hộ trì phía sau Ngài là Vi Đà Hộ Pháp, mà chúng ta cũng đã biết Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng cho Phong, Điều, Vũ, Thuận là bốn anh em của vua Lạc Long Quân, trong đó Ngài là Thần Sấm. Năm anh em vua Lạc Long Quân chính là con của Phật Mẫu Man Nương, Tây Vương Mẫu, và như vậy, một lần nữa khẳng định hoàn toàn chính xác - Ngài chính là Phật Vương Di Lạc.



Cá chép vượt Vũ Môn hóa rồng và đối với Tứ Linh, mùa xuân ứng với Rồng. Rồng là con vật đông miên, lúc mưa xuân sẽ tỉnh dậy và dùng sừng húc tung đất ra để sống lại một cuộc sống vẫy vùng, ngang dọc như xưa.



Cá chép sông Illinois - Mississippi và Rồng

Ảnh John Downer và trích từ cuốn Taoist and the art of China





Một lời chúc thường được nghe nơi các sân chùa Việt Nam "Năm mới chúc quý bà con đạo hữu trọn hưởng mùa xuân Di Lạc”, xuân Di Lạc là xuân hoan hỷ, niềm hoan hỷ tràn đầy vô biên, không vướng mắc, không bận lòng, không lo âu, không phải là xuân vui theo thời gian mùa tiết đến đi, mà là xuân thường nhiên bất diệt, xuân phát triển khả năng thánh thiện. Ngày Mồng 1 tháng Giêng là ngày vía Đức Phật Vương Di Lạc, là ngày phục sinh của vua Lạc Long Quân, ngày đầu của năm mới, ngày của một mùa xuân trường cửu và cũng là “Ngày đại đồng thế giới hay Ngày sinh nhật của vũ trụ” trong nền văn hiến Việt. Sách Xuân Thu Tả Truyện viết: “Nguyên đán là ngày lên ngôi của các vua chúa đời xưa, mỗi đời vua đều bắt đầu bằng ngày đó”. Sáng sớm ngày Nguyên đán, trong triều ca, đình thần chúc vua vạn tuế. Ngoài dân gian, mọi người cũng chúc nhau sang giàu, hạnh phúc, buôn may bán đắt, sinh con đẻ cái, thăng quan tiến chức, công thành danh toại... (Tham khảo bài viết Thiên văn với Tết với Xuân, tác giả Nguyễn Văn Thọ).



Ngày Tết không thể thiếu tiếng pháo, âm thanh khai mở một năm mới tràn đầy mong ước và cũng là biểu tượng “tiếng nổ khai thiên lập địa” giống như Bigbang trong khoa học hiện đại, tiếng pháo là không thể thiếu trong nền văn hóa Việt, thiếu pháo chính là thiếu đi một không khí lạc quan, yêu đời của một dân tộc diệu kỳ. Và chúng ta cũng đã biết, “quân Pháo” trong bàn cờ tướng chính là một phát kiến “đặc dị” của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong khi ngài tư duy sáng tác trò chơi trí tuệ này. Đối chiếu lại những lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thật hoàn toàn chính xác:



Ngưu Giang hợp với Bảo Giang,

Đại Nhân chính vị bốn phương một nhà.



Ngưu Giang ngầm hiểu là Lão Tử - Chử Đồng Tử và Bảo Giang chính là Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc. Đối với triết lý âm dương Việt, mỗi khi con Rồng xuất hiện, nó không chỉ bay có một mình mà luôn luôn có đôi, vì thế dân gian có những câu thơ rằng:



Thế gian được vợ mất chồng,

Chẳng ai như Rồng mà được cả đôi.



Long Hoa là cách nói ẩn dụ của các bậc Thánh nhân, Long là Rồng, Hoa là biểu tượng người nữ, biểu tượng của nàng Tiên, là nói đến người phụ nữ đáng bậc làm thầy cho tất cả các Thánh tăng. Như vậy, Hội Long Hoa là Hội Rồng Tiên, khai mở “Thời Hoàng Kim” cho nhân loại. Theo thơ văn tâm linh từ các tôn giáo mới ở Việt Nam cho rằng Hội Long Hoa là ngày có “Phật Bà xuất thế, Di Lạc Thánh Chúa giáng lâm”:



Phật sinh thiên hạ trong Trời,
Có nam có nữ nối đời quốc vương.



Và:



Chính pháp hoằng khai ngôi Di Lạc,

Quần tu phổ độ sắc Quan Âm.



Mà chúng ta cũng đã biết mẫu Âu Cơ chính là Quan Âm Bồ Tát, vậy Phật Vương Di Lạc và Quan Âm Bồ Tát chính là Long Hoa, Rồng Tiên hay một đôi Rồng. Bộ tranh dân gian Đông Hồ Ngựa hồngBạch tượng được điều khiển bởi những vị tướng quân oai nghiêm tới đón hai vị, thật là một kỷ nguyên hạnh phúc của nhân loại “Song Hỷ Lâm Môn”, Phật Tiên xe duyên:



Ngựa Hồng - Bạch Tượng

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam





Sự tái lâm của các vị Phật, tiên, Thánh, Thần là cơ hội giúp cho chúng ta học được phương pháp lu luyện, tránh bỏ qua cơ hội muôn năm này, như những lời nhắc nhở từ xưa tới nay. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn lưu giữ một bộ tranh nhị bình rất đáng yêu, được trẻ em thích nhất Chuột vinh quyĐám cưới chuột:



Chuột vinh quy

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Đám cưới Chuột

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam









Tranh chuột vinh quy với chú chuột đi sau chú rể khiêng bảng đề “Tiến sĩ”. Con đi trước vác cờ đề “Tân hôn”. Tranh có bài thơ:

Khôn khổn khồn khôn đã có đuôi,

Đỗ cao cưới vợ tiếng rầm trời.

Chú mèo vừa mới vênh đầu ngõ,

Lễ cả sai quân đệ tới nơi.



Tranh Đám cưới chuột với các hàng chữ Nho: “miêu”, “tống lễ”, “tác nhạc”, lão thử thủ thân” (“thủ thân” 守身 ở đây là “giữ thân” chứ không phải “thú thân” hay “thành thân” là cưới vợ hay kết hôn). Còn chữ hàng dưới là “nghênh hôn”, “giai tế” (chú rể).



Tranh Đám cưới chuột có tới 12 con chuột, mỗi con một tư thế, một tâm trạng khác nhau. Chuột tiến sĩ đội cái mũ cánh chuồn mặc áo thụng xanh, cưỡi ngựa hồng, lại có chuột hầu che lọng, mặt vênh vênh tự mãn đã đỗ cao lại cưới được vợ trẻ đẹp, quay đầu nhìn vợ ngồi kiệu đằng sau. Bọn chuột lính tráng, có con làm việc nghiêm chỉnh, có con nghịch ngợm. Con chuột vác biển trịnh trọng vừa đi theo Trạng, vừa ngoái liếc mắt với cô dâu. Hai chuột khiêng kiệu vừa khiêng vừa quay lại với lũ bạn ở đằng sau. Khác với tám con chuột ở hàng dưới vui nhốn nháo, bốn con chuột ở hàng trên đang tiến tới trước mặt mèo, tuy thổi kèn mang lễ vật nhưng vẫn sợ sệt. Con chuột đi đầu sợ rụt cả cổ, quặp cả đuôi co rúm người lại, hai “tay” đưa chim ra dâng lễ. Còn con mèo chồm hỗm một góc tranh, phóng to lên vượt cả con ngựa, các nét điển hình được khuếch đại làm nổi bật tính tương phản giữa các nhân vật.



Một số niên họa Đám cưới chuột khác

Lão thử thành thân, Niên họa Trung Quốc đời Thanh, Thiệu Dương, Hồ Nam

Niên họa Trung Quốc Chương Châu, Phúc Kiến







Niên họa Miên Trúc, Tứ Xuyên

Lão thử giá nữ, niên hoạ Dương Liễu Thanh, Thiên Tân







Trong Tây Du Ký, thầy trò Đường Tăng với nghi trượng xem cảnh đám cưới chuột tưng bừng tiến vào “hang không đáy”, niên họa Thượng Hải.

Tranh “Lão thử giá nữ” (chuột già gả con) của Trung Quốc









Trong tranh Chuột vinh quy gồm 11 con chuột và tranh Đám cưới chuột có 12 con chuột, bộ tranh nhị bình này thể hiện chúng ta chuẩn bị kết thúc cung Song Ngư (Hợi) để đi vào cung Bảo Bình (Tý), và sẽ chịu một quy luật tương tác mới, cho nên trong bức tranh ghi chữ Nho “thủ thân” tức hãy cẩn thận. Đây là lời nhắc nhở khi mà mọi người hân hoan trong niềm vui về sự tái sinh của Phật Vương Di Lạc - Thần Chết và Quan Âm Bồ Tát, cũng như các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần thì toàn bộ các linh hồn khác nhau, bao gồm cả những linh hồn có sức mạnh nhưng với ý đồ xấu, thường gọi là ma, quỷ… cũng sống dậy và lúc này là cơ hội để tu thành chính quả.



Trong văn hóa Đông Phương, mèo biểu tượng cho cung Cấn của Bát Quái, mang ý nghĩa là “núi”, dân gian có câu “Núi là Phật, Phật cũng là núi” và hình tượng mèo chính là thể hiện sự tôn thờ các vị Thánh nhân. Trong tôn giáo cổ Ai Cập, mèo là vị nữ thần Bastel là nữ thần địa phương của Bubastis hay “nhà Bastel”, thành phố trung tâm của một tỉnh Hạ Ai Cập. Nữ thần này thường được xem là con gái của thần Ra. Thông thường, bà là một nữ thần nhân ái, Bastel che chở cho loài người khỏi các bệnh tật và ác thần. Quan trọng hơn hết, bà là một nữ thần của sự sinh sản, tình dục, yêu thương và yêu thích âm nhạc, khiêu vũ. Trong thế kỷ thứ III tr.CN, các lễ hội sinh sản được tổ chức để tưởng niệm bà trong đền thờ của bà tại Bubastis. Loài mèo được sùng kính như là vật thiêng của Bastet và xác ướp của chúng được mai táng trong các đền thờ của bà.

Nữ thần mèo Bastel

Cổ vật Ai Cập





Mà chúng ta cũng biết, cung Cấn hay “núi” là biểu tượng của bà Âu Cơ, Quan Âm Bồ Tát hay Nguyệt Lão Bà - nữ thần nhân duyên, con dâu của vua Kinh Dương Vương - thần Ra của tôn giáo Ai Cập cổ. Như vậy, lịch sử tôn giáo Ai Cập và Văn Lang cổ đại hoàn toàn trùng khớp với nhau qua những biểu tượng.



Trong bài thơ trên tranh Chuột vinh quy có đoạn thơ “Khôn khổn khôn khôn đã có đuôi” rất khó hiểu? Tại sao lại có đuôi? Đây chính là nội dung liên kết đến một bài đồng dao dân gian của trẻ nhỏ Con voi, và dĩ nhiê nó cũng thể tách rời câu chuyện cười dân gian Việt Nam Thầy bói sờ voi:


Nhân buổi ế hàng, năm ông thầy bói nói chuyện với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn không biết hình thù con voi nó như thế nào. Chợt nghe người ta nói có voi đi qua, năm thầy chung nhau tiền biếu người quản tượng, xin cho voi dừng lại để cùng xem. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.

Đoạn, năm thầy ngồi bàn tán với nhau:
Thầy sờ vòi bảo: - Tưởng con voi nó thế nào, hoá ra nó sun sun như con đỉa.
Thầy sờ ngà bảo: - Không phải! Nó dài dài như cái đòn càn.
Thầy sờ tai bảo: - Đâu có! Nó bè bè như cái quạt thóc.
Thầy sờ chân cãi: - Ai bảo? Nó sừng sững như cái cột đình.
Thầy sờ đuôi lại nói: - Các thầy nói sai cả, nó tua tủa như cái chổi xể cùn.

Năm thầy, thầy nào cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu.



Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi thì đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi.




Trong Kinh Niết BànKinh Trường A Hàm của Phật giáo kể về câu chuyện nhà vua nghe những người mù tranh cãi nhau về hình dáng con voi, nhà vua cảm khái nói:

Người mù đều rất đông,
Tranh nhau nói sự thật.
Voi vốn chỉ một thân,
Thị phi lại bất đồng.


(Trích theo Hồng Phi Mạc "Cầm hoa mỉm cười", BK.1999 tr.30, tiếng Trung).



Qua câu truyện Thầy bói sờ voi và bài thơ Con voi, mang ẩn ý tất cả chúng ta có lẽ đang suy nghĩ về nguồn gốc của vũ trụ hay có thể hiểu là khởi nguyên của vũ trụ, nhưng mỗi người hay mỗi tổ chức xác định hay gán ghép trạng thái này đều như những “người mù sờ voi” mà thôi. Phải dùng trí tưởng tượng và sự hợp lý, từ thực tiễn nghiên cứu các quy luật vận động rồi mới xây dựng được học thuyết, và đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành. “Cái vòi đi trước” tức Thái Cực, “hai chân trước” là Âm Dương và “hai chân sau” tạo thành Tứ Tượng, cuối cùng là “cái đuôi” tạo thành 6 quẻ Dịch lý. “con voi” cũng hàm nghĩa tư duy về sự thống nhất của vũ trụ tức cả “con voi” hay con thú to nhất trong các loài thú rừng, “cái đuôi” cũng còn nói về “lân vi trần” tức loại vật chất nhỏ nhất của vũ trụ trong kinh sách Phật giáo, và con voi cũng là con “tịnh” tức thấu hiểu khởi nguyên vũ trụ ở trạng thái “chí tịnh”, đó cũng chính là nội dung mật ngữ trong trong trò chơi trẻ em Việt Nam Lò cò xủn.



Tiên tri trong trò chơi “Lò cò xủn”

Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền văn hiến Lạc Việt, đó là trò chơi Lò cò xủn.



Trò chơi Lò cò xủn

Ảnh tham khảo




Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch. Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc.



Điều kiện chơi: Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò. Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. Đối tượng chơi không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. Hình thức thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng.Vật dụng gọi là “chàm” thường là một viên đá có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi.


Cách chơi: Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước.



Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.



Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại.



Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới.



Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc.



Điều kiện ngừng chơi: Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. Bẹp hai chân vào mức 1, 2, 3, 4, 7, 8, 9, 10. Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng.



Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam là chỗ nơi “ô Trời” có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy.



Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “xê xích Thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 1 đầu tiên.



Lạ lùng thay thuyết Âm dương Ngũ hành được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ, ô hình cung bán nguyệt được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một chìa khóa để khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi.



Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”, Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Như vậy cặp phạm trù Trời - Đất được mã hóa bằng trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”.



Phối hợp Thiên Can

Trò chơi dân gian Lò cò xủn, Việt Nam




Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với Thiên Can. Chiều tương sinh Ngũ hành hiển thị chiều tương tác của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô đọng trên nguyên lý căn để là Hà Đồ.



Quy định của trò chơi, mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông 10 ô số, và chiều di chuyển thuận kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của Âm dương Ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”.



Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, luồn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho đến khi được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.



Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm.



Chi tiết người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm, quay lưng luồn tay qua hai chân, do vậy phải cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng về sự khởi nguyên của vũ trụ hay chính là đi tìm “Thượng đế”, và muốn nhận thức được thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trừu tượng để nhận thức căn để thực tại ấy, dựa trên các quy luật vận động tự nhiên đã được nhận biết, đó gọi là tính tuyệt đối hay còn gọi “tính Thấy” (tham khảo Kinh Lăng Nghiêm).

Trong bộ Thánh kinh Veda cổ nhất của dân tộc Ấn Độ ước chừng thế kỷ XV tr.CN, một trong những bài thơ hay nhất là bài Thánh ca về sự sáng tạo vũ trụ, thật lạ lùng, chúng ta còn thấy một giọng hoài nghi rất tôn kính:

Buổi đó, hoàn toàn chẳng có gì cả, mặt trời rực rỡ kia không có,
mà vòm trời là cái khăn phủ mênh mang kia, cũng không có.
Vậy thì cái gì trùm lên, che phủ, chứa chất vạn vật?
phải chăng là vực nước sâu thẳm?.
Thời đó không có chết - vậy không có gì là bất tử,
không phân biệt ngày và đêm,
Cái Nhất, cái Ðộc Nhất, không có hơi mà tự thở lấy được,
ngoài cái đó ra không có cái gì khác nữa.
Tối tăm, và hồi đầu cái gì cũng chìm trong cảnh tối tăm mù mịt - như biển cả không ánh sáng - Cái mầm khuất trong cái vỏ,
bỗng nảy ra, duy nhất, dưới sức nóng nung nấu.
Thế là lần đầu tiên, lòng thương yêu xuất hiện, nó là dòng suối mới.
của tinh thần, các thi sĩ suy tư và thấy được trong lòng mình,
Mối liên lạc giữa cái không được tạo ra với những vật được tạo ra.
Tia sáng đó chiếu ra, xâm chiếm hết, nó phát xuất từ trời hay từ đất?
Giống đã gieo và người ta thấy các năng lực cao cả xuất hiện.
Ở dưới thấp là thiên nhiên, ở trên cao là quyền năng và ý lực,
ai là người vén được màn bí mật? Ai là người cho ta biết:
Sự sáng tạo muôn vật đó từ đâu mà có?
chính các thần linh cũng chỉ xuất hiện sau này,
Vậy thì ai là người biết được sự sáng tạo mầu nhiệm đó từ đâu mà có?
Ðấng nào đã gây ra sự sáng tạo đẹp đẽ đó?
là do vô tình hay hữu ý?
Ðấng tối cao trên tầng trời cao nhất kia,
biết được - nhưng biết đâu chừng, có thể chính ngài cũng không biết nốt.


Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, tượng trưng Âm Dương hòa hợp là một ẩn ngữ cho biết rằng: muốn nhận thức bản nguyên vũ trụ, phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải hiểu được trạng thái cân bằng Âm Dương thì mới “Thấy” được trạng thái tuyệt đối ban đầu.



Mò chàm

Hình ảnh minh họa trò chơi




Trò chơi Lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt, người chơi được phép lò cò vào ô Trời, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão tử bàn về nguồn gốc của vũ trụ, ông cho rằng vũ trụ có khởi thủy và cơ hồ không có chung, và quy tắc chỉ được dịch chuyển chàm một lần trong ô Trời thể hiện ý nghĩa vũ trụ sau khi vận động sẽ không còn trở lại trạng thái “chí tịnh” ban đầu đầu được nữa. Lão Tử - Đạo Đức Kinh, dịch giả Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006.


Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích Thủ”. Yếu tố bí ẩn được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này.

Thiên Đàn

Bắc Kinh, Trung Quốc






Ngôi đền linh thiêng này được viếng thăm bởi các hoàng đế của triều đại nhà Minh và nhà Thanh cho việc thực hiện các nghi lễ hàng năm để gửi lời thỉnh cầu lên Ngọc Hoàng ban cho một vụ mùa bội thu.

Đây là một tổ hợp kiến trúc được xây dựng theo phong cách đạo Lão nằm ở phía Đông Nam thủ đô Bắc Kinh.



Hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh khi phụ nữ lâm bồn được cách điệu một cách tinh tế. Từ sự quán xét trên, chúng ta có thể hiểu rằng đây là một hình tượng cô đọng diễn tả sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính Mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ.



Mặt khác, cấu trúc “chàm” hình tam giác cũng còn mang một ẩn ý rất quan trọng đó là từ nhận thức về hiện thực khác quan của ba vấn đề: ý thức, hình tướng và các động lực của sự vận động thì chúng đã tồn tại và phát triển như thế nào trong giai đoạn trước và ngay thời điểm khởi nguyên của vũ trụ?.



Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, nếu so sánh với tư tưởng của Lão Tử qua cuốn Đạo Đức Kinh có thể đi đến một nhận xét về sự tương đồng, Lão Tử bàn đến khởi nguyên của vũ trụ: “Không là cái bản thủy của trời đất - là mẹ sinh ra vạn vật”, so sánh với quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông” và hình tượng bánh Chưng bánh Dầy thì hai quan điểm này gần như hoàn toàn trùng khớp. Thái Cực - Dương tương ứng với cái “Không” của Lão tử. Âm - lý của Ngũ hành nằm trong bánh Chưng là nguồn gốc của vạn vật, tương ứng với cái “Có” là mẹ sinh ra vạn vật.



Núi Võ Đang - Thánh địa Đạo giáo

Tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc





Phạm vi giải mã của trò chơi chứa đựng những ẩn ngữ của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được gọi tên “Tính Thấy” diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.”



Sự giải mã nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử đã làm lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị ẩn hiện sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như tục ngữ ca dao, hò vè, dân ca, hình tượng, trò chơi dân gian… sẽ định hướng cho việc hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn về thuyết Âm dương Ngũ hành, mà tiền nhân gọi là lý thuyết về cái “Một”, cái “Duy nhất” hay nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh xác quyết đấy là “Lý thuyết thống nhất vũ trụ” mà các nhà khoa học hiện đại đang mơ ước: “Tạo ra một lý thuyết thống nhất các định luật vũ trụ! Một siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn có thể giải thích được mọi sự kiện bao quanh con người, từ những hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ”. (Trích từ cuốn Định mệnh có thật hay không, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 56).

Nhưng thật thú vị, những quy luật vận động của tự nhiên thuộc một lý thuyết về thực tại vũ trụ được diễn tả cô đọng và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một trí tuệ siêu việt của chủ nhân học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt, mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. (Tham khảo và trích dẫn một phần nội dung bài viết Giải mã trò chơi Lò cò xủn, tác giả Bùi Anh Tuấn, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương).



Như vậy, nền tảng lý thuyết của các tôn giáo cổ đại từ Đông sang Tây, cũng như các lễ hội đều phát tích từ văn minh Văn Lang, mà học thuyết Âm Dương Ngũ Hành làm chủ đạo, học thuyết thống nhất vũ trụ. Đồng thời, lịch sử của các vị Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần đã được làm rõ và vị Thánh nhân mà cả thế giới đang mong chờ chính là Phật Vương Di Lạc, hay là hóa thân thứ 10 của thần Vishnu là thần Kalki, cũng là thần chết Osiris trong tôn giáo Ai Cập cổ đại… phục sinh trở lại, đúng như các nhà tiên tri kim cổ đã dự ngôn:



Một vườn hoa đẹp diệu kỳ, mùa xuân đã có chủ,

Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu.

(Dự ngôn Mai Hoa Thi, tác giả Thiệu Khang Tiết).



Tiên tri về nguồn gốc học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các nền tảng học thuật khác của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn giáo… cũng thể hiện trong tích truyện Nôm Trê Cóc, vốn là một trong những truyện Nôm khuyết danh hay nhất còn sót lại đến nay trong nền văn học dân gian.



Trê Cóc và Thầy đồ Cóc (Lão Oa độc giảng)
Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam




Vợ chồng Cóc vốn ở gần bờ ao. Đến khi đẻ, vợ Cóc xuống ao sinh ra một đàn nòng nọc. Trê ở dưới ao thấy nòng nọc giống mình, bèn bắt cả đàn về nuôi. Khi Cóc trở lại, thấy Trê chiếm đoạt con mình, mới đem việc đến kiện ở cửa quan. Quan truyền giam Trê lại. Vợ Trê ở nhà đến nhờ Triều Đẩu gỡ tội cho chồng. Triều Đẩu giới thiệu vợ Trê đến tìm Lý Ngạnh, một thủ hạ am tường việc quan. Lý Ngạnh lo lót lễ vật vào cáo quan để khiếu nại cho Trê. Quan cho sai nha đến tận nơi tra án. Trê nói rằng Nòng Nọc sống dưới nước và giống Trê hơn giống Cóc. Cóc không còn sống dưới nước, mà lại chẳng giống Nòng Nọc. Quan xử Trê thắng kiện. Cóc đau khổ vì mất con, chỉ còn nghiến răng uất hận kêu trời.



Biết chăng có một ông Trời,

Nghiến răng có thấu xin soi đến cùng.

Ai làm oan thác sự lòng,

Thì xin tiếng Sấm Cửu Trùng nổi lên.



Quan liền ra lệnh thả Trê và bắt giam Cóc lại. Đến lược vợ Cóc phải chạy lo cho chồng. Ếch giới thiệu cho vợ Cóc một thầy kiện trứ danh là Nhái Bén. Nhái Bén khuyên vợ Cóc cứ đợi đàn nòng nọc đứt đuôi tự nhiên sẽ về với mình, không cần phải kiện cáo gì cả. Quả nhiên ít lâu sau, khi ra bờ ao thì đàn cóc con theo mẹ về. Vợ Cóc cùng đàn con đến kêu oan. Trước chứng cứ rõ ràng, Trê phải thú tội và bị kết án "lưu tam thiên lý" (đày xa ba ngàn dặm). Hai vợ chồng Cóc được kiện trở về, một nhà vui sướng xum vầy.



Nhà ta cũng có cơ đồ đỉnh đang,

Ra vào gác tía nhà vàng,

Cõi bờ mặc sức nghênh ngang chơi bời,

Nghiến răng chuyển bốn phương trời,

Ai ai là chẳng rụng rời sợ kinh.



Có thể nói Câu chuyện là một biểu tượng tuyệt vời, ẩn chứa mật ngữ, có tính tiên tri, cho biết nền văn minh Khoa đẩu (nòng nọc) đã bị khuất lấp dưới một hình thức khác (con của Trê). Cóc không ở dưới nước (tức là đã mất nước), nên không thể chứng minh được nòng nọc là con của mình. Nhưng bản chất của sự vô lý (nòng nọc không phải con của Trê), cuối cùng cũng sẽ được sáng tỏ trong qui luật tiến hóa, phát triển của tự nhiên:



Đừng thầy kiện chớ hội đồng,

Đứt đuôi nòng nọc thì công viên thành.



Đây là hình tượng độc đáo của câu chuyện có tính tiên tri, cho biết: sự tiến hóa, phát triển toàn diện về mọi mặt trong các mối quan hệ xã hội mà nền tảng là sự tiến bộ của khoa học hiện đại - trong đó mũi nhọn của khoa học hiện đại chính là khoa học lý thuyết - mới là điều kiện cần và đủ để minh chứng cho sự kỳ vĩ của nền văn minh Khoa đẩu của nhà nước Văn Lang (trích Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tác giả nguyễn Vũ Tuấn Anh).



Được kiện Cóc trở ra về,

Họ hàng náo nức nói cười mừng vui,

Chè sen, rựu cúc thảnh thơi,

Cóc ngồi chịu chuyện, Bén ngồi ngâm thơ.



Dòng tranh mộc bản dân gian, nhiều tranh có ghi những dòng thơ bằng chữ Hán Nôm để vịnh tranh, bức tranh Thầy đồ cóc (Lão Oa độc giảng) thì không thấy thơ, nhưng theo các nghệ nhân làng tranh dân gian Đông Hồ, trên tranh ván in xưa có bài thơ rằng:



Tìm thầy hỏi bạn Nhái chi mà,

Thấy học xem bằng Ếch thấy hoa,

Mở mắt Chão chàng soi vũ trụ,

Đem gan Cóc tía đối sơn hà.



Không những nội dung bài thơ chỉ ra tên các loài nhái, ếch, chão chàng, cóc, một loạt nhân vật trong bức tranh mà ẩn nghĩa sâu xa về việc - khi “đôi mắt” nhìn nhận được “Cóc - Tính Không” và “Tính Thấy” khởi nguyên vũ trụ thì lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành - thể hiện quy luật vận động của thế giới tự nhiên, xã hội và con người sẽ được khôi phục, như bà Vangan đã tiên tri “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở về với nhân loại”. Chính vì thế mà Cóc có một vị trí đặc biệt, được hết sức tôn trọng trong nền văn hóa nhân bản Việt:



Con Cóc là cậu ông Trời.
Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho.

Con Cóc là cậu thầy Nho,

Ai mà nuôi nó Trời cho đồng tiền.



Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Cậu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào, không những thế, Cóc còn là thầy dạy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiên tri thời gian Ngài tái xuất, mọi việc tự nhiên thành:



Bắc hữu kim thành tráng,

Nam tạc ngọc bích thành.

Phân phân Tùng Bách khởi,

Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.

Bảo giang Thiên Tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành. <br style="mso-special-character:line-break" clear="all">

Thiên Tử là con Trời, Lạc Long Quân con của Ngọc Hoàng Thượng Đế - Kinh Dương Vương, Ngài sẽ làm thay đổi cục diện đi tìm chân lý trên toàn thế giới, nhà tiên tri nổi tiếng thế giới Nostradamus cũng đã nhận định rằng:



Ngài sẽ lấy ngày của nữ thần Diana (Mặt Trăng),
Làm ngày cho sự nghỉ ngơi bình yên của Ngài.
Ngài sẽ đi xa và rộng với sự thôi thúc để làm nổi giận,
Giải cứu một dân tộc vĩ đại khỏi sự khuất phục.



Như vậy, vua Lạc Long Quân với ngôi Phật Vương Di Lạc đã được hoàn toàn xác quyết từ những dự ngôn tiên tri, cho đến tất cả các dữ liệu lịch sử được ghi nhận ở các quốc gia trên khắp các châu lục. Tuy nhiên, sự kiện tiếp theo là Long Hoa Hội sẽ được minh xác như thế nào và ai sẽ là chủ trì?



Lá Phướn phất ngang trời, bốn bể đều trông Nêu Phật,

Tiếng Chuông kêu dậy đất, mười phương cùng tưởng Pháo sư.



Trong Thánh kinh Rig Veda của Bà La Môn giáo thời cổ đại, với nhiều huyền thoại diễn tả Rồng Vrtra, vào thuở ban sơ, nó sống dưới biển sâu, giam giữ vô số loài thủy tộc trong bụng của nó. Mọi loài bị mắc trong bẫy “Không” cho đến khi có một anh hùng Indra trong tín ngưỡng Veda đến diệt trừ nó, mổ bụng nó và thả hết mọi loài chúng sinh và thủy tộc, làm cho sự sống trôi chảy (Du già hành tông, Yogacara, Thích Nhuận Châu soạn dịch, Nxb Tôn giáo, 2005, trang, 142). Ta thấy thần sấm Indra cũng là thần Brahma trong Bà La Môn giáo, thần Osiris trong tôn giáo cổ Ai Cập hay vua Lạc Long Quân tức Phật Vương Di Lạc.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Long Hoa Hội và truyền thuyết Hội bàn đào

Theo truyền thuyết dân gian, trong vườn của Tây Vương Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu) ở cung Diêu Trì, núi Côn Lôn, trồng nhiều đào tiên, 3.000 năm nữa mới kết quả, nếu ai ăn được một quả thì trường sinh bất tử. Khi mùa đào chín rộ, Vương Mẫu sẽ mời quần Tiên đến cung của bà để dự Hội bàn đào hay còn gọi là Hội Yến Diêu Trì, vì đào làm tăng tuổi thọ như vậy nên người ta gọi quả đào là “Thọ đào”. Đạo giáo, lấy ngày 3 tháng Ba âm lịch hàng năm là ngày sinh nhật của Tây Vương Mẫu, và cũng cho rằng đó là ngày bà mở Hội Bàn Đào, cũng theo Đạo giáo bất cứ ai muốn đăng thiên đắc đạo, khi lên trời đều phải vào bái kiến Mộc Công (Đông Vương Công) tức Ngọc Hoàng Thương Đế và Tây Vương Mẫu rồi mới có thể thăng lên Cửu Thiên, vào Tam Thanh, tham lễ Thái Thượng Lão Quân mà gặp Nguyên Thủy Thiên Tôn.

Hội quần Tiên do Tây Vương Mẫu tổ chức

Trong truyện Tây Du Ký đã mô tả Hội bàn đào rất là hoành tráng, lệ thường thì mời Phật Tổ bên Tây Phương, Quan Âm bên Nam Hải, Sùng Ân bên Đông hoa, Huỳnh Linh bên Bắc địa, Huỳnh Giác ở Trung ương và Tam Thanh, Tứ Đế, Thái Ất, Bát Tiên, Địa Tạng Bồ Tát, Thập Điện Diêm Vương, Tứ Hải Long Vương, và các vị thần tiên tinh tú, đồng hội tề rước Ngọc Hoàng Thượng Đế qua phó Bàn Đào... đã bị con khỉ Tôn Ngộ Không phá đám, và một trận quyết chiến kinh thiên động địa giữa quân binh nhà trời đã xảy ra.

Quyển Thất Chân Nhân Qủa của đạo Cao Đài cũng ghi rằng Hội Yến Bàn Đào có tên gọi Quần Tiên Đại Hội, được tổ chức vào Tết Trung Thu vào lúc giờ Tý đêm 14 rạng rằm tháng Tám hàng năm với sự chủ trì của Diêu Trì Kim Mẫu. Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có bức tranh Thất Đồng hái đào, thể hiện bảy đứa trẻ nhưng có khuôn mặt rất già đang cùng nhau hái đào tiên:

Thất Đồng hái đào

Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam

Chúng ta biết rằng số 7 là độ số phương Nam, tương ứng với 7 đứa trẻ đang hái đào tiên tuy nhiên, số 7 cũng chính là 7 luân xa trên cột sống được mô tả trong các bí pháp tu luyện và nó là phương pháp thực hành “đời đạo song tu” không thể thiếu của Đạo giáo, Phật giáo, Bà La Môn giáo. Gốc cây đào mang hình ảnh con nai - biểu tượng của Ngọc Hoàng Thượng Đế - Trương Quả (Lão), là một trong Bát Tiên hoàn toàn phù hợp nội dung câu truyện Hội Bàn Đào, chính thất của Ngài là Diêu Trì Kim Mẫu làm chủ trì. Bức tranh khẳng định nước Nam - Văn Lang mới là cội nguồn “đào tiên”.

Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ trang 142, tập I Quả Đào là một ngôi mộ song táng Đào Kỳ và Phương Dung bên cạnh khu đất hình dáng tiên dâng đào thuộc đất Nhân Mỹ (người đẹp). Gò quả đào ất gọi là trái đào tiên, còn cái bãi táng những người đẹp cung đình đời xưa gọi là Tiên Đào.

Vùng đất hình quả đào này to bằng hai sào ruộng, người ta thường nói, ai ăn đào ấy sẽ trường sinh bất diệt. Các địa danh trong đó đều vẽ lên bức tranh này. Thực tế vùng đất này xưa gọi là Nhật Lệ, Nhật Lãm, cả một vùng trồng cây đào bích sau chuyển ra Nhật Tân, do đất này là đất địa tiên và trồng hoa đào sớm nhất trong lịch sử cho nên gọi là Đào Nguyên. Địa danh này đã bị mất theo thời gian, do bảo toàn bí mật quốc gia.

Cũng theo truyền thuyết ghi trong sách U minh lục vào thời Hán Minh Đế năm Vĩnh Bình thứ 5, Lưu ThầnNguyễn Triệu cùng vào núi hái thuốc gặp một con suối lớn, hai bên bờ suối có hai người con gái tư chất tươi đẹp - hai nàng tiên - đã lưu hai người lại trong nửa năm. Cả hai đều nhớ quê hương bèn từ biệt các tiên nữ ra về, đến nơi, nhà cửa không còn thấy đâu mà anh em, bà con cũng không còn. Hỏi thì không ai nhận ra được nữa vì họ đã có con cháu đến 7 đời:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng,

Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên...

(trích bài hát Thiên thai, sáng tác nhạc sĩ Văn cao).

Sự hiện diện để ban đào tiên của Đức Diêu Trì Kim Mẫu và ban ngự tửu của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Hội Bàn Đào không chỉ nói lên lý Đạo nhiệm mầu trên căn bản nguyên lý Âm Dương, mà còn thể hiện rõ nét truyền thống văn hóa dân tộc hơn 5.000 năm lịch sử với tín ngưỡng tôn thờ Mẫu - thể hiện rõ rệt nhất trên các trống đồng Đông Sơn (VII-II tr.CN). Ngày Tết Trung Thu là một trong những ngày tết tiêu biểu cho nét văn hóa truyền thống độc đáo của gia đình Việt với vai trò không thể thiếu của người mẹ, có mẹ là có gia đình, có tất cả, đó là đạo lý của dân tộc. Cùng với bức tranh Thất Đồng hái đào, búc tranh Vạn đại tử tôn đã tạo thành bộ tranh nhị bình tuyệt đẹp:

Vạn đại tử tôn

Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam

Trong giá trị lớn lao của văn hóa gia đình Việt, Tết Trung Thu còn phát huy lên đến tầm vóc nhân loại vì Đức Mẹ là mẹ của tất cả vạn linh với tấm lòng Từ Mẫu với tình thương vô cùng, trưởng dưỡng muôn loài không phút giây nào ngừng nghỉ được thể hiện trên nội dung của bức tranh Vạn đại tử tôn, qua hình ảnh bốn bé gái với giàn bầu mang những ý nghĩa cao cả như vậy:

Lòng Từ Mẫu vô cùng vô tận,

Đức Từ Tôn khó nhận khôn lường.

Không lĩnh vực không biên cương,

Bao trùm vũ trụ tình thương vạn loài.

Và Hội Yến Bàn Đào - theo Đạo Cao Đài là mở rộng cho tất cả con cái của ngài trên thế gian này, không phân biệt, chủng tộc, màu da, sắc tộc, cùng hướng đến sứ mạng chung hòa, xây dựng một thế giới đại đồng trong tình huynh đệ. Đức Mẫu Âu Cơ - Quan Âm Bồ Tát có thơ rằng:

Nam phương mở trường thi Đại Đạo,

Thánh ân đề hảo hảo Nam Bang.

Việt dân tỉnh giấc mộng trường,

Nữ hùng sánh bước trên đường quang vinh.

...

Mẫu từ trước ban ân độ thế,

Mở khoa trường cốt để đỡ nâng.

Thánh Lâm trổ mặt hồng quần,

Đường trần cứu kiếp Thiên ân gội nhuần.

Mỗi năm, đến ngày rằm tháng Tám, cùng chung vui với Tết Trung Thu ở mọi nơi thì toàn thể tín đồ Cao Đài tụ họp về dưới mái nhà chung Đại Đạo, nhất là nữ phái, thành phần được giao phó trọng trách tổ chức lễ vía Đức Mẹ thật trang trọng và thành kính, Ai cũng muốn dâng lên Đức Mẹ và Cửu vị Tiên Nương những đóa hoa đẹp nhất những quả tươi ngon nhất. Nhưng Đức Mẹ đã dạy: "Mẹ nhận món lễ phẩm trang trọng nhất mà các con đang hiến dâng, đó là tâm đạo chí thành chí kính phụng Thiên sự dân của các con...." Và ai cũng mong ước nhận được từ Đức Mẹ giòng thiên điển nhiệm màu có khả năng hóa giải mọi khổ đau của kiếp người nơi miền trần thế, mà trong niềm tin thiêng liêng tuyệt đối của mỗi người, ân điển ấy đã được ban rải trong từng trái cây, chiếc bánh, cả rượu, trà, nước cúng trong đêm Hội Yến...

Hoa chúc mừng và Hình nhân mô phỏng lễ rước Đức Phật Mẫu

Nguồn gốc và ý nghĩa đại hội Lễ Yến Diêu Trì Cung, Đạo Cao Đài, Tây Ninh

Trong nền văn hóa Việt, có ngày lễ vía Đức Chí Tôn - Ngọc Hoàng Thượng Đế vào ngày mùng 9 tháng Giêng, cũng là ngày lễ vía ông Trời vào mùa xuân, kết hợp với ngày rằm tháng Tám là ngày vía Đức Mẹ tạo nên những ngày lễ truyền thống không phải là ngẫu nhiên, theo Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, ngày 15 tháng Tám âm lịch chính là ngày sinh nhật của vua Đế Minh - Phật A Di Đà. Chúng ta hãy xem lại Bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc về “Hội Yến Diêu Trì”.

Cửu Long Đài, chiều ngày 15 tháng Tám Nhâm Thìn (3/10/1952).

Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Bần đạo nhớ lại lúc ban sơ, Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến. Ngài ra lệnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số 13 người chúng ta, kể: Cửu vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với ba người sống, tức nhiên 3 người hữu hình và 10 người vô hình, dự tiệc ấy. Ba người hữu hình là Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh và Bần đạo. Tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt. Buổi nọ, Bần đạo chưa có đức tin, thấy một cái đó là việc nghịch nhất, nhưng khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như chúng ta dự một tiệc trọng hậu, có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy.

Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu gì hết, Bần đạo cũng tìm tòi kiếm nghĩa lý. Có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát, tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân thiêng liêng ban cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Trì.

Cái nghĩa lý sâu xa ấy, chúng ta thử để dấu hỏi, tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta Hội Yến Diêu Trì. Ngài muốn gì đó? Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chứ không phải với ba người đó mà thôi. Đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy.

Vì cớ cho nên, hôm rồi Bần đạo có nói một câu rất chính đáng: "Xưa kia, con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại, Đạo đến tìm người." Ôi! Nếu ta tưởng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đã thi thố, thì chúng ta hạnh phúc không thế gì có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng.

Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh giáo GiaTô, tất nhiên là Công giáo, họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.

Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay, tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta, lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn cũng thế, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc, đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.

Mỗi một năm, chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy em Nam Nữ đông đảo chừng nào thì Bần đạo càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy.

Bần đạo có nhớ một tích xưa: Một bà mẹ có nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ. Hễ khi anh cả nuôi rồi thì cân được bao nhiêu, tới phiên em thứ nuôi, rồi cân phải hơn hay là như số đó mới đặng. Nhưng trong đám con ấy, rủi thay có một đứa nghèo mà đứa nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái binh vực hơn, phần nghèo khó có phương chi nuôi mẹ cho đầy đủ được, nên hễ tới phiên người con nghèo ấy thì bà mẹ ốm o gầy mòn, vì ăn không đủ thì thế nào cũng ốm. Bây giờ đến ngày cân, thì bà mẹ phải làm sao? Bà lận lưng thêm mấy cục chì cho nặng thêm, không thì tội nghiệp cho đứa con nghèo ấy. Cho nên lời tục họ gọi là: "Bà mẹ thương con phải bù chì." là lẽ ấy.

Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta cũng vậy. Bần đạo tưởng nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống kia, không ai bảo vệ binh vực cả linh hồn chúng ta hơn Bà MẸ thiêng liêng ấy. Mỗi phen chúng ta hội hiệp cùng Người mỗi năm một lần, thử thí nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về thì sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao đâu! Không biết mấy em Nam Nữ có cái cảnh tượng đó hay chăng? Chớ Bần đạo mỗi phen được Hội Yến Diêu Trì, làm như Bần đạo uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần đạo vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm sao đâu! Có phải là cái huyền diệu ấy duy để cho cả con cái, Chức sắc Thiên phong, những người lãnh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều hưởng được?

Bần đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu của chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng của Bà đâu, trái ngược lại, Bà lại thương yêu bênh vực những đứa con nào nó thật thà hèn yếu hơn hết.

Ấy vậy, Qua nói rằng: Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà MẸ thiêng liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy.

Qua chỉ cho mấy em một cái Bí pháp là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em quì xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà MẸ thiêng liêng ấy một lời cầu nguyện. Bần đạo quả quyết rằng: Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Bần đạo đã thử nghiệm rồi. Cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Bần đạo thử coi.

Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại, cái chết dựa bên lưng. Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy.

Cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đã quả quyết rằng, từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được.

Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy. Nếu muốn cho Bà thương yêu, mình có cái Bí pháp hay ho hơn hết là mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt. Mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà.

Bần đạo cầu chúc ân huệ thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút.

Tóm lại, Bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung là Đức Chí Tôn đem cơ quan giải thoát xuống thế đặt trong cửa Đạo Cao Đài để toàn thể các tín đồ được hưởng.

Theo cổ luật thì, người tu một khi đắc đạo, chân hồn được lên Diêu Trì Cung dự Hội Yến Bàn Đào, được Đức Phật Mẫu ban cho ăn trái đào Tiên và uống Tiên tửu.

Ngày nay, thời TKPĐ, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng trần, mở tiệc Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền thờ Phật Mẫu để toàn cả con cái của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu về hội hiệp cùng Đức Mẹ thiêng liêng, dâng hoa quả, rượu, trà lên Đức Mẹ, và Đức Mẹ sẽ ban tặng trở lại cho con cái của Ngài để con cái gội hưởng hồng ân của Phật Mẫu, làm cho tâm Đạo phấn chấn thêm lên, làm động cơ thúc đẩy con cái mau tiến hóa trên bước đường tu niệm, sớm trở về hội hiệp cùng Phật Mẫu. Mà một khi được hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu thì tức nhiên là đắc đạo, giải thoát khỏi luân hồi. Hội Yến Diêu Trì Cung tượng trưng Bí pháp đắc đạo là vậy.

Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh nhị bình nhẹ nhàng, thoát tục Trời xanh trong tiếng sáoNhất tượng Phúc Lộc Điền cũng mang những ý nghĩa bổ sung thêm cho nội dung bức tranh Thất Đồng hái đào, được trình bày hết sức mỹ thuật:

Trời xanh trong tiếng sáo và Nhất tượng Phúc Lộc Điền

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Bức tranh miêu tả hình ảnh một chú bé ngồi đè lên những bông sen trên lưng trâu, đang say sưa thả hồn theo tiếng sáo. Con trâu (không hề có sự ràng buộc của dây vàm) ngóc đầu lên như muốn đồng cảm với con người. Trên đầu chú bé là một chiếc lá sen được cường điệu lớn hơn bình thường (so với tương quan tỷ lệ thực) nhưng vẫn rất hài hòa cân đối. Trong bức tranh này, chúng ta cũng có thể tìm thấy những ý tưởng trí tuệ và nhân bản. Sự an bình của cuộc sống toát ra từ hình tượng của bức tranh, chính là tính nhân bản của bức tranh này. Bạn đọc có thể tìm thấy trong bức tranh này một nội dung mang tính minh triết của Phật giáo: tính phá chấp (ngồi đè lên bông sen), sự chế ngự bản ngã (cưỡi trâu) và sự hoà nhập chân tính của con người với thiên nhiên. Hình tượng chiếc lá sen che trên đầu chú bé giống hình tượng của cây nêu: biểu tượng của Thái cực. Đó là sự vươn lên dẫn tới hòa nhập hoàn toàn với thiên nhiên; tức là đạt tới bản thể của Tạo hóa. Lời chú thích lưu truyền trong dân gian của bức tranh minh hoạ cho ý tưởng này: Thiên thanh lộng suy địch tức là Trời xanh trong tiếng sáo. Khi tâm hồn con người thanh thản, vô tư như trẻ nhỏ buông trong tiếng sáo thì bao trùm cả trời xanh, hòa nhập trong vũ trụ. Hình tượng thoát tục của bức tranh này gần gũi với nhân sinh quan Đạo giáo. Nhưng tính minh triết Phật học cũng chính là tính minh triết trong xã hội Lạc Việt cổ.

Chiếc nón vốn đội trên đầu chú bé mục đồng lại bay bổng lên cao như sự vươn lên của trí tuệ. Hàng chữ trên tranh Nhất tượng phúc lộc điền, không thể hiểu theo nghĩa là “Một con trâu làm nên sự phú túc nơi đồng ruộng”. Bởi vì chữ “tượng” khó có thể dịch là con trâu. Hiểu theo một cách khác thì bức tranh này là “Một hình tượng cho niềm hạnh phúc ở trần gian”. Chính hình tượng chiếc nón bay bổng trên không gian là sự thể hiện nội dung mà bức tranh này muốn nói tới: Một trong những hạnh phúc của trần gian chính là sự chế ngự được bản ngã và vươn tới đỉnh cao của trí tuệ.

(Trích từ Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).

Bức tranh Nhất tượng Phúc Lộc Điền mang mật ngữ về hình ảnh cái nón che đầu, chính là luân xa số 7, khi đả thông được luân xa này thì việc chế ngự bản ngã dễ dàng, nhanh chóng đi vào trạng thái hợp nhất được vũ trụ khi thiền định, đồng thời theo vũ trụ quan Phật giáo thì cuộc sống của cá nhân sẽ thay đổi từ cõi dục giới sang cõi sắc giới, cho nên chỉ có sự vươn lên về mặt trí tuệ và từ bi mới có thể giải thoát những vướng mắc được hình thành từ những cội nguồn khổ đau khi còn trong cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Bức tranh Trời xanh trong tiếng sáo chính mật ngữ nói về việc điều khí trong các bí pháp qua hình ảnh đứa bé đang thổi sáo - sáo là một dụng cụ âm nhạc đặc trưng Đạo giáo. Cả hai bức tranh mang nội dung về việc điều trị tâm khí - mới chính là phương pháp chữa trị căn bệnh tham, sân, si… của con người. Chúng ta cũng biết Tam Đa là ba ông Phúc, Lộc, Thọ và bức tranh Nhất tượng Phúc Lộc Điền thì Điền ứng với ông Thọ trong hình tượng Bố Đại Hòa Thượng - Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc - Mặt Trăng và đứa bé thổi sáo trên lưng trâu trong bức tranh Trời xanh trong tiếng sáo là ông Lộc - Kinh Dương Vương - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Mặt Trời. Hình tượng đứa bé thổi sáo này được ẩn dụ từ hóa vị thần thứ 7 của thần mặt trời Vishnu là thần Krishna, với ống sáo thổi lên những thanh âm diệu kỳ của vũ trụ - người đã chỉ dạy cho chiến sĩ Arjuna phương pháp đại toàn thiện của Yoga được trình bày trong cuốn Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita) của đạo Bà La Môn, Ấn Độ.

Bố Đại Hòa Thượng

Tranh cổ các nước Đông Á

Lưng trần chân đất chợ người,

Cát lầm bụi vấn ta cười say sưa.

Thần tiên bí quyết cũng thừa,

Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.

Hòa thượng Quách Am đề Tụng bức tranh thứ 10 trong Thập mục ngưu đồ.

Chúng ta cũng chú ý, vùng Vân Nam thời vua An Dương Vương lấy tên là Điền Việt, cũng mang hàm ý chính là một bộ thuộc nước Văn Lang và là nơi mà vua An Dương Vương làm bộ chủ, chúng tôi đã chứng minh ở các chương trước.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiên tri chính xác về việc “phá Điền” trở thành chữ Vạn thuận - biểu tượng Phật giáo hay chúng ta hiểu rằng Thiên Tử Lạc Long Quân chính là Phật Vương Di Lạc phục sinh và các anh hùng, dũng sĩ, quân sư trong vị thế của các vị thần thánh trong “cõi vô hình” hộ giá đông như lá rừng, với sức mạnh bất khả chiến bại, ủng độ tuyệt đối Chính pháp Long Hoa Hội:

Phá Điền Thiên Tử giáng trần,

Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.

Và:

Thái cực hoàn nguyên chính pháp khai,

Bình an thiên hạ đẹp trong ngoài.

Phá tan mây tuyết, muôn phương sáng,

Điền xuất hồng quang trổ Thánh tài.

(Trích Thái bình phá điền - nguyên tác sứ giả Thái Bình).

Chúng ta tiếp tục xem xét nội dung đôi câu đối trong bức tranh dân gian Đông Hồ Hương Chủ, đôi câu đôi này cũng được trang trí cách điệu một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông được các thầy đồ múa bút, bày bán trong những ngày tết “Tứ thời xuân tại thủ - Ngũ phúc thọ vi tiên”:

Hương Chủ

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Tứ thời xuân tại thủ” mang ý nghĩa năm mới mở đầu bằng mùa vuân, trong vòng quay vĩnh cửu của đất trời xuân - hạ - thu - đông. Ngày đầu xuân, dân gian thường có tục “hái Lộc” vào buổi sáng sớm khi sương chưa tan, thời điểm xuất hành và hướng xuất hành được chọn trước theo “mệnh” của mỗi người nhằm mong ước một năm mới có nhiều điều may, việc tốt tới với gia đình, đồng thời không thể thiếu việc đi lễ Phật đầu xuân, mong đất nước thanh bình. “Ngũ Phúc Thọ vi tiên” thì thọ hay sức khỏe là cái quý nhất, như vậy trong đôi câu đối đã bao hàm Tam Đa Phúc Lộc Thọ.

Trong tết xưa, mỗi gia đình người Việt không chỉ có mai đào, mà cũng không bao giờ thiếu những chậu hoa vạn thọ và với câu chúc nhau muôn thuở “Vạn Thọ vô cương”, hoa vạn thọ chính là biểu tượng của ông Thọ - Phật Vương Di Lạc. Hoa vạn thọ đẹp, có hương thơm rất lạ, hình dáng no tròn nhiều cánh với búp hoa vươn cao thể hiện cấu trúc hợp lý nhất của các thể vật chất trong vũ trụ ẩn ý về thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Mặc dù hoa sen đã là biểu tượng của tôn giáo cổ đại Văn Lang, sau phổ biến thành nhiều chi cành tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới và hoa sen cũng trở thành biểu tượng của nhiều quốc gia, do vậy “Hoa Vạn Thọ” cũng có thể được xét như là một biểu tượng quốc hoa chăng? Vì rõ ràng, tên hoa không phải là ngẫu nhiên: Vạn là biểu tượng Phật giáo, Thọ là vĩnh cửu, trường tồn.

Cùng với hoa vạn thọ, thì hoa cúc cũng là một loài hoa không thể thiếu trong những ngày tết cổ truyền, dân gian còn lưu lại một số truyền thuyết về loài hoa này:

Chuyện kể rằng, hồi đó có một gia đình nghèo có hai mẹ con sống rất yên bình trong một ngôi nhà nhỏ. Người mẹ tần tảo làm lụng nuôi con. Người con còn nhỏ nhưng rất hiếu thảo, biết vâng lời và chăm chỉ. Nhưng rồi một ngày kia, người mẹ bỗng lâm bệnh nặng. Người con thương mẹ lắm, nên dù nhà nghèo em vẫn cố gắng chạy chữa những thầy lang giỏi nhất vùng. Nhưng sức khỏe người mẹ càng ngày càng yếu đi. Người con lo lắm, quyết tâm đi tìm thầy chữa bệnh cho mẹ.

Em đi mãi, đi mãi, qua bao nhiêu làng mạc, núi sông, ăn đói mặc rách vẫn không nản lòng. Một hôm đi qua một ngôi chùa, em xin phép nhà sư trụ trì được cầu phúc cho mẹ, tấm lòng hiếu thảo của em động đến cả trời xanh. Trời nghe phải nhỏ lệ, đất nghe phải cúi mình. Đức Phật từ bi cảm thương tấm lòng hiếu thảo của người con, động lòng trắc ẩn Người đã hóa thân thành một nhà sư, đi ngang qua chùa và tặng em một bông hoa vàng rực. Đức Phật nói:"ta cho con bông hoa này,nó là biểu tượng của sự sống, là bông hoa chứa đựng niềm hi vọng,là ước mơ của loài người, là thần dược để chữa bệnh cho mẹ con. Nhưng con phải nhớ,cứ một năm thì hoa sẽ rụng đi một cánh hoa, bông hoa này có bao nhiêu cánh thì mẹ con chỉ sống được bấy nhiêu năm". Người con cảm tạ Đức Phật và đếm cánh hoa. Rất đau buồn khi biết bông hoa chỉ có năm cánh, nghĩa là người mẹ chỉ sống với em được năm năm nữa.

Thương mẹ quá em đã liều xé nhỏ từng cánh hoa cho đến khi không còn đếm được bông hoa có bao nhiêu cánh nữa. Bà mẹ nhờ có bông hoa thần dược đó mà sống rất lâu bên người con hiếu thảo của mình. Bông hoa vàng rực vô số cánh là biểu tượng của sự sống, là ước mơ trường tồn, là khát vọng chữa lành mọi bệnh tật của con người. Sau này người đời gọi là hoa Cúc.

1.

2.HoaCuc‑1.JPG

Biểu tượng mùa Thu, phương Tây và cũng được dùng làm biểu trưng cho khí tiết thanh cao của bậc cao sĩ lấy ẩn dật làm vui thú, xa lánh danh lợi. Tên ca ngợi hoa cúc là ẩn sĩ trong các loài hoa và có hơn 3.000 loại hoa cúc được trồng cách đây 3.000 năm, trong khi đó hoa sen tên ca ngợi là quân tử và hoa mai là tuyết trung cao sĩ (theo Cội nguồn văn hóa Trung Hoa - Chủ biên Đường Đắc Dương, Phó chủ biên Tạ Duy Hòa, dịch thuật Nguyễn Thị Thu Hiền - Nxb Hội Nhà văn, 2003).

Hoa cúc chính là quốc hoa của Nhật Bản, biểu tượng của Thái Dương Thần Nữ, mà chúng ta cũng biết bà chính là Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Tây Vương Mẫu, Đức Phật Mẫu và như vậy… ngày Tết Trùng Dương chính là biểu trưng cho sự thanh dao, thoát tục của các vị tiên, đã được lấy làm ngày của Tết người già. Ngày nay, dân gian lưu truyền các truyền thuyết liên quan đến Tết Trùng Dương như sau:

Đời Hậu Hán (25-250) có người tên là Hoàng Cảnh, quê ở Nhữ Nam, học đạo tiên với đạo sĩ Phí Trường Phòng - một người tinh thông kim cổ, có thể đoán được tương lai. Một hôm, Trường Phòng bảo Cảnh: "Ngày mồng 9 tháng Chín tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về may ra tránh khỏi tai nạn". Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy. Quả nhiên, đến tối ông trở về nhà trở về thì thấy gà, vịt, heo, chó trong nhà bị chết hết.

Theo sách Phong Thổ Ký thì vào cuối đời nhà Hạ (1818-1767 tr.CN), vua Kiệt dâm bạo tàn ác, gây nên bao cảnh tang thương. Thượng Đế muốn răn nhà vua nên đã giáng một trận hồng thủy làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, động vật, người bị chết đuối nhiều không kể xiết. Nạn hồng thủy đó nhằm ngày mồng 9 tháng Chín âm lịch. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn, lâu dần trở thành tục lệ.

Chính từ những điển tích như trên, dân gian xưa có câu “gặp ngày Trùng Cửu đăng cao” nghĩa là gặp ngày Trùng Cửu thì lên cao. Vào ngày này, người dân Trung Quốc thường rủ nhau lên núi ngắm hoa, uống rựu hoa cúc, làm thơ, đánh cờ.

Qua các điển tích, chúng ta thấy có một điểm chung là mọi người lên núi tránh nạn đại hồng thủy, chúng ta biết rằng sau nạn đại hồng thủy có một số người sống sót, như truyền thuyết trên toàn thế giới - do vậy kết hợp lại chúng ta nhận định ngày mồng 9 tháng Chín âm lịch là ngày kỷ niệm tổ nhân loại - những người đã mất trong trận đại hồng thủy. Đến đây thì chúng ta thật sự khâm phục nền văn hiến Việt thật quá sức kỳ tuyệt, bởi Tết Trùng Dương - Tết Người già cho tới nay có nhiều huyền thoại nhưng thực sự hoàn toàn không rõ nguồn gốc và ý nghĩa của nó. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã sáng tác bài hát Tiếng sông Cửu Long nổi tiếng, trong đó có đoạn về Hội Trùng Dương:

Trùng Dương…

Ba chị em là ba miền, đem những tình thương nối liền,

Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên,

Hẹn nhau tha hồ sống lại bốn phương trời,

Đem tự do tranh đấu bao người, cho quê hương ấm no muôn đời,

Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ.

Hội Trùng Dương tay xiết chặt nguồn thương,

Dựng đời vinh quang hoa đời tự do.

Như vậy, Hội Long Hoa là đại hội Phật, Tiên, Thánh, Thần mà lịch sử của các ngài đã được sáng tỏ, với sự chủ trì của Ngọc Hoàng Thượng Đế và Diêu Trì Kim Mẫu, Hội Long Hoa sẽ thực hiện một “sự tấn phong vĩ đại” với sự xuất hiện của Thánh nhân mà nhân loại đang mong đợi, ngài chính là “vua của các vị vua”, phần thưởng của đại hội là thần dược “đào trường sinh bất tử” của Diêu Trì Kim Mẫu và ngự tửu của Ngọc Hoàng Thượng Đế sẽ ban cho những ai đạt được quả vị và sẽ được vào “Phong Thần Bảng” (Phong Thần cũng là tên cuốn tiểu thuyết về thần tiên ma quỷ, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không). Theo Thánh giáo của Đạo Cao Đài, kỳ đại hội này chính chính thức sắc phong Tam Trấn đại diện Tam giáo trong thời kỳ mới của nhân loại:

Thầy vì thương lũ quần sinh,

Hoằng khai Đại Đạo ba nhành qui nguyên.

Cho Tam Trấn thay quyền Tam Giáo,

Phật Quan Âm Thích Đạo thế quyền.

Thái Bạch thay mặt Đạo Tiên,

Tam kỳ phổ độ lãnh quyền Giáo Tông.

Đạo Nho giao Quan Công Đại Đế,

Ra oai linh phổ tế nhân sinh.

Thánh truyền Thầy đã chỉ rành,

Vì sao Tam Trấn quyền hành Tam Tông.

Ngọc phả về ba vị Đại Vương Thượng Đẳng Thần Tản Viên Sơn Thánh ở Đền Và, thị xã Sơn Tây, có Đạo chúc thư để nghìn đời sau khói hương thờ phụng nơi đền miếu, người đời sau có thơ rằng:

Nhất trường gia quốc thôi tính động,

Tứ hải anh hùng lão nhãn ngung.

Bất thức Việt thành Xuân tỏa thược,

Vị thủy khải thủ vị thùy phong.

Khắp đất nước vang dậy thúc dục lòng người,

Anh hùng bốn biển đều ở trước mặt.

Không biết cái Khóa Xuân của Việt thành kia,

Ai là người mở được, ai là người không mở được.

Như vậy, cái “Khóa Xuân” đã mở được, chúng ta đã có thể hệ thống và xác định mối quan hệ trong lịch sử của các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần của các tôn giáo trên thế giới cùng với các nhân vật lịch sử trong nền văn minh Văn Lang. Từ đó chúng ta có các bảng tổng hợp dữ liệu như sau:

Danh sách liệt vị tổ tiên của nước Văn Lang ghi nhận trong các gia phả dòng họ:

Stt

LIỆT VỊ TỔ TIÊN

NIÊN HIỆU/ THỜI ĐẠI

GHI CHÚ

GIỐNG DÂN ATLANTIC TRƯỚC ĐẠI HỒNG THỦY

THÁI CỰC / KHAI THIÊN - LẬP ĐỊA

Đế Hòa (Hòa Hy, Hy Hòa, Hy Thúc) là bố đẻ của Phục Hy. Cụ Hy Thúc là nhà thiên văn thuyết âm dương, làm ra lịch Âm Việt Nam. Vợ của Hoà Hy là Nữ Hoàng Anh, hiệu Diệu Quang Minh.

Đế Thiên.

Lịch Đại Đế Vương.

Truyền thuyết bà Hoa Tư mang thai 12 năm đẻ ra ông Phục Hy.

ÂM DƯƠNG - PHỤC HY/ NỮ OA và NGŨ HÀNH - NGŨ ĐẾ

Phục Hy (Vua Cả) lập tên nước 'Cực Lạc', lập Đạo Sa Môn Phật Giáo tên hiệu Vô Thượng Hư Không Giáo Chủ. Cụ Bà là Trinh Nương, hiệu Diệu Thái Tử. Cụ phát triển thuyết Âm Dương Ngũ Hành từ cha Hòa Hy và lập Bát quái, Kinh Dịch.

Phương Đông - Thanh Thiên (Đế Thần) - Phục Hy - Thái Cao

Lập tên nước là Cực Lạc.

Bàn Cổ - Nữ Oa.

Ngũ Đế.

Thần Nông còn tên là Đế khôi, được dân suy tôn là Đế Thần; được Cụ bà Trinh Nương nuôi dưỡng, vợ cả húy là Tiên Lữ. Cụ có hai con trai Đế Tiết và Đế thừa.

Phương Nam - Viêm Đế - Viêm Thiên - Thái Viêm

Ngũ Đế.

Đế Tiết Vương là con cả Vua Thần Nông (Đức Thánh Cả) lấy Nữ Hoàng Vân. Hai Cụ không có con. Cụ Đế Tiết truyền ngôi lại cho người em Đế Thừa.

Hoàng cực - Hoàng Đế - Quân Thiên - Đế Tiết

Ngũ Đế.

Đế Thừa con thứ, Sở Minh Công (Đế Quý Công), Cụ có hai vợ. Vợ Cả là Hoàng Thị Phú, tên tự là Đại Nương (hiệu Diệu Diên), sinh 2 con trai song sinh là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Minh Nhân. Bà Hai tên là Trần Thị Lãm sinh một trai là Nguyễn Long Cảnh, gọi nôm na Ba Công (ba người gọi là Tam Tòa Đức Chúa Ông).

Phương Tây - Bạch Đế - Hạo Thiên - Đế Thừa - Thái Khang

Ngũ Đế.

Truyền thuyết Bà La Môn thì thần Shiva có hai người vợ.

Thương Hiệt - Văn quan thời Phục Hy

Được cho là tác giả chữ viết

Hữu Sào - Văn quan thời Viêm Đế Thần Nông

Toại Nhân - Lão Long Cát - Võ tướng thời Viêm Đế Thần Nông

Được cho là phát minh ra lửa. Chử Đồng Tử - Lão Tử là hậu duệ

Nguyễn Minh Khiết, Minh Công, Khương Thái Công, lấy Bà Đỗ Quý Thị, húy Ngoan (Cụ tu theo đạo Sa Môn Phật Giáo hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát), sinh 1 con trai Kinh Dương Vương (Lộc Tục). Bà Hai Vũ Thị Huề sinh 5 trai. Cụ Đỗ Quý thị có 8 người em trai hiệu là

Bát Bộ Kim Cương, cũng được tôn vinh thêm hai chữ Bồ Tát). Mộ 8 vị này ở gò Thiềm Thừ (nghĩa là gò Con Cóc) vùng Ba La.

Phương Bắc - Hắc Đế hay Huyền Đế - Huyền Thiên - Đế Minh - Thái Tiết; Tự Phúc Đình.

Ngũ Đế.

Hoàng Đế theo truyền thuyết Trung Quốc.

Hiên Viên chỉ là tên một chòm sao phụ trên Tử Vi Viên.

Đế Nhất Thánh Mẫu Thượng Thiên.

6 người con trai của vua Đế Minh

- Kinh Dương Vương

- Nguyễn Di Khương Hạ

- Nguyễn Nam Khương Thượng

- Nguyễn Bắc Khương Hạ

- Nguyễn Di Khương Trưởng

- Nguyễn Xâm Khương Trung

Bát Bộ Kim Cương

- Đỗ Xương, hiệu là Thanh Trừ Tai Kim Cương

- Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thần Kim Cương, lo việc hình sự.

- Đỗ Kỹ, hiệu là Hoàng Tùy Cầu Kim Cương, trông coi luật pháp.

- Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thủy Kim Cương, phụ trách thủy quân trong dân.

- Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương, lo việc sản xuất vũ khí.

- Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương, lo việc an ninh.

- Đỗ Bích, hiệu là Từ Hiền Thần Kim Cương, Tể tướng.

- Đỗ Trọng, hiệu là Đại Lực Thần Kim Cương, phụ trách văn hóa giáo dục.

Nguyễn Minh Nhân hay Nguyễn Nghi Nhân (Đế Nghi), quản đất Ô Châu đặt tên nước Sở (sau nước Sở thuộc Trung Quốc), các con có Đế Lai sau sinh ra Âu Cơ (một số con cháu là Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn).

Vua Trung Quốc (phía Bắc sông Dương Tử).

Không ghi nhận chính thất của ngài.

Nguyễn Long Cảnh em sau Đế Nghi, được giao đất Chân Lạp, Hồ Tôn nhưng không làm mà chỉ giúp Đế Minh đánh giặc Ma Mạc.

Không ghi nhận chính thất của ngài.

TAM TÀI - TAM HOÀNG

Kinh Dương Vương, Nguyễn Quảng lấy con gái Động Đình Hồ tên Thanh Minh, Động Đình Tiên Nữ. Sinh 5 trai và 1 gái.

Vua Hùng Vương thứ I hay còn gọi là Ốc tổ Kinh Dương Vương; Tự Phúc Lộc, trời sinh cao quý không lường được.

Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Tam Hoàng.

Đệ Nhị Thánh Mẫu hay Thượng Ngàn Thánh Mẫu. Lấy tên nước Văn Lang. Hồng Bàng là tên chung nhiều dòng tộc.

5 con của Kinh Dương Vương được tôn Ngũ vị tôn ông (Ngũ Phượng Long Thần Thổ Địa) và Tứ Vị chầu bà

- Nguyễn Hùng Nghiêm, tự Phúc Nghiêm, hiệu Pháp Phong tức Thần Gió.

- Hùng Quyền, tự Phúc Quyền, hiệu Pháp Vân tức Thần Mây.

- Hùng Hiền, húy Sùng Lãm tự Phúc Thọ; Thần Sấm.

- Hùng Quyền, tự Phúc Quang, hiệu Pháp Điện tức Thần Chớp.

- Hùng Tiến, tự Vũ Thiên hiệu Pháp Vũ chết trẻ, Thần Mưa.

1. Chi Càn:Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr.TL) lên ngôi năm 41 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.CN) đến Đinh Hợi (2794 tr.CN). So ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng. (?)

Lạc Long Quân lấy Âu Cơ húy là Mỹ là con gái chị họ mình, cháu của Nguyễn Nghi Nhân ở Ô Châu, con của Nguyễn Như Lai.

2. Chi Khảm:Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr.CN) lên ngôi 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tí (2793 tr.CN) đến năm Bính Thìn (2525 tr.CN) ngang với Trung Quốc thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).

Vua Hùng Vương thứ II; Hùng Hiền Vương; Tự Phúc Thọ, Phật sống lâu không lường được.

Vua “Cõi Nước”.

Tam Hoàng.

Đệ Tam Thánh Mẫu hay Chúa Mẫu Thoải; Truyền 10 đời.

Hùng Quốc Vương là con trưởng của Lạc Long Quân, lấy Nguyễn Thị Nghĩa con gái Lạc tướng Chu Diên.

3. Chi Cấn:Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr.TL) lên ngôi khi 18 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua đều xưng là Hùng Quốc Vương. Từ năm Đinh Tỵ (2524 tr.CN) đến năm Bính Tuất (2253 tr.CN) ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

Vua Hùng Vương thứ III; Các Vua Hùng Vương đều lấy hiệu Khang Ninh.

Tam Hoàng.

Đệ Tứ Thánh Mẫu hay Đệ Tứ Khâm Sai. Truyền 10 đời.

Chử Đồng Tử và Kim Dung Công chúa - thời Vua Hùng Vương Thứ 3

Thái Thượng Lão Quân

Giáo Chủ Đạo Giáo

NỐI TIẾP TAM HOÀNG (VẠN VẬT) - VƯƠNG

4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2254 tr.CN) không rõ truyền mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr.CN) đến Mậu Thìn (1918 tr.CN) ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.

Vua Hùng Vương thứ IV, hiệu Khang Ninh

Truyền 10 đời.

Sơn Tinh trong truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh”

5. Chi Khôn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr.CN) lên ngôi khi năm 59 tuổi. Không rõ truyền mấy đời vua, đều xưng là Hùng Hy Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr.CN) đến Mậu Tí (1713 tr.CN) ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ.

Vua Hùng Vương thứ V, hiệu Khang Ninh

Truyền 9 đời.

6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr.CN), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền hai đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm, đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr.CN) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr.CN) ngang với Trung Quốc vào thời Ốc Đinh nhà Thương.

Vua Hùng Vương thứ VI, hiệu Khang Ninh

Truyền 2 đời.

Chiến tranh với Ân Thương

Phù Đổng Thiên Vương, tên Nguyễn Văn Cương - tướng soái thời Vua Hùng Vương Thứ VI

Thánh Ánh Sáng; Tự Phúc Quang

Xung Thiên Đại Vương

7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1668 tr. CN), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. CN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.

Truyền 5 đời.

8. Các Vua Hùng VIII - XVIII.

Hiệu Khang Ninh

An Dương Vương - Vua Hùng cuối cùng chi Hùng Vương XVIII.

Tên nước Âu Lạc

TỔNG CỘNG: 108 đời kể từ vua Kinh Dương Vương tới vua An Dương Vương.

Tản Viên Sơn Thánh, tên Nguyễn Tuấn và Ngọc Hoa Công Chúa – tể tướng thời Vua Hùng Duệ Vương Thứ XVIII

Tự Phúc Nguyên

Cao Nỗ - Tướng soái thời vua An Dương Vương

Sáng tác nỏ liên châu

Triệu Đà - truyền 4 đời (Tổng cộng 5 đời)

Tên nước Nam Việt

Trọng Thủy con Triệu Đà lấy công chúa Mỵ Châu con vua An Dương Vương: Không nhận ngôi vua.

Lý Ông Trọng.

Lữ Gia - Tể tướng thời Triệu Muội (cháu Triệu Đà) cho đến khi nhà Triệu kết thúc.

* Biểu tượng luôn thể hiện chung hai người Nam và Nữ (Dương và Âm)

Lịch sử Văng Lang đối chiếu với lịch sử các tôn giáo trên thế giới:

Stt

PHẬT, TIÊN, THÁNH, THẦN

BIỂU TƯỢNG

TÔN GIÁO

GHI CHÚ

Đế Hòa (Hòa Hy, Hy Hòa, Hy Thúc)

Dương

Bàn Cổ

Nữ Hoàng Anh Vợ Cụ Hoà Hy

Âm

Nữ Oa

Phục Hy (Vua Cả)

Hư Không Giáo Chủ - Thanh Đế

Ngũ Đế

Cụ Bà Trinh Nương, hiệu Diệu Thái Tử.

Chòm sao Thất Nữ

Thần Nông

Viêm Đế - Chòm sao Sư Tử

Nguyên Thủy Thiên Tôn trong Đạo giáo;

Ngũ Đế

Cụ Bà Cả Tiên Lữ

Cụ Bà thứ

Đế Tiết Vương

Hoàng Đế, Chòm sao Cự Giải

Linh Bảo Thiên Tôn trong Đạo giáo;

Ngũ Đế

Nữ Hoàng Vân

Đế Thừa

Bạch Đế, Chòm sao Song Tử

Đạo Đức Thiên Tôn trong Đạo giáo;

Cụ Bà Cả Hoàng Thị Phú

Cụ Bà Bà Hai tên là Trần Thị Lãm

Hữu Sào

Tướng soái thời Viêm Đế Thần Nông; Thiên Tướng bảo vệ Chính môn đền; chùa

Toại Nhân - Lão Long Cát

Tướng soái thời Viêm Đế Thần Nông; Thiên Tướng bảo vệ Chính môn đền; chùa

Cha của bà Đỗ Quý Thị

Long Vương; vua cha Bát Hải Động Đình

Long Vương trong Đạo giáo;

Mẫu của bà Đỗ Quý Thị

Nguyễn Minh Khiết (Đế Minh)

Hắc Đế hay Huyền Đế; Thần Quả Đất hay Thổ Địa; Chòm sao Kim Ngưu; Sao Đại Hùng Tinh;

Phật A Di Đà trong Phật giáo; Thái Ất Cửu Khổ Thiên Tôn trong Đạo giáo; Thần Shiva trong Bà La Môn giáo, Thần Amon trong tôn giáo Ai Cập cổ; Thần quang minh Ahura Mazda của Bái Hỏa giáo, Ông Táo trong dân gian; Hoàng Kỳ Thổ Địa trong dân gian; Thần Trái Đất trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới.

Ngũ Đế; Hoàng Đế theo văn hóa Trung Quốc

Bà Đỗ Quý Thị, húy Ngoan

Phật Bà Quan Âm trong Phật giáo với hình tướng Quan Âm 11 mặt; Cửu Thiên Huyền Nữ trong Đạo giáo; nữ thần Hathor trong tôn giáo Ai Cập cổ; chính thất thần Shiva; Thánh Mẫu Thượng Thiên trong đạo Mẫu; Địa Mẫu trong dân gian;

Tám em trai bà Đỗ Quý Thị

Bát Bộ Kim Cương trong Phật giáo; Bát Hải Long Vương trong Đạo giáo;

Năm người con trai của vua Đế Minh và Bà Thứ Vũ Thụ Huề

Sao Đại Hùng Tinh

Các vị Bồ Tát trong Phật giáo; Ngũ Phương Ngũ Hổ Long Thần trong Đạo giáo

Nguyễn Nghi Nhân (Đế Nghi)

Em trai Đế Minh

Cứu U Phả Độ Thiên Tôn trong Đạo giáo; Phật Bất Không Như Lai trong Phật giáo

Chính thất của Nguyễn Nghi Nhân

Văn Thù Bồ Tát trong Phật giáo;

Nguyễn Long Cảnh

Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn trong Đạo giáo; Phật Bảo Sinh Như Lai trong Phật giáo

Chính thất của Nguyễn Long Cảnh

Phổ Hiền Bồ Tát trong Phật giáo;

Kinh Dương Vương, Nguyễn Quảng

Hùng Vương I; Thần Mặt Trời; Sao Đại Hùng Tinh; Chòm sao Dương Cưu

Đại Nhật Phật trong Phật giáo; Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Đạo giáo; thần Vishnu trong Bà La Môn giáo; Thần Ra trong tôn giáo Ai Cập cổ; Thiên Chúa trong Cơ Đốc giáo; Thánh Alla trong Hồi giáo; thần Surya của Ấn Độ; Thần Mặt Trời trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới

Tam Hoàng; Thượng Nguyên Thiên Quan

Cụ Bà Thanh Minh, Động Đình Tiên Nữ

Mặt Trời

Phật Mẫu hay Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát; Thánh Mẫu Thượng Ngàn trogn đạo Mẫu; Thái Dương Thần Nữ trong Thần đạo Nhật Bản; Tây Vương Mẫu trong Đạo giáo; Nữ thần mặt trời trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới.

Phật Mẫu Man Nương

- Nguyễn Nghiêm, tự Phúc Nghiêm, hiệu Pháp Phong tức Thần Gió cùng một hiệu với chính thất của ngài.

Gió

Thần Gió - Phong - Quảng Mục Thiên Vương trong Phật giáo

Tứ Pháp

- Nguyễn Quyền, tự Phúc Quyền, hiệu Pháp Vân tức Thần Mây cùng một hiệu với chính thất của ngài cùng mộ hiệu với chính thất của ngài.

Mây

Thần Mây - Điều - Trì Quốc THiên Vương trong Phật giáo

Tứ Pháp

- Nguyễn Khoản, Hùng Hiền, húy Sùng Lãm tự Phúc Thọ; Thần Sấm (Lạc Long Quân)

Sấm

Thần Sấm.

Thạch Quang Phật

- Nguyễn Huề, Hùng Quyền, tự Phúc Quang, hiệu Pháp Điện tức Thần Chớp cùng một hiệu với chính thất của ngài.

Chớp

Thần Chớp - Thuận - Tăng Trưởng Thiên Vương

Tứ Pháp

- Nguyễn Bé, Hùng Tiến, tự Vũ Thiên hiệu Pháp Vũ chết trẻ, Thần Mưa cùng một hiệu với chính thất của ngài.

Mưa

Thần Mưa - Vũ - Bắc Thiên Vương trong Phật giáo

Tứ Pháp

Đế Lai - Cha của bà Âu Cơ

Nhật Thực

Tỳ Bà Thi Phật trong Phật giáo;

Mẫu thân của bà Âu Cơ

Nguyệt Thực

Bất Không Quyến Sách Quan Âm trong Đạo Phật;

Lạc Long Quân

Hùng Vương II; Thần Mặt Trăng; Chòm sao Song Ngư; Chòm sao Nam Cực

Bồ Tát Di Lạc và Phật Vương Di Lạc trong Phật giáo; Phong Đô Đại Đế trong Đạo giáo; Vua Cõi Nước trong đạo Mẫu; thần Brahma trong Bà La Môn giáo; thần Osiris trong tôn giáo Ai Cập cổ; Thần __ trong Hồi giáo; thần Chết hay thần Mặt trăng trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới.

Tam Hoàng; Hạ Nguyên Thủy Quan

Âu Cơ tên Thụy

Mặt Trăng

Quan Âm Bồ Tát trong Phật giáo; Chúa Mẫu Thoải trong đạo Mẫu; Thạch Quang Phật trong Tứ Pháp Việt Nam; Thần Isis trong tôn giáo Ai Cập cổ; Nữ thần Mặt Trăng trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới;

Mười vị vua truyền ngôi kế tiếp vua Lạc Long Quân

Thập Cực Chân Nhân trong Đạo giáo;

Hùng Quốc Vương

Hùng Vương III; Sao Mộc; Sao Tiểu Hùng Tinh; Chòm sao Bảo Bình;

Địa Tạng Bồ Tát trong Phật giáo; thần Cả Horus trong tôn giáo Ai Cập cổ đại; Mộc Đức Tinh Quân

Tam Hoàng; Trung Nguyên Địa Quan

Nguyễn Thị Nghĩa

Thánh Quan Âm trong Phật giáo; Tứ phủ khâm sai trong đạo Mẫu.

Mười vị vua truyền ngôi kế tiếp vua Hùng Quốc Vương

Thập Điện Diêm Vương trong Phật giáo và Đạo giáo;

Chử Đồng Tử và Kim Dung Công chúa

Sao Ngưu Lang và Chức Nữ

Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân trong Đạo giáo; Tự Tại Chủ Đồng Tử trong Phật giáo (Kinh Hoa Nghiêm); Hạc - Rùa trong điện Đại Hùng đền, chùa

Thời Vua Hùng Vương III

Tản Viên Sơn Thánh, tên Nguyễn Tuấn và Ngọc Hoa Công Chúa - thời Vua Hùng Vương Thứ 3

4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh

Sao Hỏa

Hỏa Đức Tinh Quân

Mười vị vua truyền ngôi kế tiếp vua Hùng Vương IV

Thập Chân Chân Nhân trong Đạo giáo;

5. Chi Khôn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr.TL)

Sao Thổ

Thổ Đức Tinh Quân

Chín vị vua truyền ngôi kế tiếp vua Hùng Vương V

Cửu Lão Tiên Đô trong Đạo giáo;

6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr.TL), lên ngôi khi 29 tuổi

Sao Kim

Thái Bạch Kim Tinh

Phù Đổng Thiên Vương, tên Nguyễn Văn Cương - tướng soái thời Vua Hùng Vương Thứ VI

Chòm sao

7. Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1668 tr. CN), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương

Sao Thủy

Thủy Diệu Tinh Quân

8. Các Vua Hùng VIII - XVIII.

An Dương Vương - Vua Hùng cuối cùng chi Hùng Vương XVIII.

TỔNG CỘNG: 108 đời kể từ vua Kinh Dương Vương tới vua An Dương Vương.

Tản Viên Sơn Thánh, tên Nguyễn Tuấn và Ngọc Hoa Công Chúa - Tể tướng thời Vua Hùng Duệ Vương Thứ XVIII

Chòm sao Văn Xương

Cao Nỗ - Tướng soái thời vua An Dương Vương

Thiên Tướng hộ cổng Tam quan đền, chùa

Triệu Đà - truyền 4 đời (Tổng cộng 5 đời)

Vi Đà Hộ Pháp trong Phật giáo; Vương Linh Quan trong Đạo giáo.

Trọng Thủy con Triệu Đà lấy công chúa Mỵ Châu con vua An Dương Vương: Không nhận ngôi vua.

Thiên Tướng hộ cổng Tam quan đền, chùa

Lữ Gia - Tể tướng thời Triệu Muội (cháu Triệu Đà) cho đến khi nhà Triệu kết thúc.

Sao Thiên Lang

Thiên Nghê bảo vệ Chính môn đền, chùa

Người Việt nói chung

Chòm sao Orion

Chiến binh với cung tên bắn con trâu vàng - mang ý nghĩa tấn công vào vô minh hay mang ý nghĩa “ánh sáng trí tuệ”.

Trong môn Tử Vi Đông phương, có bài khẩu quyết thuộc lòng gồm ba đoạn thơ cho những người mới vào học về nạp âm 60 hoa giáp:

Ngân đăng giá bích câu,

Yên mãn tự chung lâu.

Hán địa siêu sài thấp,,

Viêm Thủy lạc kim âu

Ngọn đèn bạc làm lạnh bức tường vàng,

Lửa đã cháy ngập trong tòa lâu đài.

Đất nhà Hán đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất,

Hành Thủy và Hỏa đã sai lạc với nguồn gốc của nó.

* Câu thơ thứ tư được bổ sung bởi tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Nội dung của toàn bộ bài thơ được giải mã có thể hiểu rằng: những giá trị giả đã thay cho những giá trị thật, khi mà nước Văn Lang đã suy sụp từ bên trong và bị nhà Hán chinh phục. Nhưng giá trị tri thức vĩ đại của đất nước này - mà một trong những nền tảng căn bản của nó là bảng nạp âm 60 hoa giáp đã phải thay đổi ở hai hành Thủy Hỏa (Trích từ cuốn Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).

Ẩn nghĩa của bài thơ tứ tuyệt còn hàm ý: vùng đất phía Bắc và vùng đất phía Nam Dương Tử đã quên mất cội nguồn tổ tiên của mình. Sau này, danh nhân nguyễn Trãi có bài thơ Qua Cửa Khẩu Thần Phù đã tiên tri về lịch sử cùng chung nguồn cội “Hồ, Việt chung nhà may được thấy”:

Thần Phù hải khẩu lái buồm qua,

Gió mát trăng thanh, đêm mặn mà.

Nghìn chóp non bờ nhô ngọc biếc,

Một dòng nước rắn lượn xanh mơ.

Giang sơn đấy, anh hùng biệt dạng,

Dâu bể ơi! Trời đất hững hờ!

Hồ, Việt chung nhà may được thấy,

Từ nay bốn bể lặng kình ba.

Như vậy, nước Việt là cội nguồn của các tôn giáo trên thế giới, mà tiên tri sau này các nước sẽ đến với Việt Nam, xưa kia Nho, Lão, Phật đồng nguyên (Tam hữu), nay các tôn giáo (Phật giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo, Bà La Môn giáo, đạo Jain...) đều sống an vui hòa bình (Đào viên kết nghĩa):

Thú vui hoa nở biên đình,

Tai nghe các nước giống hình tới đây.

Dập dìu quan khách Tàu Tây,

Đức Cha nhà phước vui thay lạ lùng.

Nhớ xưa Tam hữu xưng hùng,

Đào viên kết nghĩa nay cùng đường đi.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">

Kiến trúc Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh cũng đã thể hiện sự kết hợp các tôn giáo này:

Tam vị Brahma, Shiva, Vishnu và các giáo chủ tôn giáo khác

Kiến trúc và mỹ thuật Tòa Thánh Tây Ninh, Việt Nam

Từ việc xác định lịch sử tôn giáo và ý nghĩa các ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc, chúng ta có thể tổng hợp lại như sau:

Tổng hợp một số ngày lễ hội cổ truyền quan trọng:

Stt

LỄ HỘI

NGÀY

TRUYỀN THỐNG

Ý NGHĨA

GHI CHÚ

Tết Nguyên Đán - Sinh nhật Vũ trụ

1/Giêng

Bánh chưng, bánh dầy, dựng nêu, đốt pháo, mừng tuổi… hạ nêu 7/Giêng

Vía Đức Phật Vương Di Lạc, lễ rước chư Thần, Thánh, Tiên Phật an vị

Mồng 1 nhà cha, mồng 2 nhà vợ, mồng 3 nhà thầy

Ngày đưa Gia Tiên về trời

3/ Giêng

Mâm cỗ…

Lễ Tịch Điền

7/ Giêng

Xuống đồng

Ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế

9/Giêng

Cờ Thần, phướn

Tết thầy cô giáo và Tổ nghề chung

9/ Giêng

Hoa quả, bánh trái…

Ngày mất Đế Thừa Sở Minh Công?

Tết Thượng Nguyên

15/ Giêng

Hội đèn Quang chiếu; cờ Thần, phướn…

Thiên Quan ban phúc

16/Giêng

Ngày mất vua Phục Hy

Tháng Giêng ứng quẻ Phục

26/Giêng

Ngày mất Thánh Cô tức vợ vua Hùng Quốc Vương

2/2

Ngày mất vua Đế Minh

Xuân Tế

4/2

Vua làm lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm…

Được điều chỉnh

12/2

Ngày mất Ba Công Đại Vương tức Nguyễn Long Cảnh, em vua Đế Minh

18/2

Ngày mất vua Lạc Long Quân

Tết Thanh Minh - Tết Phụ nữ

3/3

Tảo mộ, rựu nếp, bánh tro…

Ngày mất Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Tây Vương Mẫu

Tế Nam Giao

9/3?

Vua tế

Ngày giỗ Tổ Vua Hùng

10/3

Bánh chưng, bánh dầy và dâng lễ cúng

Sinh nhật vua Lạc Long Quân

18/3

Bánh thánh làng Bình Đà?

Bổ sung

Ngày tưởng niệm anh hùng, liệt sĩ

4/4

Hội thề Trống Đồng…

Giỗ các Ôn hầu, Lạc hầu, Bộ tướng, Đạo tướng, Lộ tướng, Triều quan

Lễ Phật đản

8/4

Lễ tắm Phật, cờ Thần, phướn…

Đản sinh Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật bà Quan Âm

Tết Đoan Ngọ - Tết người Mẹ

5/5

Hoa quả, bánh trôi, bánh chay…

Ngày mất bà Âu Cơ, Quan Âm Bồ Tát, Chúa Mẫu Thoải

12/5

Ngày sinh Ba Công Đại Vương

28/5

Ngày mất Hùng Quốc Vương

Lễ Thượng điền

1/6

Cất nông cụ

Ngày mất vua Thần Nông

Ngày Tết Tình yêu (Lễ hội Sao)

7/7

Hoa hồng…

Kỷ niệm Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa

Giáo chủ của Đạo giáo

Thu Tế

14/7

Vua đại diện…

Được điều chỉnh

Lễ Vu Lan

15/7

Cờ Thần, phướn…

Ngày hóa Hương Vân Cái Bồ Tát

Tết Trung Nguyên

15/7

Cờ Thần, phướn, hội lồng đèn trôi sông…

Địa Quan xá tội vong nhân

Tết Trung Thu - Tết Thiếu nhi

15/8

Múa rồng, lân, bánh trung thu…

Ngày sinh nhật vua Kinh Dương Vương

Tết Trùng Cửu - Tết Người già

9/9

Hoa cúc, rựu hoa cúc, ngâm thơ, đánh cờ…

Kỷ niệm nhân loại chết trong trong trận Đại hồng thủy

Trùng cửu đăng cao

Tết Trùng Thập - Tết Thầy thuốc

10/10

Chọi trâu, hái thuốc…

Ngày hóa vua Kinh Dương Vương?

Ngày mất Đế Thừa Sở Minh Công?

Têt Hạ nguyên

15/10

Cờ Thần, phướn…

Thủy Quan giải ách

Ngày đưa Ông Táo về trời

23/Chạp

Mâm cỗ, cá chép, mũ ông Công ông Táo…

Lễ rước chư Thần, thánh, Tiên Phật về chầu Trời

Hội Thiên đình gọi là ngày Chạp Tổ, bách thần về chầu

25/Chạp

Ngày mất vua Kinh Dương Vương

Giao thừa, Trừ tịch

30/Chạp

Tiễn năm cũ đón năm mới…

* Sau khi Long Hoa Hội lần I (các tôn giáo và các sử gia sẽ cùng thống nhất trên những đặc trưng chung và riêng, thì sẽ tổng hợp lại các ngày lễ hội quan trọng nhất, ví dụ như ngày Phật Vương Di Lạc phục sinh là mồng 1 tháng Giêng năm Quý Tỵ (2013), nền tảng là những lễ hội dân gian và của Tam giáo (biểu tượng là Pháo, hoa Vạn Thọ…).

* Tham khảo Bách Việt tộc phả cổ lục khởi tổ Sở Minh Công; Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền; Bách Việt tộc phả lục…

Đến đây thì ý nghĩa của Hội Long Hoa đã được minh xác, và Hội Long Hoa sẽ diễn ra ở đâu? Rõ ràng là ở Việt Nam - mảnh đất linh thiêng của của đời sống tâm linh thế giới khi mà Thượng Đế đã xây dựng lại mới tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế - Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam cùng với hệ thống kinh sách, bí pháp. Đồng thời, không thể không chiêm bái lại những thắng tích quan trọng là nơi phát tích của các tôn giáo, cũng như nơi hóa của các vị Thánh Thần nói trên - vậy đó là những nơi nào:

Triều đình cung điện nguy nga,

Phố phường phẩm vật phồn hoa chen bày.

Phong vân gặp Hội hôm nay,

Ngàn năm truyền mãi đất này Đế vương.

Thánh cung vạn tuế

Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng Ba.

Khắp miền truyền mãi câu ca,

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Câu ca dao ấy đã vang vọng từ bao đời nay, đã in sâu vào lòng mỗi người dân Việt, khơi dậy tình cảm thiêng liêng hướng về Đất Tổ Hùng Vương, cội nguồn văn hóa và tâm linh của dân tộc, với một tấm lòng đầy tự hào là “con Rồng cháu Tiên”.

Lăng vua Hùng thứ VI và Lễ hội Đền Hùng năm 1960

Ảnh Tư liệu tham khảo

Đền Hùng là tên gọi của một quần thể đền chùa thờ phụng các vị vua Hùng, thờ Phậttôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với lễ hội Đền Hùng được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, cùng với các lễ hội dân gian. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh núi Nghĩa Lĩnh (Núi Cả, núi Hùng, Nghĩa Cương, Bảo Thiếu Lĩnh) là ngọn núi cao nhất so với các ngọn núi xung quanh khác, nay thuộc địa phận thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ngay tại chân núi, sơn môn dẫn hướng có các chữ đại tự “Cao sơn cảnh hạnh” nghĩa là ngưỡng vọng “Đức cao như núi”.

Phong Châu theo truyền thuyết chính là đế đô của nước Văn Lang từ hơn 4.000 năm trước. Xưa có các tên gọi cổ như Phong Châu, Vân Lôi, Hát Môn, Hạ Lôi, Văn Nội, Phong Khê, Lai Cường, Lai Hạ, Lai Vĩ, Lai Thành, Trạch Lôi - nơi lại thay đổi và một số làng đã ra đi đến nơi khác nay không còn tên trong bản đồ nhưng vẫn có tên trong văn tự (Trích một phần từ Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ, Tập 1- Tập san sưu tập - khảo cứu của dòng họ Đỗ Việt Nam).

Khu di tích Đền Hùng gồm có các công trình kiến trúc thờ tự như Đền Giếng, Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng - lăng vua Hùng Vương thứ VI - cột đá thề của vua An Dương Vương, cùng với chùa Thiên Quang, cùng các công trình khác.

Chữ Nghĩa theo giáp cốt văn

Trích Ý nghĩa cấu trúc đền Quốc Tổ Hùng, tác giả Nguyên Xuân Quang

Giải tự từ Nghĩa ta thấy có phần đầu chữ dương (đầu con dê) ở trên, ở dưới có chữ thủ (tay) và chữ qua (là thứ khí giới cán dài, một thứ rìu, một thứ việt). Như thế, theo mặt chữ, từ Nghĩa có nghĩa là “cầm rìu giết con dê” “cầm rìu chặt đầu con dê” để hiến tế, giết các vật hy sinh để tế lễ, dâng hiến cúng vật cho Tạo Hóa, vũ trụ, trời đất, Thần Linh, Tổ Tiên và cả quỉ thần. Điểm này cũng thấy rõ trên giáp cốt, kim văn, cổ văn, từ Nghĩa () diễn tả bằng hình con dê núi đực, con “dương” (ram) bị giết bởi một chiếc rìu có lưỡi răng cưa để hiến tế.

Nghĩa Lĩnh có nghĩa là trụ hiến tế, là núi trụ thế gian, trong có trục thế giới dùng làm phương tiện để cúng dâng vật hiến tế lên ba cõi và có nghĩa rộng ra là núi ơn nghĩa, núi tạ ơn Tạo Hóa, Tổ Hùng.

Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh

Tỉnh Vĩnh Phú, Phú Thọ, Việt Nam

Trong cuốn Hồng Vũ Cấm Thư (chưa hiệu chỉnh độ số Tốn Khôn), san định bởi Dương Quân Tùng, có đề cập đến cuộc đất “Kỳ cổ vạn lý binh” núi Nghĩa Lĩnh, khẳng định chính là thế Tam Tài:

Doanh trại trùng trùng vạn dặm mây,

Tướng hùm chủ soái định mưu hay.

Nước vờn châu ngọc lung linh sáng,

Núi dựng trăng sao rạng rỡ bày.

Chánh án đã thành hình chữ Phẩm,

Bản sơn còn hỏi thế Tam Tài.

An bài tuy đó lòng Thiên Địa,

Nhãn lực cao thâm cậy sức Thầy.

Ta thấy ngay ba ngôi đền ứng với Tam Tài, Đền Thượng ứng với Thượng thế - Cõi Trời. Đền Trung ứng với Trung thế - Cõi Đất nhân gian. Đền Hạ ứng với Hạ thế - Cõi Nước. Ngoài ra, ta cũng thấy ba ngôi đền trên núi mang hình ảnh chữ “Tam”, nối ba ngôi đền là nét thẳng đứng trên cùng một ngọn núi, gộp lại ta có chữ “Vương”, như thế, núi Hùng với ba ngôi đền mang nghĩa Vương ta có Hùng Vương. Để khẳng định, chúng ta cần xem lại bộ tranh thờ Hành Say của dân tộc miền Bắc Việt Nam.

Hành Say

Dân tộc miền Bắc Việt Nam

Như vậy, Đền Thượng sẽ ứng với Tam Thanh, Đền Trung ứng với các vua Hùng và đền Hạ ứng với Mẫu Âu Cơ và nhị vị công chúa, đây chính là một trong những ý nghĩa quan trọng trong quá trình xem xét bố cục Đền Hùng.

Đền Hạ: Bố cục nhữ Nhị, đền có 4 cỗ long ngai, trong đó 3 cỗ long ngai chính diện có bài vị thờ ghi: Ất Sơn Thánh vương vị - Đột ngột Cao sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh vương vị - Viễn Sơn Thánh Vương Vị, còn cỗ long ngai thứ 4 không có bài vị. Chúng tôi nhận định ban thờ chính giữa là thờ Chúa Mẫu Thoải - Mẫu Âu Cơ, ban thờ bên trái thanh long là ban thờ công chúa Tiên Dung - chính thất của Chử Đồng Tử và ban thờ bên phải bạch hổ là ban thờ công chúa Ngọc Hoa - chính thất của Tản Viên Sơn Thánh. Cõi Dưới này là địa bàn chính của Lạc Long Quân vì vậy mà tại nơi đây cho là chỗ mẫu Tổ Âu Cơ sinh ra một cái bọc trứng nở ra trăm con (bọc trứng Cóc nở ra 100 con nòng nọc). Biểu tượng thủy phủ ở vịnh Hạ Long trong biển Thái Bình dương, của Lạc Long Quân trong toàn cục phong thủy địa cầu. Lạc Long Quân chính là Bạch Long tức con Rồng Trắng, có đuôi vươn dài thành đảo Bạch Long Vĩ.

Nếu căn cứ vào bố cục mặt bằng của các ngôi chùa như đã trình bày, thì có lẽ trước đây, tại Đền Hạ đã từng có một tòa tháp cao 12 tầng - Thập Nhị Trùng Lâu nằm bên tay phải đền, đối ngược với Đền Giếng qua trục nối ba ngôi đền.

Đền Trung: Được xây dựng theo kiểu chữ Nhất, đền có 4 cỗ long ngai, trong đó 3 cỗ long ngai chính diện có bài vị thờ ghi: Ất Sơn Thánh vương vị - Đột ngột Cao sơn Cổ Việt Hùng Thị thập bát thế Thánh vương vị - Viễn Sơn Thánh Vương Vị, còn cỗ long ngai thứ 4 không có bài vị. Chúng tôi nhận định ban thờ chính thờ các vua Hùng, ban thờ bên trái thanh long thờ vua Lạc Long Quân, ban thờ bên phải thờ vua Hùng Quốc Vương. Bố cục ban thờ này xem xét phối hợp với bố cục phong thủy miền Bắc như đã phân tích về Thăng Long Tứ Trấn ở các chương trước. Đền Trung - tục truyền đây là nơi các vua Hùng thường họp bàn việc nước cùng với các Lạc hầu, Lạc tướng; đây cũng là nơi hoàng tử Lang Liêu (Hùng Vương thứ VII) đã dâng bánh chưng, bánh dầy để tỏ lòng hiếu thảo với vua cha và tổ tiên đất nước.

Gian giữa Đền Trung có bức đại tự: Hùng Vương Tổ Miếu tức Miếu Thờ các vua Hùng. Gian bên phải: Triệu Tổ Nam Bang tức Tổ muôn đời của nước Nam. Gian bên trái: Hùng Vương Linh Tích tức Vết tích linh thiêng của vua Hùng.

Đền Thượng: Bố cục chữ Tam, Đền Thượng còn gọi là Điện Kính Thiên, trên chánh môn có bốn chữ đại tự: Nam Việt Triệu Tổ tức Tổ muôn đời của nước Nam. Tương truyền chính tại nơi đây, vua Hùng Vương thứ VI đã lập đàn tế trời cầu thiên tướng xuống giúp đánh giặc Ân. Phù Đổng Thiên Vương đã ra đời giúp vua dẹp tan quân thù, sau đó ngài lên núi Sóc Sơn bay về trời, vua Hùng Vương thứ VI nhớ ơn đã lập đền thờ. Dân gian còn lưu truyền lời ngài: “Đừng quên an táng ta trên núi Cả, để muôn đời đứng trên núi cao ta giữ gìn toàn bờ cõi cho con cháu”. Đền có 4 cỗ long ngai, trong đó 3 cỗ long ngai chính diện có bài vị thờ ghi: Ất Sơn Thánh vương vị - Đột ngột Cao sơn hiển hùng ngao thống thủy điện an hoằng tế chiêu liệt ứng quảng huệ y diễm vệ hàm công Thánh Vương Vị - Viễn sơn Thánh vương vị, còn cỗ long ngai thứ 4 không có bài vị. Căn cứ nội dung các bộ tranh thờ Đạo giáo dân gian miền Bắc, Việt Nam thì nơi đây chính là ban thờ Tam Thanh gồm Nguyên Thủy Thiên Tôn - Thần Nông, Linh Bảo Thiên Tôn - Đế Tiết và Đạo Đức Thiên Tôn - Đế Thừa và các vị thánh thần của cõi Thượng Thiên.

Theo truyền thuyết, Đền Thượng trước đây còn có một “hạt lúa thần” chạm khắc bằng gỗ to như chiếc thuyền câu, điều này lại một lần nữa chứng minh nhận định nơi đây thờ Tam Thanh là hợp lý, vua Thần Nông chính là Nguyên Thủy Thiên Tôn trong Đạo giáo. Trong vòng Hoàng Đạo, con sư tử là biểu tượng của vua Thần Nông, còn con chim ưng là vua Lạc Long Quân - Thánh nhân của thế giới, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng tiên tri rằng:

Đến khi ưng về sư tử dậy,

Thái bình mới tỏa khắp non sông.

Tại đền Vân Luông (Vân Long), xã Vân Phú, Lâm Thao, Việt Trì được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XVII và đã qua hai lần trùng tu, sửa chữa. Trên cửa võng đền có bức đại tự “Thánh cung vạn tuế”, trên thượng cung đặt 3 cỗ long ngai sơn son thếp vàng, chạm kênh long thờ các vua Hùng, có bài vị ghi: Đột ngột cao sơn đại vương, Ất Sơn đại vương và Viễn Sơn đại vương. Phía trái hậu cung đặt hai cỗ long ngai cũng sơn son thếp vàng, thờ bản địa đại vương (Tham khảo cuốn Việt Trì - Kinh đô Văn Lang, di tích và lễ hội, tác giả Lương Nghị, Nxb Văn hóa Thông tin, 2011). Qua dữ liệu lịch sử khám phá trong các chương trước, cùng với cấu trúc thờ đền Vân Luông, chúng ta đi đến nhận định rằng: cỗ long ngai thứ 4 trong Đền Thượng thờ Hoàng Kỳ Thổ Địa, tương ứng với vua Đế Minh và bà Đỗ Quý Thị - Hương Vân Cái Bồ Tát; cỗ long ngai thứ 4 tại Đền Trung thờ vua Đế Nghi và chính thất của ngài; cỗ long ngai thứ 4 tại Đền Hạ thờ Ba Công Đại Vương tức Nguyễn Minh Nhân và chính thất của ngài. Các vị là Tam Từ trong Đạo giáo tức Tam Tòa Đức Chúa Ông: Đế Minh, Đế Nghi và Nguyễn Minh Nhân cùng tam vị phu nhân. Hình ảnh của các vị cũng chính là chòm sao Tam Thai trên bầu trời thiên văn thuộc Tử vi viên theo từng cặp đôi. Tại Đền Hạ như đã phân tích ở các chương trước, thời cổ còn có một cái tháp trùng lâu cao 12 tầng, 8 mặt bố trí các tượng Phật, cửa vào chân tháp có Bát Bộ Kim Cương trấn giữ, nằm phía bên phải của ngôi đền, có vai trò như tháp Văn Xương, đồng thời cũng còn mang ý nghĩa “tháp xây cao là để các vị Phật giáng lâm”.

Chúng ta cũng có nhận định rằng: nội dung các bài vị là ngưỡng vọng về công đức của các vị vua Hùng đã xây dựng nên giang sơn, gấm vóc này, tuy vậy chúng tôi nhận định các bài vị gốc thực sự là hoàn toàn để trống, không ghi bất cứ một nội dung nào. Điều này hàm ý biểu tượng cho “Tính Không” hay “Tuyệt đối”.

Bên phải Đền Thượng là “Cột đá thề” của An Dương Vương, để xác định nguồn gốc di tích lịch sử này, chúng ta có thể nghiên cứu bài viết Giải mã lời thề trên phiến đá cổ nghìn năm tuổi, tác giả Tuệ Minh, lược trích:

Cuốn ngọc phả lưu ở Đền Hùng, đoạn nói về sự kiện Vua Hùng thứ XVIII (Duệ Vương) nhường ngôi cho Thục Phán và Thục Phán lên núi Nghĩa Lĩnh dựng đền thờ Vua Hùng, lập hai trụ đá thề, tạm dịch như sau: Hôm sau Tản Viên can vua rằng: nhà Hùng hưởng nước trải đã lâu, ý hẳn lòng trời có hạn mới khiến Thục Vương thừa lúc hở cơ đánh lại ta. Vả lại, nước Thục vốn là chủ bộ Ai Lao cũng là tông phái Hoàng Đế trước đây vậy. Thế nước chẳng được yên đều bởi tiền định. Vua tiếc gì một cõi phương Nam mà trái ý trời để hại đến sinh linh... Vua nghe theo, đưa thư cho Thục Vương bèn nhường cả nước. Thục Vương sai sứ lại ta. Vua nhân đó trao cho Thục Vương nỏ thần… Thục An Dương Vương được nước cảm kích việc nhường ngôi của Duệ Vương công đức bằng trời đất. Bèn dóng xe về núi Nghĩa Lĩnh dựng giao đài để cho nước nhà thờ phụng. Dựng hai trụ đá ở giữa núi chỉ lên trời mà khấn rằng: “Nguyện có trời cao lồng lộng soi xét chẳng sai, nước Nam trường tồn lưu ở miếu vũ Hùng Vương. Ví bằng vua sau nối nghiệp trái ước nhạt thề thì sẽ bị trăng búa gió rìu vùi dập làm cho cô độc”.

Lưỡng thạch trụ

Ảnh tham khảo

Sự kiện vua Hùng Duệ Vương và Thục Phán - An Dương Vương chém vào vào đá lập lời thề tại Đền Hạ, cũng được Bồ Tát Nguyễn Minh Không ngụ ý nhắc lại trong cuốn Tam Quốc Chí, tại Hồi 54: Ngô Quốc Thái đến chùa xem rể hiền - Lưu Hoàng Thúc động phòng cưới vợ mới”.

Bèn cũng cầm một thanh gươm bảo Huyền Đức rằng:

- Tôi cũng xin trời một quẻ, nếu phá được giặc Tào cũng chặt hòn đá này vỡ làm đôi.

Rồi Quyền khấn lầm rầm:

- Nếu lấy lại được Kinh Châu, hưng vượng Đông Ngô, thì xin chém hòn đá này làm hai mảnh!

Quyền liền vung kiếm, chém một nhát, hòn đá lại toác làm hai mảnh nữa.

Đến bây giờ vẫn còn di tích hai hòn đá có vết chữ Thập, gọi là “Hòn đá căm hờn”.

Người sau thăm nơi thắng cảnh đó vịnh thơ rằng:

Tảng đá trơ trơ trước Phật đài,

Gươm đưa một nhát, toác làm đôi,

Quả nhiên hai nước cùng hưng vượng,

Thiên hạ chia ba bởi mệnh trời!

Hai người cùng bỏ gươm xuống, dắt nhau vào tiệc, lại uống thêm vài tuần rượu nữa. Tôn Quyền đưa mắt cho Huyền Đức, Huyền Đức mới từ tạ rằng:

- Tôi không uống được nhiều rượu, xin cáo thoái.

Tôn Quyền tiễn ra trước cửa chùa Cam Lộ, hai người đứng ngắm phong cảnh sông núi. Huyền Đức khen rằng:

- Đây mới thực là giang sơn bậc nhất trong thiên hạ!

Đến nay trong chùa Cam Lộ có bức hoành để mấy chữ: Thiên hạ đệ nhất giang sơn. Người sau có đề một bài thơ rằng:

Núi non chen chúc, Ốc Xanh trồng,

Phong cảnh nhìn xem cũng lạ lùng.

Nào chỗ anh hùng chơi thuở trước,

Hẳn nơi sườn núi tựa dòng sông.

Trong khi hai người đang đứng ngắm nghía, bỗng nhiên trời nổi gió to, dưới sông sóng dâng cuồn cuộn, chợt thấy một chiếc thuyền nhỏ, đi trên mặt nước, vững vàng như đi trên cạn, Huyền Đức than rằng:

- Đất Bắc cưỡi ngựa, miền Nam bơi thuyền, quả nhiên có thế thật!

Tôn Quyền nghe nói, nghĩ rằng:

- Huyền Đức có ý khinh ta không biết cưỡi ngựa chăng?

Lập tức sai người dắt ngựa đến, nhảy phắt lên tế xuống chân núi, rồi lại phi lên tận đỉnh núi, cười bảo Huyền Đức rằng:

- Người miền Nam không biết cưỡi ngựa sao?

Huyền Đức nghe nói làm vậy, cũng vén áo nhảy lên ngựa, phi xuống núi rồi lại phi lên, hai người kìm ngựa đứng trên đỉnh núi, giơ roi cười khúc khích với nhau, vì thế chỗ ấy gọi là gò Trụ Mã.

Người sau có thơ rằng:

Rặng đá quanh co ngựa ruổi rong,

Dừng cương đỉnh núi ngắm non sông.

Đông Ngô, Tây Thục nên vương bá,

Trụ Mã nghìn thu vững tựa đồng.

Khi ấy hai người lại sóng đôi ngựa trở về. Nhân dân Nam Từ, ai nấy đều nức nở khen ngợi.

Ở phía bên phải là lăng vua Hùng Vương thứ VI, theo truyền thuyết thì vua Hùng Vương thứ VI đánh đuổi được giặc Ân với sự trợ giúp của Phù Đổng Thiên Vương, về sau truyền lại ngôi cho thái tử thứ XVIII là Lang Liêu, người làm ra bánh chưng bánh dầy. Lăng có các chữ đại tự: Hùng Vương Lăng. Cửa chính của có đôi câu đối:

Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà, non nước vẫn quay về đất tổ.

Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc, giống nòi còn biết đến mồ ông.

Lăng vua Hùng Vương VI là một chứng tích ghi nhận lại thời kỳ chiến tranh với giặc Ân, sự kiện này cũng được ghi nhận trong Kinh Dịch. Có lẽ, dự báo trước sự phát triển tự nhiên của xã hội, tất những cuộc chiến tranh tới lúc cũng sẽ phải xảy ra, vua Hùng Vương VI đã tổ chức tổng kiết tập lại toàn bộ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng, điển hình là cuộc thi tài mà hoàng tử Lang Liêu chiến thắng với cặp bánh chưng bánh dầy biểu tượng cho Trời Đất. Đặc biệt, trong các chương trước cũng đã chỉ ra vị trí sao Kim và sao Thủy trong Hệ Mặt Trời cần phải đảo lại vị trí - đây chính là điểm ghi nhớ hình ảnh lăng vua Hùng Vương VI (Thái Bạch Kim Tinh trong Đạo giáo) nằm phía bên trái Đền Thượng.

“Bác Hồ tâm linh” cũng có giáng một số các bài thơ với nội dung hết sức thâm thúy và ý nghĩa về cấu trúc mật mã của bàn thờ liên quan đến Thánh địa:

Mới có bàn thờ này,

Đã trải bao đắng cay,

Cho đến ngày bừng sáng.

Nay đến ngày đến tháng,

Sáng đất Mẹ Rồng Tiên,

Để đón chào Trạng Nguyên,

Sang thế kỷ hai mốt.

Bác trở về làm nốt,

Cuộc “Thế giới đại đồng”,

Lo thống nhất non sông,

Cờ hồng bay muôn thuở.

Con gái Bác vì đời vất vả,

Nhận sóng tâm linh gia phả Vua Hùng,

Núi Hùng, Nghĩa Lĩnh đầu tiên,

Đó là Đền Tổ ở miền Phong Châu.

Sơ khai từ thuở ban đầu,

Vua Hùng dựng nước nhiệm màu hào quang,

Đó là gọi nước Văn Lang,

Cờ Tiên bảy ngọn vô bờ hiển linh.

Long Hoa khai sáng khai minh,

Hư Không Địa Mẫu hóa sinh muôn loài.

Đạo Phật có một không hai.

* Cờ hồng: quốc kỳ - cờ đỏ sao vàng.

* Cờ Tiên: Cờ Thần hay còn gọi là cờ Tua, có thêu chòm sao Bắc Đẩu ở chính giữa.

* Hư Không Địa Mẫu: Hương Vân Cái Bồ Tát, Phật Bà Quan Âm, Cửu Thiên Huyền Nữ.

Trong bức tranh Hành Say, dân tộc Dao Lô Gang, xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn có các chữ mang ý nghĩa của mỗi bức tranh: bức tranh giữa Tổng Đàn có các chữ: Phước Lộc Thọ. Bức tranh bên trái Hải Bá có các chữ: Hựu Khang An tức giúp cho an khang - thái bình. Bức tranh bên phải Thái Vĩ có các chữ: Bảo Bình An tức bảo vệ cho sự bình yên. Dữ liệu này cho phép chúng ta nghi ngờ đây là nội fung hoành phi trên các ban thờ Đền Thượng với Hải Bá và Thái Vĩ là tướng soái Lão Long Cát và Toại Nhân thời vua Thần Nông - Nguyên Thủy Thiên Tôn.

Bộ tranh Hương chủ của dòng tranh Đông Hồ với ván in tranh chính có đề ba chữ Đức Lưu Quang trên ban thờ, hai bên là hai ván in chữ ThọPhúc khổ to. Hai bên nữa là mười ván in hai câu đối: Tứ thời xuân tại thủNgũ phúc thọ vi tiên được cách điệu thành hình hoa lá. Chúng ta cũng biết “Con gái nhờ phúc cha, con trai nhờ đức mẹ” và chúng ta cũng nghi ngờ đây là nội dung hoàng phi và câu đối tại Đền Hạ. Còn các bức hoàng phi và câu đối gốc tại Đền Trung cũng sẽ được nghiên cứu thêm.

Đền Giếng: Kiểu chữ Công, chính giữa thờ Nam Tào, Bắc Đẩu. Giữa tiền sảnh có bức đại tự: Ẩm thủy tư nguyên tức Uống nước nhớ nguồn. Giếng nước ở đình, đền, chùa thường được dân gian gọi là giếng trời hoặc mắt rồng. Giếng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người Việt xưa, cùng với hình ảnh cây đa, cây đề, cây si, cây sung, đền chùa, miếu mạo, cổng tam quan làm thành các thôn xóm, làng mạc, đô thành của đất nước. Nước giếng thiêng của Đền Hùng thường dùng để ban cho những người cầu tự, cầu mong sức khỏe.

Chùa Thiên Quang: Được xây dựng vào thời Trần, có tên gọi là “Viễn Sơn Cổ Tự”, chùa xây dựng theo kiểu “nội Công ngoại Quốc”. Đến thế kỷ XV, chùa được xây dựng lại và đổi tên thành “Thiên Quang Thiền Tự”.

Thế đất Đền Hùng theo quy mô phong thủy ở tầm cỡ địa cầu là đẹp nhất, hoàn toàn thỏa mãn những điều kiện viết trong cuốn sách Hồng Vũ Cấm Thư:

Đất báu trời sinh cảnh lạ lùng,

Vương hầu phát tích khó xem thông.

Long môn ấn kiếm cùng khuê hốt,

Hổ trướng thùy châu với giáp nhung.

Huyền vũ núi gươm trăng dọi nước,

Nam phương trống trận giáo như rừng.

Đại Hồ một cõi riêng trời ấy,

Đừng tưởng vương hầu giấc mộng ngông.

Dễ dàng nhận thấy nội dung bài thơ này chỉ ra phía thanh long sẽ có ấn tín, kiếm lệnh và khuê hốt, còn phía bạch hổ sẽ có bộ giáp nhung và mũ trụ của đại tướng soái. Các biểu tượng và võ phục tương ứng với ban thờ của hai vị Hộ quốc đại vương Tản Viên Sơn Thánh và Xung thiên đại vương Thánh Gióng ở hai bên ban thờ chính nằm giữa.

Quốc gia tín bảo

Cổ vật nhà Nguyễn, Việt Nam

Mô tả một kỳ địa gồm đủ các chi tiết chính phụ, nằm trong “La Thành Viên Cục”, khi thế sum nghiêm châu mật có đủ quân thần tá sứ. Đại cục như thế đó, nhưng các sách địa lý phong thủy cổ ít khi dám bàn đến:

Ngũ tinh cách tú triều nguyên,

Kim mộc thủy hỏa bốn bên loan toàn.

Thổ tinh kết huyệt trung ương,

Ất đất sinh thánh sinh vương đời đời.

Thiên sơn vạn thủy triều lai,

Can chi Bát quái trong ngoài tôn nghênh.

Nhị thập bát tú thiên tinh,

Tại Thiên chiếu Địa rành rành chẳng sai.

Tổng quát đền Quốc Tổ Hùng về cấu trúc và trang trí mang trọn vẹn ý nghĩa học thuyết Âm Dương Ngũ Hành - học thuyết thống nhất vũ trụ, cốt lõi của văn hóa Việt. Đồng thời, cũng là nơi hội tụ tâm linh thế giới, bởi nơi đây là mảnh đất tổ linh thiêng của các dân tộc thuở 5.000 năm trước. Đền Hùng với các cỗ long ngai có bài vị đã được xác định các thần thánh nước Việt, tuy nhiên thần vị đã được an, không được di chuyển, cho dù ở bất cứ ngôi đền, đình, chùa, miếu mạo, nhà cửa nào. Bồ Tát Nguyễn Minh Không cũng đã nhắc nhở vấn đề này trong Tam Quốc Chí tại Hồi 69: “Bói Chu Dịch, Quản Lộ biết cơ trời - Đánh giặc Hán, năm người đều tử tiết”:

Tháo mừng lắm, lập tức sai người đến Bình Nguyên mời Quản Lộ. Lộ đến, Tháo sai bói việc Tả Từ. Lộ nói: Việc ấy chẳng qua là một phép ảo thuật, có việc gì mà phải lo!.

Tháo yên tâm, từ đó dần dần khỏi bệnh. Lại sai Quản Lộ bói việc thiên hạ. Lộ gieo quẻ xong, nói: Ba Tám tung hoành, lợn vàng gặp hổ, mé Nam núi Định Quân, tất gãy một cánh tay.

Tháo lại sai bói xem mình truyền ngôi được dài hay ngắn. Lộ bói xong, nói: Trong cung sư tử, để yên thần vị, Đạo vương đổi mới, con cháu rất quý.

Tháo hỏi lại cho rõ. Lộ thưa rằng: Số trời mờ mịt, khó biết trước được, để nghiệm về sau thì khắc biết.

Cùng với Đền Hùng, còn có một địa điểm hết sức quan trọng đó là nơi hóa thánh của các bậc tiên liệt đã được mật mã trên bãi đá cổ Sapa, vùng Tây Bắc Việt Nam. Đây là một trong ba hoặc bốn bãi đá cổ lớn có những ký tự bí ẩn còn lại trên thế giới, bãi đá cổ này được phát hiện vào khoảng từ năm 1924-1926 do các nhà khoa học Pháp. Các nhà khảo cổ cho rằng chúng được tạo nên từ khoảng hơn 2.000 năm nay và thuộc về di sản của người Việt cổ.

Bản đồ Phong Châu khắc trên đá cổ Sapa (khi quân thù bị đánh bại)

Golonbev và Levy: Tài liệu của thư viện Quốc gia Trung Ương

Chú thích bản đồ Phong Châu:

1. Đường nét màu xanh là sông Hát (Hát Giang và các chi nhánh chảy theo nhiều hướng).

2. Các ô màu vàng úa là các khu ruộng lúa nước.

3. Vòng tròn nhỏ là tiền đồn bảo vệ Kinh đô Phong Châu (màu đỏ).

4. Vòng tròn nhỏ có chữ T1 là đồn binh trạm truyền tin (màu đỏ).

5. Khu có các ô tứ giác là các khu dân cư (màu đỏ).

6. Vòng tròn to có nhiều hình hướng tâm (màu đỏ) là trung tâm Kinh đô Phong Châu (gồm: Vân Lôi, Trạch Lôi, Huyền Kỳ, Khả Lãm, Thuần Lãm).

7. Vòng tròn ô giữa khu ruộng lúa là đồn binh, nay ở Thanh Cao, Cao Viên (màu đỏ).

8. Hình người 2 thân, đầu có tia mặt trời (màu đỏ) là khu mộ Đế Xứ (khu mộ Vua Hùng đời thứ nhất).

9. Nghĩa địa (nay ở Bích Hoà) vùng có nhiều hình người nhỏ gồm ký hiệu E.

10. Hình đầu người có tia mặt trời, giữa 2 chân là vòng tròn kép là mộ Quốc tổ Lạc Long Quân (ở Cao Thượng, vùng Bình Đà).

11. Có ký hiệu E1 bên cạnh là nơi sản xuất chế tạo vũ khí.

12, 13. Có hình người là các điểm dân cư ở rải rác làm các nghề khác nhau.

14. Đường đen có viền răng cưa là chiến luỹ.

15. Các hình bi tròn bé trên bờ sông Hát (64 hòn) là trận địa (về sau gọi là Đỉnh Nhĩ).

Theo truyền lại thì bản đồ này có từ thời các Vua Hùng đã khắc ở bãi đá cổ SaPa, được các vị tiền bối sao lại để ở đồn Thượng (khu Kinh đô cổ ở Thanh Oai). Sau này, bọn Tây lấy in ra và lưu tại Thư viện Quốc gia Trung ương. Nhóm sưu tập qua nhiều tài liệu, nghe truyền lại và dùng phương pháp ngoại cảm xác định theo chú thích trên.

Sơ đồ 11& 12 trên đây là bản đồ Phong Châu (Phong Châu đồ bản) do Goloubev (1878-1945) là nhà nghiên cứu học phương Đông người gốc Nga. Ông làm việc nhiều năm ở Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội đầu thế kỷ 20. Ông cùng đồng nghiệp Levy chụp lại bức ảnh trên từ bãi đá cổ Sapa và lưu giữ được ở Thư viện Quốc gia Trung ương.

Những chữ Hán trong bản đồ là từ bản cũ, còn từ Việt là do giải thích ghi kèm theo (về sau).

Phong Châu có nghĩa là kinh đô của Gió (cung Tốn trong Bát quái), hay kinh đô của phương Tây, điều này mang ý nghĩa chính là kinh đô của Thần Chết, tương tự nền văn hóa Ai Cập cổ đại, các Pharaoh được được mai táng trong các kim tự tháp nằm bên bờ Tây sông Nile. Như vậy, tấm bản đồ khắc trên những hòn đá cổ Sapa ở trên thể hiện chính xác nơi chôn cất các vua Hùng trong lịch sử. Phong Châu là tên bộ trung tâm của 15 bộ nước Văn Lang cổ đại, rõ ràng tên kinh đô hành chính không phải ở Hà Tây mà là một nơi thích hợp phong thủy địa lý, đặc biệt thường gắn kết với những nền văn minh nằm cạnh những dòng sông lớn, ứng phần Bắc Bán Cầu thuộc hữu ngạn sông Hồng chính là Long Thành, Hà Nội ngày nay, như đã chứng minh trong các chương sách. Những địa điểm này đã được ghi chép chính xác trong gia phả các dòng họ, chúng ta hãy cùng tham khảo một phần dữ liệu địa chí tối quan trọng:

Chùa Tây Phương và Chùa Cực Lạc là hai ngôi chùa cổ ở Xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất. Theo phả cũ Đế Thiên Phục Hy định đô ở vùng này, Đế Thiên Phục Hy được thờ ở Thiên Cổ Miếu trên núi chùa Tây Phương, còn chùa Cực Lạc là nơi thờ Địa Mẫu. Cụm di tích động Hoàng xá, chùa Vàng ở Hoa Vôi, Quốc Oai, Hà Nội là nơi thờ và có mộ vọng Viêm Đế - Thần Nông.

Lịch Đại Đế Vương (cụ Hòa Hy)

Đình Vân Lôi, xãnh Bình Yên, Thạch Thất, Hà Tây

Gò Sở - Mộ vua Thần Nông ở cánh đồng trước núi chùa Trầm, Chương Mỹ, Hà Nội. Trên gò có cây hoàng anh (cây duối) cổ thụ. Gần đó có mộ Lão Long Cát thầy dạy của ngài (ảnh lư liệu). Chùa Trầm còn gọi là chùa Long Châu, tọa lạc ở xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ. Địa thế chùa rất đẹp với các núi nhỏ chung quanh như núi Ninh Sơn, Đồng Lư, Tiên Lữ. Thật ra, đây là một cụm danh lam thắng cảnh với núi Trầm và ba ngôi chùa cổ: Chùa Trầm Vô Vi, chùa Trầm Hang và chùa Long Tiên. Chùa được xây dựng thời Lý ở chân núi Tử Trầm.

Chính điện Đình thờ Đức Thánh Cả (Đế Tiết) và Đức Thánh Hai (Đế Thừa Sở Minh Công)

Mộ Đế Thừa Sở Minh Công ở Gò Sở, Quang Lãm, Thanh Oai.

Mộ của vua Đế Minh ở xã Thắng Hiền, Hương Lang, Khương Thượng.

Chùa Vân La tên chữ là Đăng Vân ở thôn Vân La, xã Văn Khê, thành phố Hà Đông thờ cụ Đỗ Quý Thị, Hương Vân Cái Bồ Tát, Phật Bà Quan Âm. Mộ táng ở Ba Lôi trong chùa Bồ Tát Đa Tát, Ba La.

Trước kia còn miếu thờ tám vị trên ở gò Thiềm Thừ (Con Cóc) vùng Ba La và có hai bia đá hình trụ (cao trên 1.0m, trụ 4 mặt, mỗi bề rộng 40cm, đỉnh trụ có một con cóc ôm quả địa cầu).

Mộ Kinh Dương Vương ở Văn Nội, Phú Lương, quận Hà Đông. Trong vùng được coi là kinh đô cổ còn bảo tồn hàng chục khu miếu mộ thờ các dòng vua Hùng ở các làng Thượng, gọi là khu mả Đế. Các cây cổ thụ trồng ở khu di tích thường có cây hoàng anh mộc (cây ruối).

Mộ Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Tây Vương Mẫu, Phật Mẫu, chính thất vua Kinh Dương Vương ở thôn Vân La, còn gọi là khu Xích Hậu.

Mộ Mẫu Thượng Ngàn

Ông Nguyễn Văn Tằng chỉ vị trí đã bị san lấp (trích Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nhóm nghiên cứu thời tiền sử, chủ nhiệm cố giáo sư Đỗ Tòng).

Đình Nội Làng Bình Đà, xa Bình Minh, huyện Thanh Oai, Hà Nội thờ Lạc Long Quân và đình Ngoại thờ Lý Lang Công (theo phả cũ Lý Lang Công hay Ba công đại vương là chú của Lạc Long Quân).

Bà Âu Cơ, Chúa Mẫu Thoải, Quan Âm Bồ Tát có mộ an táng tại đồng Láng, Khả Lãm (Bác Lãm), đến thời Khải Định mộ mới chuyển về chùa Thượng Mạo với tên gọi là mộ bà Căn Kỷ.

Mộ Chúa Mẫu Thoải ở trước chùa Tường Quang ở Thượng Mạo, Động Lãm

Trích Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nhóm nghiên cứu thời tiền sử, chủ nhiệm cố giáo sư Đỗ Tòng

Trong đình Nội làng Bình Đà thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân còn giữ được bức giá Thánh rất cổ chạm hình Quốc Tổ và 9 người con trai, 10 đời truyền ngôi.

Làng Thầy nay gọi là Huyền Kỳ, xưa gọi là Huyền Nhạc, vốn là một cái thành thời Hùng Vương, nằm trong Long Biên thành, Bác Lãm trại. Tương truyền lại rằng: Nguyễn Như Lai, tức Đế Lai con Đế Nghi sang thăm con gái là Âu Cơ thấy cuộc sống Phong Châu tươi đẹp, no đủ, vui quên trở về, lại bắt dân cung phụng sơn hào, hải vị, nhiều người bỏ mạng trong rừng sâu hoặc biển cả, dân Văn Lang rất lấy làm bất bình bèn tâu với Lạc Long Quân. Lạc Long Quân biết mới bày cách đêm đêm cho người thay nhau giả làm quỷ đầu trâu, mặt ngựa gào thét đòi mạng xung quanh nhà, làm cho Đế Lai mất ăn, mất ngủ. Do quá mệt Đế Lai mới hỏi Lạc Long Quân làm sao giải được cái nạn ma quỷ này, Lạc Long Quân trả lời rằng: “Nhà vua đã từng sát hại loài vật rất nhiều để làm thức ăn cho cung tần, mỹ nữ, người chết vì săn bắn cũng nhiều, hồn oan còn vương vấn, muốn báo thù, khó mà giải được. Nhà vua chỉ còn cách đi tu mới giải được, mà tu hành thì phải ăn chay (Tam quy ngũ giới)”.

Chùa Thầy

Tranh sơn mài, tác giả Nguyễn Trọng Hợp

Nguyễn Như Lai đến chùa Huyền Nhạc làm thầy chùa, bắt đầu ăn chay, Âu Cơ thấy nhà vua ăn uống đạm bạc, gầy hẳn đi, mới xin Lạc Long Quân cho ăn thêm thịt cá. Lạc Long Quân mới chuyển Đế Lai lên Sài Sơn, thuộc Quốc Oai, Hà Tây tu hành, để Âu Cơ không còn thấy cảnh bố đẻ ăn uống kham khổ nữa, và đoạn tuyệt với cung phi. Sau này đắc đạo được tôn làm Như Lai Phật Tổ. Huyền Nhạc gọi là làng Thầy, chùa Sài Sơn gọi là chùa Thầy, hai nơi này có quan hệ với nhau (xem Ngọc Phả Hùng Vương tái thế).

Thật là:

Đức độ dự sẵn mạch đọng che rủ phương Bắc,

Tiếng tăm lưu lại gìn giữ vinh hiển trời Nam.

Chính khí mạnh mẽ tích đầy bờ cõi,

Chân linh lẫm liệt suốt từ xưa tới nay. (Bài vị miếu thờ bà Tiên Lữ chính thất cua vua Thần Nông).

Tại Trung Quốc, các đền miếu hay lăng mộ của các vị đế vương từ Đế Minh trở lên chỉ là “thờ vọng” mà thôi, còn gốc tích vẫn ở tại Việt Nam. Trong gia phả, ghi chép Đế Lai sau khi thăm Văn Lang và tu luyện, rồi trở về lại Trung Quốc, cũng như không ghi chép mộ Đế Lai tại Việt Nam. Như vậy, chứng tỏ Đế Lai được an táng tại Trung Quốc, cùng với các hậu duệ sau này như Đế Chuyên Húc, Đế Cốc và Đế Chí.

Ngày nay, lăng mộ Thái Hạo ở phía Bắc huyện thành Hoài Dương tỉnh Hà Nam, Thái Hạo họ Phục Hy, theo truyền thuyết ông xem điềm trời, chế khí cụ, dạy dân săn bắn, đánh cá. Lăng Thái Hạo ở bên bờ Sái Hà, bách xanh rậm rạp, u nhã đẹp đẽ, lăng cao hơn 20m trên đỉnh hình vuông, dưới chân hình tròn với ý “trời tròn đất vuông”, vườn lăng có thành nội và thành ngoại, có cổng Ngọ triều, cổng Đạo nghị, cổng Tiên thiên, cổng Thái cực, cổng Thái thủy, lại còn điện Thống thiên, Hiển nhân. Lăng Viêm Đế ở Tây Nam huyện thành Linh Huyện ở Hồ Nam, Viêm Đế họ Thần Nông, truyền thuyết ông là người dạy dân trồng trọt, phát minh ra cây thuốc. Lăng Viêm Đế ở bờ ông Mễ Thủy, cây cổ thụ ngất trời, trang nghiêm đẹp đẽ. Lăng Hoàng Đế ở phía Bắc huyện thành Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây, Hoàng Đế họ Hữu Hùng, theo truyền thuyết có công lao cực kỳ vĩ đại, phát minh nhiều mặt, lăng Hoàng Đế ở đỉnh núi Kiều Sơn, Kiều (cầu) sơn hình như cái cầu, do đó mà thành tên. Sông Tử Thủy chạy xuyên qua lòng Kiều Sơn mà ra, uốn quanh núi rồi chảy về Đông, lăng Cao 3.6m, chu vi 48m, dưới chân Kiều Sơn có miếu thờ Hoàng Đế, tùng bách vây quanh, cây tùng cao nhất tới 19m, thân cây 7 người dang tay ôm mới hết. Lăng Thiếu Hạo ở phía Đông huyện thành Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, Thiếu Hạo họ Kim Thiên.

Lăng mộ “vọng” Hoàng đế Hiên Viên (tức vua Đế Minh - Phật A Di Đà)

Kiều Sơn, Thiểm Tây, Trung Quốc

Nghiêu Lăng ở phía Đông thành Lâm Phần tỉnh Sơn Đông, vua Nghiêu hiệu Đào Đường thị, cạnh lăng có sông Lao Hà chảy qua. Lăng cao 50m, có vách đất bao quanh. Lăng vua Thuấn ở Đông Nam huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam, vua Thuấn hiệu Hữu Ngu thị. Lăng vua Thuấn phong cảnh rất đẹp ở Ngọc Quản Nham núi Cửu Nghị, theo truyền thuyết, vua Thuấn chôn ở đây xong thì thoát xác bay lên trời. Lăng Đại Vũ ở Đông Nam thành phố Thiệu Hưng, tỉnh Tỉnh Triết Giang, trên sườn phía Nam núi Cối Kê, từ núi Cối Kê có thể nhìn xa xa thấy biển Đông, dưới chân núi là sông Phố Dương và sông Tào Nga. Sách Ngô Thành Xuân Thu chép vua Vũ khi về già tự tìm đất chôn và bảo quần thần: “Sau khi ta trăm tuổi, chon ta ở núi Cối Kê, quan tài đồng, quách lau sậy, đào sâu bảy thước, hôm sau xuống tận suối, nấm cao ba thước, bậc đất ba tầng”. Ngoài ra lăng Chuyên Húc và lăng Đế Cốc ở thành phố Bộc Dương, lăng Thành Thang ở Bắc sông Oa Hà phía Bắc thành Hào Huyện tỉnh An Huy. Lăng Chu Văn Vương và Chu Vũ Vương ở thành Hàm Dương tỉnh Thiểm Tây… cơ hồ các bậc tiên hiền đều có lăng xây mộ, phần lớn do đời sau xây dựng, có bậc thánh hiền có lăng ở nhiều nơi như ở Hà Nam, Hà Bắc, Cam Túc đều có lăng của Hoàng Đế (Tham khảo cuốn Hướng gió, mạch nước, thế đất trong nghệ thuật kiến trúc, xây dựng nhà ở, Nxb Văn Hóa Thông tin, tác giả Vương Ngọc Đức, 1996).

Tây Tạng - xứ sở của tuyết tôn thờ Đại Nhật Phật làm trung tâm, tôn thờ Quan Âm Bồ Tát và Phật Di Lạc là tổ tiên của dân tộc cùng với Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và cụm phong thủy Tứ Linh, chính là mật mã đã được giải ghi nhận trong Thuyết quái truyệ, của Kinh Dịch: “Nói xong ở cửa Cấn” tức nói xong về những bậc thần thánh vĩ đại được tôn thờ những ngọn núi linh thiêng. Đồng thời, “Tứ Linh” chính là cụm di tích thần thánh mà “Bác Hồ tâm linh” cũng đã nói tới tại di chỉ Đá Trông.

Như vậy, chúng ta có thể lập được bảng tổng hợp gia phả cổ đại của Việt Nam và Trung Quốc như sau:

Trung Quốc

CỘI NGUỒN

Văn Lang

Truyền thuyết Đại Hồng thủy

Thủy Tổ Hồng Bàng Thị

Truyền thuyết Đại Hồng thủy

Truyền thuyết Bà Hoa Tư - mẹ vua Phục Hy.

Hòa Hy - Lịch Đại Đế Vương

Gia phả vua Hùng

Phục Hy - Thanh Đế: đặt tên nước Cực Lạc, đóng đô ở Phong Châu, Việt Nam

Phục Hy - Thần Nông - Đế Tiết - Đế Thừa - Đế Minh chính là Ngũ Đế chung của hai quốc gia. Đế Minh phân chia lãnh thổ Bắc - Nam Dương Tử, lập lời thề.

Thần Nông - Viêm Đế

Đế Tiết - Hoàng Đế

Đế Thừa - Bạch Đế

Đế Minh - Huyền Đế

Đế Nghi tức Đế Trực (em song sinh với vua Đế Minh) lên ngôi vua Bắc sông Dương Tử.

Truyền thuyết Hồng Bàng Thị và vua Đế Minh cùng với Đế Nghi và Kinh Dương Vương lập lời thề tại núi Thiên Đài, Hồ Nam, Trung Quốc (tới nay, di tích vẫn còn).

Đế Lai tức Đế Ly (con vua Đế Nghi) kế thừa ngôi vua của Đế Nghi

Vua Kinh Dương Vương (con vua Đế Minh) lên ngôi năm 2879 tr.CN - Hùng Vương I - Thiên Hoàng - nước Xích Quỷ phía Nam sông Dương Tử

Đế Chuyên Húc tức Đế Ai (được nhận định là anh em với bà Âu Cơ)

Con gái Đế Lai là bà Âu Cơ lấy vua Lạc Long Quân.

Vua Lạc Long Quân - Hùng Vương II - Địa Hoàng.

Đế Cốc tức Đế Khắc

Đế Cốc mang hình ảnh con “chim Cốc”.

Vua Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III - Nhân Hoàng - nước Văn Lang

Đế Chí tức Đế Du

Vua Nghiêu: 2347-2246 tr.CN (Đường Nghiêu)

Bang giao với việc Văn Lang tặng rùa thần có chữ Khoa đẩu, ghi lịch pháp và chuyện trời đất mở mang

Đời vua cuối cùng của chi Cấn - Hùng Vương III

Vua Thuấn: 2246-2204 tr.CN (Ngu Thuấn)

Vua Kinh Dương Vương - Vua Lạc Long Quân - Vua Hùng Quốc Vương là Tam Hoàng của nước Văn Lang

Vua Vũ: 2204-1766 tr.CN (Đại Vũ)

Hạ Vũ hội chư hầu tại Đồ Sơn, Hải Phòng, nước Văn Lang học kinh nghiệm trị thủy, ghi nhận trong Kinh Thư.

Truyện cổ dân gian Tấm Cám

Nhà Thương: 1766-1123 tr.CN

Thời vua Ốc Đinh gây cuộc chiến với Văn Lang được ghi nhận trong Kinh Dịch.

Hùng Hồn Vương - Hùng Vương VI, truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân

Nhà Chu: 1123-249 tr.CN

Bang giao với việc Văn Lang hiến chim trĩ trắng - sứ thần Văn Lang trở về bằng xe gắn kim chỉ nam (la bàn)

Hùng Định Vương - Hùng Vương IX (1100 tr.CN)

Thời Xuân Thu

Không được ghi nhận rõ ràng

Thời Chiến Quốc

Việt Sử Lược: Việt Vương Câu Tiễn sai người sang dụ, Hùng Vương cự lại

Nhà Tần (221-206 tr.CN)

Nhà Tần tấn công Văn Lang và thất bại, tướng Đồ Thư bị giết chết

Âu Lạc - vua An Dương Vương - đời cuối của chi Hùng Vương XVIII

Nhà Hán

Nhà Hán tấn công và chiếm nước Nam Việt

Nam Việt - Triệu Vũ Đế

* Hùng Vương Thứ III-VII cùng với Đế Lai - Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí là 9 hành tinh trong Hệ Mặt Trời, tạo thành biểu tượng Cửu Tinh trong phong thủy “Huyền Không phi tinh”.

Hình ảnh của các vị liệt tổ, liệt tông cũng được lưu giữ cẩn thận trong dòng tranh thờ Đạo giáo và tranh dân gian Hàng Trống của các dân tộc miền Bắc Việt Nam, sau đây là một số hình ảnh tham khảo được tôn thờ.

Thánh Chúa (Lạc Long Quân), Đạo Đức Thiên Tôn, Nguyên thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế

Tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc miền Bắc, Việt Nam

Gia phả ghi nhận thủy tổ của các dòng họ là Hồng Bàng, nếu chiết tự thì chữ Hồng là Nhiều và Nước, vậy Hồng Bàng tức là thủy tổ sau trận đại hồng thủy, chi tiết này hoàn toàn phù hợp với các câu chuyện về Đại Hồng Thủy của các dân tộc trên thế giới. Đấy là lý do tại sao, người Việt còn lưu giữ được thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng - mà kết quả phải trải qua hàng ngàn năm quan trắc, đo đạc thiên văn cũng như tổng hợp, nghiên cứu của loài người.

Bảng tổng hợp 35 câu chuyện Đại hồng thủy

Những câu chuyện Đại Hồng Thủy của người tiền sử, Minh trí tổng hợp

<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">

Tác giả Stephen Oppenheimer của cuốn sách Địa đàng ở phương Đông, Nxb Lao Động, 2005, trang 64-65 đã sử dụng đồ thị mực nước biển để mô tả các chu kỳ nạn hồng thủy được dựa trên công trình nghiên cứu của nhà hải dương học người Canada Paul Blanchon và các đồng nghiệp của ông. Mặc dù nó chủ yếu chỉ đề cập đến những nghiên cứu tại Barbados thuộc vùng Caribe nhưng đây là công cụ tốt nhất hiện có để mô tả ba trận đại hồng thủy. Đồ thị xác định rõ các mốc diễn ra nạn hồng thủy nhưng chưa phải là một phát hiện hoàn toàn chính xác, mà đúng hơn là một bản tổng hợp từ kết quả của một số nghiên cứu khác.

Đồ thị

Địa đàng ở phương Đông, Stephen Oppenheimer, Nxb Lao Động, 2005

Sự dâng cao đột ngột khoảng từ 5-10m của mực nước biển cách đây 8.000 năm đủ để những người theo “thuyết tai biến” tin rằng đây là một ứng cứ viên cho cơn đại hồng hồng thủy. Tuy nhiên, những báo cáo trên các tạp chí địa chất dường như cho rằng sự kiện này thậm chí còn thảm khốc và phức tạp hơn nhiều, mực nước biển có thể dâng đến 25m, ngoài ra như các huyền thoại đã nói, đợt dâng cao này nối tiếp bằng một đợt rút xuống. Trong cuộc hội thảo của Hiệp hội phát triển Khoa học Mỹ năm 1995 về những thay đổi mực nước biển trong quá khứ địa chất gần đây, một số người tham gia từng nghiên cứu những khu vực cách xa nhau như Greenland, phía Bắc Đại Tây Dương và Đan Mạch đã báo cáo về một sự kiện lớn xảy ra cách đây 8.000 năm, công trình nghiên cứu ở Đan Mạch cho biết: “Mực nước biển dâng cao 25m và sau đó rút xuống tại thời điểm cách đây 8.000 năm với mức 8-15cm/năm”.

Theo tiên tri trên vòng Hoàng Đạo tại đền Denderah Ai Cập thờ nữ thần bò cái Hathor, dấu ấn “hai dòng nước” mang ý nghĩa là “biển cả” mang ẩn nghĩa về đại hồng thủy là sự dâng nước của biển qua câu chuyện sư tử cái Sekhmet do thần Ra phái tiêu diệt loài người vì tội bất kính chống lại, quy chiếu giác độ trên vòng Hoàng Đạo tại điểm bắt đầu cuối cung Song Ngư cùng với hình ảnh thần chết cầm lưỡi hái tại cung Thất Nữ, ta thấy dự tính sự kiện này xảy ra khoảng năm 10.000 tr.CN, phù hợp với phân tích của Stephen Oppenheimer về trận đại hồng thủy thứ hai.

Biểu tượng “2 dòng sông” tại vị trí dưới chân sư tử cái Sekhmet nói về đại dương:

Hình ảnh thần Ra trước cung Thiên bình hình cái cân công lý có vẻ mang ý nghĩa của ngày phán xét giống như trận đại hồng thủy theo truyền thuyết phổ biến của các dân tộc trên thế giới, ngay phía dưới là hình ảnh con sư tử cái là biểu tượng của nữ thần Sekhmet với hai chân trước chặn lên hình vuông bao bọc hai làn sóng tức nước biển dâng lên trừng phạt loài người, chúng ta chú ý một làn sóng nước là nước mưa và ba làn sóng nước là biển nước Nun. Chúng ta cũng đã biết thần cá sấu Sebek cũng là hình bóng của thần Horus như đã trình bày, do vậy biểu tượng trên chính là ẩn dụ nạn hồng thủy. Hình ảnh con sư tử này được phân biệt rõ ràng với hình con sư tử đực là chòm sao Leo. Trên cân công lý là hình ảnh con chó nhỏ nhìn về hướng Đông Bắc khi xây đền Dendarah, cho ta nghĩ đến thần Tẩm Liệm Anubis trong thời kỳ trừng phạt này. Như đã trình bày hình bóng của thần Tẩm Liệm Anubis là con chó trên vòng tròn và vì vậy đứa bé với ngón tay trái chỉ vào miệng, tay phải để thõng trong vòng tròn trên điểm giữa cân công lý chính là phán quan khỉ đầu chó, biểu tượng cái tâm của con người. Vậy thì, sự trừng phạt loài người của sư tử cái Sekhmet sẽ đưa các linh hồn trở về cõi âm cung trước sự phán xét của thần Osiris bằng chính cái tâm của mỗi người qua cán cân công lý như bức tranh trong Sách của người chết. Sau đấy, những người còn sống sót trên thuyền đã lập lại cuộc sống mới với hình ảnh người mẹ bồng đứa bé.

Qua Tài liệu số 48 ngày 13/3/2012: Nghiên cứu những điều Cha Trời dự đoán nay trở thành thành hiện thực (trong vòng 10 năm), tác giả Lâm Thanh Điền - Tam Thiên Đại Đạo Phổ Hiền Bồ Tát - kênh thông tin của “Ngọc Hoàng Thượng Đế tâm linh” tại Trần đời, ghi nhận nhiều sự kiện trong đó có sự kiện cô Nguyễn Thị Vân Anh - được Ngọc Hoàng Thượng Đế tâm linh (vua Kinh Dương Vương) và thầy “Lương Minh Đáng tâm linh” - người sáng lập pháp môn Nhân Điện đã chấp thuận là người thay mặt cao nhất của pháp môn Nhân Điện tại Việt Nam và trên thế giới, đã có cuộc giao tiếp với các linh hồn của châu Atlantic: họ là một nhóm người rất đạo mạo, đẹp , tri thức, tự tin mà rất hối lỗi, buồn vô hạn đến nói với cô rằng: họ là PAMEAG (hay H gì đó), nhóm xiếc Goaltu từ châu Atlantic (536 người) bị nhấn chìm, lạnh, đau khổ… Hỏi tại sao các vị bị như vậy? Trả lời vì ích kỷ và kiêu ngạo. Hỏi tạo sao không có ai giúp các vị? Trong nhiều năm qua các vị vẫn ở đó? Trả lời rằng bây giờ mới tới hạn định, cảm ơn ân nhân đã giúp họ. Cô Vân Anh nói rằng: tôi không phải là ân nhân đâu, là học trò thầy Đáng, chắc Cha cho tôi làm việc với các vị, tôi sẵn sàng, các vị hãy cảm ơn Cha. Trả lời: Đưa chúng tôi về Cõi Sáng (cuộc giao tiếp kết thúc lúc 6h39’ ngày 10/03/2012).

Như vậy, truyền thuyết về châu Atlantic quả là có thật. Qua cuốn Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân, tác giả Erơnơ Mundasep, Nxb Thế giới, 2008, trích dẫn từ cuốn Học thuyết bí ẩn, tập II của bà Blavatxcaia (người sáng lập hội Thông Thiên Học) tại trang 56 viết: “… còn lại không nhiều (sau trận đại hồng thủy): vài người vàng, vài người nâu và đen và vài người đỏ. Còn lại Chủng tộc thứ Năm thoát thai từ thị tộc linh thiêng, họ điều khiển Các Thần Vua đầu tiên…”. Các Thần Vua, họ là ai? Trong sách của bà Blavatxcaia không nói tới. Trong cuốn truyện này, tác giả Erơnơ Mundasep đi tìm “Thành Thiên Đế” thời cổ xưa, kinh thành của các Đức Chúa Trời trên những vùng cao nguyên Tây Tạng, nhưng cũng chưa thể khẳng định di chỉ này ở nơi đâu.

Với học thuyết Âm Dương Ngũ Hành - học thuyết thống nhất vũ trụ có thể giải thích khởi nguyên của vũ trụ và nguồn gốc loài người - tất cả đều có môi quan hệ nhân quả với nhau và là một thể thống nhất trong các quy luật vận động và tương tác, chúng ta cùng tham khảo nội dung một cuốn sách của tác giả Trịnh Xuân Thuận:

Mỗi người trong chúng ta đều có hai bố mẹ, bốn ông bà, tám cụ cố và cứ như vậy tăng lên. Số tổ tiên của chúng ta tăng lên gấp đôi khi chúng ta ngược trở về một thế hệ torng cây phả hệ của chúng ta. Theo cách suy luận đó, nếu chúng ta ngược về 36 thế hệ, thì số tổ tiên của chúng ta sẽ là 236, tức là 70 tỷ người: bởi vì trung bình mỗi thế ệ cách nhau 25 năm, nên ngược trở lại ba mươi sáu thế hệ đồng nghĩa với việc quay ngược trở lại thời gian khoảng chín trăm năm, tức là ngược về tới năm 1100. Nếu chúng ta ngược về năm 0, vào thời điểm Chúa Jesus giáng sinh, thì số tổ tiên của chúng ta về lý thuyết sẽ là 1 triệu tỷ tỷ. Nếu các bạn nghĩ rằng những con số này là lớn không thể tin nổi, thì bạn có lý, vì chúng lớn hơn nhiều so với tổng số người (50 tỷ) đã từng số trên trái đất từ buổi bình minh nhân loại. Rõ ràng, những con số này nói với chúng ta rằng một người trong số chúng ta không thể có một cây phả hệ hoàn toàn tách biệt với cây phả hệ của những người khác. Nếu không, chúng ta sẽ có nguy cơ làm siêu tăng dân số của hành tinh này bằng những người chưa tồn tại. Vào một thời điểm nhất định trong quá khứ, nhất định những dòng phả phả hệ của chúng ta phải gặp nhau và hợp nhất với nhau.

Như vậy, khi lần ngược trở lại khá xa trong quá khứ, mới thấy rằng tất cả chúng ta hóa ra đều là anh em xa gần của nhau. Tất cả chúng ta đều có thể khoe mình là họ hàng xa của Thomas Jefferson (tác giả bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776), của hoàng đế Charlemagne thế kỷ IX, của Joseph và Marie vào năm “0” hay của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni năm 500 TCN. Trên thực tế, nếu chúng ta ngược lại đủ x, và vì bởi dân số nhân loại giảm dần khi ngược về cội nguồn, nên kết luật tất yếu rút ra là tất cả những người có mặt trên trái đất hôm nay đều xuất thân từ một tổ tiên chung. Kết luận khác thường này đã được các nhà nhân chủng học khẳng định, họ nói với chúng ta rằng trên thực tế tất cả chúng ta đều xuất thân từ một tổ tiên xa xôi sống trong một trảng cỏ châu Phi cách đây vài triệu năm và họ đặt tên là Lucy, theo bài hát của ban nhạc Beatles Lucy in the sky with diamonds.

Còn đáng ngạc nhiên hơn nữa: sự giải mã bộ gien người và các loài sinh vật khác cho chúng ta biết rằng sự hội tụ các cây phả hệ về một cây duy nhất không chỉ lie6b quan đến con người, mà còn liên quan đến tất cả các sinh vật khác. Chẳng hạn, chúng ta chia sẻ 99.5% số gen của chúng ta với loài tinh tinh. Điều này có nghĩa là chúng ta xuất thân từ một tổ tiên chung và rằng, nếu chúng ta có thể vẽ cây phả hệ của các con tinh tinh đủ xa, thì chúng ta sẽ thấy nó tất sẽ trùng với cây phả hệ của chúng ta vào một thời kỳ xa hơn nữa trong quá khứ. Điều đúng với tinh tinh cũng đúng với tất cả các sinh vật khác, từ cá heo đùa giỡn trong các đại dương đến những chú họa mi với tiếng hót làm chúng ta mê mẩn, những chú ve sầu rut a ngủ trong những đêm hè, đến những cây sồi lớn dọc theo các đường phố, đến những cây nấm phủ trên mặt đất rừng, đến những đóa hoa hồng làm chúng ta ngây ngất bởi hương thơm tinh tế của chúng… Dùng các sinh vật là người, động vật hay cây cối, những cành tách biệt của các cây phả hệ của chúng sớm hay muôn gì rồi đều sẽ gặp và nối kết với nhau để tạo thành một và chỉ một cây duy nhất - cây đời.

(Nguồn gốc - Nỗi hoài niệm về những thuở ban đầu, Nxb Trẻ, 2012, tác giả Trịnh Xuân Thuận)

Biểu tượng cho sự cùng chung nguồn gốc của nhân loại này chính là “cây đời” chính là “cây Đa” hay “Tam Đa”, mà các dân tộc cổ đại trên thế giới tôn thờ, mang ý nghĩa triết lý đại đồng chứ không phải là tình trạng thời thượng cổ tôn sùng vật tổ hay bái vật:

Cây đời sống

Tranh cổ dân tộc Aztec, Ai Cập và Mesopotamia

Từ triết lý về vũ trụ và nhân sinh, các học giả của các dân tộc trên thế giới đã sáng tác nên những tác phẩm văn học bất hủ với thời gian, ghi đậm dấu ấn của quy luật nhân quả, chiến tranh và hòa bình, thiện và ác như nhắc nhở tới nhân loại về một thế giới thống nhất và nơi có sự sống duy nhất - chính là trái đất hay hành tinh xanh này, và câu truyện cổ tích Thạch Sanh trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, chính là một trong những câu chuyện ấy.

Xưa ở quận Cao Bình có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con. Ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Ông thì sửa cầu, sửa cống, khơi rãnh, đắp đường. Bà thì nấu nước cho người qua đường uống. Việc làm của gia đình họ Thạch thấu đến trời, Ngọc Hoàng cho Thái Tử đầu thai xuống trần làm con nhà họ Thạch. Thạch bà thụ thai ba năm, chưa sinh con thì Thạch ông mất. Sau đó, Thạch bà sinh một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Thạch Sanh. Cách ít năm sau, Thạch bà cũng mất, Thạch Sanh sống côi cút một mình trong túp lều tranh dưới gốc đa với một mảnh khố che thân và một cái rìu đốn củi. Năm Thạch Sanh mười ba tuổi, Ngọc Hoàng sai tiên ông xuống dạy cho chàng các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.

Một hôm có anh hàng rượu tên là Lý Thông, đi bán rượu ghé vào gốc đa nghỉ chân, thấy Thạch Sanh khỏe mạnh, lanh lợi, ở một mình, bèn kết làm anh em và đưa Thạch Sanh về nhà.

Bấy giờ ở trong vùng có một con Trăn Tinh thường bắt người ăn thịt, quan quân nhiều lần vây đánh không được. Vì nó có phép thần thông biến hóa; nhà vua phải cho lập miếu thờ và mỗi năm nộp mạng một người cho nó. Năm ấy đến lượt Lý Thông phải nộp mình. Mẹ con Lý Thông nghe tin hoảng hốt, bàn mưu tính kế đưa Thạch Sanh đi thế mạng. Khi Thạch Sanh đi lấy củi về, Lý Thông đon đả mời chàng uống rượu và nói: "Ðêm nay anh phải đi canh miếu thờ trong rừng, nhưng trót cất mẻ rượu, anh đi sợ hỏng, nhờ em thay anh canh miếu một đêm". Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đi ngay.

Nửa đêm Chằn Tinh hiện về, giơ vuốt, nhe răng hà hơi, nhả lửa, định xông vào miếu ăn thịt Thạch Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh trổ tài đánh nhau với Chằn Tinh, cuối cùng chàng chém được đầu nó, đốt xác nó thành than, và thấy hiện lên trong miếu một bộ cung tên bằng vàng ngời sáng. Thạch Sanh mừng rỡ giắt búa, đeo cung và xách đầu Trăn Tinh chạy thẳng một mạch về nhà. Nghe tiếng Thạch Sanh gọi, mẹ con Lý Thông hoảng sợ, cho là oan hồn của Thạch Sanh sau khi bị Chằn Tinh ăn thịt, trở về nhà oán trách, bèn cất lời cầu khấn, van xin: "Sống khôn, thác thiêng em hãy tạm đi, ngày mai mẹ cùng anh sẽ mua sắm vàng hương, cơm canh, cỗ bàn cúng em chu tất!". Bấy giờ, Thạch Sanh mới biết rõ tâm địa và mưu kế của mẹ con Lý Thông nhưng chàng không giận, vẫn vui vẻ kể chuyện giết Chằn Tinh cho mẹ con họ Lý nghe. Lý Thông liền nảy ra một mưu thâm độc mới. Nó nói Chằn Tinh là báu vật nhà vua nuôi, ai giết sẽ bị tội lớn. Thạch Sanh lo sợ, Lý Thông bảo Thạch Sanh trốn đi cho an toàn, một mình y sẽ tự lo liệu thu xếp giúp cho.

Sau khi Thạch Sanh từ giã mẹ con Lý Thông trở về gốc đa xưa, Lý Thông đi ngay về Kinh, tâu vua là đã trừ được Chằn Tinh. Nhà vua vui mừng trọng thưởng và phong cho Lý Thông làm Ðô đốc quận công. Tiếp đó, nhà vua mở hội kén chồng cho con gái là công chúa Quỳnh Nga. Hội kén chồng kéo dài hàng tháng nhưng công chúa không chọn được ai vừa ý đẹp lòng. Một hôm công chúa đang dạo chơi vườn đào thì một con chim đại bàng khổng lồ khác sà xuống cắp đi. Thấy chim cắp người bay qua, Thạch Sanh giương cung bắn, đại bàng bị trúng tên vào cánh trái, nó dùng mỏ ngậm tên rút ra rồi bay tiếp về hang ổ. Thạch Sanh lần theo vết máu tìm đến cửa hang đại bàng, chàng đánh dấu cửa hang ác điểu rồi trở lại gốc đa.

Nhà vua sai Lý Thông đi tìm công chúa, tìm được thì sẽ được lấy công chúa, làm phò mã, nối ngôi vua, không tìm được phải chịu tội. Lý Thông vừa mừng, vừa lo, y lập kế mở hội hát xướng mười ngày để nghe ngóng dò la tin tức. Ðến ngày thứ mười, biết tin Lý Thông mở hội, Thạch Sanh đến thăm và kể cho Lý Thông nghe việc bắn chim đại bàng, Lý Thông mừng vui khôn xiết, hậu đãi Thạch Sanh và nhờ chàng dẫn đường đến hang Ðại bàng cứu công chúa.

Thạch Sanh dùng thang dây xuống hang gặp công chúa và đưa thuốc mê cho đại bàng uống. Công chúa hẹn ước kết duyên cùng Thạch Sanh rồi Thạch Sanh buộc dây đưa nàng lên mặt đất. Lý Thông sai quân lính đưa công chúa lên kiệu rước về cung, còn y nói dối là ở lại đánh nhau với quái vật. Sau đó, Lý Thông dùng đá lấp kín cửa hang và trở về triều đình mạo nhận công trạng. Không thấy Thạch Sanh trở về, công chúa buồn thương rầu rĩ và bặt câm, không hé môi nói nửa lời. Nhà vua buồn bã, Lý Thông cầu đảo thuốc thang khắp nơi đều vô hiệu, việc tổ chức cưới xin phải đình hoãn.

Hết liều thuốc mê, đại bàng tỉnh dậy hóa phép thần thông hãm hại Thạch Sanh, chàng dũng sĩ "mặt đỏ mày xanh", đã dám cả gan "phá nhà, cướp vợ" của nó. Thạch Sanh dùng tài võ nghệ và phép thần thông của mình tiêu diệt được đại bàng. Nhìn lên cửa hang kín bưng không còn một khe hở, Thạch Sanh dạo khắp hang động của đại bàng và gặp Thái tử con vua Thủy Tề đang bị yêu quái nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh phá tan cũi sắt giải thoát cho Thái tử. Thái tử mời Thạch Sanh về Thủy Tề gặp vua cha. Vua Thủy Tề cảm ơn và hậu đãi chàng. Trong thời gian lưu lại thủy cung, một hôm Thạch Sanh đang cùng Thái tử dạo chơi thì một con Hồ Tinh xuất hiện, biến thành một cô gái xinh đẹp để cám dỗ, mê hoặc hại chàng. Thạch Sanh bắt nó phải hiện nguyên hình là một con cáo chín đuôi và hóa phép giam nó lại. Vua Thủy Tề mời Thạch Sanh ở lại thủy cung và sẽ phong chức tước cho chàng, nhưng Thạch Sanh từ chối. Vua Thủy Tề tặng Thạch Sanh một cây đàn thần và sai sứ giả rẽ nước đưa chàng trở lại trần gian. Thạch Sanh lại về với gốc đa xưa. Vắng bóng Thạch Sanh cây đa buồn ủ ê, khi Thạch Sanh trở về cây đa lại xanh tươi như cũ. Hồn hai con quái vật bị Thạch Sanh giết (Chằn Tinh và Ðại Bàng) gặp nhau tìm cách hãm hại Thạch Sanh. Chúng vào kho châu báu của nhà vua lấy cắp vàng bạc ném vào gốc đa nơi Thạch Sanh ở. Quân lính nhà vua bắt Thạch Sanh tống ngục, nhà vua giao cho Lý Thông xử tội. Lý Thông khép Thạch Sanh vào tội tử hình để bịt đầu mối. Trong lúc bị giam trong ngục, chờ hành hình, Thạch Sanh đem đàn ra gảy. Cây đàn thần vang lên tiếng tơ, tiếng trúc, cung thảm, cung sầu; cung thì kể tội Lý Thông vong ân, bạc nghĩa, cướp công Thạch Sanh:

Đàn kêu tích tịch tình tang,

Ai đem công chúa dưới hang trở về?

Đàn kêu ăn ở bất nhân,

Biết ăn quả lại quên ơn người trồng.

Nghe tiếng đàn, công chúa bừng tỉnh dậy, cười cười, nói nói. Nhà vua vui mừng nghe công chúa nói rõ ngọn ngành. Lập tức nhà vua hạ lệnh tha cho Thạch Sanh và bắt Lý Thông tống ngục. Tiếp đó, vua làm lễ thành hôn cho Thạch Sanh cùng công chúa và truyền ngôi cho Thạch Sanh. Vua giao toàn quyền cho Thạch Sanh xử tội Lý Thông. Thạch Sanh tha tội cho Lý Thông, cho mẹ con họ Lý về quê quán làm ăn. Nhưng về giữa đường, trời nổi giông gió, mẹ con Lý Thông bạc ác bị sét đánh chết, Lý Thông hóa thành con bọ hung suốt đời chui rúc nơi bẩn thỉu.

Biết tin Thạch Sanh kết duyên với công chúa Quỳnh Nga và lên ngôi trị vì thiên hạ, các hoàng tử, công hầu của 18 nước chư hầu, những người đã từng kéo đến cầu hôn công chúa không được, vô cùng ghen tức, họ kéo quân đến gây sự với Thạch Sanh và công chúa. Thạch Sanh cùng công chúa ra tiếp đãi họ một cách tử tế. Tiếng đàn thần của Thạch Sanh phân rõ lẽ thiệt hơn, phải trái, làm cho quân sĩ các nước chư hầu mềm lòng, nản chí. Kẻ nhớ mẹ nhớ cha, người thương con nhớ vợ, ai cũng muốn về và lo ngại việc binh đao, cuối cùng các nước chư hầu đều thuận lui binh. Thạch Sanh mời họ ăn cơm. Chàng có niêu cơm thần nhỏ bé nhưng xới bao nhiêu bát, cơm vẫn đầy lên như cũ, khiến cho các nước chư hầu càng thêm kính phục.

Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng ai sẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

(Trích từ tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du).

Nếu cái rìu và cái khố là những nét đặc trưng của y phục và công cụ trong lúc làm việc của người Lạc Việt buổi đầu lập quốc như những người bạn thân của chàng Thạch Sanh, thì niêu cơm nhỏ bé và cây đàn thần là biểu tượng sinh động nhất của một cuộc sống vật chất khiêm tốn và tâm hồn phong phú của người Lạc Việt, trong giai đoạn phát triển toàn diện của xã hội Văn Lang. Một thông điệp đầy đạo lý của ông cha cho đời sau qua hình tượng của niêu cơm bé nhỏ - đã khuyến cáo một sự tiết độ cần có, mặc dù khả năng của nó là không giới hạn. Đây là một hình tượng mang tính minh triết của nền văn minh Lạc Việt: Tính tiết độ làm nên sự phú túc cho cuộc đời, nhưng chính hình tượng cây đàn thần với thanh âm huyền diệu của Thạch Sanh, mới thực sự thể hiện chất lãng mạn độc đáo giàu chất nhân bản và sự kỳ diệu đạt đến tuyệt đỉnh của câu chuyện này.

Thạch Sanh

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Trong tất cả những truyền thuyết, huyền thoại của các dân tộc trên thế giới hầu như không thiếu những hình ảnh những thanh âm huyền diệu, từ tiếng sáo của Lộng Ngọc - Tiêu Sử trong Đông Chu liệt quốc, hay như tiếng đàn tài tử của Tư Mã Tương Như với khúc Phượng Cầu Hoàng làm xiêu lòng Trác Văn Quân. Có những thanh âm huyền thoại đã đi vào lịch sử như: tiếng địch u hoài của Trương Lương trên dòng Ô Giang, khiến lòng quân Sở phải tan nát, người đẹp Ngu Cơ tự sát và anh hùng Hạng Võ phải rơi đầu trong Hán Sở tranh hùng; hay cung đàn đầy khí phách của Khổng Minh, khiến Tư Mã Ý phải quay đầu chạy trốn ở trận Nhai Đình trong Tam Quốc Chí; hoặc tiếng sáo bi phẫn của Cao Tiệm Ly bên dòng Dịch Thủy làm cho những anh hùng Yên quốc phải rơi lệ, uất khí vương trắng trời xanh... Tiếc thay, tất cả những thanh âm huyền thoại đó, đều là những giai điệu hòa chất lãng mạn, nhưng đầy bi tráng trong cuộc đấu tranh sắt máu của con người với chính con người trong lịch sử.

Nhưng trong tiếng đàn của Thạch Sanh là tiếng đàn duy nhất trong những huyền thoại về âm nhạc, thể hiện tình yêu bao la của con người với chính con người. Những thanh âm huyền diệu của cây đàn thần qua tâm hồn thánh thiện của Thạch Sanh, chan hòa niềm ước mơ về một cuộc sống mà trong đó con người đồng cảm với nhau trong tình nhân ái. Cung bậc của những thanh âm vi diệu này đã bày tỏ được nỗi oan khiên, chứng minh cho công lý.

Chất lãng mạn trác tuyệt đạt đến tuyệt đỉnh ở câu truyện chính là hình tượng thanh âm chứa đầy tình nhân ái đã hóa giải được chiến tranh với 18 nước chư hầu. Thanh âm thiên thần ấy là của niềm mơ ước vươn tới sự tuyệt mỹ của những giá trị nghệ thuật, sự tột cùng của vẻ đẹp cuộc sống sẽ đạt tới những rung cảm vi diệu trong cõi tâm linh sâu lắng nhất của con người. Tiếng đàn đã khơi dậy từ nguồn cội tâm linh tình yêu cuộc sống và con người - hành trang mà tạo hóa đã ban cho mỗi con người từ thuở hồng hoang của nhân loại. Những chiến binh kiêu hùng, đã buông vũ khí để trở về với giá trị đích thực của cuộc sống, đó là sự sống trong thanh bình và lòng nhân ái.

Một giá trị độc đáo nữa của câu chuyện thần thoại là đã đặt trong tâm hồn con người - một cách tự nhiên như hơi thở, chất lãng mạn của thiên thần khi mơ ước: những giá trị nghệ thuật đỉnh cao của văn hóa nhân loại sẽ hóa giải được nỗi đau khổ lớn nhất mà con người tự gây ra cho mình, đó là chiến tranh. Đây cũng là bức thông điệp của tiếng đàn Thạch Sanh chuyển tải cho mai sau và đó cũng là giá trị của nền văn hiến Văn Lang (Trích từ cuốn Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).

Trên Trời có bóng cây đa,

Chú Cuội thổi sáo mới ra chuyện tình.

Thạch Sanh tài đức thông minh,

Vũ trụ chuyển mình lại lộ thân ra.

Kinh thơ cô Tấm lại bồng,

Ánh Trăng dịu mát còn lồng mây xanh.

(Trích Những ước mơ của Bác 2, nhà ngoại cảm Vương Linh ghi lại, ngày 19/5/2005).

Trong câu truyện, tác giả đã gửi gắm tâm tư của mình qua tên gọi của các nhân vật chính ngay từ ban đầu: “Thạch Sanh” mang ý nghĩa là từ đất sinh ra, và “Lý Thông” mang ý nghĩa là đã thông tỏ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng “Tam giáo đồng nguyên, Ngũ chi phục Thiên Đạo”, vạn vật cùng chung nguồn cội, nhằm lý giải về sự khởi nguyên của một vũ trụ vô cùng, thượng đế cùng quỷ dữ, thể xác và linh hồn, hữu hạn và vĩnh cửu, vật chất với tinh thần, hạnh phúc và khổ đau, niết bàn hay địa ngục… và những bí pháp rèn luyện nào để có thể đạt được mục tiêu an lạc và trường sinh bất tử ngay trong cuộc đời này, cũng như mãi mãi theo thời gian vô tận.

Hoành sơn một giải ra vào,

Cuốc kêu vọng Đế, cáo gào giả Vương.

Cung Trăng đã sẵn Trời dương,

Giang sơn lại mở một trường Xuân Thu. Thơ cơ bút đền Sòng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng đã kết thúc “sấm” bằng hai câu thơ:

Hiệu xưng “Thiên hạ thái bình”,

Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.

Ý nghĩa của đoạn thơ cũng đã được dự báo trong cuốn tiểu thuyết anh hùng, võ hiệp nổi tiếng Thủy Hử, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không, tại Hồi 70: “Nhà Trung Nghĩa bia đá nổi hàng văn - Vũng Lương Sơn bạn vàng kinh giấc mộng”: Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy trên công đường có một cái bảng đề bốn chữ xanh "Thiên hạ thái bình".

Lời bàn của Thánh Thán: Một bộ sách 70 hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi là kết thúc lớn lao, đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không còn chút nào cảm thấy chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu thêm, thấy còn xấu thêm ra nữa.

Hoặc có kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng? Hay là Tống Giang đặt ra giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ màng, tác giả tự viết ra, đến đây là hết, khéo đem họ tên một 108 người, nhất nhất bày trình ra, điểm nhãn kết huyệt trong 70 hồi của bộ sách vậy? Xét bắt đầu từ Thạch Kệ, kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn, kể việc thì 70 hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách này còn việc đó người kia. Dù có hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì đọc giả can chi phải thắc mắc hỏi đến?

Họp 108 người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được họ, Chợt đâu khéo diễn một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án Trương Thúc Dạ thu đánh sau này cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó nữa coi như đánh lúc nào xong lúc bấy giờ. Chao ôi, quân tử xưa kia chưa rừng Tiểu Lâm cung thận như người xem xét sau này! Ta xem Thủy Hử đầy rẫy hàng vạn lời nói, rồi cũng phải lấy bốn chữ "Thái bình Thiên hạ" kết chung, thì thấy ý lắm vậy! Đời sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ tội của triều đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ "Trung Nghĩa" nêu cho họ, sao mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều, mà chẳng biết viết gì như thế nhỉ?.

Những tên sao Thiên Cương, Địa Sát xét ra không hợp Đạo làm người, sao lại có áng văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn làm sao dựng Thi Nại Am dậy mà hỏi cho ra.

Tam dương khai thái - Thiên hạ thái bình

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

Tác giả đã lấy hình ảnh 108 vua Hùng để hình thành nên các nhân vật của câu truyện, đồng thời có lẽ khẳng định niêu hiệu “Thái Bình” của 108 vua Hùng chỉ duy nhất, không thay đổi trong suốt các triều đại. Trên cơ sở địa chí trái đất với bốn đại dương có tên Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Bắc Băng Dương và Ấn Độ Dương, trong đó Thái Bình Dương phía Đông mặt trời mọc, mà mặt trời chính là biểu tượng của vua Kinh Dương Vương (Hùng Vương thứ I) - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Đại Nhật Phật - Thần Ra - Thần Vishnu - Thiên Chúa Jehovah - Đức Chúa Trời - Thánh Alla - Thần Surya… hay ông Trời trong tín ngưỡng dân gian. Như vậy, chúng ta đã có thể khẳng định rằng: niên hiệu của các vua Hùng chắc chắn chính là “Thái Bình”.

Cuối cùng, lời tiên tri của bác học nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX là Albert Einstein trên thực tế đã hoàn toàn ứng nghiệm:

Ông đã nghiên cứu đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học người Âu Mỹ, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur (1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)… là những nhà Phật học nổi danh ở phương Tây. Nhờ nghiên cứu như vậy mà A. Einstein đã nhìn thấy đạo Phật như là một triết lý phương Đông cực kỳ sống động và triết lý ấy đã đi vào cuộc đời bằng chân lý thực chứng của mình, ngỏ hầu cắt ngang sự chậm tiến, lạc hậu, mê tín, cuồng tín và kém văn minh của thời đại. Chính vì thấy rõ cái độc đáo đó mà Einstein đã phát biểu như sau: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”.

Albert Einstein

Trích Einstein Dấu ấn trăm năm, Nxb trẻ, 2006

Dù những lý thuyết khoa học của ông rất phức tạp và khó hiểu, nhưng tấm lòng nhân đạo và mến chuộng hòa bình của ông đã khiến cho mọi người cảm thấy gần gũi với ông. A. Einstein đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực của mình đối với sự phát triển khoa học của nhân loại cho đến khi qua đời (trích một phần bài viết Nhà khoa học Albet Einstein và đạo Phật, tác giả Thích Nguyên Tạng, 2001).

Tới đây, chúng ta không biết nói gì hơn về một nơi “Thánh địa của các Thánh địa” bỗng rực sáng trên địa cầu và toàn bộ vũ trụ, chỉ có thể cảm thán và đồng thanh hô vang:

THÁNH CUNG VẠN TUẾ

CUNG NGHÊNH THÁNH CHÚA

Cơ màu nhiệm hùng binh đều giải giáp,

Đời Thượng nguyên rực rỡ áng mây hồng.

Khắp bầu trời tỏ rạng bóng Lạc Long,

Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt.

Ngày 21 tháng 12 năm 2012 (Nhâm Thìn) theo các dự ngôn chính là “Cuộc chuyển thế vĩ đại” của toàn nhân loại trên quả địa cầu.

***

Share this post


Link to post
Share on other sites