hoangnt

2012 - Cuộc Chuyển Thế Vĩ Đại (Tiếp Theo 2)

1 bài viết trong chủ đề này

Chương VIII

KIM CƯƠNG BẤT HOẠI



Khí lành đến từ Tây, quét sạch mây mù che phủ đất trời,

Sông lớn chảy về Đông, sóng to rửa hết nỗi sầu kim cổ.

Sách 2.000 năm hoành phi, câu đối Nxb Thời Đại.





Ở các chương trước, chúng ta đã khảo sát và phân tích chi tiết về lịch sử Hùng Vương và đã nhận biết được có cùng mối quan hệ trong lịch sử với các tôn giáo cổ đại khác trên thế giới như mẫu thân vua Kinh Dương Vương là Thánh Mẫu Thượng Thiên trong đạo Mẫu, Cửu Huyền Thiên Nữ trong Đạo giáo, Hương Vấn Cái Bồ Tát hay Phật Bà Quan Âm của Phật giáo, nữ thần Urma trong đạo Bà La Môn, nữ thần mẹ Hathor trong tôn giáo Ai Cập cổ và trong tôn giáo Hy Lạp cổ thì tương tự như nữ thần đất mẹ Gaia. Biểu tượng của bà và vua Đế Minh là “Trái đất”, do vậy bà còn được tôn xưng là Địa Mẫu.



Chúng tôi mong muốn làm rõ lại một phần nguồn gốc lịch sử các tôn giáo này khi nhận biết có liên hệ tới lịch sử nước Việt thời cổ đại, qua hệ thống kinh sách, cổ vật, pháp khí… và các sản phẩm phi vật thể còn tồn tại cho tới ngày nay.



Qua một số kinh sách liên quan đến thiên văn của Phật giáo, đặc biệt cơ sở chiêm tinh của Mật giáo là lấy con người phân ra thành 27 nhóm tương ứng 27 ngôi sao, đã loại đi sao Ngưu. Mật giáo chiêm tinh pháp được cho có nguồn gốc từ đời Đường ở Trung Quốc, là một phương pháp chiêm tinh do cao tăng Nhật Bản là Không Hải từ Trung Quốc mang về Nhật, sau đó được lưu truyền đến tận ngày nay. Pháp chiêm tinh này bắt nguồn từ Tú diệu kinh, cuốn kinh này theo truyền thuyết do đức Văn Thù Sư Lợi thuyết pháp, có tên đầy đủ là: Văn Thù Sơ Lợi cập Bồ Tát chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiên ác tinh tú kinh (Kinh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và các thần tiên nói về ngày, giờ cát hung và tinh tú thiện ác). Mà chúng ta đã biết, Văn Thù Bồ Tát là người cô dâu của vua Kinh Dương Vương, nếu căn cứ vào năm lên ngôi của vua Kinh Dương Vương 2879 tr.CN lúc 41 tuổi theo thì có lẽ, Tú diệu kinh đã có trước thời gian này, đúng là một con số có thể gây choáng váng cho bất cứ ai.



Đại sư Không Hải đem “Tú diệu kinh” về Nhật Bản

Tranh cổ Nhật Bản





Bắc đẩu Mandala

Thời kỳ Giang Hộ, Nhật Bản





Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng thường gọi là Tết Thượng nguyên, đa số người Việt Nam và các nước Đông Á thường cúng sao tại chùa hay tại nhà để cầu giải trừ tai ương và tật bệnh, trong nghi lễ cúng sao Phật giáo Việt Nam thường gọi là Lễ Dược Sư Nhương Tinh giải hạn.



Theo sách Phật Giáo Đại Tạng kinh Trường Tế Mục Lục có ghi một số kinh sách liên quan đến các ngôi sao trên bầu trời như sau: Bắc Đẩu Thất Tinh Tụng Niệm Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Bí Yếu Nghi, Phật Thuyết Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh Kinh, Thất Diệu Nhương Tai Quyết, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Pháp



Trong lịch thời luân Tây Tạng chọn dùng Nhị thập thất tú (27 sao) từ Ấn Độ truyền vào, nhưng hầu hết tên gọi các chòm sao không giống với Ấn Độ, Nhị thấp thất tú có điểm khác biệt so với Nhị thập bát tú trong thiên văn cổ Việt Nam và Trung Quốc, ngoài hai sao Tất, Bích hợp làm một ra, còn có hai chòm sao Ngưu và Nữ cùng hợp làm một chòm, ngoài ra các sao nhỏ trong Nhị thập thất tú của Ấn Độ cũng không giống với Việt Nam và Trung Quốc, tuy nhiên chúng ta hiểu rằng Nhị thập thất tú có mối quan hệ với Nhị thập bát tú. Theo thiên văn cổ, tinh tú (tú diệu) phân chia ra Nhị thập thất tú, Thập Nhị Cung, Cửu Diệu và Thất Tinh. Các phép dự đoán hiền dữ, tốt xấu theo tinh tú, như trong kinh Tú Diệu Ngài Bồ Tát Văn Thù đã nói rằng: giờ, ngày, tháng, năm sinh của mỗi một con người cùng theo sự biến hóa của sao ở trên trời, lịch pháp theo đường Hoàng Đạo thời tiết cũng thay đổi, vận hành của mặt trời và mặt trăng cũng thay đổi. Cho nên khí lực, thể lực, vận mạng cùng sự tốt xấu, may rủi, tai kiếp, vinh lộc, tài vận, sức khỏe, tình cảm, con cái, cháu chắt, sự nghiệp… đều tương quan chặt chẽ với nhau.



Phối hợp 24 khí với 12 cung Hoàng Đới




Từ ngoài vào có 7 vòng: 1. Số giới hạn của mỗi khí trên Hoàng Đạo 2. Tên các khí 3. Ngày bắt đầu mỗi khí với tháng và ngày theo dương lịch 4. Số thứ tự, tên và hình minh họa những cung Hoàng Đạo theo phương Đông. 5. Tên và hình minh họa các cung theo phương Tây 6. Ký hiệu các cung theo phương Tây 7. Các mùa với số ngày trong mùa.

Trích Nhịp điệu thời gian hay là lịch pháp giản yếu, Nxb Phương Đông, tác giả Trần Thượng Thủ, 2007



Theo Mật giáo Tây Tạng, Kim Cương Bộ viện có vị trí ở ngoài cùng Thai Tạng Giới, được chia làm hai phần: Thái dương có cung Sư Tử, cung Nữ, cung Xứng, cung Yết, cung Cung, và cung Ma Yết. Thái âm có cung Bảo Bình, cung Ngư, cung Bạch Dương, cung Kim Ngưu, cung Nam Nữ, và cung Giải. Theo hướng Đông: cung Nam Nữ, cung Bạch Dương, cung Kim Ngưu. Hướng Tây: cung Xứng, cung Yết, cung Cung. Hướng Nam: cung Bảo Bình, cung Song Ngư, cung Ma Yết. Hướng Bắc: cung Giải, cung Sư Tử, Cung Nữ. 12 cung này so với thiên văn học ngày nay chỉ khác một số tên gọi còn đa số là giống nhau.



Cửu Diệu là 7 tinh tú phát ra ánh sáng mạnh ở trên trời, gọi là Thất Chính và hai sao “hư” là La Hầu và Kế Đô, thường gọi Chín sao hay còn gọi là Cửu chấp. Trong Đại Nhật Kinh Sớ viết rằng:

1. Nhật (Mặt trời - Thái dương): Quan Âm hoặc Hư Không Tạng;

2. Nguyệt (Mặt trăng - Thái âm): Đức Đại Thế Chí hoặc Thiên Thủ Quan Âm;

3. Sao Thủy (Thủy diệu): Đức Vi Diệu Trang Nghiêm Thân Phật hoặc Thủy Diệu Quan Âm;

4. Sao Hỏa (Vân Hán): ?

5. Sao Mộc (Mộc đức): Đức Dược Sư Phật hoặc Mã Đầu Quan Âm;

6. Sao Kim (Thái Bạch): Đức A Di Đà hoặc Bất Không Quyến Sách;

7. Sao Thổ (Thổ Tú): Đức Tỳ Lô Giá Na Phật hoặc Thập Nhất Diện Quan Âm;

8. Sao La Hầu: Đức Tỳ Bà Thi Phật;

9. Sao Kế Đô: Bất không Quyến Sách Quán Âm.



Tranh các vị Bồ Tát, Phật ứng các “sao”

Dân tộc Cao Lan, Sán Chỉ, Việt Nam





La Hầu và Kế Đô là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, các nhà thiên văn cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn mặt trăng - có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà Nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn). Thế kỷ I, Phật giáo được cho là từ Ấn Độ vào Trung Quốc, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Ketu. Người Trung Quốc phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác. Dù giả thuyết của Trương Hoành (78-139) về trái đất hình tròn và bóng của trái đất che lấp mặt trăng, nhưng đã không được chấp nhận ngay khi đó (Trích Thiên văn học phương Đông, tác giả Bùi Dương Hải).

Sách Thai Tạng giới của Mật Tông Tây Tạng có ghi chép rất chi tiết về Nhị thập bát tú, Cửu Diệu, Thất Chính và 12 chòm sao trên vòng Hoàng Đạo, cùng với các biểu tượng tương ứng.



Biểu tượng sao Kế Đô - La Hầu

Trích Thai tạng giới Mandala, Huyền Thanh dịch, Nxb Phương Đông, 2010





Thất Tinh là 7 vì sao ở hướng Bắc và hình như cái gáo hay gàu sòng, thường gọi là chòm sao Bắc Đẩu tức Đại Hùng Tinh, trong kinh Phật Thuyết Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh Kinh chép rằng: tại cung Trời Tịnh Cư (Tịnh Cư Thiên cung), ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thỉnh cầu đức Phật giải thích về ảnh hưởng của 7 ngôi sao Bắc Đẩu, Đức Bổn sư trả lời rằng: tên của 7 vì sao đó là Thánh hiệu của 7 vị Cổ Phật:



1

Tham Lang

Đông Phương Tối Thắng Thế Giới Vận Ý Thông Chứng Như Lai

2

Cự Môn

Đông Phương Diệu Bảo Thế Giới Quang Âm Tự Tại Như Lai

3

Lộc Tồn

Đông Phương Viên Châu Thế Giới Kim Sắc Thành Tựu Như Lai

4

Văn Khúc

Đông Phương Vô Ưu Thế Giới Tối Thắng Cát Tường Như lai

5

Liêm Trinh

Đông Phương Tịnh Trụ Thế Giới Quảng Đạt Trí Tuệ Như lai

6

Vũ Khúc

Đông Phương Pháp Ý Thế Giới Pháp Hải Du Hý Như Lai

7

Phá Quân

Đông Phương Mãn Nguyệt Thế Giới Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai

8

Ngoại phụ

Động Minh Ngoại Phụ Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Hỷ Thế Giới Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát

9

Nội Bật

Ẩn Quang Nội Bật Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Viên Thế giới An Lạc Tự Tại Bồ Tát



Bảy vị Phật trên là Thất Phật Dược Sư, như vậy, hình ảnh 7 vị Phật Dược Sư đã hóa thành Hộ Pháp Tinh Quân của Đạo giáo.



Chòm sao Bắc Đẩu

Lịch pháp Mật tông Tây Tạng, tác giả Thích Minh Thông, Nxb Văn hóa Thông tin, 2012



Chiếc xe trời (Đế Xa) gồm 7 vì sao Bắc Đẩu (Đại Hùng Tinh) bao gồm:

(1) Khu Tinh (Tham Lang) - Nhất Bạch;

(2) Tuyền Tinh (Cự Môn) - Nhị Hắc;

(3) Kỵ Tinh (Lộc Tồn) - Tam Bích - Kinh Dương Vương.

(4) Quyền Tinh (Văn Khúc) - Tứ Lục - Đế Minh (Chủ tinh).

(5) Hành Tinh (Liêm Trinh) - Ngũ Hoàng;

(6) Khai Dương (Vũ Khúc) - Lục Bạch;

(7) Giao Quang (Phá Quân) - Thất Xích;

(8) Tả Phù - Bát Bạch;

(9) Hữu Bật - Cửu Tử.



Đức Phật chỉ dẫn: Nếu có thiện nam, tín nữ cứ mỗi năm, ngày mồng 8 tháng Giêng, ngày mồng 7 tháng Bảy, ngày mồng 9 tháng Chín âm lịch sắm sửa hương hoa, nước sạch, cắm đèn theo hình Thất Tinh, y phục sạch sẽ, cúng dường trước tinh tượng 7 vị Cổ Phật trên, tùy tâm sở cầu, sẽ có cảm ứng.



Bắc đẩu Thất tinh phù

Chòm sao Bắc Đẩu

Khắc trên gạch đời Hán, Trung Quốc









Như đã trình bày, Thập Nhị cung, Thất Tinh, Cửu Diệu đều là danh hiệu cũng như biểu tượng của Đức Cổ Phật và Bồ Tát, cho nên chúng ta cúng dường lên các ngài sẽ nhận được nhiều công đức. Sau đây tóm tắt về nghi lễ Dược Sư Nhương Tinh giải hạn theo Phật giáo Việt Nam:

- Niêm hương bạch Phật - Đảnh lễ Tam Bảo - Tán bài Dương Chi;

- Điểm đăng tức thắp đèn (cắm hình Thất Tinh hoặc đèn Dược Sư);

- Thỉnh Đế Thích Ngọc Hoàng, Phật giáo gọi là Thích Đề Hoàn Nhân;

- Thỉnh Đẩu Tinh giáo chủ tức ngài Tiêu Tai Xí Thạnh Quang Vương Phật;

- Tụng chú Đại Bi - Tuyên sớ - Tụng Nhương Tinh kệ;

- Đại chúng lạy trùng hiệu trong Sám Dược Sư (24 lạy) - Tụng chú Tiêu Tai;

- Hồi Hướng - Phục nguyện;

- Tam Tự Quy - Lễ Tất.



Nghi lễ Dược Sư Nhương Tinh giải hạn được nhắc lại trong câu truyện Tam Quốc Chí, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không, khi Khổng Minh Gia Cát Lượng lập đàn Thất Tinh cầu thọ thêm vài năm để hoàn thành đại nghiệp.



Trong cuốn Thai Tạng giới của Mật giáo Tây Tạng ghi nhận Nhị thập bát tú, 12 chòm sao của vòng Hoàng Đạo với các biểu tượng và chòm sao Bắc Đẩu, vậy thì để làm rõ được các vị Cổ Phật là ai, chỉ còn cách chúng ta phải tra cứu tới nền văn hóa Phật giáo Tây Tạng mà thôi.



Xứ sở của tuyết



Tây Tạng là vùng đất của những dãy núi vô cùng hiểm trở, trong đó có dãy núi nổi tiếng Himalayanằm ở biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Độ và NêPan, với hình cánh cung dàikhoảng 2.400km, độ cao trên 6.000mso với mặt biển, là dãy núi hùng vĩ nhất với ngọn Everest cao nhất thế giới 8848.13m. Lịch sử của Tây Tạng đặc biệt ở chỗ là đây là một quốc gia phụng sự Phật giáo, Tây Tạng còn có tên thường gọi "Nóc nhà của thế giới" hay là "Xứ sở của tuyết". Người Tây Tạng xem đất nước mình là một quốc gia Phật giáo với tên gọi “Phật Đà Quốc”.



Vị trí địa lý Tây Tạng

Nguồn trang web Wikipedia



Thủ phủ của Tây Tạng là Lhasa - thánh địa của Phật giáo, nên đâu đâu cũng có những ngôi chùa cổ kính. Người Tây Tạng giải thích rằng Lhasa là “đất bùn của dê”, bởi từ truyền thuyết xa xưa, thành phố được xây dựng trên đất bùn do các chú dê vận chuyển đến. Lhasa là một di sản văn hóa nổi tiếng trên thế giới được xây dựng từ khoảng năm 637 trên một ngọn đồi có tên là Mabuge. Biểu tượng của thành phố Lhasa là cung điện Potala - cung điện của các vị Bồ Tát, đây là nơi ở và làm việc của các vị Đạt Lai Lạt Ma, lãnh tụ tinh thần của Tây Tạng.

Cung điện Potala trong mây

Tây Tạng, nguồn internet Ảnh Xinhua




Cung điện Potala được xây dựng trên núi Mabuge (núi Đỏ), cao hơn thành phố Lahasa khoảng 9m, gồm 13 tầng, tòa nhà lớn có hơn 1.000 gian phòng, hơn 10.000 Phật điện và 20.000 tượng điêu khắc. Cung điện Potala trông rất hùng vĩ và hoành tráng, từ xa trông như một vách đá màu trắng sừng sững uy nghi, đứng tại bất kỳ nơi đâu ở Lhasa, du khách cũng có thể nhìn thấy cung điện Potala nổi bật trên nền trời xanh ngắt.

Được biết, cung điện Potala được xây dựng vào thế kỷ thứ VII, đánh dấu cuộc hôn nhân giữa quốc vương Tây Tạng Songtsan Gampo và Văn Thành công chúa, con gái của vua Đường Thái Tông. Cung điện Potala chạy dọc theo một dãy núi thấp nhìn xuống thành phố Lhasa ở hướng Nam.

Không rõ sử cổ đại của dân tộc Tây Tạng như thế nào, nay chỉ dựa vào những ghi chép trong cổ sử Trung Quốc để có được những hiểu biết về dân tộc Tây Tạng. Theo sự ghi chép của chính sử, thì phải đợi đến khi nhà Đường mới có sự tiếp xúc, Tân Đường thư - Thổ Phồn truyện phần mở đầu viết: “Thổ Phồn vốn là một chi hệ của Khương tộc, buổi đầu tộc Khương có hơn một trăm năm mươi giống, sống rải rác khắp vùng Hà, Niết, Giang, Dân, trong đó phát triển nhất là giống Khương -Đường - Mao sống ở vùng Tích Chi và Thuỷ Tây. Vị tị tổ có tên là Cốt-Đề-Bột-Tất-Dã đã cùng một số tộc Khương chiếm đất làm địa bàn cư trú”.



Người Tây Tạng tự gọi dân tộc mình là “Bố-Đặt”, và nước mình là nước Bod-(Kyi)yul, người Tây phương gọi Tây Tạng là Tibet, còn Trung Quốc dịch chữ Bod-(Kyi)yul là “Đồ-Bố-Đặt” hoặc “Thổ-Bố-Đặt”. Nguyên nhân của các tên gọi trên đều có quan hệ đến việc chuyển âm mà ra, người Tây Tạng đọc chữ Phồn thành chữ Bố-Đặt (Bod), hai chữ Bố Đặt có nghĩa là Phật Đà Quốc. Điều quan trọng là do đâu mà nhà Đường lại thêm chữ Thổ vào trước chữ Phồn? Đây là vấn đề mà đến nay vẫn chưa có thuyết nào giải thích.



Đem việc chuyển âm ra khảo sát, thì Tân Đường Thư cho rằng vấn đề là do chữ Phát” của người Phát Khương chuyển thành chữ “Phồn”. Căn cứ những khảo sát về chuyển âm, thì hai chữ Phật Đà (Buddha) được người Tây Tạng đọc thành Bố Đặt, nhân vì Phạn ngữ cũng gọi Tây Tạng là Bộc Tra (Bhota), chỉ có tên gọi Thổ Phồn là mới được dùng từ thời sơ Đường. Ở vào thời sơ Đường không rõ người Tây Tạng nhằm vào thời gian nào để xưng đất nước Phật Đà Quốc - đây là điều không dễ tra cứu. Ngoài ra, Tây Tạng còn có những tên gọi như Tuyết Hữu quốc (Gans-Can-Yul) Tuyết Cốc quốc (Gans-ljons-Yul) và Xích Diện (Gdon-Dmar)… (Tham khảo Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, tác giả pháp sư Thánh Nghiêm, Việt dịch Thích Tâm Trí).



Theo truyền thuyết, người Tây Tạng tự nhận tổ tiên của họ là Hầu tử (con vượn), con Hầu tử này là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, nó vượt qua dãy núi Hy Mã Lạp Nhã đến ở bên bờ sông Nhã Lỗ Tạng Bố Giang, một hôm nó lần theo dấu chân của một ma nữ (La sát nữ) và kết hôn cùng nàng. Rồi cả hai vào ở trong hang đá mãi tận thâm sơn cùng cốc, cứ thế trải qua nhiều đời, con cháu của họ ngày nay là dân tộc Tây Tạng, nhân truyền thuyết này mà người dân Tây Tạng lấy tên vị vua nổi tiếng trong thời cổ đại của dân tộc mình, cũng như vị Đạt Lai đời đời chuyển sinh ở hiện tại và cho rằng hai vị trên đều do đức Bồ Tát Quan Thế Âm hóa thân. Cũng nhân đó người Tây Tạng đặt tên cho trung tâm chính trị, tôn giáo của họ là Bố Đạt Lạp tức là Liên đài (hoa sen), ngự trên Liên đài là Quan Thế Âm Bồ Tát.

Trong nền Phật giáo Tây Tạng, Đức Phật Liên Hoa Sinh Padmasambhava là một đại sư Ấn Độ, sống cùng thời vua Tây Tạng Ngật-lật-song Đề-tán (755-797), sư truyền Phật giáo vào Tây Tạng và sáng lập tông Ninh-mã, một trong bốn tông phái lớn của Tây Tạng và được các đệ tử gọi là "Phật Thứ Hai”. Ông đã để lại những câu sấm ký viết rằng: Tùy theo dân trí và các duyên lành xứ sở này tạo được mà có những vị tổ hóa thân trở lại đem những pho kinh mà truyền lại cho đời sau. Từ đó đến nay, đã có một số kinh điển được khai quật và truyền bá bởi các danh sư Tây Tạng, nhưng người ta nói rằng những điều được truyền dạy chỉ là những mảnh vụn không đáng kể vì số kinh cất dấu tại đây còn nhiều mà số người lĩnh hội được còn quá ít. Cũng vì thế, hàng năm vẫn có nhiều tu sĩ đến đây hy vọng sẽ tìm ra những tài liệu bí mật chưa được khám phá. Truyền thuyết còn kể rằng: quanh tu viện Nyima còn có 108 ngôi chùa và 108 dòng suối linh thiêng. Những ngôi chùa này đều có các bậc thiện tri thức trụ trì, giảng dạy những bộ môn khác nhau. Dĩ nhiên, không ai có thể nhìn thấy tu viện hay dòng suối này mà chỉ những bậc tổ, những bậc tu hành đã đắc thần thông, đã mở được thần nhãn mới có thể tìm thấy và tìm đến để học đạo.

Liên Hoa Sinh

Tranh tượng tham khảo



Theo những tài liệu sử sách thì trước khi Phật Giáo Đại Thừa du nhập vào đất Tây Tạng thì nơi đây vốn đã có tôn giáo riêng, mang dấu ấn của Thần giáo. Tôn giáo này chứa đầy những huyền phép bí ảo mà ít người có thể hiểu biết, chuyên thờ cúng và hành trì những công năng như thuật khinh thân, bói toán, tàng hình, đứng đầu là những vị pháp sư. Theo họ thì những mãnh lực huyền bí vẫn tồn tại trong vũ trụ và những nhà tu hành phải chế ngự và điều động cho được những mãnh lực siêu nhiên này, khả năng chế ngự đến mức độ nào là tùy theo trình độ tu luyện của họ. Huyền học bao trùm tôn giáo bản địa.

Mật Tông Tây Tạng

Mật Tông ra đời sau khi Phật Thích ca nhập diệt khoảng 1.000 năm, lúc này Đạo Phật đã phân chia và suy vong, và cũng tại thời điểm này, triết lý Đại Thừa đang hồi sung mãn nhất. Các Đại sư Phật giáo đã sử dụng và sáng tạo từ triết lý Đại Thừa một cách phong phú, trong đó triết lý “Tính Không” và “Bát Nhã” được đặt làm nền tảng. Tuy thế Mật Tông lại giữ cho sự phát triển bay bổng của nó một định hướng đúng đắn của Đạo Phật, bằng cách giữ nguyên truyền thống Giới - Định - Tuệ và sự tôn trọng các kinh điển Phật giáo nguyên thủy.

Kim cương giới Mandala: là Pháp thân, là lĩnh vực của “Trí tuệ bát nhã”, là Tính Không, là Chân Đế. Kim Cương giới gồm bốn vị Phật xung quanh một Pháp tính Phật. Ý nghĩa này ám chỉ khi các “Thức” của người thực hành Thiền đã chuyển thành bốn “Trí” của một vị giác ngộ, thì sự phối hợp của bốn Trí sẽ tạo thành thực thể thứ năm: đó là Trí huệ Bát Nhã tức pháp thân của Phật. Kim Cương giới cũng gọi là Ngũ Trí Như Lai.

Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Mandala là một khu vực hình tròn hoặc hình vuông được phân định theo pháp, dùng để thực hiện các pháp tu của Mật giáo hoặc là một đàn tràng bằng đất cát, trên đó vẽ các tôn tượng Phật và Bồ Tát, tu pháp xong thì xóa bỏ các hình tượng hoặc là một tờ giấy hay tấm vải, trên đó có vẽ hình tượng các Tôn vị. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, Mandala theo nghĩa “Luân viên cụ túc” là các Tôn vị vây quanh Đức Đại Nhật Như Lai để cùng giúp sức với Đại Nhật Như Lai đưa chúng sinh vào giác ngộ, giải thoát.



Theo kinh Kim Cương Đỉnh, có bốn chủng loại Mandala:

- Đại Mandala: Bức vẽ các Tôn vị với đầy đủ dung mạo, tướng hảo tương đương với hội Thành Thân trong Kim Cương giới.

- Tam Muội Da Mandala: Bức vẽ những hình Tam muội da của chư Tôn, tương đương với hội Tam Muội Da.

- Pháp Mandala: Bức vẽ những chủng tử và chân ngôn các Tôn vị, tương đương với hội Vi Tế.

- Yết Ma Mandala: Bức vẽ về những oai nghi sự nghiệp của chư Tôn hoặc hình tượng các Tôn vị được tạo theo đúng oai nghi, sự nghiệp của các ngài, tương đương với hội Cúng Dường.



Trong mỗi chủng loại Mandala trên đều có ba cách thể hiện:

- Đô hội Mandala: các Tôn vị nhóm họp cùng một chỗ, như Mandala lấy Đại Nhật Như Lai làm trung tâm.

- Bộ hội Mandala: các Tôn vị chia thành từng bộ, như Mandala Phật đỉnh của Phật bộ, Mandala Thập nhất diện Quán Âm của Liên hoa bộ.

- Biệt tôn Mandala: lấy một Tôn vị làm trung tâm, như Mandala Phật Thích Ca Mâu Ni, Mandala Như Ý Luân…



Ngoài ra, Mandala được vẽ khi tu tập pháp Tôn thắng gọi là Tôn Thắng Mandala, Mandala để làm đối tượng lễ bái, cúng dường gọi là Cúng Dường Mandala, hình vẽ các Thánh chúng trong hội Pháp hoa gọi là Kinh Pháp Mandala, hình vẽ cảnh giới Tịnh độ của Phật A Di Đà gọi là Tịnh Độ Mandala …



Kim Cương giới chia làm năm bộ: Phật bộ (lý trí đầy đủ, viên mãn), Kim Cương bộ (Trí), Bảo bộ (phúc đức), Liên Hoa (Bi) và Yết Ma bộ (tác dụng giáo hóa chúng sinh). Năm đức Phật Đại Nhật, Phật A Súc, Phật Bảo Sinh, Phật A Di Đà, và Bất Không Thành Tựu Phật là bộ chủ của năm bộ trên.



Kim cương giới

Mật Tông Tây Tạng



Thai tạng giới: Là lãnh vực của thế giới sự vật hiện tượng, là cái Lý vận hành thế giới sự vật hiện tượng, là phương tiện của sự tu chứng, là Tục Đế. Mọi vật, sự vật và hiện tượng trong Thai Tạng giới đều vận động để phát triển và chuyển hóa đến mức trưởng thành cuối cùng là Trí huệ. Do đó Mật Tông nhận thức và sử dụng Thai Tạng Giới như phương tiện để đạt đến Trí huệ. Từ bi là trạng thái Tâm thuộc về Thai Tạng giới, cho nên Từ bi cũng đựợc dùng như là phương tiện cứu độ. Ngoài ra cùng nội dung và ý nghĩa tương tự, chữ Thai tạng giới dùng để ám chỉ lãnh vực của trí năng tiềm ẩn của tất cả mọi người, lúc chưa hiển lộ thành Trí huệ. Ví dụ Tâm của người thực hành chưa giác ngộ thuộc về Thai Tạng giới, giống như một thai nhi đang phát triển, nghĩa là còn cần phải nuôi dưỡng để hoàn chỉnh.



Mật Tông xem con người và vũ trụ có cùng một cấu trúc và cùng một lý vận hành. Mandala là một sơ đồ có tính biểu tượng của vũ trụ, của các thành phần của vũ trụ, chính của bản tâm con người. Mật Tông nhìn bản thể của vũ trụ như tập hợp các thành phần tâm thức tức Trí huệ sau khi chứng ngộ. Trong Mandala, Trí huệ được biểu tượng bằng các vị Phật, hoạt dụng và hành trạng của các vị Phật được biểu tượng bởi các vật dụng mà các vị Phật cầm nắm hoặc đi kèm.

Đền tháp Borobudur kiểu Mandala (thế kỷ VIII - IX)

Yogyakarta, đảo Java, Indonesia



Trong Thai Tạng Giới, phần Trung Đài Bát Diệp Viện có hình tượng hoa sen tám cánh, thì Đại Nhật Như Lai là nhụy sen biểu tượng cho căn bản của sự tu tập giải thoát cần phải lấy đại bi làm gốc.

Thai tạng giới

Mật Tông Tây Tạng





Trung Đài Bát Diệp Viện là một trong 12 viện của Thai Tạng Giới, là trung tâm của Thai Tạng Giới. Trung Đài Bát Diệp Viện biểu thị chi Tâm gồm 9 tòa Tôn tượng tượng trưng cho 5 Trí và 4 Hạnh biểu tượng cho quan niệm “Phật tính vốn tiền ẩn trong thân của chúng sinh”:



- Trung tâm: Đại Nhật Như Lai tức Đức Tỳ Lô Giá Na, biểu hiệu bằng hai bàn tay kiết Chuyển pháp luân ấn trước ngực, biểu tượng cho Trí huệ Pháp giới thể tính, và ngài cũng là vị “Giáo chủ bí mật” của Mật giáo.

- Phương Đông: Bất Động Như Lai tức A Súc Bệ Như Lai hay Bảo Tràng Như Lai, biểu hiệu bằng Xúc địa ấn, biểu tượng cho trí huệ Đại viên kính, chủng tự là HUM.

- Phương Tây: Vô Lương Thọ Như Lai tức A Di Đà Phật, Biểu hiệu bằng Thiền định ấn, biểu tượng cho Trí huệ Diệu quan sát, chủng tự là HRIH.

- Phương Nam: Bảo Sinh Như Lai hay Khai phu Hoa Vương Như Lai, biểu hiệu bằng Tam bảo bố thí ấn, biểu tượng cho trí huệ Bình đẳng tính, chủng tự là TRAH.

- Phương Bắc: Bất Không Thành Tựu Như Lai hay Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai, biểu hiệu bằng Vô úy ấn, biểu tượng cho trí huệ Thành sở tác, chủng tự là AH.

- Đông Nam: Đức Phổ Hiền Bồ Tát.

- Tây Bắc: Đức Quan Âm Bồ Tát.

- Tây Nam: Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

- Đông Bắc: Đức Di Lạc Bồ Tát.



Bất Động Phật (tượng thủy tinh mạ bạc Tây Tạng, thế kỷ III)

Huyền thoại phương Đông Rachel Storm





Bất không Thành Tựu Phật (tượng đồng cẩn bạc Tây Tạng, thế kỷ XIV)

Huyền thoại phương Đông Rachel Storm





Phật A Di Đà (tượng đồng đỏ Tây Tạng, thế kỷ X)

Huyền thoại phương Đông Rachel Storm





Bảo Sinh Phật (tượng đồng đỏ Tây Tạng, thế kỷ XV)

Huyền thoại phương Đông, Rachel Storm



Đại Nhật Như Lai hay Tỳ Lô Giá Na Phật trong Kim Cương giớiThai tạng giớicủa Mật giáo ở vị trí trung tâm, ngài là biểu hiện của ánh sáng trí huệ chiếu soi và diệt trừ bóng tối của vô minh. Trên đỉnh mái thiền viện Drepung có biểu tượng “hai con nai chầu bánh xe pháp luân”, với hình tượng con nai phải chăng là biểu tượng của Đại Nhật Phật chuyển bánh xe pháp luân cho Phật Thích Ca Mâu Ni? Trong khi đó, miền đất Tây Tạng không có giống nai, bởi điều kiện khí hậu khắc nghiệt, không phù hợp.

Bánh xe pháp luân

Thiền viện Drepung, Tây Tạng

Tháp Chuyển pháp luân

Vườn Lộc Uyển, Ấn Độ









Sarnath theo tiếng Pali nghĩa là vua của loài nai, thuộc về xứ Ba La Nại cổ, nguồn gốc của tên gọi này có từ rất xa xưa, truyền thuyết thuở tiền thân Đức Phật Thích Ca vốn là một vị Bồ Tát hóa thân tu tập làm nai sống nơi rừng hoang. Ngài là một con nai chúa đã hy sinh thân mình để cứu nai mẹ sắp đến ngày sinh nhưng đến lượt phải vào thành nộp mạng làm bữa ăn của vua, cảm phục đức hy sinh của nai chúa nên vua tha không giết và lập tức bãi bỏ lệ bắt đàn nai và ra lệnh từ nay cấm không ai được săn bắn loài nai nữa. Từ đó, đàn nai sinh sôi nảy nở, tung tăng hồn nhiên trong khu rừng xinh đẹp, vườn Nai có tên là vì thế. Sau này, vườn Lộc Uyển trở thành một trong Tứ thánh địa của Phật giáo.



Chúng ta cũng đã biết, con nai là biểu tượng của vua Kinh Dương Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế, biểu tượng là mặt trời, và như vậy, biểu tượng “hai con nai chầu bánh xe pháp luân” trên đỉnh mái đền Jokhan dẫn tới một nhận định quan trọng đó chính là biểu tượng của Đại Nhật Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, vua Kinh Dương Vương. Lúc này, chúng ta hiểu tại sao Lhasa được gọi là “đất bùn của dê”, bởi “con dê” cũng là biểu tượng của Đại Nhật Phật, là cung Dương Cưu trong chòm sao trên vòng Hoàng Đạo, biểu tượng của mặt trời, hoàn toàn tương tự như Thần mặt trời Ra của tôn giáo cổ Ai Cập.



Truyền thuyết ở Việt Nam và Trung Quốc còn ghi nhận, dãy núi Côn Lôn nổi tiếng trong các câu truyện thần thoại Trung Quốc, mà người ta tin rằng nó là thiên đường của Đạo giáo, truyền thuyết cho rằng người đầu tiên đến thiên đường này là Chu Mục Vương (976-922 tr.CN) của nhà Chu. Ông ngẫu nhiên phát hiện ra cung điện bằng ngọc của Hoàng Đế, vị hoàng đế thần thoại và là người sáng tạo ra nền văn hóa Trung Quốc, và đã gặp Tây Vương Mẫu, mà đỉnh cao sự sùng bái tôn thờ bà vào thời nhà Hán, nơi ở thần thoại của bà cũng nằm trong dãy núi này. Mà chúng ta cũng đã biết, Tây Vương Mẫu là chính thất của Ngọc Hoàng Thượng Đế, vậy thì các truyền thuyết cũng hoàn toàn ăn khớp với kết quả phân tích và nhận định. Đỉnh Côn Lôn chính là đỉnh núi Himalaya của Tây Tạng, nơi tôn sùng là thánh địa của các tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Ấn Độ giáo, đạo Kỳ Na giáo… và Đạo giáo.

Theo kinh sách, Đức Phật trong Kinh Hoa Nghiêm là Tỳ Lô Giá Na Pháp thân hay Đại Nhật Như Lai bất sinh bất diệt, nắm bắt được toàn bộ tổng thể sự vật. Ý này được kinh diễn tả là ngài đắc đạo, khám phá ra bàn tay tạo hóa hay người thợ xây dựng ngôi nhà và từ đó ngài chủ động hoàn toàn vận mạng của ngài. Lược giải kinh Hoa Nghiêm, Hòa thượng Thích Trí Quảng, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2000. Kinh Hoa Nghiêm có ba bộ: bộ thứ nhất gọi là Đại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển, bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm do Báo Thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết. Cả ba bộ kinh này đều ở cung Rồng Ta Kiệt La, nhưng hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên ngài Long Thọ Bồ Tát chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ và mang về nhân gian. Ngài lọc lại chỉ còn dưới một nửa là 45.000 bài kệ.



Kinh Hoa nghiêm được một nhà sư Trung Quốc mang sang Nhật Bản nhưng không thuyết giảng. Đến đời Thánh Vũ Thiên Hoàng, ngài Thẩm Tường là nhà sư Triều Tiên sang Nhật Bản, kinh Hoa Nghiêm mới được ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra đời. Đặc biệt là nhờ công đức thuyết pháp của ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ Thiên Hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền thuyết người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính mặt tượng rộng 5 thước, nên khi rót đồng chảy xuống đến cổ là bị rã. Sau đó, nhà sư Phật Triết từ Giao Châu, Việt Nam đóng bè tre vượt biển sang Nhật Bản. Ngài Hạnh Cơ Bồ Tát ra đón ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc tượng. Pho tượng được hoàn thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ Thiên Hoàng thỉnh ngài Phật Triết về làm chủ lễ điểm nhãn tượng, và ngài đã soạn ra nghi thức khai quang, nghi thức này còn truyền tụng đến ngày nay.

Đại Phật Tỳ Lô Giá Na

Nara, Nhật Bản




Ngôi chùa Toudai-ji (Đông Đại Tự) ở Nara, trong điện thờ tượng Đại Phật bằng đồng dát vàng cao 16m, đây là ngôi chùa quan trọng nhất của tông Hoa Nghiêm ở Nara. Chùa được Thiên Hoàng Shoumu phát nguyện xây dựng vào năm 745, điện Phật chính thờ Phật Tỳ Lô Giá Na (Đại Phật Nara). Chùa được trùng tu thời Edo và là công trình gỗ lớn nhất, nổi tiếng với nhiều tượng Phật, là tài sản văn hóa của đất nước Nhật Bản.



Thai Tạng Giớilà yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt động, mặt lý tính, biểu hiện cái có sau như thai mẹ chứa đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện đại bi của Phật. Thai tạng giới phối hợp với tam đức đại định, đại bi, đại trí, lại phân thành tam bộ gồm bộ Phật, bộ Quan Âm và bộ Kim Cương. Bộ Kim Cương tương ứng Trung Đài Bát Diệp Viện. Toàn bộ 12 viện này của Thai Tạng Giới bao gồm 412 bản Tôn, từ vị cao nhất là Đại Nhật Như Lai cho đến các vị sứ giả, hộ pháp đóng tại các ngoại viện ở 4 phương, là sự biểu thị cho Ngũ đại là Địa - Thủy - Hỏa - Phong - Không, cũng tức là năm dạng vật chất của vũ trụ. Riêng Kim Cương Giới là sự biểu thị duy nhất của Thức đại, tượng trưng cho yếu tố tinh thần của vũ trụ, Kim cương giới phối hợp với ngũ Trí phân thành ngũ bộ. Như vậy, nếu so sánh với học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, thì Ngũ đại tương ứng với Ngũ Hành và Thức đại tương ứng với Thái Cực, mang thuộc tính tuyệt tối.



Trung Đài Bát Diệp Viện

Thai tạng giới, Mật Tông, Tây Tạng





Mật Tông diễn tả bản thể nguyên thủy của thế giới Phật tính bằng năm vị Phật, được gọi là Ngũ Trí Như Lai, tức năm “Trí” được chuyển hóa từ năm “Thức” của tâm thế gian khi giác ngộ.

- Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân sau khi giác ngộ sẽ biến thành Thành sở tác trí, được biểu tượng bằng Phật Bất Không Thành Tưu (Amoghasiddhi);

- Ý thức sau khi giác ngộ sẽ biến thành Diệu quan sát trí, được biểu tượng bằng Phật Vô Lượng Quang (Amitabha);

- Mạtna thức khi giác ngộ sẽ biến thành Bình đẳng tính trí, được biểu tượng bằng Phật Bảo Sinh (Ratnasambhava);

- Alaya thức khi giác ngộ sẽ biến thành Đại viên kính trí, biểu tượng bằng Phật Bất Động (Akshobyha);

- Trí huệ toàn mãn gọi là Pháp giới thể tính trí, được biểu tượng bằng Phật Đại Nhật (Mahavairocana).



Trong thiên văn cổ Đông Phương, chòm sao Bắc Đẩu và hai sao Tả Phù và Hữu Bật là biểu tượng cho 9 vị Phật như đã trình bày, tuy nhiên kinh sách ghi nhận có 7 vị Cổ Phật, đã tạo nhiều sự mâu thuẫn về số lượng và danh tính. Để làm rõ, chúng ta hãy cùng xem xét lại cấu trúc Trung Đài Bát Diệp Viện của Kim cương giớiThai tạng giới, cùng với bố cục ban thờ chính điện Đại Hùng của các ngôi chùa.



Trung Đài Bát Diệp Viện chính bố cục ban thờ chính điện của Đại Hùng (tên chòm sao Gấu Lớn - Bắc Đẩu) trong các ngôi chùa, tuy nhiên bố cục ban thờ của các ngôi chùa của mỗi quốc gia và giữa các quốc gia trên thế giới hầu như khác xa nhau, chưa tuân theo quy tắc thống nhất.



Để làm rõ vấn đề này dựa trên nền tảng so sánh cách bài trí ban thờ của một số ngôi chùa cổ miền Bắc Việt Nam. Triết lý thời gian có thể thấy rõ trong cách bài trí tượng thờ miền Bắc, đó là vạn vật luôn biến đổi không ngừng từ quá khứ đến hiện tại và tới tương lai, trong Phật giáo gọi là tam thiên thế giới gồm trang nghiêm đại kiếp (quá khứ), hiền đại kiếp (hiện tại) và tinh tú đại kiếp (tương lai), được biểu hiện qua bộ tượng Tam thế Phật. Ngoài ra, chùa Việt Nam còn đưa một số vị thần phối thờ tạo nên các dạng chùa tiền Thánh hậu Phật như chùa Thầy, Hà Tây thờ Đức Từ Đạo Hạnh; chùa Keo, Thái Bình thờ Thánh Nguyễn Minh Không…



Cách bài trí tiêu biểu trong ngôi chùa cổ ở Bắc Bộ Việt Nam

Tượng Phật - sự tích và cách bài trí tiêu biểu trong ngôi chùa cổ ở Bắc Bộ Việt Nam, chủ biên: Lê Văn Thao. Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2008.





Bảy vị Phật trên là Thất Phật Dược Sư, với tên gọi bắt đầu bằng hai từ “Đông Phương”, ngoại trừ Động Minh Ngoại Phụ Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Hỷ Thế Giới Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát và Ẩn Quang Nội Bật Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Viên Thế giới An Lạc Tự Tại Bồ Tát. Vì vậy, chúng tôi nhận định hai vị Phật với tên gọi bắt đầu bằng hai từ “Tây Phương” mang mật ngữ là hai vị Phật thuộc Ngũ Trí Phật cùng với Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (cùng với Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát và Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát tạo thành Đông Phương Tam Thánh), Đại Nhật Phật và một trong vị nữa thuộc Thất Phật Dược Sư.



Trong 7 vị Phật Dược Sư, với biểu tượng các ngôi sao Bắc Đẩu thì vị Phật tương ứng ngôi sao Thiên Quyền (tinh chủ) là Dược Vương Phật (Đẩu Tinh giáo chủ tức ngài Tiêu Tai Xí Thạnh Quang Vương Phật) và chúng tôi nhận định chính là Phật A Di Đà, biểu tượng cho phương Tây đối ứng với phương Đông là Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật tức Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật Bà Quan Âm. Phật A Di Đà chính là vua Đế Minh, biểu tượng của ánh sáng, hoàn tương tương hợp với nghĩa “Vô lượng quang” của Phật A Di Đà. Trong bộ tiểu thuyết thần kỳ Phong Thần, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không, thì Đế Minh tức Thái Ất Cứu Khổ Tiên Tôn có biệt hiệu là Phi Hùng tức Gấu Bay - hàm ý thuộc chòm sao Đại Hùng Tinh.



Xị Thạnh Quang Vương Phật




Bức tranh cũng trình bày 12 cung Hoàng Đạo dưới chân các vị Phật, Bồ Tát. Ngay phía trên Xí Thạnh Quang Vương Phật là cung Song Ngư với hình hai con cá đối nhau trong vòng tròn. Xí Thạnh Quang Vương Phật tay cầm các pháp khí.



Mặt khác, theo kinh sách thì Tây Phương Tam Thánh gồm có Phật A Di Đà, Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, đồng thời 2 vị Phật đã nhận định trên cũng tương ứng Tây phương? Điều này cho phép chúng ta nhận định Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát là chính thất của hai vị Phật ở trên, mà Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát là em dâu của Hương Vân Cái Bồ Tát, Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quan Phật, vậy thì đó chính là vua Đế Nghi - Động Minh Ngoại Phụ Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Hỷ Thế Giới Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát và Nguyễn Nghi Nhân - Ẩn Quang Nội Bật Tinh Quân tức Tây Phương Diệu Viên Thế giới An Lạc Tự Tại Bồ Tát. Từ các nhận định, chúng ta đã có thể hoàn thiện được cấu trúc của Trung Đài Bát Diệp Viện, với các vị Cổ Phật lịch sử.



Đại Hùng bảo điện và Trung Đài Bát Diệp Viện:

Tương lai Phật

Hiện tại Phật

Quá khứ Phật

Phổ Hiền Bồ Tát

(Chính thất Nguyễn Nghi Nhân)

A Di Đà Phật hay còn gọi

Dược Vương Phật

(Đế Minh)

Văn Thù Bồ Tát

(chính thất vua Đế Nghi)

Bảo Sinh Như Lai

(Nguyễn Nghi Nhân)

Đại Nhật Phật

(Kinh Dương Vương)

Bất Không Như Lai

(Đế Nghi)

Nguyệt Quang Bồ Tát

(Quan Âm Bồ Tát)

Đông Độ Dược Sư Phật

(chính thất vua Đế Minh)

Nhật Quang Bồ Tát

(Tây Vương Mẫu)

Phạm Thiên

(Lạc Long Quân)

Tòa tượng Cửu Long

(Phật Bà Quan Âm sơ sinh)

Đế Thích

(Kinh Dương Vương)

Đôi Rùa cõng Hạc

(Chử Đồng Tử và Tiên Dung)

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)

Khuyến Thiện - Trừng Ác

(Hữu Sào - Toại Nhân)

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)



Phương Đông





Mặt khác, 6 vị Phật còn lại trong 7 vị Phật Dược Sư sẽ là ai? Chúng tôi, nhận định 6 vị Phật trên chính là 6 người con trai của vua Đế Minh, trong đó vua Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật với biểu tượng là sao Thiên Cơ. Về mặt thiên văn, thì vua Kinh Dương Vương là biểu tượng mặt trời trong Hệ mặt trời và sao Thiên Cơ trong chòm sao Bắc Đẫu nằm ngoài Hệ mặt. Như vậy, cũng như các nhân vật lịch sử khác của nước Văn Lang, những người con của vua Đế Minh đã được đặt tên cho các chòm sao trên bầu trời.



Gia phả của họ Nguyễn còn lưu giữ ở Văn Nội, Thanh Oai nói về địa chỉ, địa danh thời tiền sử vả truyện một số nhân vật, có đề cập đến Tây phương Cực lạc, nhiều người đến nay vẫn lầm tưởng địa danh này ở Ấn Độ, cũng do họ không đọc kinh cho nên hiểu sai thành quen, có người không được đọc kinh sách, cho nên nói rằng Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Ta hãy tập làm quen với câu kinh: “Nam vô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi, A Di Đà Phật. Nguyên văn câu kinh này ta có thể tìm đến nơi đất Phật, có đôi câu đối sau:



Phật hiệu Di Đà, pháp giới tàng thân tùy xứ hiện,

Quốc danh cực lạc, thục quang chân chảnh cố trung huyền.



Nghĩa là:



Phật hiệu Di Đà, pháp giới dấu mình tùy nơi thể hiện,

Tên nước Cực Lạc, sáng ngời cảnh thật xưa đã dấu điều bí ẩn ở bên trong.



Chùa nước Việt có chữ Thánh Trung Vương”, nghĩa là ông Thánh ấy là vua, vậy là vua nào? Ta cần phải xét phép đặt tên vua sau khi chết là Thánh, là Thần, là nam hay nữ, người xưa muốn dấu tên thật thì nay ta chỉ biết như vậy.



Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nguyễn Minh Khiết, Minh Công, Khương Thái Công, lấy Bà Đỗ Quý Thị, húy Ngoan (Cụ tu theo đạo Sa Môn Phật Giáo hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát), sinh 1 con trai Kinh Dương Vương (Lộc Tục). Bà Hai Vũ Thị Huề sinh 5 con trai: Nguyễn Di Khương Hạ, Nguyễn Nam Khương Thượng, Nguyễn Bắc Khương Hạ, Nguyễn Di Khương Trưởng, Nguyễn Xâm Khương Trung. Cụ Đỗ Quý thị có 8 người em trai hiệu là Bát Bộ Kim Cương, cũng được tôn vinh thêm hai chữ Bồ Tát, mộ 8 vị Kim Cương nằm ở gò Thiềm Thừ (nghĩa là gò Con Cóc Tía) vùng Ba La.



Chúng ta cũng đã biết, Phật Bà Quán Âm chính là Hương Vân Cái Bồ Tát, trong truyền thuyết Bà Chúa Ba hay Sự tích Phật Bà chùa Hương, với hai em dâu là Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi bạch tượng và Văn Thù Bồ Tát cưỡi thanh sư, ba vị được trình bày trên bộ tranh thờ ba bức Tam Bảo của dân tộc Sán Dìu, Việt Nam với hình ảnh Phật Bà Quan Âm sơ sinh ở giữa làm mật ngữ:



Tranh Phật Bảo

Dân tộc Sán Dìu, Việt Nam





Chúng ta tiếp tục xem xét phối hợp với bộ ba tranh bức tranh Tam Từ phối Tam Bảo, hoàn toàn có cấu trúc tương tự:



Tam Từ phối Tam Bảo

Tranh dân tộc Sán Dìu, Việt Nam





Theo nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành thì vua Đế Minh sẽ ở giữa tức Thái Ất cứu khổ thiên Tôn, bên trái là Đế Nghi tức Cứu U phả Độ Thiên Tôn (U Đô cũng là chỉ phương Bắc mà Đế Nghi làm vua phương Bắc như truyện Hồng bang Thị) và bên phải là Nguyễn Nghi Nhân tức Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn. Trong hệ thống tranh thờ Đạo giáo phối Phật giáo, thì ba vị trên luôn luôn được bố trí dưới Tam Thanh: Nguyên thủy Thiên tôn (Thần Nông), bên trái là Linh bảo Thiên tôn (Đế Tiết), và bên phải là Đạo đức Thiên tôn (Đế Thừa):



Tam Thanh

Dân tộc Sán Dìu, Việt Nam





Hình ảnh Phật A Di Đà trong điện Đại Hùng (Đại Hùng lấy tên chòm sao Đại Hùng Tinh - Bắc đẩu) như cái bánh lái chỉ hướng, mặt khác ngài cũng là Khương Thái Công Lã Vọng mà theo sách Tử vi đẩu số toàn thư, tác giả Cổ đồ thư, Nxb Văn hóa Thông tin 2012, thì ngài là ngôi sao Thiên Quyền trong chòm Đại Hùng Tinh cũng rất tương hợp. Đặc biệt, trong câu truyện truyền thuyết Bá Nha - Tử Kỳ chính là mật ngữ nói về Khương Tử Nha:

Bá Nha và Tử Kỳ là đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ là tiều phu. Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Ðô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Ðại Phu. Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).

Bá Nha gảy đàn

Tranh tham khảo





Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Ðô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhân dịp này đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn. Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây. Bá Nha giật mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế này ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lĩnh lệnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng:

- Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được khúc đàn tuyệt diệu của Ngài.

Bá Nha cười lớn bảo:

- Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta, sao ngông cuồng thế?

- Ðại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu.

Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói:

- Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?

- Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng:

Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong,

Dạy người tư tưởng tóc như sương.

Ðàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo,

Ðến cuối câu ba thì dây đàn đứt, còn lại câu bốn là:

Lưu mãi danh hiền với kỷ cương.

Bá Nha nghe xong, đúng quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo.

Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chắp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói:

- Xin quí hữu miễn lễ cho.

Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách.

- Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn?

- Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình.

Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của năm vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm ba đoạn để phân Thiên, Ðịa, Nhân. Ðoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt, thợ khéo Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước nhạc Cung Dao Trì, đặt tên là Dao cầm.

Dao cầm này dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ Chu Thiên, phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Ðàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung,Thương, Giốc, Chủy, Vũ.

Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên hạ đại trị. Vua Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây nữa gọi là dây Văn (Văn huyền), đàn nghe thêm ai oán.

Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm.

Ðàn ấy có Sáu kỵ, Bảy không, Tám tuyệt, kể ra:

* Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.

* Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.

* Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.
Ðàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy.

Bá Nha nghe xong, kính phục bội phần, hỏi thêm:

- Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Ðức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền hỏi Ðức Khổng Tử. Ngài đáp: Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng.

- Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?

- Ðại nhân thử dạo một khúc xem.

Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng:

Ðẹp thay vòi vọi kìa, chí tại non cao.

Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng:

Ðẹp thay, mông mênh kìa, chí tại lưu thủy.

Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm. Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa tri âm mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp.

Hai người đến trước bàn hương án lạy Trời Ðất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt.

Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá này. Bá Nha lấy ra hai đỉnh vàng, hai tay nâng lên nói:

- Ðây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối.

Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến.

Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng.

Thời gian lặng lẽ trôi qua… Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà.

Bá Nha thu xếp hành trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức về Tử Kỳ.

Ðêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên. Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi đường nào, đành ngồi chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi:

- Xin lão trượng chỉ giùm đường đi Tập Hiền Thôn?

- Thượng quan muốn tìm nhà ai?

- Nhà của Chung Tử Kỳ.

Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng nhòa lệ, nói:

- Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày Trung Thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Ðại Phu là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha tặng hai đỉnh vàng, nó dùng tiền nầy mua sách học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khỏe hao mòn, sanh bệnh rồi mất.

Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói:

- Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng: Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Ðại Phu Bá Nha.

Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương ra cúng mộ.

- Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ.

Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt.

Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả.

Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng:

- Sao đại quan hủy cây đàn quí giá này?

Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời:

Dao cầm đập nát đau lòng phượng,

Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?.

Gió xuân khắp mặt bao bè bạn,

Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!

- Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lão.

- Cháu quá bi thương, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắng số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ và bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu trở về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan, cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già.

Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền.
Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.



Nếu chúng ta đảo ngược tên Bá Nha - Tử Kỳ thì sẽ thành Tử Nha - Kỳ Bá hay Khương Tử Nha - Kỳ Bá, mà chúng ta cũng đã biết Khương Tử Nha là vua Đế Minh, một trong Ngũ Đế, thì tên câu truyện lúc này trở thành Hoàng Đế - Kỳ Bá. Hoàng Đế và Kỳ Bá là hai nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách Đông y nổi tiếng Hoàng Đế nội kinh tố vấn, tương truyền do Hoàng Đế, vua nước Trung Quốc cổ đại làm ra. Thời kỳ này, còn có vị quan ngự sử trong triều là Thương Hiệt sáng tạo ra chữ viết, ngài thường được gọi một cách tôn trọng là thánh Thương Hiệt. Vậy thì Đế Minh - Khương Tử Nha chính là Hoàng Đế của Trung Quốc, đều phù hợp với truyện Hồng Bàng Thị và gia phả họ Nguyễn đã ghi nhận.

Khương Tử Nha cũng chính là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, một trong Tam Từ, dưới Tam Thanh trong Đạo giáo, do vậy cuốn Thái Ất mà người trung Quốc hiện nay không công nhận là của mình mang tên ngài, dĩ nhiên lúc này cuốn Độn giáp nhắc lại trong Tam Quốc Chí, Hán Sở tranh hùng… cũng có tình cảnh như vậy. Tuy nhiên, cuốn sách nổi tiếng nhất do ngài sáng tác chính là cuốn sách viết về lĩnh vực quân sự Binh pháp Khương Thái Công, và bài thơ Càn Khôn Vạn Niên Ca, tiên tri sự biến động lịch sử ở tầm thế giới trong vòng 10.000 năm sau.



Chúng ta tiếp tục tham khảo bức tranh thờ Hành Say của dân tộc Dao Lô Gang:



Hành Say và hai bức tranh Thái Úy

Dân tộc Dao Lô Gang, thôn Khuổi Tặng, xã Mẫu Sơn và Ái Quốc, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam





Trên tranh có các chữ từ trái qua phải: Hựu Khang Thái (giúp cho an khang, thịnh vượng); Phúc - Lộc - Thọ (giúp cho nhiều con cái, lắm lộc, sống lâu); Bảo Bình An (bảo vệ cho sự yên bình).



Tranh Thái Úy: biểu hiện vị tổng quản binh lực quốc gia hoặc vị tổng quản âm binh, thần tướng. Có ấn và kiếm, trên ấn có chữ Thái Vĩ (vĩ đại nhất). Phía dưới Thái Úy (tranh bổ sung) có vẽ một đứa bé trai. Huyền thoại về vua Đại Vũ (2140 - 2095 tr.CN) nhà Hạ khi tiến hành trị thủy, theo truyền thuyết Trung Quốc, ông đã hóa thành gấu để đào núi khơi sông. Vợ ông Vũ thấy vậy sợ quá hóa thành đá. Lúc ông trở lại thành người trở lại, ông đòi đứa con mà vợ ông đã mang thai. Hòn đá mà vợ ông hóa thành nứt ra một đứa con trai để trả lại cho ông. Ông đem về nuôi, đặt tên là Khải, sau trở thành vua thứ hai của nhà Hạ. Hình tượng đó phù hợp tính chất bảo trợ sự sống của Sinh Cung. Bức tranh được gọi là Thái Vĩ phù hợp với ý nghĩa tên tranh là Thày Vạy.



Tranh Hải Bá: Thần chủ vùng biển, ngoài biển Đông có hòn đảo Bồng Lai tiên cảnh, là cõi trường sinh bất tử. Huyền thoại Hoàng Đế Hiên Viên là thủy tổ của dân tộc Trung Quốc, là tổ của đạo Hoàng Lão, ông thuộc dòng giống Rồng, ông là vị vua duy nhất đã cưỡi rồng bay lên cõi tiên giữa ban ngày. Hình tượng đó phù hợp với tính chất bảo trợ cho ước vọng thoát tục lên Tiên về cõi trường sinh bất tử của Cung Tử (còn gọi là Cung Trường Sinh - chủ đề của bức tranh này).



Chi tiết cầm chén thuốc (tranh bổ sung): tượng trưng cho thuốc tiên. Chi tiết cầm hoặc thổi tù và (kèn sừng) trên tranh vẽ thể hiện theo huyền thoại ông thống lĩnh binh tướng trừ giặc Xuy Vưu (nhân vật huyền thoại tượng trưng cho lực lượng yêu ma, quỷ quái, có nhiều phép thuật).



Trong các chương trước, chúng ta cũng đã biết Hải Bá và Thái Vĩ là các vị quan văn tướng võ thời Viêm Đế Thần Nông, còn các truyền thuyết liên quan trong các bức tranh ghi nhận một thời rất xa xưa của Đạo giáo. Theo truyền thuyết Hoàng Đế Hiên Viên là ông tổ của dân tộc Trung Quốc, điều này còn rất mơ hồ cho tới ngày nay, nếu chiếu theo bản đồ thiên văn cổ thì Hiên Viên chỉ là chòm sao phụ trong Tử Vi Viên, trong khi đó Hoàng Đế chính là vua Đế Minh, biểu tượng chòm sao Bắc Đẩu hùng vĩ, không chỉ là vua của Trung Quốc mà cả nước Xích Quỷ của vua Kinh Dương Vương trong huyền thoại Hồng Bàng Thị. Đấy là lý do mà Thái sư Chu Công nói: Ta còn nhớ lời của Hoàng Đế xưa, thề rằng: “Phương Việt Thường ở Giao Nam không thể xâm phạm được” (Việt Nam và cội nguồn trăm họ, tác giả Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, 2001, trang 190). Trong câu truyện Hoàng Đế chiến Xuy Vưu, là cuộc chiến với các bộ tộc phía Bắc tại trận Trác Lộc, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.



Bản đồ trận Trác Lộc

Trích cuốn Khám phá những bí ẩn về nhân loại, tác giả Hình Đào, Kỷ Giang Hồng, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010





Tiếp tục căn cứ vào 5 vị Phật của Trung Đài Bát Diệp Viện cùng với Tỳ Bà Thi Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Di Lạc Vương Phật tạo thành 8 vị Phật. Do vậy, trong chòm sao Bắc Đẩu, chỉ có 2 vị Phật là Đại Nhật Phật - sao Thiên Cơ và A Di Đà Phật - sao Thiên Quyền, còn lại phải là các vị Bồ Tát.



Tám vị Phật

Trích Đồ họa cổ Việt Nam, Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược




1. Tỳ Bà Thi Phật

2. Thi Khí Phật

3. Tỳ Xá Phù Phật

4. Câu Lưu Tôn Phật

5. Câu Na Hàm Mâu Ni Phật

6. Ca Diếp Phật

7. Thích Ca Mâu Ni Phật

8. Di Lạc Tôn Phật



Từ những kết quả xác định các vị Cổ Phật là ai, thì việc tiếp tục xác định lại các vị Quan Thế Âm Bồ Tát là những nhân vật lịch sử nào cũng cần phải được thực hiện, nhằm mục đích lấp đầy những khoảng trống lịch sử nước Văn Lang, cũng như của lịch sử Phật giáo và các tôn giáo cổ đại khác trên thế giới.



Quan Thế Âm Bồ Tát

Quan Thế Âm là một vị Đại Bồ Tát, rất có lòng từ bi hay cứu khổ cứu nạn, do vậy ở đâu ai ai cũng thờ và tụng niệm danh hiệu của ngài. Người ta nói đạo Phật từ bi vô cùng, chính vì nhờ có Phật thông qua các vị Bồ Tát, cụ thể là Quan Thế Âm Bồ Tát mở lòng từ bi đem pháp mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Ba tiếng Quan Thế Âm có một sức mạnh và ý nghĩa rất sâu xa, có sức lan truyền rộng lớn, nhanh chóng trong khoảnh không bao la của thế gian, mỗi khi ba tiếng đó khởi lên là sự đau khổ, sự kêu cứu của chúng sinh phần nào như bớt đi và có khi giảm hẳn.

Trong thần thoại như tác phẩm Tây Du Ký, văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật, thì Quan Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bồ Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Thích Ca Mâu Ni, điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật. Trong mọi ngôi chùa, thường thì chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát khác.



Tranh tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, tựu trung thành 6 hoặc 7 kiểu tượng gọi là Lục Quan Âm hay là Thất Quan Âm, chúng ta hãy cùng xem xét mỗi hình tượng sẽ tương ứng là vị Thánh nào trong lịch sử.

Thiên thủ thiên nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát: ngài rất thần thông quảng đại cứu độ chúng sinh, không đâu là ngài không thấy, không việc gì là ngài không làm được. Do vậy ngài có sắc tướng là một vị Phật có nghìn mắt nghìn tay. Chúng ta biết rằng “Thiên” là một nghìn cũng đồng âm là “Trời”, đặc biệt con mắt trong lòng bàn tay biểu tượng cho một tia sáng là hình tượng của mặt trời, đấy chính là vua Kinh Dương Vương, Đại Nhật Phật. Như vậy thật là rõ ràng, Phật Bà nghìn mắt nghìn tay chính là hoàng hậu của vua Kinh Dương Vương, bà chính là Tây Vương Mẫu, bà Vũ Tiên, Thiên Hậu nương nương, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, bà Trời…

Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt

Chùa Bút Tháp, xã Đình Tổ, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam




Mỹ thuật tượng phối hợp giữa hình tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay và Thập Nhất Diện Quan Âm. Tòa sen được nâng đỡ bởi một con rồng hay quỷ nhô lên từ mặt biển. Chi tiết này có một mối liên quan rất lớn từ truyền thuyết đến hình tượng. Truyền thuyết này đến từ Trung Quốc với hình tượng Long vương Ô Ba Na Đà, biểu tượng nhân vật cai quản dưới nước. Hình tượng này rất hiếm gặp, đoạn thắt tòa sen của các bệ tượng nói trên thường được diễn tả là một hòn ngọc hay tạo hình thành một cái trục tượng trưng cho Trục vũ trụ. Hình tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn ở Việt Nam, tác giả trang Thu Hiền, Nxb Thông tin, 2005.

Do bức tượng là sự kết hợp của hai hình tướng Quan Âm, nên chúng ta cần phải xem xét tiếp qua đoạn cuối câu truyện Bà Chúa Ba hay Phật Bà chùa Hương: “cuối cùng Đức Phật cho bà có được nghìn mắt, nghìn tay để cứu độ chúng sinh, sau khi vua cha cầu khấn Phật khi thấy bà mất hai cánh tay và hai mắt và bà đã trở lại nguyên vẹn như xưa”. Từ chi tiết này, chúng ta cũng cần có các nhận định bổ sung thêm giữa Phật Bà nghìn mắt nghìn tay và Quan Âm 11 mặt.

Quan Âm Tọa Sơn: có lẽ chính là sự kết hợp của tín ngưỡng thờ Mẫu với Phật giáo. Trong điện Mẫu ở các chùa, cả ba Mẫu Thoải - Mẫu Thượng Thiên - Mẫu Thượng Ngàn thường được tạo hình giống nhau và được đặt ở vị trí ngang hàng nhau, chỉ phân biệt được qua trang phục. Tuy nhiên ở nhiều nơi Mẫu Thượng Ngàn còn được tách ra thờ riêng trong sơn trang, được tạo hình là cả một cảnh rừng núi, hang động còn hoang sơ, thể hiện mẫu của cõi rừng núi và khi tín ngưỡng thờ Mẫu thâm nhập vào Phật điện thì Mẫu hóa thân thành Bồ Tát Quan Âm Tọa Sơn. Như vậy, hệ quả Quan Âm Tọa Sơn chính là Mẫu Thượng Ngàn hay Tây Vương Mẫu, Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.

Thập Nhất Diện Quan Âm: Đây là hình tượng đức Quan Âm gồm có 11 mặt, còn gọi là Ðại Quang Phổ Chiếu Quan Âm. Hình tượng 11 đầu được chia thành 5 tầng: Tầng 1 hay tầng chính: 3 mặt, mặt trước có sắc trắng biểu thị sự dung hòa từ bi, bên phải màu lam, bên trái màu hồng. Tầng 2: 3 mặt, lộ rõ tướng bi ai, sắc vàng trắng, bên phải vàng sáng, bên trái hồng vàng. Tầng 3: 3 mặt, lộ rõ tướng tươi cười, sắc hồng bạch, bên phải màu xanh, bên trái sắc tía. Tầng 4: 1 mặt đơn là Đại Nộ Minh Vương tượng, đầu tóc có sắc xanh, mặt trông khá dữ tợn. Tầng 5: tượng Phật A Di Đà nhỏ có sắc hồng. Trong động Đôn Hoàng Ngàn Phật ở núi Thiên Long, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc đều có tượng Thập Nhất Diện Quan Âm, mặt trước có hai tay, mặt sau có tám tay, có sự quan hệ thị hiện Thập Nhất Diện.

Thập Nhất Diện Quan Âm

Tranh cổ các nước Đông Á từ thế kỷ XI-XII




Trong đạo Mẫu Việt Nam, chúng ta đã khảo sát qua bức tranh dân gian thờ Hàng Trống Tam Công đồng, như vậy nếu cho rằng có liên quan với hình tượng trên thì lớp 2 và lớp 3 có 3 mặt sẽ biểu tượng cho Tam Thanh và chính thất của các ngài, bởi vì tầng 1 (tầng chính) 3 mặt biểu tượng cho Tam Từ (tương ứng vị trí Phật Bà Quan Âm), và do vậy, tầng 4 với 1 mặt chính là Phục Hy và tầng 5 tức tầng cuối cùng chính là “chính thất vua Phục Hy”. Do vậy, Thập Nhất Diện Quan Âm ứng với vị trí Tam Từ hay chính là Phật Bà Quan Âm - Đông Độ Dược Sư Lưu ly Quang Phật (cách bố cục trên theo quy tắc Âm Dương: trên dương, dưới âm).

Vua Phục Hy là “Hư Không giáo chủ” hay chính ngài là giáo chủ của đạo Bà La Môn thời tối cổ và sau này mẹ của vua Kinh Dương Vương tu tập đạt chính quả, với pháp danh Hương Vân Cái Bồ Tát, Bà đản sinh vào ngày 8 tháng Tư âm lịch và cũng là ngày đản sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni theo truyền thuyết Phật giáo.

Nếu so sánh hình tượng Quan Âm 11 mặt với Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, rõ ràng mang ý nghĩa khác nhau, do vậy phải là hai người khác nhau. Nếu bức tượng hợp nhất giữa 11 mặt và nghìn mắt nghìn tay thì chúng ta phải nhận định Phật Bà Quan Âm 11 mặt là thần chủ, còn bức tượng nghìn mắt nghìn tay không có 11 mặt thì gọi là Quan Âm Bồ Tát nghìn mắt nghìn tay.

Nam Hải viên thông giáo chủ đại từ đại bi tâm thanh cứu khổ linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát: Đây là đức Quán Thế Âm làm giáo chủ viên thông ở miền Nam Hải. Ngài thường tìm tiếng kêu mà cứu khổ, rất cảm ứng và linh thiêng. Bởi lẽ, ngài chỉ còn một cấp nữa là thành Phật nhưng vì lòng thương xót chúng sinh, muốn ở lại thế gian chúng ta để cứu khổ, cứu nạn.

Xuất phát từ truyền thuyết Quan Âm quá hải trong kinh Phật kể về tích khi Quan Âm vượt biển nhìn xuống phía dưới thủy quái đang hoành hành dữ dội. Bà đã ra tay cứu vớt chúng sinh và thuần phục đám thủy quái. Nên hình tượng này thường được gắn với hình tượng con quái vật đội tòa sen rước Quan Âm. Ở các tỉnh phía Nam Việt Nam hình tượng này còn được gắn liền với tục thờ cá ông voi của ngư dân. Cũng có dị bản chép khi đi qua biển Đông, Quan Âm nhìn thấy đàn cá voi bị bão tố đang kêu cứu dữ dội, liền xé ngay tấm áo cà sa của mình ra để cứu vớt những sinh vật tội nghiệp thoát khỏi kiếp nạn. Đây cũng là truyền thuyết giải thích tại sao tấm áo cà sa của Quan Thế Âm lại là nhiều mảnh được chắp lại.

Qua truyền thuyết và hình tượng của ngài, chúng ta có thể thấy công lực của ngài hàng phục được đám thủy quái của biển chính là Chúa Mẫu Thoải, hoàng hậu vua Lạc Long Quân, chúa tể Cõi Nước, bà Âu Cơ, Nguyệt Lão bà bà, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Chúng ra rút ra nhận xét, hình ảnh vị Quan Âm nào liên quan đến “nước” và có khả năng hộ trì sinh con cái - mẫu Âu Cơ sinh một bọc 100 con trai: Quan Âm Tống Tử, Quan Âm Cam Lộ, Bạch Y Quan Âm, Quan Âm Ngư Lam, Quan Âm Thủy Nguyệt… thông thường gọi là Quan Âm Bồ Tát. Trong tất cả các hình tượng Quan Âm Bồ Tát thì hình tượng Quan Âm bạch y, tay cầm bình nước cam lộ tế độ chúng sinh là hình tượng chính.

Bồ Tát Quan Âm Tara

Bảo tàng Lịch sử, Việt Nam





Quan Thế Âm Bồ Tát có truyền lại cho chúng sinh một câu thần chú rất linh diệu và ngắn gọn: Úm ma ni bát mê hồng (Om mani padme hum), gọi là “Lục tự Đại minh Chân ngôn” (Tham khảo Đạo Phật và thế gian, tác giả Bùi Biên Hòa, Nhà xuất bản Hà Nội 1994).



Quan Âm mật chú đồ

Trích Tính Mệnh Khuê Chỉ, tác giả Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ



Chú này là tâm ấn rất vi diệu của Đức Quan Âm. Ai mà viết chú này thì cũng như viết Tam Tạng Pháp bửu, ai mà đọc chú này thì cũng như đọc kinh Phật, lại mở mang đầu óc, oan nghiệp được giải trừ, thoát ly sinh tử, đạt tới pháp thân an lạc. Nhưng niệm chú có mật quyết, nên: Tiếng thứ nhất là Úm niệm từ chính rốn (đan điền), đó là niệm Tì Lô Giá Na Phật trong ta. Tiếng thứ hai là Ma ở phía Đông, đó là kêu Bất Động Tôn Phật trong ta. Tiếng thứ ba là Ni ở phía Nam, đó là niệm Phật hộ thân bảo sinh trong ta. Tiếng thứ tư là Bát ở phía Tây, đó là niệm Vô Lượng Phật trong thân ta. Tiếng thứ năm là Mê ở phía Bắc, tức là niệm Bất Không Thành Tựu Phật trong ta. Tiếng thứ sáu là Hồng tại yết hầu, đó là niệm Đại Thế Chí Kim Cương. Niệm lâu ngày ngũ khí sẽ triều nguyên, tức thành tựu được công đức khôn cùng và chứng đắc được viên thông.

Chuẩn Đề Quan Âm: Theo đúng như kinh sách thì tượng của ngài tạc có 3 mắt, 18 tám tay và mặc áo trắng có vẽ hoa. Mật giáo cho rằng ngài là mẹ của chư Phật vô lượng quá khứ, cho nên gọi là Cư Thất Đê Phật Mẫu. Có thuyết nói rằng ngài thường tới thế gian, phá bỏ tất cả hoặc nghiệp của chúng sinh, làm cho chúng sinh có thể loại trừ được tai nạn, kéo dài tuổi thọ và có thể diệt trừ được tội chướng. Tụng niệm chân ngôn của ngài còn có thể chiến thắng quân thù, vợ chồng hòa mục, yêu thương lẫn nhau, sinh con trai, làm trẻ con không quấy khóc đêm.

Tượng Quan Âm Chuẩn Đề

Chùa Thầy và chùa Động Lâm, Việt Nam




Quan âm Chuẩn Đề chùa Động Lâm, xã Hợp Thịnh vốn có tên Nôm là Hốp, ở phía Tây Bắc thành phố Vĩnh Yên, thuộc huyện Tam Dương.

“Động” có nghĩa là hang núi, “Lâm” có nghĩa là rừng. Tên chùa mang ý nghĩa “Trừng ác, Khuyến thiện”.





Đặc biệt nhất là trong hình tượng Quan Âm Chuẩn Đề ở Việt Nam có hai tay phổ lễ sau lưng. Qua các bức tượng trên, chúng ta thấy hình ảnh con quỷ nhô lên khỏi mặt biển đỡ tòa sen rất phổ biến trong dân gian. Chuẩn Đề là một loại hình Quan Âm khá đặc biệt, không nằm trong hệ thống Lục Quan Âm mà tách riêng ra thành một loại hình độc lập. Quan Âm Chuẩn Đề đã có lúc là loại hình bổ trợ thêm, nếu tính thêm vào hệ thống Thất Quan Âm. Mãi sau này trong hệ thống Lục Quan Âm, người ta mới dùng loại hình Quan Âm Chuẩn Đề thay thế cho loại hình Quyến Sách Quan Âm. Chuẩn Đề Quan Âm được biết qua các bộ kinh của Mật Tông Tây Tạng. Phải chăng Chuẩn Đề Quan Âm đại diện cho pháp này? Tại sao người Việt vùng đồng bằng sông Hồng lại thích thờ tượng ngài? Những lý do xã hội nào thức đẩy sự thay đổi thủ tục thờ các loại hình tượng Quan Âm như thế?.

Ngày nay, khi vào các chùa, phía gần sau cùng, phần cao giữa chính điện thờ, thường thấy ba bức Di Đà Tam Tôn, ở giữa là tượng Đức A Di Đà, bên tay phải là tượng Quan Thế Âm và bên tay trái là tượng Đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Chính vì lẽ đó minh chứng một điều rằng, người ta vẫn tin vào những điều chép trong Kinh Bi Hoa, cho rằng Đức Phật A Di Đà là vua Vô Tránh Niệm, còn hai người hai bên là con trưởng - Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát (Bất Tuẫn) và em trai thứ - Đức Đại Thế Chí (Ni Ma), qua các câu truyện cổ tích Phật giáo Sự tích Phật A Di Đà và bảy vị Bồ Tát. Do có nhiều biểu tượng Quan Thế Âm, cho nên chúng ta chưa thể xác định đấy là vị Quan Âm nào. Để xác định Chuẩn Đề Quan Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí là ai, chúng ta phải xem lại các chòm sao thiên văn là Cửu Diệu bao gồm Thất Chính và hai sao “hư” La Hầu và Kế Đô, trong đó sao La Hầu biểu tượng Đức Tỳ Bà Thi Phật và sao Kế Đô biểu tượng Bất Không Quyến Sách Quán Âm. Sao La Hầu là hiện tượng Nhật thực và sao Kế Đô là hiện tượng Nguyệt thực, chúng tôi nhận định Bồ Tát Đại Thế Chí với biểu tượng sao Kế Đô - Nguyệt thực và Chuẩn Đề Quan Âm với biểu tượng La Hầu - Nhật thực tương ứng với sự thay thế đã mô tả ở trên.

Cũng theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, thì vua Đế Lai con của vua Đế Nghi, cha của bà Âu Cơ, sau này tu thành Phật và gọi là Phật Tổ Như Lai, tuy nhiên với nhận định ở trên và “Tỳ Bà Thi” mang ý nghĩa của “người nữ”, do vậy vua Đế Lai là Bồ Tát Đại Thế Chí. Lúc này, Chuẩn Đề Quan Âm cũng chính là Bất Không Quyến Sách Quán Âm - Tỳ Bà Thi Phật và là thân mẫu của bà Âu Cơ - Quan Âm Bồ Tát.





Trong Chương VII: VIẾT LÊN TRỜI XANH chúng ta cũng đã ghi nhận các hành tinh trong hệ mặt trời được lấy làm biểu tượng của các vua Hùng, cùng với nhận định về vua Đế Lai - sao Kế Đô và Chuẩn Đề Quan Âm - sao La Hầu, chúng ta không thể không nhận định là các hành tinh còn lại trong hệ mặt trời nằm ngoài vành đai thiên thạch sẽ biểu tượng cho vị vua nào? Từ các dữ kiện lịch sử cổ đại Trung Quốc như đã phân tích, thì đó chính là các vị vua nối tiếp Đế Lai: Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí, được trình bày theo bảng dưới đây:



Hệ mặt trời

Trích Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh





Bất Không Quyến Sách Quán Âm: quyến sách là cái lưới giăng bắt chim, tượng trưng cho ý nghĩa ngài ném tung cái lưới ra trùm khắp cả đại thiên thế giới để cứu độ tất cả chúng sinh. Do tâm nguyện của ngài chẳng không nên gọi Bất Không. Tượng này đa số là một mặt, ba con mắt và tám tay. Ngoài tên gọi đó còn có 5 tên gọi khác nhà: Bất Không Quyến Sách Quan Thế Âm Bồ Tát, Bất Không Vương Quan Thế Âm Bồ Tát, Bất Không Quảng Đại Minh Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, Bất Không Tất Địa vương Quan Thế Âm Bồ Tát, Bất Không Quyến Bồ Tát. Vị Bồ Tát này dùng cái lưới của tâm từ bi mà thương yêu che chở và tiếp dẫn chúng sinh. Tâm nguyện của ngài chẳng sa vào Không, cho nên gọi là Bất Không. Thân hình ngài da thịt màu trắng, ba mặt, bốn tay, mỗi mặt đều có ba mặt. Ta trái của ngài cầm cánh hoa sen nở, tay trái dưới cầm quyến sách. Tay phải trên cầm chuỗi ngọc, tay phải dưới cầm tịnh bình (bình nước trong). Như đã nhận định ở trên, ngài cũng chính là Tỳ Bà Thi Phật và là thân mẫu của bà Âu Cơ.



Mã Đầu Quán Âm: Thông thường trên đỉnh đầu của ba mặt đều mang đầu ngựa, là hình tướng phẫn nộ. Hóa thân này của Đức Quan Âm bởi tại tâm từ bi, cho nên không trú niết bàn mà trú trong cảnh giới vô minh để đoạn tâm ác thú. Hình tượng ngài có ba đầu, hai tay, ba mặt, tám tay. Con ngựa là biểu tượng của phương Nam, ”cực dương” trong Địa chi, mà ta cũng biết Hương Vân Cái Bồ Tát thuộc phương Nam, với biểu tượng thần khí là cái vạc đồng và con chim phượng hoàng, do vậy Mã Đầu Quan Âm cũng chính là Phật Bà Quan Âm.



Thánh Quan Âm: Hình tượng của ngài biến hóa và rất nhiều loại khác nhau, thường phân biệt bởi cái mũ trên đầu ngài dùng chữ “Thánh” để biểu thị, cho nên gọi là Thánh Quan Âm. Trong hệ thống tranh thờ dân gian Hàng Trống, bức tranh thờ Cô Ba (Thánh Cô), chính thất của vua Hùng Quốc Vương chính là ngài. Trong chầu Cô Chín với hình tượng “con gà” hành Kim độ số 9 tương ứng biểu tượng của ngài. Trong chính điện Đại Hùng, bố cục Cửu cung (ngoài Tam Thế Phật) là tiêu chuẩn ứng với 9 con rồng bảo vệ Phật Bà Quan Âm sơ sinh, nên không bố trí thêm các vị Bồ Tát khác ở khu vực cửu cung này, mà chỉ bố trí thêm hai bên là thần Nam Tào coi sổ sinh và thần Bắc Đẩu coi sổ tử.



Tham khảo bức tranh Nam Đường số 1 và số 2, tranh của dân tộc Cao Lan - Sán Dìu, được sưu tầm tại huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc:



Nam Đường 1

Dân tộc Cao Lan - Sán Dìu, Việt Nam

Nam Đường 2

Dân tộc Cao Lan - Sán Dìu, Việt Nam









Có thể nhận thấy: trên hai cột màu đen của điện thờ lớn, chính giữa, có các dòng chữ Hán màu trắng với nội dung:



Đông Hoàng Đại Đạo (bên phải),

Tây Quốc Phu Nhân (bên trái).



Theo Hoa Vương Thần Mục, thần hiệu đầy đủ là Thượng Cung Đông Hoàng Đại Đạo Tây Quốc phu nhân là tôn xưng của Hoa Vương Thánh Mẫu vốn là Bích Hà Nguyên Quân. Bà là người bảo hộ cho phụ nữ và trẻ em, vẽ chính giữa ở trên cao. Giúp việc cho bà, có các Hoa Tào trong Hoa Cung, có hai bà ở hai bên là bà Tinh mắt và bà Cho nhiều con (Tống Tử Nương Nương - bế trên tay đứa trẻ sơ sinh - vẽ ở đầu hành thứ tư tính từ dưới lên bên trái).



Trong Hoa Cung còn có sáu thị thần thứ yếu, chăm sóc các giai đoạn nuôi dưỡng trẻ thơ khác nhau. Bà giúp cho phụ nữ bắt đầu mang thai. Ba nuôi thai và làm cho thai cứng cáp. Bà thúc nhanh việc sinh nở (đẻ nhanh, dễ đẻ). Bà đem lại niềm vui và che chở cho sản phụ sinh đẻ. Bà giữ việc yên lành và hạnh phúc cho trẻ thơ. Bà đậu mùa. Ngoài ra còn có thổ thần ở vị trí cuối tranh bên phải.



Tiếp tục quán xét bức tranh Nam HoaQuan Âm của dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, tranh do nghệ nhân Hàng trống thực hiện năm 1921.



Quan Âm

Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Việt Nam

Nam Hoa

Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Việt Nam









Trong bức Nam Hoa, phía trên là hình Phật Tam Thế, hình tượng chính là Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen, phía dưới là con thuyền bát nhã và hai tầng nhân vật gồm 5 nhân vật ở mỗi tầng (Thập Cực Chân Nhân đưa linh hồn người về cõi Niết bàn). Kết hợp xem xét các bức tranh Nam Đường Nam Hoa, chúng ta sẽ nhận biết trong bức Nam Hoa 3 thì hình Phật Tam Thế chính thực là Phật Bà Quan Âm, Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát; Phật Bà Quan Âm thực ra là Tây Quốc phu nhân hay Tây Vương Mẫu, chính thất của vua Kinh Dương Vương - Ngọc Hoàng Thượng Đế; tiếp theo là Huyền Thiên Trấn Vũ và Câu Trần. Từ đó, chúng ta có thể nhận biế tranh Nam Hoa 1 và Nam Hoa 2 là giống nhau, Trên cùng là Phật Bà Quan Âm, có 6 người con trai, tiếp theo là Tây Vương Mẫu có 5 người con trai.



Trong bức tranh Quan Âm thì đấy chính là tây Vương Mẫu, phía dưới là Huyền Thiên Trấn Vũ.



“Nam Hoa” có nghĩa là bơi thuyền về hướng Nam, xuất phát từ sự kiện: khoảng năm 847 - 859 dời Đường, trên đường rước tượng Quan Thế Âm Bồ Tát vượt biển về Nhật Bản, trên đường đi thuyền gặp bão, phải rước tượng lên thờ ở đảo Mai Sầm trong vùng biển Nam Trung Quốc (thuộc tỉnh Triết Giang), rồi mở rộng, trở thành đạo tràng Phổ Đà Sơn do Quan Thế Âm Bồ Tát ngự trị. Phổ Đà Sơn (Potolaka) dịch từ tiếng Ấn Độ là tên một hòn núi trên đảo vùng biển Nam Ấn Độ, theo truyền thuyết là nơi Quan Thế Âm Bồ Tát tu hành. Và sự kiện đó có tên gọi là Quan Thế Âm Quá Hải và Quan Thế Âm Nam Hải, được coi là Thần Bảo hộ ngư dân.



Tiếp tục quán xét bức tranh Tam Nãi Phu Nhân sưu tầm trong dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Tam Nãi Phu Nhân

Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Việt Nam





Từ trên xuống dưới: Lý Bát Đại Nương, Lâm Đại Bát Nương - tức Thiên Phi hay Thiên Hậu tên húy là Lâm Mặc hay Lâm Hiếu, Sài Đại Bát Nương. Bức tranh này hợp tôn thần vị của 3 thầy trò Thiên Phi Lâm Mặc. Một vị có thể nhìn xa ngàn dặm (Thiên lý nhãn) và một vị có thể nghe tiếng kêu cứu ngoài ngàn dặm trong dông tố (Thuận phong nhĩ); Hai người này giúp cho Thiên Phi Lâm Mặc (ở giữa) có thể cứu vớt được người bị nạn trong giông tố ngoài biển khơi. Rõ ràng, Thiên Phi Lâm Mặc rất giống với vai trò của Bích Hà Nguyên Quân. Kết hợp các bức Nam Hoa, thì trên cùng sẽ là Phật Bà Quan Âm, kế tiếp là Tây Vương Mẫu, cuối cùng là Quan Âm Bồ Tát (Tống Tử Nương Nương).



Tham khảo thêm bức tranh Nam Cung của dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng.



Nam Cung

Dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng





Bức tranh thể hiện vị thần chính là Bích Hà Nguyên Quân và các bà giúp việc chủ yếu, Thổ Thần, trong Hoa Tào của Hoa Cung. Phía trên cùng, có lẽ là hình ảnh của Đông Nhạc Đại Đế và tả hữu cận thận, Bích Hà Nguyên Quân được coi là con gái của ông. Phối hợp xem xét với các bức tranh Nam Đường và Nam Hoa, thì trên cùng là Thái Ất Cứu Khổn Thiên Tôn (Đế Minh) và dưới là Tây Vương Mẫu. Ở Trung Hoa và Việt Nam, Đức Phật Mẫu được gọi bằng các danh từ: Diêu Trì Kim Mẫu, Kim Bàn Phật Mẫu, Tây Vương Mẫu.



Mẹ Hoa là chủ cây hoa (sinh ra người - người vốn là hoa của đất), trên có hoa vàng và hoa bạc. những gia đình hiếm con là lễ cầu xin tới Mẹ Hoa, mong Mẹ Hoa ban pháp cho hoa vàng sinh con trái, hoa bạc sinh con gái. Ngoài việc cầu cúng bằng lễ nghi, gia đình còn phải làm những việc phúc đức, từ thiện đối với cộng đồng như sửu đường, bắc cầu… cho người qua lại để cầu phúc. Họ tin rằng, mỗi người qua đường thuận lợi hơn sẽ có lời khen. Lời khen ngợi về công quả phúc đức, từ thiện của họ sẽ thấu đến Mẹ Hoa và Mẹ sẽ ban thưởng con cái cho họ. Như vậy Mẹ Hoa hoàn toàn giống với Quan Âm Bồ Tát tức Tống Tử Nương Nương.



Theo cuốn Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc của henri Maspero, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1998, trang 257 IV.Thủy Thủ: Thiên Hậu thì các Thủy thủ có một nữ thần bảo hộ, mà trong những thế kỷ qua nữ thần này chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thần linh Trung Quốc, nhờ sự ban tặng của Hoàng đế Mãn Châu: Thiên Hậu (Hoàng Hậu của trời), cũng là Thiên Thượng Thánh Mẫu (Mẹ Thánh trên trời), hoặc thân mật hơn Mã Tổ Bà (Bà Tổ). Việc thờ cúng nữ thần này có nguồn gốc từ Phúc Kiến, và từ đó đó lan ra khắp Trung Quốc. Bà cũng chính là Tây Vương Mẫu, trong các bức tranh thờ Đạo giáo miền Bắc Việt Nam ở trên.



Từ việc xác định lại bố cục điện Đại Hùng liên quan đến các nhân vật lịch sử nước nhà, được hình tượng hóa qua các vị thần thánh, các chòm sao thiên văn, chúng tôi sắp sếp, bố cục lại mặt bằng của một ngôi chùa thời Hùng Vương.



Bố cục mặt bằng chùa thời Hùng Vương



Bố cục mặt bằng chung của các ngôi chùa thường bao gồm các công trình kiến trúc sơn môn, tam quan, ao phòng sinh, lầu chuông gác trống, Đại Hùng bảo điện, Thiên vương điện, pháp đường, tàng kinh các, Đông Tây phối điện, chủ cung Phật điện và vạn trượng (Lục Tổ đàn kinh, Lục Tổ Huệ Năng, Thích Minh Nghiêm dịch, Nxb Thời đại, 2010).



Bố cục mặt bằng chùa Trung Quốc

Tham khảo





Tam quan: Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong kiến trúc chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, là một kiểu kiến trúc cổng với ba cửa vòm. Có nhiều chùa do đất rộng, địa hình thay đổi nên bố trí hai cổng tam quan, cổng ngoài gọi là Sơn môn và cổng trong gọi là Tam quan, mộ số chùa tầng trên của Tam quan dùng làm gác chuông. Tuy nhiên theo bố cục phong thủy thì chùa cổ thời Hùng Vương chỉ có một cổng tam quan mà thôi, trên đỉnh mái tam quan không tôn trí lưỡng long triều nhật và tượng đôi “nghê quỳ”, cũng như không phải là nơi bố trí gác chuông, hai bên cổng sẽ tôn trí tượng thần hộ vệ cổng theo bộ tranh dân gian Đông Hồ nhị bình là Vũ Đinh - Thiên Ất, chính là Lý Ông Trọng và Cao Nỗ như đã phân tích, còn trong văn hóa Trung Quốc gọi hai vị môn thần trên là Thần Đồ và Uất Lũy. Phía trên cánh cửa tò vò giữa của cổng Tam quan là nơi bố trí bức hoành phi ghi tên chùa, hai mặt trước sau cột đắp đôi câu đối.



Vũ Đinh - Thiên Ất

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam






Hai góc tường ngay sau khi bước qua cổng Tam quan thì được trồng cây bồ đề, cây đa nhằm nhấn mạnh biểu tượng của Phật giáo.



Qua Tam quan là đến sân chùa, tại đây thông thường có hồ sen và một cây cầu bắc qua để di vào trung tâm chùa gọi là cầu Nại Hà, hồ dùng nuôi cá vàng, rùa… với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa, tên thường gọi của hồ sen là “Long trì”.



Lầu chuông gác trống: Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà Tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang... Theo phân tích bức tranh dân gian Hàng Trống Bà Chúa Ba, thì lầu chuông và gác trống bố trí hai bên trái phải trước Thiên vương điện và nhà Bái đường.



Gác trống Văn Miếu Mao Điền

Cẩm Điền, Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

Giếng cổ đá ong

Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội









Thiên Vương điện: qua cầu Nại hà sẽ tới Thiên Vương điện, là nơi thờ tự Di Lạc Bồ Tát cùng với Tứ Thiên Vương và Vi Đà Hộ Pháp.



Tứ Đại Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương, là bốn vị thiên tướng bảo hộ Phật pháp, thuộc Thiên bộ trong Thập nhị Thiên của Phật giáo. Tứ Đại Thiên Vương cư trụ trên núi Do Kiền Đà La lưng chừng núi Tu Di, thấp hơn cõi trời Đao Lỵ của Đế Thích, mỗi vị trấn giữ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, cai quản hộ trì tứ đại bộ châu Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hạ Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Bắc Cu Lô Châu. Ở Trung Quốc, do ảnh hưởng của truyện Phong thần Diễn Nghĩa và truyền thuyết dân gian còn gọi Tứ Đại Thiên Vương, chức phận của bốn vị còn Phong, Điều, Vũ, Thuận (mưa thuận gió hòa) tương ứng tượng Gió, Mây, Chớp, Mưa, còn Sấm chính là Di Lạc Bồ Tát trong câu chuyện truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương.



Thiên Vương điện

Chùa Tuyết Đậu, Trung Quốc





Tứ Thiên Vương được thờ trong Thiên Vương điện cùng với Vi Đà Hộ Pháp, trong đó tượng Di Lạc Bồ Tát ở trung tâm Thiên Vương điện.



Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương (Điều Thiên Vương): ngài có năng lực hộ trì đất nước, bảo hộ chúng sinh, cư trụ phía Đông núi Tu Di, mặc giáp trụ, nét mặt phẫn nộ, tay cầm đàn tỳ bà, biểu thị lòng từ bi, dùng âm nhạc để cảm hóa chúng sinh quy y Phật pháp.



Nam Phương Tăng Trưởng Thiên (Phong Thiên Vương): ngài có năng lực hộ trì chúng sinh tăng trưởng thiện căn, cư trụ ở phía Nam núi Tu Di, nét mặt giận dữ, mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm không cho tà ác xâm phạm.



Tây Phương Quảng Mục Thiên (Thuận Thiên Vương): ngài có thể dùng thiên nhãn thanh tịnh quán sát thế giới hộ trì chúng sinh, cư trụ phía Tây núi Tu Di, hiện tướng giận dữ, mặc giáp trụ, tay quấn con rắn.



Bắc Phương Đa Văn Thiên (Vũ Thiên Vương): ngài từng bảo hộ đạo tràng của Như Lai, do đó được nghe Như Lai thuyết pháp nhiều, cư trụ ở phía Bắc núi Tu Di, hiện tướng phẫn nộ, tay cầm bảo tháp, biểu thị phước đức đa văn, hàng phục chúng ma, bảo hộ tài bảo của chúng sinh.



Hình Tứ Thiên Vương

Chùa Thiên Đồng, Ninh Ba, Triết Giang, Trung Quốc





Vi Đà Hộ Pháp: tay cầm giáng ma xử (chùy kim cương) để hàng phục ma quỷ, theo phân tích trong Chương VII: VIẾT LÊN TRỜI XANH, chính là Triệu Vũ Đế, Triệu Đà, trong thờ tự dân gian Việt Nam thường gọi là Vũ Di Hộ Pháp.



Truyền thuyết, sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, chư thiên thần và chúng vương bàn về việc hỏa thiêu di thể, nhặt xá lợi thờ trong tháp. Lúc này Đế Thích Thiên cầm bình thất bảo đến chỗ thiêu để lấy xá lợi vì trước kia ngài đã được Đức Phật chấp thuận cho một chiếc răng đem về để dựng tháp thờ. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát nấp bên người Đế Thích Thiên, thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm răng Phật. Vi Đà trông thấy bèn đuổi theo như tia chớp, trong nháy mắt đã bắt được quỷ La sát tống vào ngục, trả lại răng Phật cho Đế Thích Thiên, được chư Thiên khen ngợi. Từ đó về sau, Vi Đà được cho là có thể xua đuổi tà ma, bảo hộ Phật pháp, gánh vác trọng trách bảo vệ linh tháp (stupa) của Phật Tổ (chứa xá lợi Phật). Kể từ đó, hình tượng Vi Đà Hộ Pháp song hành cùng linh tháp chứa xá lợi Phật.



Xá lợi đầu, xương và não của Phật Thích Ca


Trích Xá Lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Thánh vật thần bí, Thanh Như dịch




*Xá lợi: phiên âm của từ "sarira" trong tiếng Phạn, nghĩa đen là “hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, thi hài ngài được đưa đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Những “viên ngọc” được đặt tên là xá lợi, đó là bảo vật của Phật giáo.



Theo Tây Du Ký của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, xá lỵ được tạo ra do sự hòa hợp âm dương của người tu luyện.



Ngoài ra, nếu diện tích khuôn viên của chùa đủ rộng, thì đôi khi còn bố trí bảo tháp Cửu phẩm liên hoa để bài trí tượng Phật, nằm bên phải nhà Bái dường. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa còn bố trí giếng nước phục vụ cuộc sống của các tăng sĩ sống trong các nhà Tăng đường và chúng sinh thỉnh về, gọi là giếng mắt rồng hay “long nhãn”, bố trí bên trái của nhà Bái đường.



Cửu Phầm liên hoa

Tranh khắc gỗ Việt Nam

Tháp Bình Sơn

Tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam









Tháp Bình Sơn, còn gọi là Tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then, là một ngôi tháp cổ, tương truyền nguyên thủy có 15 tầng tuy hiện nay chỉ còn lại 11 tầng. Tháp được xây dựng từ thời Trần, nằm ở trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.



Bảo tháp thường được xây cao chín tầng, hình bát giác gọi là “Cửu phẩm liên hoa”, biểu tượng chín tầng trời, có vai trò như tháp Văn Xương nhằm tạo bố cục phong thủy hợp lý, bốn cửa vào bảo tháp được bảo vệ bởi Bát Bộ Kim Cương.



Qua Thiên vương điện là tới Nhà bái đường hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương, thường phải đi lên một số bậc thềm được xây dựng kiểu tam cấp hoặc với tổng số bậc thang thích hợp. Ở phía trước Nhà bái đường, hai mặt tường trước của cửa chính có thể đặt bia đá ghi sự tích, lịch sử của ngôi chùa.



Nhà Bái đường: Trước chính môn là một cái vạc đồng lớn để chứa nước, dành cho quý khách rắc hoa cúng Phật, thường gọi “hoa rơi cửa Phật”, chứ không phải để cắm hương như ngày nay.



Hai bên đầu tường thu hồi phía trước xây hai cột trụ nhô cao gắn đôi “Nghê quỳ” canh gác điện. Hình ảnh con nghê chính là hình ảnh con chó ngao hùng dũng, luôn trung thành tuyệt đối đã được nhân cách hóa thành linh thú Việt, đó là hình ảnh của ngôi sao Thiên Lang sáng nhất trên mầu trời về đêm, và cũng là biểu tượng của vị tể tướng Lữ Gia, thời nhà Triệu.



Hai bên cửa mặt tường thu hồi phía trước được tô đắp hai pho tượng thần uy nghi cưỡi trên lưng sư tử, đấy chính là hình ảnh của hai vị thần trong bộ tranh dân gian Hàng Trống nhị bình Tử vi trấn trạch Huyền đàn trấn môn. Hiện nay, chúng ta ít thấy hình ảnh này, thay vì là cặp sư tử đá một chân đứng trên quả cầu gọi là “sư tử hý cầu” hoặc đôi rồng hai bên bậc tam cấp. Hai vị thiên thần này chính là Tản Viên Sơn Thánh và Thánh Gióng, hai trong Tứ Bất Tử của nước Văn Lang.



Huyền đàn trấn môn - Tử vi trấn trạch

Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam





Chính điện Đại Hùng: Qua nhà Bái đường là chính điện, phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bài trí những pho tượng Phật Bồ Tát và chủ yếu.



Bước qua chính môn, hai bên trái và phải sẽ bố trí bộ pháp khí chiêng trống cùng với tượng các vị Thập điện Diêm vương, Khuyến Thiện - Trừng Ác, Bát Bộ Kim Cương (nếu chùa không có tháp Cửu phẩm liên hoa) và Chính điện.



Chính điện có nhiều lớp bàn thờ bậc thang từ cao xuống thấp với các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa, tuy nhiên, chúng tôi cấu trúc lại theo kết quả phân tích ở các phần trên như Trung Đài Bát Diệp Viện của Kim Cương giớiThai Tạng giới, kết hợp với các đặc trưng chung khác của một ngôi chùa miền Bắc Việt Nam như sau:



Tam Thế Phật: Tầng cao nhất của bàn thờ chính điện, sát vách, thường có 3 pho tượng gọi là Tam Thế Phật, tức là thể hiện hết thảy các vị Phật ở đời quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ chung toàn bộ các cõi Phật theo thời gian. Tượng Tam Thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, giữa ngực có chữ Vạn (từ ngoài nhìn vào thấy chữ Vạn quay ngược chiều kim đồng hồ), mình có sắc hoàng kim, mặt nguyệt, ngồi trên tòa sen.



Phật Tam Thế

Tranh dân gian Hàng trống, Việt Nam





Tây Phương Tam Thánh: Dưới hàng Tam thế Phật bố trí ba pho tượng gọi là Di Đà Tam Tôn hay Tây Phương Tam Thánh, gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Phổ Hiền Bồ Tát ở bên phải và tượng Văn Thù Bồ Tát ở bên trái. Tượng Phật A Di Đà có kích thước lớn hơn tất cả các tượng khác và trong tư thế tọa thiền. Tây Phương Tam Thánh cứu độ và tiếp dẫn chúng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc.



Trung ương Phật: Dưới lớp tượng Tây Phương Tam Thánh là bộ ba bức tượng: tượng Đại Nhật Phật ở giữa, tượng bên trái là Bất Không Như Lai và bên phải là Bảo Sinh Như Lai.



Đông Phương Tam Thánh: Dưới ba pho tượng trên là Đông Phương Tam Thánh, tượng Đông Độ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật ở giữa, bên trái là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, bên phải là Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát.



Tòa tượng Cửu Long: tòa tượng Cửu Long, diễn tả hình ảnh Hương Vân Cái Bồ Tát sơ sinh, theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm gọi là “Cửu long phún thủy”. Tắm xong, ngài tự đi được 7 bước về phía trước, mỗi bước đi đều có hoa sen hiện ra đỡ bàn chân, tay phải với ngón trỏ chỉ lên trời, tay trái với ngón trỏ và ngón giữa chỉ xuống đất mà nói “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn nghĩa là “Trên trời dưới đất, bản ngã là duy nhất. Chín con rồng chính là 9 cung của ban thờ chính điện, tương ứng với 9 cung của Hà Đồ - Lạc Thư.



Để hộ trì Hương Vân Cái Bồ Tát sơ sinh, hai bên tượng Cửu Long là tượng của hai vị vua Đế Thích chủ tể cõi trời sắc giới, và Phạm Thiên chủ tể cõi trời dục giới, vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế đội mũ miện, mặc long bào, ngồi trên ngai vàng.



Trong ban thờ nguyên thủy thời Hùng Vương chưa có Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi ngài đắc đạo, được thụ ký bởi Nhiên Đăng Cổ Phật chuyển pháp luân, thì có thể bố trí cùng với các vị cổ phật. Cấu trúc tạo thành Hoa Nghiêm Tam Thánh: ở giữa là Phật Thích Ca Mâu Ni, bên trái là Nhiên Đăng Cổ Phật và bên phải là Di Lạc Vương Phật.



Hoa Nghiêm Tam Thánh

Tranh cổ Trung Quốc





Rùa cõng hạc: phía trước hương án là cặp “rùa cõng hạc” biểu tượng của Chử Đồng Tử - Kim Dung, đại diện cho Đạo giáo, ý nghĩa này sẽ được chứng minh trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ.



Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên trái và Khổng Tử ở bên phải, đây là hai vị tổ của Đạo giáoNho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng tam giáo đồng nguyên của xã hội Việt Nam thời xưa.



Khuyến Thiện và Trừng Ác: Hai vị thần trên, vị bên phải gọi là Khuyến Thiện và vị bên trái gọi là Trừng Ác hay dân gian thường gọi là Ông Thiện và Ông Ác, hai vị này được tạc tượng riêng với hình tượng đứng để sẵn sàng công việc và bố trí ngay trong Nhà bái đường. Ông Thiện và Ông Ác chính là hai vị quan tướng thời vua Thần Nông là Hữu Sào và Toại Nhân.



Khuyến Thiện - Trừng Ác


Trích Hiểu rõ về hai ngài Hộ pháp đạo Phật, tác giả Quần Anh, Hoài Lương




Hai bên chính điện ngay sau cửa tam quan chúng sinh sẽ gặp tượng Bát Bộ Kim Cương, là thần tướng trên trời, hộ trì Phật pháp và tượng Thập điện Diêm vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục đứng hộ vệ hai bên trong nhà bái đường. Khi đi vào, sẽ gặp Thập điện Diêm Vương trước Bát bộ Kim Cương. Bát Bộ Kim Cương là tám con trai của Long Vương, nắm giữ tám hướng biển.



Thập điện Diêm Vương

Chùa Giác Lâm, Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh, Việt Nam





Bát Bộ Kim Cương

Chùa Tây Phương, Hà Tây, Hà Nội, Việt Nam





Trong nhà Bái đường cũng thường có ban thờ tượng Thổ địa thần, vị thần cai quản cõi đất tức cõi nhân sinh, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên cạnh chùa. Sách Tượng Khí nói rằng: “Thổ địa đường tức là nhà Bái đường, thờ Thổ địa thần và Hộ pháp thần, mà bàn thờ Thổ địa thần thì ở phía Đông Phật điện”, tượng này còn có tên là Đức Chúa. Ban thờ Thổ địa thần nằm phía bên phải nhà Bái đường, chỗ có pho tượng mặt đỏ trông rất uy nghiêm tục gọi là Đức Ông, trông coi tài sản và vật khí trong chùa không cho kẻ gian xâm phạm, tượng Thổ địa thần được phủ vải sắc đỏ thẫm, trùm từ đầu xuống bệ ngồi. Ở Việt Nam có tục những đứa trẻ khó nuôi thường bán cho chùa tức bán cho Đức Chúa, ngài nhận làm cha đỡ đầu và chúng ta cũng đã biết: Thổ Công chính là Hùng Quốc Vương và cũng chính là Địa Tạng Bồ Tát.



Thất sự: tiếp theo trên bàn thờ và hương án được bố trí bộ thất sự. Đặc biệt, trong nhà Bái đường không sắp xếp lỗ bộ và bát bửu giống như trong các ngôi đình, đền khác vì chùa không mang tính thể chế mà chỉ bố trí chuông trống trên giá treo để phục vụ các buổi lễ hội.



Thiên tỉnh: Phía trên thiên tỉnh của chính điện, treo đèn lồng hình tròn lấy ánh sáng gọi là thiên tỉnh, đặc biệt đỉnh mái chính điện luôn phải tạo hình “lưỡng long minh châu” nghĩa là đôi rồng vàng vờn ngọc báu, và tạo hình này là duy nhất trong mỹ thuật, kiến trúc của một ngôi chùa, ý nghĩa này sẽ được giải thích trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ.



Thập Bát La Hán: Hành lang chạy dọc chính điện nối tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị La Hán, mỗi bên 9 tượng ở đây, có chùa như chùa KeoThái Bình, các tượng La Hán được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là các tượng Tổ (28 vị) người Ấn ĐộThiền tông Trung Quốc thừa nhận, kích thước tượng như người thật, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang suy tư trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã ra đời một thành ngữ ở Việt Nam "bày la liệt như La Hán". Thời Hùng Vương, không có bố cục các vị La Hán.




Phụng sự bảo sái đồ

Đồ họa cổ Việt Nam, Bản in khắc gỗ chùa Bà Đá (Linh Quang tự - Hà Nội)



Đây là một tấm tranh trục khắc họa toàn cảnh hệ thống Phật, Bồ tát, La Hán… được thờ trên Phật điện của thế kỷ XIX. Liệt kê từ trên xuống gồm:

- Tam thân (Báo thân, ứng thân và hóa thân).

- Tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai và những cặp thị giả).

- Tây phương Tam Thánh (ở giữa: A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí); Quan Âm Chuẩn Đề và Quan Âm tọa sơn.

- Thích Ca niêm hoa vi tiếu và A Nan, Ca Diếp. Thập bát La Hán hai bên cùng Thập Điện Diêm Vương.

- Thích Ca thành đạo, hai bên là Tuyết Sơn và Di Lạc, Nam Tào và Bắc Đẩu.

- Cuối cùng là Hộ pháp Khuyến Thiện và Trừng Ác.


Nhà hậu đường: qua nhà chính điện, đi dọc hành lang là đến nhà hậu đường, cũng còn gọi là nhà Tổ để thờ các vị sư tổ của chùa. Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau, ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam.



Nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, thường thấy được xây tách rời với chính điện, theo cấu trúc nội Công ngoại Quốc thì bố cục tách rời là hợp lý. Ở hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tửQuan Âm tọa sơn, hai bên tượng Quan Âm tống tử thường có tượng Kim đồngNgọc nữ.



Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian, đó là bàn thờ các Mẫu như: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải...



Bên cạnh thờ Thổ địa thần còn có ban thờ Long thần nằm bên trái. Theo truyền thuyết, Long thần vốn lúc đầu định hãm hại Phật Tổ, phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng không phá nổi và hiểu được nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.



Mặt bằng của một ngôi chùa có nhiều kiển, đặc biệt nhất là cấu trúc nội Công ngoại Quốc, trong đó chữ Công đồng âm với “chim Công”, đây là biểu tượng của Quan Âm Bồ tát - Mẫu Âu Cơ, như vậy chữ Công được bảo vệ bởi chữ Quốc (Nước) hay quốc gia, cho nên cấu trúc nội Công ngoại Quốc mang mật ngữ: Phật Quốc hay đất nước Phật. Trong Khổng Tước Minh Vương Kinh, nói đến Khổng Tước Bồ Tát mà chúng ta không biết ngài là ai? Như đã phân tích trong các chương, hình ảnh “chim Công” là biểu tượng của mẫu Âu Cơ - Quan Âm Bồ Tát, và cá chép Lạc Long Quân (Nước, Quốc) được thể hiện qua bộ tranh dân gian nhị bình Hàng Trống Cao Quý đồ quanLý ngư vọng Nguyệt.



Khổng Tước Minh Vương và kiểu mặt bằng “nội Công ngoại Quốc”


Trích Lược Ý Hình Tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền, tác giả Thích Tâm Mãn




Đấy là lý do lại sao hồ Hoàn Kiếm tại trung tâm thành phố Hà Nội có chùa Ngọc Sơn, thờ vị tiên Lữ Đồng Tân - Lạc Long Quân và chùa Một Cột, thờ Quan Âm Bồ Tát, ngoài ra còn có Tháp Rùa - biểu tượng văn hóa Việt với truyền thuyết Rùa Vàng mà vua Lê Lợi trả gươm sau khi chiến thắng quân Minh, Rùa vàng - một trong Tứ Linh cũng chính là biểu tượng vua Lạc Long Quân.



Tháp Rùa - Chùa Một Cột

Ảnh tham khảo Internet



Nhà thờ Tổ: Nhà thờ Tổ được bố trí sau nhà bái đường để thờ các vị Tổ của chùa, còn nhà tăng đường và các công trình phụ trợ khác như thư viện, nhà bếp, khu vệ sinh… cũng sẽ được bố trí ở những vị trí thích hợp theo bố cục phong thủy.



Như vậy, toàn bộ kiến trúc của một ngôi chùa là sự hợp nhất của các tôn giáo: Đạo Mẫu, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo, chúng ta hãy cùng tham khảo bức tranh Thiên Địa, tam giáo, thập bát chư thần, tranh dân gian Trung Quốc:



Thiên Địa, tam giáo, thập bát chư thần (Tranh vẽ hệ thần trong trời đất, Tam giáo)

Tranh dân gian Trung Quốc, trích Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược






Tranh thờ dân gian về các vị thần thuộc Tam giáo, nhưng trên thực tế chỉ có hệ thần trong Phật và Đạo giáo, ngoài ra thêm một số vị thần thuộc tính ngưỡng dân gian. Tranh vẽ theo lối chồng tầng, hệ thần cao thấp theo cấp và nhóm chính phụ, lối vẽ này ảnh hưởng tất lớn đối với tranh thờ Hàng Trống. Hàng đầu tiên thuộc chư Phật, gồm Tam Thế Phật, Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát, thị giả Tế Giám và Bạch Y. Tầng 2: Tam Thanh ở giữa có bọn Đạo lưu dứng hầu, bên rìa có phối Thánh và Hầu quan. Tầng 3: Ngọc Hoàng và Tử Vi ở giữa, Câu Trần - Hậu Thổ cùng Nam Tào Bắc Đẩu quan hai bên. Tầng 4: Tam Quan Đại Đế, Cửu Cung, Thiên Sư, Thiên Bồng, Trực Thành, Thiên Hựu, Văn Xương. Tầng 5: cụm Thiên tiên có Nữ quan theo hầu. Cụm bên cạnh là Ngũ Nhạc Đại Đế… Văn quan, Võ tướng theo hầu hai bên. Tầng 6: giữ là Địa Tạng Vương, trái có Phục Ma Đại Đế với Chu Xương, Quan Bình theo hầu. Bên phải là Tăng Phúc Tài Thần với hai vị hầu quan. Tầng cuối là bách quan văn võ cùng vua chúa đứng hầu.



Bức tranh dân gian Trung Quốc Thiên Địa, Tam giáo, Thập bát chư thần mục đích hợp nhất hệ thần trong trời đất, Tam giáo thành một bức tranh, tuy nhiên do chưa xác định rõ từng vị Phật, Tiên, Thánh, Thần cho nên không thể nào đầy đủ và bố trí hợp lý được. Đặc biệt, bộ tranh Phục Ma Đại Đế (Quan Vân Trường) với Chu Xương, Quan Bình theo hầu chắc chắn được hình thành sau khi cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Chí, của tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không ra đời.



Tổng thể chính điện của một ngôi chùa đã được hiệu chỉnh, tuy nhiên chúng ta thấy trong Đại Hùng Bảo Điện không thấy bố trí tượng Tỳ Bà thi Phật, Chuẩn Đề Quan Âm và Địa Tạng Bồ Tát, trong khi đó, dân gian vẫn đang tôn thờ trong các ngôi chùa. Từ Thai tạng giới, chúng ta hiểu rằng xung quanh Trung Đài Bát Diệp Viện sẽ được bố trí bản tôn của 10 viện, việc xác định các vị Phật và Bồ Tát đều tương ứng với số lượng viện như trên. Thực tế, trong một số chùa, bố cục Tây phương Tam Thánh bao gồm ở giữa là Phật A Di Đà, bên trái là Bồ Tát Đại Thế Chí và bên phải là Quan Âm Bồ Tát, và với việc nhận định Bồ Tát Đại Thế Chí là Tỳ Bà thi Phật và Quan Âm Bồ Tát là Chuẩn Đề Quan Âm thì chúng ta sẽ nhận ra được bố cục tương ứng với Thai Tạng giới: Bồ Tát Đại Thế Chí và Chuẩn Đề Quan Âm sẽ bố trí hai bên Tây Phương Tam Thánh, ngay dưới Tam Thế Phật.



Mặc dù, Tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni chưa được tôn trí trong điện thờ thời Hùng Vương trước khi ngài đản sinh, nhưng sau khi ngài được thụ ký bởi Nhiên Đăng Cổ Phật và chuyển luân pháp vương thì đã được bố cục trong Thai tạng giới, như vậy bộ tam tượng Nhiên Đăng Cổ Phật (quá khứ), Phật Thích Ca Mâu Ni (hiện tại), Di Lạc Phật (tương lai) sẽ được an vị phía trước Đông Phương Tam Thánh.



Tam Thế Phật

Tranh Thang kha trên chất liệu lụa - thế kỷ XVIII - Lưu giữ ở bảo tàng cố cung, Bắc Kinh




Bức Thang-kha cổ vẽ Phật Nhiên Đăng của thế giới quá khứ, hai tay thuyết ấn Thuyết pháp, ở giữa là Phật Thích Ca của thế hiện tại, tay phải kiết ấn Kỳ khắc, bên phải là Phật Di Lạc của thế giới tương lai, kết ấn Vô úy. Phía trước, ở hai bên Phật Thích Ca là hai đệ tử là A Nan và Ca Diếp, phía trước là Tứ Đại Thiên Vương.



Ngoài ra, chúng ta cũng biết Địa Tạng Bồ Tát cũng là bản tôn của một viện trong Thai Tạng giới, đồng thời là vị tôn chủ có vị trí cao hơn Thập Điện Diêm Vương, có lẽ ngài cũng được tôn trí trong chính điện Đại Hùng? Chúng ta chú ý tới Hộ Phát Khuyến Thiện và Trừng Ác, cùng với cách bài trí trong các ngôi chùa miền Bắc Việt Nam với Nam Tào - coi sổ sinh và Bắc Đẩu - coi sổ tử, và đấy chính là biểu tượng ứng với nhị vị trên, Nam Tào như đã biết chính là Địa Tạng Bồ Tát và Bắc Đẩu là Di Lạc Bồ Tát.



Địa Tạng Bồ Tát

Hình vẽ ở Goryeo, cuối thế kỷ XIV, Hàn Quốc




Vị Bồ Tát chuyên cứu độ sinh linh trong Địa ngục và trẻ con yểu tử, có khi Địa Tạng cũng là người được xem là chuyên cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả với con mắt thứ ba nằm giữa hai lông mày trên trán. Địa Tạng Bồ Tát với tay trái cầm như ý châu và tay phải cầm tích trượng sáu khoen, biểu hiện của sự cứu độ chúng sinh trong Lục đạo luân hồi. Tại Việt Nam và các nước Đông Á, Địa Tạng được xem là một trong Tứ Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quan Âm, Văn ThùPhổ Hiền), trú xứ của ngài là Cửu Hoa sơn, Trung Quốc. Tương truyền rằng, Địa Tạng đã thật sự hiện thân tại đây vào đời Đường dưới dạng một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân của vị hoàng tử này không tan rữa và người ta đã xây dựng một ngôi tháp để thờ, bảo tháp đến nay vẫn còn.







Sau khi nhận biết được tổng thể bố cục mặt bằng của một ngôi chùa, cũng như lịch sử của các vị cổ Phật, Bồ Tát, Thiên Vương… hoàn toàn dựa trên vũ trụ quan của Đạo Mẫu, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo với học thuyết Âm Dương Ngũ Hành làm then chốt:



Bố cục mặt bằng chùa nguyên thủy:

Tương lai Phật

Hiện tại Phật

Quá khứ Phật

Tỳ Bà Thi Phật

(bên phải Phồ Hiền Bồ Tát)

Bồ Tát Đại Thế Chí

(bên trái Văn Thù Bồ Tát)

Phổ Hiền Bồ Tát

(Chính thất Nguyễn Nghi Nhân)

A Di Đà Phật hay còn gọi

Dược Vương Phật

(Đế Minh)

Văn Thù Bồ Tát

(chính thất vua Đế Nghi)

Bảo Sinh Như Lai

(Nguyễn Nghi Nhân)

Đại Nhật Phật

(Kinh Dương Vương)

Bất Không Như Lai

(Đế Nghi)

Nguyệt Quang Bồ Tát

(Quan Âm Bồ Tát)

Đông Độ Dược Sư Phật

(chính thất vua Đế Minh)

Nhật Quang Bồ Tát

(Tây Vương Mẫu)

Bắc đẩu

(Lạc Long Quân)

Tòa tượng Cửu Long

(Phật Bà Quan Âm sơ sinh)

Nam Tào

(Hùng Quốc Vương)

Đôi Rùa cõng Hạc

(Chử Đồng Tử - Tiên Dung)

Hương án

(bộ thất sự, đèn lồng thiên tỉnh, cặp lục bình…)

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)

Khuyến Thiện - Trừng Ác

(Hữu Sào - Toại Nhân )

Bát Bộ Kim Cương

(8 em trai Phật Bà Quan Âm)

Thập Điện Diêm Vương

(10 vua chi Hùng Hương III - Hùng Quốc Vương)

Bát bảo - Lỗ bộ - Cờ súy

(đối với một ngôi đình, đền)

Thập Điện Diêm Vương

(10 vua chi Hùng Hương III - Hùng Quốc Vương)



Chính môn



Huyền Đàn Trấn Môn

(Xung Thiên Đại Vương)

Điện Đại Hùng

Tử Vi Trấn Trạch

(Tản Viên Sơn Thánh)

Nghê quỳ

(Lữ Gia)

Nghê quỳ

(Lữ Gia)

Vạc đồng

(chứa nước thả hoa)



Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương

(anh em với Lạc Long Quân)

Vi Đà Hộ Pháp

(Triệu Đà)

Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương

(anh em với Lạc Long Quân)

Di Lạc Bồ Tát

(Lạc Long Quân)

Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương

(anh em với Lạc Long Quân)

Chính môn

Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương

(anh em với Lạc Long Quân)

Voi phục

Thiên Vương Điện

Ngựa chầu

Gác Trống

Hồ sen nuôi rùa, cá vàng, có cây cầu vồng bắc qua

(hồ phóng sinh)

Lầu Chuông

Cây sung, cây si

Cây đa, cây đề

Thiên Ất

(Cao Nỗ)

Tam Quan

Vũ Đinh

(Lý Ông Trọng)



Có người làm thơ khen rằng:



Nền móng nghìn năm kiên cố,
Điện các vạn tuế nguy nga.
Cửa chùa tả hữu, gió hòa mưa thuận Tứ Thiên Vương,
Điện Phật trong ngoài, quá khứ vị lai Tam Đại Sĩ.
Lụa thắm cửa son, chạm khắc quỳnh lựu khéo tay,
Tường mờ rêu biếc, tranh vẽ núi sông đậm nhạt.
Quan Âm cao bệ, ngói đồng cổ lớp lớp sen vàng,
La Hán điện tôn, bát bạch ngọc long lanh sắc nước.
Vượn núi, thú rừng, nghe Kim Cương Kinh đều được siêu thăng,
Hươu nội, hoa ngàn, nghe Pháp Ngữ Lục thảy thoát nghiệp chướng.
Ánh sáng muôn luồng xông mây bức,
Khí lạnh nghìn đạo ngự tầng không.

Lại có người làm thơ ca ngợi:

Phật điện trông vàng son lấp lánh,
Như Lai ai dám sánh công lao.
Tháp ngoài nghìn trượng vươn cao,
Điện trong đèn nến như sao sáng ngời.
Càn Khôn từ thuở chuyển rời,
Công đây quả đấy muôn đời còn ghi.

(Trích Tùy Đường diễn nghĩa, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông).


Chúng tôi muốn quý vị cùng tiếp tục truy nguyên lịch sử với những nét đặc sắc khác nữa về thế giới hiện tượng xung quanh ta.



Cội nguồn thế giới và các giới hạn vật lý



Vào thế kỷ thứ V tr.CN, Empedocle xem bốn nguyên tố nước, không khí, lửa và đất là những thành phần cấu tạo sơ đẳng của thế giới, và Democrite đề xướng giả thuyết về sự hiện hữu của các nguyên tử. Aristote (384-322 tr.CN) cũng đồng ý về thuyết các nguyên tố và đã phân cấp các đặc tính riêng của các nguyên tố. Những trường phái triết học của Ấn Độ cũng có những thuyết tương tự, phái Thắng Luận chẳng hạn, một hệ thống cổ nhất trong 6 trường phái triết học chính thống Ấn Độ khẳng định là các nguyên tử không nhỏ bé tới cùng cực, bởi vì nếu như thế thì núi Tu Di và một hạt cải đều được cấu tạo bằng một số vô kể những nguyên tử, chúng phải cùng cỡ nhau.

Máy gia tốc hạt lớn (Large Hadron Collider - LHC) là chiếc máy gia tốc hạt hiện đại lớn nhất và cung cấp gia tốc mạnh nhất trên thế giới, được thiết kế để tạo va chạm trực diện giữa các tia proton với động năng cực lớn. Mục đích chính của nó là phá vỡ những giới hạn và mặc định của “mô hình chuẩn - những lý thuyết cơ bản hiện thời của vật lý hạt. Trên lý thuyết, chiếc máy này được cho là sẽ chứng minh được sự tồn tại của hạt Higgs, những kết quả nghiên cứu từ chiếc máy này có thể chứng minh những dự đoán từ trước cũng như những liên kết còn thiếu trong mô hình chuẩn, và giải thích được những hạt sơ cấp khác có được những đặc tính như khối lượng như thế nào.


LHC được chế tạo bởi Tổ chức nghiên cứu hạt nhân Châu Âu (The European Organization for Nuclear Research - CERN), nằm bên dưới mặt đất tại biên giới PhápThụy Sĩ giữa núi Jura và dãy Alps gần Genève. Dự án được chế tạo với sự tham gia cộng tác của trên tám nghìn nhà vật lý của 15 quốc gia cũng như hàng trăm trường đại học và phòng thí nghiệm.
Máy gia tốc hạt lớn

Ảnh tham khảo Internet





Một trong những mục tiêu chính của dự án này là chứng minh sự tồn tại Higgs hay còn gọi là “hạt của Chúa”, mà giới khoa học tin rằng nó chính là hạt nhân hình thành nên vũ trụ sau vụ nổ Bigbang cách đây 13.7 tỷ năm. Sự phấn khích ngày càng tăng ở các nhà khoa học làm việc trong dự án bởi đây là mục tiêu cực kỳ quan trọng của vật lý hiện đại.



Cùng với việc các nhà khoa học ngày nay đi tìm kiếm “hạt của Chúa”, thì cách đây hàng thiên niên kỷ, Phật giáo cũng đã đề xướng những nguyên tố cực nhỏ trong cấu trúc của thế giới. Quan niệm này được dẫn trong Câu Xá luận, phẩm Phân Tích cảnh giới và trong A-tỳ-bà-sa và Đại-tỳ-bà-sa luận (thế kỷ thứ II), định nghĩa phần tử vô cùng nhỏ gọi là “cực vi” hay “lân hư trần”, là không thể phân tách được, không thể hủy hoại, không thể nắm bắt được, không thể phân tích nó được, không thể nhìn thấy, không thể nghe thấy hay sờ mó (vô hình, quang minh vi tế). Các cực vi không ở trạng thái đơn vị mà tụ họp lại, lúc đó nó có hình tướng và chuyển biến. Theo Câu Xá Luận, 7 cực vi hợp thành một vi trần, trong đó có một cực vi ở giữa (hạt nhân) và 6 cực vi kia quy tụ xung quanh theo cấu trúc không gian ba chiều. Cõi ta bà - Thế giới quan Phật giáo - Nguồn gốc và triết lý, Phạm Hữu Dụng, soạn dịch và chú giải, Nxb Văn Hóa Thông tin, 2011.



Hình ảnh Cực vi

Trích Cõi Ta Bà - Thế giới quan Phật giáo, Phạm Hữu Dung, Nxb Văn hóa Thông tin, 2011





Sự tích tụ 7 lân hư trần thành thành một vi trần, 7 vi trần thành một kim trần (nó có thể lọt qua vàng khối hay sắt hoặc kính dầy), 7 kim trần thành một thuỷ trần, 7 thuỷ trần thành một thố mao đầu trần, 7 thố mao đầu trần thành một dương mao đầu trần, 7 dương mao đầu trần thành một ngưu mao đầu trần, 7 ngưu mao đầu trần thành một khích du trần… cứ tích tụ mãi như vậy hình thành nên những dạng vật chất từ nhỏ tới lớn, cho đến cả thế giới.




Núi Tu di - Hoa tạng thế giới đồ - Tứ châu cửu sơn bát hải đồ

Đồ họa cổ Việt Nam, tr107





Tu di sơn (sumeru) là trái núi lớn nhất ở trung tâm địa cầu, nơi các vị tiên, thánh cư ngụ, và nơi các vì tinh tú xoay quanh, bốn châu về ở bốn phía của núi, tính từ dưới lên trên bức tranh có đề các dòng chữ (chỉ các tầng vật chất và núi): Không luân, phong luân, thủy luân, kim luân, biển Đại Hàm thủy (nước mặn), và núi Tiểu Thiết Vi. Phía trên có các núi Trì Địa, Chướng Ngại, Mã Nhĩ, Thiện Kiến, Đam Mộc, Trì Trục, Trì Song, trên nữa là Hương Hải thủy. Các tầng trời gồm: Kiên Thủ Thiên, Trì Man Thiên, Phóng Dật Thiên, Tứ Thiên vương, Đế Thích Thiên cung nằm giữa Đông, Tây, Nam, Bắc bát thiên. Như vậy, theo đồ hình này, thế giới được hình thành bởi bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa tạo thành bốn châu, chín núi, tám bể, và nằm trên là các tầng trời.


Núi Tu Di

Trước tác của phái Môn Đường, 1922-1924, trích Pháp khí Mật Tông, tác giả Thích Minh Thông, Nxb Thời Đại, 2011



Phạm vi của tiểu thế giới được mô tả chính là hệ mặt trời. Một ngàn tiểu thế giới gộp lại gọi là tiểu thiên thế giới, phạm vi của một tiểu thế giới trong tiểu thiên thế giới là từ núi Tu Di cho tới cõi trời Phạm thiên của sắc giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới gọi là một trung thiên thế giới, phạm vi của một trung thế giới trong trung thiên thế giới kéo dài tới Vô lượng tịnh thiên của sắc giới. Một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới, phạm vi của mỗi đại thế giới trong đại thiên thế giới kéo dài tới Quang âm thiên của sắc giới. Như vậy là đại thiên thế giới là một ngàn tiểu thế giới, nhân lên một ngàn lần, thành một trung thiên thế giới, rồi lại từ một trung thiên thế giới nhân lên một ngàn lần nữa mà thành… như vậy qua ba lần lũy tiến con số ngàn, vì vậy mà có tên gọi tam thiên đại thiên thế giới. Nội dung mô tả tam thiên đại thiên thế giới trên đây nói về một vũ trụ vô cùng.

Với thế giới cực lớn, Phật giáo mô phỏng qua hình ảnh của ngọn núi Tu Di, trong một tiểu thế giới thì núi Tu Di chính là dãy Himalaya, mái nhà chung của nhân loại, là nơi ngự trị của các thần thánh tối cao đối với các tôn giáo cổ đại. Tiểu thế giới có loài người và sinh vật đang sinh sống, được gọi tên Sa bà thế giới.

Quả cầu Càn Khôn

Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam




Tam thiên Thế giới được vẽ tượng trưng bằng 3000 ngôi sao trên Quả Càn Khôn. Thất thập nhị Địa, tức là 72 quả Địa cầu, cũng được nhìn thấy như những vì sao trên bầu Trời, tượng trưng bằng 72 ngôi sao. Tổng cộng tất cả là 3072 ngôi sao trên Quả Càn Khôn, trong đó có chòm sao Bắc Đẩu (Đại Hùng Tinh) và Tiểu Hùng Tinh, mỗi chòm có 7 ngôi sao. Hình vẽ Con Mắt Thượng Đế ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu, chính là Trung tâm của Càn khôn Vũ trụ. Các vì sao khác đều chuyển động quanh ngôi sao Bắc Đẩu, giống như Địa cầu của chúng ta, tuy chuyển động quanh Mặt Trời, nhưng trục tự quay luôn luôn hướng về ngôi sao Bắc Đẩu.



Người ta cho là tất cả các chất được cấu tạo bởi bốn phần tử thường gọi là tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Cực vi được xem là chất lượng và bốn đại là năng lượng. Đất, nước, gió, lửa này không phải theo nghĩa của vật lý thông thường mà chúng ta có thể trông thấy, sờ mó được, chúng là vô hình và có trong không trung. Là năng lượng, chúng tụ tập các cực vi tạo ra đất, nước, gió, lửa và các chất khác. Mỗi thành phần có đặc tính và chức năng riêng: đất thì cứng rắn và chịu đựng được các vật, nước thì lỏng và làm tan các vật, lửa thì nóng và đun sôi các vật, gió thì linh động và đẩy được các vật (gió còn là không khí, hơi thở nên được coi có chức năng duy trì sinh tồn). (Tham khảo Cõi ta bà - Thế giới quan Phật giáo - Nguồn gốc và triết lý, Phạm Hữu Dụng, soạn dịch và chú giải, Nxb Văn Hóa Thông tin, 2011).




Hoa Tạng thế giới đồ là tên cõi tịnh độ của Đức Phật Tì Lư Giá Na, là chân thân của Đức thích Ca Như Lai, tầng dưới cùng là Phong Luân, trên có biển Hương thủy, trong biển này mọc ra đóa đại Liên hoa, trong hoa sen này bao gồm các thế giới nhỏ như hạt bụi, cho nên gọi là Liên hoa Tạng thế giới, gọi tắt là Hoa Tạng thế giới, tên gọi chung của Báo độ của chư Phật, cõi Tịnh độ của Báo thân Phật đều đầy đủ 18 viên mãn, y trì vào số viên mãn đó tức là Hoa Tạng thế giới.


Thời biểu vũ trụ giãn nở kể từ vụ nổ lớn và kính Hubble

Tham khảo Internet





Theo thuyết Bigbang thì tất cả các thiên hà, mặt trời, mặt trăng, những ngọn núi, các dòng sông, mọi loài động vật và con người đang tồn tại đều hợp nhất trong một điểm, có mật độ dày đặc vô hạn đến nỗi sự tưởng tượng của người trần mắt thịt chúng ta có lẽ cũng sẽ không bao giờ có thể hiểu được. Hàng triệu tỷ tấn vật chất đã kết hợp với tất cả năng lượng của vũ trụ, bắt đầu vỡ tung ra trong một vụ nổ khổng lồ khoảng 14.7 tỷ năm trước. Và trước đó, vẫn còn có một khả năng rất lớn rằng con người sẽ không bao giờ biết về sự thật tối hậu, mặc dù nhiều nhà khoa học tin rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống trong đó không thể chứa đựng bất cứ thứ gì vượt ra ngoài nhận thức của một giải thích khoa học, thì con người lúc này hay lúc khác cũng sẽ tự hỏi là điều gì đã tạo ra “tất cả những gì tồn tại”.



Cùng với việc tìm hiểu khởi thủy của vũ trụ thì một câu hỏi nảy sinh của quá trình nhận thức về vũ trụ, đó là cái gì là nhận biết sự vận động của chính vật chất trong vũ trụ này? Sự bùng vỡ của vũ trụ sau “giây 0” của thuyết Bigbang xác định rằng: Vũ trụ từ khời nguyên là một hiện tượng vật chất, nhưng thuyết Bigbang sẽ không thể lý giải vì sao con người nhận thức được sự vận động của vật chất ngay trong não bộ của chính con người? Bởi vậy, nó phải viện dẫn đến Thượng Đế, điều này thể hiện qua tiểu luận Thượng Đế và khoa học do các giáo sư, viện sĩ viện hàn lâm khoa học Pháp thực hiện. Và khi sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo ra được cả những khoa học gia máy, thì vấn đề ý thức và khả năng tư duy của con người sẽ phải đặt lại vấn đề cho nó: Sự phân biệt giữa một bộ não máy siêu việt và những con người bình thường. Con người là gì? Từ đâu tới? là một câu hỏi cũng đã được đặt ra từ thời cổ sử của nhân loại.



Bởi vậy, việc giải quyết được vấn đề này sẽ xác minh một cách chắc chắn rằng: Thuyết Bigbang là một sai lầm khi nó không thể giải thích được tính nhận thức của con người từ đâu khi vũ trụ này khởi nguồn từ vật chất? Hay nói một cách khác: nó sẽ giải quyết một cách rốt ráo nhất vấn đề: Con người là gì? Từ đâu tới? mà con người chính là một hiện tượng trong vũ trụ cần được lý giải.



Chúng ta hãy tham khảo những đoạn trích dẫn trong Tạng kinh Thần chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm để liên hệ với vấn đề được đặt ra.



Đoạn III - Chỉ hai món căn bản chia riêng mê ngộ: Đức Phật bảo Anan: ”Tất cả chúng sinh từ vô thuỷ đến nay, các thứ điên đảo giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm ác xoa. Các người tu hành không thành được đạo Vô Thượng Bồ Đề, mà chỉ thành Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma, đều chẳng biết hai món căn bản, tu tập sai lầm. Cũng như nấu cát mà muốn thành cơm thì dù trải qua nhiều kiếp trọn không thể được.



Thế nào là hai thứ căn bản? Anan! Một là căn bản sinh tử từ vô thuỷ. Chính hiện nay ông và chúng sinh đang dùng tâm phan duyên làm tự tính. Hai là Bồ Đề Niết Bàn nguyên thể thanh tịnh từ vô thuỷ tức là cái thức tinh nguyên minh của ông hay sinh các duyên mà bị duyên bỏ rơi. Do chúng sinh bỏ rơi tính bản minh này nên trọn ngày trong động dụng mà chẳng tự biết, uổng trôi vào trong các cõi.


Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta thấy Đức Phật đã nói tới khái niệm “Căn bản sinh tử từ vô thuỷ”, chính là nói tới trạng thái ban đầu của vũ trụ mà khoa học hiện đại diễn đạt dưới khái niệm "giây 0" là thời gian ban đầu của vũ trụ, thời điểm trạng thái vật chất cô đặc chưa bùng vỡ. Khái niệm “sinh tử” mà Đức Phật nói tới chính là tương đồng với khái niệm Âm Dương trong Lý học Đông phương.



Khái niệm mà Đức Phật khai ngộ: “Bồ Đề Niết Bàn nguyên thể thanh tịnh từ vô thuỷ” thì đây chính là sự xác định rằng: Thể bản nguyên vũ trụ - Bồ đề niết bàn nguyên thể thanh tịnh tức Thái Cực - vẫn tiếp tục hiện hữu trong vũ trụ, trong mọi sinh linh, cũng như trong mọi trạng thái tồn tại của vật chất và tiếp tục tương tác, chi phối với vật chất từ vi mô tới vĩ mô, trong đó có sự nhận thức của con người. Đó chính là "Tính thấy" trong mỗi sinh vật, trong đó có con người.



Như vậy, qua những lời khai ngộ của Đức Phật từ những đoạn kinh văn trong Thần Chú Phật đỉnh thủ Lăng nghiêm thì Tính thấy trong mỗi còn người chính là cái "Tâm" đích thực mà chính con người đang tìm cách hướng đến. Tính thấy - Thức tinh nguyên minh thanh tịnh từ vô thủy - Theo cách nói của Đức Phật - có trong muôn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến Thiên hà khổng lồ, trong muôn sinh vật trên thế gian. Khi tính thấy chính là bản thể của sự nhận biết và mọi cấu trúc vật chất chỉ là phương tiện nhận biết, thì với những cấu trúc vật chất có sự biến đổi ở mức tế vi thì sẽ tạo ra những khả năng nhận biết vượt trội so với cấu trúc vật chất phổ biến cùng loài, đây cũng là một trong những nguyên nhân của sự tiến hóa (Tham khảo cuốn Đức Phật khai ngộ Tính Thấy, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).



Với việc nhận định về một dạng hạt nhỏ nhất Lân vi trần là không thể phân chia và chúng liên kết tạo thành các cấu trúc tổ hợp lớn hơn khi tương tác, cùng với việc xác định Tính thấy tồn tại trong vạn vật, chúng ta có thể hình dung được rằng: hạt Lân vi trần (hạt nhân) chính là một dạng “vật chất đặc biệt” mang tính tuyệt đối, vô hình tướng, xung quanh nó là 6 hạt Lân vi trần khác tạo nên một cấu trúc cơ bản ban đầu của vũ trụ, các cấu trúc này liên kết với nhau lan tràn khắp vũ trụ. Hình ảnh ban đầu này còn được lưu giữ trong các câu truyện cổ tích thời thượng cổ của các dân tộc khắp nơi trên thế giới, họ mô tả vũ trụ ban đầu giống như “vùng nước”, hoàn toàn trong trạng thái chí tịnh, tịch mịch, chưa vận động.



Bằng cách nào đấy, một trạng thái “động” cực kỳ bé nhỏ đã tạo ra sự mất cân bằng, và ảnh hưởng dây chuyền, tính tuyệt đối tạo nên sự thông tin đến toàn bộ vũ trụ ngay tức khắc nhằm đảm bảo cả vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất. Vũ trụ vận động tới một thời điểm nào đấy sẽ tạo thành hai cực đối lập Âm Dương, ngay khi hình thành hai cực thì sự tương tác phát sinh, hệ quả là xảy ra một tiếng nổ kinh thiên động địa, có thể gọi đó là “Tiếng nổ khai thiên lập địa”, hoàn toàn tương tự tiếng nổ Bigbang, ngay sau đấy là sự tái cấu trúc của vũ trụ và theo thời gian, nó vận động cho tới ngày nay. Hình tượng “Tiếng nổ khai thiên lập địa”, đã được cô đọng trong tiếng “Pháo” vang trời vào ngày đầu năm mới, trong nền văn hóa cổ truyền Việt Nam.



Quả pháo thờ

Đình Đồng Kỵ, Việt Nam





Không những Thuyết Âm Dương Ngũ hành lý giải những bế tắc của khoa học hiện đại - “giây 0” trước Bigbang, mà còn chứng tỏ được sự nhất quán với giáo lý Phật giáo về thể tính của Thái Cực và Tính thấy.



Những vùng cư trú của con người sơ khai

Nguồn gốc loài người, G. N. Machusin, Nxb khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1986





Qua vũ trụ quan Phật giáo, chúng ta nhận thấy quan niệm về một vũ trụ vô cùng, vô tận và bởi lẽ, nếu một trạng thái vật chất ban đầu khởi nguyên vũ trụ như thuyết Bigbang thì nó tồn tại ở đâu trong vũ trụ này? Và được liên kết thế nào để không ”trôi nổi” trong một gian bao la như thế? Lịch sử tiến hóa của vũ trụ đã sinh ra loài người, một sinh vật thông minh nhất trên trái đất, được tiến hóa trực tiếp từ loài “vượn người” theo thuyết tiến hóa Đacuyn (1809-1882), cũng đã được nhận biết trước đấy trên 4.000 năm. Dấu tích còn sót lại trong các nền văn hóa như Ai Cập là con khỉ biểu tượng cho thần mặt trăng, trong Bà La Môn giáo Ấn Độ có thần khỉ Hanuman… đặc biệt, theo truyền thuyết, khỉ được coi là thủy tổ của dân tộc Tây Tạng, hóa thân của Quan Âm Bồ Tát.



Bàn Cổ - Nữ Oa

Tranh tường cổ Trung Quốc





Chúng ta cũng đã biết rằng, biểu tượng con khỉ là mặt trăng tức thần chết Osiris của tôn giáo Ai Cập cổ đại, là Lạc Long Quân hay Phong Đô Đại Đế của Văn Lang, mà Quan Âm Bồ Tát chính là mẫu Âu Cơ, chính thất Lạc Long Quân, như vậy Quan Âm Bồ Tát cũng chính là nữ thần Isis của tôn giáo Ai Cập cổ đại. Do vậy, vùng đất Tây Tạng cũng có thể trước đây đã từng được xem là một phần quốc thổ của vua Lạc Long Quân và Âu Cơ, hay nước Văn Lang.



Lịch sử của trái đất (tính bằng triệu năm)

Tìm hiểu trái đất thời tiền sử, tác giả Nguyễn Hữu Danh, Nxb Giáo dục, 2001





Ngày nay, với sự phát triển khoa học, việc nghiên cứu và đi tìm một nền văn minh ngoài trái đất đã được các nhà khoa học trên thế giới thực hiện hơn 50 năm qua, bằng cách gửi các thông điệp và mật mã, cũng như dõi theo vào không gian bằng những thiệt bị khoa học tinh vi nhưng kết quả hoàn toàn vô vọng.



Năm 1976, nhà thiên văn học người Mỹ nổi tiếng là Carl Sagan cùng một nhóm gồm 13 nhà khoa học, dưới sự kiểm soát của Cơ quan không gian và vũ trụ Mỹ (NASA) đã tạo ra một bức thông điệp đặc biệt, được đặt vào các tàu Voyager 1 và Voyager 2 để gửi đến những người ngoài trái đất. Hai con tàu này được Mỹ phóng đi năm 1977 và nay đang ở cách trái đất trên 12 tỷ km. Bức thông điệp được thể hiện bằng 55 thứ ngôn ngữ, từ tiếng Sumer cho đến tiếng của người Zoulou, đấy là những câu ngắn ngọn, có tính chất hòa bình và hữu nghị.



Sự sống có lẽ ngoại trừ trái đất thì trong dải Ngân Hà không tồn tại một nơi nào như vậy, điều này chỉ ra rằng: tổng các điều kiện tự nhiên của dải Ngân Hà để xuất hiện trái đất là vô cùng - cũng có nghĩa kết quả bài toán xác xuất hình thành nên sự sống nếu so sánh với vũ trụ vô tận này là bằng “0” nếu tính tới thời điểm này. Con người, một sinh vật đã nhận thức được tính tuyệt đối trong vạn vật và đưa ra được học thuyết và phương pháp tiếp cận nó, điều này chỉ ra con người là sản phẩm siêu việt nhất của vũ trụ trong chu kỳ vận động của nó và vũ trụ không thể tạo ra một chủng loại nào thông minh hơn được - ý nghĩa này thể hiện qua khả năng sáng tạo - nếu chúng ta cô lập con người với vũ trụ thì các sản phẩm do con người làm ra là hoàn toàn khác biệt so với các sản phẩm của vũ trụ. Và một cách rõ ràng, cuối cùng thì con người hoàn toàn bị cô độc trong vũ trụ, chỉ có động thực vật là bạn bè thân thích mà thôi.



Tàu thăm dò đáp thành công xuống sao Hỏa

Ảnh tham khảo Internet





Cũng hơn 1.500 năm tr.CN, kinh Upanishad cũng đã viết về tính Tuyệt đối:

Nơi nào mà mọi thần kinh,

Như đũa gặp trục trong vành bánh xe.

Nơi thần kinh hội tụ về,

Là nơi Tuyệt đối chưa hề hóa thân.

Cố tìm Tuyệt đối trong thân,

Rồi ra sẽ thoát biển trần hôn mê.

Ngài là toàn giác, toàn tri,

Trần hoàn vinh hiển ai bì, ai đương.

Ngài đang ngự giữa thiên đường (xác thân con người),

Trời cao (lòng con người) là chính đế hương của Ngài.

Chỉ huy thần trí trong ngoài,

Chính Ngài chi phối con người thường xuyên.

Biết Ngài, những bậc Thánh Hiền,

Biết Ngài, nhờ ánh tâm huyền phát huy.

(Mundaka Upanishad. 2.2. 6.7)



Đạo Giáo gọi trung tâm não bộ là Huỳnh Đình, Côn Lôn đỉnh, vì thế, Huỳnh Nguyên Kiết mới nói: “Đầu người có 9 cung, trong có một nơi gọi là Thiên Cốc, thanh tĩnh không bụi bặm. Nếu có thể an thần ở trong, không cho rong ruổi ra ngoài, sẽ thành Chân, chứng Thánh...”. Huỳnh Đình Kinh viết: “Tử dục bất tử tu Côn Lôn”, đủ biết rằng trì thủ được Thiên Cốc ấy là điều huyền diệu vô cùng.



Phật giáo cũng xác định rằng Tuyệt đối đã ở sẵn giữa đầu não con người. Trong quyển: Nền Tảng Huyền học Tây Tạng, của Anagarika Govinda, một quyển sách viết ra để giải thích câu thần chú Um mani padme hum (Ôi! Ngọc châu viên giác nằm tại Liên hoa Tâm), có một hình vẽ các luân xa trong con người, trên cùng có một bông hoa sen ngàn cánh, giữa bông sen có chữ Aum. Sách chú rằng: bông sen ngàn cánh là óc não con người, mà Aum là Tuyệt đối. Như vậy Tuyệt đối, hay Ngọc châu viên giác đã nằm sẵn trong trung tâm đầu não con người.



Ở Trung Quốc, Cưu Ma La Thập đã dùng chữ Nê hoàn của đạo Giáo để phiên dịch chữ Nirvana, và Từ điển Phật giáo hiện nay dùng cả hai chữ Niết bàn, và Nê hoàn để phiên âm chữ Nirvana. Phải chăng người xưa muốn nói: Muốn tìm Niết Bàn phải tìm trong Nê hoàn. Trong Phật giáo có Tam Bảo, đó là nhìn nhận ra được bản thể của vũ trụ là Phật bảo, nhận định ra được hiện tướng của vũ trụ là Pháp bảo và biết khai thác cái diệu dụng của vũ trụ là Tăng bảo. Như vậy qui y Tam Bảo là sống thuận theo các định luật của vũ trụ, của thiên nhiên.



Cao Đài giáo lý cũng cho thấy thực sự Trời ở nơi đầu trong con người, Thánh giáo Sưu Tập 1968-1969, trang 5 đã cho biết chỗ cất giấu chìa khóa thiêng để mở mọi cửa nhiệm huyền: “Bao nhiêu huyền bí thiêng liêng, nhiệm màu, siêu việt, nhưng chìa khóa mở, Đức Chí Tôn đã đặt trong chỗ cao nhất của mỗi người, hãy tìm và mở lấy, hỡi chư hiền”. Chỗ cao nhất trong con người dĩ nhiên phải là Nê hoàn cung, nơi tâm điểm đầu não con người. Đại Thừa Chân Giáo trang 61 viết: “Huyền quan nhất khiếu là chi? Là Thiên nhãn vậy. Nó ở ngay Nê hoàn cung, gồm trọn Chân Dương, Chính Đạo...”, cũng trang 56 viết: “Chữ Cao Đài là gì? Là Côn Lôn đỉnh hay là Nê hoàn, thuộc về Thượng giới... Thiên môn là cái gì? Là cái khiếu Nê hoàn cung đó. Chừng nào linh hồn phá Thiên môn đặng là nhập vào Thượng Thanh cung...”.



Trong Phật giáo, đối với Duy Thức tông thì mọi sự đều trống rỗng vì chúng chỉ xuất phát từ Tâm (A-lại-da thức hay Tàng thức), trong trường phái này thì Tâm và Tính Không là một, đặc biệt trong các phép tu tập của Mật giáo Tây Tạng không chỉ tự giới hạn nơi những quan điểm triết học mà còn đi sâu vào các phép Thiền quán để tiếp cận Tính Không, trong đó phép tu luyện Đại thủ ấnĐại cứu cánh chỉ rõ cho hành giả cách thể nhập kinh nghiệm về Tính Không và từng bước điều chỉnh Bản ngã của mình. Con người chỉ thực sự được tự do khi giác ngộ nghĩa là thấy Tâm mình, nhưng với điều kiện phải có giao lưu trong cộng đồng và xã hội loài người, muốn thấy phải nhìn tức tiếp nhận, nhìn thấy gọi là Kiến.



Phật pháp chỉ con người trở về với bản tính “chân như diệu minh” thoát khỏi luân hồi, chính là trở về với trạng thái tuyệt đối của vũ trụ, đây chính là cơ sở lý thuyết của Phật pháp, của phương pháp luyện tập cổ đại Yoga và thiền định. Đạt được điều này chính là giải thoát, là tự do cuối cùng của con người, đó là khi nhận thức trở về với cội nguồn nguyên thủy của vũ trụ - Thái cực trong thuyết Âm dương Ngũ hành, được hình tượng hóa qua vòng tròn treo trên cây Nêu trong những ngày lễ Tết của Việt tộc.



Nếu đạt được Tính Không khi thiền định ở tầm mức rất vi tế, thì sự giao tiếp giữa những bậc chân sư với người ngoài hành tinh đã có thể diễn ra thông qua Tính Thấy, tuy nhiên, sự giao tiếp với “Cõi linh hồn” đã được thực hiện rất nhiều, một số xưng tên các chòm sao trên bầu trời - với các chòm sao này, các ngành khoa học cùng với ngành thiên văn ngày nay đủ khả năng xác định không có sự sống ở những nơi ấy. Bằng phương pháp quy nạp cùng với thời gian hình thành hệ mặt trời, trái đất và xuất hiện sự sống đặc biệt là con người, thì bài toán giới hạn đi tìm sự sống trong vũ trụ sẽ có kết quả tiệm cận “0”. Tuy nhiên, sau khi hình thành sự sống trên trái đất, chúng ta chưa thể khẳng định trong một khoảng thời gian trong tương lai bao xa, sẽ xuất hiện một hành tinh khác có điều kiện tương tự. Cho nên, nếu tính tới thời điểm này, sẽ không tồn tại bất kỳ một hành tinh nào khác đã hình thành nên sự sống trong vũ trụ vô cùng.



Đức Phật đã nói: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tính", tức khả năng nhận thức. Muôn loài sinh vật đều có cảm giác đau đớn, hạnh phúc và có linh hồn, bởi vậy Phật giáo kiêng sát sinh đến tận con sâu bọ, đã thể hiện tấm lòng từ bi hết sức cao cả. Mùa “An cư kiết hạ”, các tăng ni, sư sãi ở trong chùa, kiêng đi ra ngoài sợ dẫm phải côn trùng sinh sôi, nảy nở trong mùa này.



Quay trở lại bức tranh dân gian Đông Hồ Chọi Trâu, bốn vòng xoáy tương ứng độ số của quái Tốn và năm vòng xoáy tương ứng hành Thổ với biểu tượng con trâu với ẩn ý quái Khôn. Sự đối chọi giữa chúng qua hình ảnh hai con trâu đang cài sừng vào nhau nhưng chỉ thấy ba cái sừng tương ứng quái Chấn, biểu tượng của sự hợp nhất Thiên - Địa - Nhân hay tiếng sấm nổ vang báo hiệu “vua ra cửa Chấn” tức Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật.



Chọi Trâu

Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam

<br style="mso-special-character: line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">

Bức tranh mô tả hai con trâu của “xã Đông” và “xã Tống” chọi nhau, với lá cờ có dòng chữ “Hội chí lầu”, giá trị của hình ảnh hai tấm bảng và lá cờ và hình ảnh 3 cái sừng ngoặc vào nhau chính là tính hướng dẫn để tìm hiểu nội dung đích thực của bức tranh. Chữ “xã” trên bức tranh có bộ “thổ” nghĩa là “đất”; chữ “lầu” là nhà cửa; chữ “chí” trên lá cờ có nghĩa là sự cản trở, sự khó khăn phải vượt qua và chữ “hội” nghĩa là sự tập trung cho một vấn đề, mục đích.



Vì vậy, có thể hiểu rằng: hai tấm bảng và lá cờ trên muốn nói tới tính chất đối nghịch của phương Đông và phương Tây qua hình tượng hai con trâu chọi nhau hay chính là sự đối nghịch giữa sinh tử của cuộc đời mỗi con người “sinh tử nhất đại sự” là vấn đề mênh mông ẩn ý, cần phải được suy nghĩ cho tới tột cùng hay có thể hiểu rằng: tư duy cho tới tận khởi nguyên của vũ trụ và giải thích được ngay chính sự vận động của nó một cách hợp lý. Trong Phật giáo, “con trâu” chính là biểu tượng cho “bản ngã” của mỗi cá nhân, sự vận động biến hóa của của cuộc sống hay khi cận kề cái chết chính là cuộc chiến của nội tâm, vì vậy cần phải chế ngự được bản ngã.



Số 5 vòng xoáy thể hiện độ số trung tâm Hà Đồ, hành Thổ và số 4 vòng xoáy thể hiện cung Tốn, hành kim trong Hà Đồ thể hiện ý nghĩa “Tâm” là nguồn gốc tạo tác ra mọi thứ và cuộc đối đầu giữa nguồn gốc và cái được sinh ra từ nó cần phải được hóa giải. Thông qua hình ảnh 3 chiếc sừng giao nhau thể độ số phương Đông, hướng của ánh sáng mặt trời, mang mật ngữ phải để cái Tâm được tỏa sáng như ánh mặt trời, không phải là sự đối đầu mà thực sự là sự hợp nhất Thân và Tâm trở về Tính Không, hòa điệu cùng vũ trụ, đấy cũng chính là hình ảnh một con trâu với ngấu đuôi cong lên, dương và con kia với ngấu đuôi xuôi xuống, âm thay vì cũng cong lên như đối thủ trong cuộc chiến đấu. Điều này chỉ thấy được bằng chứng nghiệm của mỗi cá nhân, qua các phương pháp tu tập thiền định cụ thể, bài tứ tuyệt sau đây của Phật Quang (1226-1286) đã làm trong giây phút chứng ngộ:



Một chùy đập nát động tinh linh,

Mặt sắt Na Tra chợt lộ hình.

Miệng khớp như câm, tai như điếc,

Dửng dưng chạm đến, xẹt sao băng.

(Trích Tưởng niệm Daisetz Teitaro Suzuki, một nhân cách - một sự nghiệp, nhiều tác giả, người dịch Hạnh Viên, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008).



Tu tập thiền sẽ dẫn hành giả đến một tâm trạng bất nhị, nơi mà những ý nghĩa phân chia sự vật ra làm hai phần biệt lập như tốt xấu, phải trái, lành dữ... được chuyển hóa, hành giả đạt sự thống nhất với cái Một, cái Tuyệt đối, những khái niệm về không gian và thời gian đều được chuyển biến thành cái Hiện tại thường hằng, thiền giả chứng ngộ được sự đồng nhất của thế giới hiện hữu và bản tính. Nếu kinh nghiệm này được trau dồi thâm sâu và áp dụng vào cuộc sống hằng ngày thì đó chính là trạng thái mà tất cả những tông phái đều gọi chung là Giải thoát. Trích từ Nguyên lý cơ bản của thiền định Phật giáo ứng dụng vào đời sống hằng ngày, giáo Sư Minh Chi.



Trong cuốn sách đã xuất bản bởi Nxb Tôn giáo - 2006 có tựa là Đức Phật khai ngộ về tính thấy, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh viết: “Chính tính minh triết Phật giáo trong bộ kinh nổi tiếng Thần chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm lại là nội dung rất quan trọng trong việc xác định bản chất của Thái Cực trong minh triết Đông phương và từ đó đã đi đến việc minh chứng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại hiện nay đang tìm kiếm. Và cũng có thể nói rằng: Tổ tiên người Lạc Việt - tức Bách Việt đã di ấn lại cho đời sau hình ảnh của cây nêu phủ bóng áo cà sa của Đức Phật đã chỉ ra rằng: Những giá trị huyền vĩ của minh triết Đông phương mà người Lạc Việt chính là chủ nhân của nó, sẽ chỉ được phục hồi hoàn chỉnh và được bảo vệ dưới sự minh triết của Phật giáo”.



Cây Nêu

Tham khảo mạng Internet





CÂY NẾU VÀ MINH TRIẾT LẠC VIỆT



Trải bao năm tháng, từ đời này truyền qua đời khác, cứ mỗi khi đông tàn xuân đến thì toàn thể dân tộc Việt và cả một số dân tộc khác ở phương Đông Châu Á lại rộn rịp chuẩn bị Tết. Một trong những phong tục cổ xưa nhất của người Việt làm trong những ngày Lễ Tết nguyên đán chính là trồng cây Nêu. Có thể khẳng định rằng: Một đặc trưng rất độc đáo của văn hoá Việt trong ngày Tết chính là cây Nêu. Là người Việt, chắc chẳng ai quên câu ca dao:



Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh.



Trong ca dao tục ngữ truyền khẩu phổ biến của người dân Nam Bộ đến ngày nay vẫn còn nhắc nhở hình ảnh độc đáo của cây Nêu:



Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Cho mau đến tết dựng Nêu ăn chè.
Ăn chè rồi lại ăn xôi,
Còn ba đòn bánh Tét để dành hạ Nêu.



Cây Nêu đã cùng với tổ tiên người Việt theo cha ông trong lịch sử dựng nước, giữ nước và mở nước đầy bi tráng. Tục truyền rằng:



Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với Người ngày càng quá tay. Chúng nó dần dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng, chúng nó bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nó nghĩ ra là ''ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng nó lấy áp lực, bắt Người phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ ra những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi. Bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý, Người cơ hồ muốn chết rũ.



Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp Người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế mới chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: ''Ăn ngọn cho gốc".



Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh khoai lúc lỉu chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhá nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng nó đành cứng họng không thể chối cãi vào đâu được.



Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là ''ăn gốc cho ngọn''. Phật bảo Người chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo Người về nhà, còn rạ phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng nó tuyên hố ''ăn cả gốc lẫn ngọn". Lần này Quỷ nghĩ: "Cho chúng mày muốn trồng gì thì trồng đằng nào cũng không lột khỏi tay chúng tao". Nhưng Phật đã bàn và Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp mọi chỗ.



Năm ấy lại một lần nữa Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết, từng gánh ngô đã gánh về chứa từng cót đầy ắp. Về phần Quỷ lại bị một vố cay chua, tức uất hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nó nghĩ: "Thà không được gì cả còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình".



Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre trên có mắc chiếc áo cà sa, hễ bóng che bao nhiêu diện tích ở mặt đất là đất sở hữu của Người ở dã. Ban đầu Quỷ không thuận, nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu thì ít mà giá rất hời bèn nhận lời: "Ồ! Bằng một chiếc áo cà sa có là bao nhiêu''. Hai bên làm tờ giao ước: ngoài bóng che là đất của Quỷ, trong bóng che là của Người.



Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên trời đất trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi, lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa phải chạy ra biển Đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Đông.



Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó ngao, bạch xà, hắc hổ,... rất hung dữ. Phật cầm gậy “tầm xích” đánh giúp Người, làm cho quân của Quỷ không tiến lên được.



Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Đối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ: máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.



Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp mọi nó. Quân của Quỷ thấy máu chó sợ hoảng hồn bỏ chạy. Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân dịch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi nên cũng cắm đầu chạy biệt tích. Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển Đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại, hứa cho.



Vì thế, hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục cũ, trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh.



Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.



Cành đa lá dứa treo cao,

Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.

Quỷ vào thì quỷ lại ra,

Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm.



Từ đấy, trải hàng ngàn năm qua, mỗi năm khi Tết đến, mỗi gia đình người Việt và một số dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam lại trồng một cây Nêu cho đến tận bây giờ. Hình ảnh cây Nêu cũng như chiếc bánh chưng - bánh dầy đã cùng lịch sử văn hoá trải hàng thiên niên kỷ và đi vào hồn người dân nước Việt. Truyền thuyết về cây Nêu mang dấu ấn của Phật giáo nhưng chúng ta có thể nhận thấy: không hề có một nền văn hóa ảnh hưởng Phật giáo nào của các dân tộc khác trên thế giới có cây Nêu, ngoài Việt Nam. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: Cây Nêu là di sản văn hoá phi vật thể đặc thù của riêng văn hoá Việt và có cội nguồn thuần Việt. Từ đó, có thể nói rằng: Hình ảnh Đức Phật chỉ là sự chuyển hoá của một vị thánh nhân Lạc Việt, sau hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Nhưng cũng có thể nói rằng: Chính hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật từ bi phủ lên cây Nêu cũng là một hình tượng rất độc đáo thể hiện sự che chở, bảo vệ nền văn hóa Việt của Phật pháp khi lịch sử Việt ở những lúc thăng trầm, bi tráng nhất.



Cùng với tục ăn trầu; bánh chưng bánh dầy… sự phổ biến của tục trồng nêu trong văn hoá Việt đã chứng tỏ đây là một biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá trị minh triết độc đáo của nó.



Về hình tượng cây nêu thì có ba hình tượng còn đến bây giờ, cả ba hình tượng này đều dùng một thân cây tre trồng thẳng trên mặt đất, sự khác nhau của hình tượng là phần phía trên cây nêu:



- Một loại cổ xưa nhất, phía trên ngọn tre là một vòng tròn cũng làm bằng tre nhỏ bằng cái nia, với 2, 3 hoăc 4 thanh tre buộc ngang qua tâm tạo thành hình 4, 6 hoặc 8 điểm trên vòng tròn. Ở những điểm này, người ta treo nhiều hình tượng: đôi đũa, giải bùa tua, giỏ tre…



- Còn một hình tượng nữa là phía trên ngọn tre treo một hình vuông hoặc chữ nhật. Hình chữ nhật này được làm bằng bốn thanh tre sổ xuống và năm thanh tre ngang. Bốn thanh tre buông thẳng xuống tượng cho Tứ tung, năm thanh ngang tượng cho Ngũ hoành. Đây cũng là một loại bùa trừ tà trong Đạo giáo biến thể về sau này.



Trên hình chữ nhật, người ta cũng treo một đôi đũa trời tượng cho Âm Dương, một giỏ tre trong đó có một túi gạo muối được gói trong vài hoặc giấy điều là hai vật thiết yếu cho đời sống con người và cũng tượng cho sự phú túc. Trong giỏ còn 12 lá trầu tượng cho 12 tháng, năm nào nhuận có 13 lá. Khi hạ nêu vào ngày mùng 7 tháng Giêng, những lá trầu được lần lượt lấy ra khỏi giỏ tre. Lá thứ nhất là tháng Giêng, lá thứ hai là tháng 2… cho đến hết 12 lá. Người ta cho rằng: lá nào héo là tháng đó trong năm không tốt.



- Ngoài hai dạng cây nêu được trình bày ở trên còn một hình tượng cây nêu nữa chỉ có một thân cây tre duy nhất vút cao lên trời xanh, trên thân cây tre có trang trí giấy màu và từng khúc có gắn những tua trang trí.



Như vậy, với những hình tượng cây nêu còn lưu lại có những khác biệt đã cho thấy dấu ấn của những thăng trầm trong lịch sử Việt, nhưng dù là có sự khác biệt về chi tiết thì bản thân sự phổ biến của cây nêu trong văn hoá Việt đã chứng tỏ sự lựa chọn có ý thức của tổ tiên cho một biểu tượng văn hoá, một hình tượng minh triết của cha ông truyền lại cho đời sau.



Với hình tượng thân cây tre vút cao, vươn thẳng lên trời xanh, xuyên tâm vòng tròn phía trên cây tre là hình tượng của sự thăng hoa tư tưởng, đạt tới sự viên mãn và trở về với bản thể nguyên thuỷ của vũ trụ tức là “Mẹ tròn”, là sự khởi nguyên của vũ trụ. Hình tượng rất minh triết này gần gũi với quan niệm của Phật Giáo là sự giải thoát và trở về với bản tính chân như. Với cây Nêu nguyên thuỷ này thể hiện một sự nhận thức sâu sắc bản tính và sự giải thoát, có lẽ đã ra đời trong thời cực thịnh của nền văn hiến Lạc Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử.



Cây Nêu với tấm bùa “Tứ tung Ngũ hoành”, biểu tượng của ngài Khương Thái Công nhằm giải trừ bệnh tật, đem lại sự phú túc bình yên cho mọi gia đình trong năm mới.



Với hình tượng cây Nêu đã trình bày ở trên, đã cho thấy một hình tượng được lựa chọn có ý thức làm biểu tượng cho sự minh triết Lạc Việt từ một cội nguồn văn hiến của nước Văn Lang dưới thời các vua Hùng dựng nước. Sự vươn lên đạt tới chân tính, hoà nhập với thiên nhiên trong sự an nhiên tự tại và tình yêu con người, đây chính là thông điệp của tổ tiên truyền lại từ hàng ngàn năm trước cho đời sau, hình tượng của một giá trị minh triết Việt. Dịch viết: “Trí thì cao siêu, Lễ thì khiêm hạ. Cao là bắt chước trời, thấp là bắt chước đất”.



Chỉ với cây tre đơn sơ và rất phổ biến trong đời sống của người Việt, tổ tiên đã gửi lại đời sau sự nhắn nhủ của cội nguồn lịch sử 5000 năm văn hiến. Trải bao thăng trầm bi tráng trong lịch sử giống nòi, hình ảnh cây Nêu vẫn còn trong tâm tưởng của người Việt như một sự kết nối với cội nguồn một thời oanh liệt vàng son và đầy tính nhân bản.



Tục trồng Nêu ngày Tết không chỉ ở dân tộc Kinh mà còn rải rác một số dân tộc khác trên đất Việt hiện nay, điều này đã chứng tỏ tục trồng Nêu đã có từ rất xa xưa trong truyền thống văn hoá Việt qua tính phổ biến của nó trong các dân tộc anh em. Sự giải thích hợp lý cho tục trồng Nêu - một di sản văn hoá phi vật thể của người Việt là: Tục này có từ thời Hùng Vương dựng nước.
Hình ảnh cây nêu truyền thống trong lòng mỗi người con đất Việt chính là di sản của tổ tiên để lại nhắc nhở lòng tự hào của của dòng dõi Tiên Rồng.



Chữ Vạn không phải là một chữ mà là một biểu tượng xuất hiện từ thời cổ đại, các nhà khảo cổ đã tìm thấy sự có mặt của nó ở khắp mọi vùng trên trái đất, nhưng biểu tượng có hai hướng quay, cùng chiều hoặc ngược chiều kim đồng hồ, ngoài ra hình chữ thập cũng có thể nằm nghiêng ở một góc quay nào đấy.



Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học, chủ biên Kim Cương Tử, Q2 tr1822: Vạn Tự: Svastika hoặc Srivatsalaksara (thuật ngữ). Đây là tướng biểu thị sự tốt lành lưu truyền ở Ấn Độ, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo đều sử dụng, sớm nhất là trên tượng Brahma, Visnu, Krisna. Các tôn sư Cư Ma La Thập, Huyền Trang dịch là Đức, còn Bồ Đề Lưu Chi đời Ngụy trong Thập Địa Kinh Luận, quyển 12 dịch là Vạn, với ý nghĩa công đức viên mãn. Chữ Vạn tiếng Phạn có nghĩa “dấu hiệu tự thực hiện”, các vị Phật được mô tả trong các tác phẩm nghệ thuật thường mang biểu tượng này trên ngực.



Chữ Vạn (Swastikas)

Tranh lụa khoảng thế kỷ thứ III tr.CN, Trung Quốc






Tấm lụa được tìm thấy trong năm 1970 tại Mawangdui, gần Changsa, trong Mộ Cổ số 3. Có 29 hình “sao chổi” trong tấm lụa, và 4 “sao chổi” có hình như trên. Chúng ta có thể thấy, bên trái mang hình chữ Vạn, cũng là cuối cùng trong tấm lụa, theo thứ tự từ phải sang trái.








Biểu tượng chữ Vạn (swastikas) được khai quật từ thung lũng Indus, Ấn Độ, cùng với một số con dấu cổ khác, niên đại ước chừng 2500-1500 năm tr.CN.



Đối với các nền văn hóa Phương Tây như Hy Lạp, Celtic, Phần Lan và các nền văn hóa bản xứ khác, chữ Vạn cũng từng là một biểu tượng rất quan trọng, nó đã được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực nghệ thuật như dệt vải, kiến trúc, gốm sứ và tạc tượng... nền văn hóa Tây Phương gọi nó là “bánh xe ánh sáng”.

Chữ Vạn vẽ trên một cái chậu miệng lớn

Trích Mỹ thuật Hy Lạp và khảo cổ, tác giả John Griffiths Pedley, Nxb Mỹ thuật, 2006





Nữ thần Artemis với chữ Vạn

Cổ vật Hy Lạp, khoảng 700 năm tr.CN

<b><br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> </b>

Những điều đáng chú ý và liên quan đến vấn đề trình bày ở đây là tất cả những di vật cổ đại đó, đều là những di sản văn hóa vật thể, mà giá trị nội dung đôi khi phụ thuộc vào khả năng suy luận của tri thức. Những sản phẩm văn hoá phi vật thể thuộc về những nền văn minh cổ có sự trùng khớp kỳ lạ chứng tỏ tính nhất quán về tri thức và sự thống nhất về cội nguồn văn hoá, trước hết chúng ta hãy quán xét và so sánh hình dưới đây:



Hình chữ Vạn và sự vận động biểu kiến của các thiên hà trong vũ trụ




Qua hình trên, chúng ta có thể ý niệm được ngay một sự liên quan giữa hình chữ Vạn ngược và sự vận động biểu kiến của các thiên hà trong vũ trụ. Chữ Vạn là biểu tượng của Phật pháp thể hiện nội dung chính của Phật học là sự luân hồi nhân quả, đó chính là biểu tượng cô đọng nhất sự vận động của vũ trụ và những quy luật của nó bao trùm lên cả kiếp người. Về nội dung và hình thức của hai biểu tượng này hoàn toàn trùng khớp, hình chữ Vạn ngược chính là biểu tượng cho quỹ đạo vận động của các thiên hà, hình chữ Vạn xuôi chính là biểu tượng cho sự tương tác của vũ trụ tới trái đất và Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ chính là công thức tính toán các tương tác trên. Do vậy, chữ Vạn xuôi chính là biểu tượng của Phật giáo, khi đưa vào các hình tượng nghệ thuật như tạc tượng hay đồ họa hình tượng Phật chúng ta sẽ thấy nó quay ngược, bởi các vị Phật là người đã hòa nhập vào toàn thể vũ trụ.



Như vậy, chữ Vạn là một biểu tượng có liên quan mật thiết đến thiên văn phương Đông, đó chính là Nhị thập bát tú quay xung quanh chòm sao Bắc Đẩu, chúng tạo nên cấu trúc của số 7 - độ số của phương Nam. Trong chòm sao Bắc đẩu, ngôi sao Thiên Quyền là biểu tượng của vua Đế Minh, Khương Thái Công tức Phật A Di Đà, ánh sáng vô lượng quang của trí tuệ và đấy chính là lý do mà nền văn hóa Tây Phương gọi nó là “bánh xe ánh sáng”. Vua Đế Minh hay Khương Thái Công có lưu truyền lại một bài thơ tiên tri Càn Khôn Vạn Niên Ca, tiên tri lịch sử thế giới trong vòng một vạn năm, trùng âm với chữ Vạn của Phật giáo. Trong Tùy Đường diễn nghĩa, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã xem Bắc đẩu là cái “ấn vàng”:



Mười “Vạn” tinh binh giữ cõi ngoài,

Ấn vàng treo Đẩu, ánh trăng soi.

Lá cờ sông Dịch mây tung ngất,

Mũi giáo đài Yên sương chói ngời.



Chúng ta cũng đã biết vua Đế Minh cũng là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn trong Đạo Giáo, mà trong nền học thuật cổ Đông phương thì cuốn Thái Ất thần kinh là cuốn sách ứng dụng, mang tính dự báo tương lai, tham vọng dự báo của Thái Ất dựa trên sự vận động vũ trụ nhằm xác định các hiệu ứng tương tác tới trái đất, cho cả mọi vấn đề xã hội và con người. Theo Thái Ất, mốc chuẩn thời gian được tính theo Thượng Cổ Giáp Tý 10.153.917 tr.CN, căn cứ để tính theo mốc chuẩn này vì: “Năm gọi là mốc thời gian vì có hiện tượng 7 sao tụ hội, tức là tất cả Nhật Nguyệt hợp bích và Ngũ tinh liên châu đều họp ở cung Tý, cho nên: năm, tháng, ngày, giờ, thiên chính, đông chính đều lấy cung Tý làm mốc hầu hết, gọi là Thượng Cổ Giáp Tý”. (Thái Ất Thần Kinh, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2001). Điều này, rõ ràng chỉ ra cuốn sách trên đã lấy hiệu của ngài trong Đạo giáo làm tên gọi.



Ngoài ra, chúng ta cũng biết con trâu (Kim ngưu) là biểu tượng của vua Đế Minh, và trong Phật giáo thì được lấy làm biểu tượng cho bản ngã của mỗi con người. Kim ngưu cũng chính là chòm sao Kim ngưu trên vòng Hoàng Đạo và từ điểm mốc này, chúng ta đã hoàn thành việc sắp xếp thứ tự các chòm sao trên vòng Hoàng Đạo theo niên hiệu của các vị vua lịch sử nước Văn Lang:



Vòng Hoàng Đạo

Trích nguồn http://www.phanes.com/stamap.html





Tên gọi 12 cung của vòng Hoàng Đạo giữa Đông phương và Tây phương:

Tháng

Tên gọi

Địa chi

Cung

Chòm sao

Tháng Mười

Lạc Long Quân - Hùng Vương II

Hợi

Song Ngư

Thất, Bích

Tháng Chín

Kinh Dương Vương - Hùng Vương I

Tuất

Bạch Dương

Khuê, Lâu

Tháng Tám

Đế Minh - Hắc Đế hay Huyền Đế

Dậu

Kim Ngưu

Vị, Mão, Tất

Tháng Bảy

Đế Thừa - Bạch Đế

Thân

Song Tử

Chủy, Sâm

Tháng Sáu

Đế Tiết - Hoàng Đế

Mùi

Cự Giải

Tỉnh, Quỉ

Tháng Năm

Thần Nông - Viêm Đế

Ngọ

Sư Tử

Liễu,Tinh, Trương

Tháng Tư

Nữ Oa*

Tỵ

Thất Nữ

Dực, Chẩn

Tháng Ba

Hùng Chiêu Vương- Hùng Vương VII

Thìn

Thiên Xứng

Giác, Cang

Tháng Hai

Hùng Hồn Vương- Hùng Vương VI

Mão

Thiên Yết

Đê, Phòng, Tâm

Tháng Giêng

Hùng Hy Vương- Hùng Vương V

Dần

Nhân Mã

Vĩ, Cơ

Tháng Chạp

Hùng Hoa Vương- Hùng Vương IV

Sửu

Ma Yết

Đẩu, Ngưu

Tháng Một

Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III



Bảo Bình

Nữ, Hư, Nguy

*Nữ Oa: tên gọi chung về sự cao quý của người phụ nữ thời Ngũ Đế và được xem như sự bắt đầu được chọn lựa từ Nữ Oa - Phục Hy (Thanh Đế), Nữ Oa thuộc cung Tỵ (Rắn) nên biểu tượng cổ đại Nữ Oa và Phục Hy mình rắn quấn với nhau.



Trong vòng Hoàng Đạo phương Tây vẫn còn lưu giữ một dấu ấn quan trọng, đó là chòm sao Thần Nông tương ứng là chòm sao Bọ Cạp, nhưng căn cứ theo bảng tổng hợp ở trên thì chòm sao Thần Nông là chòm sao Sư Tử, đây chính là dấu ấn nguồn gốc từ phương Đông. Dấu ấn nay cũng như vị trí của sao Kim và sao Thủy khác nhau giữa thiên văn hiện đại và thiên văn cổ Đông Phương. Đặc biệt, thiên văn cổ Đông phương không có ngôi sao thứ 10 Diêm Vương trong Hệ mặt trời. Không chỉ vậy, hình nhân sư phía trước kim tự tháp Kheop quay về hướng Đông cũng cho ta một mối liên quan, như vậy “Nhân sư” biểu tượng chòm sao Sư tử trên vòng Hoàng Đạo, được ghi dấu trên trần đền Dendarah thờ nữ thần bò cái Hathor chính là vua Thần Nông. Trong Đạo giáo, ngài là vị thần linh quan trọng nhất của Tam Thanh, là Nguyên Thủy Thiên Tôn, và ngài có “vị trí cao hơn” cả Đại Nhật Phật và Phật A Di Đà.



Sự khác nhau về tên gọi và biểu tượng của các cung Hoàng Đạo phương Tây so với các chòm sao thiên văn trong Thai Tạng giới của Mật giáo Tây Tạng:



So sánh tên gọi và biểu tượng:

Thiên văn Phương Tây

Thiên văn Phật giáo

Song Tử

Phu Phụ

Thất Nữ

Thiếu Nữ

Thiên Xứng

Thiên Xứng

Nhân Mã

Cung Cung

Ma Yết

Ma Yết

Bảo Bình

Hiền Bình



Biểu tượng cung Thiếu Nữ - Hiền Bình - Ma Yết - Nhân Mã - Thiên Xứng - Phu Phụ trong thiên văn Phật giáo

Trích Thai tạng giới,





Thời đại chúng ta đang sống điểm xuân phân nằm trong chòm sao Song Ngư, thời đại này gọi là thời đại của chiến tranh, chết chóc hay thời đại của Thần Chết - Thần chết Osiris của tôn giáo Ai Cập cổ đại - vua Cõi Chết Lạc Long Quân và sẽ chuyển tiếp sang thời đại Bảo Bình là thời đại hòa bình - Thần Cả Horus tôn giáo Ai Cập cổ đại - vua Cõi Đất Hùng Quốc Vương với biểu tượng là cái bình nước có cắm một cành hoa sen đang nở - là một trong tám biểu tượng cát tường của Phật giáo. Trong thời đại Song Ngư, Phật giáo sử dụng cái mõ con cá làm biểu tượng, cho nên qua thời kỳ Bảo Bình thì cái mõ hình con cá sẽ được thay thế bằng cái mõ khắc hình cái bình báu.



Bát Bửu Phật giáo

Tranh tham khảo Internet






Bát bửu hay còn gọi là tám món cát tường (tám vật quý) bao gồm: pháp luân (bánh xe), vỏ ốc (pháp loa), tán (chiếc dù), lọng trắng, hoa sen, bảo bình, cá vàng, nút thắt may mắn. Sự hiện hữu của bát bửu sẽ mang đến cho gia chủ vận may về của cải vật chất cũng như đời sống tinh thần.



Cái mõ hình cá chép




Chiếc mõ hình con cá chép xưa cũ còn được lưu giữ, treo ở một gian trong gia đình ông bà Nguyễn Văn Lưu - Hà Thị Cấm (trích từ bài viết Về thăm làng cổ Đường Lâm, tác giả An Dung). Chiếc mõ hình con cá biểu tượng cung Song Ngư.

Mõ nguyên bản hình con cá tại một ngôi chùa ở Uji, Nhật Bản.



Trong nền tôn giáo Ai Cập cổ đại, hình tượng thần Cả Horus, con của nữ thần Isis và nam thần Osiris, thông thường ngài được mô tả ngồi trên một bông hoa súng đang nở, ngón trỏ tay trái chỉ vào miệng như ngụ ý rằng: có một điều bí ẩn lớn lao cần phải giữ kín? Và hình tượng này cũng thể hiện con số Vạn - 10.000, có thể dịch ý là “bí ẩn vạn năm”.



Thần Cả Horus

Bát cổ và tranh vẽ Ai Cập





Từ bảng tổng hợp tên gọi các vị vua lịch sử tương ứng với các cung trên vòng Hoàng Đạo, chúng ta nhận thấy rằng: biểu tượng cung Bạch Dương (con dê hay cùng chủng loại như con lừa) chính là biểu tượng của vua Kinh Dương Vương, và được thể hiện trong bộ tranh dân gian nhị bình Hàng Trống Rồng rắn lên mây - Bịt mắt bắt dê (Phi long tại Thiên - Lục hợp đồng xuân) kết hợp cùng với trò chơi dân gian của trẻ em Việt Nam Rồng rắn lên mây.



Rồng rắn lên mây - Bịt mắt bắt dê

Tranh dân gian hàng Trống, Việt Nam




Một em làm thầy thuốc, 11 em còn lại sắp thành hàng dài, tay người sau nắm vạt áo hoặc đặt trên vai người phía trước, tất cả lượn qua lượn lại. Em dẫn đầu vừa đi vừa hát: "Rồng rắn lên mây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh. Thầy thuốc có nhà hay không?"



Người đóng vai thầy thuốc trả lời: Thầy thuốc đi chơi! (đi chợ, đi câu cá… tùy ý), thường thầy thuốc không có nhà để con Rồng lượn quanh sân hai ba lượt, cuối cùng thầy thuốc có nhà.

Thầy thuốc hỏi: Rồng rắn đi đâu?

Em cầm đầu đáp: Rồng rắn đi lấy thuốc cho con.

Thầy thuốc hỏi: Con lên mấy?

Con Rồng đáp: Con lên một.

Thầy thuốc nói: Thuốc chẳng ngon.

Cuộc đối đáp tiếp diễn cho đến khi con Rồng trả lời "con lên mười”, khi ấy thầy thuốc kết luận: Thuốc ngon vậy.

Rồi thầy thuốc lên tiếng: Xin khúc đầu?

Con Rồng cho biết: Những xương cùng xẩu!

Thầy thuốc nói: Xin khúc giữa?

Con Rồng trả lời: Những máu cùng me.

Cuối cùng thầy thuốc hỏi: Xin khúc đuôi?

Con Rồng cười: Tha hồ mà đuổi!



Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách bắt cho được người cuối cùng trong hàng, ngược lại, thì em cầm đầu rồng rắn phải giang thẳng hai tay để chắn không cho thầy thuốc bắt được cái đuôi là người cuối cùng của mình. Đoàn rồng rắn càng dài thì cuộc đuổi bắt càng náo nhiệt, khi bắt được, em đó phải thay thầy thuốc và cuộc chơi lặp lại từ đầu.



Điểm cốt yếu của bài đồng dao này nằm ở hình tượng trò chơi là hình tượng con Rồng, chính là sự mô tả dưới một hình thức khác một câu trong Hệ từ của Chu Dịch "Phi long tại Thiên". Như vậy, hình tượng trò chơi và câu đầu tiên của bài đồng dao đã xác định những bí ẩn của Kinh Dịch từ trong trò chơi này. Phải số 10 thì thuốc mới ngon và trò chơi mới bắt đầu - đây chính là con số lớn nhất chỉ có trong Hà Đồ và những bí ẩn của nền văn hóa Đông phương huyền vĩ đang thách đố tri thức của toàn thể văn minh nhân loại. Bởi vậy, ngay cả khi xác định Hà Đồ là nguyên lý căn để của Lý học Đông phương thì cũng mới chỉ bắt đầu trò chơi "Rồng rắn lên mây" này. Bây giờ chúng ta xem xét đến ý nghĩa của ba khúc Rồng:

Xin khúc đầu? Những xương cùng xẩu!

Xin khúc giữa? Những máu cùng me!

Xin khúc đuôi? Tha hồ thầy đuổi!



Khúc đuôi của con rồng chính là những phương pháp ứng dụng như Đông y, Tử vi, Phong thủy, Bốc Dịch... của một Lý thuyết thống nhất vũ trụ, và hàng ngàn năm đã trôi qua kể từ khi nền văn hiến Việt huyền vĩ sụp đổ ở miền Nam sông Dương Tử, tất các thầy đều không thể biết được bản chất thật của nó.



Xin khúc giữa? Những máu cùng me! chính là những khúc rời rạc của một hệ thống lý thuyết đã thất truyền trở nên mơ hồ.



Xin khúc đầu? Những xương cùng xẩu! Khúc đầu chính là những nguyên lý lý thuyết và bản chất của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Làm sao mà mà có thể tìm thấy một chân lý từ con long mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và từ con rùa trên sông Lạc Thủy. Cả một hệ thống lý thuyết phản ánh quy luật của toàn thể vũ trụ cao siêu và huyền vĩ như vậy, mà chỉ do một con người nghĩ ra trong vòng hai năm là Chu Văn Vương thì khó mà tưởng tượng ra (tham khảo các bài viết ngắn của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).



Trong bức tranh Rồng rắn lên mây, có hình ảnh hai vợ chồng ngồi xem đàn con vui chơi còn bức tranh Bịt mắt bắt dê chỉ có người mẹ ngồi xem đàn con tự bịt mắt tìm bắt con “dê”, con “dê” ở đây chính là biểu tượng vua Kinh Dương Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế… đàn con mải đi tìm một “Thượng đế toàn năng” sáng tạo ra vũ trụ trong khi đôi mắt đã bị bịt kín, chỉ còn nghe bằng tai thì không thể hiểu được, chứ chưa nói đến biết được ngài là ai. Sự kết hợp của hai bức tranh mang ẩn nghĩa rằng chỉ khi nào sự vận động của vũ trụ đến gian đoạn “lục hợp” ứng 6 đứa bé trong trò chơi Bịt mắt bắt dê trong “địa chi” ứng 12 đứa bé trong trò chơi Rồng rắn lên mây, thời điểm âm dương hòa hợp toàn vũ trụ ứng với quẻ Địa Thiên Thái của Chu Dịch thì mới biết được “Thượng đế” là ai.



Vòng tay vàng

Cổ vật Ai Cập






Biểu tượng con mắt trái của Thần mặt trời Ra trên chiếc vòng tay cổ Ai Cập. Phía dưới là hình bán cầu biểu tượng cho một vũ trụ nguyên thủy mênh mông, tràn ngập một dạng vật chất được xem như nước, gọi là “Biển nước nguyên thủy Nun”.



Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật, vị Phật bí ẩn ở trung tâm của Kim cương giớiThai tạng giới trong Mật giáo Tây Tạng, là Ngọc Hoàng Thượng Đế trong Đạo giáo, Thần mặt trời Ra của tôn giáo Ai Cập cổ đại, là thần Vishnu trong Bà La Môn giáo, thần Surya trong Kỳ Na giáo, là ông Trời trong niềm tin dân gian và của các dân tộc khác trên thế giới … Ngài là vị thánh nhân mà nhân loại tôn sùng. Trong nền văn hóa Việt thì biểu tượng chính thống của ngài là con “Rồng vàng”, được chạm khắc trên đỉnh mái của một ngôi đình, đền, chùa, miếu qua hình tượng “Lưỡng Long minh châu”. Vâng! Ngài là một con người đã tu luyện đạt quả vị Phật và hướng dẫn chúng sinh đi tiếp con đường ánh sáng của ngài, phù hợp với các quy luật vận động của vũ trụ.

Cách đây hơn 2.500 năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói: “Đừng than phiền, kêu khóc và cầu nguyện, mà hãy mở mắt ra và thấy. Chân lý đang ở chung quanh các ngươi. Nếu các ngươi quyết chí gỡ bỏ miếng vải bịt mắt rồi nhìn xem thì sẽ thấy rõ Chân lý xiết bao kỳ diệu, mỹ lệ, vượt khỏi những ước mơ hay cầu khẩn của người đời. Chân lý tồn tại mãi mãi, mãi mãi..

Bởi vậy, chúng ta tiếp tục xem tiếp phần trên tính từ dưới lên đó là độ số 10 chỉ có trong Hà Đồ và đấy chính là nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành, là con số thể hiện hoàn tất của một chu kỳ Âm dương Ngũ hành ứng một cung Hoàng đạo (2.160 năm) chính là thời khắc điểm xuân phân di chuyển từ cung Song Ngư sang cung Bảo Bình, một chu kỳ mới mang thông điệp hòa bình đã bắt đầu. Chính từ đồ hình Bát quái phối Hà Đồ - Pháp Đại Uy Nỗ, cùng với kinh sách Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo của nền văn hiến Việt mới có thể phục hồi toàn bộ hệ thống thuyết Âm Dương Ngũ hành và hiểu rõ bí ẩn của đời người, tất nhiên đấy chính là "ngày hiển vinh" và đưa cuộc sống, con người đến giai đoạn thăng hoa "Phi long tại Thiên", dân gian có bài ca dao rằng:



Dù ai nói ngược nói xuôi,

Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.

Ai thương ai ghét mặc tình,

Phận mình cứ giữ Tâm mình thật ngay.



Câu chuyện, cũng mang ý nghĩa nhân loại sẽ phải đi tới một thế giới “đại đồng” trong tôn giáo và khoa học, nền văn hóa Việt đã hoàn toàn dự báo trước điều đó hàng ngàn năm với biểu tượng ngôi chùa “Đồng” trên non thiêng Yên Tử.



Chùa Đồng

Yên Tử, Quảng Ninh, Việt Nam (ảnh tham khảo Internet)





Ngoài ra, chúng ta cũng chú ý, trong đồ hình Hội Cúng dường ở phương Nam của Kim cương giới Mật giáo Tây Tạng, nếu kết hợp chữ nghĩa ở 8 phương thể hiện 8 vị Bồ Tát cúng dường tạo thành cụm từ: “hỷ, man, ca, vũ, hương, nến, hoa, đăng”, kết hợp với kết quả nhận định các vị Cổ Phật, Bồ Tát lịch sử ở trên thì sẽ hình thành câu: Người Nam vui múa hát ca cùng với đèn, nến, hương, hoa quanh các vị Phật và Bồ Tát”.



Tám vị Bồ Tát cúng dường:

Văn Thù Bồ Tát

Đại Thế Chí Bồ Tát

Phổ Hiền Bồ Tát

Di Lạc Bồ Tát

Địa Tạng Bồ Tát

Nguyệt Quang Biến Chiếu

Bồ Tát

Thánh Quan Âm

Nhật Quang Biến Chiếu

Bồ Tát

* Không xuất hiện Bất Không Quyến Sách Quan Âm bởi ngài là Tỳ Bà Thi Phật. Tên gọi 8 vị Bồ Tát Cúng Dường đã có điều chỉnh khác so với bản gốc, bởi vì đã xác định được danh tính lịch sử của các vị Cổ Phật và Bồ Tát.



Cũng theo Thánh giáo của đạo Cao Đài, Đức Quan Âm Bồ Tát có giáng rất nhiều thi văn và giảng đạo qua các cơ bút, tham khảo một phần nội dung trích dẫn từ cơ bút của ngài: “Sứ mạng Tận độ là cái sứ mạng chính của quốc độ Việt Nam. Ðược một sứ mạng hy hữu như vậy dầu rằng một quốc độ tiểu nhược nhưng hậu lai sẽ tràn đầy thắng phước, công đức dân tộc ấy như nước biển chẳng lường! Một diễm phúc tối cao được Bề Trên chọn cuộc khai sáng cơ nghi Ðại đạo ngay trong thời Pháp mạt...”.



Dưới đây, cũng một vần thơ do ông Huỳnh Phú Sổ, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sáng tác và được lưu hành rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, đúng thật là:



Non sông rực rỡ chói ngời,

Mảnh gương Phật đạo soi đời cổ kim.



Trong trò chơi trẻ em Rồng rắn lên mây, con Rồng đi tìm Thầy thuốc để xin thuốc cho con, vậy thuốc này là thuốc dùng để làm gì? Hãy cùng xem tiếp Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ.





***

Share this post


Link to post
Share on other sites