Posted 31 Tháng 1, 2013 Chương IX TRƯỜNG SINH BẤT TỬ Cái gì kỳ diệu nhất trên thế gian? Kẻ nào thấy mọi người xung quanh đều chết mà vẫn đi tìm sự bất tử. Trường ca Mahabharata, tác giả Vyasa, Ấn Độ. Đối với hầu hết các dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng trên thế giới và mỗi cá nhân trong cộng đồng, ai cũng đã ít nhất một lần tự hỏi: Tại sao con người sinh ra rồi phải chết? Chết là gì? Sau cái chết con người đi về đâu? Linh hồn có hay không? Và nếu có thì sau khi chết nó sẽ đi về đâu? đã trở thành mối quan tâm hàng đầu và đều có cách lý giải, cách ứng xử riêng đối với nó. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều những công trình kiến trúc khổng lồ của nhân loại như kim tự tháp Ai Cập, lăng tẩm các vua chúa ở Trung Quốc… đã được tạo ra để phục vụ cho những người đã chết. Bản đồ khu kim tự tháp GizaẢnh tham khảo, Thebes, Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgTheo quan niệm của các nhà khoa học, nhất là các nhà y học và sinh lý học thì chết là kết thúc đời người, chấm dứt về sự sống, là một trong những quy trình của vật chất sống, là tự tiến hóa của tự nhiên. Con người được xem như đã chết khi tim ngừng đập, lúc đó máu không còn lưu thông trong các huyết quản, hơi thở chấm dứt và phổi không còn đem oxy tới các tế bào, các tế bào dần dần suy thoái và ngừng hoạt động.Theo quan niệm dân gian của hầu hết các dân tộc trên thế giới, chết có nghĩa là không còn thở, tim ngừng đập, không còn ăn uống, giao tiếp được với mọi người nữa… mọi hoạt động sống đều chấm dứt nhưng linh hồn người ấy vẫn còn, vì vậy ngoài việc tôn thờ ông bà tổ tiên theo tinh thần đạo “Hiếu”, còn có niềm tin linh hồn của những người mất vẫn quanh ta và luôn độ trì, phù hộ cho con cháu trong những lúc khó khăn. Chiêu hồn nhập quanTranh dân gian Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgĐạo Thiên Chúa nói rằng, con người gồm có thể xác và linh hồn, cái chết chỉ là sự chấm dứt của thân xác nhưng linh hồn là bất diệt. Ngay sau khi chết, linh hồn của mỗi người sẽ nhận được một cuộc phán xét riêng của Thiên Chúa, nhưng vẫn còn một cuộc phán xét chung thẩm cho cả nhân loại trong “Ngày tận thế”, khi mà Chúa Kitô quay lại trần gian làm thẩm phán. Theo đó, cuộc chung thẩm này sẽ chấm dứt tình trạng hiện tại của nhân loại và bắt đầu một Thiên Quốc (Nước Trời) mới và tốt đẹp hơn do Thiên Chúa cai trị. Theo giáo lý đạo Thiên Chúa, vào ngày tận thế, linh hồn sẽ nhập lại thể xác (được tái sinh) và sau đó mỗi người sẽ phải chịu bản án thưởng hay phạt tùy theo những việc họ đã làm khi còn sống ở trần gian.Địa ngục Thiên Chúa giáoTranh của Bolticellti, 1945file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgNho giáo không nhấn mạnh về sự chết của con người, mặt dù Khổng Tử đã có lần cho rằng: “Sự sống còn chưa biết rõ thì làm sao biết được sự chết”. Tuy nhiên, ý của Khổng Tử chỉ muốn nói lên sự thâm sâu, huyền diệu của lý lẽ tử sinh. Kỳ thực, chính Khổng Tử cũng lưu tâm đến vấn đề này và tin rằng: Con người sinh ra có khí, hồn và phách. Khí, hồn và phách hội tụ lại gọi là sinh (trích một phần từ cuốn Những bí ẩn sau cõi chết, tác giả Đoàn Văn Thông, Nguồn sống xuất bản, 1994).Hệ từ thượng truyện, Chương V - Tiết 2, do Khổng Tử (551-479 tr.CN) san định viết: “Ngưỡng lên xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý, cho nên biết cái cớ của sáng tối. Quay về nguyên thủy của vạn vật, theo dõi đến cuối cùng, nên biết được bài học về sống chết. Tinh khí hợp lại sinh ra vạn vật, hồn thoát ra tạo nên biến hóa, nên biết được tình trạng của quỷ thần” (trích Kinh dịch và đời sống, tác giả Hải Ân, Nxb Văn hóa Dân tộc, 1996). Con người là một sự kết hợp giữa hồn phách, khí và thể xác, thể xác được xem như là cái giàn chống đỡ cho các thể khác. Khi chết, thể xác tan rã còn các thể khác vẫn tồn tại trong vũ trụ, nhưng Nho giáo không nói rõ sẽ tồn tại như thế nào. Quân lính đất nung và cỗ xe tứ mã Lăng mộ Tần Thủy Hoàng, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Tần Thủy Hoàng đã tổ chức bốn lần đi tìm tiên, được cho là ở đảo Bồng Lai, biển Đông Hải. Năm 210 tr.CN, Tần Thủy Hoàng vẫn tiếp tục đến núi Lang Nha tìm tiên lần cuối nhưng vẫn không có kết quả, trên đường về, mắc bệnh mà chết ở Sa Khâu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.Trong Đạo giáo, Trang Tử (365-290 tr.CN) là người người dành nhiều quan tâm nhất đến sự sống chết, quan điểm chủ yếu của Trang Tử về sự sống chết chỉ là sự biến hóa của khí, sống hay chết chỉ là sự tụ hay tán của khí, sống và chết nối tiếp nhau giống như sự chuyển biến giữa ngày và đêm. Đó chính là sự tuần hòa vô hạn và bất biến trong tự nhiên. Vì vậy, xét đến cùng, sự sống chết chẳng qua cũng chỉ là những hiện tượng thường gặp trong tự nhiên mà thôi. Quan niệm của Phật giáo thì con người là sự kết hợp của hai yếu tố là thân xác và linh hồn, thể xác là phần vật chất giả tạm và là nơi linh hồn trú ngụ, linh hồn hay tâm linh thuộc về tinh thần. Thể xác chỉ là giai đoạn tạm bợ còn tinh thần là trường tồn bất diệt. khi chết là lúc linh hồn rời khỏi thể xác, theo danh từ Phật giáo là lúc thần thức lìa bỏ xác thân, lúc đó là lúc đoạn tuyệt mệnh căn. Theo Phật giáo, Phật tính là cái mà ai cũng có, chính là bản tâm của mỗi con người, nếu thấu triệt tức là hiểu rõ Phật tính của mình, tiến lên vượt khỏi cảnh giới sinh tử để thành Phật, quan điểm này là một quan điểm toàn diện về sự vĩnh hằng của sinh mệnh. Mật Tông Tây Tạng có bộ kinh điển truyền thế Trung ấm văn giáo cứu độ đại pháp (Tây Tạng sinh tử kỳ thư) có liên quan đến sống chết và sự giải thoát. Bằng việc miêu tả tường tận về hàng loạt những cảnh tượng trong thế giới thân trung ấm, đồng thời đưa những đối sách để xử lý các tình huống nảy sinh. Cuốn sách với mục đích chỉ ra phương pháp đối mặt với cái chết, nhắc nhở mọi gười hãy tu luyện đang khi còn sống nhằm đạt được sự giác ngộ, thoát vòng tử sinh.Thần thức thoát ra từ Phạn huyệt trên đỉnh đầuTây Tạng sinh tử kỳ thư, đại sư Liên Hoa Sinh, dịch giả đại đức Thích Minh Nghiêm, Nxb Thời đại, 2010file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgHầu như phần lớn con người ở cứ bất nước nào cũng tin ngoài thân xác còn có một linh hồn, từ thời cổ đại, cũng đã cho rằng mọi sinh vật đều có linh hồn, ngay cả những tảng đá tưởng như vô tri, vô giác. Tuy nhiên, tùy theo phong tục tập quán khác nhau mà sự tin tưởng của mỗi dân tộc có vài dị biệt. Người Việt Nam và Trung Quốc, phần lớn đều tin rằng con người có 3 hồn 7 vía, đàn ông được cho là có 7 vía và đàn bà có 9 vía “nam thất nữ cửu”. “Hồn phi phách tán” là câu nói thường dùng để nói lên nỗi lo sợ mỗi khi gặp chuyện khủng khiếp. Cụ Nguyễn Du cũng đã từng mượn Kiều mà giãi bày: "Thác là thể phách, còn là tinh anh", tinh anh chỉ linh hồn là phần vi diệu, còn lưu lại sau khi chết chứ không tan rã như thể xác.Cuộc sống sau khi chết của các linh hồn được cho là cũng giống như khi còn sống, cho nên trong dân gian có tập tục đốt vàng mã trong những ngày lễ vía, “Trần sao Âm vậy” là quan niệm chung của mọi người khi đề cập đến vấn đề này. Từ nhận thức về cái chết đến với mọi người thật dễ dàng và đời người quá ngắn ngủi, mong manh “thời gian trôi nhanh như bóng câu ngoài cửa sổ”, cái chết luôn luôn như chực chờ đâu đây, vì vậy trường sinh bất lão là ước mơ mãi mãi của người đời:Trăm năm một giải tựa bóng mây,Đời người bọt nước khác gì đâu.Sáng còn thắm đỏ đôi gò má,Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.Giấc mộng tàn rồi, đời ảo cả,Mong cầu da diết hãy quay đầu.Xưa nay làm phúc đều tăng thọ,Ở thiện Phật thương, lọ phải cầu.(Trích Tây Du Ký, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông).và:Vũ trụ chiều lâng lâng,Sông Ngân trôi lang thang.Giữa trời treo đĩa ngọc, Khắp đất sáng mâm vàng. Thấp thoáng người tiên cảnh, Vi vu sáo phượng hoàng. Trăm năm nào mấy dạo, Đùa vui đừng ngỡ ngàng.(Trích Tùy Đường diễn nghĩa, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông).Theo Dị Văn Lục, Thuần Vu Phần đời Đường, ở đất Quảng Lăng, nhà có cây hòe to, sống lâu năm, cành lá sum suê rậm rạp. Nhân khi vui sinh nhật của mình, Thuần Vu Phần uống rượu say, nằm ngủ quên dưới cây hòe, mộng thấy mình bay lên không trung, vào một nơi có đề bảng “Đại Hòe An Quốc”, được quốc vương nước ấy thương, gả công chúa cho, rồi được bổ đến làm thái thú đất Nam Kha, công danh thật hiển hách. Sau, Thuần Vu Phần cầm quân đánh giặc, chẳng may bị thua, còn công chúa ở nhà bị bệnh chết. Vua nước Đại Hòe An nghi ngờ, rồi cách chức đuổi đi. Thuần Vu Phần buồn chán, liền giật mình thức dậy, thấy mình đang nằm dưới cội cây hòe, nơi cành cây chỉ về phương Nam, nhìn lên thấy một con kiến chúa đang nằm trong một tổ kiến lớn. Thuần Vu Phần nằm suy nghĩ về giấc mộng vừa qua của mình, chợt tỉnh ngộ, hiểu rằng nước Đại Hòa An là cây hòe lớn, cành cây phía Nam là đất Nam Kha, vua nước Đại Hòe An là con kiến chúa, dân chúng là toàn ổ kiến. Thuần Vu Phần cảm nhận trong mộng, tỉnh ngộ biết cảnh đời là ngắn ngủi, không định liệu được việc gì cả, bèn dốc lòng tìm đạo tu hành (Kiến có nghĩa là thấy, nhận thức được).Để thoát khỏi quy luật nghiệt ngã “sinh, lão, bệnh, tử” của tạo hóa, con người luôn khát khao tìm ra những phương thuốc diệu kỳ, giúp kéo dài tuổi thọ, gìn giữ nét thanh xuân, và có lẽ nổi bật nhất là các đạo nhân trong Đạo Giáo và các hành giả Yoga của đạo Bà La môn, Kỳ Na giáo, Phật giáo, Lão giáo… họ tu tập theo các phương pháp dưỡng sinh và chế biến ra các loại thuốc từ đan sa, khoáng chất… bổ trợ cho sức khỏe. Trong đạo Phật, các nhà sư thì thường xuyên hành thiền theo thời lịch nhằm đạt được chứng ngộ viên mãn, thoát khỏi luân hồi. Trong lịch sử của vùng Lưỡng Hà cổ đại, có một câu chuyện kể về người anh hùng Gilgamesh đi tìm thuốc trường sinh và có đề cập đến trận đại hồng thủy, đây là một trong những bản sử thi mang đậm tính chất anh hùng ca cổ nhất của nhân loại. Sử thi Gilgamesh được sáng tác vào thời kỳ các quốc gia cổ Sumer và Akkad, có rất nhiều dị bản bằng nhiều ngôn ngữ cổ. Hiện nay, những bản dịch sang ngôn ngữ hiện đại đều dựa trên văn bản tìm được ở Nineved, trong thư viện của vua Assurbanipal, vị vua cuối cùng của người Assyria vào khoảng thế kỷ thứ VII tr.CN, văn bản muộn nhất này tương đối hoàn chỉnh và được viết trên 12 phiến đất sét. Sau nhà bác học Babylone, ông Sinlegeounninni tu chỉnh lại và lưu trong thư viện khoảng năm 1100 tr.CN. Các nhà khảo cổ học tìm được nhiều mảnh vỡ của bản sử thi rải rác trong lòng đất với nhiều câu chữ không khôi phục lại được, nhưng những gì còn lại hơn 3.000 câu cũng đủ thấy rõ nội dung bản sử thi mang đậm tính chất anh hùng này. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng sử thi Gilgamesh ra đời từ khoảng năm 2750-2500 tr.CN, không những chỉ có giá trị văn học, nó còn như một lăng kính phản chiếu những đường nét của tư tưởng, lối sống ở một thời kỳ xa xưa mà giờ đây không còn lại mấy dấu vết.Thiên sử thi kể về chiến công của một vị vua, một người anh hùng mang tên Gilgamesh, mà theo truyền thuyết của vùng đất Lưỡng Hà, đã từng có một vị vua cũng tên là Gilgamesh, cai trị xứ sở Uruk vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III tr.CN, và có tiếng là một vị vua anh hùng. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh của Gilgamesh, vị chúa tể Uruk, với sức khoẻ hơn người và có trí tuệ phi phàm, Gilgamesh là hình mẫu lý tưởng vượt lên trên vóc dáng của những con người bình thường.Ai tuyên bố ta là chúa tể,Ai sánh được chàng trên cõi đời?Tên của chàng là Gilgamesh,Hai phần thần linh, một phần người.Vẻ đẹp chàng do nữ thần ban tặng,Hoàn hảo như ánh sáng mặt trời. Chính vì vậy chàng đâm ra kiêu ngạo và tự cho mình được quyền giết hại các chàng trai, chiếm đoạt các cô gái đẹp. Dân chúng thành Uruk quá bất bình bèn kiện lên các vị thần, các thần bèn sáng tạo ra chàng Enkidu, nửa hình người nửa hình thú, cũng có sức mạnh phi thường. Enkidu sống chung với các loài thú rừng, bảo vệ chúng khỏi bị thợ săn giết hại, vì vậy một người thợ săn đến nhờ Gilgamesh giết Enkidu. Gilgamesh đã sai Shamhat, một kỹ nữ ở đền thờ đến thu phục Enkidu, dùng tình yêu để cảm hoá và giúp chàng từ bỏ bản năng hoang dại:Quẩn quanh mãi, cuối cùng Enkidu ngồi lại,Nuốt từng lời Shambat thốt ra.Lời của nàng:Chàng tuyệt đẹp giống như thần linh vậy,Sao sống đời muông thú cỏ hoa? Enkidu theo Shambat về Uruk, tại đây chàng gặp Gilgamesh và họ cùng đọ sức với nhau nhưng bất phân thắng bại, sau cùng hai người trở thành đôi bạn thân. Lúc bấy giờ ở rừng Bách Hương có yêu quái Humbaba, nó không cho Uruk đến đây lấy gỗ, hơn nữa, nó còn bắt giữ nữ thần tình yêu và chiến tranh Ishtar nhốt trong khu rừng, vì vậy Gilgamesh và Enkidu đã đến khu rừng diệt trừ quái vật, giải thoát cho nữ thần Ishtar. Hai người anh hùng trở về Uruk trong tột đỉnh vinh quang và đuợc nhân dân tung hô đón rước long trọng. Xúc động trước lòng dũng cảm, tài năng và vẻ đẹp của Gilgamesh, nữ thần Ishtar đã bày tỏ tình yêu với chàng.Mở đôi mắt đẹp, Istar đắm đuối:Đi theo em chàng hỡi, làm chồng.Cho em nếm ngọt ngào hạnh phúc,Hai ta cùng kết mối tơ hồng.Giáp trụ, xa mã là vàng ngọc,Giàu sang, quyển thế hưởng chung. Nhưng Gilgamesh lại không muốn gắn bó cuộc đời mình với một kẻ lẳng lơ như nữ thần. Tức tối, Ishtar đã xin cha mình là thần Anu, chúa tể chư thần, trả giúp mối hận. Một con bò tót khổng lồ từ trên trời cao lao xuống nhưng nó bị Gilgamesh xé xác. Các chư thần tức giận và quyết định ra tay. Ngay đêm đó, Enkidu mơ thấy một giấc mơ kinh hoàng và khi tỉnh dậy, chàng cứ héo dần và chết trên tay người bạn thân thiết Gilgamesh. Lần đầu tiên Gilgamesh chạm mặt với cái chết và từ đó lòng chàng dấy lên khát khao đi tìm kiếm sự bất tử cho bản thân mình, Gilgamesh lại lên đường. Tấm phù điêu GibameshCổ vật vùng Lưỡng Hàfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Anh hùng Gibamesh với hai tay nhấc hai con sư tử khổng lồ. Gibamesh đang nấp dưới một biểu tượng bí hiểm gồm một mặt trời có cánh, được chống đỡ bởi hai vị thần đầu người mình bò. Gilgamesh lục lọi trong sách vở tìm ra được câu chuyện Uta-Napishtim, một vị tổ tiên theo tục truyền đã tìm ra được bí quyết trường sinh hay người anh hùng chiến thắng nạn hồng thủy (có thuyết nói là ông già sống ở cửa sông), thế là chàng lên đường đi tìm Uta-Napishtim đang sống ở một nơi tận cùng thế giới. Chuyến đi của chàng rất gian nan, vượt qua rất nhiều trở ngại, thậm chí còn phải chui qua cánh cửa âm cung mà mỗi ngày mặt trời lặn đều phải đi qua đó, chàng phải đối đầu với nhiều dị nhân, nếu không phải chàng ta là một con người có “hai phần thần linh, một phần phàm tục” thì chắc chắn không thể nào gặp được Outa-Napishtim. Outa-Napishtim đã chờ đợi Gilgamesh đến để nói cho chàng biết rằng: “Từ khi các thần làm ra loài người bằng xương, bằng thịt, thì cái chết là điều không thể nào tránh khỏi, dù đó là Gilgamesh!”. Ông ta tiếp: “để ta nói cho người một bí mật lớn”, rồi ông ta kể lại câu chuyện “đại hồng thủy”, rằng thần Bel vì tức giận con người trần thế mà quyết định gây nên nạn hồng thủy để hủy diệt loài người. Thần Enki đã lén dạy cho ta thoát hiểm và còn dấu được các loài mỗi thứ một đôi trên tàu, để một con đường sống cho loài người và các sinh vật khác, Uta-Napishtim nói vậy. Sau đó Thần Ea dẫn ông đi lập giao ước với chúng thần, cuối cùng để các thần thừa nhận ông cũng là thành viên của tộc thần, cho nên cũng được hưởng trường thọ. Mặc dù lúc đầu các thần nổi giận, nhưng Enki là người thuyết phục giỏi, ông ta phát biểu trong đại hội các thần: “Những kẻ phạm tội thì phải bị trừng phạt, đúng thế! nhưng xóa bỏ hoàn toàn loài người là điều quá đáng!”... và cuối cùng thì họ đã nhìn nhận sự thoát hiểm của Uta-Napishtim là can đảm và đáng thưởng, do đó họ đã ban cho ta sự trường sinh chứ chẳng có phương cách nào khác. Uta-Napishtim không có cách gì giúp được Gilgamesh vì sự bất tử của ông ta là định mệnh an bài và do các vị thần xếp đặt.Không ai thấy dung nhan thần Chết,Không ai nghe được tiếng tử thần.Không ngôi nhà nào xây vĩnh cửu,Dấu khắc ghi mờ với thời gian. Để chứng minh cho Gilgamesh biết ý định của chàng chỉ là hão huyền, Utanapishtim đã thách đố Gilgamesh không ngủ sáu ngày sáu đêm liên tiếp vì giấc ngủ là hình ảnh của thần chết, Gilgamesh nhận lời thách đố nhưng không thức được quá một ngày đêm, chàng đành quay về. Thương hại chàng, Utanapishtim tiết lộ một bí mật: có một loại cây sống dưới đáy biển có khả năng cải lão hoàn đồng. Gilgamesh đã tìm được loài cây vô giá đó nhưng lại sơ ý bị con rắn lấy trộm và nuốt mất, thất vọng tràn trề, Gilgamesh đành chấp nhận số phận và quay trở về kinh thành Uruk tráng lệ, lại vẫn làm một ông vua ở nhân gian, nơi có những niềm vui trần thế ngắn ngủi mà con người được hưởng. Gilgamesh cho đến nay vẫn được xem là một trong những bản sử thi đầu tiên của nhân loại, ngoài việc thể hiện được những băn khoăn thuở ban đầu của con người trong quá trình tự tìm hiểu và tự nhận thức bản thân. Băn khoăn của Gilgamesh là những băn khoăn vĩnh cửu của con người về sự sống và cái chết, về vĩnh hằng và phù du, về được và mất, về tình yêu và lòng hận thù.Ta thương tiếc:Hãy nghe ta, hỡi dân chúng trong thành.Ta thương tiếc bạn ta dũng sĩ,Giận con người không thể sống trường sinh. Gilgamesh đích thực là một sử thi anh hùng đậm tính chất trần thế. Gilgamesh dù có những chiến công hiển hách, dù có đến hai phần thần linh nhưng chỉ một phần người trong cũng đủ để đưa chàng đến một kết thúc tất yếu theo quy luật cuộc đời. Câu chuyện kể về người anh hùng với nhiều tình tiết, diễn biến cảm xúc cao độ qua các vần thơ làm cho người đọc say mê. Đằng sau những lời ca tụng thần linh là lời ca tụng con người dám đương đầu với thử thách, con người sống hết mình cho tình bạn, tình yêu, dẫu những niềm vui trần thế ấy quá ngắn ngủi so với cái mênh mông của vũ trụ vô cùng.Cuộc sống vốn ngắn ngủi,Khoảnh khắc đã vụt trôi.Thần linh đã sáng tạo,Con người phải chết thôi.Không cưỡng được số mệnh,Thì cứ vui yêu đời.Rượu nồng ta nhấp cạn,Đến khi nào mềm môi.Áo đẹp ta cứ mặc,Vợ hiền con ngoan cười.Đó chính là những việc,Duy nhất trong cuộc đời.Tầm ảnh hưởng rộng lớn của sử thi Gilgamesh là điều không thể phủ nhận, câu chuyện kể về một người anh hùng khao khát sự bất tử có một sức sống mãnh liệt, Gilgamesh cuối cùng phải từ giã cõi đời nhưng câu chuyện về người anh hùng đi tìm thuốc trường sinh mãi mãi không bao giờ lìa bỏ ký ức của nhân loại (trích bài viết Gilgamesh - thiên sử thi đầu tiên của nhân loại, tác giả Hà Thanh Vân).Thần Horus giới thiệu Ani với Osiris, sau đó mới nói về tình hình cuộc phán xét vừa diễn ra. Horus nói ra tâm nguyện của Ani, thế rồi Ani tiến về phía trước quỳ một chân cuống dâng đồ cúng cho ông. Sau khi dâng đồ cúng xong, Ani thể hiện tấm lòng trong sạch của mình và cầu xin được bất tử. Qua bản thảo không nói câu trả lời của thần Osiris nhưng qua hình minh họa trong bản thảo, chúng ta có thể thấy linh hồn của Ani đã thay đổi sau khi yết kiến Osiris. Trên đầu của ông xuất hiện cái u màu đỏ pha trắng, tóc cũng biến thành màu trắng, và trên tay ông cầm các quyền trượng, những thứ này tượng trưng ông đã bất tử. Nơi linh hồn bất tử chính là “Cánh đồng lau sậy” do Osiris cai quản, mỗi linh hồn bất tử đều được ban cho một mảnh đất màu mỡ ở đó, họ và người thân của họ sẽ cày cấy và trồng trọt, cùng sống một cuộc đời thanh bình mà không phải lo lắng bất cứ điều gì.Cuộc sống trên thiên đườngTrích bản thảo bằng giấy cói papyrus, Ai Cập file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgSự bất tử, vĩnh cửu thể hiện bằng biểu tượng Shen thường được chạm khắc trên trán các bia ký, chúng ta hãy cùng quan sát:Thần Horus Bảo tàng Louvre, Pháp Mộ vua Tuthmosis III (KV 34)Thung lũng các vị vua, Thebes, Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgBiểu tượng Shen nằm giữa hai con mắt chính là con mắt thứ ba, con mắt của trí huệ, được cho là cánh cửa của huyền môn.Trong Tử thư Ai Cập, không thấy xuất hiện nhiều hình tượng linh hồn Ka mà chỉ có ý thức Ba của Ani là chịu trách nhiệm trước các vị thần trong ngày phán xét. Trích Chương XIV: Những ngày ở Karnak, Ai Cập huyền bí, tác giả Paul Brunton, dịch giả Chi Lan và Lê Tuyên, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2004 Hình nổi đầu tiên là hình vua Ramsès II, đang đứng trước mặt nữ thần Amen và dâng cho nữ thần một pho tượng nhỏ. Kế đó là một hình nổi trên tường chạm hai nhân vật. Phía trước là hình một thiếu nhi, không ai khác hơn là Horus, con của Osiris. Trên đầu Horus có hình biểu tượng mặt trời và con rắn, tay trái để lên hai đầu gối, còn tay mặt đưa lên, ngón tay trỏ lên chỉ môi, ngụ ý giữ im lặng. Còn nhân vật kia, phía sau Horus, là thần tượng Sphinx. Nữ thần Amen đưa bàn tay mặt về phía Ramsès, tay cầm một thập tự giá có quai hình vòng tròn ở một đầu, còn đầu kia thì điểm vào giữa hai mắt của vua Ramsès. Bức hình đó có ý nghĩa gì? Một nhà Ai Cập học chắc sẽ đưa ra một sự giải thích hoàn toàn hợp lý và khá đúng theo quan điểm của ông ta, đó là nhà vua đang hiến dâng lễ vật cho nữ thần, thế thôi! Ông ta sẽ không còn nói gì hơn nữa. Những cảnh tượng chạm trổ trên vách như thế thường chỉ diễn tả những mẩu chuyện vặt hoặc nhắc lại điển tích những chiến công rực rỡ của một triều vua nào đó. Nhưng ở đây thì lại là một chuyện khác. Trước hết người ta nhận ra đó là việc thực hành một nghi lễ tối thiêng liêng, nhất là bức hình nổi được chạm gần bên chánh điện trung ương là chỗ thâm nghiêm nhất của ngôi đền này. Cũng như loại ám tự Ai Cập được dùng để diễn tả một ý nghĩa bí truyền mà chỉ có những vị tăng lữ đã điểm đạo được biết mà thôi, thì ở đây cũng vậy, gương mặt các vị thần đối với những vị đạo đồ thời cổ có hàm súc một ý nghĩa thâm sâu hơn là đối với quần chúng. Như vậy, ý nghĩa huyền diệu của các bức hình này chỉ có thể hiểu được bởi những người nào đã từng thấu triệt giáo lý huyền môn. Điểm cốt yếu trên bức hình nổi là cử chỉ hành động của nữ thần Amen. Cái Thập tự giá có quai hình vòng tròn mà nữ thần điểm vào khoảng giữa hai mắt của vua Ramsès, các vị tăng lữ điểm đạo gọi là cái chìa khóa của huyền môn, nó tượng trưng cho việc điểm đạo để thu nhận vào tổ chức huyền môn thật sự.Thần Horus được thừa hường con mắt trái của thần mặt trời Ra, mắt phải của thần mặt trăng Osiris và con mắt thứ ba của nữ thần Hathor. Con mắt trái tượng trưng cho sức mạnh của quy luật hay quyền lực tượng cây quyền trượng Was-scepter của thần Ra; con mắt phải biểu tượng sức mạnh của trí tuệ tượng trưng là trụ xương sống Djed của thần Osiris và con mắt thứ ba biểu tượng của lòng nhân từ tượng trưng là chìa khóa sự sống Ankh của nữ thần Hathor; sau khi chết linh hồn trở về với nữ thần Hathor, nữ thần Hathor trong hình hài một con bò cái đeo dụng cụ âm nhạc Sistrum trông giống như biểu tượng sự sống Ankh. Tại cõi chết, thần Osiris là chúa tể cõi âm với biểu tượng gậy móc cong biểu tượng phán quyết cho cái chết và phất trần biểu tượng phán quyết cho sống sẽ được trao cho con trai là Thần Cả Horus tiếp quản.Nữ thần bò cái Hathor cùng với dụng cụ âm nhạc sistrumTranh tường và cổ vật Ai Cập file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgBa là linh hồn và Ka là ý thức, khi chết chúng sẽ rời thân xác. Tôn giáo cổ đại Ai Cập tin rằng nam thần dê Khnum sáng tạo ra đứa trẻ trên bàn xoay đồ gốm và tạo cho chúng cơ thể. Nhiều vùng, người ta tin rằng nữ thần sinh sản đầu ếch Heket tạo ra linh hồn Ba, ngay lập tức thổi linh hồn Ba vào đứa trẻ khi được sinh ra. Thần Khnum và nữ thần HeketTranh khắc trên tường đền Khnum in Esna, Ai Cập file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpg Nữ thần sinh sản đầu ếch Heket là vợ của nam thần Khnum, giúp chồng mình sáng tạo ra những hình hài đứa trẻ trong khi chúng đang ở trong dạ con của người mẹ. Nữ thần tạo sức mạnh cho sự sống của đứa bé khi ra đời. Những ngưởi phụ nữ khi đang mang thai thường đeo bùa hộ mệnh hình con ếch để nhờ cậy thần bảo vệ an toàn trong quá trình mang thai và lúc sinh đẻ.Chúng ta hãy cùng tiếp tục xem xét nội dung bức tranh phán xét trong Tử thư Ai Cập với hình ảnh vị thần khỉ đầu chó đội mặt trăng lưỡi liềm ngồi trên trục cân trái tim:Biển nước nguyên thủy NunTranh vẽ cổ Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgHình ảnh thần khỉ đầu chó, biểu tượng cho mặt trăng rõ ràng mang ý nghĩa là cái Tâm của con người nằm ở chính giữa cái cân công lý khi phán xét linh hồn chính là phán xét cái Tâm, tương tự “Tâm viên, Ý mã” của Lão giáo và Phật giáo. Tâm ý luôn luôn biến động như một cái lò lửa đang rực cháy, điều này cũng được đề cập trong bức tranh cổ Ai Cập với hình ảnh bốn con khỉ đầu chó đứng tại bốn góc của biển lửa với các dòng lửa như mặt trời cuộn ra bốn phía, biển nước với các sọc đứng, bốn góc là tám con rắn hổ mang bành chính là các trạng thái biển đổi của Tâm con người. Hồ lửa được nói đến trong Sách của người chết là nơi khởi nguồn của thần mặt trời và vạn vật sau đó, nhưng cũng là một nơi hóa giải mọi lời nguyền. Bức tranh với các con khỉ quay mặt vào nhau hàm ý trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, chí tịnh, ba sọc nước nằm ngang thể hiện biển vũ trụ khởi nguyên Nun.Qua các dữ liệu lịch sử, chúng ta thấy người Ai Cập cho rằng con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, trong mọi việc làm đều chịu tác động của những đấng thần linh cao cả. Khi con người chết đi, những đấng thần linh sẽ phán xét sự tốt xấu mà con người đã làm như thế nào ở dưới địa ngục, chịu sự phán quyết thần chết Osiris. Thần Osiris là một vị vua anh minh cai trị cõi âm và chuyên xét xử các linh hồn một cách quanh minh, chính đại và công bằng. Người Ai Cập tin rằng linh hồn sẽ sống mãi, chết là bước vào một thế giới khác cũng giống như thế gian vậy, nhưng giàu có trù phú, sung túc và vui vẻ thảnh thơi hơn.Bà La Môn giáoLà một trong những tôn giáo tối cổ ở Ấn Độ cho rằng: thực thể của mọi vật thể sống là Atman, chính là linh hồn. Linh hồn này phát sinh từ Brahman hay đấng toàn năng, bất diệt. Mọi sinh vật từ con kiến nhỏ bé cho đến con voi to lớn, hay con người có ý thức đều tồn tại một linh hồn và số kiếp.Đạo Hindu nói rằng: linh hồn bất sinh bất diệt, linh hồn chuyển hóa từ thân xác này qua thân xác khác cho đến khi đạt điều kiện hợp nhất hay liên kết với Brahman mới thôi. Với Ấn giáo thuộc triết kệ Samkhya thì có nhiều nét đặc việt mà theo nhận xét của các sữ gia Ấn, đó là triết hệ cổ xưa độc đáo xuất hiện khoảng thế kỷ thứ IV tr.CN. Theo đó thì có 25 thực thể tạo nên vũ trụ trong đó có Prakiti là cái đã sinh ra các khác, đây là vật chất đồng bộ và không nhận ra được. Còn phần tinh thần gọi là Purusha (thần ngã hay linh hồn), phần này truyền cái sinh hoạt lực cho các Prakiti. Cái Purusha linh hồn hay tinh thần đã ở bên cái Prakiti giúp cái này sinh sản ra. Purusha chính là nguyên động lực của sự sáng tạo.Phái Samkhya khởi đầu tuyên bố rằng vũ trụ là kết quả của hai yếu tố đối chọi nhau là tinh thần và vật chất hay đúng hơn là linh hồn và vật chất. Linh hồn là Purusa, con người, và mỗi linh hồn là một cá thể. Purusa là một đơn vị tâm thức. Chúng cùng chung một bản chất nhưng lại mãi mãi khác nhau. Các Purusa ấy nhiều vô số trong cõi con người, nhưng chúng đồng một bản chất. Mỗi Purusa có ba đặc tính và ba đặc tính này luôn luôn giống hệt nhau. Ðặc tính thứ nhất là ý thức, nó sẽ trở thành quyền năng hiểu biết, đặc tính thứ hai là sự sống hay Prahna, nó sẽ trở thành hoạt động, đặc tính thứ ba là sự bất biến, tinh hoa của vĩnh cửu, nó sẽ trở thành ý chí. Purusa có tính cách bất biến nên nó vĩnh cửu bởi vì sự bất biến là đặc tính của vĩnh cửu.Ðó là ba đặc tính của Purusa trong học thuyết của Samkhya. Chúng không mang tên Sat, Chit, Ananda được dùng trong trường phái Vệ đà nhưng đồng nghĩa với các chữ này: ý thức hay quyền năng hiểu biết là Chit, sự sống là Sat và sự bất biến là Ananda.Địa ngục, tiếng Phạn là Naraka/ Niraya được Hán dịch là Địa ngục, Bất lạc, Khả Yểm, Khổ Cụ, Khổ Khí... đều có nghĩa là nơi thọ khổ sau khi chết của những ai khi sinh tiền đã tạo nên nghiệp ác. Địa ngục là nơi khổ nhất, thuộc cõi âm theo quan niệm thế gian có cõi trời, cõi đất và cõi âm.Địa ngục, còn gọi là cõi Diêm La, do Diêm La vương thống quản. Diêm La vương nguyên là thần Chết Yama của thời Vệ đà (Ấn Độ cổ đại). Yama là con của thần Mặt Trời Vivaswat và Saranyu (có tài chạy nhanh) và Yama là anh song sinh của em gái mình là Yamuna/ Yami nên được gọi là Song Vương. Hai vị thần này được coi là cặp đôi đầu tiên và là tổ của loài người; có một đoạn tụng ca Vệ đà, dưới dạng đối thoại, ở đó, người nữ đã biện luận về việc sống chung cốt để đảm bảo sự truyền lưu vĩnh cửu muôn loài. Một tụng khác kể rằng: “Yama là con người đầu tiên bị chết và cũng là người chết đầu tiên lên thiên giới”. Do đó, Yama là thần của các vong hồn và xét xử người chết. Một vong hồn khi rời thi thể của mình thì xuống cõi dưới, ở đó có Chitra - đọc tất thảy công tội từ cuốn sổ lớn gọi là Agrs-sandhani và theo đó mà xử tội: vong hồn người chết hoặc được thăng lên cõi Pitris (Manes) hoặc bị đọa xuống một trong 21 địa ngục, tùy theo tội lỗi, được tái sinh lên mặt đất trong hình dạng khác. Yama thống quản phần hướng Nam và do đó, được gọi là Dakshinasa-pati. Về hình tướng, Yama có màu xanh lục, y phục màu đỏ, cỡi trên lưng trâu, tay cầm quyền trượng to lớn và dây thòng lọng. Yama có rất nhiều vợ, thần cư trú ở cõi âm trong kinh thành Yama-pura. Ở đó có cung điện Kalichi. Hàng ngày, Yama ngồi trên ngai Vichara-bhu để xử án. Bên cạnh có Phán quan Chitra-Gupta và có hai chủ tướng chầu hầu: một là Tổng quản binh Chanda (hay Maha Chanda) và một là Tổng giám sát Kala-pursusha. Sứ giả của thần là Yama-duta có trách nhiệm bắt linh hồn người chết và dinh thự của thần được Vaidhyata - người gác cửa mẫn cán, canh chừng suốt ngày đêm... (tham khảo Internet).Thần chết Yama trong hình dáng con trâuTranh tượng cổ tham khảofile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgNói chung, bên cạnh khái niệm Atman - Brahman làm nền tảng cho vũ trụ quan của đạo Hindu, thì luận thuyết karma - samsara (nghiệp báo - luân hồi) là nền tảng của nhân sinh quan của đạo Hindu. Luận thuyết Karma - Samsara đã áp dụng tư tưởng về sự chuyển hóa vật chất trong vũ trụ cũng như tính tuần hoàn của các hiện tượng tự nhiên sang lĩnh vực đời sống xã hội. Chính từ cơ sở đó đã sản sinh ra các biện sự về sự thăng đọa của tín lý tái sinh, về sự việc xét công định tội ở địa ngục.Luân hồi và niết bàn trong Phật giáoPhật giáo nêu thuyết luân hồi chuyển hóa của kiếp người theo luật nhân quả, luật này tạo cho con người phải đầu thai. Thân người rồi đến một lúc nào đó sẽ mất đi, nhưng thần thức mãi tồn tại, và không ngừng bị chìm đắm trong vực thẳm luân hồi của 6 nẻo, không ngừng lưu chuyển nhiều kiếp trong tử sinh. Ý niệm lục đạo luân hồi cũng thấy trong tiểu sử đức Phật. Đức Phật đã trải qua nhiều cuộc sống khác nhau, trong đó ngài tỏ ra là một người toàn thiện. Kinh Bản sinh (Jataka, truyện tiền thân đức Phật) kể đức Phật đã tích tụ những đức hạnh ra sao và một vài truyện kể ngài cũng đã sinh ra dưới dạng một con khỉ hay con hưu.Mật Tông Tây Tạng cho rằng, năm nguyên tố cơ bản là đất, nước, gió, lửa, không sẽ kết hợp với nhau nhờ những nghiệp quả tương tự, từ đó hình thành nên thế giới. Trong thế giới đó, loài hữu tình sống tại ba cõi thế giới tức vô sắc giới, sắc giới và dục giới.Núi Tu Di và loài hữu tìnhTrích Mật Tông Tây Tạng, biên dịch Cổ Đồ Thư, hiệu đính Lama Konchog Tinley, Nxb Tôn giáo, 2009file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgPhật giáo phủ nhận một đấng thần linh tối cao sáng tạo nên vũ trụ, tất cả sự vật, hiện tượng đều vận động và do nhân duyên mà hình thành. Phật không phải là thần mà là người đã được được sự tịnh hóa và giải thoát trong sự rối rắm của tình cảm và nội tâm, và đạt được trí tuệ vô thượng. Đạt được sự giải thoát gọi là Niết bàn, hàm nghĩa vượt khỏi sự luân hồi, đạt được cảnh giới vui tươi sau khi dập tắt và diệt trừ được tất cả nỗi sầu não và thống khổ. Trong quyển 4 Trung Luận của Long Thụ nói rằng: “Niết bàn và Thế gian không mấy khác biệt. Thế gian và Niết bàn không có khác biệt”. Trung Quán phái cho rằng, cái gọi là Niết bàn là nhận biết được thực tính của thế giới. Phật giáo khẳng định rằng mọi chúng sinh trong thế giới hiện thực này đều có Phật tính, đều có thể thành Phật. Như luận chứng trọng điểm “Như lai tạng” trong quyển kinh Thắng Bàn đã nêu, cái gọi Như lai tạng chính là tính khả năng trở thành Phật, và chúng sinh đều có Như lai tạng bởi vì bản tính chúng sinh vốn tịch nhiên, chỉ do tác động của khách trần mới bị nhiễm ô, thanh lọc được nó thì có thể đạt được sự giải thoát.Con thuyết Bát NhãTríchfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgTư tưởng của Phật giáo là mọi người sinh ra đều bình đẳng, dựa trên nền tảng lý luận Duyên khởi của Phật giáo, định minh tất cả chúng sinh trong vũ trụ đều hình thành bởi nhân duyên, tức giữa các sự vật, hiện tượng đều hình thành bởi các mối liên hệ nhân quả với nhau, đều sinh diệt dưới những điều kiện nhất định, như vậy tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Trong mỗi cuộc đời của con người đều có những niềm vui, hạnh phúc và những nỗi buồn chán, khổ đau, không bao giờ tránh được, do vậy muốn con người hết khổ, đạt được sự giải thoát cho chính mình phải thực hành con đường “Trung đạo”, không mang tính cực đoan, đồng thời tuân theo những phương pháp rèn luyện thích hợp.Như đã trình bày trong Chương VIII: KIM CƯƠNG BẤT HOẠI, nói tới tính tuyệt đối tồn tại trong vạn vật, tồn tại từ vô thủy tới vô chung, cụ thể nhất là tính tuyệt đối có ngay trong đầu não của con người, đồng thời cũng nhận thức được cấu trúc của một hạt vi trần nhỏ nhất là không thể phân chia được nữa, nó là một thực tại nhưng không phải hư không, được dẫn giải trong Kinh Lăng Nghiêm của Phật giáo. Chúng ta hãy cùng tham khảo một phần nội Chương 3: Tính Không, Thuyết Tương đối và Vật lý Lượng tử,trích Vũ trụ trong một nguyên tử đơn, tác giả Đức Dalai Lama, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007, nhằm nhận định về sự tồn tại của tính tuyệt đối này ra sao và có liên quan đến linh hồn hay không: Những nguồn giáo pháp cổ xưa nhất được biết đến về lý thuyết "nguyên tử" của phái Tì-bà-sa có thể từ tác phẩm A-tỳ-đàm Tâm Luận của ngài Dharmaśrī và tác phẩm được tôn vinh Đại-tì-bà-sa luận. Tác phẩm đầu được các nhà nghiên cứu hiện nay cho là có mặt vào khoảng thế kỷ thứ II trước Tây lịch và thế kỷ thứ I. Mặc dù nó chưa bao giờ được dịch sang Tạng ngữ, tôi đã được cho biết rằng bản Hán ngữ đã được tạo ra vào thế kỷ thứ III. Bài luận của ngài Pháp Thắng thể hiện một nổ lực tinh tế nhằm hệ thống hoá các quan điểm tinh yếu của triết lý Phật giáo trước đó, khá nhiều ý tưởng cơ sở của nó chắc chắn đã có mặt một thời gian trước khi bài luận đó được soạn thảo. Ngược lại, tập Đại-tì-bà-sa luận là một bài thuyết giảng được soạn thảo vào khoảng giữa thế kỷ thứ I và thứ III sau Tây lịch thiết lập các giáo lý của một trường phái Phật giáo đặc biệt như là giáo pháp chính thống và trả lời cho nhiều phản bác khác nhau chống lại các giáo lý này bằng cách đưa ra một nền tảng lập luận triết lý. Mặc dù các luận điểm của Đại-tì-bà-sa luận rất quen thuộc với Phật giáo Tây Tạng, thì tác phẩm này tự nó cũng chưa hề thực sự được chuyển dịch đầy đủ sang Tạng ngữ. Trên cơ sở của hai luận văn này, đặc biệt là bản Đại-tì-bà-sa, thì Thế Thân, một đại sư triết học nhiều uy tín người Ấn, đã soạn tác phẩm A-tì-đàm-câu-xá Luận trong thế kỷ thứ IV. Tác phẩm này tổng kết các điểm tinh yếu của Đại-tì-bà-sa luận đưa chúng ra để phân tích xa hơn. Nó đã trở thành việc làm chuẩn mực cho ngành tâm lý học và triết học. Như là sự hợp thành của các "nguyên tử" và mối quan hệ tương hỗ giữa các "nguyên tử" với những đặc tính cấu trúc của chúng, Phật giáo cổ sơ đã sản sinh ra tất cả các loại lý thuyết suy diễn. Điểm lý thú là A-tì-đàm-câu-xá thậm chí còn bàn thảo về kích thước vật lý của các "nguyên tử" khác nhau. Hạt tử tuyệt đối nhỏ nhất được tả là khoảng 1 phần 2.400 lần cỡ của một "nguyên tử" của con thỏ, theo một ý nghĩa nào đó. Tôi không biết bằng cách nào ngài Thế Thân tính ra được như vậy! Trong khi chấp nhận thuyết nguyên tử, các trường phái Phật giáo khác đã đặt nghi vấn về quan điểm các nguyên tử không chia được. Mốt số còn truy cứu đến điều cho rằng bốn yếu tố sắc, hương, vị, và xúc như là một cơ sở cấu thành vật chất. Chẳng hạn, Thế Thân đã nổi tiếng vì việc ngài tự mình chỉ trích quan điểm về những nguyên tử thực tại khách quan không chia được. Ngài phản bác rằng, nếu các nguyên tử độc lập bất khả phân tồn tại, thì không thể nào có được sự hình thành của các vật thể trong thế giới thường ngày. Để các vật thể như thế được hình thành, phải có một cách giải thích phương thức mà các nguyên tử đơn giản liên kết nhau trong các hệ thống phức hợp. Nếu một sự kết hợp như thế xảy ra, như là nó phải có, thì hãy mường tượng một nguyên tử đơn lẽ được vây quanh bởi 6 nguyên tử khác, mỗi nguyên tử phân bố theo các hướng chính và một phía trên, một phía dưới. Sau đó, ta có thể đặt nghi vấn là: Phải chăng cùng một bộ phận của nguyên tử ở trung tâm giao tiếp với nguyên tử ở phía Đông và đồng thời giao tiếp với nguyên tử ở phía Bắc? Nếu không thì nguyên tử ở trung tâm phải có nhiều hơn 1 bộ phận và do đó ít nhất trên nguyên tắc phải chia cắt được. Nguyên tử ở giữa phải có một bộ phận giao tiếp nguyên tử ở phía Đông nhưng không giao tiếp với nguyên tử ở phía Bắc. Nếu ngược lại, phần phía Đông này không giao tiếp với nguyên tử ở phía Bắc, thì cũng không có gì ngăn cản phần đó giao tiếp với các nguyên tử trong tất cả các hướng khác. Trong trường hợp như vậy, Thế Thân tranh luận rằng, các vị trí không gian của tất cả bảy nguyên tử - một ở giữa và 6 xung quanh - sẽ là một, và do đó tất cả sẽ sụp đổ vào trong một nguyên tử đơn nhất. Như là kết quả của thí nghiệm suy tưởng này, ngài Thế Thân phản bác rằng không thể nào có các vật thể của thế giới vi mô trong ý nghĩa của sự kết hợp vật chất đơn thuần như là các nguyên tử không phân chia được. Một cách cá nhân thì tôi không thể nào hiểu ý nghĩ cho rằng các phẩm chất như hương, vị, và xúc là cơ sở cấu thành của các vật thể vật chất. Tôi có thể thấy được cách thức mà người ta phát triển một lý thuyết nguyên tử liên kết của vật chất trên cơ sở của bốn thành tố như là các cấu trúc. Trong mọi trường hợp thì tôi cảm thấy rằng phương diện tư tưởng Phật giáo này, chủ yếu là một dạng của vật lý sơ đẳng, suy diễn, giờ đây phải được điều chỉnh dưới ánh sáng của vật lý hiện đại mà đã được chi tiết hóa và được kiểm tra việc hiểu biết về cơ sở các cấu trúc của vật chất một cách có thử nghiệm trong khuôn khổ của các hạt vật lý như là các hạt điện tử quay quanh một hạt nhân với dương điện tử và trung hoà tử. Khi người ta nghe nói về các mô tả về các hạt hạ nguyên tử, như là quark và lepton trong vật lý hiện đại, thì đó là bằng chứng rằng các lý truyết nguyên tử Phật giáo cổ xưa và nhận thức của chúng về các hạt vật chất nhỏ nhất bất khả phân quá lắm chỉ là những mô hình thô thiển. Mặc dù vậy, điểm nhấn mạnh cơ bản của các luận sư Phật giáo cho là ngay cả với những cấu trúc tinh vi nhất của vật chất đều phải được hiểu dưới dạng của các thành phần kết hợp có vẻ đã đi đúng đường. Một trong những động lực cơ bản đứng sau việc truy cứu về triết lý và khoa học lên các cấu trúc cơ sở của vật chất là để tìm ra viên gạch xây dựng không thể rút nhỏ hơn được. Điều này không chỉ đúng trong triết học cổ Ấn độ và vật lý hiện đại mà cả với các nhà khoa học cổ Hy Lạp, chẳng hạn như các lý thuyết gia chủ trương "nguyên tử". Một cách chính xác, thì đây là cuộc truy lùng vào bản chất tối hậu của thực tại, dù rằng còn tùy theo cách định nghĩa. Tư tưởng Phật giáo luận đàm trên các nền tảng lô-gíc rằng cuộc truy tìm này là bị lạc lối. Đã có một thời, khoa học tin vào việc tìm ra nguyên tử là đã tìm thấy được cấu trúc tối hậu của vật chất; nhưng các thí nghiệm vật lý thế kỷ thứ XX đã phân chia được nguyên tử thành các hạt vi tế hơn. Mặc dù ít ra có một quan điểm trong cơ học lượng tử cho rằng ta sẽ không bao giờ tìm được hạt không thể rút nhỏ hơn thực sự một cách khách quan, thì nhiều nhà khoa học vẫn sống trong niềm hy vọng về sự phát hiện của bộ môn này. Chúng ta nhận thấy khả năng cấu trúc lập phương gồm 7 lân vi trần, trong đó một lân vi trần ở giữa làm hạt nhân và 6 lân vi trần còn lại hợp thành 6 phương xung quanh, như vậy chúng tạo thành một đơn vị không gian hình lập phương, và một sự thật rằng giữa các lân vi trần vẫn tồn tại những khoảng không gian trống rỗng. Một cách logic thì các lân vi trần khởi nguyên hiện hữu lan tràn khắp vũ trụ bao la, giữa chúng liên kết với nhau thông qua một mãnh lực tự thân. Hình dạng của một lân vi trần là hình cầu nhẵn bóng, có độ tròn đều tuyệt đối và hoàn toàn vô hình, có thuộc tính tuyệt đối hay còn gọi là Tính thấy. Liên kết phân tử băng và nước nguyên chấtTham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgNhư vật khởi nguyên vũ trụ hoàn toàn tuyệt đối, chí “Tịnh” và tự thân hiện hữu, là một thực tại và chúng ta mãi mãi không thể biết được vũ trụ bắt đầu khi nào và đã tồn tại bao lâu, nhưng chính sự hiện hữu của chúng ta và tất cả vũ trụ hiện nay chứng tỏ cái “Động” đã xuất hiện, làm mất tính tuyệt đối của toàn thể vũ trụ hay không còn cân bằng nguyên thủy. Nói một cách khác, nếu có một lân vi trần chuyển động ở trong vũ trụ thì giá trị của vận tốc là tức thì, sẽ lan truyền ngay đến mọi biên giới vô cùng của vũ trụ. Động, Tĩnh phân biệt chính là “Thái cực sinh Lưỡng nghi” hay tạo nên trạng thái phân cực Âm Dương.Thái Cực là một thực tại có thể tính, chính là Tính thấy có thể liên hệ với khái niệm Đạo trong Đạo Đức kinh. Trong Đạo đức kinh, chính vì tính tuyệt đối khó diễn đạt đó nên mở đầu Lão Tử đã viết: “Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải Đạo vĩnh cửu bất biến." (Tính tuyệt đối). Tên (Danh từ) mà có thể đặt ra được để gọi nó (Đạo) thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến”Nhưng vì là một thực tại nên có thể diễn đạt như một Tính từ trong một điều kiện liên hệ với thực tế nào đó, như Tính thấy.Tính tuyệt đối thực tại này cũng được diễn tả trong Đạo Đức Kinh như sau: “Đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng. Thấp thoáng mập mờ nhưng bên trong có hình tượng. Mập mờ thấp thoàng mà bên trong có vạn vật. Nó thâm viễn tối tăm”. Khái niệm “tối tăm” vì tính khó nhận thức, chứ không phải vì bản thể Đạo là tối, điều này Lão Tử đã xác định ở phần sau: “ở trên không sáng, ở dưới không tối mà bên trong có cái tinh túy. Tinh tuý đó rất xác thực và đáng tin!”. Trong văn minh Lạc Việt thể bản nguyên của vũ trụ còn được hình tượng bằng chiếc bánh Dầy. Chiếc bánh Dầy bằng nếp giã mầu trắng tinh khiết, không mùi vị thể hiện sự thuần khiết, hình tròn tượng cho sự viên mãn và tính tuyệt đối. Tính dẻo thể hiện sự thông biến, chính là Mẹ tròn là cái có trước, là sự khởi nguyên của vũ trụ. Là Thái Cực, là Đạo, Đạo Đức kinh viết: “Vạn vật có nguồn gốc, nguồn gốc đó là Mẹ của vạn vật”, là Dương khi có cái Động, Âm tức con vuông là cái bánh Chưng ra đời.Như vậy, với thuyết Âm Dương Ngũ hành thì Thái cực, sự khởi nguyên của vũ trụ là một trạng thái tuyệt đối, tự nó và do nó, là một thực tại. Đây cũng là điều mà nền minh triết cổ Đông phương dù xuất hiện ở không, thời gian khác nhau đã thống nhất xác định định tính của nó Phật giáo, Đạo giáo với văn minh Lạc Việt. Đây là sự khác biệt hoàn toàn với luận điểm của Bigbang khi cho rằng: khởi nguyên của vũ trụ là trạng thái cô đặc tuyệt đối của vật chất, nhưng nó đã hình thành như thế nào từ trạng thái đó? (trích Đức Phật khai ngộ Tính Thấy, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).Từ một sự vận động đột khởi nào đó của một hoặc vài lân vi trần trong trạng thái tuyệt đối của vũ trụ, tương tác giữa các lân vi trần ngay lập tức xuất hiện, chúng diễn ra dây chuyền và lan tỏa khắp vũ trụ với vận tốc tuyệt đối. Ngay khi toàn vũ trụ không còn cân bằng được nữa, cho tới một lúc nào đó cũng không thể xác định, vũ trụ hình thành nên trạng thái “Lưỡng nghi” tức trạng thái phân cực Âm Dương của “toàn bộ vũ trụ” và tương tác âm dương bắt buộc xảy ra với một tiếng nổ kinh hoàng không thể mô tả được, có thể gọi là “Tiếng nổ khai thiên lập địa” tương tự Bigbang, đó cũng là tiếng “Pháo” đầu năm mới của văn hóa Việt. Hiện tượng này làm bùng nổ một trạng thái năng lượng vô cùng lớn, cũng chính là trạng thái của vật chất khởi nguyên tức là các hạt lân vi trần nhưng ở trong các trạng thái vận động. Đây cũng chính là trạng thái hỗn độn mà trong các cổ thư Đông phương nói đến về sự khởi nguyên của vũ trụ, mang tính đều khắp và tràn ngập. Trạng thái hỗn độn ban đầu dần tự ổn định, dẫn đến sự vận động theo một chiều quay định hướng tức là chiều quay của các thiên hà trong vũ trụ hiện nay.Khối năng lượng động tích tụ dần hình thành dạng vật chất đầu tiên của vũ trụ, cùng một lúc với các trạng thái tương tác của Âm Dương Ngũ hành tức là tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. Về sự tương tác có ngay từ giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ trong thuyết Âm Dương Ngũ hành, khoa học hiện đại cũng chứng tỏ rằng: Tương tác là nguyên nhân đầu tiên và cũng là nguyên nhân cuối cùng của vạn vật. Nguồn gốc và bản thể của thế giới được nghiên cứu nhận thức theo nguyên lý tương tác. Hình thức tương tác như thế nào thì bản chất của sự việc như thế đó. Như vậy, với cách giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành, chúng ta có thể so sánh với những hiện tượng vật lý vũ trụ mà khoa học hiện đại đã phát hiện để chứng tỏ tính hợp lý của nó.Hình ảnh sự vận động của vũ trụ hiện nay trong hình dưới đây với ba đỉnh của tam giác biểu tượng cho vị trí quan sát trong vũ trụ:file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgNhư vậy, với cách giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết âm Dương Ngũ hành, chúng ta có thể so sánh với những hiện tượng vật lý vũ trụ mà khoa học hiện đại đã phát hiện để chứng tỏ tính hợp lý của nó: Với hình trên dù quan sát ở bất kỳ vị trí nào trong vũ trụ chúng ta cũng thấy các thiên hà đang chạy xa nhau. Nhưng nguyên nhân của nó được giải thích theo một cách khác, sự bùng nổ từ một trạng thái tuyệt đối Thái Cực, khác với sự bùng nổ từ trạng thái hữu hạn Bigbang - vốn không lý giải được trạng thái khởi nguyên và những hạn chế từ khái niệm ý thức, dẫn đến sự ngự trị của Thượng Đế.Thuyết Âm Dương Ngũ hành với quan niệm của nó còn được giải thích được nhiều hiện tượng khác mà thuyết Bigbang không thể giải thích được: - Sự chuyển động cong của tất cả mọi thể tính trong vũ trụ từ các hạt vật chất nhỏ nhất đến các Thiên Hà khổng lồ (không thể có chuyển động thẳng trong trạng thái tuyệt đối, không có bắt đầu và kết thúc). - Tất cả vũ trụ đang vận động có qui luật, sau khi sự bùng nổ trở lại trạng thái ổn định. Chính tính qui luật được nhận thức này thể hiện trong thuyết Âm Dương Ngũ hành đã làm nên khả năng tiên tri của nó. Tính tiên tri là hệ quả của một lý thuyết và phải có sau lý thuyết và thực tế hiện hữu của những lý thuyết khoa học hiện nay chứng minh điều này. Do đó, những phương pháp luận lý giải khả năng tiên tri của học thuyết này chỉ xuất hiện sau khi lý thuyết đã hoàn chỉnh. Chính vì thế nên Kinh Dịch mới viết về sự quán xét Tượng khi đoán quẻ, tức là quán xét sự tương tác. Và chính các nhà lý số khi đoán quẻ cân nhắc Ngũ hành sinh khắc, thực chất là quán xét sự tương tác giữa các thể tính trên thực tế, quán xét diễn biến hiện tượng mà quẻ tìm được. - Vạn vật trong vũ trụ vận động ngày nay hoàn toàn vẫn mang thuộc tính tuyệt đối, hay Tính thấy và đây chính là thuộc tính quan trọng nhất để liên kết vạn vật trong vũ trụ thành một thể thống nhất, nếu không vũ trụ sẽ hoàn toàn hỗn loạn.Như vậy, với sự lý giải sự khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành là một bằng chứng nữa chứng tỏ Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết thống nhất và hoàn chỉnh trên thực tế trong quá khứ tồn tại của nó. Ngũ hành là những khái niệm diễn tả thực tại vận động có thuộc tính vật chất ngay từ giai đoạn đầu hình thành vũ trụ mang tính biểu kiến. Bởi vậy, ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ không phải là những khái niệm cụ thể - khi con người nhận thức thực tế môi trường trái đất: Thuỷ là nước, Mộc là cây... vốn chỉ là hình tượng của Ngũ hành. Chúng ta đều thấy rằng: từ khi con người nhận biết được trái đất quay cho đến khi làm ra một phương tiện mà cách đây hơn 100 năm có thể coi là thần thánh, là chiếc điện thoại cầm tay, thì đã là gần 500 năm với sự phát triển đều khắp của các mặt trong quan hệ xã hội. Vậy từ sự khởi nguyên vũ trụ theo cách giải thích của một học thuyết cho đến khi có một tri kiến tiên tri đến chi tiết như Kinh Dịch, Tử Vi… đòi hỏi hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng, nếu quả thực thuyết Âm Dương Ngũ hành là một lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước, tức là nó vượt xa tri thức của nhân loại hiện đại thì vấn đề sẽ được đặt ra: nó thuộc về nền văn minh nào trong quá khứ của nhân loại? (Tham khảo và trích dẫn một phần từ cuốn Đức Phật khai ngộ Tính Thấy, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tôn giáo, 2005).Bảng tuần hoàn MendeleepTham khảo Internetfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgBảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học cho biết những thông tin về các tính chất cơ bản của một nguyên tố.Chúng hãy cùng tham khảo thêm một phần nội dung Chương 18: Sự dung thông, Đạo của vật lý, tác giả Fritjof Capra, dịch giả Nguyễn Tường Bách, Nxb Trẻ, 2004.Thuyết nguyên tử vật chất không hề được phát triển trong tư tưởng Trung quốc, và mặc dù nó xuất hiện nơi vài trường phái triết học Ấn Độ, nó chỉ nằm bên lề của huyền thoại Ấn Độ. Trong Ấn Độ giáo, khái niệm nguyên tử chỉ xuất hiện trong hệ Jaina (hệ này được xem là phi kinh viện vì không chấp nhận thẩm quyền của Kinh Vệ đà). Trong triết học Phật giáo, thuyết nguyên tử xuất hiện trong hai trường phái của Tiểu thừa, nhưng chúng được phái Đại thừa quan trọng hơn xem là sản phẩm của vô minh. Thế nên Mã Minh nói: Khi chia chẻ vật chất, ta biến chúng thành vi trần. Nhưng vi trần lại bị chia chẻ tiếp tục, nên tất cả dạng hiện hữu, dù thô sơ hay vi tế, không gì khác hơn là bóng dáng của sự phân biệt và chúng không có bất cứ mức độ nào của thật tính. Như thế, những trường phái chính của đạo học phương Đông đều cùng quan điểm với triết lý Dung thông rằng, vũ trụ là một thể chung liên hệ lẫn nhau, trong đó không có phần nào là cơ bản hơn phần nào, rằng tính chất của một phần này được xác định bởi tất cả các phần kia. Trong nghĩa này, người ta cũng có thể nói mỗi phần chứa đựng tất cả các phần kia; và thực tế là một hình ảnh về sự hóa thân để sinh ra lẫn nhau hình như đánh dấu sự chứng nghiệm huyền bí về thiên nhiên. Sau đây là những dòng của Sri Aurobindo: Đối với cảm quan siêu thế, không có gì là thực sự hữu hạn; nó dựa trên một cảm giác là tất cả ở trong mỗi một và mỗi một ở trong tất cả. Nội dung tất cả ở trong mỗi một và mỗi một ở trong tất cả tìm thấy sự phát triển lớn nhất trong Hoa Nghiêm Tông của Phật giáo Đại thừa, thường được xem là đỉnh cao cuối cùng của tư tưởng Phật giáo. Nó đặt nền tảng trên kinh Hoa Nghiêm, theo truyền thuyết là do Đức Phật thuyết giảng trong khi Ngài nhập định sau khi giác ngộ. Bộ Kinh này tới nay chưa được dịch ra thứ tiếng phương Tây nào, mô tả một cách chi tiết thế giới được nhận thức thế nào trong ý thức giác ngộ, khi “vỏ cứng của cá thể bị tan biến và cảm giác của hữu hạn không còn đè nặng chúng ta”. Trong phần cuối, được gọi là Phẩm Hoa Nghiêm, Kinh kể lại câu truyện của một người tầm đạo trẻ tuổi, Thiện Tài trình bày một cách sinh động những chứng thực siêu hình của anh về vũ trụ, vũ trụ đã hiện ra như một mạng lưới toàn hảo của những mối tương quan, trong đó tất cả sự vật và biến cố tương tác với nhau trong cách thế là mỗi một chứa đựng tất cả cái khác. Đoạn sau này của Kinh, được D.T.Suzuki phỏng dịch, dùng hình ảnh của một khung trời trang hoàng tuyệt đẹp, để truyền đạt chứng nghiệm của Thiện Tài: Cung điện rộng lớn và bao la như bầu trời. Nền cung điện được lót bằng vô số hạt minh châu đủ loại, và khắp nơi trong cung trời, còn vô số tháp, của lớn, cửa sổ, lan can, lối đi, tất cả đều được gắn bảy loại hạt minh châu quí báu… Trong cung, khắp nơi đều trang hoàng tráng lệ lại có hàng trăm ngàn tháp, mỗi tháp lại được trang hoàng tráng lệ như cung và cũng rộng lớn như bầu trời. Và tất cả những tháp này, vô số không đếm được, không hề là chướng ngại lẫn nhau, mỗi một đều giữ tính chất riêng của mình trong sụ hòa hợp tuyệt đối với những cái kia; không có gì ngăn cản một tháp này thâm nhập vào tháp kia, vừa cá thể vừa toàn thể; đó là một tình trạng toàn hảo của sự trộn lẫn và trật tự. Thiện Tài, người tầm đạo trẻ tuổi, tự thấy mình trong tất cả các tháp cũng như mỗi tháp riêng lẻ, trong đó tất cả đều chứa trong mỗi một và mỗi một đều chứa đựng tất cả 15. Tất nhiên, trong đoạn này, cung điện là hình ảnh của vũ trụ và sự thâm nhập lẫn nhau toàn hảo của các thành phần được Đại thừa Phật giáo gọi là viên dung vô ngại. Kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ sự viên dung này là mối lên hệ động cốt tủy, nó không những xảy ra trong không gian mà cả trong thời gian. Như đã nói không gian và thời gian cũng được xem là thâm nhập (viên dung) với nhau. Kinh nghiệm thực chứng của sự viên dung trong trạng thái giác ngộ có thể được xem là linh ảnh huyền diệu của một tình trạng Dung thông hoàn hảo, nơi đó tất cả hiện tượng thế gian đều xen kẽ vào nhau một cách hòa hợp. Trong tình trạng đó của ý thức, óc suy luận được chuyển hóa và các lý giải nhân - quả không còn cần thiết, chúng được thay thế bằng một chứng thực trực tiếp về sự liên hệ lẫn nhau của sự vật và biến cố. Thế nên, khái niệm viên dung của đạo Phật đi xa hơn hẳn bất cứ khoa học nào về Dung thông. Cần nói thêm rằng, có nhiều mô hình về các hạt hạ nguyên tử trong vật lý hiện đại, dựa trên giả thuyết Dung thông, chúng cho thấy một sự tương đồng lớn lao với Đại thừa Phật giáo. …Trong Dung thông hadron, tất cả các hạt đều do các hạt khác tạo thành một cách động, và trong nghĩa này ta có thể nói chúng chứa lẫn nhau. Trong Đại thừa Phật giáo, một quan niệm rất giống như vậy cũng được dùng để nói về toàn bộ vũ trụ. Tấm lưới vũ trụ bao gồm các viên dung vô ngại được minh hoạ trong kinh Hoa Nghiêm bằng tấm lưới Đế Thích Indra (Nhân-đà-la), một tấm lưới rộng lớn treo toàn các hạt minh châu trên cung trời Đế Thích. Sau đây là những dòng của Sir Charles Eliot: Trên cung trời Đế Thích, người ta nói có một tấm lưới chứa toàn ngọc, được sắp đặt sao mà bạn chỉ cần nhìn một viên, bạn thấy tất cả các viên khác phản chiếu vào đó. Trong cách đó, mỗi sự vật trong thế gian không phải chỉ là nó thôi, mà mang theo mỗi vật khác và thực tế là của tất cả phần còn lại. “Trong mỗi hạt bụi là vô lượng chư Phật". Sự tương đồng của hình ảnh này với hình ảnh của Hadron thật là đáng kinh ngạc. Hình ảnh cung trời Đế Thích có thể gọi ngay là mô hình đầu tiên của Dung thông, được các nhà minh triết Phương Đông sáng tạo khoảng 2500 năm trước khi vật lý hạt bắt đầu. Người Phật tử quả quyết rằng khái niệm của viên dung vô ngại không thể nắm bắt được bằng tư duy trừu tượng, mà bằng sự chứng thực của ý thức giác ngộ trong trạng thái thiền định. Thế nên D.T. Suzuki viết: "Đức Phật ( trong phẩm Hoa Nghiêm) không còn là người sống trong thế giới của không gian và thời gian. Ý thức của ngài không phải là ý thức thông thường được quy định bởi cảm quan và suy luận… Đức Phật của Hoa Nghiêm sống trong thế giới tâm thức với quy luật riêng". Trong vật lý hiện đại, tình huống cũng giống như thế. Ý niệm rằng mỗi hạt chứa tất cả các hạt khác là không thể tưởng tượng được trong không gian và thời gian. Nó mô tả một thực tại, giống như thực tại của Phật, có qui luật riêng. Trong trường hợp của Dung thông hadron, đó là qui luật của thuyết lượng tử và thuyết tương đối, khái niệm then chốt là các lực duy trì hạt với nhau chính là bản thân các hạt đó được trao đổi trong kênh ngang. Khái niệm này có thể biểu diễn bởi một ý nghĩa toán học chính xác, nhưng hầu như không thấy được bằng hình ảnh. Đó là một tính chất mang tính tương đối của Dung thông và vì ta không thể có kinh nghiệm về không gian - thời gian bốn chiều, thật khó mà tưởng tượng được tại sao một hạt riêng lẻ có thể chứa tất cả những hạt khác. Tuy nhiên, đó chính là quan điểm của Đại thừa: Khi một cái được đặt dối diện với Mọi cái khác, cái Một sẽ được thấy tràn ngập khắp tất cả, đồng thời dung chứa tất cả vào mình. Ý niệm về một hạt chứa tất cả hạt khác không phải chỉ sinh ra trong đạo học phương Đông, mà còn có trong tư tưởng đạo học phương Tây. Thí dụ sau đây cho thấy rõ rệt trong những dòng nổi tiếng của William Blake: Nhìn thế giới trong một hạt cát, Và bầu trời trong cánh hoa rơi. Giữ vô cùng trong lòng bàn tay, Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi. Một lần nữa, ở đây, một tầm nhìn huyền bí lại đưa đến hình ảnh của Dung thông; khi nhà thơ thấy thế giới trong một hạt cát thì nhà vật lý hiện đại thấy thế giới trong một hadron. Một hình ảnh tương tự xuất hiện trong triết học của Leibniz, người xem thế giới được cấu tạo bằng những phần tử cơ bản mà ông gọi là “monads”, mỗi một phần tử đó phản ánh toàn bộ vũ trụ. Điều này đưa ông đến một quan điểm về vật chất, với những tương đồng Đại thừa Phật giáo và với Dung thông hadron. Trong tác phẩm Monadology (1714), Leibniz viết: Mỗi một phần tử của vật chất có thể được nhìn như một mảnh vườn đầy hoa lá hay một hồ đầy cá. Thế nhưng mỗi cành hoa lá, mỗi tứ chi con vật, mỗi giọt nước cốt của chúng cũng là một mảnh vườn hay hồ nước như vậy. Thật thú vị thấy rằng những dòng trong Kinh Hoa Nghiêm viết trên đây có thể ghi dấu ấn của ảnh hưởng Phật giáo lên Leibniz. Joseph Needham đã chứng minh rằng Leibniz đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Trung quốc nhờ những bản dịch mà ông nhận được từ các tu sĩ Jesuit, và triết học của ông rất có thể được cảm hứng bởi trường phái Tân Khổng giáo của Chu Hi, mà ông biết rõ. Trường phái này có một gốc rễ trong Đại thừa Phật giáo, đặc biệt trong tông Đại thừa Hoa Nghiêm. Thực tế là Needham nhắc lại ẩn dụ tấm lưới ngọc của Đế Thích, khi nói rõ mối liên hệ với các “phần tử cơ bản” của Leibniz. Thế nhưng, khi so sánh chi tiết quan niệm của Leibniz trong “tương quan phản chiếu” giữa các phần tử cơ bản với ý niệm viên dung trong Đại thừa, có lẽ ta thấy hai bên khác nhau nhiều và phương thức của Phật giáo nhìn vật chất tới gần hơn với tinh thần của vật lý hiện đại so với Leibniz. Sự khác biệt chính giữa chủ trương “phần tư cơ bản” với quan niệm của Phật giáo có lẽ “các phần tử cơ bản” của Leibniz là những thể cơ bản, chúng được xem là thể tính cuối cùng của vật chất. Leibniz bắt đầu Monadology với những chữ: “Monad mà ta bàn đến ở đây chỉ là một thể tính giản đơn, nó là thành phần của thứ khác; giản đơn được hiểu là không có đơn vị nào nhỏ hơn nữa". Ông viết tiếp: “và những Monad này là những nguyên tử đích thực của thiên nhiên, và nói gọn lại, chúng là yếu tố của mọi vật”. Quan điểm cơ bản này hoàn toàn ngược với triết học Dung thông và vì vậy hoàn toàn khác với Đại thừa Phật giáo, là người từ chối một đơn vị cơ bản hay một thể tính cơ bản. Cách nhìn cơ bản của Leibniz cũng được phản ảnh trong quan niệm về lực, mà ông xem là định luật của mệnh lệnh thiêng liêng (divine decree) và khác hẳn vật chất. Ông viết “lực và hoạt động không thể chỉ là dạng của vật chất thụ động được”. Một lần nữa, điều này ngược hẳn với quan niệm về vật lý hiện đại của đạo học phương Đông. Đoạn văn "Đức Phật ( trong phẩm Hoa Nghiêm) không còn là người sống trong thế giới của không gian và thời gian. Ý thức của ngài không phải là ý thức thông thường được quy định bởi cảm quan và suy luận… Đức Phật của Hoa Nghiêm sống trong thế giới tâm thức với quy luật riêng" có thể hiểu là sự chứng thực ý thức giác ngộ trong trạng thái thiền định, nghĩa hành giả hòa nhập vào vũ trụ qua thuộc tính tuyệt đối, vạn vật được phản chiếu vào trong tâm thức tuyệt đối như “mặt trăng thứ hai” của chính mình, hành giả đạt được “Tính Không”.Chúng ta cùng tiếp tục xem xét nội dung của Bát thức quy nguyên đồ, trích từ Tính mệnh khuê chỉ toàn thư, dịch giả Nguyễn Văn Thọ: Bát thức qui nguyên đồTríchTính mệnh khuê chỉ toàn thư, dịch giả Nguyễn Văn Thọ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgĐệ huynh bát cá nhất nhân si,Độc hữu nhất cá tối linh li.Ngũ cá môn tiền tố mãi mại,Nhất cá gia trung y chủ y.Dịch nghĩa:Anh em tám kẻ một người si (Mạt na thức - Ngã si - Thức),Duy có một chàng rất linh li (Đệ Lục thức - Ý).Năm người buôn bán ngoài cửa ngõ (Ngũ quan: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân),Một vị trong nhà đứng chỉ huy (A lại da thức - Tâm). Tối linh li là Đệ Lục thức tức Ý thức. Ý làm chủ Ngũ quan, là chủng tử luân hồi. Tam giới ai cũng bị thức này làm đắm chìm, nên Kinh Viên Giác nói: “Tiên đoạn vô thuỷ luân hồi căn bản” tức là chặt bỏ thức này. Si là đệ Thất Thức tức Mạt na thức, nương tựa vào A lại da thức. Đệ bát Thức tức A lại da thức hay còn gọi là Tâm. Khi đầu thai thì nó đến trước tiên, khi xả thân thì nó đi đoạn hậu, cho nên nói: Khứ hậu, lai tiên tác Chủ công. Bát thức đều thuộc Vô Minh, Sắc Thân là do Kỷ Thổ dấy lên. Còn đệ Cửu Thức thì được gọi là Bạch Tịnh Thức, Thức này vượt ngoài Vô Minh, không ở trong vòng Nhân Quả, không cần tu chứng, không nhiễm trần ai, cho nên Thiền Môn gọi là “Thực Tế Lý Địa” (Thế giới Bản Thể), Ly nhất thiết thực tướng, ở trong Hư Hoá, Pháp nào cũng có, đầy đủ tất cả Bát cá thức thuộc Tiệm, còn đệ Cửu Thức thì thuộc Đốn. Tại sao vậy? Sắc thân là ảo hoá cần tu chứng, còn Pháp Thân thì vô tướng y như Hư Không, cho nên không cần tập luyện tu chứng. Đệ Cửu Thức thì được gọi là Bạch Tịnh Thức, tính lắng trong chính là tính Tuyệt đối, cùng với các thức khác tạo thành nền tảng nhân quả của một con người trong từ sự động của vũ trụ. Tính tuyệt đối đã được thể hiện trong quy trình thiền định mô tả trong bộ tranh thiền nổi tiếng từ xưa tới nay Thập mục ngưu đồ, khuyết danh.Thập mục ngưu đồ (Tranh chăn trâu)Tranh tham khảo từ cuốn Thiền luận của Daisetz Teitaro Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên và Thích Tuệ Sỹfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg*Thập mục ngưu đồ - Phái Đại Thừa, tranh tham khảo từ cuốn Thập mục ngưu đồ, tác giả Quảng Trí thiền sư, Trần Đình Sơn dịch và chú giải.Theo Osho, triết gia lẫy lừng của đạo Kỳ Na giáo, bộ tranh được cho là từ Trung Quốc và đến Nhật Bản ở những thế kỷ trước, vì rắc rối nào đấy bức tranh thứ mười để lại Trung Quốc. Osho hết sức lúng túng khi lần đầu tiên nhìn thấy bộ tranh Nhật Bản vì chúng có vẻ hoàn hảo quá, khi bạn đạt tới Niết bàn, còn gì hơn nữa? Sau đó, Osho tìm thấy trong bộ sách cổ Trung Quốc và vui mừng khôn xiết khi có người đã thấu đạt từ hàng ngàn năm trước rằng một vị Phật vẫn chưa phải là Phật nếu người ấy không thể quay lại với nhân gian thế tục, nếu người ấy không thể lại một lần nữa trở nên đơn sơ, chất phác, mang theo Niết bàn của mình, hạnh phúc của mình trong cái bình rựu say khướt với thần thánh nhưng vẫn đi về hướng chợ đời.Dừng lại ở bức thứ chín chỉ là sự hợp lý còn cao hơn bức thứ chín, bức thứ mười mới đạt sự giác ngộ hoàn toàn. Bộ Tranh chăn trâu này được cho là có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích từng bước con đường đạt đạo.Bức thứ mười là nguyên nhân tranh cãi lớn trong suốt lịch sử của bộ tranh, người đàn ông đang đi với một bình rựu ra chợ, ta có thể thấy ông ta thậm chí không đi nổi nữa. Một phe, chiếm đa số phái Đại Thừa, tin rằng bức tranh thứ chín là bức tranh cuối cùng. Nó tượng trưng cho tâm hư vô, đạt đạo. Con trâu là bản ngã tận cùng mà bạn bị lạc mất, và loạt tranh là hành trình đi tìm kiếm bản ngã của mình. Bạn sẽ tìm thấy bản ngã trong bức tranh thứ chín, đó là sự bình an và thanh thản tuyệt đối, đó là niết bàn, là tâm hư vô.Về bức tranh thứ chín… nhiều người cho rằng đây là chặng cuối của cuộc hành trình tin rằng đã có người thêm vào bức thứ mười, có vẻ chẳng liên quan gì cả. Nhưng ngững người thuộc nhóm ít hơn của phái Thiền cũng tin vào bức thứ mười. Họ nói khi đạt giác ngộ vẫn chưa phải là kết thúc, đây là đỉnh cao nhất của ý thức, thành quả tuyệt vời nhất nhưng vẫn phải quay về với nhân gian, thế tục. Người đạt đạo phải trở lại thành một phần tử của nhân loại cao cả hơn. Chỉ khi đó người ấy mới có chia sẻ, khuyến khích người khác tìm kiếm chân lý. Và chắc chắn khi người ấy đến từ một đỉnh cao như thế, người ấy phải vô cùng say sưa với niềm hạnh phúc. Bình rựu chẳng phải bình rựu thường, nó tượng trưng cho sự ngất ngay hạnh phúc (trích Thiền - Lịch sử về giai thoại ảnh hưởng của thiền đối với nhân sinh, tác giả Osho, Nxb Đồng Nai, 2011).Trong lịch sử Phật giáo, hình ảnh con trâu trong pháp môn Thiền, pháp môn tu luyện quan trọng nhất qua bộ tranh Tranh chăn trâu, đã trở nên hết sức phổ biến với đại chúng và đã trở thành một trong những bức tranh tiêu biểu không lời trong nền mỹ thuật và hội họa Thiền. Tuy nhiên, bộ tranh cũng là nguyên nhân tranh cãi lớn trong suốt chiều dài lịch sử xuất hiện bởi bố cục thứ tự của các bức tranh. Một bên, chiếm đa số phái Đại Thừa, tin rằng bức tranh thứ chín là bức tranh cuối cùng, nó tượng trưng cho tâm hư vô, đạt đạo và bức tranh này thì ở vị trí thứ tám trong bộ tranh của phái Thiền Tông. Như vậy, cho tới nay, việc nhận định bộ tranh nào là bộ tranh gốc và quy tắc thiền nào để đạt chứng ngộ theo Tranh chăn trâu vẫn chưa được ngã ngũ.Nhằm làm rõ những ẩn nghĩa uyên áo trong bộ tranh Tranh chăn trâu, chúng ta bắt buộc phải xem xét lại nguồn gốc nguyên thủy của bộ tranh, tỳ kheo Quảng Trí, hiệu Pháp Thông ở tại kinh đô nước Việt, thời nhà Lê, luận giải các bài tụng trên tranh chăn trâu có đoạn: “ Này quý vị! Hãy ngay đây trấn định tinh thần, chỉ một niệm hồi quang là bỗng nhiên tự sáng. Khác chi mặt trời ở giữa không trung bao la tự chiếu, nào phải dụng tâm; tợ hạt minh châu tròn sáng trong mâm không cần ai đẩy, mà tự nó chuyển. Ngay lúc này đây mà không nghiên cứu tận nguồn, lại chờ mai sau hỏi han Phật Di Lạc há chẳng muộn sao?” (Trích từ cuốn Thập mục ngưu đồ, tác giả Quảng trí thiền sư, trần Đình Sơn dịch và chú thích, Nxb Phương Đông, 2008).Tranh chăn trâu là một bộ các bức tranh chăn trâu, ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn bút nào khó mà tra cứu cho đích xác được, điều chắc chắn là tranh đã có từ rất xa xưa. Ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc, mãi đến thời nhà Tống, Trung Quốc (960-1279), nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm và thiền viện. Như vậy là không chỉ có một bộ mà có nhiều bộ Tranh chăn trâu khác nhau. Các bức tranh chăn trâu ngay từ đầu đã được xem như những bức tranh tiêu biểu trình bày tinh hoa của pháp môn Thiền. Tranh chăn trâu tương ứng với quá trình hành đạo, để rèn luyện tâm tính của một người quyết tâm đạt đến sự giác ngộ. Tác giả đã dùng công việc chăn trâu để diễn tả về quá trình nhận biết bản ngã, nó được ví như là “con trâu” và một khi đã chế phục được nó, tức là đã thấy con đường để trở thành người giác ngộ ngay trong cõi đời.Lịch sử có nhiều bộ tranh khác nhau, có bộ 4, 5, 6, 8, 10, 12 bức nhưng có lẽ nổi tiếng nhất và cũng bao hàm ý nghĩa nhiều nhất là bộ 10 bức tranh của thiền sư Khuếch Am Sư Viễn (zh. kuòān shīyuǎn 廓庵師遠, ja. kakuan shion, ~1150), được lưu lại trong bản sao của hoạ sĩ người Nhật tên Châu Văn (周文, ja. shūbun, ?-1460). Ngoài ra còn có bản Tranh chăn trâu khác của thiền sư Phổ Minh đệ tử của Viên Thông Pháp Tú (1027 - 1090) thuộc Vân Môn Tông cũng rất nổi tiếng, được lưu nhập vào Nhật thời cận đại. Một bộ khác với 6 bức tranh cũng thường được nhắc đến. Ban đầu, thiền sư Thanh Cư (zh. qīngjū 清居, ja. seikyo) chỉ vẽ có 5 bức nhưng sau, thiền sư Tự Đắc (zh. zìdé 自得, ja. jitoku, tk. 12) vẽ thêm bức tranh thứ sáu. Trong bộ này, con trâu từ màu đen dần dần đổi trắng và cuối cùng thì trắng hoàn toàn, biểu tượng cho chân tâm thanh tịnh.Mục Ngưu đồ của Phổ Minh và Thập Ngưu đồ bản Gozan của Nhật BảnTrích Tình hiểu nội dung và xuất xứ Thập mục ngưu đồ, Yanagida Seizan, dịch giả Đào Hữu Dũngfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgNguồn gốc của Tranh chăn trâu hầu như không rõ ràng. Thập mục ngưu đồ kết hợp trong Thiền Tông Tứ Bộ Lục là của Khuếch Am, hàng đồ tôn đời thứ ba của Ngũ Tổ Pháp Diễn. Trước Khuếch Am đã có Thanh Cư Hạo Thăng, trước Thanh Cư đã có Phật Ấn Liễu Nguyên, người nào cũng để lại kệ tụng đem chuyện chăn trâu để so sánh với những giai đoạn trong đời tu hành. Thanh Cư thuộc tông Tào Động, Phật Ấn thuộc tông Vân Môn. Trong tông Vân Môn có thêm Phật Quốc Duy Bạch. Còn Phổ Minh là một người tông phái không được biết rõ, cũng để lại tác phẩm. Nếu ta xem Phổ Minh là pháp hiệu của Tưởng Chi Kỳ (1031-1104) thì họ Tưởng là người đồng môn của Phật Quốc Duy Bạch. Tác phẩm của các phái và dưới các dạng khác nhau đã được Khuếch Am tổng hợp lại. Về hoàn cảnh đã đưa đẩy nó ra đời thì ta đã biết qua bài tựa đặt ở đầu quyển Trú Đỉnh Châu Lương Sơn Khuếch Am Hòa Thượng Thập mục ngưu đồ. Thế thì dưới thời Tống vì cớ gì người trong làng thiền lại chọn 4 tập sách này để kết hợp chúng lại với nhau. Thiền Uyển Thanh Quy đã được biên soạn vào năm Sùng Ninh thứ 2 (1103). Hình như lúc đó trong Thiền Uyển Thanh Quy chưa chứa đựng phần Tọa Thiền Nghi như ta thấy ngày nay. Chỉ một thời gian sau đó ước độ 50 năm, vào niên hiệu Thiệu Hưng 27 (1157) khi bộ Đại Tạng Nhất Lãm được biên tập thì mới thấy trong đó một bộ phận của Tọa Thiền Nghi mà thiền sư Nhật Bản Eisai (Vinh Tây) đã sao lục vào trong Hưng Thiền Hộ Quốc Luận của ông. Thế rồi đến năm Gia Thái thứ 2 (1202) khi Thiền Uyển Thanh Quy được tái biên, người ta khám phá ra Tọa Thiền Nghi đã nằm trọn vẹn trong đó. Thập mục ngưu đồ cũng ra đời vừa vặn vào dịp này.Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng đều có mười bức, có thể xếp thành hai loại là tranh theo phái Ðại Thừa và tranh theo phái Thiền Tông, các bài tụng và bài chú giải bằng văn xuôi cho mỗi bức tranh của hai bộ tranh đều giống nhau, chúng được bổ sung vào các bức tranh nhằm thuyết minh ý nghĩa của mỗi bức tranh. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhiều nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu Thanh Cư và Quách Am. (sách Thiền luận của Daisetz Teitaro Suzuki, bài tụng của Thiền sư Khuếch Am được hòa thượng Thích Thanh Từ chuyển ý, bản dịch của Trúc Thiên và Thích Tuệ Sỹ). Tầm ngưu (1) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Hình bóng con trâu chưa xuất hiện trong bức tranh mở đầu này, chỉ có chú mục đồng đầu hai bím tóc với tay dây tay roi, đang đứng dưới cành liễu rũ bên dòng thác đổ. Chú quay ngược đầu tìm cái gì vậy? Đấy chính là nguồn cội của mình, những câu hỏi tự dưng tuôn trào: Ta là ai? Từ đâu tới? Và sẽ đi về đâu? Hòa thượng Quách Am có đề tụng rằng:Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu, Núi thẳm đường xa nước lại sâu. Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy, Chỉ nghe réo rắt giọng ve sầu.Duy Thức tông mô tả Tâm như một hệ thống của 7 thức linh động, tất cả đều xuất phát từ thức thứ tám A-lại-da Thức hay Tàng thức. A lại da thức thì thụ động và chứa đụng tiềm năng, hay còn gọi là “chủng tử” cho sự phát huy và hoạt động của 7 thức đầu. Thức thứ bảy mang ý thức về chính mình hay của bản ngã cá nhân Mạt na thức (Ý), qua đó làm ô nhiễm sáu thức trước. Thức thứ sáu là trung tâm của tiến trình nhận thức và cảm giác (Thức) trong khi năm thức đầu tiên là sự nhận biết của các giác quan mắt, mũi, tai, lưỡi và thân. Mặc dù các thức này đều xác thực lưu xuất từ Thức thứ tám (Tâm) theo sự sắp xếp trong hệ thống, nhưng sự sắp đặt ấy hoàn toàn được căn cứ trên sự phân biệt của tâm thức. Tám thức vốn hoàn toàn chỉ là “Một”.Tâm của mỗi người biến đổi từng phút giây như một dòng thác lũ, không thể ngăn chặn được, và hoàn toàn đang phụ thuộc vào những mong cầu bình thường nhưng chưa chắc đã thành công, trong đó nỗi tham, sân, si luôn đeo bám tạo nên nhưng nỗi khổ không thể nói ra, chưa kể những mất được trong cuộc sống. Mặt khác, sự tương tác có quy luật từ vũ trụ trái đất, cũng như tới mỗi con người cũng không thể nhận ra, đây mới chính là nguồn gốc nguyên thủy cái được gọi là nghiệp hay nguyên lý nhân quả. Chúng ta hãy cùng xem tiếp sự quan hệ về mặt ý nghĩa với bức tranh thứ hai như thế nào.Thấy dấu (2) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Lúc này, bất ngờ chú mục đồng vừa phát hiện ra dấu chân trâu, năm dấu với hai vệt móng và chú đang lần theo vết của nó. Hướng dấu chân trâu theo chiều kim đồng hồ, dẫn thẳng lên bầu trời, một cuộn mây trắng đang lơ lửng bay. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Ven rừng, bến nước dấu liên hồi, Vạch cỏ ruồng cây thấy được thôi. Ví phải non sâu lại sâu thẳm, Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi.Bức tranh này thể hiện năm vệt chân trâu, theo chiều kim đồng hồ và hướng lên trời tới đám mây trắng trên cao, hình ảnh này thể hiện thuyết Âm dương Ngũ hành, cái Ta hay Tâm mà chúng ta đang kiếm tìm có mối liên hệ mất thiết với cả vũ trụ này, sự sinh của mỗi con người không tách rời mỗi hơi thở, hay đang tiếp “khí” tự nhiên. Tương tác có quy luật từ vũ trụ tới quan trọng nhất chính là “khí” mà con người hấp thụ, và phương pháp hấp thụ nó cũng rất quan trọng trong việc điều chỉnh các Tâm của mỗi hành giả, đấy chính là cội nguồn của phương pháp thiền quán, Yoga hay khí công đạo gia.Thấy trâu (3) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Chú mục đồng đã trông thấy cái đuôi và mông trâu lấp ló sau một thân cây ven đồi. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Vàng anh trên ngọn líu lo, Nắng ấm gió hòa bờ liễu xanh. Chỉ thế không nơi xoay trở lại, Đầu sừng rành rõ vẽ khôn thành.Qua bức tranh thứ 1 và 2, chúng ta đã khác phá ra Tâm hay “con trâu” của mỗi người, nhưng đấy chỉ mới là lý thuyết, chưa thực hành điều này tương tự như mới thấy mái mông đuôi của con trâu mà thôi.Được trâu (4) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Chú mục đồng đã túm được trâu, nhưng hết sức khó khăn khi muốn nó đi theo mình trở về nhà, con trâu ghìm lại, đuôi cong vưỡn lên. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Dùng hết thần công bắt được y, Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghi. Có khi vừa hướng cao nguyên tiến, Lại xuống khói mây mãi nằm ỳ. Đã phát hiện ra Tâm, hành giả đang nỗ lực điều phục và làm chủ thân tâm ý mình, nhưng kết sức khó khăn bởi những suy nghĩ hay tương tác liên tục tới, kết quả là không đáng kể. Việc này cần thời gian và phương pháp tu tập phù hợp được hướng dẫn từ các bậc chân sư. Chăn trâu (5) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Chú mục đồng đã điều khiển được trâu, dùng dây thừng xỏ mũi và dắt nó đi theo mình. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Nắm chặt dây roi chẳng lìa thân, Ngại y chạy sống vào bụi trần. Chăm chăm chăn dữ thuần hòa nhã, Dây mũi buông rồi vẫn theo gần.Chăn trâu mang hàm ý cần phải luôn quan tâm bồi dưỡng công sức tu luyện thiền qua năm tháng. Sinh khí dần dần thành thục, sự thành thục lại tạo ra sinh khí dần dần mới có thể loại bỏ hết các thói quen cũ. Hành giả lúc này đã hoàn toàn có được chánh niệm trong lúc thiền tập. Hành giả quán chiếu và thấy rõ một cách thường xuyên dòng tâm ý đang trôi chảy của mình; hay nói cách khác, đây là giai đoạn “dùng tâm quán sát tâm”. Trong những khi đi đứng nằm ngồi, không lúc nào hành giả đánh mất chính niệm.Cưỡi trâu về nhà (6) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Chú mục đồng ngồi trên lưng trâu khoan thai thổi sáo, thong thả trở về nhà. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Lưng trâu bước chậm ta về, Sáo lên vi vút ngoài đê rang chiều. Vừa ca vừa nhịp hiu hiu, Tri âm rồi khỏi ra chiều nọ kia. Lúc này hành giả đã hoàn toàn làm chủ được tâm ý mình, không lay động, không chướng ngại. Phương pháp thiền quán đã thuần thục, hành giả đã điều động được khí lực trong cơ thể của mình theo những vòng vận chuyển thích hợp trong hệ thống kinh mạch của cơ thể. Giai đoạn này, mọi mong cầu đã dứt bỏ trong quá trình hành thiền, cảm xúc an bình tự nó dâng trào trong khi tư duy của hành giả vẫn nhận thức được mọi sự vẫn đang diễn tiến trong Tâm của mình. Quên trâu còn người (7) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Trâu đã nhốt vào chuồng, chỉ còn một mình ngồi dưới ánh trăng tỏa ra dịu hiền. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Lưng trâu thoắt đã quê mình, Buông trâu mất hút mặc tình thong dong. Nắng cao còn đượm giấc nồng, Quăng roi nhà cỏ hết dùng lại thôi.Sau khi đã trở về với “bản lai diện mục”, hành giả thường trực an trú trong tuệ giác về “Tính Không”, lúc này Tâm của mình giống như một mặt trăng soi chiếu mọi diễn tiến tư duy và cảm xúc xuất hiện và chế ngự một cách dễ dàng. Thậm chí hành giả vẫn có thể “giải quyết công việc” một cách sáng suốt mà không dấy lên bất cứ một biến đổi Tâm nào liên quan đến tham, sân, si nữa.Người trâu đều quên (8) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Tất cả mọi thứ đều không còn hình bóng. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Người, trâu roi vọt thảy đều không, Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng. Tuyết khoe trắng giữa than hồng, Cội nguồn quê quán tao phùng một phen.Nội thiền đã đắc uyên thâm, hành giả thường trực an trú trong tuệ giác về “Tính Không” của vạn hữu, và tiến đến nấc thang cao tột của tuệ giác giác ngộ: những kiến chấp vô thức về sự tồn tại của một cái “Ngã” cá nhân hoàn toàn bị tiêu diệt, do hành giả đã tự mình điều chỉnh nó một cách dễ dàng, tuy nhiên nó vẫn có thể xuất hiện trở lại bất kỳ lúc nào bởi sự tự hiện hữu. Nhà thơ Basho Nhật Bản (1644-1694) có viết:Hồ nước xưa,Con ếch nhảy vào…Tiếng nước reo.Hồ nước xưa biểu tượng cho bản Tâm tịch tĩnh hay “Tính Không”, Con ếch nhảy vào biểu tượng cho sự động niệm, Tiếng nước reo biểu tượng cho đối tượng của nhận thức, bây giờ hãy tự chiêm nghiệm: đâu là sự nhận thức, ai đang nhận thức, Con ếch hay là chúng ta?... Im lặng… (Du già hành tông, Yogacara, Thích Nhuận Châu soạn dịch, Nxb Tôn giáo, 2005, trang 134).Trở về nguồn cội (9) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Bất chợt, thoảng nghe tiếng chim hót đâu đây, lại thấy những cánh bướm bay lượn xung quanh những cành hoa đang tỏa hương, dòng suối đã như hiền hòa hơn, chảy quanh uốn lượn như cùng nhịp theo khúc ca của muôn loài. Hòa thượng Quách Am đề tụng:Mất công tìm lại cội nguồn, Trắng trong một giải ra tuồng điếc đui. Trong am không thây cõi nào, Ngoài kia hoa thắm nước trào mênh mông.Khi đạt tới cảnh giới vô ngã thì “con trâu” chẳng còn thấy đâu nữa. Kể từ đó hành giả có thể đạt tới tự do tự tại, vô biên an lạc mà không hề sầu muộn, và cảm thấy cái “Ta” có trong vạn vật cũng như có trong toàn bộ vũ trụ này và ngược lại, tất cả chỉ là “Một” và sẽ nhận thấy được sự bất diệt của vạn vật, không còn sợ “chết” nữa. Lúc này, hành giả sẽ khởi tâm từ bi một cách mãnh liệt và có những mong ước cứu giúp chúng sinh và nhận thức được lòng nhân từ, tình yêu vào cuộc sống một cách rõ ràng, ước muốn cứu độ cho của cuộc đời, đây chính là “Phật Tính”. Đạt tới cảnh giới này nếu rèn luyện thêm các phương pháp đặc biệt khác, thì hành giả có thể chứng đắc những phép thần thông diệu kỳ, có khả năng “điều chỉnh và vận động” các trạng thái vật chất ở các trạng thái khác nhau thông quan công năng của Tâm, bởi nó thể hiện thuộc tính tuyệt đối.Thõng tay vào chợ (10) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Sớm mai thức dậy, chú mục đồng lại đi vào chợ đổi trao con “cá chép” đã bắt được chiều qua, và đã gặp… Bồ Tát Di Lạc trong hình dáng Bố Đại hòa thượng. Hòa thượng Quách Am có đề tụng rằng:Lưng trần chân đất chợ người, Cát lầm bụi vấn ta cười say sưa. Thần tiên bí quyết cũng thừa, Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.Hành giả đã thay đổi và điều khiển được tâm tính của mình, chứng ngộ được sự nhiệm màu của tạo hóa ở trong ta và trong vạn vật nhưng việc áp dụng vào cuộc đời mới thực sự là một bước không đơn giản, tuy nhiên hành giả vẫn có thể dễ dàng vượt qua. Nếu vượt qua được và phát nguyện “Tâm Bồ Đề” với hành trang “bi, trí, dũng” để hóa độ chúng sinh thì thật sự đã tham dự vào hành Bồ Tát. Kết quả, sự rèn luyện và chứng ngộ của hành giả là không hoàn toàn tách rời khỏi cuộc sống này, khi hành giả đạt “Tính Không” thường trực nhưng vẫn nhận thấy hòa nhập vào cuộc đời, vẫn cảm xúc an lạc hay vẫn tồn tại “Tính Có”, nhưng trong Tâm có lẽ vẫn nhận thức một chân lý: Ta và vạn vật vẫn bất diệt đối với cả cái “chết”, đó chính là điều tuyệt diệu nhất. Thiền chính là quyển vô tự chân kinh, là quyển sách không có chữ, quyển kinh không lời. Đây là pháp môn tu luyện tắt, ngắn gọn và đơn giản nhất nhưng sẽ đạt đến tầm cao tuyệt đỉnh.Để truy tìm lại nguồn gốc của bộ tranh thiền Thập mục ngưu đồ, chúng ta hãy tham khảo về cuộc đời của thiền sư Định Không, ngài thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, ngài tu hành ở chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, Bắc Ninh, Việt Nam. Thiền Sư Định Không (730-808), ông họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp. Lúc tuổi đã lớn, ông đến pháp hội Long Tuyền Nam Dương nghe pháp, liền lãnh hội ý chỉ. Nhân đấy ông phát tâm xuất gia theo Phật. Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), ông lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Truyền thuyết kể rằng, khi đào đất đắp nền chùa bắt gặp một cái lư hương và mười cái chuông đồng, sư sai đem đi rửa, một cái chuông rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im. Sư luận giải rằng: Thập khẩu là chữ Cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn Thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Sư có làm bài tụng:Địa trình pháp khí,Nhất phẩm tinh đồng.Trị Phật pháp chi hưng long,Lập hương danh chi Cổ Pháp.Đất dâng pháp khí,Một món thuần đồng.Ấy điềm Phật Pháp hưng long,Đặt tên làng là Cổ Pháp. Sư lại nói:Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung,Lý hưng vương tam phẩm thành công.Pháp khí hiện ra mười cái chuông đồng,Họ “Lý” làm vua ba phẩm thành công. Sư nói tiếp:Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ,Danh hiệu làng Cổ Pháp.Gà ở sau loan nguyệt,Chính là Tam bảo thạnh.Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ,Cổ Pháp danh hương hiệu. Kê cư loan nguyệt hậu,Chánh thị hưng Tam bảo. Sau, Sư trụ trì tại chùa Thiền Chúng ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, nay là làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện đến bảo: “Ta muốn mở rộng làng xã nhưng giữa chừng e gặp họa nạn, ắt có người khác đến phá hoại đất đai của chúng ta. Sau khi ta tịch, ngươi khéo gìn giữ pháp của ta. Khi nào gặp người họ Đinh sẽ truyền thì nguyện của ta được mãn vậy”. Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808) năm Bính Tý. Thông Thiện xây tháp thờ Sư ở phía Tây chùa Lục Tổ và ghi lời phó chúc rành rõ và quả nhiên, sau có viên tướng Cao Biền đời Đường đến trấn yểm phong thủy tại đây.Chúng ta có thể nhận định bức tranh thứ mười thể hiện hình ảnh Bố Đại hòa thượng tương ứng là cái lư hương và 9 cái chuông chính là 9 bức tranh của Thập mục ngưu đồ. Thiền chính là cổ pháp mà thiền sư Định Không muốn nói, tuy nhiên trong các bài kệ của ngài còn có liên quan đến thuyết Âm dương Ngũ hành và tính tiên tri. Ngôi chùa mà ngài tổ chức xây dựng mang tên Quỳnh Lâm, sau này Bồ Tát Nguyễn Minh Không (1065-1141) cũng đã cho đúc một pho tượng Phật Di Lạc khổng lồ bằng đồng, đệ nhất của Thiên Nam Tứ đại pháp khí cho một ngôi chùa cũng mang tên Quỳnh Lâm, nhưng lại ở Đông Triều, Quảng Ninh: Chùa Quỳnh Lâm, Ðông Triều, Quảng Ninh là một trong các ngôi chùa nổi tiếng của Việt Nam, một thời được mệnh danh là Thiên Nam đệ nhất danh lam cổ tích. Xưa kia, chùa là một trung tâm Phật giáo quan trọng của dòng thiền Trúc Lâm, bởi nơi đây từng có pho tượng Phật Di Lạc khổng lồ, đứng đầu trong Thiên Nam Tứ đại pháp khí hay An Nam Tứ đại pháp khí, tức bốn thần khí bằng đồng khổng lồ, là tài sản quý giá của nước Ðại Việt thời Lý, Trần. Thiên Nam Tứ đại pháp khí gồm tượng Phật Di Lạc như đã nói, tháp Báo Thiên chùa Sùng Khánh, Hà Nội; chuông Quy Ðiền chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột, Hà Nội và vạc Phổ Minh chùa Phổ Minh, Nam Ðịnh. Chùa Quỳnh Lâm được xây dựng từ thời nhà Lý, năm Long Thụy Thái bình thứ tư (1057) đời vua Lý Thánh Tông. Chùa Quỳnh Lâm có hai pho tượng lớn nổi tiếng được đúc vào hai thời kỳ khác nhau. Một pho thời Lý do sư Nguyễn Minh Không cho đúc, và pho thứ hai thời Trần do thiền sư Pháp Loa tạo dựng. Pho tượng được liệt trong Thiên Nam Tứ đại pháp khí là pho được đúc vào thời Lý. Theo lịch sử thì nhà sư có công xây dựng chùa Quỳnh Lâm đầu tiên là nhà sư Minh Không. Truyền thuyết kể rằng, khi đúc pho tượng Phật Di Lạc khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm, sư Minh Không đã dùng một cái túi để thu gom toàn bộ đồng ở Trung Quốc đem về nước. Theo các tài liệu còn lại thì pho tượng Phật Di Lạc ở chùa Quỳnh Lâm thời Lý cao 6 trượng (một trượng xấp xỉ 3.3m, ước pho tượng cao khoảng 20m). Pho tượng lớn đến nỗi người ta phải xây dựng một tòa điện cao 7 trượng (khoảng 23.5m) để đặt tượng. Tục truyền rằng, đứng phía Nam huyện Ðông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc điện che sát đầu pho tượng. Dân gian còn lưu truyền câu ca: Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông,Ai qua đứng lại ngước mà trông.Tháp cao chín đợt tầng mây ấm,Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng.Trước điện thông reo cùng trúc lá,Trong am khánh đá với chuông đồng.Vua tu Phật hóa vui vui nhỉ… Sau đó không rõ tượng mất khi nào, có ý kiến cho rằng, tượng bị mất khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta, bởi vì sau đó sư Pháp Loa cho đúc lại một pho tượng lớn tương tự. Pho tượng Phật lớn thứ hai của Quỳnh Lâm cũng là tượng Di Lạc được đúc xong từ năm 1327. Năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã tâu xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, chủ soái của Bích Ðộng thi xã và người chị ruột, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã cúng vào chùa 900 lượng vàng để đúc tượng. Tượng cũng bị mất vào thế kỷ XV khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá tượng để đúc súng đạn. Truyền thuyết lại nói rằng, giặc mang tới 24 bễ đến định thổi đồng đúc đạn nhưng thổi không được, còn bia chùa thì ghi “tượng chìm dần xuống đất”. Ngày nay, mỗi khi đứng dưới gác chuông chùa Quỳnh Lâm, du khách không khỏi bồi hồi về một quá khứ huy hoàng của ngôi chùa gần nghìn năm tuổi.Mặt khác, sự tích của Bố Đại hòa thượng được ghi nhận trong khoảng thế kỷ thứ X, như vậy khả năng mâu thuẫn về mặt thời gian sáng tác bộ tranh Thập mục ngưu đồ của thiền sư Định Không, bởi vì ngài mất vào năm 808.Bố Đại Hòa Thượng (thiền sư Trung Quốc, khoảng thế kỷ X), theo sự tích được chép lại trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục: Quê ở Minh Châu, huyện Phụng Hóa, trong vùng Chiết Giang ngày nay. Không ai rõ tên họ ngài là gì, chỉ biết ngài tự gọi là Bố Đại Hòa Thượng, nghĩa là Hòa Thượng Túi Vải. Tướng người mập mạp, trán hẹp, bụng lớn, như trong các tranh vẽ thường thấy ngày nay. Nói năng vô định, ngủ thì tùy chỗ; thường dùng một cây gậy, quảy một cái túi vải, hễ ai cúng cho món gì, ngài bỏ cả vào trong túi. Vào chợ, vào xóm, thấy cái gì là xin cái đó, bất kể cá ươn hay rau thối. Xin được, bỏ vào miệng; còn lại thì bỏ vào túi. Người thời bấy giờ gọi là "Trường Đinh Tử Bố Đại Sư", tức là "Ông sư túi vải cây đinh dài". Qua chuỗi các sự kiện nhằm lý giải các mối liên quan để xác định ai là tác giả bộ tranh thiền Thập mục ngưu đồ tuyệt thế, chúng tôi xác quyết đó chính là tác phẩm của thiền sư Định Không mặc dù có mâu thuẫn về mặt thời gian bởi câu truyện về Bố Đại hòa thượng cũng là truyền thuyết, mặc dù hình ảnh của ông nằm trong bức tranh số mười. Từ những nội dung truyền thuyết và sấm thi, đặc biệt mắt xích ở đây chính là bức tranh thứ mười tương ứng chiếc lư hương vẽ hình “Lưỡng Long triều nguyệt” - pháp khí biểu tượng của vua Lạc Long Quân, và mật ngữ này sẽ được phân tích trong Chương X: CHUYỂN PHÁP LUÂN VƯƠNG.Từ vũ trụ quan của Phật giáo, được xây dựng từ các khái niệm về Tính Thấy hay tính tuyệt đối cùng với việc xác định dạng vật chất nhỏ nhất khởi nguyên vũ trụ thường được gọi là những hạt ngọc hay “minh châu” có trong đầu não của con người, về tính Không, Tâm - Ý - Thức trong Duy Thức học, bản ngã… đã có thể khẳng định rằng: Linh hồn là tồn tại bất biến, chúng sinh bị luân hồi hay có thể hiều là luân chuyển trong ý thức về cuộc đời của chính mình ngay trong cõi dục giới và sau này là trong cõi sắc giới, tức thế giới vô hình như ngày nay thường gọi.Nền chùa Địa Ngục và mộ tháp cổNúi Tam Đảo, Vĩnh Phúc, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Truyện Nhất Dạ Trạch của Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại việc Chử Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên (Tam Đảo, Vĩnh Phúc) truyền dạy giáo lý Phật giáo.Sự giao tiếp giữa thế giới hữu hình là chúng ta đang sống và thế giới vô hình của các linh hồn vẫn diễn ra nhưng ít phổ biến vì các giới hạn vật lý của thân xác đang sống, chỉ khi nào được rèn luyện hợp lý thì con người sẽ có những công năng để giao tiếp một cách bình thường. Nhưng rõ ràng, Phật giáo, Đạo giáo, Bà La môn giáo đã có những phương pháp tu luyện cụ thể, tuy nhiên Phật giáo đã xây dựng được một học thuyết về vũ trụ, xã hội và con người, chính là học thuyết Âm dương Ngũ hành, chúng ta cũng sẽ được biết cụ thể hơn trong các nội dung sau.Linh hồn trong Đạo giáoỞ nước ta có hàng trăm bộ tranh Thập điện Diêm vương do hàng trăm tác giả sáng tác, do đó có nhiều chi tiết trên tranh khác nhau. Có loại tranh chỉ vẽ cảnh trừng trị tội ác, có loại tranh vẽ lồng thêm chi tiết để ca ngợi, khuyến khích những người có công làm việc thiện. Song nếu xem xét kỹ thấy rằng nội dung của các bộ tranh vẫn có sự thống nhất. Có thể có một vài chi tiết chuyển dịch từ tranh này sang tranh khác, nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung của những cảnh lớn về các địa ngục, dựa theo tác phẩm Phật giáo như Thập vương kinh (của một nhà sư ở Thành Đô - Tứ Xuyên), hoặc tác phẩm Đạo giáo như Ngục Lý truyện.Dù tác giả có đạt đến mức độ nghệ thuật cao, thì vẫn bị hạn chế trong hạn chế chung của tranh Đạo giáo, đó là sự minh họa cho kinh sách Phật giáo hay Đạo giáo, nên không tránh khỏi sự trùng lặp trong khắc họa chân dung, tính cách của nhân vật. Đồng thời phải viện dẫn đến nhiều chữ để làm rõ nội dung các sự kiện trong tranh. Bộ tranh được giới thiệu là của tác giả người Việt vẽ tranh Đạo giáo, ở Cao Bằng là Thày Tào Nguyễn Ngọc Tồn, ông am tường chữ Hán, từng dịch kinh sách Phật, Đạo ra tiếng Tày để sử dụng trong các cuộc hành lễ ở địa phương.Thập điện Diêm vươngTranh thờ dân tộc Tày miền Bắc, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Đệ nhất điện Tần Quảng Vương: Chủ yếu xét xử có công hay tội, rồi chuyển tội nhân qua 8 địa ngục sau để thi hành án. Sự công bằng của phép “Minh chân chi phù (phép làm rõ sự chân thật) mà tranh Tử Cung (bộ tranh Thánh Đạo Hưng Long) hoặc Hải Bá (bộ tranh Hành Say) đã nêu, đến tranh này được khắc họa rõ nét hơn: Sau khi lìa khỏi thân xác, vong hồn lập tức bị quỷ Vô thường, đầu trâu, mặt ngựa bắt giải về địa ngục, tất cả vong hồn đều phải trút bỏ lốt y phục của trần gian, không kể phẩm trật, vua quan, sang hèn, giàu nghèo để thân phận đều được bình đẳng trước tòa án Âm phủ.Phán quan tra xét sổ sinh tử, nếu chưa đến thời hạn chết, vong hồn sẽ được trả về dương gian, cho sống lại. Nếu đã hết số, sẽ định công xét tội. Nếu có công lớn, đặc biệt, sẽ được chuyển thẳng sang ngục thứ 10 của Chuyển Luân Vương để được đầu thai kiếp khác theo 6 nẻo đường (lục đạo). Những kẻ có tội sẽ được đưa tới soi mình trước Nghiệt Kinh Đài - đài soi gương chiếu các nghiệp chướng mà vong hồn gây ra khi còn sống. Dù hành động kín nhẹm, ám muội đến đâu, thì tội lỗi vẫn phơi bày trên đài gương này, không thể chối cãi.Phân loại tội lỗi, giao tội nhân tới 8 địa ngục chuyên trách thi hành án. Tăng ni, đạo tử mà gian dối trong khi hành lễ ở nhân gian sẽ bị giam trong Bối kinh sở, sẽ chịu hình phạt: bổ sung các loại tấu sớ viết thiếu, viết sai, tụng kinh bổ sung, làm lễ bổ sung, sám hối tội lỗi. Nếu tội nặng sẽ bị trừng phạt trong Phong lôi địa ngục hoặc thần Sấm sét đánh chết ngay trong ngục đó. Những kẻ tự sát bị giam vĩnh viễn tại Uổng Tử Thành, những người bất đắc kỳ tử cũng bị giam tại Uổng Tử Thành cho tới bao giờ có người khác thay thế (chết đuối hoặc… sau kẻ chết trước) mới được định công xét tội.Ở bộ tranh này, Nghiệt Kính đài được vẽ ở tranh thứ năm, Hoàn Bố Sở (tức Bố Kinh sở) được vẽ ở tranh thứ mười. Tranh có đề chữ Hán: Thưởng thiện phạt ác. Tam thập bản (ba mươi bản án). Nhất tâm cung thỉnh cai nhân thiên tôn (một lòng cung thỉnh nhở đến các Đấng cai ngục tối cao).Đệ nhị điện Sở Giang Vương: Tranh có chữ Hán: Thiện hữu thiện báo (làm việc thiện sẽ được báo ứng), hàn băng ngục (ngục băng giá). Nếu làm người mà không cho ai tấm áo manh quần nào, chỉ bo bo bó vào than mình cho thực đầy đủ thì con cháu mình và mình sẽ bị tội quẳng vào ngục băng giá cho thấu cãi lạnh lẽo mà mình và cha ông mình đã gây cho kẻ khác. Làm người thầy thuốc mà thấy con bệnh mắc bệnh hiểm nghèo mà mình không cắt, không cho các loại thuốc quý để cứu mạng người ta, thì con cháu mình cũng không thể giàu sang phú quý được. Gông cùm và ngục kia sẽ kia sẽ trừng phạt cho việc làm độc ác đó.Đệ tam điện Tống Đế Vương: Chữ đề trên tranh Công, quả, tự dựng (công, tội do mình). Người làm quan sung sướng, áo mão sênh sang là nhờ tổ tiên mình hay làm chuyện phúc đức, ví như bắc cầu qua chỗ lầy lội cho ngàn người qua lại được thuận tiện. Đàn bà tội ác: mưu giết chồng, hại người khác, bất hiếu với ông bà cha mẽ sẽ bị chịu tội rắn độc cắn, hoặc bỏ vạc dầu sôi. Được người khác nhờ cậy mang tin tức, mà mình không báo cho gia đình người ta, sẽ bị tội trừng phạt: đồi ngòi pháo vào rốn, rồi đốt cho than mình nổ tung như xác pháo. Phóng hỏa đốt nhà, gây nê hỏa hoạn rất đánh thương tâm, có tội, bị trừng phạt: trói vào quả pháo, đốt cho quả pháo nổ xé tan than mình thành muôn mảnh.Đệ tứ điện Ngũ Quan Vương: Chữ đề trên tranh: uổng Tử Thành. Dùng cân để gian dối kiếm lời: xuất ít, nhập nhiều làm hại cho người khác trong việc mua bán, có tội, bị trừng phạt: móc treo than hình người vào móc sắt (như móc của cái cân). Lường thưng tráo đấu, hoặc tuy dung cùng đấu ấy nhưng khi mua gạo khô, khi bán lại là gạo ướt để gạo nở ra, dôi thể tích kiếm lời bất chính, có hại cho người mua. Có tội, bị trừng phạt: bỏ than hình vào cối xay mà nghiền cho tan nát. Làm quan xử án, làm chứng nhân mà vì điều lợi nhỏ, bẻ cong sự thật, xử lý thiên vị hoặc biển thủ ám muội, có tội bị trừng phạt: gông, trói, chém, đầu.Đệ ngũ điện Diêm La Vương: Chữ đề trên tranh Tự tác tự thú (mình làm mình chịu). Thức ăn thức uống, gạo thơm cơm dẻo mà mình không biết quý, thấy rơi không nhặt lại dẫm đạp lên. HOặc đem đổ xuống cống, rãnh bẩn thỉu - có tội bị trừng phạt: ném vào “biển sinh sở” là nơi hóa kiếp người thành chó, lợn, gà, trâu là những con vật phải ăn dơ ăn bẩn, không được hưởng gạo quý cơm ngon. Ngỗ nghịch, bất hiếu đánh người bề trên, bầy đủ mưu gian hại người tử tế… có tội, bị chém đầu. Đâm trâu, giết lợn, bắt chim, bẫy thú - có tội bị cắt than hình thành ngàn mảnh dưới dao, trên thớt.Đệ lục điện Biện Thành Vương: Chủ đề trên tranh: Mệnh hảo tâm hảo truyền thế cảnh hảo (Có tâm địa tốt. chỉ đạo hành vi đúng sẽ làm cho thế gian ngày càng tốt đẹp). Nhân ác nhân khạ, thiên bất khạ (người làm việc ác thì sợ chứ trời không sợ), nhân thiện nhân khi thiên bất khi (người làm việc thiện thì coi là thường, nhưng trời không coi là thường). Những kẻ oán trời, trách đất, bất kính thần linh, a dua điều ác, làm loạn điều thiện. Có tội, chịu hình phạt: cắt lưỡi, căng thây, xé xác, cưa thân thành từng mảnh ở địa ngục chuyên mổ xẻ tội nhân.Đệ thất điện Thái Sơn Vương: Những kẻ gian dâm, phá tan cơ nghiệp của cha ông, bị tội ném xuống hầm chông, bỏ vào vạc dầu sôi hay quẳng vào ngục lửa (hỏa sa địa ngục). Đồng thời khuyến cáo những điều quả báo như người chồng gian dâm sẽ khó giũ gìn được người vợ và con gái giữ được tiết hạnh trong sạch, hiền lương. Hoặc người khắc nghiệt, bạc ác trong việc gây dựng sản nghiệp thì chính con cái của họ lại phá tán gia tài. Cần kiệm lương thiện sẽ cảm động tới trởi đất.Đệ bát điện Bình Đẳng Vương: Chữ đề trên tranh Thưởng thiện phạt ác. Hai bên quả cân (bên phúc bên tội) đề: nhất vạn cửu bách tội (10.900 tội) đã làm mất đi: NHất vạn bát thiên công (18.000 công), ý nói làm một tội ác đã xóa đi nhiều công đức đã có. Trên phướn có chữ đề: tốc, trì chung hữu lục (nhanh hay chậm, cuối cùng sự báo ứng sẽ xảy ra). Trên cửa địa ngục đề: Thuyết ô trì (ao máu hôi thối). Trên hai câu đối như sau: quỷ như thùy vị vô tri, thiên như địa chi thần khởi (nếu như có điều gì có vị thần nào chưa biết thì có Trời biết, Đất biết, Thần biết những điều thiện, ác của con người). Và âm tòng dương số đại báo, nhất tâm công thử thỉnh vô lượng phụ nhân (cuộc đời đã được ghi sẵn, một lòng xin đấng tối cao tiếp nhận).Những kẻ làm việc ám muội, che đậy kín đáo, dù sớm hay muộn thì cũng lộ ra, người không biết, quỷ không biết, thì Trời biết, Đất biết, như gian phu dâm phụ, giết chồng, cướp vợ, phỉ bang thần linh, bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính các bậc bề trên… hoặc phạm điều trai giới, cấm kỵ như giao hợp trong những ngày giỗ kỵ tổ tiên… có tội bị trừng phạt: ném vào vạc dầu đang sôi, mổ bụng moi gan, giam mình trong ao máu dơ bẩn đối với cả đôi gian phu dâm phụ hoặc đối với cả vợ chồng mắc điều dâm nghiệt, hoặc bị phanh thây xé xác, hoặc trói vào giường sắt nung trên ngọn lửa.Đệ cửu điện Đô Thị Vương: Tranh này bị mất phần trên, nhưng phần tranh cơ bản dưới vẽ các hình tội ác vẫn rõ: Nọc ra đánh trượng, hoặc tống vào cối đá, chày sắt mà giã nát than hình, hoặc đóng gong ngâm vào cửa ngục phân hôi thối để trừng trị những ẻ gian ngoan, quay quắt, điêu toa. Đó là những kẻ: Gian ngoan lừa gạt, dẫn dụ con gái tiết triinh hiền lương vào con đường bán dâm. Những mũ đàn bà luôn miệng nguyền rủa chồng con, nói năng lăng lòan. Những kẻ sống bừa bãi, không tôn trọng lễ nghĩa, ưa chuyện kiện tụng, dựng chuyện vu cáo hại người, ưa dung sức mạnh để ăn hiếp người khác.Đệ thập điện Chuyển Luân Vương: Chữ đề trên tranh: Phân thân song nữ sinh (đó là lệnh của Diêm Vương cho đầu thai ở hình thức nào). Hoàn bổ sở (---), nhất phẩm đương triều, công hầu, cô độc (số phận được định cho kiếp tái sinh tùy công tội của kiếp trước). Cửa địa ngục là nơi phân phối các linh hồn đi đầu thai ở kiếp sống mới: kiếp tái sinh. Tùy theo công tội đã được xét xử ở mức nặng nhẹ mà đầu thai theo 6 nẻo đường (lục đạo) có 3 nẻo thiện và 3 nẻo ác: Những người hiền đức, nhân nghĩa, hiếu để, trung thần được đầu thai vào bậc công hầu, khanh tướng, hoặc bậc nhất phẩm triều đình. Loại người chân chính lương thiện thức hai được đầu thai làm người giàu sang phú quý. Loại còn vướng vào nghiệp chướng cha ông để lại hoặc con cái gây ra thì đầu thai vào kiếp người cô quả, góa bụa, khổ sở. Loại có nghiệp chướng nhẹ đầu thai vào loài chim lông vũ có đời sống ngắn nên chóng trở về kiếp người. Loại có nghiệp chướng nặng nề sẽ đầu thai vào loại thú bốn chân kéo cày trả nợ kiếp trước. Phải được hóa kiếp mới trở lại làm người. Hoặc đầu thai vào kiếp côn trùng, cua cá… phải chuyển nhiều kiếp mới trở về kiếp người. Còn những kẻ quá nặng tội như giết người, dẫn dụ con gái, đàn bà vào đường bán dâm… phải giam trong ngục tối vĩnh viễn, thành quỷ âm ngục. Khi đi đầu thai, linh hồn sẽ đi qua sông Mê bến Lú uống nước sông này để quên hết thân phận của mình ở kiếp trước và các cảnh ở địa ngục, để có thể thanh thản sống trong kiếp tái sinh.Ở Trung Quốc còn có tranh vẽ Mạnh Bà thần dựa theo truyền thuyết dân gian, có chức năng tương tự như sông Mê bến Lú. Bà sẽ cho các linh hồn đi đầu thai ăn cháo lú để quên chuyện kiếp trước và các cảnh ở địa ngục. Trong dân gian Việt Nam có nhắc tới cháo lú nhưng không có tranh Mạnh Bà thần.Trong một bộ tranh Thập Điệm Diêm Vương, xã Pò tới, huyện Lục Bình, tỉnh Lạng Sơn. Bức tranh thứ 10 Đệ Thập điện chuyển luân vương, không vẽ cảnh bánh xe luân hồi chuyển kiếp, mà vẽ: hình tượng Mạnh Bà thần đang cho các linh hồn (trẻ con) uống thuốc “quên” (Mạnh Bà thang) tại Mạnh Bà đình, là nơi ranh giới giữa hai cõi Âm phủ - Dương gian. Đây là một hình ảnh rất hiếm, ít thể hiện trong các bộ tranh Thập điện Diêm Vương. Mạnh Bà thần đưa thuốc “quên” cho các linh hồn được chuyển kiếp tại Mạnh Bà đình.Ở các sáng tác, hình ảnh địa ngục với các công việc hoạt động dưới đó không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng từ kinh Phật mà trước hết là kinh Vu Lan Bồn và kinh Địa Tạng. Nói cách khác, các quan niệm Đạo giáo về cõi chết, được tích hợp với quan niệm địa ngục có tính hệ thống của đạo Phật.Kinh Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương là Địa Tạng Bồ Tát.Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng địa ngục trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện nên dân gian cho rằng địa Tạng Bồ Tát là vị chủ tể tối cao của Địa ngục: Địa ngục chưa trống rỗng,Thề nguyện chẳng thành Phật.Khi độ hết chúng sinh,Mới chứng đắc Bồ Đề.Như các chương trước trước đã phân tích về các nhân vật lịch sử Văn Lang, Địa Tạng Bồ Tát là vua Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III, với biểu tượng chòm sao Thiên cực Bắc là Tiểu Hùng Tinh, còn biểu tượng chòm sao Nam Tào là vua Lạc Long Quân - Hùng Vương II. Mười vị Diêm Vương chính là 10 đời vua truyền ngôi trong chi Hùng Vương III, còn 10 vị vua truyền ngôi trong chi Hùng Vương II gọi là Thập cực chân nhân, được mật mã trong hệ thống tranh thờ Đạo giáo.Địa Tạng Bồ Tát và 10 vị Diêm VươngĐộng Thiên Phật ở Đôn Hoàng, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trong động Thiên Phật ở Đôn Hoàng có hình vẽ Địa Tạng Thập Vương tức hội các tượng của Địa Tạng Bồ Tát với mười vị vua Diêm La kèm theo lời văn minh họa. Hình vẽ này được tạo lập trong đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, năm thứ tám (983) nhằm nhấn mạnh rằng Ngài là “Đấng giải thoát khỏi cực hình Địa Ngục”.Đạo Giáo quan niệm linh hồn là tồn tại, và chúng ta hãy cũng xem bộ tranh thờ dân gian của dân tộc Tày Độ Linh mô tả cuộc hành trình của linh hồn sau khi rời khỏi thể xác:Tranh Độ linhTranh của dân tộc Tày, xã Đức Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằngfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgQua cách giả thích của thầy Tào, chúng ta biết quan niệm lên thiên giới của người Tày: Sau khi qua khỏi Nại Hà Kiệu, linh hồn sẽ được kỳ lân chờ đón và bắt đầu chặng đường được thầy Tào dẫn độ (ảnh 1-2). Ngoài thầy Tào và các thầy phụ lễ, hồn còn được Man Lôi Sứ giả (hình tượng về Đặng Nguyên Sư) dẫn độ. Các thầy dẫn độ và hồn cùng cưỡi ngựa, bắn súng dọn đường. Đây là đoạn đường bộ trước khi vượt biển (ảnh 3). Tất cả đoàn thầy cúng và hồn vượt biển bằng thuyền. Đoạn vượt biển này rất nguy hiểm và khí thế vượt biển rất hùng tráng (ảnh 4). Hết đường nước (vượt biển), hồn lại cưỡi ngựa cùng đoàn người lên núi Hoa. Đế cung Nhật Quang để tẩy luyện. Có 10 vị gồm tiên ông và tiên bà đón tiếp. Sau khi đã vượt biển đến núi Hoa, hồn sẽ không ăn cơm nữa. Như vậy đoàn người dẫn hồn đi qua biển rộng, núi cao, gian lao hiểm trở (ảnh 7). Tại cung Nhật Quang, hồn và đoàn người gặp được Trương Thiên Sư đón tiếp và chuẩn bị một chặng đường quan trọng nữa: đó là cưỡi trên mình phượng để lên thượng giới (đến đây ta có thể hiểu ý tứ của chữ “Kim môn vũ khách”: khách nhẹ như mình chim có thể vượt cửa nhà vàng) (ảnh 5-6). Hồn cưỡi chim lên tầng lầu I của Thiên giới (ảnh 8). Hồn lên tầng lầu II của Thiên giới (ảnh 9). Hồn lên tầng lầu III của Thiên giới. Sở dĩ có 3 tầng lầu vì có sự phân biệt: Tầng lầu I dành cho người bình thường và hồn của Tào, Pựt, Pựt non - ý nói là cấp bực thấp. Tầng lầu II dành cho hồn Tào, Pựt có cấp bậc cao hơn. Tầng lầu III dành cho hồn Tào, Pựt cao cấp. Ở lầu III này có lính gác, trên đỉnh lầu có hình âm - dương, nhật - nguyệt thiềm thừ. Tại đây, thầy Tào đưa người nhập Dinh Tiên (người theo Đạo giáo: Tào) hoặc cõi Phật (người theo Phật giáo: Pựt hay Bụt). Thầy Tào sẽ thu hồn của mình và binh lính của mình kể cả hồn của người phụ lễ trở về phía trần gian, không còn ở cõi ma quỷ, thần tiên nữa (ảnh 10).Chúng ta cùng tiếp tục với bộ tranh Độ Linh cũng của dân tộc Tày khác, và chính bộ tranh này đang lưu trữ những mật ngữ rất quan trọng:Tranh Độ linhTranh của dân tộc Tày, Hòa An, tỉnh Cao Bằngfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Các chữ Hán trên tranh, theo số, thứ tự sau:A. Tổ sư Lưu Đạo Phương Minh, Lưu Trí Cương, thu lục đệ tử.B. Vạn tinh tạo: do vạn thứ bệnh tạo nên cái chết.1. Hổ Vĩ: Hổ ở cuối bức tranh, tượng trưng cho chòm sao Bạch Hổ, ở phương Tây, cõi chết, cũng là đất Tây Phương tịnh độ cho các linh hồn cư ngụ sau khi chết.2. Thập sư: mười ông thầy pháp sư, làm nhiệm vụ đưa các linh hồn tới cõi Thanh Hư vô cùng vô tận.3. Nam kiệu: kiệu dùng cho hồn nam.4. Nữ kiệu: kiệu dùng cho hồn nữ.5. Hồn: hồn của người phụ nữ ngồi trong nữ kiệu.6. Nam quan thuyền: thuyền dùng chở hồn nam.7. Tiếp tận phù sinh: điểm cuối cùng của kiếp sống phù du (thuật ngữ Phật giáo).8. Như trên.9. Vọng Hương Đài: đài nhìn về phía quê hương. Sau khi chết vong hồn được đưa lên đài này, nhìn lại quê hương gia đình để từ đó họ thấy những nổi khổ sở của mình gây ra cho người thân và đồng loại trong kiếp sống của mình.10. Nại Hà Kiều: cầu đau khổ. Phía dưới là chó ngao, rắn rết bơi lội trong sông máu đỏ như son. Nếu vong hồn nào không có phúc phận tái sinh, siêu thoát lên Dinh Tiên, Cõi Phật sẽ bị sa xuống dòng sông, vĩnh viễn ở lại địa ngục.11. Nữ quan thuyền: thuyền chở vong hồn nữ.12. Thánh tán: lọng thánh.13. Ngọc mã: ngựa ngọc.14. Ngọc kiệu: kiệu ngọc.15. Tiếp dẫn: chặng đón tiếp, dẫn độ vong hồn lên thiên giới.16. Kim ngân thuyền: thuyền vàng, thuyền bạc để chở linh hồn qua sông, qua biển (Khảm hải – tiếng Tày, Thái). Trong tranh số 3, cả 3 con thuyền đều có vẽ con vịt trong thuyền. Đó là theo tín ngưỡng Tày, Nùng, Thái cho rằng vịt là con vật có thể bay, có thể bơi được, giúp choc ho việc chuyên chở linh hồn qua sông, qua biển được thuận lợi. Chi tiết này tuy nhỏ nhưng giúp ta giả định về xuất xứ của tranh do người tày, Nùng vẽ. Nam kiệu, Nữ kiệu, Nam quan (hay Nam Cung) thuyền. Nữ quan (hay Nữ Cung) thuyền. Kim ngân thuyền, Ngọc kiệu, Ngọc mã đều là các phương tiện chuyên chở linh hồn đi từ địa ngục, âm ty vượt sông mê, bến lú để lên cõi Tiên, được các vị thần linh độ dẫn. Trong một chiếc kiệu có vẽ hình người, được ghi chữ là Hồn - cho thấy: tất cả các phương tiện vận chuyển vong hồn đều là đồ hàng mã dùng trong tang ma. Và ta nên hiểu như vậy.Đoạn vượt biển khơi này, được các dân tộc tày, Nùng, Thái rất coi trọng trong tang lễ để dẫn độ linh hồn, gọi là “Khảm Hải” (vượt biển). Đoạn này huy động âm nhạc, vũ đạo và lời thơ có chất lượng nghệ thuật cao rất hùng tráng, cảm động, có vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân tộc ấy. Sau khi vượt biển là ra khỏi cõi Hạ Nguyên.17. Bát Tiên: tám vị nhân tiên. Người ta mong được sống trong quần thể người thành tiên như tám vị tiên này. Những vị này sẽ dẫn độ vong hồn tới mục tiêu cuối cùng của hành trình.18. Chấp sự: chức của các người giúp việc.19. Toàn đường tạo lệ: Tất cả phu phen phục vụ cho linh hồn.20. Như trên.21. Đông Nam Đẩu: tức Nam Tào.22. Vương Thái Tử tức Bắc Đẩu - coi sổ tử. Đời Minh Yên Vương Chu Lệ tự xưng là Bắc Đẩu Tinh Quân, dân lập đền thờ gọi là đền thờ Vương Thái Tử, hay còn gọi Thái Tử Gia.23. Cứu Khổ Cửu Lao Tiên Đô: Nơi ở của vị tiên Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn cứu độ chúng sinh.24. Thái Thượng Lão Quân: tổ sư Đạo giáo, thầy của các pháp sư Đạo giáo, cưỡi trâu xanh.25. Trương Thiên Sư tức Trương Đạo Lăng.26. Na Tra: thái tử có sáu loại binh khí hàng yêu ma, trị quỷ để bảo vệ vong hồn.27. Trấn Vũ: tức Huyền Thiên Trấn Vũ, trấn trị tà ma bảo vệ vong hồn.28. Bạch Tượng: tức Phổ Hiền Bồ Tát ở núi Nga Mi.29. Thanh Sư: tức Văn Thù Bồ Tát ở núi Ngũ Đài.30. Đại Kỳ quốc: tượng trưng cương vực của Thượng Nguyên.31. Ngũ Lôi đô ty: nơi ở của 5 vị Lôi công sứ giả (thần Sấm).32. Cửu đầu sư tử tọa liên đài: nơi ngự trị của Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn tức U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát.33. Cứu khổ chân nhân: tức Thái ất Cứu khổ Thiên tôn.34. Như trên.35. Thập cực chân nhân: các vị chân nhân ở thập cực trông coi 10 cõi ở 10 phương trong trời đất.36. Thập vương chân nhân: các vị chân nhân ở thập điện Diêm Vương trông coi cõi âm ty địa ngục.37. Thập chân chân nhân: các vị chân nhân trông coi 10 phương trời đất.38. Bảo tháp: tháp quý báu, tượng trưng cho đất đai, cương vực của các thần linh Phật và Đạo.39. Thái Thanh: Đạo Đức Thiên Tôn.40. Ngọc Thanh: Nguyên Thủy Thiên Tôn.41. Thượng Thanh: Linh Bảo Thiên Tôn.42. Hữu Thánh: thánh bên hữu phò trợ Ngọc Hoàng.43. Nguyệt phủ.44. Nguyệt: mặt trăng.45. Ngọc Hoàng Thượng Đế.46. Nhật: mặt trời.47. Nhật cung.48. Tả sư: pháp sư bên tả của Ngọc Hoàng.49. Long đầu: rồng ở đầu tranh, tượng trưng cho chon sao Thanh Long ở phương Đông, cũng là vị trí của Bồng Lai tiên cảnh ở ngoài biển Đông.Ở tranh này ngôi vị Thái Nhất - có ý nghĩa triết học đầy tính huyền bí và khó hiểu của Đạo giáo nguyên thủy, đã được thay thế bằng ngôi vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, vị Đại Thiên Tôn cai quản thiên giới về mặt quản lý hành chính thần linh trong vũ trụ, quen thuộc và phổ biến trong dân gian hơn ngôi vị Thái Nhất (tức Thánh Chúa). Trong tranh này đã cuất hiện nhiều thân linh có suất xứ từ Phật giáo. Đoạn tranh diễn tả: vong hồn được dẫn để vượt Sông Mê bến Lú, vượt biển tương ứng với điểm phân lộ trên tranh Dẫn Hương Lộ, đồng thời cho thấy yếu tố nguồn gốc xuất xứ từ Phật giáo: con thuyền Bát Nhã.Hành trình của con người - hiểu theo ý nghĩa triết học, hay của linh hồn - hiểu theo ý nghĩa tôn giáo, được thể hiện trong tranh này, rất gần gũi với hành trình của đàn quân Then trong lễ Then, lễ Pựt (Pụt) của người Tày, Nùng. Lẽ dĩ nhiên có sự khác biệt giữa hai loại hình, nhưng trong tranh này sẽ giúp cho việc nghiên cứu về Then và Pựt trong tín ngưỡng Tày, Nùng và mối quan hệ giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa. Nội dung những bộ tranh không chỉ nói về vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đạo giáo và Phật giáo, mô tả chặng đường mà linh hồn đi qua và sẽ tới, cũng như lưu giữ những thông tin lịch sử nước Văn Lang, mà còn là mật ngữ của Đạo giáo về cách thức tu luyện khí công để đắc đạo thành tiên, xương sống và 7 luân xa như tranh Hành Say và hệ thống kinh mạch Nhâm - tranh Tử Cung - Bắc Đẩu, mạch Đốc - Sinh Cung - Nam Tào. Trong các bộ bức tranh thờ, Thái Thượng Lão Quân tức Lão Tử, giáo chủ của Đạo giáo, là một nhân vật lịch sử nhưng còn “cấp” dưới rất nhiều vị thần tiên khác như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Tam Thanh… do vậy, cần phải xác định thêm các thư tịch liên quan khác mới làm rõ được vũ trụ quan và nhân sinh quan Đạo giáo, cũng như lịch sử của Lão Tử. Cấu trúc bộ tranh cũng tương ứng bố cục mặt bằng của một ngôi đình, đền, chùa, đạo quán theo một số các tên gọi tương ứng trên các bức tranh. Trong Đạo giáo, theo kinh sách có lưu truyền một phương pháp giúp cho con người trường sinh bất tử, chúng ta hãy tìm hiểu lỹ hơn về Đạo giáo đặc biệt là lịch sử của vị giáo chủ tôn giáo này, cùng với phương pháp tu luyện đặc thù, trong mối tương quan với các phương pháp khác như Yoga của Bà La Môn giáo, Thiền trong Phật giáo.Thái Thượng Lão QuânTruyện Lão Tử trong Sử ký Tư Mã Thiên (146-86 tr.CN), Lão Tử người làng Khúc Nhàn, Hưng Lệ, huyện Khổ, nước Sở, họ Lý, tên Nhĩ, tên tự là Bá Dương, tên thụy là Đam. Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử (551-479 tr.CN). Ông làm quan sử giữ nhà chứa sách của nhà Chu. Truyền thuyết kể rằng: Khổng Tử đến Chu, muốn hỏi Lão Tử về Lễ, Lão Tử nói: “Những người ông nói đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, người quân tử gặp thời thì xe ngựa nghênh ngang; không gặp thời thì như cỏ bồng xoay chuyển”. Tôi nghe nói: “Người buôn giỏi thì biết giấu của báu, khiến người ta thấy dường như không có hàng, người quân tử có đức tốt thì diện mạo dường như ngu si”. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái chí tham lam đi, những cái ấy đều không có ích gì cho ông. Tôi chỉ bảo ông có thế thôi”. Khổng tử ra đi, bảo học trò: Con chim, ta biết nó biết bay, con cá ta biết nó biết lội, con thú, ta biết nó biết chạy. Đối với loài chạy, thì ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội thì ta có thể dùng câu để bắt, đối với loài bay thì ta có thể dùng tên bắn, đến như con rồng cưỡi mây cưỡi gió lên trời, ta không sao biết được! Hôm nay gặp Lão Tử, ông ta có lẽ là con Rồng chăng? Tượng đá Lão TửTrung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgLão Tử trau dồi đạo đức, học thuyết của ông cốt ở chỗ giấu mình, kín tiếng. Ông ở nhà Chu đã lâu, thấy nhà Chu suy bèn bỏ đi. Lúc đi qua cửa ải Hàm Cốc, Lão Tử gặp quan giữ thành là Doãn Hỷ, Doãn Hỷ nói: “Ông sắp đi ẩn rồi, hãy gắng vì ta mà làm sách”. Rồi Lão Tử bèn làm sách, gồm hai thiên thượng và hạ, nói về ý nghĩa của “Đạo” và “Đức” hơn 5.000 chữ. Đoạn cưỡi trâu ra đi, không ai biết sống chết như thế nào. Doãn Hỷ nghênh tiếp Lão TửTrích Đạo giáo và mỹ thuật Trung Quốc (Taoist and the Art of China)file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgCó người nói: Lão Lai Tử cũng là người nước Sở, làm mười lăm thiên sách nói về công dụng của Đạo gia. Ông ta cũng sống một thời với Khổng Tử. Đại khái Lão Tử sống hơn một trăm sáu mươi tuổi, có người nói ông hơn hai trăm tuổi, vì ông tu đạo để kéo dài tuổi thọ. Có người bảo Đam tức là Lão Tử, có người bảo là không phải. Đời không biết là ai nói phải, ai nói không phải (Tư Mã Thiên đưa ra cả ba thuyết về Lão Tử: Lý Nhĩ, Lão Lai Tử, Đam, không khẳng định thuyết nào. Ông thường thận trọng như vậy khi gặp những việc nghi ngờ, tỏ rõ có óc nghiêm túc của sử gia). Lão Tử là người quân tử đi ở ẩn. Con của Lão Tử tên là Tông làm tướng nước Nguỵ được phong ở đất Đoạn Can. Con của Tông là Chú, con của Chú là Cung, chút của Cung là Hà, Hà làm quan thời Hán Văn Đế, con của Hà là Giải làm thái phó của Giao Tây Vương tên là Ngang, nhân đấy cư trú ở Tề. Người đời theo thuyết của Lão Tử thì bài bác Nho học, theo Nho học lại bài bác thuyết của Lão Tử. Phải chăng câu: “Đạo khác nhau không giúp cho nhau” là nghĩa như vậy? Lý Nhĩ chủ trương “vô vi” mà dân tự cảm hoá, “thanh tĩnh” mà dân tự quay về đường phải. Tại sao trong một chuyện Lão Tử lại có những thuyết khác nhau như vậy? có thể hiểu được là do Tư Mã Thiên sống sau Lão Tử mấy trăm năm chỉ thận trọng ghi lại những thuyết chứ ông không khẳng định hoặc giả đấy chỉ là những đoạn văn do người đời sau, kể cả con ông viết thêm vào Truyện Lão Tử của ông? Đến ngay như việc Khổng Tử thỉnh giáo Lão Tử cũng có người cho là câu chuyện của một đạo gia nào đó nhằm tôn vinh tổ sư của mình trong đối đầu quan điểm hữu vi và vô vi thời bấy giờ. Nếu trước thời Chiến Quốc, Lão Tử đã nổi danh và được Khổng Tử kính trọng như vậy thì sao trong Luận Ngữ và các sách đầu đời Chiến Quốc đều không nhắc gì tới Lão Tử? Khổng Tử rất đề cao Lễ mà Lão Tử lại cực lực phản đối thì lẽ nào Khổng Tử lại đi hỏi Lão Tử về Lễ rồi hết ngợi ca ngợi Lão Tử là một con Rồng?Hội ngộ Khổng Tử và Lão TửTranh cổ Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgSau này khi Đạo giáo phát triển, Lý Thế Dân đời nhà Đường thấy Lão Tử cùng họ Lý nên coi ông là tổ tiên của hoàng gia, trao cho ông thụy hiệu là “Huyền Nguyên Hoàng Đế” có nghĩa là “Hoàng Đế thâm thúy” và miếu hiệu là Thánh tổ có nghĩa là “Ông tổ thánh thiện uyên bác”, nên hình ảnh Lão Tử ngày càng được huyền thoại hóa, trở nên thần bí mông lung trong các truyền thuyết dân gian và văn học hư cấu. Chẳng hạn, có truyền thuyết kể rằng Lão Tử vốn là một đám khí từ thời chưa khai thiên lập địa, trải qua ức vạn năm biến hóa, đến đời Chu biến thành một cuộn khí huyền thoại ngũ sắc to bằng viên đạn, chui vào miệng Huyền Diệu Ngọc Nữ, mãi đến 81 năm sau mới sinh ra ở làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở, thuộc Bách Việt (nay là Lộc Ấp, phía Đông tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), râu tóc trắng như cước, tai ba vành, chỉ tay lên cây mận, nó: “Ta họ Lý”. Do vậy mà có tên Lý Nhĩ nghĩa là Tai Mận hoặc Lão Tử tức là bậc thầy giả cả hoặc đứa trẻ sinh ra đã già như ông lão.Lịch sử ra đời của đạo giáo được ghi lại trong sử sách Trung Quốc cổ khá phức tạp và nhiều khi mâu thuẫn nhau về nhân vật, quan hệ truyền thừa và thời điểm. Việc xác định chính xác thời điểm Đạo giáo ra đời thật sự hết sức khó khăn, chỉ thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá trình lâu dài, với nhiều tư tưởng đã phổ biến từ trước như là vũ trụ luận về thiên địa, thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý luận về khí. Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, thái cực quyền, khí công, thiền định, thuật luyện kim đan và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích và khát vọng đạt được sự trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Trang Tử Nam Hoa chân kinh, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ IV tr.CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, và những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỷ II tr.CN. Nếu hậu thế hiểu biết về Ðạo đức kinh nhiều bao nhiêu thì những gì họ có được về người được qui cho là tác giả của cuốn sách ấy ít bấy nhiêu. Cho tới nay, ngoài sự đồng thuận rằng danh xưng Lão Tử chỉ có nghĩa “Ông thầy già”, không một học giả nào dám trả lời dứt khoát về thân thế của Lão Tử, cũng như tác giả chân chính và thời điểm xuất hiện của cuốn kinh ấy. Mãi đến ngày nay người ta cũng chưa tìm ra bằng chứng xác thực nào về lịch sử của Lão Tử.Biên Thiều tác giả Lão tử minh (bia Lão tử), thời Hán Văn đế đã ghi rằng: Đối với dân chúng, Lão tử đã có từ muôn kiếp. Biến hóa kinh, viết vào khoảng 621, thời Tùy Dương đế, cho rằng Lão tử chẳng những có từ muôn thuở mà còn giáng trần nhiều lần để cứu độ muôn dân. Hóa hồ kinh do Vương Phù viết vào khoảng đầu thế kỷ IV, đời vua Tấn Huệ đế (tức Tư Mã Trung, tại vị 290-306), cho rằng Lão Tử đã đi về các nước Hồ vùng Tacim, rồi sang Ấn Độ, để dạy đạo. Sách chủ trương rằng Phật Thích Ca là hậu thân của Lão Tử, hay là đồ đệ của Lão Tử. Quyển sách này đã gây nên bao cuộc khẩu chiến giữa các Phật tử và các đạo sĩ suốt các thời Lương đời Lương Vũ đế (năm 520), thời Đường trong các đời vua Cao tông (668) và Vũ hậu (696), thời Nguyên đời vua Hiến tông (Mông Ca 1258) và Nguyên Thế tổ (Hốt Tất Liệt, 1280-1294). Trong hệ thống kinh sách Đạo giáo như Đạo đức kinh của Lão Tử, Nam Hoa kinh của Trang Tử, Thái bình Động cực chi kinh 144 quyển tương truyền do Trương Lăng được vào năm 141 khi học đạo ở núi Hạc Minh, Thái bình Thanh Lĩnh Kinh 170 quyển có tư liệu cho rằng Vu Cát được thời Hán Thuận Đế 162-144, Huỳnh Đình Kinh hiện chưa rõ ai là tác giả… và còn có cả tranh thờ Đạo giáo ờ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, với hệ thống thần tiên rất phức tạp.Cội nguồn chủ yếu của Đạo giáo thời kỳ đầu, theo Trung Quốc Đạo giáo sử, có thể được trình bày như sau (trích Người Việt Nam với Đạo giáo, tác giả Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học Xã hội, 2003):Thứ nhất, bắt nguồn từ tôn giáo cổ đại và vu thuật dân gian. Trung Quốc cổ đại thịnh hành sung bái tự nhiên, quỷ thần, chúng là cái nôi ấm áp sản sinh ra Đạo giáo. Thượng Thư. Nghiêu Điển viết “Dâng lễ tế trời, cùng tế 6 vị thần, (hoặc giải thích là thủy, hỏa, lôi, phong, sơn, trạch; hoặc là thiên, địa, Đông, Tây, Nam, Bắc) bái vọng núi sông khắp các vị thần”. Lễ Ký, Tế Pháp viết “Núi rừng, sông suối, gò đống đều thường có mây bay làm nên mưa gió, hiện ra quái vật đều là thần. Bậc vua chúa tế bách thần”, lại còn viết “Điều đó không thay đổi suốt 5 dời Hoàng Đế, Đường, Ngu, Hạ, Ân”. Các vị thần như thần mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi, sông, gió, sấm… đều có cội nguồn rất cổ, kéo dài mãi mãi không dứt hình thành nên tín ngưỡng dân gian phổ biết. Bách thần được Đạo giáo hấp thụ trở thành các vị thần Đạo giáo, như Thiên đế biến thành Ngọc Hoàng Đại Đế, ba vị thần thiên, địa, thủy biến thành Tam Quan: Bắc phương Thất tinh tú thần thành Huyền Vũ (Chân Vũ), các vị thần khác như Đông Nhạc Đại Đế, Tứ Hải Long Vương, Thành Hoàng, Thổ Địa, Môn Thần, Táo Thần... đều đều được Đạo giáo lẫn dân gian thế tục tôn thờ.Thứ hai, Đạo giáo thời kỳ đầu bắt nguồn từ truyền thuyết thần tiên và phương thuật của phương sĩ từ thời Chiến Quốc đến Tần Hán. Thần tiên của Đạo giáo không giống với quỷ thần thông thường, không phải là tinh linh sống trong chốn u minh, mà là sinh mệnh của cá nhân sống hiện thực được kéo dài vô hạn vả thăng hoa. Đặc điểm của thần tiên là hình dáng giống người thường nhưng có thể trường sinh bất tử, tiêu diêu tự tại, thần thông quảng đại. Sùng bái thần tiên là hạt nhân tín ngưỡng của đạo giáo, là đặc điểm nổi bật nhất của Đạo giáo khác với các giáo lý của các tôn giáo khác. Sử Ký. Phong Thiên Thư ghi truyền thuyết ba núi thần Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu ở trong Bột Hải, có thể thấy nhưng khó đến, có người đã đến và được nói rằng trên đó có tiên nhân và thuốc bất tử. Tề Uy Vương, Tề Tuyên Vương, Yên Chiêu Vương đều đã phái người ra biển tìm ba núi đó. Sau khi thu tóm cả thiên hạ, Tần Thủy Hoàng nhiều lần tuần du phương đông vùng duyên hải, muốn có thuốc trường sinh bất tử bèn phái Từ Thị dẫn mấy ngàn đồng nam đồng nữ ra biển tìm tiên nhân tiên dược, lại sai Hàn Chung, Hầu Công, Thạch Sinh đi tìm thuốc tiên: kết quả tốn kém rất lớn mà không được gì.Thứ ba, Đạo giáo thời kỳ này bắt nguồn từ triết học Lão Trang, thời tiên Tần và học thuyết đạo gia thời Tần Hán. Lão Tử, Trang Tử, đạo gia thời Tần Hán đều là những phái học thuật, không phải là tôn giáo. Nhưng về mặt lý luận thì Đạo giáo dựa sát vào đạo gia, giương cao ngọn cờ đạo gia, kết thành mối lương duyên không thể nào tách rời nhau được. Điều đó tạo thành mối quan hệ phi lý (không phải cái này tức cái nọ mà cũng không phải hai cái tách rời nhau). Bất luận Lão Tử hay Trang Tử không không nói đến luyện đan và bùa chú, vừa phản đối mê tín quỷ thần, vừa không truy cầu trường sinh bất tử mọc cánh thành tiên. Lão Tử vốn là người sáng tạo ra đạo gia, Đạo giáo đưa ông lên thành giáo chủ và tôn thần của Đạo giáo, thần hóa Lão Tử, tôn thờ sách Lão Tử trở thành tiêu chí đánh dấu sự ra đời của Đạo giáo. Sau thời Hán thì thần hóa Trang Tử. Đời Đường thì tôn Lão Tử làm Đạo Đức chân kinh, Trang Tử làm Nam Hoa chân kinh, Liệt Tử làm Xung Hư chân kinh, Vân Tử làm Thông Huyền chân kinh. Bộ Đạo Tạng biên soạn sau thời Tống hầu như đem toàn bộ trước tác của đạo gia thời Tiên Tần về sau thành kinh điển của Đạo giáo và Lão Tử vẫn đứng đầu.Thứ tư, Đạo giáo thời kỳ đầu bắt nguồn từ tư tưởng Âm Dương Ngũ Hành. Trong Đạo giáo thời kỳ đầu ngoài Trương Giác, Lý Hoằng… là nông dân khởi nghĩa lợi dụng tổ chức Đạo giáo dân gian ra, thì các phần tử lớp trên khác của Đạo giáo đều không phải là kẻ đối lập với Nho học mà xuất hiện ở đời với tư cách cánh phụ của Nho học. Thần học Đạo giáo thời kỳ đầu đều lấy việc bảo vệ lễ giáo làm giới luật hàng đầu. Ví dụ như Thái Bình Kinh nhấn mạnh đạo phải trung quân, hiếu thảo, kính trọng người lớn. Lão Tử Tưởng Nhĩ Chú cũng khẳng định nhân hiếu trung nghĩa. Cát Hồng nêu lên cầu tiên phải lấy trung hiếu hòa thuận nhân tín làm gốc. Về phương diện này Đạo giáo và kinh học Nho gia không khác gì nhau. Tư tưởng âm dương ngũ hành trong Đạo giáo rất nhiều, vì dụ Thái Bình Kinh dùng quan điểm âm dương khảo sát tự nhiên, nói “Tính của trời đất nửa âm nửa dương”. Chu Dịch Tham Đồng Khế dùng quẻ hào phối hợp với âm dương ngũ hành mượn đó để thuyết minh vị thuốc và hỏa hầu luyện đan. Hoàng Đình Kinh lấy ngũ tạng phối hợp với ngũ hành, dùng khí âm dương bồi bổ thân thể, rèn luyện thân hình. Thuyết âm dương ngũ hành là căn cứ lý luận trọng yếu của nội ngoại đan học.Thứ năm, Đạo giáo thời kỳ đầu bắt nguồn từ y học và tri thức vệ sinh thể dục cổ đại. Đạo giáo tu luyện trường sinh lấy thể phách khỏa mạnh làm công phu sơ bộ, cho nên coi trọng đạo dưỡng sinh thân thể tráng kiện, chú ý hấp thụ tư tưởng y dược và dưỡng sinh học cổ đại, về phương diện này từ xưa đã tích lũy phong phú. Trang Tử. Khắc Ý có ghi về “Người chuyên về đạo dẫn, chuyên về bồi dưỡng thân thể: thở ra hít vào, nhả cái cũ nạp cái mới, như con gấu vươn cổ dẫn khí, con chim duỗi chân khi thở, chỉ vì trường thọ mà thôi”. Tam Quốc Chí. Hoa Đà truyện nói “Thời xưa tiên thực hiện đạo dẫn, con gấu vươn cổ con cú mèo ngoái đầu, uốn mình khởi động các khớp để cầu khó già”…Trên đây là những ngọn nguồn chủ yếu của Đạo giáo, có thể thấy ngọn nguồn chủ yếu của Đạo giáo tiếp cận gần gũi hơn cà với văn hóa Kinh Sở và văn hóa Yên Tề, hai dòng suối lớn đạo giao và thần tiên đạo gia chủ yếu tồn tại trong hai dòng văn hóa lớn đó. Ngoài ra còn phải kể thêm văn hóa Ba Thục. Hán Trung, Ba Thục sớm yêu chuộng Lão Tử và tiên đạo, coi trọng yêu quỷ, vu thuật cực kỳ thịnh. Cuối đời Hán, Trương Lỗ ở Hán Trung dùng quỷ đạo dạy bá tính. Khách kính trọng đồng cốt, thường đến cúng bái.Thái Thượng Lão QuânTranh Đạo giáo, Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgNgoài học giả đạo gia Tiên Tần là Lão Tử và Trang Tử, còn có nhiều học giả thời Chiến Quốc như Điền Biền, Thận Đáo… họ lấy đạo pháp tự nhiên của Lão Tử làm gốc, mượn tên “Hoàng Đế” viết ra nhiều tác phẩm khiến cho mọi người tín phụng đạo gia Lão Tử, tôn sùng Hoàng Đế, đem tư tưởng của Lão Tử và Hoàng Đế hợp lại, hình thành một học pháp mới gọi là Hoàng Lão. Hoàng Lão học ra đời và phát triển ở nước Tề, khu vực Sơn Đông ngày nay, gồm có Hoàng học và Lão học. Về Lão học thì nội dung luận bàn về Đạo vô vi vô bất vi của Lão Tử, Trang Tử… còn nội dung của Hoàng học là học thuyết của Hoàng Đế. Hoàng Đế là một vị vua huyền thoại, Tư Mã Thiên đã ghi trong Sử Ký. Ngũ Đế Bản Kỷ. Hoàng Đế là con của Thiếu Điển họ Công Tôn vì ở gò Hiên Viên nên gọi là Hiên Viên Thị, sau chiếm được Cơ Thủy nên đổi ra họ Cơ, làm vua nước Hữu Hùng. Sau đánh bại Viêm Đế, Xuy Vưu bèn lên ngôi thay Thần Nông Thị tự xưng Hoàng Đế. Dùng Phong Hậu là tướng (văn ban), dùng Lực Mục làm tướng (võ ban), sai Đại Nạo làm Giáp Tý (tính năm), Dung Thành làm lịch, Hy Hòa chiêm nhật (coi ngày), Thường Nghi chiêm nguyệt (coi tháng), Tẩu Khu chiêm tinh khí (xem sao), Linh Luân làm luật lữ (âm nhạc). Lệ thu làm toán số. Truyền thuyết cho Hoàng Đế là người phát minh ra nghề trồng dâu, nuôi tằm, y dược, thuyền bè, xe cộ, nhà cửa, chữ viết. Như vậy Hoàng Đế đã được Đạo giáo thần thần thoại hóa, bộ kinh đầu tiên được nêu ra là Hoàng Đế Âm phù kinh, khoảng 400 chữ với niên đại khoảng Tần Hán về trước là đánh tin cậy.Bố cục Đạo quánTrích cuốn Taoist and the Art of Chinafile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgThông qua tín ngưỡng, đặc biệt trong công thức Tam giáo đồng nguyên Nho Phật Ðạo, Ðạo giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong sinh hoạt tôn giáo lễ bái của người Việt với các thể hiện như lễ tế, sấm ngữ, thiên thư, đạo kinh, đạo sĩ và cơ sở thờ tự. Ðọc trong tiểu sử của Cát Hồng, ta thấy có nhắc tới mỏ đan sa của Giao Châu tại Câu Lậu, mà theo Ðại Nam nhất thống chí, nơi đó nằm trong huyện Thạch Thất, cách phủ Quốc Oai 20 dặm về phía Tây. Chắc chắn thời đó, có không ít đạo sĩ Trung Quốc thường xuyên lui tới nước ta để thu thập đan sa. Hình thức đầu tiên của Ðạo giáo nước ta là đạo thần tiên với các phương sĩ ở cuối thời nhà Hán, chủ yếu là luyện đan. Các tiên ông như Ðổng Phụng cứu mạng Sĩ Nhiếp, và Yên Kỳ Sinh với di tích thăng thiên ở núi Yên Tử, hoặc thứ sử Trương Tân (năm 201), người theo đạo Hoàng Lão. Thời ấy, việc tu tiên cũng đã phát triển khá mạnh. Mâu Tử đề cập nhiều tới Ðạo giáo khi ông viết cuốn Lý hoặc luận để chứng minh với những trí thức đông đảo đang vây quanh Sĩ Nhiếp rằng Phật giáo tốt hơn Nho giáo và Ðạo giáo. Sau đó, là các hình thức khác của Ðạo giáo. Các nhân vật truyền thuyết thời vua Hùng trong Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh tập đều trở thành tiên. Ta có Tứ bất tử (hoặc Tứ phủ) gồm Tản Viên, Chử Ðồng Tử, Thánh Gióng và Sơn Tinh. Riêng Chử Ðồng Tử, một nhân vật được kể là người Phật giáo nhưng động thái nhuốm màu sắc đạo thần tiên. Thời Bắc thuộc, có tới 92 đạo quán làm cơ sở thờ tự của Ðạo giáo như Thông thánh quán và Khai nguyên quán, v.v... Câu chuyện chung quanh việc lên ngôi vua của Lý Công Uẩn cho thấy việc sử dụng sấm ký và tác động của nó. Ảnh hưởng của bài thiên thư Nam quốc sơn hà bên bờ sông Như Nguyệt chứng tỏ lòng tin có tính Ðạo giáo rất cao của quân sĩ dưới quyền Lý Thường Kiệt. Từ thời Lý Trần, các khoa thi Tam giáo cho thấy xã hội rất coi trọng Ðạo giáo, xem tương đối ngang hàng với Phật giáo và Nho giáo. Ðời Trần, Vua Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, thông hiểu tam giáo, Trần Quang Chỉ khi đề từ cho bức tranh Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ, đã cho ta biết khá rõ những gì mà vua Trần Nhân Tông đã được nuôi dạy, lúc còn trẻ: “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”. Như thế, vua Trần Nhân Tông đã thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi, với một tinh thần cởi mở, kết hợp kiến thức khoa học với văn chương, quân sự và âm nhạc. Đây là truyền thống giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, mà ta đã thấy xuất hiện từ thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội (Toàn tập Trần Nhân Tông, tác giả Lê Mạnh Thát, Nhà xuất bản Phương Đông, 2010).Từ chân núi đền Hùng với đền Ngọc Hoa cho tới khắp nước, Ðạo giáo được biến thể và Việt hoá, vẫn sinh động suốt mấy ngàn năm nay trong sự thờ phụng của dân gian, đáp ứng khuynh hướng cầu viện tha lực của dân dã. Ðạo giáo Việt Nam từng có một hệ thống đạo quán, tịnh xá, phủ đền với các đạo sĩ thuộc giới trí thức. Trong 14 năm đô hộ (1414-1427), với dụng ý tiêu diệt trí thức của Ðại Việt, tháng Chín năm 1415, tên tướng Hoàng Phúc nhà Minh đã cho bắt giải nhiều nhà nho, nhà sư và đạo sĩ... về Yên Kinh.Đàn cầu đảoTrích cuốn Taoist and the Art of Chinafile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgCác cơ sở vật chất dùng làm nơi thờ tự hoặc tu tập của của Ðạo giáo thường kèm các chữ như động, quán, viện, cốc, thất... Hầu như các chùa tên có chữ “Thiên” đều vốn là nơi thờ tự của Ðạo giáo nên trong chùa, có nhiều tranh tượng mang yếu tố Ðạo giáo. Nhiều nghi lễ của Phật giáo Bắc Tông như giải oan, cầu siêu, trừ tà, bùa chú, gọi hồn, v.v... có gốc tích phần nào từ nghi lễ thờ phụng của Ðạo giáo. Có chùa còn dựng Ðiện trong khuôn viên của mình, hoặc lập bàn xin xăm ở một mé trong chánh điện. Toàn Chân Đạo (Toàn Chân Phái) là một phái lớn hình thành từ thời Nam Tống, hưng thịnh thời Nguyên, bắt đầu suy tàn vào thời Minh, hiện nay vẫn là phái mạnh nhất. Vương Trùng Dương (1112-1170) là người lập Toàn Chân Phái năm 1167 khi ông truyền giáo ở Sơn Đông dựng Toàn Chân Am nên lấy đó làn tên giáo phái. Vương Trùng Dương tên là Vương Trung Phu, sau khi xuất gia lấy tên Vương Triết hiệu Trùng Dương. Năm 1159 ông tuyên bố gặp tiên hóa thân của Lã Đồng Tân truyền bí quyết. Ông lấy Đạo Đức Kinh, Bát Nhã Tâm Kinh, Hiếu Kinh làm kinh cơ bản.Toàn Chân Đạo xu hướng tam giáo hóa, đưa ra tông chỉ “Thái Thượng vi Tổ, Thích Ca vi Tông, Phu Tử vi Khoa Bài”. Toàn Chân Đạo đã chính thức đánh giá Tam giáo. Đạo giáo là Tổ nghĩa là Gốc, lý luận Đạo giáo lấy Lão Tử làm cơ sở là cội nguồn của Tam giáo. Phật giáo là Tông tức tiếp tục phát huy tư tưởng Đạo giáo đó là cách nhìn của Lão Tử Hóa Hồ Kinh. Nho giáo là Khoa Bài tức hình thức thể hiện của Đạo giáo, đó là lập luận cho Khổng Tử học Lão Tử. Nội dung này đã từng dẫn đến tranh luận thời Nam Bắc triều, tuy rằng lúc đó chưa hình thành tông chỉ như Toàn Chân Đạo đưa ra. Cho nên Vương Trùng Dương dùng ba kinh chủ yếu: Đạo Đức Kinh của Đạo giáo, Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo, Hiếu kinh của Nho giáo. Dùng ba kinh như thế, nhưng nội dung chủ yếu của Toàn Chân Đạo là Đạo giáo. Toàn chân có nghĩa là “Toàn kỳ bản chân” tức bảo toàn tinh, khí, thần. Toàn Chân Đạo đã hoàn thành quá trình Đạo giáo hấp thụ Phật giáo và Nho giáo. Tóm tắt khác quát như sau: Đạo giáo Trung Quốc ra đời trên cơ sở Hoàng Lão học tức học thuyết về đường lối trị quốc của Hoàng Đế (thiên đạo) và triết học Lão Tử về Đạo bản thể. Đó là phần lý luận: Học. Sở dĩ chuyển sang Đạo (tôn giáo) là vì kế thừa tín ngưỡng nguyên thủy như thần đạo, vu thuật (bùa chú). Thành tố thứ ba cực kỳ quan trọng là phương tiện đạo (dưỡng sinh). Đạo giáo ngay từ thời Hoàng Lão đã chia thành Đạo sĩ tộc (Đạo giáo cung quán sau này) và Đạo giáo dân gian. Hai con đường cơ bản là phù chú và luyện đan chi phối lịch sử phát triển của Đạo giáo. Theo cuốn Thái Ất Thần Kinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2009 thì Lão Tử thuộc dòng họ Lão Long Cát, mà chúng ta đã biết Lão Long Cát chính là “võ tướng” trong thời kỳ Viêm Đế Thần Nông. Đây chính là một thông tin lịch sử hết sức quan trọng cho phép chúng ta nhận định khả năng Lão Tử là người Lạc Việt rất cao, do vậy cần phải xem xét các dữ kiện lịch sử khác liên quan.Tại nước ta, Lão Tử được thờ ở làng Giáp Nhị, tổng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội (trích cuốn Bách thần Hà Nội, tác giả Nguyễn Minh Ngọc, Nxb Mũi Cà Mau, 2001). Ngoài ra, Lão Tử được thờ làm thành hoàng tại đình Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang. Bên bờ sông Cầu, quê hương của những làn điệu dân ca quan họ, di sản văn hóa thế giới, có một ngôi đình làng cổ nổi tiếng. Đình Thổ Hà đã có trong danh sách xếp hạng di tích của Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thời Pháp. Ngôi đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh Bắc. Trích thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại đình:Đình Thổ Hà và cửa võngXã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học. Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao Ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng Giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: "Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma". Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn. Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng Hai (đời vua An Dương Vương), Người đã hóa… Mặc dù thần tích không hề nói Thái Thượng Lão Quân của làng Thổ Hà là Lão Tử, nhưng tên của vị thành hoàng này hoàn toàn trùng với tên Lý Lão Đam - Lý Bá Dương. Lão Tử lập công nghiệp rồi hóa thần ở Việt Nam. Câu đối cổ trong đình Thổ Hà:Đẳng Thích Ca nhân tế quần sinh, Phật pháp thiên cổ / thần tiên thiên cổDữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh. Dịch nghĩa:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, Phật pháp nghìn đời kiếp / thần tiên nghìn đời kiếp,Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh. Hình thức và nội dung câu đối này nêu bật quan niệm Tam giáo đồng nguyên, sánh cùng nhau trong dân gian:Huyền tham Thích điển công tỉ Vô Sơn, Đạo Đức nhất kinh truyền chí bảo,Quyết bản Khương công thuật khai Hoàng Thạch, thần tiên chung cổ hiển linh tung. Dịch nghĩa:Huyền diệu vào tích Thích Ca, công đức như núi Vô Sơn, Đạo Đức kinh một bộ truyền báu vật,Phù quyết gốc từ Khương Công, pháp thuật mở tảng Đá Vàng, thần tiên tự cổ xưa sáng dấu linh. Một câu đối khác:Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo,Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền huyễn hóa tác thần tiên.Dịch nghĩa:Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo,Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép nhiệm màu, tạo tác thần tiên.Câu đối ở đình Thổ Hà:Do Chu ngật kim, nhất kinh truyền đạo đứcTại hà chi tứ, vạn cổ chấn anh linh. Dịch nghĩa:Từ thời Chu tới nay, một bộ kinh truyền đạo đức,Cạnh sông Cầu bên bến, chục ngàn đời chấn linh thiêng. Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà:Qui giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỉLong năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên. Dịch nghĩa:Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỉ,Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên. (Trích bài viết Lão Tử hóa … Việt kinh, tác giả Minh Xuân; http://bachviet18.com).Câu đối trên cho biết Lão Tử, người mở đạo Giáo sống vào thời “Đông Chu” của Trung Quốc sử và nói rõ “Nam Việt” là vùng đất duy nhất mà Lão Tử đã hóa thần tiên. Câu đối trên còn nêu một điển tích khác, nói tới pháp thuật xuất xứ từ Khương Thái Công Lã Vọng, người giúp Chu Vũ Vương nên nghiệp thiên tử ngàn năm trong cuốn tiểu thuyết thần tiên Phong Thần, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không. Khương Thái Công sau lại hóa hình là Hoàng Thạch Công, truyền sách binh pháp cho Trương Lương phò trợ Lưu Bang lập nhà Hán, được diễn biến thành bộ tiểu thuyết Hán Sở tranh hùng, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Mà chúng ta cũng đã biết, Khương Thái Công chính là vua Đế Minh trong Việt sử, hay Hoàng Đế trong truyền thuyết và huyền thoại Trung Quốc. Như vậy, các câu đối đình Thổ Hà khả năng tác giả là Bồ Tát Nguyễn Minh Không và Phật Hoàng Trần Nhân Tông, nhằm gửi gắm thông tin cho hậu thế. Ngoài ra, nội dung câu đối cũng nói đến truyền thuyết thần Kim Quy giúp cho Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa và rẽ nước đưa ngài xuống biển. Trong câu đối còn nói đến con Rồng và di tích trang Ngũ Vân - tức năm hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp và gió. Móng thần Kim Quy làm cho chúng ta liên tưởng câu chuyện Lý Nam Đế được thần nhân trao vuốt Rồng và đánh thắng giặc Lương. Vuốt Rồng và móng Rùa vàng, tương ứng với đôi câu đối trong đình Thổ Hà, như vậy sau thời Triệu Quang Phục đã có người sáng tác nên câu truyện Sự tích Đầm Nhất Dạ trong Lĩnh Nam chích quái, với sự liên kết tới Chử Đồng Tử - Tiên Dung vào thời Hùng Vương thứ III - Hùng Quốc Vương. Hùng Vương truyền tới đời thứ III (Truyền thuyết Hùng Vương - thần thoại Vĩnh Phú, sách đã dẫn và truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian nói: Vào đời Hùng Vương thứ XVIII) thì hạ sinh được con gái tên là Tiên Dung - Mỵ Nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ mải vui chơi chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm. Mỗi năm vào khoảng tháng hai, tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo chơi ở ngoài bể vui quên trở về. Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kịp tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố. Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông, hễ nhìn thấy thuyền buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu cá độ thân. Không ngờ thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây. Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói là tại sao mà lại nấp ở đấy. Tiên Dung ta thán rồi ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: “Đây là do trời chắp nối, sao cứ chối từ?”. Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa”.Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại buôn bán”. Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé thuyền ở đó lấy nước ngọt. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”. Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật, Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố phường, cơ nghiệp, rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia túc quân vệ, lập thành nước riêng. Hùng Vương nghe tin cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin nhận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm chém giết”. Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không kịp tiến quân. Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, chỗ đất đó tuột xuống thành cái chằm lớn. Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương. Sau vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”. Nhân gặp loạn Hầu Cảnh vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: “Hiển linh còn đó, người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt”. Đoạn bay lên trời mà đi. Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc Sơn ở cửa Nam Giới, huyện Thạch Hà).Đền Hóa thờ Triệu Quang PhụcXã Dạ Trạch, Khoái Châu, Hưng Yênfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgQuan câu chuyện Sự tích Đầm Nhất Dạ, chúng ta chú ý tên gọi những địa danh gắn liền với câu chuyện như: chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương hay Hà Thị, châu Tự Nhiên, các tên gọi tương tự như một phần nội dung trong Đạo Đức Kinh: “Người noi theo phép tắc của Đất, Đất theo phép tắc của Trời, Trời theo phép tắc của Đạo, còn Đạo thì theo phép tắc Tự Nhiên”. Mạn Trù có nghĩa là màn trời hay lưới trời Đế Thích, mỗi mắt lưới chính là một hạt lân vi trần. Nhất dạ trạch nghĩa chằm một đêm chính là mô tả trạng thái Thái Cực. Tự Nhiên mang ý nghĩa sự hiện hữu ban đầu của Thái Cực hay Đạo là tự nhiên, như nhiên như vậy, không do bất kỳ ai sinh ra cả. Đạo Đức Kinh viết: “có trước cả Thượng Đế”. Chằm hay Đầm ứng với cung Tốn độ số 4 của Hà Đồ, và ngày sinh Chử Đồng Tử mồng 4 tháng Giêng âm lịch và ngày lên trời thành tiên của Chử Đồng Tử và Tiên Dung là ngày 14 tháng Tám âm lịch. Trong lịch sử tôn giáo, Chử Đồng Tử được nhân dân tôn xưng là Chử Đạo Tổ, ngài là một trong Tứ Bất Tử của nước Việt.Sơ đồ phân bố địa điểm thờ Chử Đồng Tử vùng châu thổ hạ lưu sông HồngSách Tục thờ Chử Đồng Tử, tác giả Đỗ Lan Phương, Nxb Tôn giáo, 2010file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgDưới thời Hùng Vương, tín ngưỡng của Ngài Chử Đồng tử có thể được đông đảo người tin theo mà dấu ấn còn để lại đến tận bây giờ, đó là tục thờ các vị thần với tư cách là một tín ngưỡng, bên cạnh những vị thần có công trạng với đất nước.Hình ảnh còn lại của tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Việt ngày nay, chính là cây Nêu trong những ngày Tết ở Việt Nam. Mặc dù truyền thuyết về cây Nêu hoàn toàn thể hiện dấu ấn của Phật giáo: Đức Phật hiện thân đuổi quỉ cứu người và để lại cây Nêu. Nhưng tục trồng cây Nêu với tư cách là một tín ngưỡng đặc thù, chỉ ở Việt Nam, và ở những vùng ảnh hưởng của văn minh Văn Lang cũ mới có cây Nêu; còn những vùng ảnh hưởng Phật giáo khác trên thế giới không có tục này. Do tục trồng Nêu trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử nên đã mất đi nội dung đích thực của nó, tương tự như trường hợp bánh Chưng, bánh Dầy và chỉ còn mang tính chất thể hiện như một phong tục truyền thống.Hơn nữa, hình ảnh cây Nêu thể hiện một ý thức vươn lên để đạt tới sự hòa nhập với vũ trụ (vòng tròn phía trên cây tre) phù hợp với hình ảnh cuối cùng của hai thần vật của ngài Chử Đồng tử: cái nón đặt trên đầu cây gậy cắm xuống đất, biến thành cung điện lâu đài để ngài trú qua đêm, tại nơi mà sau này gọi là Đầm Nhất Dạ. Vòng tròn cũng là biểu tượng của Dương, của giá trị tâm linh và cũng là của Thái Cực; sự khởi nguyên của vũ trụ và cũng là mục đích đạt tới của Đạo giáo.Chử Đồng Tử là một trong bốn vị thần hộ quốc thuộc hàng bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đương nhiên không phải vì lấy công chúa Tiên Dung và làm phò mã của vua. Ông xuất thân từ địa vị một người nghèo và đạt đến đỉnh cao của sự phú quý, nhưng vẫn sẵn sàng bỏ hết để tầm sư học đạo. Chỉ cần như vậy, cũng đủ để ông có sự tín nhiệm của người đương thời với những giá trị tinh thần mà ông hướng tới. Ngai thờ Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhânĐền chính Đa Hòa, Dạ Trạch file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Qua cuộc đời của ông cho thấy ít nhất căn bản quan niệm nhân sinh quan của Chử Đồng Tử là: của cải thế nhân và sự thăng trầm của cuộc đời chỉ là phù du. Trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói tới sự kiện Chử Đồng Tử, Tiên Dung đắc đạo và tạo dựng một vương quốc hư ảo cho mình bằng quyền năng của thần thánh. Đây là hình ảnh của một thế giới tâm linh tạo nên tín ngưỡng của người dân Lạc Việt thời Hùng. Hình ảnh cuối cùng của truyền thuyết này là lâu đài, cung điện nguy nga biến mất chỉ trong một đêm, để lại cho thế nhân một đầm nước long lanh, phản chiếu những hình ảnh hư ảo của cuộc đời qua hàng thiên niên kỷ. Như những chương trên đã trình bày thuyết Âm Dương Ngũ Hành là hệ tư tưởng vũ trụ quan chính thống của thời Hùng Vương, giải thích từ bản nguyên vũ trụ là Thái Cực đến sự vận động của nó là Âm Dương Ngũ hành. Tính bao trùm về mọi mặt và sự ứng dụng rộng rãi trên thực tế đã chứng tỏ sự thuyết phục của học thuyết này. Do đó, không thể có cơ sở từ ngay trong tâm lý để phát sinh và tồn tại một hệ tư tưởng tôn giáo vượt ra ngoài giá trị của nó. Nhưng về nhân sinh quan, xuất phát từ những giá trị đạo lý đề cao tình người và tính nhân bản, cộng với tri thức sâu sắc trong thiên văn qua sự vận động của những tinh tú ảnh hưởng đến chu kỳ sinh học của con người - tức là sự chi phối của sức mạnh thiên nhiên. Đồng thời nền văn minh đó cũng thừa nhận khả năng của con người trong sự tương tác giữa con người với thiên nhiên qua Sự tích Dưa Hấu. Do đó, tín ngưỡng mà ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tạo dựng, chỉ có thể hướng con người vươn tới sự hòa nhập với thiên nhiên hoặc đạt tới những quyền năng của thiên nhiên trong sự vận động của Âm Dương Ngũ Hành. Trên thực tế, truyền thuyết về các thánh thần ở Việt Nam cho thấy: mỗi thần đều có chức năng riêng trong việc chi phối vận động của tự nhiên: Thiên Lôi làm sấm sét, Long vương làm mưa…các thần trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian Việt Nam không có quyền, hoặc quyền năng rất hạn chế trong việc quyết định thay đổi định mệnh con người. Từ đó, trên cơ sở của những giá trị tư tưởng chính thống chi phối toàn bộ xã hội Văn Lang là thuyết Âm dương Ngũ hành và cuộc đời của ngài Chử Đồng Tử, thì hoàn toàn có cơ sở để đặt giả thuyết về khả năng hình thành một tín ngưỡng đa thần vào thời Hùng Vương mà vị khởi xướng là ngài Chử Đồng Tử. Hình ảnh cuối cùng trước khi vào cõi bất tử của ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung là chiếc nón và cây gậy đã tạo nên một vương quốc tâm linh hư ảo, đây chính là hình tượng của sự vươn lên đạt tới Thái Cực, tức là sự hòa nhập hoàn toàn với vũ trụ. Lễ hội Chử Đồng Tử và Tiên Dung Chử Xá, Đa Hòa, Yên Vĩnh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, nếu so sánh với tư tưởng của Lão Tử qua cuốn Đạo Đức Kinh có thể đi đến một nhận xét về sự tương đồng. Nếu như tư tưởng Đạo Đức Kinh hướng con người trở về với bản thể thì cuộc đời và sự nghiệp của ngài Chử Đồng Tử, trong một bối cảnh xã hội đã coi thuyết Âm Dương Ngũ Hành có nguồn gốc Thái Cực (Đạo) là ý thức hệ chính thống thì hoàn toàn có khả năng dẫn đến một lý thuyết tương tự. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử bàn đến khởi nguyên của vũ trụ: “Không - là cái bản thủy của trời đất; Có - là mẹ sinh ra vạn vật”, so sánh với quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông” và hình tượng bánh Chưng bánh Dầy thì hai quan điểm này gần như hoàn toàn trùng khớp.Thái Cực - Dương tương ứng với cái “Không” của Lão Tử. Âm - lý của Ngũ hành nằm trong bánh Chưng là nguồn gốc của vạn vật, tương ứng với cái “Có” là mẹ sinh ra vạn vật. Có thể nói rằng: quan điểm vũ trụ quan của Lão Tử chính là sự diễn đạt dưới một hình thức khác quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang. Nếu như thuyết Âm Dương Ngũ hành lý giải hiện tượng khởi thủy của vũ trụ thì Lão tử nói về năng lực chi phối sự vận động, hình thành và phát triển của vũ trụ. Ngài cho rằng năng lực đó là Đạo và đây là nền tảng cơ bản để hình thành Đạo giáo sau này: “Đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng, thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ thấp thoáng mà bên trong có vạn vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực và rất đáng tin” và “Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt; không thể gọi tên nó lại trở về với cõi vô vật; cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi”. Sự lý giải về Đạo của Lão tử có thể khẳng định rằng đó là sự lý giải bằng một hình thức khác ý niệm của Thái Cực từ văn minh Lạc Việt. Văn minh Lạc Việt - qua nội dung ”Mẹ tròn, con vuông” - quan niệm Thái Cực là thể bản nguyên của vũ trụ trong đó không có cái “Có” để nói đến cái “Không”, tràn đầy viên mãn, tức là không có sự phân biệt. So với ý niệm của Lão tử “Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt” hoàn toàn tương ứng với tính không phân biệt, tràn đầy viên mãn; cũng có thể gọi là “trạng không có hình trạng, tượng không có vật thể”, khó diễn đạt cho nên nói “thấp thoáng mập mờ”; viên mãn tràn đầy cho nên nói “đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi”. Thái Cực là thể bản nguyên của vũ trụ, gốc của vạn vật, cho nên nói “bên trong có hình tượng” “có vạn vật”. Sự trùng hợp về ý niệm trong hệ tư tưởng vũ trụ quan trong Đạo Đức Kinh với văn minh Lạc Việt, đã chứng tỏ những vấn đề sau: Lão Tử đã kế thừa vũ trụ quan Văn Lang để hướng tới một nhân sinh quan theo quan điểm của ông và là tiền đề của Đạo giáo. Như vậy đã chứng tỏ rằng: Lão tử khả năng là người có nguồn gốc từ Văn Lang hoặc là Đạo Đức Kinh được phát hiện sau khi Văn Lang mất nước. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để đặt vấn đề về tác giả của Đạo Đức Kinh - nếu do Lão Tử viết - thì Lão Tử và Chử Đồng Tử chỉ là một người duy nhất, đây cũng là một vấn đề đã được nhiều học giả nghi vấn. Những luận điểm này giải thích vì sao Chử Đồng Tử được coi là một trong bốn vị thần hộ quốc của người Lạc Việt. Câu chuyện này về mặt nghệ thuật còn có những hình tượng và kết cấu rất huyền ảo, độc đáo. Hình ảnh người nghèo đến nỗi không có cái khố để mặc, lấy một cô công chúa kiều diễm trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đây là một sự tuyệt đỉnh của tính hư cấu hợp lý, hầu như không có khảo dị cho những trường hợp tương tự ở bất cứ một truyện cổ tích nào trên thế giới. Hoàn cảnh của Chử Đồng Tử và Tiên Dung có sự hài hòa của bản tính tự nhiên của con người với những giá trị đạo lý giàu chất nhân bản, mặc dù trước đó, Chử Đồng Tử nghèo đến mức khó có thể lấy vợ; công chúa Tiên Dung thì lại không muốn lấy chồng. Đó cũng là một cách giải quyết tài tình, có hậu cho một người con chí hiếu: nhường cái khố cuối cùng cho cha để chấp nhận “Nghèo đến không có khố mà mang”. Như vậy, qua đoạn mở đầu với những hình ảnh đối lập đầy ấn tượng giữa sự phú quý tột đỉnh của công chúa Tiên Dung và cái nghèo nàn đói khó đến cùng cực của Chử Đồng Tử; diễn biến sự kiện đầy kịch tính và sự hư cấu cao độ, nhưng hoàn toàn hợp lý và giầu chất nhân bản; đã cho thấy trí tưởng tượng rất phong phú, giàu chất lãng mạn của những tác gia thời Hùng Vương. Có thể nói, những tác gia đời Hùng đã đạt đến trình độ bậc thầy về tuyệt kỹ trong văn học (trích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Do có phép thuật thần thông, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã tạo dựng nên một quốc gia riêng. Vua Hùng đem quân tới. Toàn bộ nhà cửa thành quách biến mất chỉ trong một đêm. Hai vợ chồng bay lên trời. Nội dung câu chuyện mang mật ngữ toàn bộ cấu trúc triều đình thời Hùng Vương được đưa lên trời hay mã hóa bằng các chòm sao thiên văn, đó chính là những dữ liệu trong các bộ tranh thờ Đạo giáo miền Bắc, Việt Nam như Hành Say, Thánh Đạo Hưng Long… và chúng là những bản đồ thiên văn phương Đông cổ đại Tử Vi Viên. Tử Vi Viên tức là nội cung với thê tử, Thái Vi Viên là triều đình luận sự, Thiên Thị Viên tức là lãnh thổ quốc gia. Thiên Thị Viên còn mang ý nghĩa là cái chợ trời, các chòm sao được gắn tên các quốc gia có thực lực lớn trước thời Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Quốc, thuộc phía Bắc sông Dương Tử. Vậy thì, Chử Đồng Tử và Tiên Dung là những chòm sao nào? Chúng ta hãy tham khảo nội dung trong Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, tập I - Nhóm nghiên cứu thời tiền sử 2009. Phong Châu xưa được gọi là chốn Bồng Lai Cung Quyết. Dòng sông Bạch Hạc chạy qua dưới chân núi Thất Diệu, uốn lượn từ Phú Thọ, Sơn Tây đổ về. Mỗi lần mùa nước thì tôm cá nhiều vô kể, chim cò kéo nhau về đậu kín mặt sông nên gọi là sông Bạch Hạc. Cũng từ điển tích ấy mà người dân gọi sông này là sông Bạc, tức kiếm được nhiều tiền bạc ở đây, nhưng người đời gọi theo thần thoại là dòng Ngân Giang, và quả là có cầu Ô Thước bằng tre do dân chúng bắc ngang qua một khúc sông hẹp. Vào ngày 7 tháng Bảy âm lịch hàng năm, nhân dân tổ chức rước kiệu Chử Đồng Tử và Tiên Dung tế lễ một ngày một đêm tại đạo quán Khê Tang rồi lại rước về mộ. Công chúa Tiên Dung táng tại ngã ba được phân chỉ ranh giới giữa Văn Nội, Văn La và Văn Phú, còn Chử Đồng Tử chôn tại gò Thần Đồng cạnh Đống Đánh thuộc Khúc Thủy - Việt Trì. Qua nội dung trên, chúng ta nhận thấy rằng: Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời trở thành sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ ở hai bên dòng sông Ngân Hà, ngày hội của hai người là ngày 7 tháng Bảy âm lịch hàng năm. Theo cuốn Việt tỉnh thư, tác giả Nguyễn Ngọc Chương, Nxb Thế giới, 2010 cũng ghi nhận: “về chữ viết về sau là chử Sinh gồm có nét ngang là mặt đất, ở đấy chui lên con trâu là chữ Ngưu tức là loài trâu, gọi là Ngưu chủ, vật tổ của họ thánh Chử Đồng Tử, con rể khác họ với vua Hùng”. Ngày xưa, trong khu rừng sâu có một giếng nước trong mát quanh năm không bao giờ cạn, gọi là giếng tiên. Vì giếng ở cách xa dân cư, người trần không mấy ai qua lại nên các nàng tiên trên trời thường dùng chỗ ấy làm nơi tụ hội. Ở đấy họ thỉnh thoảng đến lấy nước, hoặc có khi trút bộ cánh trên bờ, xuống bơi lội đùa giỡn cho thỏa thích. Cũng ngày ấy, ở cõi trần có một chàng trai làm ăn chăm chỉ nhưng sống một thân một mình. Một hôm anh lên rừng đốn củi, không ngờ quá chân lạc bước đi mãi vào khu rừng sâu. Trong khi tìm lối ra, anh bỗng đi qua cái giếng tiên, lúc ấy có ba nàng tiên đang bơi lội cười đùa trong làn nước. Anh lặng lẽ đứng nhìn mê mẩn quên cả về. Thấy có ba bộ cánh trắng để lại trên bờ cỏ xanh, anh tính chuyện rình bắt một cô theo mình. Nghĩ vậy anh rón rén bò lại lấy trộm một bộ, rồi nấp vào một gốc cây. Sau khi tắm xong, ba nàng tiên thong thả lội lên bờ. Hai nàng được cánh của mình bay vụt lên trời, còn một nàng mất cánh ngơ ngác tìm tòi khắp nơi. Thấy vậy, anh chàng từ chỗ nấp bước ra. Nàng tiên cầu khẩn: Hỡi chàng trai lạ! Chàng hãy vui lòng trả cánh cho ta để ta về! - Không được! - Chàng trẻ tuổi tươi cười trả lời - Bộ cánh này đã lọt vào tay ta thì đừng có hòng lấy lại. Nàng hãy theo ta về nhà làm vợ. Ta sẽ làm cho nàng sung sướng! Mặc dầu nàng tiên van khóc hết lời, chàng trai quyết định không chịu trả. Trời đã xế chiều, anh chàng làm bộ cương quyết ra về. Túng thế nàng tiên đành phải lẽo đẽo đi theo. Về tới nhà, trước tiên anh bí mật giấu kỹ bộ cánh rồi ra sửa soạn cơm nước, áo quần, chăn chiếu cho nàng tiên dùng. Từ đó nàng tiên trở thành vợ anh. Lấy nhau không được bao lâu, vợ chàng sinh một đứa con trai. Thấm thoắt đứa con đã lên ba tuổi. Chồng sung sướng nhìn con bập bẹ tập nói, còn vợ thì đã thưa nhắc đến chuyện đòi lại bộ cánh để trở về trời. Một hôm, anh chàng có việc phải đi xa và đi lâu. Trước khi lên đường, anh dặn vợ:Mẹ con nàng ở nhàcó ăn thì ăn đụn vangrồi ăn sang đụn réchớ ăn đụn lúa rẹcó tổ ong vò vẽđốt cả mẹ liền con.Nhưng vợ ở nhà không làm theo đúng lời dặn của chồng. Sau khi ăn hết đụng lúa vang, nàng liền chuyển sang ăn đụn lúa rẹ. Không thấy có tổ ong vò vẽ nào đốt cả, nàng tiên bèn sinh mối ngờ vực. Lời dặn của chồng, nếu trước đấy là một lời dọa, thì lúc này đã trở thành một câu mách ngầm. Quả nhiên, sau một hồi tìm tòi, nàng tiên đã tìm thấy bộ cánh cũ của mình giấu kín dưới cót thóc mà chồng dặn phải kiêng không đụng đến. Ðược cánh, nàng tiên nóng lòng về thăm bố mẹ, chị em đã từ lâu xa cách. Nhưng khi lắp cánh vào thì thấy ngường ngượng. Ðã lâu lắm không bay, nàng cảm thấy nặng nề khi cất cánh. Từ đó, hàng ngày nàng phải giở cánh ra tập luyện. Mỗi lần mẹ bay la bay bổng, đứa con trai ngây thơ cười như nắc nẻ. Thấy con cười, mẹ mắng:Cười sằng sặc có khi rặc cổ,Cười ha hả có khi rã xương. Chẳng bao lâu thói quen đã trở lại. Nhưng vì thương con, nàng tiên vẫn nấn ná chưa chịu về trời. Lật bật đã sắp đến ngày về của chồng. Nàng quyết định phải ra đi. Một buổi chiều, nàng tiên làm một mẻ rất nhiều bánh. Sáng hôm sau, mẹ đưa con vào buồng, dặn: Con ở nhà hễ khi nào đói thì vào buồng lấy bánh mà ăn đừng có đòi mẹ nhé! Rồi mẹ gài lên áo con một chiếc lược và dặn: Con nhớ giữ lấy lược cho cha nghe! Dặn đoạn, nàng tiên vỗ cánh bay bổng lên không trung. Người chồng trở về thấy mất vợ, lại thấy lược vợ cài vào áo con thì đoán ra nông nỗi: con chim trời đã về tổ cũ. Từ đấy cha con côi cút, lòng anh buồn rười rượi; thằng bé vắng mẹ kêu khóc đêm ngày. Một hôm, chàng lại bế con tìm lên giếng tiên. Chàng vẫn nhớ con đường đi ngày nọ xuyên qua mấy khu rừng sâu. Nhưng lần này cây cỏ rậm rì che kín hết lối. Chàng tìm mãi hết ngày này sang ngày khác. Cuối cùng chàng cũng lần tìm ra chốn cũ. Lập tức chàng đưa con đến nấp bên bờ giếng tiên, hy vọng sẽ được gặp lại vợ ở đây. Chờ mãi đến trưa hôm sau, cha con mới thấy một bà già từ trên trời xách thùng xuống múc nước. Từ chỗ nấp bước ra, chàng trai nắm lấy thùng cầu khẩn: Hỡi bà tiên! Bà hãy thương tôi giúp cho tôi một việc. - Việc gì? - Bà tiên hỏi. - Tôi là chồng nàng tiên ba năm trước đây xuống tắm chốn này. Nàng đã là vợ tôi và là mẹ của thằng bé này. Thế mà nàng đột ngột bỏ về trời không một lời để lại. Vậy bà làm ơn giúp cha con chúng tôi, nhắn tin cho vợ tôi xuống đây gặp chồng gặp con một tý. Ðây là chiếc lược của vợ tôi để lại làm dấu tích, bà cứ cầm về, vợ tôi khắc biết ngay. - Ta biết rồi. Nàng tiên đó là ả Chức. Ả Chức hằng ngày dệt vải nhưng vẫn nhớ chồng nhớ con. Ðược, ta hứa sẽ đưa giúp. Hai cha con lại cất công ngồi chờ cho đến tận chiều hôm sau mới thấy có hai người từ trên trời xuống. Họ có đem theo mọi thứ dây túi để đưa cha con lên trời. Họ dặn cha con phải nhắm mắt và phải giữ hết sức im lặng. Vào khoảng canh khuya, hai cha con đã bước vào cõi trời, và khi có lệnh "mở mắt", họ đã yên vị trong nhà ả Chức. Vợ chồng, mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nhưng chỉ được hai ngày sau, hai cha con lại phải rời "thượng giới". Lệnh cấm của Ngọc Hoàng rất nghiêm. Bất cứ người trần nào dám cư trú ở cõi trời đều bị coi là phạm nghịch. Người nào chứa chấp cũng bị tội nặng cả. Ả Chức tuy thương chồng con vô hạn, nhưng không thể xuống sống ở cõi trần. Ðành phải chia tay. Ngày hôm đó, vợ gạt nước mắt trao cho hai cha con một cái trống, một mo cơm, và dặn: Hễ chân chạm đất thì cứ đánh ba tiếng trống để trên này biết mà cắt dây. Hai cha con xuống được nửa đường thì trời đã trưa. Thấy thằng bé khóc đói, anh chàng bèn dừng lại giở mo cơm đặt lên mặt trống cho con ăn. Thằng bé bốc cơm ăn làm vương vãi trên mặt trống. Một đàn quạ thấy vậy bèn sà xuống mổ lấy mổ để. Ở trên kia ả Chức nghe có tiếng trống tưởng là cha con đã xuống đến đất, bèn cứ việc cắt dây. Dây đứt, cha con rơi xuống biển cả. Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, đàn quạ biết là lỗi tự mình, bèn bay lên trời kêu váng cả lên. Thế là việc phạm lệnh cấm của nhà ả Chức lọt đến tai Ngọc Hoàng. Sau khi biết rõ tình cảnh của họ, Ngọc Hoàng lấy làm thương hại, bèn hạ lệnh cho cha con lên trời, giao cho chàng công việc chăn trâu. Sau này người ta gọi anh là chàng Ngưu, hay chàng Ngâu. Hàng ngày chàng Ngưu thả trâu của nhà trời ăn cỏ nhưng chỉ được phép thả trâu và cư trú bên kia bờ sông Ngân. Bên này bờ, ả Chức vẫn ngày ngày dệt vải. Mỗi năm Ngọc Hoàng chỉ cho hai vợ chồng gặp nhau một lần vào ngày mùng bảy tháng Bảy. Ðàn quạ có lỗi thì ngày hôm ấy phải đội đá bắc cầu cho hai vợ chồng qua lại. Từ đấy, cứ đến ngày mùng bảy tháng Bảy, trời thường rỉ rả mưa phùn, người ta gọi là mưa Ngâu, cho rằng đó là những giọt nước mắt của vợ chồng được gặp gỡ trong một ngày, rồi lại ly biệt cho đến năm sau. Giống nòi quạ cho đến nay vào ngày ấy thường bị sói đầu, người ta cho là vì phải làm phận sự đội đá bắc cầu nên mới như thế. Truyền thuyết về chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ với mối tình chân thật. Chức Nữ là công chúa nhà Trời rất siêng năng, cần mẫn, quanh năm ngồi dệt cửi, lại phải lòng anh chàng chăn trâu Ngưu Lang. Những đêm đẹp trời hai người thường hẹn họ, tình tự dưới ánh trăng, Trời biết được nổi trận lôi đình đày hai người đi xa, cách nhau qua dải Ngân Hà mịt mù sương khói. Rồi cứ mỗi năm đến đêm Thất Tịch, họ lại tìm đến nhau nhờ bầy chim Ô Thước bắc cầu, để rồi những giọt lệ lâm ly rơi xuống cõi nhân gian trở thành những hạt mưa ngâu vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Ngưu Lang là chòm sao Capricorne - Chòm Ma Kết và Chức Nữ là chòm sao Verseau - Chòm Bảo Bình, hai trong trong 12 chòm sao trên đường Hoàng Đạo theo thiên văn học cổ Hy Lạp (trích Phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học, tác giả Ngô Nguyên Phi, Nxb Văn hóa Thông tin, 2001). Qua Sự tích Đầm Nhất Dạ, có thể nhận Chử Đồng Tử đi học đạo Phật ở núi Quỳnh Viên. Được sư thầy tặng bảo bối là cây gậy và chiếc nón. Sau đó về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ đạo Phật. Trong Tứ Bất Tử viết Chử Đồng Tử ra biển lên động Quỳnh Viên phảng phất như động Tiên ở. Chử Đồng Tử gặp một cụ già tóc bạc tay chống gậy tay xách túi. Cụ già cho biết là Phật Quang tên chữ là Minh Chương hiệu Đằng Hải tiên sinh, chủ động Quỳnh Viên, một trong 36 cung tiên nhà trời. Như vậy, vị Phật nào đã dạy Chử Đồng Tử? Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cháu gái Ngọc Hoàng Thượng Đế - Đại Nhật Phật - vua Kinh Dương Vương nên tương ứng với thời vua Hùng Vương thứ III - Địa Tạng Bồ Tát - Hùng Quốc Vương, đời thứ nhất. Theo Đạo giáo Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Hinh, Nxb Khoa học Xã hội, 2003: “tên gọi Chử Đồng Tử cũng là dấu hỏi. Đó không phải là một người có tên họ Chử tên Đồng Tử. Chử có nghĩa là bến nước, Đồng tử có nghĩa là cậu bé. Chử Đồng Tử là một cậu bé vô danh câu cá bên bờ sông. Chính vì vậy mà trong đền Dạ Trạch thờ một tượng cá chép”. Mà biểu tượng cá chép chính là Lạc Long Quân - Hùng Vương thứ II hay ông Thọ, tay cầm gậy đầu rồng. Vậy thì, Chử Đồng Tử khả năng được truyền đạo Phật bởi vua Lạc Long Quân - Phong Đô Đại Đế. Tuy nhiên, truyền thuyết lại nói Chử Đồng Tử học đạo từ nhà sư Phật Quang, chủ động Quỳnh Viên, một trong 36 cung tiên nhà trời, từ dữ liệu này chúng ta có thể khẳng định đó chính là vua Kinh Dương Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đại Nhật Phật. Truyền thuyết Chức Nữ là cháu gái Ngọc Hoàng, như vậy có thể dự đoán Chức Nữ chính là con gái vua Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III. Mặt khác, như đã giải mã truyền thuyết vua Kinh Dương Vương có một người con trai là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân có chín người con trai và con trai cả là Hùng Quốc Vương, riêng Hùng Quốc Vương lại không xác định rõ ông có bao nhiêu người con trai và con gái nhưng chỉ biết truyền được 10 đời vua - Thập Vương Chân Nhân hay Thập Điện Diêm Vương. Dòng sông Ngân ngăn đôi hai bờ, Ngư Lang (sao Altair) ở bờ Tây còn nàng Chức Nữ phía bờ Đông xa hơn về phương bắc. Sao Ngưu Lang rất dễ nhận biết vì cạnh nó nằm giữa và gần như thẳng hàng với hai sao nhỏ. Chức Nữ (Vega) là ngôi sao sáng thứ 5 trên bầu trời nếu không kể Sao Mộc (một hành tinh là vật thể sáng thứ 4) thì nó là sao sáng nhất lúc này với ánh trắng xanh.Đêm 7 tháng Bảy 26/8/2009Ngóng đợi mưa ngâu, Phan Bạch Châu file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgTrong Lão Tử Minh chép: “Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương.” dịch nghĩa “Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.”. Nhà Chu có vùng Tam Xuyên (ba sông), Tam Xuyên là đất Đông Chu, nơi Tần Thủy Hoàng sau khi diệt Chu đã lập quận Tam Xuyên. Nhưng Tam Xuyên cũng có thể hiểu là Tam Giang, chính là đoạn dải Thiên hà chia làm hai nhánh trên bầu trời. Ngưu Lang Chức NữTừ điển bách khoa thiên văn học, Nxb KHKT, 1999 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Trong Tùy Đường diễn nghĩa, Hồi 71: “Vũ Tài Nhân nuôi tóc lại về cung – Tần Quân quân dựng phường được ân sủng”, Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng đã viết: “Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ - Mở Di Kinh mà dẫn về Âu Việt”. Hàm ý nói rằng: từ các chòm thiên văn vùng Ngân hà, sẽ xác định được lịch sử có mối liên kết với các nước phía Bắc sông Dương Tử, và mở Kinh Di Lạc đưa tất cả về lại nước Âu Lạc - sẽ được lý giải trong chương X: CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG. Như vật, qua lịch sử và truyền thuyết, chúng ta cùng cần xem lại ý nghĩa nội dung lễ hội Thất Tịch còn lưu lại trong nền văn hóa Nhật Bản cho tới nay rất rõ nét: Lễ hội Tanabata (Thất Tịch) ở Nhật Bản cũng gắn liền với sự tích Ngưu Lang Chức Nữ. Lễ hội có tục viết điều ước vào giấy treo trên cành trúc ở cổng mỗi nhà. Trong lễ hội phụ nữ xin cho mình có được sự khéo léo trong nghề dệt cửi hoặc may vá, còn nam giới mong được văn hay chữ tốt. Vốn còn có tên là lễ hội Sao, được tổ chức vào ngày 7 tháng Bảy âm lịch. Lễ Tanabata mang truyền thuyết về người con gái đã dệt nên dải Ngân Hà, về một mối tình bị chia cắt, vì chỉ duy nhất trong ngày 7 tháng Bảy này, hai ngôi sao Altair và Vega ở hai đầu dải Ngân Hà mới được trùng phùng. Với những cặp tình nhân Nhật Bản, ngày lễ này giống như lễ tình yêu Valentine Châu Âu, nhưng nó đậm màu sắc Á Đông, lãng mạn và thi vị hơn nhiều. Lễ hội SaoẢnh tham khảo Internet, Nhật Bảnfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Truyền thuyết kể rằng, Ngọc Hoàng Thượng Đế có người con gái rất được yêu chiều tên là Orihime (Chức Nữ - “Chức” là con thoi trên khung cửi). Nàng dệt lụa rất đẹp, và làm chăm chỉ suốt ngày đêm đến nỗi không gặp được chàng trai nào để tính chuyện se tơ kết tóc. Lo lắng cho con, Ngọc Hoàng bèn đưa một chàng trai tên gọi Hikoboshi (Khiên Ngưu) đến gặp nàng. Hikoboshi là một chàng trai chăn bò sống ở bờ bên kia của dải Ngân Hà. Hai người vừa gặp mặt đã phải lòng nhau, và họ đã cưới nhau ngay sau đó. Nhưng rồi, vì quá say mê nhau, hai vợ chồng suốt ngày quấn quít, chẳng chịu làm việc gì cả. Orihime bỏ khung cửi lạnh tanh, còn Hikoboshi cũng để mặc đàn bò không ai chăn dắt. Ngọc Hoàng thấy vậy bèn nổi trận lôi đình, ra lệnh cho hai người phải rời nhau đến sống ở hai bờ cách biệt của sông Ngân Hà, suốt đời không được gặp lại. Thế nhưng, mềm lòng trước nước mắt con gái, ngài lại cho phép họ gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày 7 tháng Bảy. Thương người con gái đau khổ khóc than, đàn chim ô thước sống bên bờ sông đã lấy thân mình làm cầu cho nàng vượt sông đến gặp chồng. Người Nhật Bản lại cho rằng ‘nếu trời mưa thì nước sông Ngân sẽ dâng cao, đàn chim không thể bắc cầu nên Ngưu Lang và Chức Nữ sẽ không được gặp gỡ’. Chính vì vậy, mọi người đều thành tâm cầu nguyện cho trời đừng mưa, để chàng trai và cô gái được trùng phùng. Người Việt Nam thì bảo ‘mưa Ngâu tháng Bảy là nước mắt của hai người trong niềm vui được gặp lại’. Ngày nay, vào ngày này hàng năm, người dân Nhật Bản lại trồng trước cổng những trúc hoặc tre tươi, được trang trí bằng những dải giấy tanzaku (giấy ngũ sắc hình chữ nhật). Người ta viết ước nguyện của mình trên những dải giấy đó, thành tâm cầu nguyện, mong nó sẽ trở thành sự thật. Nếu trời không mưa, các cặp tình nhân sẽ đưa nhau đến những ngôi đền thờ đạo Shinto gọi là Jinza, để cầu nguyện. Còn những người độc thân cũng đến chắp tay, mong tìm thấy trung nhân cho mình. Qua câu truyện cổ tích Nhật Bản, chúng ta thấy lễ hội Tanabata là lễ hội Sao hay có thể hiểu là lễ hội thiên văn, hoàn toàn tương thích với nội dung đã phân tích trong chuyện Chàng Ngưu ả Chức của Việt Nam, không chỉ vậy truyền thuyết này cũng phổ biến ở cả Hàn Quốc. Đồng thời, lễ hội này cũng là lễ hội của tình yêu nam nữ. Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam có một bức tranh mô tả câu chuyện tình Chàng Ngưu ả Chức: Ngưu Lang Chức Nữ Tranh dân gian Trung QuốcChàng Ngưu ả Chức Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Hình ảnh Chức Nữ dệt lụa, đưa thoi trên bức tranh, mùa xuân lúc khí trời ấm áp, thảo mộc nảy mầm, người có thể đi ra để khởi đầu quá trình gieo gặt và chim én bay liệng, reo ca trên bầu trời trong xanh đến vô cùng. Đó là một cảnh thái bình được diễn cách cụ thể trong mùa xuân mà ta không cảm thấy chút nào ngăn cách giữa hai người nam nữ như câu chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ. Ý nghĩa bức tranh nói lên “ngày xuân con én đưa thoi” là vậy, là không còn ngăn cách, chia ly nữa. Qua câu truyện Ngưu Lang Chức Nữ và dấu vết văn hóa Văn Lang vẫn còn lưu giữ lại trong các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… chứng tỏ đã có một nền văn hóa bao trùm, chúng ta hãy cùng xem lại câu chuyện Sự tích dưa hấu. Trước khi tìm hiểu hàm nghĩa câu truyện, xin được tóm tắt truyền thuyết Quả Dưa Hấu như sau: Bắt đầu từ một nhận định của Mai An Tiêm thể hiện nhân sinh quan của chàng, khiến vua Hùng nổi giận đày An Tiêm ra đảo. Ở hoang đảo, An Tiêm đã chứng tỏ trên thực tế nhận định của mình. Vua Hùng gián tiếp thừa nhận quan điểm của Mai An Tiêm, nên đã tha tội cho chàng. Vì vậy, vấn đề bắt đầu từ một nhận định của Mai An Tiêm thể hiện nhân sinh quan của chàng và đây là điểm cốt lõi của sự việc. Nhưng so sánh Sự tích Dưa Hấu chép trong cuốn sách xưa nhất là Lĩnh Nam Chích Quái với cuốn sách mới nhất chép lại sự tích này là Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam (Sách dùng trong nhà trường - Nxb Giáo Dục 1996 ) thì câu nói của Mai An Tiêm là nguyên nhân diễn biến toàn bộ câu chuyện lại hoàn toàn khác nhau. Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì câu nói của Mai An Tiêm là: Đó là do tiền thân của ta, đâu phải ân chúa!, còn theo Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam thì câu nói của Mai An Tiêm là:Của được là của lo, của cho là của nợ. Thái độ của vua Hùng với cả hai câu nói có nội dung khác nhau này đều là: Ngài cho Mai An Tiêm là kẻ vô ơn và trừng phạt chàng. Như vậy, tội của Mai An Tiêm thuộc về phạm trù đạo đức. Từ đó dẫn đến một kết cấu vô lý là: không lẽ việc tìm ra quả dưa hấu và sự phú túc của chàng trên hoang đảo, lại chứng tỏ được chàng không vô ơn hay sao? Đây là những ý tưởng rất xa lạ với những giá trị nhân bản được đề cao dưới thời Hùng Vương. Kết cấu câu chuyện với câu nói của cả hai cuốn sách nói trên, thật là khó lý giải, nếu không muốn nói là phi lý. Do đó, hoàn toàn có cơ sở cho rằng: cả hai cuốn sách nói trên, chưa phản ánh đúng thực tế câu nói nguyên thủy của Mai An Tiêm trong truyền thuyết. Với từ “tiền thân”, tức là kiếp trước, nghiệp báo ở câu nói của Mai An Tiêm trong Lĩnh Nam Chích Quái, mang nội dung tư tưởng Phật giáo. So sánh câu trước của Mai An Tiêm và câu sau khi chàng nói với vợ trên hoang đảo “Trời đã sinh ra ta tất nuôi nổi ta, sống chết bởi trời ta đâu lo lắng!” thì không có sự đồng nhất về ý tưởng: câu trước nói đến tiền thân (kiếp trước), câu sau nói đến ý trời. Như vậy, câu nói của Mai An Tiêm trong Lĩnh Nam Chích Quái là do đời sau thêm vào. Nhưng với Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam thì câu: “Của được là của lo, của cho là của nợ!” là nguyên văn của câu tục ngữ đã lưu truyền từ lâu trong dân gian. Câu tục ngữ này gồm hai vế. Vế thứ nhất: “Của được là của lo”, hàm ý: muốn được của cải để có sự phú túc thì phải biết lo lắng; hoặc là: của tự dưng mà có thì phải lo sợ vì nguồn gốc của nó. Vế thứ hai: “Của cho là của nợ”, hàm ý phải biết ơn người đã cho mình của cải (trả ơn, nợ); hoặc là: của tự dưng mà người ta cho mình, không rõ nguyên nhân thì tức là phải nợ người ta một cái gì đó. Nhưng toàn bộ câu thì lại mang hàm ý khuyên không nên mang cái lo và cái nợ vào mình. Với ý nghĩa trên thì dù Mai An Tiêm là tác giả của câu tục ngữ Việt Nam đó, đáng nhẽ chàng phải từ chối những của cải mà vua Hùng ban cho chàng. Nhưng ngay cả khi từ chối của cải của vua ban, chàng cũng không thể nói câu đó. Bởi vì quan hệ của chàng với vua Hùng - ngoài quan hệ cá nhân còn là trách nhiệm của người dân đối với đất nước mà vua Hùng là đại diện. Nếu cho rằng Mai An Tiêm là người ngoại quốc, nên không có trách nhiệm với một quốc gia không phải quê hương ông. Nhưng ít nhất cũng phải tồn tại một giá trị đạo lý về tình người và cái nghĩa đối với một quốc gia đã dung nạp mình, khi vua Hùng đã dành nhiều ân sủng cho Mai An Tiêm. Như vậy, chứng tỏ câu nói này của Mai An Tiêm trong Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam cũng là sự nhầm lẫn, do cách hiểu về nội dung và truyền thuyết nói trên. Sự sửa chữa của đời sau theo cách hiểu của thời đại đó được chứng minh ở trên, là một yếu tố chứng tỏ rằng: truyền thuyết Sự tích Dưa Hấu cũng như toàn bộ truyền thuyết về thời Hùng Vương, đều đã tồn tại và phổ biến từ rất lâu trong văn hoá dân gian như một hiện tượng xã hội, nên đã được các học giả Việt Nam ở thế kỷ XIV sưu tầm. Nhưng, câu nói thực sự của Mai An Tiêm trong truyền thuyết nguyên thủy về Quả Dưa Hấu là gì? Như phần chứng minh ở trên thì cả hai câu trong cuốn sách cổ nhất và mới nhất, đều không phải đích thực câu nói nguyên thủy của Mai An Tiêm trong truyền thuyết. Nhưng cả hai câu đều mang hàm ý triết lý về nhân sinh quan. Như vậy, nó phải là sự thay thế sai lầm cho một câu triết lý phản ánh nhân sinh quan của Mai An Tiêm. Quan điểm của Mai An Tiêm đã được chứng thực ở đoạn sau, nên đã được vua Hùng gián tiếp thừa nhận bằng cách tha tội cho chàng. Do đó, có thể căn cứ vào diễn biến nội dung của đoạn sau để suy đoán câu nói của Mai An Tiêm ở đoạn trước. Đoạn này có những tình tiết như sau: - Mai An Tiêm và gia đình bị đày ra một đảo hoang, nhưng chàng vẫn chấp nhận và sẵn sàng cho cuộc sống của mình. Điều này chứng tỏ chàng vẫn tự khẳng định mình. - Mai An Tiêm gặp may vì có con chim trắng từ phía Tây mang đến cho gia đình chàng những hạt giống dưa. Sự gặp may của Mai An Tiêm - theo cách nói của người xưa - tức là trời cho. Nhưng nếu Mai An Tiêm không tự khẳng định mình bằng sự cố gắng của con người thì không có sự may mắn đó. Như vậy trong trường hợp của Mai An Tiêm chứng tỏ rằng: con người và hoàn cảnh là hai yếu tố cấu thành nên số phận. Phải chăng, qua Sự tích Dưa Hấu, tổ tiên ta đã nhắc nhở con cháu đời sau về khả năng của con người trong việc khắc phục hoàn cảnh. Trong nội dung câu chuyện, sự tức giận của vua Hùng rất có khả năng ngài thiên về phía thiên mệnh (số phận - đây có thể chỉ là một tình tiết hư cấu để tạo nội dung cho câu chuyện, trên thực tế chưa hẳn vua Hùng đã ủng hộ thuyết thiên mệnh. Bởi vì, nếu có sự ủng hộ đó thì đã không có câu chuyện này). Với sự chứng minh ở phần trên - nền văn minh Văn Lang đã phát hiện quy luật vận động của các thiên thể và những hiệu ứng vũ trụ tác động tới tự nhiên, cuộc sống và tâm sinh lý của con người - nên ông cha ta thường có những dự đoán tương lai trên cơ sở quy luật đã nắm bắt được (Trù thứ bảy - Kê Nghi trong Hồng phạm cửu trù thể hiện điều này), nhưng cũng không cho sự dự đoán là tuyệt đối (nếu ba người cùng bói thì theo hai người - Hồng phạm). Do đó, câu nói của Mai An Tiêm và diễn biến hợp lý nhất phải mang một nội dung như trên. Thí dụ có thể là: “Tất cả do trời định và sự cố gắng của bản thân nên mới được như vậy!”. Vua Hùng buộc chàng phải chứng minh điều này. Chàng đã chấp nhận, cùng vợ con ra đảo để chứng tỏ quan điểm của mình. Do đó câu nói của Mai An Tiêm trên hoang đảo phải điều chỉnh lại như sau: “Trời đã bắt ta như vậy thì chỉ còn cách cố gắng, lo lắng cũng vô ích!”. (So với câu này trong Lĩnh Nam chích quái là: “Trời sinh ra ta, sống chết bởi trời ta đâu lo lắng!”). Với sự hiệu chỉnh trên thì kết cấu câu chuyện sẽ hợp lý, ít nhất cũng là với nội dung của câu chuyện đã được sửa đổi. Để độc giả tiện minh xác, xin chép lại câu chuyện từ Lĩnh Nam chích quái với hai câu nói của Mai An Tiêm đã sửa đổi (những chỗ nào sửa, được in bằng chữ đậm và kèm nguyên văn bản cũ trong ngoặc, bên cạnh). Về đời Hùng Vương có viên quan tên là Mai Tiêm, vốn người ngoại quốc. Khi lên 7, 8 tuổi, vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc. Kịp tới khi lớn lên diện mạo đoan chính, nhớ thuộc sự vật, vua ban tên cho là Mai Yển, hiệu An Tiêm, lại ban cho một người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai, một gái. Vua rất tin yêu, giao cho công việc, dần dần trở nên yêu quí, bổng lộc rất nhiều. An Tiêm là người tự tin thường nói rằng: “Tất cả do trời định và sự cố gắng của bản thân nên mới được như vậy” (Sau, Tiêm đâm ra kiêu căng ngạo mạn, thường nói rằng: “Đó đều do tiền thân của ta, đâu phải do ơn chúa”). Vua nghe nói cả giận phán: “Nay ta đưa ngươi ra một nơi không có người giữa bể, xem người chứng tỏ những ý nghĩ của ngươi như thế nào?” (Vua nghe nói cả giận, phán: “Làm thần tử của người mà kiêu căng ngạo mạn, không biết ơn chúa, lại nói đều là vật tiền thân! Nay đưa nhà ngươi ra một nơi không có người giữa bể, xem có còn vật tiền thân không?”). Bèn đưa (đày) ra cửa biển Nga Sơn (còn gọi là Giáp Sơn) bốn bể toàn cát và nước, không có vết chân người qua lại, ban cho một số lương thực đủ bốn năm tháng để cho ăn (hết thì chết). Vợ Tiêm than khóc, Tiêm cười mà bảo: “Trời đã bắt ta như vậy, chỉ còn cách cố gắng, lo lắng cũng vô ích!” (“Trời đã sinh ta tất nuôi nổi ta, sống chết bởi trời, ta đâu lo lắng”). Bỗng thấy một con bạch trĩ từ phương Tây bay lại đậu ở đầu núi, kêu ba bốn tiếng. Sáu bảy hạt dưa theo tiếng kêu mà rơi xuống cát, mọc lên xanh rì rồi kết thành quả. An Tiêm mừng rỡ mà nói: “Đây không phải là quái vật mà là trời cho để nuôi ta đó”. Bèn bổ ra mà ăn, thấy vị mát ngọt, tinh thần sảng khoái, mới giữ lấy hạt, năm sau đem trồng. Ăn hết, lại đem đổi lấy gạo nuôi vợ con. Tiêm không biết gọi là quả gì, nhân vì chim trĩ ngậm hạt từ phương Tây bay tới nên gọi là quả Tây Qua. Phường chài phường buôn đều cho là ngon. Những người ở thôn xóm xa gần đều mua để lấy giống. Sau vua nghĩ tới Tiêm, cho người đến xem An Tiêm sống ra làm sao (còn sống hay đã chết). Người đó về tâu lại với vua, vua thở dài mà than rằng: “Điều hắn nói quả thật không ngoa” (“Hắn nói là vật tiền thân, điều đó thật không ngoa”). Bèn xuống chiếu gọi về cho phục chức cũ, lại cấp cho nô tì; gọi bãi cát Tiêm ở là bãi An Tiêm, làng đó gọi là làng Mai Thôn. Có người lại suy tôn cha mẹ ông bà An Tiêm mà cho rằng nơi họ ở là châu An Tiêm thuộc tỉnh Thanh Hóa.Trong Sự tích Dưa Hấu có những tình tiết rất đáng chú ý: Mai An Tiêm là người ngoại quốc, vậy phải chăng truyền thuyết Quả Dưa Hấu đã chứng tỏ sự tiếp thu của vua Hùng đối với những tinh hoa văn hóa bên ngoài. Do đó, vua Hùng đòi hỏi phải có sự chứng minh trên thực tế. Ý tưởng của câu chuyện không phải chỉ dừng lại ở đấy, mà còn chứng tỏ một quan hệ ngoại giao rộng rãi của Văn Lang với các quốc gia lân bang. Hình ảnh con chim trắng từ phía Tây bay lại, điều này có thể suy diễn như sau: màu trắng của con chim thuộc hành Kim, chủ phương Tây. Hướng của con chim bay từ phía Tây lại chứng tỏ rằng những ý tưởng của văn minh bên ngoài du nhập vào Văn Lang từ những quốc gia phía Tây. So sánh những quốc gia cổ đại có nền văn minh phát triển vào khoảng giữa thời Hùng Vương có khả năng truyền bá văn minh của mình ở phía Tây Văn Lang, rất có khả năng là Ấn Độ hoặc những nước có ảnh hưởng nền văn minh này ở phía Tây Văn Lang (Trích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).Tranh Tết Tranh dân gian Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Sự tích dưa hấu được ông cha ta lựa chọn để nói về một vùng đất mặt trời mọc là Nhật Bản như lòng đỏ của quả dưa hấu, ngày nay chính là biểu tượng mặt trời trên lá quốc kỳ, chúng ta thấy các dấu tích văn hóa còn lại đều tương tự nhau: lễ hội Thất Tịch, tục nhuộm răng đen, chữ viết hình con nòng nọc…. đặc biệt, Nhật Bản xem Thái Dương Thần Nữ là thủy tổ của dân tộc mình. Chúng ta cũng đã biết Thái Dương Thần Nữ chính là “Tổ Tôm”, Tây Vương Mẫu, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, bà là chính thất của vua Kinh Dương Vương. Do đó, không còn nghi ngờ gì nữa, Nhật Bản chính là một thành viên trong đại gia đình nước Cực Lạc cổ (tên quốc gia thời vua Phục Hy - Hư Không giáo chủ, tới thời vua Đế Minh chia đôi nước). Thái Dương Thần Nữ nâng vành trăng khuyết có con thỏ ngọc Trích Minh triết Đông Phương, tác giả Michael Jordan, Nxb Mỹ Thuật, 2004 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Đặc biệt, hình tượng quả dưa hấu có thể coi là là hình tượng của vũ trụ, màu sắc vỏ ngoài quả dưa hấu tương tự các kinh tuyến của thiên cầu. Hình tượng con chim bay từ hướng Tây đem hạt dưa lên đảo chính là từ đất liền bay ra từ Triều Tiên hay Trung Quốc, cũng là những quốc gia có chung một nền văn hóa. Đặc biệt, hình tượng quả dưa hấu cũng nói lên ý nghĩa mặt trời là trung tâm của Thái dương hệ. Quốc kỳ Nhật Bản và Hàn Quốc Trích từ cuốn sách CIA World Fact Book file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Quốc kỳ Nhật Bản nền trắng với hình ảnh mặt trời ở giữa, quốc kỳ Hàn Quốc nền trắng vòng “Càn Khôn” ở giữa, xung quanh là bốn quái Càn, Khôn, Khảm, Ly, biểu tượng Bát quái trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành, thật là một sự ngạc nhiên thú vị. Đối với lịch sử Hàn Quốc, theo Tam Quốc di sử do nhà sư Hyon viết vào thế kỷ XIII, Choson do một nhân vật cổ huyền thoại là Tangun tạo lập vào năm 2333 tr.CN. Thời Choson cổ được chia làm ba giai đoạn: Tangun, Kija và Wiman. Theo Tam quốc di sử, khoảng năm 1120 tr.CN, Kija cháu của vua I Trung Quốc đã cùng hơn 2000 thuộc hạ thân tín kéo sang bán đảo Hàn, xưng vương, khởi đầu thời kỳ Kija Choson. Cũng theo tài liệu này, khoảng năm 194 tr.CN, Wiman, một tướng quân Trung Quốc, đã cướp ngôi hoàng đế Choson cổ sau khi theo phò vị vua này một thời gian, lập ra Wiman Choson. Bấy giờ vua của Choson cổ là Chun buộc phải lui xuống miền Nam, nơi tương truyền đã ra đời vương quốc Chin (trích Tìm hiểu về Văn Hóa Hàn Quốc, tác giả Nguyễn Long Châu, Nxb Giáo dục, 2000). Ngoài lễ hội Tanabata, trong nền văn hóa Nhật Bản còn những lễ hội quan trọng khác có từ thời Văn Lang. Ngày Tết Thanh Minh ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch là ngày lễ hội búp bê dành cho các bé gái trong gia đình. Lễ hội này bắt nguồn từ trò chơi búp bê Hina Asobi của các bé gái thời Heian (794), lễ hội cũng là một sự kiện liên quan đến mùa xuân, khi mà các gia đình cùng nhau thưởng thức khung cảnh trong xanh của miền đồng quê cũng như ngắm những bông hoa đào nở rộ, vì vậy còn được gọi là momono sekku (Nhật Bản - Một góc nhìm từ văn hóa lễ hội, tác giả Lê Thị Kim Oanh, Nxb Đại học Quốc gia Tp HCM, 2011). Ngày Tết Thanh Minh, theo truyền thống Việt Nam chính là ngày Tết Phụ nữ như đã phân tích. Lễ hội cờ phướn cá chép và lễ hội búp bê Nguồn ảnh, internet. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Nếu các bé gái có ngày lễ hội búp bê cho riêng mình, thì các bé trai cũng có lễ hội mang tên Tango no sekku là một lễ hội mong cầu sức khỏe, cường tráng và sự thành công trong cuộc sống, được tổ chức vào ngày Tết Đoan Ngọ mồng 5 tháng Năm âm lịch. Hình tượng lễ hội là biểu tượng cá chép Koinobori phấp phới bay trong gió và các Gogatsu Ningyo được bày trên các bàn thờ Tokonoma của gia đình, có ý nghĩa mong cầu các bé trai có sức mạnh như cá chép bơi ngược dòng nước xiết, không đầu hàng trước những thử thách của cuộc sống. Ngoài ra, các em bé sẽ được ăn bánh Kashiwamochi, một loại bánh nhân đậu đỏ bọc ngoài bằng lá Kashiwa. Từ năm 1949 tới nay, lễ hội được chọn làm ngày Tết Thiếu nhi của toàn thể trẻ em Nhật Bản. Ngày nay, nước Nhật Bản trở nên hùng cường bởi đã xây dựng trên một nền văn hóa tôn vinh tinh thần dân tộc, với tinh thần võ sĩ đạo nổi tiếng trên toàn thế giới. Ngày Tết Đoan Ngọ, theo truyền thống Việt Nam là ngày Tết của Mẹ như đã phân tích. Quay trở lại câu chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã tạo dựng nên Đạo giáo thời quốc gia Văn Lang, các ngài cũng được nhân dân đưa vào phối thờ trong điện Đại Hùng. Chúng ta cũng đã biết, các bộ tranh thờ Đạo giáo đều mô tả cấu trúc mặt bằng của một ngôi chùa, đình, đền, đạo quán cùng các thần khí như vạc, lư, cuông, trống, đỉnh... và biểu tượng của Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng được bài trí trong đó - đấy chính là đôi “Rùa cõng Hạc ngậm hoa hồng” - biểu tượng của tình yêu. Luôn luôn được bài trí phía trước ban thờ chính điện. Hạc và Rùa Đền Độc Lôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Chúng ta thấy, dưới chân Hạc là bánh xe pháp luân thay cho con Rùa, đối tượng chuyên chở chữ viết thời Hùng Vương, chứng tỏ rằng: Đạo giáo cũng đã truyền bá học thuyết của mình và các phương pháp tu luyện đi khắp bốn phương. Chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ trở thành ngày hội của tình yêu, bởi không chỉ là biểu tượng của một tình yêu tuyệt đẹp ở cõi trần, mà cả ở cõi tiên, không chỉ vậy Chử Đồng Tử đã trao tặng cho nhân gian bí kíp luyện đan dược để trở thành trường sinh bất lão. Cánh đẹp hóa bên sông, bãi cát thành châu ngọc, một đêm thành đầm nước, Duyên kỳ ngộ ngàn năm trước, cõi trần gian là vợ chồng, trên trời cao là thần tiên. Theo Chu Dịch Tham đồng khế, san định bởi Ngụy Bá Dương, Nxb Thời đại, 2010: Thiên Hà trên trời chính là dòng sông Ngân Hà, ngăn cách Ngưu Lang và Chức Nữ. Hai người tương hợp với nhau thông qua cây cầu Ô Thước, cũng chính là hai phần trên dưới trong cơ thể con người, cho nên các đan gia từ xưa tới nay đều cho rằng Ngân Hà chính là hai mạch Nhâm và Đốc. Thiên địa mỗi năm giao cấu một lần, nhật nguyệt mỗi tháng hợp sóc một lần, Ngưu Lang Chức Nữ thì mỗi năm tương hội một lần nhờ đàn chim Ô Thước làm thành cây cầu Ô Thước, đều mang ý nghĩa thần khí tương hợp trong công phu luyện đan đạo. Ngưu Lang cũng chính là chòm sao Ngưu thuộc 7 chòm sao phương Bắc Huyền Vũ, nó xuất hiện ở phương Sửu, chính là điểm khởi đầu của một năm. Vào ngày mồng 7 tháng Bảy âm lịch hàng năm, sao Ngưu Lang (hay còn gọi là sao Hà cổ, hai bên trái, phải có một sao nhỏ, là hai con của sao Ngưu) đi tới hai con của mình xuất hiện ở phương Sửu, trên bầu trời tương hợp với sao Nữ ở bên kia sông Ngân Hà, bách tính dưới trần gian cũng thấy kinh ngạc, bởi vì, lúc này nếu thiên can đo nhật ảnh và tiết khí không phù hợp sẽ có thể dẫn đến nạn hồng thủy. Ngưu Lang Chức Nữ tương hội lúc nhật nguyệt đan đạo vào đầu tháng, nếu bất cẩn để tiết đan là hung, đại kỵ.Thuốc trường sinh Đạo Đức Kinh, Chương 6 viết: “Cốc Thần bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc rễ của trời đất. Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt”. Đạo hay Cốc thần trường sinh bất tử đó là cánh cửa Càn (Huyền) Khôn (Tẫn) đó là gốc gác, căn cơ của đất trời. Đó là một nguồn sinh tung tỏa vô cùng vô tận, dùng mãi chẳng hề vơi. Chương này được các Đạo gia đặc biệt khai thác để áp dụng vào phương pháp tu thân, luyện đan, cầu đạo, đi tìm trường sinh bất tử. Lưu Nhất Minh trong quyển Chu dịch xiển chân minh định rằng: Cốc thần chính là Thái cực theo Nho giáo; Viên giác theo Phật giáo; Kim đan theo Lão giáo. Bạch Tổ cho rằng: “Đầu con người có chín cung, cung chính giữa là Cốc thần. Thần thường ở trong hang động của mình ban ngày tiếp xúc với vật, đêm tối tiếp xúc với mộng, vì thế không yên ở nơi chốn được”. Như vậy Cốc thần chính là ở nơi Nê hoàn cung, vì Nê hoàn chính là “Bản cung của Thần” ở trong con người. Vì thế các nhà luyện đan mới cho rằng: Yếu đắc Cốc thần trường bất tử, Tu bằng Huyền tẫn lập căn cơ. Nói nôm na rằng: Muốn đắc đạo, muốn trường sinh bất tử, phải biết phối hợp Huyền tẫn, nghĩa là phối hợp âm dương, phối hợp nhân tâm với Đạo tâm, phối hợp Thần, Hồn. Mà nơi phối hợp chính là ở Nê hoàn cung ở chính giữa đầu não con người. Sách Kim đan đại thành tập viết: “Giữ được chân nhất ở Thiên cốc (Nê hoàn) khí vào được Huyền quan, tức là đạt tới Bản lai thiên chân”. Sách Thông thiên bí thư viết: “Ở trong con người có một khiếu gọi là Huyền tẫn... Huyệt này là gốc gác căn cơ cho khoa luyện đan, hoàn phản; là nơi thần tiên ngưng kết thánh thai.”. Biết được lò cừ Tạo hóa rồi, biết được Chân thể của Đạo rồi thì thấy mọi sự đều vĩnh cửu. Từ biến chuyển nhìn ra trời đất, Thì đất trời chớp mắt đã qua. Từ trong vĩnh cửu nhìn ra, Muôn loài muôn vật như ta, vô cùng. Vì Đạo hay Cốc thần trường sinh bất tử, nên tìm Đạo, tìm Cốc thần tức là đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Mặt khác, như phân tích trong các chương chúng ta cũng đã biết tự thân linh hồn là bất tử sau khi thân xác vật lý tan rã, vậy thì tại sao lại phải tìm Đạo, luyện thuốc trường sinh?. Người đời không hiểu rõ thân này là hư ảo, một kiếp người qua mau như bọt nước, như lửa xẹt trong đá, bừng lên rồi tắt ngay. Trong khi đó tuy vinh hoa cực phẩm, lộc hưởng nghìn chung, nhà cửa khang trang mỹ lệ, đầy châu báu, ngọc ngà, cũng đều phải bỏ lại, chỉ đem theo được là tội nghiệp của ta. Lữ Thuần Dương (Lữ Đông Tân) viết: Muôn kiếp, ngàn đời được cá nhân, Mới hay kiếp trước đã gieo nhân. Hãy thoát mê tân, mau giác ngộ, Tránh khỏi luân hồi, khỏi khổ tân. Ngộ Chân Thiên có câu: Bạc vàng ví chất cao như núi, Nhưng quỉ Vô Thường mua nổi không? Trương Tử Dương nói: Đuốc kia sao gió đừng thổi tắt, Sáu nẻo Luân Hồi chớ trách Trời! Nói đi, nói lại một điều làm cho mọi người hãi kinh, thất sắc. Người muốn thoát luân hồi, không gì bằng tu luyện kim đan, đó là thang lên Trời, là đường tắt để thoát phàm. Đạo ấy rất là giản dị, dẫu tiểu nhân ngu muội, biết được mà tu, cũng có thể thành chính quả. Nhiều bậc chân tu, tuy để tâm tu đạo nhưng chẳng chuyên tinh, hay chuyên tinh mà không bền vững, cho nên người tu nhiều, mà thành thì ít. Trần Nê Hoàn viết: Ta xưa tu hành được chân quyết, Đêm ngày công phu, không đoạn tuyệt. Một hôm hành mãn, không ai biết. Chỉ thấy hào quang sáng tứ vi. Trời có khi cũng bị nghiêng đổ, núi có khi cũng bị sụt tan, biển có khi cũng bị cạn. Chỉ có tu thành đạo, mới có thể cưỡi gió mây, cưỡi rồng, ngao du ngoài trời, tiêu diêu nơi hư không. Vận số không hạn chế được ta, vận mệnh không câu thúc được ta. Ta thấy mục đích đạo Lão biến con người phàm phu thành con người siêu việt, biến người thành Trời. Đạo Lão đưa ra nhiều cách: Hợp nhất các yếu tố về nhất thể, khiến âm dương hợp nhất thành Thái Cực và gọi đó là phép luyện đan, mà luyện đan là vận chân khí qua xương sống, qua hai mạch Nhâm Đốc, và đem chân khí đó về tích tụ tại Nê Hoàn Cung hay Thượng Đan Điền. Chẳng những hợp âm dương, mà còn hòa hợp tinh khí thần qui tụ về nơi đầu mà họ gọi là Tam hoa tụ đỉnh. Cũng có thể hòa hợp ngũ hành mà gọi là ngũ khí triều nguyên. Luyện tinh hoá khí, luyện khí hoá thần, luyện thần hoàn hư, phục qui vi cực, đó cũng là biến người thành Trời (tham khảo và trích dẫn từ Đạo dức kinh khảo luận, tác giả Nguyễn Văn Thọ). Đạo Đức Kinh, Chương 42 viết: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà bồng dương, điều hòa bằng khí trùng hư”. Đạo là Thái Cực, hai thì ai cũng hiểu là âm và dương, còn ba thì là “khí” do âm, dương tương tác mà sinh ra. Chúng ta cũng nên để ý trong cuốn Đạo Đức Kinh chỉ có chương này là nói về âm dương cụ thể mà thôi. Khí là một trong bộ ba thứ chính yếu của con người tinh, khí, thần theo kinh sách của Đạo giáo. Đan đạo manh nha từ thời Chiến Quốc, hình hiện vào thời Hán, thời Tấn, nhờ Ngụy Bá Dương thời Đông Hán, người Cối Kê, san định bộ Tham Đồng Khế (xuất bản khoảng năm 141), và Cát Hồng Bão Phác Tử, đời Tấn (284-344), tác giả bộ Bão Phác Tử nội thiên. Luyện đan đại khái là sống một cuộc đời định tĩnh, suy tư để đạt tới chân thiện mỹ. Nó muốn dùng Dịch kinh để phối hợp âm dương, phối hợp Khảm Ly và để tẩy rửa tâm hồn và hòa mình với Đạo. Nếu tâm không thanh tịnh, thần không tinh khiết, thì tu luyện mấy cũng uổng công. Cho nên đạt Đạo chính là Chân Nhân, chính là Phối Thiên. Ngụy Công sinh thời Đông Hán, tên Bá Dương, hiệu Tử Nha Tử, người Cối Kê Thượng Ngu nhân. Nay nói Cối quốc, là muốn nói che dấu đi. Ông tu chân tiềm mặc, dưỡng chí hư vô, rất giỏi văn từ, thông các sách vở. Không biết ông đã học đạo với ai mà biết được Đại Đơn chi quyết. Sau lại tóm Kinh Dịch mà soạn sách Tham Đồng Khế ba thiên, lại sợ không nói hết lời nên lại viết Đỉnh Khí Ca, để bổ khuyết cho sách, và nhuận sắc lại sách; lại truyền cho Thanh Châu Từ Cảnh Hưu Tòng Sự. Từ ẩn danh và chú thích quyển đó đến đời Hoàn Đế (155-175) lại truyền thụ cho người đồng quận là Thuần Vu Thúc Thông. Thế là sách truyền ra thiên hạ. Ngụy Bá Dương Tranh tham khảo Bách hoa toàn thư văn hóa cổ điển Trung Quốc, tác giả Nghiêm Tôn Nhan, Nxb Văn hóa Thông tin, 2000 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Tham đồng khế trong Đạo giáo được tôn làm “vạn cổ đan kinh vương”, liên quan đến tác giả còn tồn tại nhiều quan điểm tranh luận khác nhau, nhưng chủ yếu đồng ý cho tác giả là Ngụy Bá Dương, phần cuối của cuốn sách có lời tựa của Ngụy Bá Dương trong đó ẩn tự mình đặt ra tên gọi. Tham Đồng Khế được chia thành 3 thiên: Ngự Chính: theo Trời hành sự; Dưỡng Tính: hàm dưỡng tính Trời; Phục thực: hàm dưỡng khí hạo nhiên. Tham là tham dự cùng Thái Cực, Đồng là hòa đồng cùng Thái Cực, Khế là khế hợp với Thái Cực. Như vậy thì Tham Đồng Khế nghĩa cũng tương đương như phối Thiên trong Đạo Đức Kinh chương 68, nghĩa là sống hợp nhất với Trời. Lưu Nhất Minh (1734-1821) là một học giả tài ba, là nhà đan học lớn thời Thanh, Trung Quốc. Ông là chưởng môn Toàn Chân, Long Môn Phái, đời thứ 11, ghi rõ ràng Tham Đồng Khế bàn về kinh Dịch, đạo Hoàng Lão và phép luyện đan (tham khảo và trích Nhận định về Tham Đồng Khế, tác giả Nhân Tử Nguyễn văn Thọ) Theo truyện cổ tích Việt Nam Ăn khế trả vàng thì ẩn ý cho Tham Đồng Khế không phải sáng tác của Ngụy Bá Dương, con chim phượng hoàng trong câu truyện chính là biểu tượng của vua Đế Minh - Khương Tử Nha. Tính tham của người anh, hình ảnh chim phượng hoàng ăn khế và kho chứa châu báu (đồng) kết hợp lại thành Tham Đồng Khế. Mặt khác, hiệu của Ngụy Bá Dương là Tử Nha Tử có thể dịch nghĩa là con trai của Khương Tử Nha, mà chúng ta biết Khương Tử Nha chính là Hoàng Đế, Phật A Di Đà. Con trai Khương Tử Nha chính là vua Kinh Dương Vương, Đại Nhật Phật, do vậy cuốn sách này nói là kết hợp Chu Dịch và đạo Hoàng Lão cũng hợp lý. Một nhà kia có hai anh em, cha mẹ đều chết cả. Hai anh em chăm lo làm lụng, nên trong nhà cũng đủ ăn. Muốn cho vui cửa vui nhà, hai người cùng lấy vợ. Nhưng từ khi có vợ người anh sinh ra lười biếng, bao nhiêu công việc khó nhọc, đều trút cả cho hai vợ chồng người em. Hai vợ chồng người em thức khuya dậy sớm, lại cố gắng cày cấy, làm cỏ, bỏ phân, lúa tốt hơn trước, nên đến mùa được bội thu. Thấy thế, người anh sợ em kể công chiếm lấy phần hơn, vội bàn với vợ cho hai vợ chồng người em ra ở riêng. Ra ở riêng với vợ, người em được người anh chia cho có một căn nhà tranh lụp xụp, trước nhà có một cây khế ngọt. Hai vợ chồng người em không phàn nàn một lời, hết vào rừng đốn củi đem ra chợ bán, lại đi gánh mướn, làm thuê. Còn người anh có bao nhiêu ruộng nương đều cho làm rẽ, để ngồi không hưởng sung sướng với vợ. Thấy em không ca thán, người anh cho em là ngu si, lại càng lên mặt, không lui tới nhà em và cũng không để ý gì đến em nữa. Những ngày sung sướng nhất của hai vợ chồng người em là những ngày khế chín. Quanh năm, hai vợ chồng đã chăm bón và bắt sâu, đuổi kiến cho cây khế, nên cây khế xanh mơn mởn, bóng rợp khắp mảnh vườn nhỏ bé, quả lúc lỉu cả ở những cành là sát mặt đất, trẻ lên ba cũng với tay được. Một buổi sáng, hai vợ chồng mang quang gánh và thúng bị ra gốc khế, định trèo lên hái quả đem ra chợ bán thì thấy trên ngọn cây rung động rất mạnh, như có người đang trèo. Hai vợ chồng nhìn lên thì thấy một con chim phượng hoàng rất lớn đang ăn những quả khế chín vàng. Hai vợ chồng đứng dưới gốc cây xem chim ăn, đợi chim bay đi rồi mới trèo lên cây hái quả. Từ đấy, cứ mỗi buổi sáng tinh mơ, hai vợ chồng ra hái khế, thì đã lại thấy chim ở trên cây rồi. Thấy có người, chim vẫn cứ ăn, ung dung một lúc lâu, rồi mới vỗ cánh bay đi. Chim ăn ròng rã như thế ngót một tháng trời, cây khế vợi hẳn quả. Một hôm, đứng đợi cho chim ăn xong, người vợ nói nửa bỡn nửa thật với chim: "Chim ơi, chim ăn như thế thì còn gì là khế của nhà tôi nữa! Cây khế nhà tôi cũng sắp hết quả rồi đấy, chim ạ!". Chim bỗng nghển cổ, nheo mắt như cười, đáp lại: "Ăn một quả, trả cục vàng! May túi ba gang, đem đi mà đựng". Chim nhắc đi nhắc lại câu ấy ba lần, rồi mới vỗ cánh bay đi. Hai vợ chồng thấy chim biết nói đã lấy làm lạ, lại thấy chim bảo mình như thế, nhắc lại cho mình đến ba lần, nghe rõ mồn một, nên càng suy nghĩ, phân vân. Nhưng rồi hai vợ chồng cũng làm theo lời chim. Người vợ lấy vài vuông vải nâu may cho chồng một cái túi, ngang dọc đúng ba gang. Sáng hôm sau, hai vợ chồng vừa ăn xong thì thấy một luồng gió mạnh cuốn cả cát bụi trước sân nhà, rồi trong chớp mắt một con chim cực kỳ lớn hạ xuống giữa sân, quay đầu vào nhà kêu lên mấy tiếng như chào hỏi. Người chồng xách cái túi ba gang ra sân, chim nằm rạp xuống, quay cổ ra hiệu cho anh ngồi lên lưng mình. Anh ngồi lên lưng chim, bám vào cổ chim thật chặt. Chim đứng dậy vươn cổ, vỗ cánh bay bổng lên trời xanh. Chim lúc bay cao, lẩn vào mây bạc; lúc bay thấp, là là trên rừng xanh, đồi núi trập trùng. Rồi chim bay ra biển cả mênh mông, sóng biếc cao ngất vật vào sườn những hòn đảo nhỏ, làm tung lên những bọt trắng xóa. Anh ngồi trên lưng chim thấy biển tuyệt mù, không biết đâu là bờ... Thốt nhiên chim bay vào một hòn đảo toàn đá trắng, đá xanh, đá đỏ, đá ngũ sắc, phản chiếu ánh sáng rực rỡ, anh chưa từng thấy bao giờ. Chim bay một vòng thật rộng xung quanh đảo như muốn tìm một nơi hạ cánh, rồi bay những vòng hẹp hơn, là là trên các ngọn đá, lắm lúc anh tưởng như mình sắp bị va vào những tảng đá khổng lồ. Bay đến trước mặt cái hang rộng và sâu, chim từ từ hạ xuống. Đặt chân xuống đảo, anh nhìn ngó khắp nơi, tuyệt nhiên không thấy một sinh vật nào, không có đến một ngọn cỏ hay một mống chim sâu. Chim ra hiệu bảo anh vào hang, muốn lấy gì thì lấy. Ở ngay cửa hang, anh đã thấy toàn những thứ đá trong như thủy tinh và hổ phách đủ các mầu; có thứ xanh như mắt mèo, có thứ đỏ ối như mặt trời, còn vàng bạc thì nhiều như sỏi đá. Thấy hang sâu và rộng, anh không dám vào sợ lạc. Anh nhặt một ít vàng và kim cương bỏ vào túi ba gang, rồi trèo lên lưng chim, ra hiệu cho chim bay về. Chim tỏ vẻ vui mừng, gật gật cái đầu, vươn cổ kêu vài tiếng, rồi vỗ cánh bay lên trời xanh, bay qua biển, qua rừng, qua núi. Mặt trời mới vừa đứng bóng, chim đã hạ cánh xuống cái vườn nhỏ có cây khế ngọt. Người vợ thấy chồng về bình yên, mừng rỡ vô cùng, chạy ra vuốt lông chim, tỏ ý cảm ơn, ra hiệu mời chim bay lên cây khế giải khát. Chim bay lên cây khế ăn một lúc, rồi kêu ba tiếng như chào vợ chồng người nông dân, rồi bay đi. Từ đấy, lâu lâu chim mới lại đến ăn khế. Tiếng đồn hai vợ chồng người em thốt nhiên giàu có bay đến tai hai vợ chồng người anh. Hai vợ chồng người anh vội vã đến chơi nhà em để dò xét. Nghe em thật thà kể chuyện, người anh gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Hai vợ chồng chỉ lo người em không chịu đổi, không ngờ người em vui vẻ ưng thuận ngay. Hai vợ chồng người anh mừng rỡ như mở cờ trong bụng, lập tức giao hết tài sản của mình cho em, và sáng hôm sau dọn ngay đến ở túp lều tranh trên mảnh vườn nhỏ có cây khế ngọt. Đến ở mảnh vườn chật hẹp, hai vợ chồng người anh không làm việc gì cả. Còn được ít tiền hai vợ chồng đem tiêu dần, cả ngày chỉ nằm khểnh ngoài hè, hí hửng nhìn lên cây khế, chờ chim bay đến. Một buổi sáng, có một luồng gió mạnh tạt vào nhà, rồi hai vợ chồng thấy ngọn cây khế rung chuyển. Hai người hớt hải chạy ra sân, vội nhìn lên cây thì quả nhiên thấy một con chim lớn đang ăn khế. Chim mới ăn vài quả, hai vợ chồng đã tru tréo lên: "Cả nhà chúng tôi trông vào có cây khế, bây giờ chim ăn tào ăn huyệt như thế thì chúng tôi còn trông cậy vào đâu!". Chim liền đáp: "ăn một quả, trả cục vàng. May túi ba gang, đem đi mà đựng"; rồi chim bay vụt đi. Hai vợ chồng người anh mừng quá, cuống quýt vái theo chim, rồi bàn nhau may túi, cãi cọ om sòm. Mới đầu, hai người định may thật nhiều túi, sau lại sợ chim không đưa đi, nên rút cục cũng chỉ may một cái túi như người em, nhưng may to gấp ba, mỗi chiều chín gang, thành một cái tay nải lớn. Sáng hôm sau, chim hạ cánh xuống sân trước túp lều tranh. Người anh đang ăn, thấy chim bay đến, bỏ cả ăn hấp tấp chạy ra, tay xách cái túi trèo tót lên lưng chim, còn người vợ vái lấy vái để chim thần. Chim cất cánh bay bổng lên mây xanh, qua núi qua biển cả, rồi cũng hạ cánh xuống cái đảo khi trước. Trên lưng chim bước xuống, người anh hoa cả mắt về những ánh ngũ sắc của kim cương và ngọc quý chiếu ra. Đến khi vào hang, người anh lại càng mê mẩn tâm thần, quên cả đói cả khát, cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy tay nải, lại buộc đầu ống quần và tay áo cho thật chặt rồi nhồi đầy cả hai tay áo và hai ống quần, đến nỗi nặng quá, chàng ta cố kéo lê từng bước mà vẫn chưa ra được khỏi hang. Chim đợi lâu quá, chốc chốc lại kêu lên vài tiếng vang cả đảo, thúc giục anh chàng ra về. Mãi gần chiều, anh ta mới kéo được cái tay nải đầy vàng và kim cương đến chỗ chim đang đợi. Muốn cho khỏi rơi, anh ta đặt tay nải dưới cánh chim, rồi lấy dây thừng buộc chặt tay nải vào lưng chim và vào cổ mình. Chim vỗ cánh bay lên, nhưng vì nặng quá, mới bay lên khỏi mặt đất một ít lại sa xuống. Sau chim cố gắng đạp hai chân thật mạnh xuống đất, vươn cổ bay bổng lên. Anh chàng ngồi trên lưng chim khấp khởi mừng thầm, cho là chỉ trong giây phút mình sẽ về đến nhà, sẽ có nhà cao cửa rộng, vườn ruộng khắp nơi, tiêu pha hết đời thật hoang toàng cũng không hết của. Lúc ấy, chim đã bay trên biển cả. Trời trở gió, những con sóng xám cất cao lên bằng mấy nóc nhà. Chim bay ngược gió rất là nhọc mệt, cổ gập hẳn xuống, hai cánh mỗi lúc một yếu dần. Túi vàng lớn thốt nhiên bị gió hất mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi hai cánh, đâm bổ từ lưng trời xuống biển. Chỉ trong chớp mắt, cái túi lớn và những ống quần, tay áo chứa đầy châu báu dìm người anh xuống đáy biển. Còn chim chỉ bị ướt lông cánh một lúc, rồi lại vùng lên khỏi mặt nước, bay trở lại núi rừng. Giải thích chữ “Đan” như cái chuông và cái lò lửa. Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư. Chữ “Đan” Chu Dịch Tam đồng khế, san định Ngụy Bá Dương, Nxb Thời đại, 2010 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg “Tính” tức là bản tính vốn có của con người, nó là trạng thái tinh thần luôn biến động một cách phức tạp, là nguyên thần cho nên là dương, còn mệnh là trạng thái cơ thể phức tạp là nguyên “tinh”, còn nguyên “khí” chính là dòng chảy năng lượng sống trong cơ thể hữu hình lẫn vô hình, cho nên là âm so với nguyên thần. Trừ hai mạch Nhâm Đốc ra, mạch Hoàng trong đan đạo cũng vô cùng quan trọng, là đại mạch của con người, chỉ có khí Tiên thiên vận hành bên trong nó, như vậy tại mỗi luân xa 2-6 kết nối tới Nhâm Đốc, khí Tiên thiên biến chuyển thành khí Hậu thiên tương hợp với hệ mạch toàn bộ cơ thể. Mạch Hoàng tương đương mạch Trung trong Mật giáo (trích Chu Dịch Tam đồng khế, san định Ngụy Bá Dương, Nxb Thời đại, 2010) Công trình tu luyện thường được tóm tắt lại như sau: - Gạn đục khơi trong tâm hồn. - Thu thần, phát huệ. - Sống phối hợp với Thượng đế với Tuyệt đối. - Vì Đạo hay Cốc thần trường sinh bất tử, nên tìm Đạo, tìm Cốc thần tức là đi tìm thuốc trường sinh bất tử. - Mà dược liệu để luyện thuốc trường sinh chẳng ở đâu xa, nó đã ở ngay trong lòng con người. Lò bát quái luyện đan cũng chẳng phải tốn tiền xây cất, vì đó chính là xác thân con người. - Dược liệu là Tâm Thần, là Lòng Đạo với lòng người. - Lửa để luyện đan tức chí khí, là sự hăng say để thực hiện mục tiêu. - Đan thành là khi lòng con người và lòng Đạo kết thành một khối. Đó chính là khi lòng con người đã trở nên khiết tịnh, cao minh linh diệu, viên mãn, khinh phiêu. Nhan Thành Tử Du nói với Đông Quách Tử Kỳ: “Từ khi tôi theo học ngài, năm thứ nhất tôi trở nên giản dị, tự nhiên; năm thứ hai, tôi trở nên dễ dạy; năm thứ ba tôi trở nên thông sáng; năm thứ tư, tôi coi tôi là ngoại thân chi vật; năm thứ năm, tôi tiến bộ thêm; năm thứ sáu, thần nhập vào tôi; năm thứ bảy, tôi thành thần; năm thứ tám, tôi không biết tôi còn sống hay đã chết; năm thứ chín tôi đạt được điều Huyền nhiệm cao diệu.”. Một đoạn khác còn mô tả rõ ràng hơn: “Sau ba ngày (Bốc Lương Ỷ) có thể tách rời khỏi thiên hạ. Tôi tiếp tục quan sát: Sau bảy ngày, ông có thể tách rời khỏi cảnh vật. Tôi tiếp tục quan sát, sau chín ngày ông có thể tách khỏi cuộc phù sinh của ông. Khi đã thoát cảnh phù sinh rồi, ông thấy sáng láng như ánh bình minh. Khi đã thấy sáng láng như ánh bình minh rồi, ông liền nhìn thấy Đạo. Thấy Đạo rồi, ông vượt trên thời gian, không còn thấy cổ kim, ông vào cảnh giới bất sinh bất tử.” (tham khảo và trích một phần từ cuốn Đạo Đức Kinh - Khảo luận và bình dịch, tác giả Nguyễn Văn Thọ).Tiểu thiên địa Tư liệu của đạo Cao Đài, Việt NamTu chân nội lý đồTrích Đạo gia khí công file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Giải thích Tiều thiên địa: Ngũ hành sơn: núi Ngũ Hành tượng trưng cho ngũ tạng. Bạch ngưu: tượng trưng cho trọc tinh, lòng ham dục. Cầu Nại Hà: chỗ tiếp giáp đầu dưới của mạch Nhâm và mạch Đốc. 1- Thiên môn: luân xa đỉnh đầu, Hà đào thành, Huyền quang khiếu,... 2- Bát bửu trì: bát công đức thủy, hay Bát quái, tám lỗ khiếu. 3- Khảm Ly Ký Tế: nước của thận hay nguyên tinh đã hóa khí và lửa của tâm hay nguyên thần giao hòa tại đây, là địa điểm tinh - khí - thần tụ hội. Nguyên tinh trong cơ thể thuộc âm, nguyên thần thuộc dương, âm dương tương hợp sinh ra hồn phách, sau đó hợp nhất sinh thể, đầy đủ sinh mệnh. Hồn là dương, Ly, là Nhật, chủ động, cương cường, mãnh liệt như sức mạnh của hổ trắng. Phách là âm, là Khảm, là Nguyệt, chủ tĩnh, mềm dẻo, bền bỉ như sức mạnh tiềm ẩn của Rồng xanh. Hổ ở dưới có dương khí bay lên vượt qua các ải quan biến thành Kỳ Lân thổi ra lửa, Long ở trên nổi gió vượt mây (Long ngâm Hổ tiếu) như trong lò kim đơn, khí âm lên, khí dương xuống thì trong Đỉnh hồn trời phách đất lưu luyến, lúc này Thanh long cùng Kỳ Lân hòa quyện lẫn nhau, hay còn ví như Ngọc thố và Kim ô giữ nhau. Hỏa theo dưới rốn phát ra ở Đỉnh, Thủy từ Lư bay ra cùng hòa quyện, Thủy Hỏa đều chẳng rời nhau biến hóa ở giây phút gọi là Thủy Hỏa Ký Tế mà đạo Tiên gọi là đại Đỉnh Lư. Kết cục, tinh khí thần hợp nhất thành hình trái cầu, được Kỳ Lân tung hứng bay xuyên qua cổng Thiên môn hòa nhập vào Đại vũ trụ, công phu tu luyện đã thành, tạo ra kim đan bất hoại, cứng như kim cương hay gọi là Ngọc viên giác - Mani châu. 4- Thất tinh đài: nơi ngọc Mani châu xuất hiện hay đỉnh đầu, nơi xuất hiện hoa sen 1000 cánh khi đả thông luân xa số 7. 5- Thiên cốc cung: nơi Hồn cư ngụ, sau khi khai mở được Thiên môn. 6- Bạch hổ (hổ trắng) và Thanh long (rồng xanh): tượng trưng cho Khí và Thần. Thanh long là khí âm trong Đỉnh, là căn tính, là thần, là hỏa gọi là Diên hống. Còn Bạch hổ là khí dương trong Lư, là tinh, thuộc thủy gọi là Chân hống. 7- Ngọc chẩm quan: luân xa, một trong Tam quan. Là cửa ải ở trên, nếu đi từ đó lên trên sẽ đến Nê hoàn cung, hoàn thành việc thông suốt hai mạch Nhâm và Đốc, tạo thành sự tuần hoàn liên tục cho hai mạch Nhâm và Đốc. Ở cơ thể là chỗ xương chẩm nổi gồ lên. 8- Hư vô huyệt lý: chỉ Đệ tam nhãn (tuệ nhãn). 9- Chuông Linh sơn hơi tỏa tâm viên: tượng trưng hơi thở nhẹ nhàng, sâu, dài ngân như tiếng chuông, để cầm chân cột chặt con vượn Tâm (tâm viên), ý nói định được Tâm. Tâm thần trong đan đạo được ví như sao Bắc Cực (tức Bắc Thần thuộc chòm sao Tiểu Hùng Tinh) như là thiên đế, còn cái cán của sao Bắc Đẩu thất tinh (tức chòm sao Đại Hùng Tinh) giống như tinh thận (ý mã) là vị thần tướng vậy. 10- Long tùng Hỏa ký xuất: Rồng dựa lửa đi lên, ý nói Hỏa của tạng Tâm. 11- Trống Ðại Hùng gom thâu Ý mã: chỉ 2 lỗ tai, khi bịt kín, thì kêu lùng bùng như tiếng trống, để thâu nhiếp con ngựa Ý, có nghĩa tâm thần khống chế được nguyên tinh (Ý mã) vận hành theo chu kỳ, được điều chỉnh và phân bố hợp lý không bị gián đoạn. 12- Tháp Linh sơn: tháp cao 12 tầng, tượng trưng 12 tầng Trời (Thập nhị Trùng lâu, Thập nhị trùng Thiên). 13- Hồng chung sơ khấu bảo kệ cao âm: có nghĩa là hơi thở nơi lỗ mũi càng nhẹ, càng thông, bộ đầu càng thấy lâng lâng tựa tiếng chuông ngân dài cao vút, âm vang vào hư không. Hồng chung được treo trên tầng thứ 12 trên đỉnh Linh sơn tháp. 14- Cầu Thiên Hà: chỗ phân giải mọi luồng điển nơi bản thể. 15- Tâm Bào lạc: Tâm thường gọi là tim, quả tim là nội tạng trong ngũ tạng của Đông y, tâm bào lạc là màng bọc ngoài của tim, ta thường gọi là màng tim. Tâm là chức vụ quân chủ, chủ về thần minh, tâm là chủ tể hoạt động sinh mệnh của cơ thể con người, nó đứng hàng đầu của các tạng phủ. Tinh thần, ý thức, tư duy đều quy vào công năng của tâm cho nên tâm mới được gọi là chức vụ quân chủ, để nói lên tính chất quan trọng của nó “Tâm là đại chủ của lục phủ ngũ tạng, là nơi cư trú của thần minh”. Tâm tàng thần, là nguồn gốc của sinh mệnh nhưng cũng là nơi biến hóa của thần. Tâm thông qua tác dụng của thần để chỉ đạo mọi hoạt động của ngũ tạng lục phủ. 16- Giáp tích quan: luân xa, một trong Tam quan. (Giáp tích quan): là cửa ải con lăn (Lộc lô) là cửa ải thứ hai trong luyện công hòa hợp âm dương. “Lộc lô” nghĩa là con lăn, ở đây ngụ ý nâng đưa lên trên. 17- Trung điền bát quái lư: luân xa, lò Bát quái, còn được gọi là thánh đài. 18- Mệnh môn quan: luân xa, một trong Tam quan. 19- Nam phái...: “Địch trúc hoán qui thôn ngọc chi” (Gõ ống tre gọi con rùa về), có nghĩa là hoàn tinh bổ não và tuyệt dục (sát Bạch hổ, Quy túc). 20- Vỹ Lư: luân xa hỏa hầu, hay hỏa xà Kundalini. là cửa ải thông sang nhau giữa hai mạch Nhâm và Đốc. Ở thân thể là chổ đốt xương cụt hay vị trí huyệt Trường cường, cũng là nơi giao hội phần âm của mạch Nhâm với phần dương của mạch Đốc. 21- Hạc Quy đồng hội thượng: Hạc tượng trưng cho điển lửa Tâm, Quy là điển nước của Thận cùng tương hội. 22- Nam Hải: bọng đái. 23- Chỗ 2 mạch Xung và mạch Ðới gặp nhau, nằm phía trên biển Nam Hải. 24- Linh cốc: luân xa, nơi cư ngụ của Vía. 25- Bạch hạc đồng tử: giữ Bạch ngưu canh điền,tượng trưng cho 2 khí âm dương và chạm nhau bốc cháy tại rốn, phần thanh nhẹ biến thành hơi bay bổng lên, tạo thành thánh thai xá lợi, phần nặng trược cặn bã đọng lại thành tinh, kích thích dục tính tạo ra phàm thai. 26- Song lâm sơn: là 2 khu rừng cây, tượng trưng cho 2 lớp màng mỡ bao bọc Ngũ tạng. 27- Ứng cốc giáng cung: Luân xa, nơi cư ngụ của Hồn. 28- Nữ phái…: “Cổ cầm chiêu phụng ấp đan khuê” (gảy đàn kìm gọi chim phượng hoàng bay về), có nghĩa là hoàn tinh bổ não và chấm dứt kinh nguyệt (Trảm Xích long). 29- Bạch hổ: tượng trưng thanh tinh, sau khi được tôi luyện, hóa thành khí xung lên bộ đầu. Quy Xà đồng thể: nối kết hai mạch tại huyệt Hội âm. * Mạch Nhâm và mạch Đốc tương ứng là hai con rồng vàng, hai con rồng vàng này chầu vào viên ngọc mani châu gọi là “Lương Long minh châu” - đây là hình tượng điêu khắc trên mái chính điện của các ngôi chùa, đạo quán. Trong Tu chân nội lý đồ một số bộ phận được lý giải như sau (trích từ cuốn Hoàng đế nội kinh tố vấn, tác giả Đào Tuấn Hiệp, Nxb Hà Nội, 2008): Thượng đan điền: trong đồ hình là Nê hoàn cung, Thăng dương phủ, Hỗn luân đỉnh, Linh đài… trên cơ thể còn nằm ở huyệt Bách hội, hay ở khoảng giữa hai lông mày và trán, nó được coi là nơi: gốc thiêng của trời đất, tổ của các khiếu, gốc của khí, là cửa cực quý để nhập đạo. Trung đan điền: là “ruộng Tâm” ở dưới Ngưu Lang. Ở cơ thể là vị trí huyệt Đản trung, từ Thừa tương xuống dưới 12 tầng lầu (chỉ khí quản) đến Hoàng đình (chỉ các khoang trống trong cơ thể, hoặc ở dưới Tâm…), lấy Ngưu Lang đại biểu cho tâm dương; trong đó Can, Đởm, Tỳ đều có chức năng riêng, tất cả cùng cày tên thửa ruộng Tâm (Tâm điền). Hạ đan điền: còn gọi là chính đan điền, vị trí trong hình vẽ là ở chỗ Tiên thiên bát quái; trong hình vẽ có thể hiện bốn hình thái cực âm dương, đại biểu cho chân nguyên của tiên thiên hòa lẫn với bốn cái âm dương mà thành, phát ra ánh hào quang. Ở thân thể là chỗ vị trí ở dưới rốn, nó còn được gọi là khí hải hay nơi tàng mệnh. Bánh xe âm dương huyền diệu (Âm dương huyền đạp xa): Người xưa thường nói “Bắc thủy Nam điều” hay còn gọi là “dẫn Khảm thủy chảy ngược”, chỉ có sự vận hành không ngừng nghỉ của bánh xe âm dương thì Khảm thủy mới liên tục chảy trong đường cốt tủy (tủy cột sống), mà đi qua được 3 cửa ải là Vĩ lư, Giáp cốt, Ngọc chẩm và Cốc hải. tới lúc đó chỉ còn giữ tinh luyện khí, thanh trừ phàm cốc, lắng nước đầm sâu, khiến chất lắng đọng hết xuống dưới, cuối cùng suối Cam tuyền mới xuất hiện ở đỉnh Nam sơn (đỉnh núi Linh Sơn, linh tính ẩn chứa ở đó). Hoàn thành con đường dẫn Khảm thủy đi ngược trong cột sống ở thân thể. Trâu sắt cày đất gieo tiền vàng (Thiết ngưu canh địa chủng kim tiền): ẩn dụ sự tu luyện ở Hạ đan điền. Tác dụng của Hạ đan điền chính là tam hợp “tinh, khí, thần”, dưới chân người nông dân đang cầm roi có một lò lửa bằng sắt, bốc hơi ngùn ngụt. Ý nói tam hợp cần tu giữ trong hỏa hầu ờ lò Đan điền, nếu không rất khó thành công phu. Biểu tượng này mang ý nghĩa phải luyện tập gian nan, vất vả mới thu hoạch được kết quả tốt đẹp. Chức nữ quay tơ (Chức nữ vận chuyển): Hình vẽ có một mảnh vườn cây ăn quả, có người con gái Chức Nữ đang ngồi bên cột gỗ với bánh xe quay, hình vẽ thể hiện cho trạng thái luyện tập và chuyển hóa và cất giữ tinh khí ở Trung đan điền. Cái huyền diệu ở trung cung Thổ, có đặc tính của Khôn, đức của Khôn dày dặn, có công phu thuận nuôi dưỡng, cho nên lấy người con gái làm đại biểu (nam Càn nữ Khôn). Cái công tĩnh dưỡng thu tàng, trước hết ở thiên tâm ý tưởng phối hợp, lại lấy Ngưu Lang làm cầu, dưới chỉ trung cung, Chức Nữ vận chuyển, chuyển hóa bồi dưỡng, đại biểu cho sự phối hợp lẫn nhau giữa tâm và ý. Nhi đồng khắc đá giữ xâu chuỗi (Khắc thạch nhi đồng bá quán xuyên): “Điều tâm là con đường tu luyện bên trong, Tâm là chủ của thân thể, thống lãnh tinh, khí, thần “Tâm chi sở hướng, tinh khí thần tức thủy chi” nghĩa là” Nếu hướng được tâm, thì tinh khí thần cũng thuận theo. Như trong suy tưởng các sự vật, tinh trong thân thể cũng cảm thụ theo sự vật mà sinh ra “tinh kết”, nếu biết giữ hình bóng của nó, giống như chụp ảnh quang học, do ánh sáng mà tạo thành các hình ảnh, các hình ảnh lại được lưu trữ trong bức ảnh. “Tinh có cảm thì thần ứng theo, tinh cảm và thần ứng đều được cảm thụ ở tâm”. Trong Nội kinh đồ hình ảnh Nhi đồng đển ẩn dụ cho tâm tính người ta. Ngoài ra, người xưa ghi chép chú trọng ở sự tình, đa phần dung các bản khắc đá để ghi, cho nên các di tích văn hóa còn lại thường ở các bản khắc đá. Bởi vậy, Nội kinh đồ dung hình ảnh bản khắc đá để ẩn dụ cho sự ghi nhớ, ký ức của con người. Trong hình vẽ vị trí của bản khắc đá, đứa trẻ đứng là “Giáng cung” còn gọi là tâm cung, khoảng giữa hai đầu vú, là then chốt của khí cơ, tức là Trung đan điền), Các hòn đá xâu chuỗi lại thành chòm sao Bắc Đẩu, đó cũng ẩn dụ là “nhân tâm”xâu chuỗi với “thiên tâm”. Hồ tăng mắt biếc tay đẩy trời (Bích nhãn Hồ tăng thủ thác thiên): Tu tính cần phối hợp với luyện thần, thần là linh tính trong vận chuyển, cho nên nói “hồn vận chuyển là thần” mà luyện thần quan trọng ở sự ngưng, hay còn nói “Tâm định phản thần, thần ngưng kiến tính”. Trong hình vẽ một vị tăng nhân tuổi nhỏ quay lưng ra đằng trước, ngũ quan đều hướng lên trời, hai tay giơ lên, trong như muốn kéo trời về phía mình, như người tiên đang luyện thần. Tu chân lấy linh tính là căn bản của người, sở dĩ luyện thần ngược lại với tính giống như vị hồ tăng tu Phật: đã biết cái gốc của nhân tính ở thiên, cho nên lấy cái “không vô” của thiên để làm đạo luyện tính. Bởi vậy trong hình vẽ ông lão đại diện cho tính, cho nên vị Hồ tăng mới có tư thế giơ hai tay lên trời, chính là ý kéo giữ thiên tính. Lại do hai mắt hướng lên nhìn trời, nên trong mắt phản chiếu màu da trời xanh biếc, bởi thế mới gọi là vị “Hồ tăng mắt biếc tay kéo trời”. Hình vẽ này nhằm thể hiện cho quá trình luyện thần phản tính. Áp dụng những khẩu quyết tập luyện thở theo Đại Thừa Cửu Chuyển của các tiên gia theo đồ hình Tu Chân Nội Lý Đồ. Cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt, hít thở bằng mũi, dùng ý theo dõi hơi thở tự nhiên hòa hoãn. Ngoài những khẩu quyết tập thở để luyện mạng phải cùng lúc tu tính, kiên trì theo thời gian. Đại Thừa Cửu Chuyển phải cần tìm nơi thanh khí mà hòa hiệp âm dương, điều hòa đủ 8 lượng chân dương, 8 lượng chân âm làm thành 1 cân đại dược tại cung Ly (Đan Điền Thần, Huỳnh Đình Cung), rồi điều dưỡng đủ thập ngoạt (10 tháng) hoài thai, tam niên nhũ bộ (3 năm bú mớn, nuôi lớn) thì cái chân thần mới giao tiếp Tiên thiên mà nhập xuất Thiên Môn được. Tất nhiên, người học phải tuân thủ các quy định mà bậc chân sư đưa ra trong quá trình tập luyện. 1. Sơ nhất chuyển lo tròn luyện kỹXây đắp nền thần khí giao thôngDiệt trừ phiền não lòng khôngThất tình lục dục tận vong đan thànhTâm đạo phát thanh thanh tịnh tịnhDưỡng thánh thai chân bỉnh đạo huyềnNgày đêm cướp khí hạo nhiênHiệp hòa tính mạng, hống diên giao đầu 2. Sang nhị chuyển diệu mầu ứng lộBế ngũ quan tứ tổ quy giaÂm dương thăng giáng điều hòaHuân chưng đầm ấm tam hoa kết hoànKhai cửu khiếu kim đan phanh luyệnVận ngũ hành lưu chuyển Càn KhônAn nhiên dưỡng dục chân hồnLàm cho cứng cáp lớn khôn diệu huyền 3. Đến tam chuyển Hậu thiên ngưng giángNhất bộ thành, ngọc bảng đề danhCông phu khử trược lưu thanhLinh đan một phẩm trường sinh muôn đời. 4. Qua tứ chuyển cơ trời phát lộThoát ngoài vòng tứ khổ trần aiGom vào tư tưởng trong ngoàiLuyện phanh trong sạch, thánh thai nhẹ nhàng 5. Ngũ chuyển đạo thông toàn cơ nhiệmNgồi định thần tìm kiếm căn nguyênXuất thần lên cảnh thần tiênHọc thêm tâm pháp bí truyền cao siêu 6. Lần lục chuyển tam diêu bất độngTâm vô vi trống lỗng căn cơBụi trần không thể đóng dơLinh đan hai phẩm giật cờ thánh tiên 7. Thất chuyển pháp hạo nhiên chi khíLuyện chân thần quy vị hưởng anLinh sơn nở búp sen vàngCởi rồi bẩy thể nhẹ nhàng biết bao 8. Bát chuyển đức thanh cao thấm nhuậnĐến bậc này thì chứng kim tiênKhông không không hậu không tiềnKhông lo không nghĩ không phiền não aiLửa cung Ly nấu vàng cung KhảmLọc âm dương hai tám thành cânHồn còn nương náu xác thânNhưng không dính líu bụi trần vào thân 9. Cửu chuyển đắc Lôi Âm an hưởngMặc vui chơi bốn hướng ba nhàRượu cờ vui thú sen tòaĐào tiên chung cuộc điều hòa cảnh khôngPháp Tiên, Phật thần thông vô lượngỨng hóa linh cao thượng toàn năngQúy thay cảnh báu chi bằng ?Nghêu ngao khiển hứng gió trăng khó lườngPháp Cửu chuyển là nền thanh khiếtThoát luân hồi đoạn diệt oan khiênCòn chi nghiệp qủa nối chuyềnTâm Không, đắc Phật thành tiên tại trần. * (7 thể: 1. thân xác, 2. phách, 3. vía, 4. hạ trí, 5. thượng trí, 6. kim thân, 7. tiên thể). *Tu chân nội lý đồ và Đại thừa cửu chuyển dùng tham khảo, muốn tu luyện cần phải có các bậc chân sư. Trong Nhị Thập Bát Tú có chòm sao Hư, Nguy nằm ở phương Bắc “Hàm nguyên Hư Ngụy, bá tính vu Tý” (Hư Ngụy ngậm giữ, giờ Tý lan truyền) là chỉ kim Đẩu chỉ về phương Bắc, ý chỉ tiết Đông Chí. Cho nên nói, địa đạo tùy theo sự xoay chuyển của của thiên đạo mà bốn mùa thay thế nhau, nguyên tinh ra vào giờ Tý Đông Chí. Tương ứng trong công phu luyện đan đạo, trong cơ thể con người cũng có huyệt Hư nguy, chính là huyệt Hội âm, là bí mật xưa nay các đan gia không truyền ra ngoài. Vào giờ Tý (Thìn) mỗi ngày thì huyệt này sẽ có cảm giác, là lúc thời cơ tốt để điều chế đan dược. Càn Khôn tương giao là khởi đầu thai nghén sinh mệnh giống như “Quy Xà đồng thể”, Quy là người nữ, âm còn Xà là dương, người nam, vạn vật cũng vì thế mà sinh sôi, phát triển không ngừng. Hạt giống sinh mệnh được thai nghén trong quẻ Khôn. Cùng với sự sinh trưởng của bào thai, dần dần sinh ra tứ chi, ngũ tạng và xương cốt, qua gần mười tháng thai nghén mới có thể hạ sinh. Khi tu luyện nên dùng hiệu pháp này, khiến cho bản thân rơi vào trạng thái không lo lắng, muộn phiền, tâm hồn trong sáng như trẻ thơ, giao toàn bộ họat động của cơ thể cho nguyên thần, giống như đứa trẻ lúc mới sinh thân hình màu đỏ nhạt, cho nên cũng được gọi là Xích Tử, xương yếu thịt mềm nhưng sức sống tràn đầy. Trong luyện đan, khi Càn Khôn tương hợp, tinh đủ thì hóa khí, khí đủ hóa thần, thần đủ hóa hư là cuối cùng luyện thành tiên đan. “Cửu hoàn thất phản, bát quy lục cư” được các đan gia lý giải là cửu Kim, thất Hỏa, bát Mộc cuối cùng đều quy về lục Thủy. Để đạt được thông hai mạch Nhâm Đốc vận chuyển Hà xa như bánh xe quay nước được liên tục (Tiên gia gọi là “Thối âm phủ”, “Tấn dương hỏa”), ta gọi là vận Tiểu Chu Thiên, để thông khí qua Nhâm Đốc phải vượt qua các trở ngại ở hai mạch trên nếu không sẽ bị “Tẩu hỏa nhập ma”, bao gồm 3 cung ở mạch Nhâm: Nê Hoàn Cung, Giáng Cung hay Huỳnh đình cung và Khí huyệt cung và 3 ải quan (cổng Tam quan cổ truyền cũng mang ý nghĩa lịch sử này): Vĩ lư quan, Giáp tích quan và Phong phủ quan ở mạch Đốc. Ngoài ra trên đường khí phía trước mạch Nhâm còn có huyệt Hội Yết châm cứu gọi là Thiên Đột, Đạo gọi là Trùng lâu. Muốn thông Trùng lâu phải nối Thượng kiều (cầu trên, là cuốn lưỡi ngậm miệng nối Nhâm Đốc cho nước miếng trào ra rồi nuốt). Ải đầu luyện tinh hóa khí, ải giữa luyện khí hóa thần và ải cuối luyện thần hoàn hư. Khí muốn qua được ải Vĩ Lư thì phải nối Hạ Kiều (cầu dưới) khi khí đi qua. Ý dẫn khí quen đường biết nối cầu đúng lúc không nhanh, không chậm, tập thành thói quen, đến khi Thần, Khí tụ ở Đan Điền Thần đến mức độ cực đại tự nhiên phát động thì xuống chân khí huyệt, hay khí huyệt cung thì nó sang ngay ải Vĩ Lư mà không bị thoát ra ngoài thận (bộ phận sinh dục), Khí qua ải Vĩ Lư mà đến ải Giáp Tích còn khó hơn, vì không biết thông đường đèo mệnh môn. Huyệt Mệnh Môn nơi ngang thắt lưng bị cong, hẹp khí khó đi qua. Khi tập luyện ta cũng phải đi qua mà thông nó chứ không cho Ý và Khí đi nhảy mà bỏ quên nó. Khi Khí vào quan Phong Phủ lên não bộ vào Nê Hoàn cung mà tích tụ thành khí ở đó nhiều, không có lối thoát làm tác hại bộ não và cũng không xuất thần qua Thiên Môn được nên cũng rèn luyện cho thông Thiên Môn. Ở phương Đông, các tín đồ đạo Phật và đạo Hindu tin rằng cơ thể người có bảy trung tâm năng lượng, được gọi là luân xa(Chakra - tiếng Phạn), nghĩa là bánh xe hay vòng tròn xoay quanh trục của nó, là những trung tâm thu và phát năng lượng. Các luân xa chi phối tinh thần và thể chất của con người. Chúng được kết nối thành một đường thẳng từ xương cụt lên đến đỉnh đầu, mỗi một luân xa chịu trách nhiệm một lĩnh vực đời sống và được liên hệ với các màu sắc khác nhau. Luân xa chính của các cơ thể có ba chức năng chủ yếu sau đây: tiếp sinh khí cho từng cơ thể, kể cả thân vật lý; tạo ra sự phát triển các diện mạo khác nhau của ý thức về bản thân; trao đổi năng lượng giữa các cơ thể. Năng lượng được truyền từ cơ thể này sang cơ thể khác liền kề qua những khe hành lang ở đỉnh luân xa. Các hành lang này ở số đông người bị đóng, chúng thường được khai mở do bẩm sinh hoặc kết quả của việc thanh khiết hóa tâm linh (trích Những bàn tay ánh sáng, tác giả Barbara Ann Brennan, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006). Trong Yoga của Ấn Ðộ giáo nói chung có bốn loại Karma Yoga, Bhakti Yoga, Jnana Yoga và Raja Yoga. Yoga có nghĩa là trở về hợp nhất với một “đối tượng”. Trong Ấn Giáo, hành giả Yogi tìm sự hợp nhất với Brahma (Phạm thiên) hay Thượng đế. Về phương diện sinh lý học, Yoga đã hết sức chú trọng đến: - Xương sống, đến tủy xương sống, nhất là đến đường kinh chạy qua tủy xương sống (Sudhuma Nadi). - Đường kinh chạy qua tuỷ xương sống được gọi là Brahma nadi - Con đường dẫn tới Tuyệt Đối Thể. - Cuối xương sống (huyệt Vĩ Lư) được gọi là Cánh cửa của Brahma. - Chung quanh tủy sống có hai đường thần kinh Âm Dương, Ida (Dương) và Pindala (Âm) quấn quanh. - Đường thần kinh giữa tủy sống lên cho tới luân xa Sahasrara (Não thất ba - Third Ventricle). Sahasrara, hay bông hoa sen nghìn cánh, chính là nơi mà đạo sĩ Yogi sống kết hợp với Thượng Đế. - Thóp đỉnh đầu được gọi là Thượng Đế huyệt (Trou de Brahman, Brahma’s cave - Brahmarandhra).Từ xương cùng cuối xương sống, lên tới Não thất ba, có tất cả bảy luân xa chính. Luân xa là những điểm của chân khí qui tụ về để vào tủy xương sống, chuyển vận khí tới các mạng lưới bộ phận trên cơ thể. Hành giả Yogi, phải biết cách vận chân khí qua tủy xương sống, để đưa lên đỉnh não, gọi là đánh thức con hỏa xà Kundalini. Đạo giáo gọi là đả thông hai mạch Nhâm Đốc. Có bảy luân xa chính nằm dọc đường kinh trung ương Sushumna từ dưới xương cùng lên tới đỉnh đầu. Luân xa dọc xương sống Trích Tinh hoa các Đạo giáo, tác giả Nguyễn Văn Thọ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg 1. Muladhara có hình hoa sen 4 cánh, ở cuối xương sống, ứng với huyệt Vĩ Lư. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. 2. Svadhistana Hình bông sen 6 cánh, giữa đốt xương cùng và thắt lưng, ứng với huyệt Khí Hải. 3. Manipura hình bông sen 10 cánh, ứng với huyệt Trung Uyển. 4. Anahata Hình sen 12 cánh, ứng với Huyệt Chiên Trung. 5. Visuddha Hình bông sen 16 cánh, ứng với huyệt Thiên Đột. 6. Ajna. Hình bông sen hai cánh, ứng với huyệt Ấn Đường (con mắt thứ ba). Thành tựu phép quán luân xa này, người hành giả Yogi tận trừ nghiệp quá khứ, trở thành người hoàn toàn giải thoát ngay trong đời hiện tại, nếu luyện thêm các pháp đặc biệt, sẽ đạt được tám phép thần thông. 7. Sahasrara Hình bông sen nghìn cánh, đó chính là Nê hoàn cung của Lão giáo, tương ứng huyệt Bách hội. Đó chính là nơi Trời và người kết hợp. Khi luồng hỏa hầu Kundalini chạy lên tới đây, hành giả Yogi nhập một với Thượng Ðế, trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn, đây là mục đích tối hậu của mọi hành giả yogi. Vị trí của bảy luân xa trước và sau Những bàn tay ánh sáng, tác giả Barbara Ann Brennan, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Chúng ta phối hợp bảy luân xa và dữ liệu lịch sử, liên kết với bảng tổng hợp luân xa trong cuốn Những bàn tay ánh sáng: Các luân xa chính và vùng thân thể được chúng dinh dưỡng Luân xa Ngày / Hành tinh Huyệt vị Biểu tượng Số cuộn xoáy Tuyến nội tiết Vùng được nuôi dưỡng 7. Đỉnh đầu Chủ Nhật/ Mặt Trời Nê Hoàn Cung Hùng Vương I* 972 Tím-Trắng Tuyến tùng Não trên, mắt phải 6. Trán Thứ Hai/ Mặt Trăng Ấn Đường Hùng Vương II 96 Chàm Tuyến yên Não dưới, mắt trái, tai, mũi, hệ thần kinh 5. Họng Thứ Ba/ Sao Mộc Thiên Đột Hùng Vương III 16 Xanh Tuyến giáp Phế quản và cơ quan phát âm, phổi, ống tiêu hóa 4. Tim Thứ Tư/ Sao Hỏa Chiên Trung Hùng Vương IV 12 Lục Tuyến ức Tim, máu, dây X, hệ tuần hoàn 3. Đám rối thái dương Thứ Năm/ Sao Thổ Trung Uyển Hùng Vương V 10 Vàng Tuyến tụy Dạ dày, gan, túi mật thái dương, hệ thần kinh 2. Xương cùng Thứ Sáu/ Sao Kim Khí Hải Hùng Vương VI 6 Da cam Tuyến sinh dục Hệ sinh sản 1. Nền Thứ Bảy/ Sao Thủy Vĩ Lư Hùng Vương VII 4 Đỏ Thượng thận Cột sống, thận * Luân xa chính dọc trục xương sống tương ứng với các thế hệ vua Hùng thể hiện trong bộ tranh thờ Hành Say và Thánh Đạo Hưng Long của các dân tộc thiểu số miền Bắc, Việt Nam. Trong Anuttara-Yoga-Tantra của Mật Giáo Tây Tạng cũng nói nhiều về ba đường kinh chính (Sushumna, Ida, Pingala) và các luân xa, nhưng chỉ đề cập tới bốn thay vì bảy luân xa. Yoga cũng có quan hệ với Thiền Tông Phật giáo, các tư thế ngồi Thiền, cách điều tức, định thần của Yoga và Thiền Tông đều tương tự. Chữ Dhyana (tịnh lự) sau này được Phật Học Tự Điển dịch là Thiền Na, Thiền Định, Quán Tưởng, Toạ Thiền. Trên đây chỉ là sơ lược về bảy luân xa chính, trong cơ thể con người còn nhiều luân xa phụ khác ở các khớp tay và chân. Ngoài luân xa, con người còn có hào quang (aura) và bảy thể xác vi tế bao quanh thân tứ đại. Thực tế thí nghiệm về vầng hào quang của thảo mộc, nếu cơ thể sống là một ngọn lá tươi bị cắt bớt một phần ba phía trước, thì cái gì xảy ra dưới điện trường cao tầng? Người ta vẫn thấy nguyên cả ngọn lá cây! Dường như có hai ngọn lá đã chồng lên nhau, ngọn lá này bị cắt đứt đi thì vẫn còn thấy được ngọn lá kia nguyên vẹn (Phát triển phương pháp luận Đông y và châm cứu, tác giả Trương Thìn, Nxb Hội và Câu lạc bộ Y học dân tộc, Sở Y tế Tp HCM, 1985, trang 142).Cá vầng hào quang cơ thể:Tên gọi Mô tả bảy vầng cơ thể hào quang Cơ thể siêu thực Êtheric - Vầng cảm giác thể chất(1) Từ “Ête” được dùng để chỉ dạng năng lượng kề cận vật chất hữu hình. Cơ thể này gồm các vạch năng lượng rất bé, giống như một mạng các tia sáng lấp lánh như vạch màn hình vô tuyến. Nó có cấu trúc gắn liền với thân vật lý, bao gồm tất cả các bộ phận giải phẫu học và toàn thể các cơ quan. Cảm giác của người quan sát là cơ thể ête đóng vai trò cái khuôn năng lượng mà trên đó thể chất các mô của thân vật lý được hình thành và bám vào. Thực nghiệm đã chứng tỏ, cơ thể Ête được sinh ra trước thân vật lý. Qua cơ thể ête, người ta có thể thấy được tất cả các bộ phận của thân vật lý, nhưng chúng được tạo nên bằng ánh sáng xanh nhạt lấp lánh. Nếu chỉ tập trung nhìn vào cơ thể này thì có thể nhận ra nó tựa như một người nam hay nữ bằng những vạch ánh sáng xanh nhạt liên tục nhấp nháy. Các phần tử của cơ thể ête chuyển động không ngừng. Những tia sáng xanh nhạt chuyển dịch dọc theo các vạch năng lượng khắp thân vật lý. Cơ thể ête có màu sắc thay đổi từ xanh nhạt sang xám, nó vượt ra khỏi mặt da khoảng 0,64-5,08 cm và rung động 15-20 lần/phút. Trong thuyết tâm linh, cơ thể ête được gọi là Thể phách. Nó có hai nhiệm vụ chủ yếu là thường xuyên phân phát Sinh lực (prana) khắp thân vật lý và làm cầu nối giữa thân vật lý với cơ thể năng lượng thứ hai. Thể phách sẽ bị phân huỷ sau cái chết của thân vật lý.Cơ thể Emotion - Vầng cảm xúc (2) Đây là cơ thể có quan hệ chặt chẽ với cảm xúc tự nhiên của con người. Cơ thể này bám sát đường nét của thân vật lý, nhưng không sao chép rõ ràng như với cơ thể Ête. Nó hiện ra như một đám mây ở trạng thái lỏng liên tục chuyển động. Cơ thể này có màu thay đổi từ sáng chói đến xám xịt tùy theo trạng thái cảm xúc. Nó vượt ra quá mặt da 2,54-7,62cm. Trong thuyết tâm linh, cơ thể cảm xúc được gọi là Thể vía. Người ta gán cho nó 3 chức năng chủ yếu: nơi sinh ra cảm xúc, cầu nối giữa thể chất và tinh thần, công cụ độc lập về tư duy và hành động. Các cảm xúc phát sinh từ thể vía ở dạng năng lượng, chúng có thể là sợ hãi, căm ghét, giận dữ và bạo hành. Nếu một người bị đình trệ tại cơ thể cảm xúc thì ít có điều kiện để biến đổi năng lượng tiêu cực thành dạng tích cực tương ứng. Một phần thể vía và các cơ thể năng lượng sẽ được mô tả tiếp theo vẫn tiếp tục tồn tại sau cái chết của thân vật lý. Cơ thể Mental - Vầng tâm thần (3) Cơ thể này có quan hệ với các quá trình trí tuệ. Nó thường hiện ra như một khối sáng màu vàng chói lọi, bức xạ quanh đầu, vai và bao bọc toàn bộ thân vật lý. Nó lan rộng và rực rỡ hơn khi ai đó tập trung vào các quá trình tâm thần. Như trên đã nói, cơ thể tâm thần là một cơ thể năng lượng có cấu trúc. Nó chứa đựng cấu trúc các ý niệm của con người. Bằng thị giác đặc biệt có thể nhìn thấy các hình thái tư tưởng trong cơ thể này ở dạng những đốm sáng với hình thù thay đổi. Cơ thể tâm thần vượt qua cơ thể cảm xúc và ra quá mặt da khoảng 7,62-20,32 cm. Trong thuyết tâm linh, cơ thể tâm thần được gọi là Thể trí. Mối quan hệ giữa thể trí và bộ não con người được trung chuyển qua thể vía. Về cơ bản, những gì liên quan đến suy nghĩ và hoài nghi đều diễn ra ở thể này. Nếu được biến đổi thì suy nghĩ sẽ trở thành sáng tỏ trực tiếp (thấu suốt), còn hoài nghi sẽ trở thành tin cậy.Cơ thể Astral - Vầng tinh tú giao tiếp(4) Cơ thể tinh tú không có hình dạng nhất định, gồm các đám mây màu sặc sỡ hơn so với cơ thể cảm xúc. Đây là cơ thể có vai trò trung gian giữa ba cơ thể năng lượng đầu (liên quan đến thế giới thể chất) và ba cơ thể năng lượng sau nó (liên quan đến thế giới tâm linh). Cơ thể tinh tú kết hợp với luân xa 4 (luân xa tim) là nơi cải biến năng lượng từ thể chất qua tâm linh và ngược lại. Nó vượt ra quá mặt da 15,24-30,48cm. Trong thuyết tâm linh, cơ thể tinh tú được gọi là Thể tâm lý. Đây là thể có tiềm năng lớn và chứa nhiều bí ẩn về tâm lý. Các chất có chứa cồn như rượu và bia rất dễ tác động tiêu cực lên thể này. Phẩm chất tự nhiên của thể tâm lý là mơ mộng và tưởng tượng. Thể tâm lý ở động vật ít phát triển nên chúng hầu như không có ý niệm về quá khứ và tương lai. Nếu thể này được phát triển một cách phù hợp thì sẽ làm cho mơ mộng trở thành linh ảnh (thấy sự vật của thế giới năng lượng), còn tưởng tượng - trực cảm.Cơ thể Ête mẫu siêu thực - Vầng ước vọng thiêng liêng(5) Cơ thể này là hình thái mẫu âm bản cho cơ thể Ê gbte vốn là khuôn dạng của thân vật lý. Nói cách khác, cơ thể ête có nguồn gốc cấu trúc từ cơ thể ête mẫu. Bằng thị giác đặc biệt có thể nhìn thấy cơ thể này gồm những hình thái trên nền xanh thẫm như một sơ đồ kiến trúc âm bản. Cơ thể ête mẫu vượt ra quá mặt da khoảng 15,24-60,96cm, trông giống như hình trái xoan hơi thuôn. Trong thuyết tâm linh, cơ thể ête mẫu được gọi là Thể tâm linh. Từ thể này có thể thu được câu trả lời cho câu hỏi: Tôi là ai? và chấm dứt mọi vấn đề xung khắc nội tâm thường hiện hữu ở một cá nhân. Nó là thể đầu tiên mà tại đó con người cảm thấy niềm vui vô song. Một người khi làm chủ thể tâm linh sẽ loại bỏ được hoàn toàn vô thức, tức là sự nhận biết của cá nhân không bị đình trệ ngay cả trong giấc ngủ. Người đó chính là vị Phật, người Tỉnh Thức trong mọi thời khắc của đời sống. Cơ thể Cadestral - Vầng cảm xúc thiêng liêng hay Vầng thượng giới (6) Mọi cảm xúc tâm linh diễn ra tại cơ thể thượng giới. Nếu ai đó có luân xa 6 (luân xa thượng giới) và luân xa 5 (luân xa tim) được khai mở và liên kết với nhau thì tình yêu thương vô điều kiện sẽ tuôn chảy, sẽ cảm thấy bản thân và vũ trụ hoà nhập làm một. Dưới thị giác đặc biệt, cơ thể thượng giới hiện ra trong ánh sáng lung linh rất đẹp, có các tia màu vàng bạc và trắng sữa như mặt xà cừ. Hình thái của nó ít xác định hơn so với cơ thể ête mẫu, dường như nó là ánh sáng được bức xạ từ thân vật lý. Cơ thể thượng giới vượt ra quá mặt da khoảng 60,96-81,28cm. Trong thuyết tâm linh, cơ thể thượng giới được gọi là Thể vũ trụ. Qua thể này con người có thể cảm nhận chân lý vũ trụ - tính toàn bộ của sự tồn tại. Cơ thể Ktheric mẫu - Vầng tâm trí thiêng liêng hay Vầng nhân quả(7) Khi quan sát cơ thể này bằng thị giác đặc biệt sẽ thấy ánh sáng óng vàng lung linh rung động rất nhanh, giống như vô số sợi tơ. Nó có hình dạng quả trứng với một lớp “vỏ” dày khoảng 6,4-12,7mm. Tất cả các luân xa và các dạng thể chất đều hiện ra ở đây như được làm bằng ánh sáng óng vàng. Cơ thể này vượt ra quá mặt da khoảng 91,44-106,68cm tùy thuộc vào từng người. Cơ thể nhân quả cũng chứa dòng năng lượng chủ yếu lên xuống dọc theo cột sống, đó là nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho tất cả các cơ thể năng lượng. Các biểu hiện tâm thần thuộc thế giới tâm linh diễn ra ở cơ thể này. Sau khi làm chủ được thể tâm linh và thể vũ trụ, một vị Phật có thể đưa ý thức tiếp xúc với cơ thể này. Lý do để gán tên “nhân quả” cho nó là ở chỗ, phía trong lớp vỏ có tồn tại các dải năng lượng tiền kiếp đã được ghi nhận phù hợp với luật nhân quả. Trong thuyết tâm linh, cơ thể nhân quả được gọi là Thể Niết bàn. Người ta cho rằng, không thể dùng lời để mô tả trực tiếp được thể này. Từ “Niết bàn” ở đây gần với các nghĩa trống rỗng, chân không, phi tồn tại. Nếu con người đưa ý thức vào thể này thì sẽ chuyển từ sự cảm nhận tồn tại sang trạng thái hầu như phi tồn tại, rỗng không. * Mỗi vầng hào quang hiện ra khác nhau và có chức năng đặc thù cho mỗi vầng. Mỗi vầng hào quang kết hợp tương ứng với một luân xa: vầng thứ nhất kết hợp với luân xa 1, vầng thứ hai với luân xa 2, và Hệ thống bảy vầng cơ thể hào quang Những bàn tay ánh sáng, tác giả Barbara Ann Brennan, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Theo bà Brennan, ngoài thân vật lý con người còn có ít nhất 7 cơ thể năng lượng không nhìn thấy bởi mắt thường và tất cả chúng thâm nhập lẫn nhau trong một khoảng không gian vào cùng một thời điểm. Các cơ thể năng lượng được đánh số thứ tự theo mật độ vật chất giảm dần, trong đó cơ thể liền kề thân vật lý được đánh số 1. Việc quan sát bằng thị giác đặc biệt cho biết rằng, các cơ thể có số thứ tự lẻ (1, 3, 5, 7) đều có cấu trúc rõ ràng, trong khi các cơ thể có số thứ tự chẵn (2, 4, 6) lại gồm những chất tựa lỏng không có cấu trúc đặc thù. Mỗi cơ thể kế tiếp ít đậm đặc hơn và thâm nhập hoàn toàn vào tất cả các cơ thể trước nó, kể cả thân vật lý. Các cơ thể có số thứ tự lẻ chứa mọi hình thái mà thân vật lý có, kể cả nội tạng, mạch máu... và các hình thái bổ sung mà thân vật lý không có. Mỗi cơ thể hiện ra khác nhau và có chức năng đặc trưng. Mỗi cơ thể được kết hợp với một luân xa chính và một số luân xa khác. Trừ luân xa 1 và luân xa 7, mỗi luân xa chính còn lại là cặp cuộn xoáy năng lượng hình nón quay tròn với chóp đối diện nhau và hướng vào dòng năng lượng chủ yếu“ từ đỉnh đầu tới xương cụt, còn hai đáy nằm ở phía trước và phía sau, tiếp giáp với rìa của cơ thể tương ứng. Số thứ tự của mỗi luân xa chính được gán trùng với số thứ tự của cơ thể tương ứng. Như vậy, luân xa 1 ứng với cơ thể năng lượng thứ nhất, luân xa 2 ứng với cơ thể năng lượng thứ hai..., luân xa 7 ứng với cơ thể năng lượng thứ bảy. Hệ thống bảy vầng cơ thể hào quang file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Rìa ngoài cùng vầng hào quang số 7 giống cái vỏ trứng, nó có bề dày vào khoảng 0.25-0.5 inch. Phần ngoài cùng này rất chắc chắn và co giãn được, để chống thâm nhập và bảo vệ trường hào quang đúng như vỏ trứng bảo vệ gà con. Tất cả các luân xa và dạng thể chất hiện ra được làm bằng ánh sáng óng vàng ở mức này. Đây là mức bền vững nhất, co giãn nhất của trường hào quang. Ngoài 7 cơ thể năng lượng kể trên, bà Brennan còn nhìn thấy các cơ thể năng lượng thứ tám và thứ chín tương ứng ”Mức vũ trụ“. Mỗi cơ thể đó kết hợp tương ứng với luân xa 8 và luân xa 9 ở phía trên đầu. Chúng hiện ra trong suốt như pha lê và gồm những thành phần rung động rất tinh tế. Hai cơ thể đó có vẻ như theo khuôn mẫu chung và xen nhau giữa chất liệu (cơ thể thứ tám) hoặc hình thái (cơ thể thứ chín). Cơ thể thứ tám hiện ra ở dạng tựa chất lỏng, còn cơ thể thứ chín trông như một hình mẫu pha lê của mọi cái chứa trong những cơ thể năng lượng dưới nó. Theo quan sát của những người có thị giác đặc biệt thì ngoại trừ cơ thể Ête, một phần của các cơ thể năng lượng khác vẫn tiếp tục tồn tại và liên kết với nhau thành sinh thể năng lượng sau cái chết của thân vật lý. Điều này cho đến nay vẫn chưa được giới khoa học xác nhận. Đáng chú ý là tất cả các cơ thể của con người đều liên thông với một chiều thực tại nhất định. Mặc dù các nhà huyền môn không nói đến hệ thống các cơ thể năng lượng của con người, nhưng truyền thống của họ trên khắp thế giới qua 5.000 năm vẫn phù hợp với những quan sát mà các nhà khoa học bắt đầu tiến hành gần đây. Một trong những thách thức đặt ra khi mong muốn khảo sát hệ thống các cơ thể năng lượng của sinh vật nói chung và của con người nói riêng là các thiết bị kỹ thuật hiện đại chưa thể phát huy tác dụng. Xét đến cùng, hệ thống các cơ thể con người là một cỗ máy đa chiều thực tại với những giác quan có thể được khai mở để hoạt động tại bất kỳ bình diện vật chất nào. Điều này đã được nhiều người chứng nghiệm. Rõ ràng, tất cả các thiết bị kỹ thuật hiện nay sáng chế ra hầu như chỉ thích hợp cho chiều thực tại vật lý. Có lẽ đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bế tắc trong việc nghiên cứu thực nghiệm về thế giới tâm linh. Chúng ta hãy cùng xem bộ tranh thờ dân tộc Sán Chay Dẫn Hương lộ, miền Bắc Việt Nam. Bức tranh mô tả con đường linh hồn trải qua, với sự trình bày hệ thống thần linh Đạo giáo, nhưng bức tranh cũng chính là lưu giữ phương pháp tu luyện khí công của Đạo giáo. Thần linh trong bức tranh cũng là các vị Phật, Bồ Tát trong Phật giáo và chính là những vị tướng lĩnh và các vua Hùng, cũng như tổ tiên của các ngài. Dẫn Hương lộ Tranh do nghệ nhân Quế Lâm, Quảng Tây, Trung Quốc, vẽ, sưu tầm trong dân tộc Sán Chay (Cao Lan, Sán Chỉ). Huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgNhững chữ đề trên tranh (theo số thứ tự trên tranh đen trắng):A. Quảng Tây, Quế Lâm Phủ, cấp tổng “Dẫn Hương lộ” Lưu Đạo Kỳ giao giữ.B. Thụ lĩnh Dẫn Hương lộ, đệ tử Ninh Pháp Lệnh lưu hậu tử tôn vạn đại hương môn hưng vượng, đạo môn hiển quý… miên trường.1. Thầy Tào dâng sớ và cúng trước bàn thờ thần linh.2. Thần Thổ địa phù trợ tả hữu cho thầy Tào và cũng là vị thần linh gần gũi và nhận lời cầu khẩn của thầy Tào để chuyển lên các thần linh cấp trên.3. Hạ đan điền: huyệt đạo trên cơ thể của con người.4. Rùa - Rắn hợp hình: tượng trưng cho Bắc Phương Trấn Vũ còn gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ.5. Nhất vạn lý: một vạn dặm, hay vạn dặm đầu tiên.6. Tả lục tặc và hữu lục tặc: theo giáo lý của nhà Phật, như sau:a) Sáu nỗi khổ do giác quan của con người tiếp xúc với thế gian bên ngoài gây nên những ham muốn vật chất, là: - Thanh - âm thanh: mà trở thành kẻ thích nghe lời dịu ngọt. - Sắc - hình sắc: mà trở thành kẻ ham mê sắc đẹp. - Hương - mùi thơm: mà trở thành kẻ ham chuộng mùi thơm. - Vị - do lưỡi nếm: mà trở thành kẻ phàm ăn, tục uống. - Xúc - do bàn tay gây ra: mà trở thành kẻ thích làn da mịn màng. - Cảm - do trái tim rung động.B) Sáu trạng thái tâm hồn của con người làm cho con người không được hư tâm, thanh thản: Ái: yêu; ố: ghét; hỷ: vui; nộ: giận; sân: ngu dốt; si: si mê. Vượt được những tình cảm thường tình của tinh thần, thắng được ham muốn vật chất là diệt được dục vọng để vào cõi vô sắc giới.7. Đại lộ trình: con đường dẫn tới cõi Thanh hư vô cùng vô tận.8. Tứ trực Công tào.9. Tam giới phù lại: các viên quan coi việc phù chú ở tam giới: dục sắc giới, túc sắc giới và vô sắc giới.10. Đệ nhất dục sắc giới: thế giới chúng sinh còn hình sắc và nặng dục tính.11. Tả chân nhân: đạo hạnh đạt mức trên tiên nhân.12. Hữu chân nhân: đạo hạnh đạt trên mức tiên nhân.13. Dương xa: xe dê kéo.14. Ngưu xa: xe trâu kéo.15. Hạ nguyên Chu Tướng Quân (Chu Vũ): cai quản Hạ Nguyên, Thủy Quan.16. Nhị vạn lý: 2 vạn dặm hay vạn dặm thứ hai.17. Đệ nhị túc sắc giới: thế giới chúng sinh còn hình sắc nhưng không còn dục tính.18. Thập vương lâu: lầu của Thập Điệm Diêm Vương.19. Tả Ban và Hữu Ban.20. Phân lộ: nơi chia đôi Đại lộ trình.21. Tả liêm: thần Gió bên tả, hay có thể hiểu là thần bên màn tả.22. Hữu liêm: thần Gió bên hữu, hay có thể hiểu là thần bên màn hữu.23. Trung đan điền: huyệt đạo trên cơ thể con người.24. Di La cung: một trong chín tầng trời - Cửu thiên hay Cửu trùng.25. Thập chân cung: cung của 10 vị chân nhân.26. Trung Nguyên.27. Cát tướng Quân (Cát Ủng): cai quản Trung Nguyên, Địa Quan.28. Mã xa: xe ngựa kéo.29. Lộc xa: xe hưu kéo.30. Tam vạn lý: ba vạn dặm hay vạn dặm thứ ba.31. Tiếp chương từ lâu: lầu đón nhận chương tử, giấy tờ, sớ tấu.32. Thượng Nguyên.33. Đường Tướng Quân (Đường Hoàng) cai quản Thượng Nguyên, Thiên Quan. Đường Nghiêu34. Đệ tam vô sắc giới: chúng sinh không còn hình tướng, không còn dục vọng.35. Thập cực cung: cung của 10 vị thập cực chân nhân trong coi 10 phương hướng.36. Tứ đại nguyên soái: từ trái qua phải Quan, Triệu, Đặng, Mã.37. Lôi đình: Lôi đình đô ty.38. Phổ hóa.39. Thượng đan điền: huyệt đạo trên cơ thể con người.40. Nhật cung (bên tả), Nguyệt cung (bên hữu).41. Ngọc thố (con thỏ): thuộc mặt trăng - Nguyệt phủ.42. Ngọc yến (chim én): thuộc mặt trăng - Nguyệt phủ.43. Kim ngư (cá chép): thuộc mặt trời - Nhật cung.44. Kim ô (con quạ): thuộc mặt trời - Nhật cung.45. Bắc đẩu (bên hữu), Nam Tào (bên tả).46. Tả thừa chương: nơi tiếp nhận giấy tờ ở bên tả thuộc Nam đẩu. Đạo giáo cho rằng Nam Đẩu (Nam Tào) coi sổ sinh, cai quản Dương gian.47. Hữu thừa từ: nơi tiếp nhận giấy tờ ở bên hữu thuộc Bắc đẩu. Đạo giáo cho rằng Bắc Đẩu coi sổ tử, cai quản Thiên phủ.48. Thập nhị trùng lâu: khí quản (hầu lung) dẫn khí vào các cung cơ thể của con người còn gọi là “trùng đường” hay “trùng hoàn”.49. Thiên sư Trương Đạo Lăng.50. Lý Thiên Sư (Lý Tịnh).51. Thiên khu viện: nơi trông coi công việc ở cõi trời.52. Bắc phương bát thiên do Hắc Đế làm chủ (còn gọi là Huyền Đế).53. Tây phương bát thiên do Bạch Đế làm chủ. 54. Nam phương bát thiên do Xích Đế làm chủ. 55. Đông phương bát thiên do Thanh Đế làm chủ. 56. Hạc Minh Sơn: nơi Thiên sư Trương Đạo Lăng tu luyện. 57. Vũ Đăng Sơn: nơi Đảng Ma Thiên Tôn (Trấn Vũ) tu luyện. 58. Ngọc Thanh Cung của Nguyên Thủy Thiên Tôn (Thái Cực). 59. Thái Thanh Cung của Đạo Đức Thiên Tôn (nguyên lý Dương). 60. Thượng Thanh Cung của Cứu U Phả Độ Thiên Tôn (nguyên lý Âm).61. Thanh vi thiên (tầng trời thanh hư vi diệu): 1 trong 9 tầng trời.62. Vũ dư thiên (tầng trời đầy mưa để gột rửa tạo vật cho trong sạch): 1 trong 9 tầng trời.63. Thái thanh thiên (tầng trời cực trong sạch): 1 trong 9 tầng trời.64. Thánh chúa.65. Dương minh tinh: tượng trưng cõi sáng.66. Huyền minh tinh: tượng trưng cõi tối.67. Hư vô thanh cảnh: cõi hư vô thanh khiết.68. Bất dạ bất diệt (bị mất do bảo quản tranh): vô cùng, vô tận, nơi ánh sáng không bao giờ tắt. Như vậy, truyền thuyết Lão Tử - Chử Đồng Tử nằm trong bụng mẹ 81 năm ẩn ý là vòng vận khí Đại Chu Thiên của Đại Thừa Cửu Chuyển. Biểu tượng ngài là Ngưu Tinh hay sao Ngưu Lang.Tên con sông Cầu nơi có đình Thổ Hà với ý nghĩa tên con sông nối liền hai bờ tức là con sông Ngân Hà ngăn cách giữa Chức Nữ và Ngưu Lang. Thổ biểu tượng là con trâu, Hà cũng gọi là Giang nên đình Thổ Hà cũng gọi là đình Ngưu Giang. Trong đồ hình Tiểu Thiên Địa thì Chử Đồng Tử và Kim Dung chính là Rùa - Hạc ngậm hoa hồng “Hạc Quy đồng hội thượng” tức nối sông Thiên Hà bằng Thượng kiều. Ngày nay, đình thờ ngài tại vùng Đa Hòa cùng với nhị vị phu nhân. Ngài chính là “Ngưu giang” trong tiên tri của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ngưu giang hợp với Bảo giang, Ðại nhân chính vị, bốn phương một nhà. Kết quả các phương pháp tu luyện trong các đạo giáo giúp cho nguyên thần và nguyên khí hợp lại thành đan dược, có thể dùng mắt quan sát nội thể, trong nội thể xuất hiện nhiều nội cảnh, những nội cảnh này là hiệu nghiệm của tu luyện đan pháp. Ta có thể hiểu là xuất hồn và quan sát ngược vào trong cơ thể, tức dùng Tính thấy, tuyệt đối. Khi đạo thành đức đạt, tinh khí mạch Đốc trong mắt phản chiếu trạng thái vận hành, có thể thấy rõ được hình tượng xương cốt. Khí đạt toàn thân khi tu luyện có thể thấy được mối liên hợp của kinh lạc trong lục phủ ngũ tạng. Lư hương cổ Bảo tàng lịch sử Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Hành giả tu luyện đạt “Ngũ khí triều nguyên” tạo nên sức mạnh hợp nhất như hình ảnh con Kỳ Lân đứng trên đỉnh xông trầm. Hình tượng đình xông trầm là một trong năm pháp khí lư, vạc, chuông, trống, đỉnh của mọt nơi thờ tự của các ngôi đình, đền, chùa thời Hùng Vương. Võ trường Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Trong bức tranh trên, khi con Lân xuất hiện ở trung tâm thì “thiên hạ thái bình” nhưng trước đó nó phải “đấu trí” với bốn con voi ở phương. Con Lân ở trung tâm được hai người bảo vệ, một người phất cờ chiến thắng, bốn con voi tượng trưng cho các tôn giáo, chỉ riêng có một phương có hai người, nếu sử dụng la bàn - hướng Nam phía trên, và kết hợp Hậu Thiên Bát quái đã đổi Tốn Khôn, chúng ta sẽ thấy nơi hai người cưỡi voi chính là cung Khôn, đây cũng là một ý nghĩa quan trọng của của bức tranh. Bức tranh thể hiện cuộc Võ trường và vậy thì trong dòng tranh dân gian còn thiếu bức tranh Văn Trường, bởi nếu thuyết Âm Dương Ngũ Hành là thuyết thống nhất vũ trụ thì còn phải đấu tiếp với bốn phương về lý nữa. Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: “Hãy sống hòa hợp và đối xử với người Cõi Âm như tình nghĩa láng giềng, rất thân thiện cho linh hồn của họ luôn được ấm áp và dễ dàng cảm thông khi ta cần đến sự cứu giúp… điều đó còn có thể giúp cho luân xa 6 của ta khai mở tốt hơn và đặc biệt nhanh hơn”. Trong tám bậc đến siêu thức, luân xa 6 mang tên “Ty khí”, biểu hiện đức tính kiên nhẫn, bền bỉ, tĩnh lặng, sáng trong và sâu sắc. Luyện tập Ty khí là luyện hơi thở thật nhỏ, thật dài và mềm mại như sợi tơ. Người xưa gọi Ty khí là “kim quang tuyến”, có sắc màu vàng óng ánh sáng chói. Đây cũng là sợi dây liên lạc tâm linh giữa thế giới hữu hình và vô hình. Đạo sĩ Kim Kang Ta viết: Ánh chiều thoi thóp thở,Cội thông già đơn côi.Hồn ngao du tiên cảnh,Chỉ vàng tiếp bước rồi.Xác ngồi đây chờ đợi,Tâm mang về hương hoa.Giúp mọi người an vui... Sợi chỉ vàng còn gọi là kim quang tuyến kết nối giữa thân xác và linh hồn, nên dù linh hồn có đi xa và lâu đến bao nhiêu nữa thì cứ theo dây chỉ vàng mà quay về với xác thân, nếu xác thân chưa bị hư hoại. Các vị đạo sĩ thường hay nhập thất hoặc vào núi rừng tìm nơi thật vắng vẻ luyện công để bảo vệ sợi chỉ vàng không bị đứt do sốc đột ngột bởi người khác gây ra (tham khảo thêm cuốn Tây Tạng Huyền Bí). Giai đoạn linh hồn tách rời thể xác Những bí ẩn sau cõi chết, tác giả Đoàn Văn Thông, Nxb Nguồn Sống, 1994 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Trong Chương I: KIM CỔ TIÊN TRI, có nói về việc “Bí giáo” sẽ được phổ thông cho nhân loại chính là kết hợp phương pháp tu luyện của Tam giáo, nhưng sau này đã được thay đổi cho phù hợp với thời kỳ mới hiện nay như pháp môn Nhân Điện được sáng lập bởi tiến sĩ Lương Minh Đáng, pháp môn Pháp luân công được sáng lập bởi tiến sĩ Lý Hồng Chí. Đặc biệt, đều được sự trợ giúp của các “Đấng vô hình”. Chúng ta muốn khảo sát đạo Lão, Phật giáo, Nho giáo và muốn biết tinh hoa của Đạo mà không biết tu sửa tâm hồn, sống cuộc đời cao khiết giữ cho tâm thần luôn linh minh, sảng khoái, không rũ bỏ được cái mình nhỏ nhoi, không thoát ra khỏi được cái kiếp phù sinh vắn vỏi để vươn lên tới Đạo thể, tới hằng cửu, thì công trình tất cũng chỉ là công sức Dã Tràng mà thôi. Dã Tràng xe cát biển Đông: Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn. Ít lâu sau. Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột, nằm im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồị Ổng cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữạ Chừng dăm bảy ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe nàỵ Đeo nó vào mình thì có thể nghe được mọi tiếng muông chim ở thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rờị Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này: "Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy, đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy tất cả, chẳng chừa một tí gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy ông biết là người trong xóm đã làm hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãị Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông, hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải ông về kinh để vua phân xử. Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau: - Nhanh lên ! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi: - Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế? Con nọ trả lời: - Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên nàỵ Ngày hôm qua, quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo họ: - Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến Đế ở phương bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoan rằng nếu có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch. Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ: - Bạn ta đến, lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: - Mình ơi ! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con: - Con ơi ! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữạ Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lạị Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy đao. Ông nói: - Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ nàỵ Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấỵ Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói: - Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp: - Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn ! Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nàọ Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấu xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ. Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa ! Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậụ Ông muốn gì có nấỵ Cho đến lúc ông ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong nể mặt. Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lạị Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ. Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội vàng quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả ngườị Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ ông viết để lại gài ở chỗ treo áọ Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được phong làm hoàng hậụ Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông, đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ. Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấỵ Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con Dã Tràng ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu: Dã Tràng xe cát biển Đông. Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng. Câu chuyện Dã Tràng xe cát biển biển Đông, cho ta biết ngay cả động vật cũng có “ngọc châu viên giác” và cũng có thần tính như con người nhưng ở cấp thấp hơn. Việc tu luyện đan đạo cần hết sức bền bỉ, nếu không cũng khó có thể đạt được đạo quả. Hành giả bỏ qua cơ hội, không biết khi nào sẽ thành công, mà muốn trở lại như ban đầu để tu luyện thì có khác gì Dã Tràng đã lấp đầy biển Đông?. Như vậy, chúng ta đã nhận biết được Lão Tử chính là Chử Đồng Tử - giáo chủ của Đạo giáo cổ đại, Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đã được lấy làm biểu tượng của tình yêu qua hình ảnh gặp gỡ giữa Ngưu Lang và Chức Nữ dưới mưa ngâu vào ngày mồng 7 tháng Bảy âm lịch hàng năm, một cuộc tình hết sức lãng mạn và thi vị trong thời đại Hùng Vương, có lịch sử cách đây hơn 4.500 năm. Chỉ cần một tác phẩm Đạo Đức Kinh, ông đã được xem là triết gia đứng đầu của thế giới, vậy không lẽ gì ngày 7 tháng Bảy âm lịch không được UNESCO công nhận là “Lễ hội của tình yêu”, khi mà ông đã trao tặng cho nhân gian phương thuốc bí truyền - trường sinh bất tử. Chúng ta cũng cần chú ý, văn hóa Việt luôn mang tính Âm Dương, lưỡng hợp cho nên tổ của Đạo giáo luôn phải là hai vị Thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Lão Tử với mật ngữ là Ngưu giang trong tiên tri Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, vậy còn Bảo giang hay Thánh nhân trong các dự ngôn trên thế giới chính thức là ai? Chúng ta hãy cùng tiếp tục với Chương X: CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG. *** 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites