Posted 28 Tháng 1, 2013 Kinh Dương Vương Buổi đầu Nam Việt có Kinh Dương, Thống nhất sơn hà mười tám vương. Hơn trăm hệ truyền từ xưa đó, Muôn năm hương hỏa, muôn năm thơm. Trong Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, vua Kinh Dương Vương được nhân dân tôn xưng là Thánh Tổ hay “Ốc Tổ”, hay còn gọi là vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Theo định nghĩa của đạo Cao Đài, Ngọc Hoàng Thượng đế là Đấng Chí Tôn, Đấng duy nhất tuyệt đối, tối cao tối đại, chí tôn chí linh, tạo hóa ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Trong Đạo Giáo, Hạo Thiên Kim Ngọc Hoàng Đại Đế, Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Đế, gọi tắt là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngày Thánh đản là 9 tháng Giêng âm lịch. Hình ảnh của ngài thường ngồi trên ngai vàng chạm trổ “Lưỡng long triều dương”, đầu đội vương miện, trên che lọng báu. Hai tay nâng hốt theo nghi lễ Hoàng Đế gọi là Khuê. Chùa Ngọc Hoàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Để lý giải về việc nhân dân ta suy tôn vua Kinh Dương Vương là Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúng ta cùng hãy cùng xem xét các bức tranh dân gian Đông Hồ: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Bức tranh Ngọc Hoàng Thượng đế ngồi ngai “Lưỡng long triều dương” là quẻ Càn trong Hậu Thiên Bát quái và mang ý nghĩa vua Kinh Dương Vương chính là ông mặt trời. Hình tượng hai vị quan cầm khuê đứng chầu hai bên Ngọc Hoàng Thượng Đế, bên phải thường gọi là Nam Tào và bên trái là Bắc Đẩu. Đặc biệt bức tranh dân gian Hàng Trống Ngũ Hổ, với hình tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế là quẻ Càn trên hòm ấn, 5 con hổ thể hiện Ngũ Đế với các đạo binh của 5 phương trời bảo vệ hòm ấn Pháp Đại Uy Nỗ (quy luật bao trùm, nguyên lý thống nhất vũ trụ). Ngũ Hổ với phù hiệu “Pháp đại uy nỗ” Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Chính thất của Ngọc Hoàng Thượng đế chính là Thánh Mẫu Thượng Ngàn hay Diêu trì Kim Mẫu ngự ở cung Diêu Trì, là người tổ chức hội Bàn Đào, còn Ngọc Hoàng Thượng đế ngự ở điện Linh Tiêu theo truyền thuyết của Đạo Giáo. Dẫn giải từ Cao Đài từ điển: Diêu trì Kim Mẫu còn gọi là Kim Bàn Phật Mẫu, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung, Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu chứa các nguyên chất để tạo ra chân thần cho vạn vật, tức là chúng sanh gồm kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhân loại. Như vậy vũ trụ khởi nguyên sẽ có hai Đấng đầu tiên cầm quyền càn khôn vũ trụ là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Phật Mẫu. Qua nội dung trên, chúng ta hiểu Ngọc Hoàng Thượng Đế biểu tượng Dương và Diêu Trì Kim Mẫu biểu tượng Âm, cho nên bức tranh dân gian Hàng Trống Ngọc Hoàng Thượng Đế và Thánh Mẫu Thượng Ngàn là một bộ nhị bình. Trên trống Đồng Ngọc Lũ, Ngài cai quản Cõi Trời thể hiện trên biểu tượng vành trống số 8 “nai - chim”. Trong hệ thống kinh sách của Đạo giáo, cuốn Ngọc Hoàng Kinh có tên gọi đầy đủ là Cao Thượng Ngọc Hoàng bản hạnh tập kinh, gồm 3 quyển, 5 phẩm, thường được các đạo sĩ thường xuyên tụng niệm làm công đức, bao gồm Thanh vi thiên thần thông, Thái thượng đạo quang minh viên mẫn đại thần chú, Động huyền linh bảo ngọc hoàng công đức phẩm, Thiên chân họ phù trì và Động huyền linh bảo bảo ứng thần nghiệm phẩm. Theo nội dung Thanh vi thiên thần thông phẩm là kể về nguồn gốc và tính cách của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Tương truyền rằng, ở nước Quang Nghiêm Diệu Lạc, quốc vương không có người nối dõi. Một đêm, hoàng hậu mơ thấy Thái Thượng Lão Quân trao cho bà một đứa trẻ. Sau đó hoàng hậu mang thai và sinh được một vương tử. Vương tử kế vị, đem tấm lòng nhân từ mà cai trị đất nước. Xót thương cảnh dân chúng đau khổ, vương tử bỏ ngôi vua vào núi tu đạo. Sau 3200 kiếp tu đã được kim thân, gọi là Thanh Tịnh Giác Vương Như Lai. Chư vị Bồ Tát đến ngộ Đại thừa chính tông, lại trải quan hành vạn kiếp tu mới chính thức trở thành Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vị thần này thần thông quảng đại. Ông đã đi khắp các phương để nói về đạo thanh tịnh giải thoát (trích từ Đạo giáo triết lý nhân sinh, tác giả Nguyễn Xuân Huy, Nxb. Thời đại, 2010). Theo truyền thuyết thì ngài chính là “hóa thân” của “Đấng Tối Cao” trong Tam Thanh, là vị được cổ nhân sùng kính hạng nhất. Ngọc Hoàng cư ngụ nơi Ngọc Thanh Cung, chưởng quản hết từ trên là 36 thiên, ba ngàn thế giới, các bộ thần tiên, tới dưới là 72 địa, tứ đại bộ châu. Nói tóm lại , là chưởng quản tất cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, cho đến triệu ức sinh linh… do đó mới tôn xưng ngài là Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế. Ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch là ngày “Đản sinh” của Ngọc Đế (Thiên Công Sinh). Tháng Giêng là tháng khởi đầu của năm (tháng Dần), chủ của bốn mùa, cây cối nhờ vào khí thủy mà từ đó sanh sôi nẩy nở thêm ra. Số “9” là con số “lớn nhất” của các số, đại biểu cho ý nghĩa “cực dương”. Cho nên, người ta lấy con số “9” của tháng làm ngày sinh của ngài là do ý đó. Nhà vua được là xem người được mệnh lệnh của “Trời” để quản lý quốc gia. Nếu vua mà thuận theo thiên ý thì sẽ được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, còn nếu nhà vua làm trái với thiên ý, thì “Trời” nhất định sẽ giáng tai họa để trừng phạt. Cho nên phải có định kỳ “Tế Trời”, đó là chức trách tối quan trọng của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại, mỗi năm nhà vua đều phải cử hành “Lễ Giao”, nhưng chỉ có nhà vua mới là người “đủ tư cách đại diện” mà thôi. Trong dân gian, mỗi con người đều mang nặng, khắc sâu hình tượng ông “Trời” hiện diện rất thân cận, gần gũi và mật thiết với họ. Lúc đầu không ai dám đưa hình tượng nào ra về ngài, chỉ dùng hai biểu tượng là “Thiên Công Lô” (lò hương cúng trời) và “Thiên Công Tòa” ( ngai vua trời) để cúng bái mà thôi. Các Miếu thờ đều đặt “Thiên Công Lô” ở trước cửa, khi cúng bái thì ngẫng mặt lên bầu trời mà van vái, từ đó có tục lệ “đốt hương” trong cúng tế. Vào buổi chiều hôm trước mồng 8 tháng Giêng âm lịch, cả nhà già trẻ bé lớn đều ăn chay, tắm gội sạch sẽ, sửa soạn phẩm vật thịnh soạn. Kế đó, dâng hương cúng tế, lạy 3 lạy 9 vái. Ở những nơi cầu cúng tập thể phải có phẩm vật đặc biệt là “con heo nguyên vẹn” để cúng theo nghi thức rất long trọng. Bức tranh Quán tổng thống chư tạo địa, thủy, sơn, nhân cơ hội bản đồ tức Toàn đồ về việc kiến tạo trời đất, sông núi và con người, tranh in khắc gỗ thế kỷ XVIII, bản in lại năm 1996, Ván lưu tại Viện Hán Nôm, Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Pham Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2000: nội dung nói lên muôn loài trong ba cõi đều chịu sự kiêm quản của các thế lực tối cao trong tôn giáo và tín ngưỡng. Thông qua các dòng chữ trình bày xen kẽ các hình khắc nói rõ trên có tiên cưỡi phụng và hạc, các cặp rồng đều chầu vào giữa là “Tòa báu” - tượng trưng ngôi cao Chí tôn thường ngự. Xung quanh có cờ báu, lọng báu, trống báu, phướn báu, xe rồng, cùng cờ, quạt, bếp sao thuốc, lò luyện đan… biểu thị Cõi Trời, Cõi Đất được tượng trưng là những vị vua các nước dâng đồ cống đứng xếp hàng hai bên thềm báu. Cõi nước bao gồm các linh vật như rùa, cá đối xứng với các hình khắc phía trên quy tụ vào giữa tranh. “Tòa báu” giữa bức tranh được bảo vệ bằng hai thanh đao hai bên và biểu tượng chính là 6 vạch ngang tức tượng của quẻ Bát Thuần Càn trong Kinh Dịch, như vậy ngôi cao Chí tôn chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Xung quanh có 28 con rồng tượng trưng cho nhị nhập bát tú quy chầu vào giữa. Các động vật biểu trưng cho ba cõi là các động vật cưỡi của các vị thần tiên. Trung tâm bức tranh này hoàn toàn tương ứng với hòm ấn “Pháp đại uy nỗ” của bức tranh dân gian Ngũ Hổ Hàng Trống. Quán tổng thống chư tạo địa, thủy, sơn, nhân cơ hội bản đồ Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Pham Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2000 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Bức tranh này được xem cùng với bức tranh Thượng Sư Điện là nơi các vị Tiên thường ngự, và chính là nơi ngự của hệ thần tối cao trong Đạo giáo tức Tam Thanh. Cột chữ trong tranh ghi rõ “Quán thâu kiêm cai tổng chư bản đồ. Thiên, Địa, Thủy, Nhân cơi hội đại hình tiến bảo” - Bản đồ thâu nắm tất cả trời, đất, nước, người tạo dịp dâng cúng làm đồ thay thế. Thượng Sư Điện Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Pham Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2000 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Bên phải đề: “Quán sắc không lập không chí tổ, Văn Đỉnh Vương Sư, chư tạo Phật Pháp Tăng, Đông Độ Tây lai chư giáo Thánh chúng, vạn Thánh Thiên Hiền, dĩ thượng dĩ hạ, tiếp bảo nạp ngọc, cống hiến kiêm cai, đại phục tung hô tái bái” - Nắm mọi lẽ sắc không, thiết lập đấng tối cao, hàng vương, sư, văn, võ, tạo ra Tam bảo từ Đông đến Tây về, các bậc Thánh chúng cùng ngàn Thánh muôn Hiền, từ trên xuống dưới, cống tiến báu ngọc, đều phủ phục tung hô lễ tạ. Bên trái đề: “Quán thâu tự cực, Nguyên thủy chí Thiên vương, Ngọc Hoàng Phạm Thích, chư Thiên tôn Tiên bộ, cửu thiên Công tử, Nho - Đạo - Thích, sơn, hà, thiên, địa, nhật, nguyệt, Bắc thần, chư bang quốc hầu vương, tiến bảo nạp ngọc, cống hiên đại phục tung hô tái bái” - Nắm từ Thái cực nguyên thủy, đến Ngọc hoàng, Thiên vương, Phạm thiên, Đế Thích, các vị thiên tôn, các bộ Tiên, chín ngàn Công tử, cùng Nho - Lão - Phật, trời, đất, sông, núi, nhật, nguyệt, sao sac ho đến các vị vương hầu mọi nước, cống nạp báu ngọc phủ phục tung hô lễ tạ. Như vậy có nghĩa: Những hình quỳ lễ xếp tầng hai bên, và đồ châu báu ngọc dâng cúng ở giữa được đề dẫn rất rõ như trên. Đấng tối cao chịu sự phủ phục tung hô và cung tiến của muôn loài thì tiềm ẩn không xuất hiện trong tranh. Cùng đi với bức tranh Thượng Sư Điện là bức tranh Tiên Cảnh mô tả cảnh tiên trên cõi bồng lai, nơi các vị Tiên thường ngự. Tiên Cảnh Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Pham Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2000 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Đấng Chí Tôn kiêm quản và tạo nên tất cả muôn loài, nắm tất cả giáo pháp, phúc đức… trình bày trong bức tranh Bảo Ngọc Khố. Phía trên hai bên Bảo ngọc khố có dòng chữ: “Thượng sư thành tạo chư tạo giáo pháp, Phúc đức bất sinh bất diệt. Sa ha” - Thượng Sư tạo nên tất cả giáo pháp, Phúc đức nơi kho chẳng sinh chẳng diệt. Sa ha. Bảo Ngọc Khố Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Pham Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nhà xuất bản Mỹ Thuật, 2000 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Câu bên phải: “Án, Thượng Sư thiên biến vạn hóa, không không, sắc sắc, đãng đãng, bình bình, tỳ tỳ, phản phản, la liệt thương di, quần triệu tổng thống chư khố” - Ấn, Thượng Sư ngàn biến muôn hóa, không không sắc sắc, mờ mờ ảo ảo, la liệt kho lẫm kiêm quản muôn thảy các kho. Câu bên trái: “Án, Thượng Sư kiêm cai vạn Thánh thiên Hiền, thượng, đại, trung, tiểu, hạ. Cửu phẩm thập đẳng chư Đà la ni, các các khố tàng dĩ thượng dĩ hạ” - Án, Thượng Sư kiêm cai quản muôn Thánh ngàn Hiền, trên, dưới, vừa, nhỏ, to, chín phẩm cùng mười loại Đà La Ni cùng tất thảy kho chứa ở trên dưới. Câu dưới: “Án, quán chư Thiên, địa, thủy tạo bản đồ cơ hội sơn thủy, Sa ha” - Án, kiêm thâu trời, đất, nước, lửa tạo ra bản đồ về tuồng tạo hóa núi non. Sa ha. Chính là nói về các cung Càn Khôn Khảm Ly trong Bát quái. Lòng tranh khắc họa những tòa ngang dãy dọc, ghi rõ từng kho chứa các đồ như kho sách, bút, lụa, vải, vàng bạc, gạo, áo… có kho của tiên, người, trời, đất, nước… Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, thì thời vua Đế Minh, đạo Bà La Môn tại kinh đô đã là trung tâm tôn giáo của 37 nước trên thế giới. Tôn giáo bách thần của Ai Cập cổ đại thờ vị thần mặt trời Ra, chính là tôn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phật giáo Tây Tạng tôn thờ Đại Nhật Phật. Đạo Bà La Môn Ấn Độ tôn thờ thần mặt trời Vishnu. Tôn giáo thờ bách thần của Hy Lạp cổ đại tôn thờ thần mặt trời Helios... Thần Ra Tranh tường cổ Ai Cập Thần Vishnu Tượng cổ Ấn Độ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Đại Nhật Như Lai ở giữa, bên trái là Quán Thế Âm, bên phải là Kim Cang Thủ Vajrapani Thần Mặt trời Surya Đền Konarak, Orissa, Ấn Độ, thế kỷ XI file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Tấm đá bazan năm 1728 tr.CN file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Kinh Dương húy Lộc Tục, tự là Phúc Lộc (con trai của vua Đế Minh và bà Đỗ Quý Thị) được cha giao cho làm vua phía Nam sông Dương Tử, đặt tên hiệu nước Xích Quỷ. Sau ông được tôn xưng là “Ốc Tổ”, “Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế”. Cụ sinh ngày 15 tháng Tám âm lịch và mất ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Mộ táng tại Đình Phượng Hoàng, Hoa Cái Sơn (nay là thôn Vân Nội). Lạc Long Quân Cũng từ các nội dung phân tích Chương III: NHỊ ĐỘ MAI về các biểu tượng trong trò chơi Bầu cua cá cọc, kết hợp xem xét bức tranh dân gian Hàng Trống Ông Hoàng cưỡi cá chép thì hình ảnh cá Chép Lạc Long Quân mặc áo màu tuyết trắng giống Chúa Mẫu Thoải tức Âu Cơ, đang cưỡi cá chép trên sóng nước. Ông Hoàng cưỡi cá Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Trước khi giải quyết vấn đề này, chúng ta xem xét biểu tượng Thần Tài - Cóc ba chân mang hình bóng của vị thần nào? Từ Oa có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là nước, cũng là con ếch, con cóc. Con cóc là động vật lưỡng cư. Con ếch biểu tượng cho nước, cho mưa: Ếch kêu uôm uôm, Ao chuôm đầy nước. (ca dao) Ca dao tục ngữ còn có câu “Nghiến răng chuyển bốn phương trời - Ai ai là chẳng rụng rời sợ kinh”, hình ảnh của con cóc liên quan đến tiếng sấm rền vang chuyển động bốn phương trời, sau đó thì trời đổ mưa. Như vậy giữa ếch và cóc có khác biệt, cóc đại diện cho sấm và ếnh đại diện cho mưa. Theo Nguồn gốc dân tộc việt và nền văn minh cổ thì Lạc Long Quân là Pháp Lôi, tức thần Sấm, thuộc cung Chấn, phương Đông, như vậy con Cóc ba chân cũng là biểu tượng của Lạc Long Quân. Trong các tranh dân gian thường thấy ếch đội lá che mưa, cóc đánh trống. Hình tượng con cóc cũng xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn, đặc biệt trống đồng muộn, thường thì trên mặt trống đồng có bốn cóc quay ngược chiều kim đồng hồ. Những hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể. Tượng cóc trên mặt trống H.II file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Qua hình ảnh của cóc trên trống đồng Đông Sơn, ta liên tưởng đến trống đồng còn gọi là trống sấm “đánh trống qua cửa nhà Sấm” là câu nói dân gian thường hay gặp trong cuộc sống hàng ngày. Với nghĩa biểu tượng, cóc có nghĩa là không, là trống. Vậy cóc có mối quan hệ ruột thịt với với trống, là tiếng nói của hư không “Tiếng trống thu không”. Trống là biểu tượng của thần Sấm, thường cầm chiếc trống trong tay là như vậy. Cho nên trống đồng cũng chính là biểu tượng của Lạc Long Quân. Nhìn dưới lăng kính Dịch lý, cóc mang trọn vẹn ý nghĩa là Không, biểu tượng cho không gian hay trạng thái ban đầu vũ trụ tức Thái Cực. Cóc mang nghĩa Thái Cực nghĩa là âm dương còn ở dưới dạng nhất thể thấy qua bản thể lưỡng cư, vừa sống trên cạn mang tính dương vừa sống dưới nước (nòng nọc) mang tính âm. Vì thế mà dân gian có câu ca dao: Ông Trăng mà lấy bà Trời, Mồng năm dẫn cưới, mồng mười rước dâu. Ông trăng ở đây là Cha Tổ Lạc Long Quân và bà trời là Mẹ Tổ Âu Cơ. Tại sao lại chọn ngày năm và ngày mười? Chúng ta không ai là không biết ngày 5 tháng Năm là ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn Lang. Số năm theo Dịch là độ số của Dương Thổ, khởi thủy và số 10 là độ số Âm Thổ theo Hậu thiên Bát quái, kết thúc chu kỳ vận động của sự vật, hiện tượng, hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa tương giao âm dương. Câu thơ trên nói với chúng ta rằng Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân là hành Thổ theo Dịch lý, là hành trung tâm, nơi phát xuất và cũng là nơi thu tàng, tức là nguồn cội của đất nước Văn Lang vậy. Ngoài ra, ca dao người Việt chúng ta cũng thường gọi ông trăng là trăng già: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. Rõ ràng trăng Lạc Long Quân có một khuôn mặt già, là một người già. Ta cũng thấy trăng già Lạc Long Quân đi đôi với núi âm non Âu Cơ. Trăng liên hệ với Cóc như theo truyền thuyết Trung Quốc trên mặt trăng có con Cóc ba chân. con Cóc ba chân là khuôn mặt đối nghịch với con Quạ ba chân thấy trên mặt trời. Quạ 3 chân Tranh Phục Hy Nữ Oa cổ, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Mặt trăng là tượng trưng tinh hoa, mang đặc tính của thái âm, cũng còn gọi là cung Quảng Hàn, mặt trăng sáng nhất là vào ngày rằm tháng Tám âm lịch, mùa thu hàng năm, kết tụ ánh sáng giữa mặt trăng là con Cóc ba chân, là hình tượng tinh hoa của chữ Khoa đẩu hình con nòng nọc, chứ không phải là hình tượng con ngọc thỏ như về sau đã bị Hán hóa, con thỏ chỉ là thú cưng chuyên giã thuốc tiên cho Hằng Nga. Ngày rằm hai khí âm dương giao hòa, là lúc trẻ em vui chơi, ca hát. Ngày 15 tháng Tám âm lịch theoNguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ chính là ngảy đản sinh vua Đế Minh - vua Ánh sáng. Tuy rằng con thỏ cũng lanh lợi thông minh tượng trưng cho tinh hoa mà còn ma mãnh nữa, nhưng con Cóc chẳng nói gì mà uyên thâm vì còn là “Cậu ông Trời”. trong khi đó, truyền thuyết dân gian trên mặt trăng có chị Hằng hay nàng tiên tên là Hằng Nga. Trong Đạo giáo, Hằng Nga được coi là vị thần mặt trăng (Nguyệt Thần), gọi là Thái Âm tinh quân, tôn xưng là Nguyệt Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên Tinh Thánh Hậu Thái Âm Nguyên Quân, hoặc là Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo Minh Vương. Trong văn hóa dân gian Việt, còn có câu truyện trẻ em nổi tiếng liên quan những đêm trăng sáng Sự tích Chú Cuội ngồi gốc cây Đa. Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về. Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Màu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong, ông lão kêu lên: Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi. Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn. Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được. Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa. Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: Có đái thì đái bên Đông, Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay. Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào phía Tây gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng. Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Những đêm trăng sáng, nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen giống một cây đa có hình người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa. Từ đấy, dân gian có bài thơ rằng: Chú Cuội ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời. Cha còn cắt cỏ trên Trời, Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên. Ông thời cầm bút cầm nghiên, Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa. Nhằm giải mã câu chuyện cổ tích này, chúng ta hãy xem đồ hình dưới đây được một phong thủy gia Đài Loan công bố vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, trên đồ hình này căn cứ theo Lạc Thư phối Hậu Thiên Văn Vương: Lạc Thư phối Hậu Thiên và Hà Đồ phối Hậu Thiên file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Tuy nhiên, trên cơ sở Hậu thiên Lạc Việt Phối Hà Đồ đã chỉnh lý từ việc chuyển đổi Tốn - Khôn thì cung Chấn, phương Đông với ý nghĩa Sức Khỏe vẫn không thay đổi. Như vậy, trên đồ hình Bát quái Hậu thiên không kể Lạc Việt hay cổ thư, phương Đông thuộc dương Mộc ứng với quái Chấn, hình tượng của cây to và theo Bát cung thì cung Chấn đông phương ứng với cung Sức Khỏe, theo phong thủy bát trạch không kể cổ thư hay Phong thủy Lạc Việt. Sự trùng hợp khi trong cây chuyện kể chi tiết quan trọng được thể hiện chính là cây Đa, cũng là một loại cây to và sống lâu năm, là loại cây thuốc giúp con người "cải tử hoàn sinh". Sự mạnh và yếu, khỏe và bệnh, chết và sống, là trạng thái thể chất tiêu cực và tích cực đều thuộc phạm trù “sức khỏe”. Vì vậy, hình tượng quái Chấn dương mộc thuộc là cung Sức Khỏe trùng khớp với nội dung câu truyện có yếu tố cây Đa thần dược chữa bệnh và “cải tử hoàn sinh”. Trong đó quan trọng ở chi tiết, Cuội trồng cây ở “góc vườn phía Đông”, như vậy phương vị, tượng quái và ý nghĩa của cung đã được định vị rõ ràng và trùng khớp với hình tượng trọn vẹn quái Chấn, Dương mộc, cung Sức Khỏe và Đông phương. Sách Nhập môn Chu Dịch dự đoán học, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 46:“Tượng Chấn: Chấn là sấm, là đế vương, là con trai cả, là chủ, là tổ, là tông, là ông, là chư hầu, là bách quan, là kẻ sĩ, là chồng, là hành nhân, là đồ vật chính, là vương thần, là quân tử, là trăm thứ ngũ cốc, là tiền đồ rộng lớn, là đường bằng phẳng, là cỏ dại, là cây thấp, là lăng, là ngựa, là hưu lộc, là cái làn, là gót chân, là ngón cái, là dày, là đâmvào, là trống, là ra, là sống, là ban đầu, là bên trái, là dần dần, là đi, là làm, là khởi đầu, là bôn ba, là sống lại, là phấn chấn, là giơ lên, là kính trọng, là cấm, là đầu, là uy, là nhân nghĩa, là kinh sợ, là nói, là cười, là kêu, là âm thanh,là lời cáo, là vui, là kế giữ, là xuất chinh.”. Một sự rõ ràng ngay trong chú giải ý nghĩa quái Chấn cũng thể hiện một ý nghĩa tương đồng với nội dung câu truyện nói về công dụng hiệu lực của cây thần có khả năng “cải tử hoàn sinh”. Một chi tiết quý báu đẩy cao trào câu truyện: Có đái thì đái bên Đông, Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời. Đây là ẩn ngữ, là chìa khóa cho bí ẩn phải chuyển đổi hai quái Tốn và Khôn, cũng cuốn sách trên của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 45 có đoạn như sau: Tượng Khôn: Khôn là đất, là sau, là thần, là vợ, là dân. Là bầy đàn, là số đông, là tiểu nhân, là thị dân, là bọn trộm cướp, là mẹ, là phụ nữ, là dì, là thành trì, là ruộng, là một bang, là nhà cửa, là gia trạch,... Tượng Tốn: Tốn là gió, là sương, là trưởng nữ, là trinh nữ, là phụ nữ, là vợ, là người trong cung... Qua hai đoạn trích dẫn giải ý nghĩa của tượng quái thì sự trùng hợp giữa hai Quái đều có nghĩa là người vợ. Như vậy, yếu tố thứ hai xác định chìa khóa giải mã là hình tương vợ của Cuội “Có đái thì đái bên Đông - Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời”. Tượng Khôn là đất và là vợ và tượng Tốn là gió, mối tương tác để gây nên bi kịch là người vợ và cây thần “Cải tử hoàn sinh” cho biết mối tương quan về vị trí Tốn Khôn mà trong đó vị trí này phải lấy Đông mộc, quái Chấn làm mốc. Hình tượng người vợ của Cuội là hình tượng của mối tương tác, tương quan của vị trí hai quái Tốn - Khôn và hành động “đái” của người vợ là biểu hiện cho chuyển đổi hai Quái Khí này. Ta xem lại đồ hình Bát quái Hậu Thiên được cho là Văn Vương: Hậu thiên Văn Vương file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Rõ ràng với đồ hình Hậu Thiên Văn Vương thì quái Khôn ở Tây Nam về phía phương Tây, quái Tốn và quái Chấn là hình ảnh ứng với gió ở phía dưới mà cây ở bên trên, trùng khớp với chi tiết của chuyện là: Có đái thì đái bên Đông - Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời. Và chi tiết: “Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào.Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời”. Đồ hình mô phỏng hiện tượng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpg Gió dưới cây trên là hình ảnh của “Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.”. Hình tượng hai quái Chấn - Cây (trên) và Tốn - Gió (dưới) dưới đây, rỏ ràng tương thích với hiện tượng gió thổi "Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời”. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpg Như vậy hậu quả của việc đái không đúng chổ của người vợ làm cây bay lên trời và câu dặn dò như cảnh báo: “Đừng đái bên Tây, cây dông lên trời”. Bởi Cuội đã biết hậu quả như thế nào khi thực hiện hành động đó. Như vậy, vị trí Tốn nằm phía dưới Chấn là một vị trí hoàn toàn không hợp lý cho một nguyên lý về sự sắp xếp Bát quái. Hình tượng người vợ do vậy phải chính là tượng Khôn và nếu người vợ “đái” đúng vị trí ở hướng Đông thì sao? Ta thử nhìn đồ hình Bát quái Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ: Hậu thiên Lạc việt phối Hà Đồ Trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Hình tượng Chấn - Cây (trên) và Khôn - Đất (dưới) là hình tượng tương thích cho hiện tượng cây đứng trên mặt đất. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Rõ ràng thể hiện quái Chấn tượng mộc, tức là cây đang đứng trên đất là quái Khôn, đất ở phía dưới, hình tượng này là một hình tượng hoàn toàn hợp lý cho quy luật tự nhiên là “Cây ở trên đất” - nghĩa là một kết cục tốt đẹp, trọn vẹn đem lại hạnh phúc cho thế gian khi cây thần “cải tử hoàn sinh” không bay lên trời, nếu người vợ “đái đúng chỗ”. Từ đây hiển thị một mật ngữ nhắn gửi, nếu quái Khôn để đúng vị trí về phương Đông, phía dưới quái Chấn thì sự hoàn chỉnh trọn vẹn của nguyên lý học thuật cổ đông phương sẽ được mở ra. Nghĩa “cải tử hoàn sinh” ở đây khi cây Đa thần còn ở lại thế gian, tức là cây đứng trên đất, làm hiển hiện sự hồi sinh một lý thuyết hoàn chỉnh qua một nguyên lý căn để là Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ đã đổi chỗ Tốn Khôn. (Tham khảo và trích dẫn Giả mã câu truyện Sự tích Chú Cuội ngồi gốc cây Đa, tác giả Bùi Anh Tuấn). Mặt khác, chúng ta cũng đã biết “cây Đa” biểu tượng của “Tam Đa” cũng chính là biểu tượng cho “Tam Dương” Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân trong lịch sử Văn Lang, hay Shiva - Vishnu - Brahma trong Bà La Môn giáo, hoặc Amun - Ra - Osiris trong tôn giáo Ai Cập cổ đại, thể hiện sự “thuần Dương” trong các bí pháp tu luyện của đạo Bà La Môn, Phật giáo, Đạo giáo… sau này đạo Cao Đài chính thức được Ngọc Hoàng Thượng Đế thành lập ở Việt Nam trong giai đoạn mạt pháp, dĩ nhiên tương ứng là “Tam Âm” tức là chính thất của cái ngài. Mặt dầu vậy, sự hiểu biết về mặt lý thuyết “Tính Thấy”, “Tính Không” và “Bản Ngã” là cần thiết nhưng cũng cần phải thực hành đúng phương pháp mới đạt được sự “trường sinh bất tử”, như mô tả trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ. Hình ảnh cá chép xuất hiện trong các bức tranh dân gian Hàng trống như bức Lý ngư vọng Nguyệt, bức tranh này kết hợp với tranh Cao quý đồ quan vẽ một con chim công đang múa, chim công mang hình bóng Mẫu Âu Cơ tạo sẽ thành bộ tranh nhị bình đẹp tuyệt vời, thường được treo trong phòng khác của mỗi gia đình người Việt: Cao quý đồ quan & Lý ngư vọng nguyệt Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Hình ảnh của cá chép chính là đại diện cho kim tiền - cá chép thuộc hành Thủy, phương Bắc, “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài” là câu nói dân gian trong phong thủy học, được minh họa trong bộ tranh dân gian Đông Hồ Ngũ Phúc. Hình ảnh con cá chép tương ứng Cóc 3 chân. Tết Trung thu mang ý nghĩa là ngày hội hợp của cá Chép Lạc Long Quân và ánh trăng Âu Cơ, ngày Tết Trung thu là ngày đẹp trong một khung cảnh trăng thanh, gió mát của cha mẹ trong niềm vui với con cái và trẻ nhỏ, đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là “Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn lồng hình ông sao, con cóc, con cá, gà trống, quả cầu, trống ếch, trống quân, pháo tép, mặt nạ... rồi bánh nướng vuông, bánh dẻo tròn. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Đồng thời, người lớn còn tổ chức múa rồng, múa lân để các em vui chơi thỏa thích. Chúng ta hãy xem lại hội “Đèn Quảng Chiếu” diễn ra tết Nguyên Tiêu vào thời nhà Trần, mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông mô tả trong Tùy Đường diễn nghĩa - Hồi Thứ 17: “Tề Quốc Viễn mãi vui cuộc đá cầu gấm - Sài quận mã cùng bạn xem hội đèn hoa”. … Những lầu các treo đèn phần nhiều là cảnh ảo của một đêm, thường được kết bằng những cây lau, cây trúc, rồi bên ngoài khoác lụa hoa gấm màu vào, giả màu phú quý, ở bên trong thì treo đèn kỳ lân, trên đèn kỳ lân thì có biển đề bốn chữ lớn, dát vàng lấp lánh: "Vạn thú tề triều”, trên cửa lầu cao giăng một câu đối, vế phải viết: Triều Chu gặp điềm lành, Chúa Thánh ra đời, quốc hữu đạo. Vế trái viết: Nhà Tùy hưởng phúc tốt, Vua nhân trị nước, thọ vô cương. Phía dưới đèn kỳ lân, là nhiều các loại đèn hình thú khác vây quanh. Đèn rái cá, miệng há móng giơ, Đèn sư tử, lờ mờ đôi mắt. Đèn con cọp, như nhảy lên cao, Đèn con beo, muốn kêu như sấm. Đèn hươu gấm, miệng ngậm đóa hoa, Đèn khỉ già, trèo cây bứt quả. Đèn ngựa vằn, vó đá như chơi, Đèn con voi, to như ngôi báu. Các đèn hình thú, cái nào cũng đẹp, không thể nào kể hết. Lại còn hình hai vị người xưa, cưỡi hai ngọn đèn hình thú, bên phải là Hạnh Đồng Đế Quân, cưỡi một đèn hình lừa trắng, đang từ từ sa xuống cõi trần, bên trái là Ngọc Thanh Lão Tử, cưỡi một đèn hình trâu xanh, đang đi ra khỏi cửa Dương Quan ở phía Tây. Hãy còn bốn câu thơ làm bằng chứng sau đây: Đèn thú rung rinh kể đã nhiều, Lên lên xuống xuống khẽ quay đều. Kỳ Lân là chúa muôn loài đó, Dẫn hướng sinh linh, mở đại triều. Mọi người xem xong khóm đèn kỳ lân ở dinh Tư mã, lại kéo nhau qua dinh Binh bộ thượng thư, rồi sang dinh Dương Tố. Dọc các phố, dân chúng cũng treo những đèn lồng nhỏ, bày bài vị thiên tử, thắp nến đốt hương, sáng chẳng kém gì ban ngày. Chẳng mấy lúc, đã đến cửa lớn của dinh Dương Tố, lầu cao dựng ngay trước cổng, tất cả đều treo các loại đèn hình chim, trên cửa lầu cũng có biển, khắc bốn chữ lớn: "Thiên triều nghi phượng", hai bên là hai câu đối: Cánh Phượng liệng trời Nam, người đều chịu phúc Râu Rồng nghiêng bể Bắc, dân được nhờ ơn. Dưới đèn hình chim phượng hoàng, là hàng loạt đèn hình chim khác: Đèn con hạc đậu cành tùng, Đèn gà gấm, lượn trên từng mây xanh. Trong rừng liễu, đèn con oanh, Đèn con công, đứng bên cành tường vi. Vẹt, cuốc, mỏ nhát, le le, Mỗi loài mỗi vẻ le te theo đòi. Người ôi! Mở mắt mà coi… Các hình đèn chim này cũng thế, cái nào cũng lung linh sáng ngời, trăm phần hoa mỹ, kể thật không hết. Hai phía phải trái, cũng có hai hình người xưa cưỡi hai đèn hình chim, vì nhân lễ mừng sinh nhật Dương Tố, phía bên phải là hình Tây Trì Vương Mẫu, cưỡi chim thanh loan, từ Dao Trì bay xuống dự yến, phía trái là hình Nam Cực Thọ Tinh, đang cưỡi chim bạch hạc Hải ốc hạ xuống mừng thọ. Hãy còn bốn câu thơ làm chứng sau đây: Đèn chim chen chúc đậu non cao, Hãnh diện hơn thua được dự vào. Xanh thẫm tầng mây, vua Phượng ngự, Muôn loài vỗ cánh động trăng sao. … Đến trước cửa Ngũ Phượng lâu, người đông nghẽn cả lối đi. Trước mặt Ngũ Phượng lâu, dựng thêm Ngự đăng lâu, có hai viên đại thái giám, ngồi trên hai ghế dựa khảm hoa bạc, bên trái là Ty lễ giám Bùi Tịch, bên phải là Nội kiểm điểm Tôn Khánh. Lại có năm trăm quân cấm vệ, mặc áo gấm có thêu hoa tròn, mỗi người đều cầm côn sơn màu đỏ, đứng nghiêm chỉnh trước Ngự đẳng lâu. Tòa lầu này không chỉ làm bằng lụa là, gấm vóc bình thường, mà còn dùng những thứ nguyên liệu, hương liệu của hải ngoại, rồi những thứ châu ngọc, vàng bạc trong cung, cũng được mang ra trang hoàng, thật xứng đáng với tên Ngự đăng lâu vậy. Trên cửa lầu cao, cũng có treo tấm biển, khảm bốn chữ lớn: "Quang chiếu thiên hạ" Hai bên là hai câu đối khảm vàng: Ba nghìn thế giới vang đàn hát, Mười mấy đô thành mượt gấm nhung. Trong cuộc biểu diễn múa rồng, múa lân (múa sư tử) cần những người có võ nghệ giỏi, sức khỏe dẻo dai, phô diễn các động tác nguy hiểm, đẹp mắt dưới sự điểu khiển biểu diễn của một tay trống điêu luyện, nhịp điệu trống rộn ràng, như thúc dục vũ điệu của rồng và lân, một đội sinh tay cầm cây gậy cắm quả cầu cùng biểu diễn chung. Ngoài ra còn có chú hề tên là Tễu, tay cầm quạt, chú Tễu cũng là nhân vật tiêu biểu của sân khấu rối nước. Tễu là hình tượng người nông dân làm ruộng, một chàng trai hoạt bát, hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, cùng diễn chung với rồng và lân, làm nhiệm vụ chọc cười khán giả. Múa Lân và múa Rồng Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Rồng là Kinh Dương Vương, Lân là Vua Hùng Vương, chú Tễu tay cầm quạt làm trò mà dân gian thường gọi là ông Địa chính là Lạc Long Quân, quả cầu mang biểu tượng Thái cực tùy trạng thái phối hợp với Rồng, Lân thành các quẻ trong Dịch lý gọi là quả Càn Khôn. Ngày rằm tháng Tám âm lịch là ngày sinh nhật vua Đế Minh. Cũng trong dịp Tết Trung Thu người ta mua bánh, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Tết Trung thu là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để mọi người quan tâm, săn sóc lẫn nhau.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Thùng thình thùng thình trống rộn ràng ngoài đình, Có con sư tử vui múa quanh vòng quanh. Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làng, Dưới ánh trăng vàng em cất tiếng hát vang. Trò chơi của trẻ em trong dịp Tết trung thu không thể thiếu những chiếc đèn lồng hình con cá, quả cầu, ông sao… rực sáng, và không thể thiếu một loại lồng đèn rất đặc biệt, đó là chiếc Đèn kéo quân. Đèn kéo quân và lồng đèn Sản phẩm văn hóa Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Khen ai khéo kết (ối a cái) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù (nó lại) vòng quanh. Bao giờ em bén (cái) duyên anh, Voi giấy (ối a) ngựa giấy vòng quanh. (ối a cái) tít mù (mà) Khen ai, khéo kết (ối ai cái) đèn cù… Trích bài Khen ai khéo kết cái đèn cù - nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Ngày xưa, gần đến dịp Tết Trung Thu, theo lệnh vua, dân chúng nô nức thi nhau chế ra những chiếc đèn kỳ lạ nhưng không có chiếc đèn nào làm cho Vua vừa ý. Bấy giờ, có một nông dân nghèo khó tên là Lục Đức. Lục Đức mồ côi cha, ăn ở với mẹ rất hiếu thảo. Một hôm nằm mơ, Lục Đức thấy một vị thần râu tóc bạc phơ hiện ra phán rằng: Ta là Thái Thượng Lão Quân, thấy nhà ngươi nghèo khó nhưng ăn ở hiếu thảo với mẹ, vậy ta bày cho ngươi cách làm chiếc đèn dâng vua. Hôm sau theo lời dặn của Thần, Lục Đức cùng mẹ lấy những thân trúc trắng cùng giấy màu để làm chiếc đèn. Thời gian qua mau, khi chiếc đèn làm xong là ngày rằm tháng Tám cũng vừa đến. Chàng vui mừng cùng mẹ đem chiếc đèn vào kinh thành dâng vua. Nhà vua xem, thấy chiếc đèn vừa lạ, vừa nhiều màu sắc lại biết chuyển động nên rất hài lòng. Khi vVua hỏi ý nghĩa của chiếc đèn, Lục Đức theo lời Thần tâu rằng: Thưa bệ hạ, thân trúc ở giữa đèn là biểu hiện trục Càn Khôn, cái chong chóng quay sáu mặt biểu tượng cho sáu cá tính của con người: thương, ghét, giận, buồn, vui, hờn. Cái chong chóng quay luôn luôn, tượng trưng cho con người hay thay đổi cũng có căn do, đó là đạo làm người. Chong chóng quay luôn cũng nhờ ánh đèn soi sáng, thì con người tốt lành cũng nhờ đạo đức. Sáu mặt của chiếc đèn làm bằng giấy tươi sáng biểu hiện những cá tính của con người. Vua truyền đem đèn cho dân chúng cùng xem. Đèn đốt lên làm quay chong chóng. Hiện lên sáu màu sắc rực rỡ là hình ảnh vua, quan, người, ngựa nối đuôi nhau. Tất cả những hình nhân trên đèn được làm bằng giấy nhờ sự khéo léo của mẹ con Lục Đức. Vua ban thưởng cho mẹ con chàng rất hậu và phong cho Lục Đức làm Vạn Hộ Hầu. Từ đó, mối khi đến tết Trung thu, nhớ lại sự tích người con hiếu thảo Lục Đức dân chúng đua nhau bắt chước chàng làm nên những chiếc đèn màu rực rỡ gọi là Đèn kéo quân. Đèn kéo quân với sáu mặt quanh xung quanh trục Càn Khôn, thể hiện 6 quẻ trong Kinh Dịch, chỉ với 6 quẻ này mà thể hiện được sự biến dịch của mọi sự vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Tam Âm Tam Dương Trích Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Có nhiều kiểu múa rồng, múa lân biểu diễn trong ngày hội này thời xưa, chúng được điều khiển bởi một tay trống cái, với những âm thanh của thanh la, não bạt phụ họa, tạo nên một không khí vui chơi cho trẻ em vô cùng phấn khích và nhộn nhịp: - Độc chiếm ngao đầu: Một con lân màu đỏ biểu diễn, màu đỏ làm chủ đạo, thể hiện tài tả xung hữu đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng cho cái uy dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng. Độc chiếm ngao đầu còn mang ý nghĩa người đoạt giải Trạng Nguyên trong kỳ thi Hội của các triều đình vua chúa thời xưa. - Song hỷ lâm môn: Hai con lân với hai màu đỏ và vàng cùng biểu diễn, thể hiện niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời, âm dương tương hợp. - Tam Đa: Ba con lân hợp múa với ba màu vàng, đỏ, đen, thể hiện sự mong ước của mọi người đạt được nhiều phúc, nhiều lộc, nhiều thọ. - Tứ Quý Hưng Long: Bốn con lân hợp múa với bốn màu trắng, đỏ, xanh lá, đen, tượng trưng sự vận động của bốn mùa, diễn tả sự trường thọ và hạnh phúc. Múa rồng cũng xuất hiện trong Tết Nguyên Tiêu và các dịp lễ hội sau vụ thu hoạch mùa thu. Hình con rồng ta thường thấy trong các đội múa ngày nay mang dáng dấp con rồng truyền thống, nhưng không có chân, thân dài, mềm mại, có vây, vẩy, dọc lưng đến đuôi có hàng gai, hình rồng được làm bằng vải màu. Thông thường một đội hình múa rồng có 8 người, một người đội đầu, sáu người đội thân và một người đội đuôi, múa theo nhịp trống dân gian, khởi đầu giáo trống luôn luôn với 3 hồi 9 tiếng. - Rồng phun mưa hoặc Rồng vờn ngọc: Một con rồng vảy bạc biểu diễn cùng với một quả cầu. - Lưỡng Long tranh châu: hai con rồng vàng thể hiện tranh nhau một quả cầu. Chúng ta thường thấy hình tượng này rất phổ biến trên đỉnh mái đình, đền, chùa trên khắp nước Việt. - Rồng Lân Tễu: Thể hiện quẻ Tam Dương khai thái, chào mừng vận hội mới. Đặc biệt trong múa lân có một nhân vật rất kỳ lạ, gọi là chú Tễu, mặt to, tai lớn, bụng phệ, luôn tươi cười, tay phe phẩy chiếc quạt giấy, chú Tễu là một nhân vật biểu hiện của niềm lạc quan, yêu đời và thậm chí, nhiều lúc nhìn đời với cái cười rất khó hiểu. Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát Trống quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình”. Ngày xưa trai gái dùng điệu hát Trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng Tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận tức là hát theo vần, theo ý hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Người hát sẽ ngồi thành hai hàng đối nhau, một bên là "Hát xướng", một bên là "Hát đáp", khi hát gõ vào tang trống để làm nhịp Khi hát trống quân có trống dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là "Trống thùng". Trống thùng được cấu tạo như sau: hai cọc được được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng. Xưa kia, trống thùng làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một thanh gỗ gác ngang. Giữa thanh gỗ người ta đặt một thanh tre vuông góc, một đầu chống lên một miếng ván mỏng được đặt hờ trên một hố đất nhỏ. Khi đối đáp, bên nào hát dứt câu thì đánh vào trống thùng (là phần dây nơi đầu cọc hoặc đầu thanh gỗ) để làm nhịp "Lưu không", vừa để thúc giục phe bên kia hát đáp lại. Liên quan đến “Ông Trăng”, trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh nhị bình Ông Tơ - Bà Nguyệt, các cụ kể lại, ngày xưa nhà nào có con lớn mà chưa dựng vợ, gả chồng thì tết đến chơi đôi tranh này. Trên tranh có ông Tơ cưỡi rồng, bà Nguyệt cưỡi phượng đang xe tơ kết tóc cho đôi trai gái. Bên cạnh có đôi câu đối: “Ông tơ xe chỉ thắm - Bà nguyệt kết giải đào”. Ông Tơ - Bà Nguyệt Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Ở Tây Hồ của Hàng Châu, Trung Quốc có Am Bạch Vân, trong có Miếu Thờ Nguyệt Lão. Nơi đây có câu liễn đối: Nguyện thiên hạ hữu tình nhân, đô thành liễu quyến thuộc, Thị tiền sanh chú định sự, mạc thác quá nhân duyên. Dịch nghĩa: Nguyện cho những đôi tình nhân trong thiên hạ, đều thành quyến thuộc của nhau, Nếu đã là chú định từ kiếp trước, thì đừng để lầm bỏ qua nhân duyên. Ông Lý Phục đời Đường đã kể lại trong quyển Tục U Quái Lục - Định Hôn Điếm rằng: Nguyên đời nhà Đường (618-907) có chàng nho sĩ tên Vi Cố, học giỏi, thi phú tài danh. Một hôm du học đến Đông Đô, giữa đêm trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc, gió hiu nhẹ thổi, chàng thơ thẩn dạo chơi, chàng bỗng ngạc nhiên vì nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi dưới ánh sáng trăng, mắt nhìn vào quyển sổ to, tay se tơ đỏ. Trông người tiên phong đạo cốt. Vi Cố lấy làm lạ đến gần, hỏi: - Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Còn sách này là sách chi và tơ đỏ này, cụ se làm gì? Cụ già đáp: - Ta là Nguyệt Lão, xem sổ định hôn của dân gian. Còn chỉ ta đương se là duyên của vợ chồng do tơ này buộc lại. Vi Cố mừng rỡ, yêu cầu cụ già cho biết duyên của mình. Cụ già mỉm cười nói: - Số duyên của nhà ngươi là con bé 3 tuổi của mụ ăn mày, thường ăn xin ở chợ Đông Đô. Vi Cố nghe nói hỡi ôi, buồn tủi không nói được tiếng. Cụ già biết ý, bảo: - Đó là duyên trời định. Già này không thay đổi được. Mà nhà ngươi muốn tránh cũng chẳng xong. Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về. Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Đông Đô, quả thực trông thấy một mụ ăn mày dơ dáy, tay ẵm đứa bé gái 3 tuổi, thơ thẩn xin ăn ở góc chợ. Cố bực tức, mướn một gã lưu manh đâm chết được đứa bé kia, sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh vâng lời, cầm dao xông đến, chém một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy. Nhìn thấy máu tuôn xối xả, tên lưu manh tưởng đứa bé đã chết, sợ bị bắt nên cuống cuồng chạy trốn. Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám Hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Cố ra lễ quan Tể Tướng họ Chu vốn làm chủ khảo khoa thi. Thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể Tướng liền gả con gái cho. Vi Cố mừng rỡ, bái tạ. Đến khi nhập phòng, Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn ở sau ót có một vết thẹo, chàng lấy làm lạ hỏi. Nàng thành thật kể rõ thân thế mình vốn là con của mụ ăn mày, 15 năm về trước bị tên lưu manh ác độc, không biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân chạy khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể Tướng gặp giữa đường, vì không con nên đem về nuôi xem như máu huyết. Nghe vợ thuật, Vi Cố thở dài, lẩm bẩm: - Thật là duyên trời định, tránh đâu cũng không khỏi. Tuy than thở nhưng Vi Cố cũng lấy làm hả dạ, vì dù sao... vợ cũng đẹp và là con yêu của nhà quan to. Trong các nghi thức đám cưới của người Việt xưa đều có nghi lễ “Tơ hồng” còn gọi tế thần Tình duyên. Nguyệt lão là vị thần Tình duyên theo tích Vi Cố đời Đường, Trung Quốc đã kể trên. Theo đúng ý nghĩa tục lệ thì tế thần Tình duyên phải tổ chức tại phòng hoa chúc vào tối tân hôn. Về sau người ta bày ra tục lệ tế thần Tình duyên tại sân nhà. Nhất Thanh trong Đất lề quê thói viết: “Khi xưa tế Tơ Hồng ngay lúc sau khi đưa dâu về đến nhà, trước khi yết lễ tổ họ, lễ yết gia tiên và chào mừng ông bà cha mẹ họ hàng, ý rằng khi cô gái bước chân về đến nhà người ta là nên vợ chồng, lương duyên do ông Tơ chấp mối se lại, điều trước tiên là nghĩ đến công đức của Ông, tế lễ để ông chứng kiến việc hôn phối đã thành đồng thời tạ ơn Ông”. Lễ tế thần Tình duyên cử hành rất đơn giản, vật cúng Ông Tơ Bà Nguyệt là hương hoa, trái cây, xôi gấc đỏ, trà, rượu, gà luộc (không được cúng gà thiến). Gọi là "tế" vì có xướng tế và có đọc chúc văn. Đầu tiên người làm mai vào dâng hương khấn nguyện, tiếp theo là một cụ già đọc bài văn tế, nội dung không ngoài ý tán tụng công đức tác hợp mối duyên lành se chỉ thắm của Ông Tơ và dải lụa đào của Bà Nguyệt, mong được phù hộ độ trì cho cùng nhau ăn đời ở kiếp, sinh năm đẻ bảy vuông tròn, sau đó, đôi trai gái lạy 4 lạy 3 xá trước hai vị, rồi chồng mới lấy rượu mời vợ. Vợ bưng rượu mời chồng, uống xong, cả hai lấy hai cái chén úp lại, gọi là giao bôi hợp cẩn. Đôi trai gái vào lạy 4 lạy 3 xá, thể hiện cung Tốn đối xứng cung Cấn qua trung cung Hà đồ. Cung Tốn (Đầm) là biểu của Lạc Long Quân chính là Ông Tơ, và cung Cấn (núi) là biểu tượng của Âu Cơ chính là Bà Nguyệt, với Tám cung của Hà Đồ ứng với Đế Minh, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương và chính thất của các ngài. Sử sách coi vua Lạc Long Quân là ông Tổ của người Việt. Theo ghi nhận Lạc Long Quân mất ngày 18 tháng Hai (có chỗ ghi ngày 28), Mộ cụ ở Ba Đống, đồng Thượng, Bảo Đà cũ, nay là xã Bình Đà Thanh Oai (Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nhóm nghiên cứu thời tiền sử). Nước Nam khởi tổ lưu ơn trạch, Gìn nước, giúp dân, đức sáng ngời. Cha con nối tiếp Vương và Thánh, Bền vững non sông vạn vạn đời. Hùng Quốc Vương Hùng Quốc vương là con cả của vua Lạc Long Quân, người đặt tên nước Văn Lang Sách Việt Nam Phong Tục chép: xét về cái tục thờ Thần hoàng (thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô, kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu). Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó, dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình. Dân ta tin rằng: “Đất có Thổ công, sông có Hà bá”; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh. Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên trong chuyện Thần Tô Lịch trong sách Việt điện U Linh, nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của Việt điện U Linh là Lý Tế Xuyên, người đời nhà Trần. Ông soạn sách này vào năm 1329 (Việt điện U Linh, tr. 6. và Từ điển văn học, Nxb Thế giới, 2004, tr. 1994): Theo kinh sách Đạo giáo, Thành Hoàng là vị thần bảo vệ thành quách, thời viễn cổ đã có. Sau này trở thành vị thần bảo vệ các bang và quốc gia, diệt trừ ác bá, đem lại bình an cho mọi người, quản lý các vong hồn, làm cho mưa thuận gió hòa. Miếu Thành Hoàng ngoài việc tế tự Thành Hoàng còn tế tự 8 vị đại tướng quân, phán quan, đầu trâu, mặt ngựa, thần chung cổ cho đến 18 ty và Thập điện Diêm vương la. Đức Thánh Cả Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Sử sách và truyền thuyết không hề ghi lại ngày mất của vị vua Hùng đầu tiên hoặc cuối cùng, theo Nguồn gốc dân tộc Việt và những nền văn minh cổ ngày sinh và mất của một số vị vua và hoàng tộc đã đã lưu giữ hàng thiên niên kỷ qua trong các lễ hội và gia phả của các dòng họ. Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng ngày giỗ Tổ vua Hùng mùng 10 tháng Ba là ngày giỗ chung cho toàn bộ các vua Hùng và là dịp để những người Việt Nam tưởng nhớ đến cội nguồn từ thời huyền sử. Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba. Thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử, còn sót lại chăng chỉ còn là những tục ngữ ca dao và truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Nhưng ngày giỗ Tổ Hùng Vương vẫn ăn sâu vào tâm linh người Lạc Việt. Trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, dưới ách đô hộ phong kiến Bắc phương, tiếp theo là 1.000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử, tâm linh của người Lạc Việt vẫn luôn nhớ về cội nguồn. Ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba là một trong những ngày lễ hội thiêng liêng nhất của người Lạc Việt. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên của người Lạc Việt, lần đầu tiên được chép lại trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp với tựa đề là Hồng Bàng Thị. Người viết lời tựa trong cuốn sách này là Vũ Quỳnh (1453-1516), người làng Mộ Trạch, huyện Đường An Hải Dương, ông viết bài tựa vào năm 1492. Người viết lời tựa sau cho cuốn sách này vào năm 1493 là Kiều Phú người làng Lạp Hạ, huyện An Sơn, tỉnh Sơn Tây, sinh năm 1450. Hai ông đã thừa nhận những truyện chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã được lưu truyền trong dân gian từ lâu. Trong bài tựa của mình , ông Vũ Quỳnh đã viết:“Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng?”. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong các bộ chính sử và nằm ở phần ngoại kỷ vì sự huyền ảo của câu chuyện. Đã có rất nhiều học giả phân tích tìm hiểu nội dung kỳ bí của truyền thuyết về thuở ban đầu lập quốc của người Lạc Việt. Những số liệu trong truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên có một sự liên hệ và trùng khớp một cách kỳ lạ với hai đồ hình nổi tiếng thiêng liêng trong truyền thuyết của nền văn minh Hán và liên quan đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương, đó là Lạc Thư và Hà Đồ. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Độ số của Lạc Thư - Hà Đồ là 100 vòng tròn, trong đó có 50 vòng tròn đen, 50 vòng tròn trắng. Từ hai đồ hình trên, tạo ra hai hình vuông gọi là Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ. Hà Đồ Cửu cung file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Lạc Thư Cửu cung file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Qua đồ hình trên thì chúng ta nhận thấy rằng: - 100 quả trứng tương ứng với 100 vòng tròn. 50 người con theo cha tương ứng với 50 vòng tròn trắng, thuộc Dương, tượng là theo Cha (Dương). 50 người con theo mẹ ứng với 50 vòng tròn đen, thuộc Âm, tượng là theo Mẹ (Âm). - 15 bộ mà truyền thuyết nói tới trùng khớp với số của Ma Phương Lạc Thư có tổng ngang dọc chéo đều bằng 15 . - 18 đời vua trùng khớp với tổng số Cửu Cung Lạc Thư và Cửu Cung Hà Đồ. Ngày mùng 10 tháng Ba là một con số trùng với trung cung Hà Đồ đó là 5 - 10 thuộc về ngôi Hoàng Cực. Trong đó: tháng Ba là tháng Thìn (tượng là Rồng), trùng khớp với biểu tượng của Lạc Long Quân (giống Rồng) chính là tháng thứ 5 nếu kể từ tháng Tý tức tháng Một năm trước. Trong cách tính tháng của người Việt như sau: - Tháng Một: Tý; - Tháng Chạp - tháng thứ 2: Sửu; - Tháng Giêng - tháng thứ 3: Dần; - Tháng Hai - tháng thứ 4: Mão; - Tháng Ba - tháng thứ 5: Thìn/ Rồng. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba chính là một biểu tượng của nền văn hiến vĩ đại của người Lạc Việt. Như vậy, truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên và ngày giỗ Tổ Hùng Vương hoàn toàn trùng khớp một cách kỳ lạ với nội dung của Lạc Thư - Hà Đồ. Vấn đề cũng chưa phải dừng ở đây,trong truyền thuyết về thời Lập quốc của dân tộc Việt còn một chi tiết nữa là: 50 người con theo Mẹ Ấu Cơ suy tôn người con trưởng lên làm vua. 49 người con còn lại đi cai trị khắp nơi. Đây chính là số Đại Diễn trong Kinh Dịch dùng trong Bói cỏ thi - một phương pháp bói tối cổ của Đông phương. Nếu bạn hỏi tại sao lại phải bớt đi một mà không dùng số 50? Chính truyền thuyết Con Rồng - Cháu Tiên đã trả lời rất rõ ràng. Sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ của các sản phẩm trí tuệ thuộc về văn minh Lạc Việt với một giá trị kỳ vĩ của văn hoá Đông Phương là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái, đã cho thấy cội nguồn đích thức của những di sản văn hoá đó thuộc về văn minh Lạc Việt. Qua những tư liệu ở trên cho chúng ta thấy trong quá trình lịch sử, người Việt đã tồn tại nhiều ngày giỗ Tổ. Vậy cội nguồn đích thực của ngày giỗ tổ đích thực từ đâu trong ba ngày này: Đó chính là ngày 10 tháng Ba âm lịch là độ số của Trung Cung Hà Đồ. Hà Đồ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image009.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Vậy tại sao lại có ngày 11 và ngày 12? Điều này rõ ràng trái với truyền thống văn hiến Việt - chỉ có một ngày giỗ. Vậy trong ba ngày trên : Mùng 10, 11 và 12 sẽ chỉ có một ngày duy nhất đúng và hai ngày kia là sự biến tướng của ngày chính thức. Xét trong phong tục cổ Việt và còn lưu truyền ở các vùng Nam Dương tử về ngày giỗ, có một hiện tượng rất đáng chú ý sau đây: Trong việc chọn ngày giỗ, có một tập quán chọn ngày sau ngày chết một ngày. Thí dụ, ngày mất là ngày mùng 8, thì giỗ vào ngày mùng 9. Ngày mất gọi là ngày Sinh (Tức ngày Dương) với ý nghĩa là trong ngày này, người thân vẫn còn sống dù chỉ một giờ. Về ý nghĩa sinh học thì người mất phải chờ sau 24 giờ, mới xác định được đã chết hẳn. Còn ngày hôm sau gọi là ngày Tử, và chọn làm ngày giỗ cho con cháu. Bởi vậy, sự xác định ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng Ba là ngày chính thức, hoàn toàn chính xác. Còn các ngày sau đó là do sự thất truyền qua hàng ngàn năm Hán hóa về giá trị đích thực của ngày tôn vinh giá trị văn hiến Việt, qua sự giải thích trên, nên đã lùi lại một, hai ngày. Các trí giả uyên bác đời Nguyễn đã phục hồi lại những giá trị này: Lấy ngày 10 tháng Ba - độ số của Trung cung Hà Đồ - biểu tượng của nền văn hiến Việt - làm ngày tôn vinh tổ tiên. Thơ trên diện Thái Hòa và tranh gương Kinh thành Huế, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image011.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image013.jpg Bài Ngự chế của Vua Minh Mạng đề ở điện Thái Hòa, kinh thành Huế:<br style="mso-special-character: line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Văn hiến thiên niên quốc, Xa thư* vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu, Nam phục nhất Đường Ngu. Vạn năm văn hiến quốc, Sử sách vạn dặm xa. Hồng Bàng là tổ nước ta, Nước Nam trở lại như thời Thuấn Nghiêu. Nội dung của một bài thơ khác liên kết với nội dung bài Ngự chế làm sáng tỏ: Xa thư* quy nhất thống, Thịnh trị quản Hồng Bàng. Việt tộ chính đương dương, Cư trung ngưỡng thánh hoàng. Giang sơn nay thống nhất, Thịnh trị sánh Hồng Bàng. Nước Việt “dương” toàn thịnh, Thần dân ngưỡng Thánh Hoàng. * Xa thư: học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng cổ, kinh sách của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo… Hình ảnh mặt biển mở rộng đón An Dương Vương đứng trên lưng thần Kim Quy đi xuống biển, đã chứng tỏ rằng: khi Âu Lạc mất nước đã khép lại một thời kỳ lịch sử vàng son của nền văn minh Văn Lang mà thần Kim Quy chính là biểu tượng cho nền văn minh đó. Thần Kim Quy là ai? Cũng sẽ được minh xác trong các chương sau. Hiện tại, trong việc tôn thờ, chúng ta thấy có sự hội nhập Thần Tài vào các thần bản gia như Thổ địa, ông Địa, ông Táo. Do đó, người Hoa làm ra một tấm bài vị gộp chung các danh hiệu của các vị Thần bản gia để thờ, mà người ta thường gọi là bài vị Thần Tài. Bài vị Thần Tài được vẽ trên một tấm kính, nền sơn đỏ, tất cả đều là chữ Hán màu nhũ vàng, vẽ một cái cổng mà hai trụ có rồng quấn, trên cổng có tấm bảng đề "Tụ bảo đường" nghĩa là ngôi nhà có tụ lại những thứ quí báu, phía dưới có vẽ một cái “Tụ bảo bồn” là cái chậu huyền diệu chứa của báu. Sau đây là một kiểu bài vị Thần Tài và các Thần bản gia: Một kiểu bài vị Thần Tài và các Thần bản gia Trích Tìm hiểu bàn thờ Thần Tài Ông Địa, tác giả Lưu Quốc Hùng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image015.jpg 聚寶堂 : Tụ Bảo Đường: nhà chứa của quí báu. 招財 : Chiêu tài: mời gọi tiền của. 進寶 : Tiến bảo: dâng hiến bảo vật. 金枝初潑腳 : Kim chi sơ phát diệp: Cành vàng bắt đầu trổ lá. 銀樹正開花 : Ngân thụ chánh khai hoa: Cây bạc chính thức nở hoa. Hai câu trên là đôi câu đối đặt hai bên bài vị, trong một kiểu bài vị khác, đôi câu đối trên được viết là: Thổ năng sinh bạch ngọc: đất thường sinh ngọc trắng Địa khả xuất hoàng kim: đất khá xuất vàng ròng. 如意吉祥 : Như ý cát tường: tốt lành như ý muốn. 一帆風順 : Nhứt phàm phong thuận: thuận buồm xuôi gió. 四季平安 : Tứ quí bình an: bốn mùa bình an. Hai câu chữ lớn ở chính giữa là danh hiệu của các Thần bản gia để thờ phụng: 五方五土龍神 : Ngũ phương Ngũ thổ Long Thần 前後地主財神 : Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần Ngũ phương Ngũ Thổ Long Thần: năm vị Thần trấn năm hướng và năm vị Thần đất đai long mạch sắp đặt theo Ngũ Hành gồm: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương. Năm vị Thần Ngũ phương: Hoàng đế (Trung ương), Bạch đế (hướng Tây), Hắc đế (hướng Bắc), Thanh đế (hướng Đông), Xích đế (hướng Nam). Năm vị Ngũ Thổ Long Thần: là năm vị Thần long mạch coi về đất đai, bảo hộ cư dân làm ăn sinh sống, gồm: - Thổ Công làm chủ nền nhà. - Thổ Thần làm chủ khu đất. - Thổ Địa cũng gọi là Môn Khấu Thổ Địa Tiếp Dẫn Tài Thần: Thần Thổ Địa trực ở cổng để tiếp dẫn Thần Tài vào nhà. - Thổ Phủ bảo hộ các kho hàng. - Thổ Kỳ cai quản mặt đất nói chung. Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần: gồm Tiền Địa Chủ Tài Thần và Hậu Địa Chủ Tài Thần. Tiền Địa Chủ Tài Thần: là Thần Tài của chủ đất trước. Thờ vị Thần này là có ý báo bổn tư nguyên, tức là báo đáp cái gốc, nhớ đến cái nguồn. Hậu Địa Chủ Tài Thần: là Thần Tài của chủ đất sau, tức là thờ vị Thần Tài của chủ đất hiện nay. (Thần Tài - Tín ngưỡng và Tranh tượng, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng - Nguyễn Đại Phúc). Trên bàn thờ, ngoài bài vị Thần Tài còn có đặt phía ngoài tượng ông Địa và tượng Thần Tài. Đến cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, thần Đất và thần Tài ở xứ ta vẫn chưa khu biệt rõ. Trong Đại Nam quốc âm tự vị tác giả Huỳnh Tịnh Của, Sài Gòn, 1895 cắt nghĩa Thổ Thần và Tài Thần đều là “Thần Đất, Thần giữ tiền bạc” và đến tận bây giờ, Thần Tài và Thổ Địa vẫn được thờ chung như một cặp đôi bất khả phân ly. Thực tế, đối với người Hoa, Thổ Địa cũng là một trong các Thần Tài, bởi các loại nông phẩm từ đất sinh ra là thứ của cải, tài sản chủ yếu, mặt khác, cũng theo thuyết Ngũ hành tương sinh: Thổ sinh kim. Chức năng kép của Thần Đất được biểu thị rõ ở câu đối: Hổ sinh nhất kim, ngũ hành chúng trân quý, Địa trưởng vạn vật, tứ quý ca bình vinh. Nghĩa là: Trời sinh âm dương, chúng ngũ hành đều là trân quý, Đất dưỡng vạn vật, khắp bốn biển vui cảnh thái bình. Ngoài thần Đất được thờ tự để cầu tài, người Hoa còn thờ nhiều Thần Tài khác, phổ biến và tôn quý nhất là “Tài Bạch tinh quân”, “Tài Bạch tinh quân” là ngôi sao trên thượng giới. Đây là vị thần thường thờ tự tôn kính ở các đền miếu, đặc biệt phổ biến là các cơ sở thờ tự thuộc nhóm phương tộc Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. Tài Bạch tinh quân gồm 5 vị thần chủ bộ tài lộc thiên giới, do Kim long Như ý chánh hốt Long hổ Huyền đàn chân quân tức Triệu Nguyên soái (Triệu Công Minh) đứng đầu và 4 phụ tá: Chiêu Bảo thiên tôn, Nạp Trân thiên tôn, Chiêu Tài sứ giả, Lợi Thị tiên quân. Theo truyền thuyết Tài Bạch tinh quân vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới, chức tước là "Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân" chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ, nên người ta hay đặt tượng ông nơi tài vị. Trên trời có Tài Bạch tinh quân, dưới đất cũng có Thần Tài âm phủ. Hình tướng vị Thần Tài này giống một phán quan, đen thui, trên đầu đội mũ ống cao, có dòng chữ “Nhất kiến phát tài”. Vị thần Tài này đầu tiên thờ ở Điện Ngọc Hoàng và gần đây mới có mặt ở một số chùa Hoa khác. Phổ biến không kém Lưu Hải là cặp nữ Thần Tài Hòa Hợp Nhị Tiên. Hình tướng thường thấy của cặp thần Tài này là hai cô gái: một hài âm cầm bó hoa sen (sen: hà, hài âm “hòa”) hay bó lúa (lúa: hòa); và một bưng cái hộp (hài âm “hợp”). Cặp nữ Tài Thần này là đề tài của điêu khắc gốm, chạm gỗ phổ biến của ngành công nghệ miếu vũ của người Hoa. Thần tích là một truyền thuyết kể về hai chị em Hòa và Hợp buôn may bán đắt. Ở Trung Quốc, Hòa Hợp nhị tiên là đối tượng sùng bái của những người sản xuất đồ gốm sứ, thợ nung vôi và người bán quạt. Hòa hợp Nhị Tiên Tranh dân gian Giang Tô, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Một nhân vật lịch sử là Phạm Lãi cũng được coi là Tài Thần. Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù vua Ngô Phù Sai. Sau khi đã toại chí, Phạm Lãi không màng công danh phú quý nên bỏ đi ở ẩn. Dã sử kể rằng Phạm Lãi với người đẹp Tây Thi bỏ trốn đi dạo chơi ở Ngũ Hồ. Sau khi bỏ đi, Phạm Lãi trở thành một nhà thương buôn thành đạt nổi tiếng ở thôn Đào nên được người đời gọi là Đào Công. Trong dịp khai trương tiệm quán, người Hoa hay tặng nhau tấm đại tự “Đào Công phất nghiệp” để chúc nhau việc kinh doanh, buôn bán thành đạt. Thần Tài - Ông Địa Trích Tìm hiểu bàn thờ Thần Tài Ông Địa, tác giả Lưu Quốc Hùng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Văn Tài Thần chia làm hai đó là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh. Tài Bạch Tinh Quân với ngoại hình như một vị trưởng giả giàu có, mắt trắng râu dài, người mặc áo gấm thắt đai ngọc, tay trái ôm một thỏi kim nguyên bảo, tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ "Chiêu Tài Tiến Bảo". Còn Tam Đa Tinh là Phúc - Lộc - Thọ Tam Tinh. Võ Tài Thần cũng chia làm hai đó là Triệu Công Minh mặt đen, và Quan Thánh Đế Quân (Quan Công) mặt đỏ râu dài. Triệu Công Minh được ghi nhận trong truyện Phong Thần, sau khi tử trận lên bảng Phong Thần, được Khương Tử Nha sắc phong làm "Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân" thống lĩnh bốn vị Thần: Chiêu Bảo, Nạp Trân, Chiêu Tài và Lợi Thị. Ông vừa giúp tăng tài, tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu, nên một số người Hoa cũng thích thờ ông, hay đặt tượng ông nơi tài vị. Quan Thánh Đế Quân, có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc Chí thì ai cũng từng nghe và biết. Hầu hết người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế Quân trong nhà. Ông không chỉ tượng trưng chính khí sáng lòa, mà còn có thể giúp cho người chiêu tài tiến bảo, trừ tà hộ thân. Những người làm quan võ, theo nghiệp lính, những ông chủ kinh doanh thường thờ Võ Tài Thần hoặc đặt tượng ông nơi tài vị, mặt hướng ra cửa. Đặc biệt lại còn có Thần Tài Lưu Hải, hình tướng vị Thần Tài này thấy ở trên cột trước Tam sơn hội quán và trên bờ nóc Điện Ngọc Hoàng: là một chàng trai trẻ, tay cầm một sợi dây ngũ sắc buộc một con cóc ba chân hay mang trên vai một sợi dây buộc những quả trứng với các đồng tiền vàng. Theo truyền thuyết Trung Quốc, Lưu Hải là tể tướng dưới triều Lương Thái Tổ (?-926). Ông từ quan ở ẩn, được Lữ Đồng Tân (Bát Tiên) truyền bí pháp luyện quặng vàng thành linh đan trường sinh bất tử. Truyền thuyết khác lại kể rằng: Lưu Hải là con trai một lái buôn người Phúc Kiến, ông đã câu được con cóc ba chân ở một cái giếng cạn, biểu thị cho việc phát tài (cóc có âm là “thiềm”, đồng âm với “tiền”). Giới thương nhân thường thờ Lưu Hải, dán tranh vẽ trên hai cánh cửa quán để cầu tài. Trong những năm gần đây, tượng cóc ba chân và miệng ngậm tiền được tạo hình độc lập được bày bán rộng rãi. Người ta mua về chưng ở nơi thờ Thần Tài - Thổ Địa hay những nơi trang trọng trong nhà. Lưu Hải câu cóc Mỹ thuật Trung Quốc Cóc ba chân Đĩa men lam, đời Minh Vạn Lịch, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Trên đây các vị Thần Tài mà người Hoa thờ cúng, còn Thần Tài mà người Việt tôn thờ là hình tượng ông Khiết (Cóc ba chân). Ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang tính chiêu tài để lưu giữ, đã ghi dấu chùm sao Tiểu Hùng Tinh trên lưng tượng Ông Khiết. Ông Khiết và kiểm tra bức xạ bằng máy RFI Tham khảo lyhocdongphuong.org.vn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh tại đây. Khi Ông Khiết ngậm đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn chịu sự tương tác từ vũ trụ. Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất. Có lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền" hoặc trước những bất công khủng khiếp thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở miệng", hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua, người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc đó. Điều kỳ lạ nữa là hình tượng con “Cóc” và chòm sao Bắc Đẩu lại xuất hiện trên những bức tranh phổ biến khác trong văn hoá dân gian, đó là tranh thờ đạo Mẫu, tranh Ngũ Hổ Hàng trống và Đông Hồ. Con Cóc Khắc gỗ và tranh Ngũ Hổ Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, ông Cóc trên bàn thờ Thổ Công, có một ý nghĩa to lớn trong tâm linh người Việt, chỉ một chùm sao bắc Đẩu trên lưng ông Cóc, chúng ta đã tìm lại cả một huyền sử kỳ vĩ của dân tộc Việt. Hình tượng Cóc ba chân chính là một mật ngữ liên kết đến tất cả hệ thống tài liệu lịch sử, văn hóa dân tộc khác như tín ngưỡng dân gian, đạo Mẫu, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo…, các sản phẩm vật thể như trống đồng Đông Sơn, các phương pháp ứng dụng phong thủy, châm cứu cùng với các chuyên môn thiên văn, địa lý, giáo dục… và hình tượng Cóc ba chân này sẽ nói lên một ý nghĩa cực kỳ đặc biệt khác cũng sẽ được phân tích trong các chương sau. Trong việc tôn thờ như đã trình bày ở trên, chúng ta cũng biết Ngũ phương Ngũ thổ Long Thần là năm vị Thần trấn năm hướng và năm vị Thần đất đai long mạch sắp đặt theo Ngũ Hành gồm: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương. Tuy nhiên, căn cứ vào hệ thống cấu trúc thiên văn được sắp đặt theo tên gọi các thánh nhân nước Việt và hệ thống thờ tự trong gia đình của người Việt thì Ngũ phương Ngũ Thổ Long Thần chỉ là 5 vị Thần với việc quản lý 5 hướng trên bầu trời và 5 hướng dưới mặt đất gọi là Ngũ Phương Yết Đế. Ngũ Phương Yết Đế và Thập Cực Chân nhân Dân tộc Tày, Nùng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Ngũ Phương Yết Đế là 5 ngôi sao thuộc chòm sao Bắc Đẩu, cũng là năm người em của vua Kinh Dương Vương, cùng với vua cha Đế Minh tạo thành chòm sao Bắc Đẩu. Hai sao Tả phù và Hữu bật là biểu tượng của hai anh em ruột với vua Đế Minh là Đế Nghi và Nguyễn Nghi Nhân. Trong Đạo giáo, Ngũ Phương Yết Đế có “chức vị” cao hơn Thập Cực Chân nhân - 10 đời vua kế tục vua Lạc Long Quân - Hùng Vương II (được là rõ ở các chương sau). Ngũ Phương Yết Đế cũng được trình bày trên bộ tranh thờ dân tộc Sán Chay Dẫn Hương lộ, miền Bắc Việt Nam. Ngũ Thương (Ngũ Thổ Long Thần) Dân tộc Sán Dìu, Tuyên Quang, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Có thể nói những giá trị văn hoá Việt còn lại đến nay đều tiềm ẩn một sự minh triết rất sâu sắc. Nền văn minh Việt không để lại những di sản văn hoá đồ sộ như kim tự tháp hay vạn lý trường thành…. nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng: người Việt là một dân tộc đã sử dụng những biểu tượng văn hoá, thể hiện một tri thức rất minh triết qua những di sản văn hoá phi vật thể sớm nhất thế giới. Gia phả chép Hùng Quốc Vương úy là Lâm (Nguyễn Lâm), tên tự là Phúc Tâm. Nối dõi Lạc Long Quân, thống nhất Văn Lang. Ông mất ngày 28 tháng Năm âm lịch. Một ông ở đất Kỳ Long Lân, gò Thánh hóa hoặc còn gọi là khu mộ vua hay khu mả Đế, khu Đông Trù Tư Mệnh hoặc gọi là Táo Phủ Thần Quân. Tuy nhiên, như đã chứng minh ở trên thì vua Hùng Quốc Vương là Thổ Công, còn Táo Phủ Thần Quân là vua Đế Minh, Thần Tài là vua Lạc Long Quân và ông Thiên là vua Kinh Dương Vương. Miếu và mộ vua Hùng Quốc Vương vẫn được các thế hệ kế tiếp giữ gìn, tu tạo đến nay vẫn còn. Các vua Hùng táng tại các gò lớn gọi là Thổ Sơn, sau sợ giặc phá hủy mới đem về chín miếu: Văn Nội, Văn Phú, Văn La, Trinh Lương, Huyền Kỳ, Bắc Lãm, Động Lãm (Hùng Vương thứ XVII), sau khi vua Hùng Vương thứ XVIII về Bác Lãm thì Bác Lãm đã có hai miếu ở Khả Lãm, Phong Khê cho nên táng tại hai bảo tháp trong chùa Bác Lãm. Có bài thơ ca ngợi tiết xuân Tam dương khai thái rằng: Tiết xuân Thiên Tam dương khai thái, Mở vận lành “Vạn đại hưng long”. Linh Tiêu Kim Khuyết Vân Cung, Tâm hương thấu đến cửu trùng thiên thai. Thuở đất trời âm dương hòa hợp, Kiến tạo nên vũ trụ Càn Khôn. Long ngai chín bệ kim môn, Hoàng Thiên Thượng Đế Chí Tôn cầm quyền. Khắp tam thiên đại thiên thế giới, Vua Ngọc Hoàng quyền đại tối linh, Ngôi cao chính ngự thiên đình, Ngai vàng thống chế quần sinh muôn loài. Hằng giá ngự đan đài tử phủ, Khúc nghê thường y vũ xướng ca, Đàn cầm thánh thót thánh tha, Tiếng dâng ngọc tửu hoàng hoa đượm mùi. Vườn thượng uyển thảnh thơi thánh giá, Điện Linh Tiêu thong thả giáng lâm, Đào viên mở Hội Long Vân, Bách tiên văn vũ quần thần âu ca, Cửa Thiềm cung bách hoa tiên tử, Đứng đôi bên ngọc nữ cung phi, Rồng bay phượng múa nghê quỳ, Trăm hoa đua sắc tức thì tỏa hương. Nhân khánh hạ Tam dương cửu nhật, Thiết đàn tràng kính ngưỡng Thiên Công, Thần đăng ngũ quả tiến dâng, Kính xin soi xét lỗi lầm trần gian. Ban phúc lộc nhân khang vật thịnh, Khắp bốn mùa cát khánh tường quang, Phong điều vũ thuận an khang, Mãn thiên hỷ khí xuân quang lại về. Thiên tăng tuế đề huề trường thọ, Chiếu nhân gian trăm họ giai xuân, Ơn trên bảo quốc hộ dân. Trong cuốn sách Sứ mệnh Đức Di Lạc, tác giả GS.TS Nguyễn Hoàng Phương, một cuốn sách đặc biệt được triển khai từ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng cổ, với các biến số tương tác chi tiết và rộng lớn, đồ hình biểu diễn có số cung lớn hơn trên Hà Đồ và Lạc Thư, được diễn giải bằng các công thức toán học hiện đại và… thực sự rất khó hiểu. Ông đã viết: "Khi đã hiểu được Hồng Bàng Dịch, nghĩa là nắm được công thức bao quát toàn bộ sự vận hành của vũ trụ bao la, khoa học tâm linh sẽ phát triển trong thiên nhiên kỷ thứ III là thời đại của Thánh Đức Di Lạc Phật Vương. Một khoa học như vậy, người bình thường khó có thể hiểu nổi nếu không có một sự chỉ đạo cơ bản của Trời - Đất ( tức là của các Đấng Vô Vi), Một sự truyền năng lượng siêu việt và một tiềm năng trí tuệ hết sức đặc biệt. Đối với những người nghiên cứu khoa học tâm linh, cách này là cách đúng đắn nhất để có thể sử dụng cho sự tiến bộ của nhân loại, làm vinh quang cho đất nước Việt Nam và cho sư nghiệp của chính mình và con cháu mai sau. Xuất xứ từ các thông tin ghi nhận được từ Cõi Phật - chòm sao Bắc Đẩu - quê hương của nhân loại chúng ta - những kiến thức có được này từ các Đấng Vô Vi là sách Trời, là ân huệ của hồn thiêng sông núi, cho nhân loại và con cháu Hồng Bàng chúng ta. Đây thực sự là những kiến thức có tầm xa thời gian vài nghìn năm". Nhằm làm rõ hơn các dữ liệu lịch sử đã được mã hóa, chúng ta hãy cùng tiếp tục với một trò chơi văn hóa đặc biệt của cộng đồng người Việt cách đây gần 1.000 năm, đó là bộ bài Ma tước (Mạt chược) trong Chương V: MA TƯỚC DIỄN NGHĨA. *** Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 1, 2013 Chương VII TẢ THANH THIÊN (VIẾT LÊN TRỜI XANH) Một tia chớp từ thượng tầng thanh khí, Soi sáng Thiên hà, lời hiệu triệu những vì sao. Vũ trụ rùng mình tỉnh giấc chiêm bao, Nghìn trùng gió, tin truyền đi muôn hướng… Lời hiệu triệu những vì sao, tác giả Nguyễn Thị Thanh Lan. Đền Ngọc Sơn nằm trên hòn đảo trong lòng hồ Hoàn Kiếm (tên cổ là hồ Lục Thủy), cũng có tên là núi Ngọc, dẫn ra đền là các cổng và cây cầu gỗ sơn đỏ. Theo sách Thăng Long cổ tích khả bản khuyết danh (ký hiệu viện Hán Nôm A/820) soạn đầu đời Gia Long khoảng 1805, ở mục Hồ Hoàn Kiếm cũng không nhắc tới một ngôi đền chùa nào trên gò đất này. Sách La Thành cổ tích vịnh của Trần Bá Lãm, được viết trong thời Lê Chiêu Thống (1786-1788) có mục Vịnh hồ Tả Vọng. Trong phần Tiểu dẫn trên 300 chữ có kể sự tích các hồ, các tên gọi của hồ, tuyệt nhiên không nhắc gì đến một ngôi đền nào trong hồ cả, chỉ chép là trên gò phía Bắc hồ (hiểu là đảo Ngọc ngày nay) Lê Thánh Tông cho dựng điều đài (đài câu). Bia năm 1843 do Vũ Tông Phan soạn, có tên là Ngọc Sơn đế quân tử ký, ghi như sau: Hồ Tả Vọng tên cũ gọi là hồ Hoàn Kiếm là danh thắng đất kinh kỳ xưa. Phía Bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên khoảng 3-4 sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời Lê. Trước đây ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Thánh Đế Quân tại đây bèn mở rộng sửa thêm gọi là chùa Ngọc Sơn. Phía Nam trước mặt chùa dựng một gác chuông, lâu năm chùa hư nát tưởng như tiêu vong.Ngày gần đây, hội Hướng Thiện vốn do những khoa mục lập ra… vốn thờ Văn Xương Đế Quân mà chưa có đền. Các con ông Tín Trai tình nguyện nhường lại nơi này… Hội sửa lại đền Quan Đế, dỡ bỏ gác chuông cải thành đền Văn Xương. Đền có ba gian, ở giữa thờ tượng thánh mới làm, hai bên chái mỗi bên một gian, các phòng Đông tây đều năm gian. Bắt đầu xây dựng từ mùa đông Tân Sửu (1841) đến mùa thu Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành.Đền Ngọc SơnTranh vẽ tham khảo, Hà Nội, Việt NamNhư vậy đến năm 1841-1842 trong đền vừa có thờ Phật, Quan Thánh Đế Quân và Văn Xương Đế Quân. Đến tấm bia do Lương Hiên Đặng Huy Tá lúc đó ra làm Án sát Hà Nội soạn có tên là Trùng tu Văn Xương miếu bi ký cho biết thêm: Phía Đông làng Hà Thanh có hồ Hoàn Kiếm, trong hồ có đảo gọi là núi Ngọc, trong núi có miếu Văn Xương, tôi vừa làm Án sát Hưng Yên đổi về, gặp ông Phương Đình, dắt nhau qua chơi, ông nói với tôi: Hồ này đời xưa lớn, từ Lê Trung Hưng chở đất lấp, làm đường xe chạy suốt đến Long Lâu ở Nhị Hà. Nửa hồ bên phải là Hữu Vọng, nửa hồ bên trái là Tả Vọng, núi trong Tả Vọng là đài câu cá. Đầu đời Gia Long mới có miếu Quan Đế. Đến đời Thiệu Trị làm miếu khác thờ Văn Xương. Gần đây có Án sát Nguyễn Như Cát thăm đền, thương cảm vì quy mô quê kệch và không tu sửa thì sẽ đổ nát nên đề nghị quyên tiền làm lại nhưng chưa kịp làm thì bổ sang tỉnh Đông, tôi (tức Phương Đình Nguyễn Văn Siêu) thay ông ấy chủ trương việc này. Nay đền mới hoàn chỉnh, phía trước kè bờ nước làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa dòng Văn, bên tả, phía Đông cầu Thê Húc dựng Đài nghiên, lại phía Đông trên núi Độc tôn xây Tháp bút, tượng trưng cho văn vật. Qua ba bốn năm mới làm xong, nhờ tôi làm bài ký.Bia không có niên đại hẳn vào khoảng 1865-1866, qua bia này, thấy: Đài Nghiên, Tháp Bút, đình Trấn Ba và cầu Thê Húc cũng chỉ có bắt đầu từ thời điểm này.Ngay từ hai cột chính, có đôi câu đối chính diện:Lâm thủy đăng sơn nhật lộ tiệm nhập giai cảnh,Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn phong quang.Dịch nghĩa:Đến cõi nước, trèo lên non, một lối dẫn dần vào cảnh đẹp,Tìm nguồn cội, hỏi chuyện xưa, trong chốn này biết mấy phong quang.Trên hai mặt tường ở hai bên có chữ Phúc và Lộc cỡ lớn, tô son như chúc cho mọi sự tất thành, trên hai chữ đại tự nét bút hoa mỹ tươi tắn này còn có hai hàng đề từ, một bên là ba chữ “Ngọc ư tư” nghĩa là “Ngọc ở đây”, một bên là ba chữ “Sơn ngưỡng chỉ” nghĩa là “Ngửa trông núi”. Một câu lấy trong sách Luận Ngữ, “Hữ mỹ ngọc ư tư” nghĩa là “Có ngọc đẹp ở đây”, một câu lấy trong Kinh Thi “Cao sơn ngưỡng chỉ” nghĩa là “Ngửa trông núi cao”. Ngọc là chỉ phẩm chất cao đẹp và núi cao chỉ bậc hiền tài.Long môn - Hổ bảngĐền Ngọc Sơn, Hà Nội, Việt NamQua cổng bên trái sừng sững là ngọn Tháp Bút bằng đá được xây trên ngọn núi cũng bằng đá, tháp vuông có năm tầng cao 28m, đáy tầng một là 2.0m và tầng năm là 1.2m. Trên đỉnh tầng thứ năm là ngọn bút lông, cả cán và ngòi cao 0.9m, tổng cộng cao 28.9m. Trên thân ba tầng giữa của tháp, mặt phía Bắc có khắc theo chiều dọc ba chữ “Tả Thanh Thiên” nghĩa là “Viết lên trời xanh”, đã có nhiều người giải thích ý nghĩa của ba chữ này như giải bày tấm lòng với trời xanh, cảm hứng đầy tráng khí, tâm hồn rộng mở bao la hay là đặt câu hỏi với trời xanh… nhưng chưa chắc chắn. Còn ngọn núi đá chân tháp có tên là núi Độc Tôn, ngay chân núi có một cái miếu nhỏ có tên “Sơn Thần miếu” tức “Miếu thần núi”. Hai bên cửa miếu có đôi câu đối:Cố điện hồ sơn lưu vượng khí,Tân từ hương hỏa tiếp dư linh.Điện cũ núi hồ lưu vượng khí,Đền nay hương lửa tiếp dư linh.Có một tấm bia nhỏ khắc chữ “Thái Sơn thạch cảm đương” - là tảng đá trấn yểm tà ma không cho chúng ma bén mảng tới nơi này. Thái Sơn là tên một ngọn núi ở vùng Sơn Đông, Trung Quốc, là ngọn núi quan trọng nhất trong năm ngọn núi nổi tiếng gọi là Ngũ Nhạc, được ghi nhận trong cuốn Kinh Thư, Thiên Thuấn Điển, được san định bởi đức Khổng Tử, các vua chúa phong kiến Trung Quốc xưa thường tới đây cúng tế. Qua Tháp Bút, tới cổng thứ hai, trên hai cột có đôi câu đối:Nhân gia văn tự vô quyền toàn bằng âm đức,Thiên thượng chủ tư hữu nhân đơn khác đan điền.Dịch nghĩa:Ở chốn nhân gia này cái quyền chân chính là sự tu dưỡng đạo đức,Trên trời kia, ông Thánh coi việc khảo thí nhân gian chỉ soi xét lòng dạ con người.Ở hai bên trụ đắp nổi một bên là rồng đang cuộn khúc và đàn cá đang thi nhau vượt sông bên trên có hai chữ Long Môn và một bên là một chú hổ trắng như đang tiến ra, bên trên có hai chữ Hổ Bảng. Hổ bảng nghĩa đen là bảng ghi tên người đỗ tiến sĩ, còn Long Môn là truyền thuyết Cá hóa rồng hay Cá vượt Vũ Môn. Tại Trung Quốc, dòng sông Dương Tử chảy từ Tây qua Đông, ở khúc thượng lưu đoạn chảy qua tỉnh Tứ Xuyên, huyện Quảng Nguyên, dòng sông gặp ngọn núi Long Môn, còn có tên là Vũ Môn, thành ra ghềnh thác, chân núi có vực sâu. Hàng năm vào mùa thu nước lớn, cá chép hội tụ về vực rất nhiều, đua nhau nhảy vượt thác, Tương truyền con cá nào vượt thác sẽ hóa rồng. Do đó Vũ Môn còn có thêm tên nữa là Long Môn. Cũng do đó mà có câu thơ “Vũ môn tam cấp lãng - Bình địa nhất thanh lôi” nghĩa là “Vượt qua ba cấp sóng ở Vũ Môn - Đất bằng vang sấm rền” mang ý nghĩa thí sinh giật giải thủ khoa một lúc ba cuộc thi liên tiếp là thi Hương, thi Hội và thi Đình, tức giật giải Tam Khôi. Hai bên có đôi câu đối:Hổ Bảng, Long Môn thiện nhân duyên tháp,Nghiễn Đài, Bút Tháp đại khối văn chương,Dịch nghĩa :Bảng Hổ, Cửa Rồng là để biểu dương nhân quả người làm điều tốt,Đài Nghiên, Tháp Bút là để mô tả nghiệp văn chương của đất trời.Qua cổng thứ ba có mái, trên mái đặt một cái nghiên đá cho nên cổng cũng có tên là Nghiễn đài Đài nghiên. Đài nghiên tạc từ đá xanh, hình quả đào cắt theo chiều dọc, có ba con cóc đội nghiên như chân kiềng. Trên thân nghiên có bài minh: “Xưa lấy huyệt đất làm nghiên, chú giải Đạo đức kinh, nghiền ngẫm bên nghiên lớn, viết sách Hán Xuân Thu. Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng. Không vuông không tròn, dùng vào mọi việc thật là kỳ diệu. Không cao không thấp, ngôi ở chính giữa. Cúi soi hồ Hoàn Kiếm, ngửa trông ngọn Bút Tháp, ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mài vào hư không”.Điều lưu ý là mặt sau của Đài Nghiên, ở hai bên cửa có đôi câu đối mang màu sắc quan niệm cái “vô vi” của Lão giáo:Dạ nguyệt hoặc qua tiên thị hạc,Hào lương tín lạc tử phi ngư.Đêm trăng, ngờ bay qua hạc ấy là tiên,Cầu hào, tin niềm vui người không phải cá.Câu thứ nhất là lấy điển trong bài phú Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha. Nguyên là vào một đêm trăng rằm, Tô cùng bạn dong thuyền chơi trên sông Xích Bích lần thứ hai, bỗng thấy một con chim hạc lớn bay qua trời. Lát sau Tô ngủ thiếp, mơ thấy một đạo sĩ mặc áo long bào phấp phới, Tô hỏi: Lúc nãy hạc bay qua thuyền có phải là ông không? Đạo sĩ ngoảnh mặt cười, Tô chợt tỉnh giấc.Câu thứ hai lấy điển từ sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Trang Tử và Huệ Tử đang đi chơi trên cầu bắc qua hào, Trang hỏi: Con cá đang bơi kia ý thỏa thích lắm? Huệ hỏi lại: Anh không phải cá sao biết cá vui? Trang đáp: Anh không phải tôi, sao anh biết là tôi không biết được cái vui của cá?.Tháp bút - Đài nghiên - Minh vănẢnh tham khảo InternetQua hết 15 nhịp cầu, còn thấy các bức tranh đắp hình Long mã phụ Hà Đồ và Thần quy cõng Lạc Thư theo truyền thuyết cổ xưa.Đối diện đình Trấn Ba là ba nếp đền ẩn hiện dưới bóng cây cổ thụ um tùm, nếp thứ hai gian giữa đặt hương án, đồ thờ và sập thờ. Có ba lớp tượng Quan Vũ và hai tùy tướng là Châu Xương và Quan Bình. Tượng Quan Vũ tư thế ngồi trên bệ, mặt đỏ, râu dài, mũ có vạt phù xuống lưng, trên chỏm có buộc dây lụa, trong mặc áo giáp, ngoài khoác áo choàng xanh, hộ tâm kính có hình rồng, tay phải úp trên đùi tay trái giơ ngang ra phía trước, chân đi hài. Tượng Châu Xương râu quai nón, mũ bó có chóp, đứng hầu bên phải, áo chẽn màu đỏ và xanh, cầm thanh long đao. Tượng Quan Bình nho nhã áo thụng, mũ võ sinh, áo bào đỏ, đứng bên trái, hai tay giơ ra như cầm một vật gì đó, nay không còn, chính là cái hòm đựng ấn của Quan Vũ. Có đôi câu đối ca ngợi Quan Vũ:Đại trung dĩ hành hồ đại dũng,Chính nghĩa nãi bản ư chí nhân.Đại trung để làm việc đại dũng,Chí nghĩa là gốc ở chí nhân.Lớp giữa là tượng Lữ Tổ (tức Lữ Đồng Tân, là một trong Bát Tiên) với hai bên có tượng Thiên Khôi và Thiên Việt. Tượng Lữ Tổ tạc ngồi trên bệ, đội mũ đạo sĩ, mặc áo vàng, dáng đĩnh đạc, tay trái đặt trên đùi, tay trái giơ ngang vai đang bắt quyết, có vẻ là quyết Chuẩn Đề. Thiên Việt có hình dáng một ông lão đạo mạo, mũ nhị cấp áo thụng có hình rồng lân. Thiên Khôi mang hình dáng là một tiểu quỷ, mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay cổ chân đeo vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút giơ ngang đầu, một chân đứng lên con giao long, một chân giơ lên. Có bức hoành phi ca ngợi công đức của Lữ Tổ: “Cẩm huệ linh phương” nghĩa là “Cảm phục ân huệ ban thuốc linh nghiệm”.Ban thờ đền Ngọc SơnẢnh tham khảoLớp trong là tượng thần Văn Xương, ngôi trên long ngai trong khám thờ. Mặt tượng hơi dài, đội mũ cánh chuồn, mình mặc áo bào xanh trang trí hình rồng mây suốt từ ngực xuống, gấu áo hình sóng nước. Tay phải úp trên đùi, tay trái ngửa, có ngón hơi khép lại để giữ một quyển sách, hai bên có tượng thị nữ đứng hầu. Có đôi câu đối ca tụng thần Văn Xương:Vị bỉnh đồ thư khai thái vận,Đức lưu hãn mặc xán thiên chương.Ngôi vị là giữ gìn sách vở mở ra vận đẹp,Đạo đức lưu giữ nơi bút mực rạng rỡ nền trời.Có một đôi câu đối đắp ngay trên mặt tường hồi hai bên cửa của tòa tiền tế:Đạo có chủ trương Đẩu Bắc văn minh chi tượng,Nhập đường chiêm ngưỡng Giao Nam lễ nhạc chi đô.Dịch nghĩa:Đạo có chủ trương, đó là hình tượng sáng đẹp của sao Bắc Đẩu,Người cùng chiêm ngưỡng, đây là kinh đô lễ nhạc của cõi Nam Giao.Bước vào trong cửa, trên hai cột chính là đôi câu đối:Sơn danh bất tại cao, thủy linh bất tại thâm, tự hữu chủ giả,Thiên trụ lại dĩ tôn, địa duy lại dĩ lập, duy thử hạo thiên.Dịch nghĩa:Núi nổi tiếng không vì cao, nước linh thiêng không vì sâu, chính vốn đã có chủ,Cột trời do vậy mà vững, dải đất do vậy mà bền, toàn nhờ khí hạo nhiên. Văn Xương Đế Quân là vị thần văn chương, khoa cử, chuyên cai quản các việc công danh, khoa cử trong thiên hạ. Văn Xương Đế Quân là vị thần có tướng mạo ung dung, tự tại, ngồi trên cỗ xe do lừa trắng kéo. Dân gian lấy ngày 3 tháng Hai âm lịch làm ngày Thánh đản của ngài. Vào ngày này, từ quan phủ cho đến các văn nhân, học sĩ đều đến miếu Văn Xương để tế tự hoặc ngâm thơ, làm văn, cử hành lễ hội Văn Xương. Đại diện là sao Khôi là ngôi sao thứ nhất trong chòm sao Bắc Đẩu. Chữ “Khôi” có nghĩa là người đứng đầu cho nên người đạt thành tích cao nhất trong thi cử được gọi là Khôi nguyên.Văn Xương Đế Quân được Đạo giáo và dân gian tôn sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân. Văn Xương là tên chòm sao, cũng gọi là sao Văn Khúc (Văn Khúc tinh) hoặc sao Văn (Văn tinh). Người Trung Quốc thời xưa cho rằng đây là tinh tú nắm giữ công danh và văn vận của thế nhân. Văn Xương Đế Quân với thần Chu Y (bên trái) và thần Khôi Tinh (bên phải). Văn Xương Đế QuânNguồn: Henri Doré, vol.6, tr.56Chúng ta hãy cùng xem lại nội dung truyện Tam Quốc Chí, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không, tại Hồi 77: “Núi Ngọc Toàn, Quan Công hiển thánh - Thành Lạc Dương, Tào Tháo cảm thần”. Liền sai đem hai cha con Quan Công ra hành tội. Bấy giờ là năm Kiến An thứ 24 (219) tháng mười mùa đông. Quan Công bấy giờ năm mươi tám tuổi. Người sau có thơ rằng:Cuối Hán ai là giỏi?Vân Trường mấy kẻ tày!Thần oai, võ đã mạnh,Nho nhã, văn cũng hay.Lòng ngay tỏ như kính,Khí nghĩa cao ngất mây.Nghìn thu danh tiếng để,Không những nhất đời nay! Lại có thơ rằng:Anh hùng còn nhớ Giải Lương xưa,Lẫm liệt Quan Công tiếng đến giờ.Huynh đệ một ngày tình nghĩa nặng,Đế vương muôn kiếp khói hương thờ.Gương trung vằng vặc, soi trời bể,Khí nghĩa ầm ầm, nổi gió mưa.Đình miếu đến nay đâu chả có,Trải bao năm tháng vẫn trơ trơ! Quan Công mất rồi, con ngựa xích thố bị Mã Trung bắt được, đem về dâng Tôn Quyền, Quyền thưởng cho Mã Trung cưỡi. Con ngựa ấy mấy hôm không chịu ăn cỏ rồi cũng chết. Vương Phủ ở Mạch Thành, bỗng nhiên giật mình run sợ, hỏi Châu Thương rằng: - Đêm qua tôi nằm mơ thấy chúa công máu me khắp cả mình đứng ở trước mặt tôi, toan hỏi, thì sực tỉnh dậy ngay, không biết hay dở ra sao? Đang nói chuyện, có người vào báo rằng: - Quân Ngô mang đầu hai cha con Quan Công đến ngoài thành chiêu an. Vương Phủ, Châu Thương cùng giật mình, vội vàng lên mặt thành trông ra, thì quả nhiên thực. Vương Phủ hét to lên một tiếng, rồi đâm nhào xuống dưới thành mà chết. Châu Thương cũng đâm cổ tự vẫn. Mạch Thành thuộc nốt về Đông Ngô. Quan Công từ khi mất rồi, linh hồn không tan, cứ là là bay trên không, đến mãi một trái núi ở huyện Đương Dương, thuộc về châu Kinh Môn gọi là núi Ngọc Toàn. Trên núi có một nhà sư già, tên là Phổ Tĩnh. Sư già ấy trước ở chùa Trấn Quốc, ải Dĩ Thủy. Từ khi cứu Quan Công ra khỏi cửa ải, thường thường vãn cảnh đi khắp mọi nơi. Khi đến ngọn núi này, thấy cảnh gió mát trăng trong, âm u tĩnh mịch, mới làm một túp am cỏ trụ trì ở trên núi ấy, có một tiểu đồng hầu hạ, hàng ngày ngồi trong am tụng kinh. Bữa ấy vào độ cuối canh ba, trăng thanh gió mát, Phổ Tĩnh đang ngồi trong am tụng kinh, bỗng nghe ở trên không có tiếng gọi trong lên rằng: - Đem trả đầu ta đây! Phổ Tĩnh ngẩng mặt lên xem thì thấy trên không có một người cưỡi ngựa xích thố, cầm đao thanh long, bên tả có một tướng mặt trắng, bên hữu có một tướng mặt đen râu rậm, ở trên mây hạ xuống, ngồi trên đỉnh núi. Phổ Tĩnh trông rõ ràng là Quan Công, mới lấy đuôi phất trần đang cầm trong tay, gõ vào cánh cửa mà hỏi rằng: - Vân Trường ở đâu? Linh hồn Vân Trường sực tỉnh ra, lập tức xuống ngựa, cưỡi gió sa xuống trước am, chắp tay hỏi rằng: - Sư cụ ở đây là gì? Xin cho tôi được biết pháp hiệu? Phổ Tĩnh nói: - Lão tăng tên là Phổ Tĩnh, khi ở trong chùa Trấn Quốc, cạnh cửa ải Dĩ Thuỷ, đã được gặp quân hầu, nay quên mất rồi ư? Quan Công nhớ ra, nói rằng: - Trước kia nhờ sức cứu cho, tôi vẫn ghi dạ không dám quên, nay tôi đã gặp nạn chết rồi, xin cầu lời thanh hối, chỉ điểm đường mê muội cho tôi. Phổ Tĩnh nói: - Xưa trái nay phải, nhất thiết không bàn, nhân trước quả sau, bao giờ vẫn thế. Nay tướng quân bị Lã Mông làm hại, kêu lên rằng: “Đem trả đầu cho ta đây!” Thế thì đầu Nhan Lương, Văn Sú, cùng những đầu sáu tướng ở năm cửa ải, và bao nhiêu đầu nữa thì đòi vào đâu? Quan Công tỉnh ngay ra, cúi đầu lạy tạ rồi biến đi mất. Về sau thường thường hiển thánh ở núi Ngọc Toàn, cứu hoạ cho nhân dân phương ấy. Dân ở đây cảm ân đức, lập miếu trên đỉnh núi, bốn mùa tế bái. Người sau có đề một câu đối ở miếu ấy rằng:Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ xích thố truy phong, trì khu thời, vô vong Xích Đế,Thanh đăng quan thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý Thanh Thiên. Dịch nghĩa:Bộ mặt đỏ, giữ tấm lòng đỏ, mình cưỡi con ngựa xích thố truy phong, lúc ruổi dong không bao giờ quên về Vua Đỏ,Ngọn đèn xanh, xem bộ sử xanh, tay cầm thanh long đao yển nguyệt, nơi kín đáo chẳng chỗ nào thẹn với Trời Xanh.Qua hồi sách trên, tác giả đã dùng hình ảnh ngôi chùa Trấn Quốc, chùa nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây, được coi là ngôi chùa lâu đời nhất ở Thăng Long, Hà Nội; còn mật ngữ núi Ngọc Toàn chính là núi Ngọc có đền Ngọc Sơn thờ Quan Công. Chúng ta biết rằng chỉ sau khi truyện Tam Quốc Chí ra đời, thì tục lệ thờ Quan Thánh Đế Quân với Chu Thương và Quan Bình mới phổ biến một cách rộng rãi và mạnh mẽ trong dân chúng ở Việt Nam và Trung Quốc. Nhà sư Phổ Tĩnh cầm phất trần gặp Quan Công chính là hình ảnh vị tiên Lữ Đồng Tân, một trong Bát Tiên. Ngọn núi đá xếp dưới chân Tháp Bút có tên Độc Tôn, lấy từ câu nói nổi tiếng của Hương Vân Cái Bồ Tát: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. “Vua Đỏ” ở đây là Xích Quỷ tức vua Kinh Dương Vương đối lại với “Trời Xanh” thì ông chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế, với biểu tượng mặt trời hay dân gian thường gọi là ông Trời.Như vậy, đền Ngọc Sơn đã có từ thời nhà Lý, được ghi nhận trong tác phẩm Tam Quốc Chí và là một trong những trung tâm tín ngưỡng quan trọng của Thăng Long thành lúc bấy giờ.Quan Thánh Đế QuânTranh dân gian Đông Hồ, Việt NamQua di tích đền Ngọc Sơn tại hồ Hoàn Kiếm, chúng ta không khỏi thắc mắc: tại sao nơi trung tâm Thăng Long thành, theo truyền thuyết đã từng được xem là huyệt đạo của quốc gia lại tôn thờ Lữ Đồng Tân và Quan Công và phải chăng có những điều bí ẩn nào đó ở bên trong? Qua bức tranh dân gian Hàng Trống Bát Tiên náo hải, chúng ta đã biết Lữ Đồng Tân, một tay phải cầm bảo kiếm, tay trái cầm phất trần chính là vua Lạc Long Quân và chùa Một Cột thờ Quan Âm Bồ Tát chính là Mẫu Âu Cơ hay Chúa Mẫu Thoải cùng một nơi. Đồng thời, nảy sinh mối nghi vấn thần Văn Xương là ai? Khi mà tác giả lại đề cập đến chùa Trấn Quốc trong hồi sách liên quan đến Quan Công? Nhằm giải thích các sự kiện, chúng ta cần phải xem qua môn thiên văn Đông phương bởi Văn Xương với biểu tượng là một chòm sao trên bầu trời (chúng tôi tham khảo và trích dẫn một phần nội dung Thiên văn học cổ Trung Hoa, tác giả Nguyễn Văn Thọ).Thiên văn Đông phươngNgay từ khoảng năm 2000 tr.CN, các đài quan sát thiên tượng đã được dựng ở kinh đô các quốc gia. Lúc Tần Thủy Hoàng lên ngôi 221 tr.CN, đã ra lệnh đốt sách Nho giáo và các tư tưởng. Tuy sách thiên văn thuộc về bói toán, nằm ngoài danh sách phải hủy nhưng cũng rất nhiều quyển đã chịu chung số phận, nên những gì còn lại về thời trước đời Tần chỉ rất rời rạc, sau đó chính Tần Thủy Hoàng cũng trọng dụng lại 300 người làm nghề xem sao.Các ý kiến về quan sát thiên văn sớm nhất ở Trung Quốc không thống nhất, đa số cho rằng nó vào khoảng thế kỷ XXIV tr.CN, với dấu tích là các giáp cốt văn (ghi trên xương thú, mai rùa). Các ghi chép bắt đầu rõ ràng vào khoảng đời nhà Thương cho tới năm 1500 tr.CN. Trong khi nền văn hóa Babylon gần như không còn để lại dấu tích nào về thiên văn, thì người Trung Quốc lại gìn giữ những ghi chép liên tục cho đến tận ngày nay.Trong Kinh thư, chương Nghiêu Điển ghi nhận: “Bèn sai ông Hy bá và ông Hòa bá (hai ông quan coi làm lịch) kính theo định luật của trời, xem xét độ số mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao (Nhị thập bát tú) và truyền bá rất kính cẩn cho dân gian biết những thời hậu cấy gặt sớm, muốn thế nào… Vua Nghiêu nói rằng: này thầy Hy và thầy Hòa, trong vòng một năm 366 ngày, theo tháng nhuận, định bốn mùa thành một năm. Theo lịch mà điều khiển trăm quan, mọi việc đều thịnh vượng”.Trước sự hỗn độn, không thống nhất, không đối xứng của các vì sao, người Trung Quốc gọi bầu trời nói chung là Hỗn Thiên. Trước khi phát hiện về bản đồ sao động Đôn Hoàng, bản đồ sao hoàn chỉnh rất sớm được ghi nhận là bản đồ sao đời Bắc Tống, vẽ vào thời Nguyên Phong (1078-1085), được khắc lên bia đá năm 1247, đặt trong khu đền Khổng Tử, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên tấm bia Thiên văn đồ đó chia rõ phương vị, cung độ, gồm 1434 vì sao được chia thành các chòm, có đủ Hoàng đạo, Thiên Xích đạo, Ngân hà. Bên dưới là bài văn bia 209 chữ chép rõ về các kiến thức thiên văn. Bản đồ thiên văn cổĐộng Đôn Hoàng, thời nhà Đường, Trung QuốcBản dập Thiên Văn đồThời Bắc Tống, Trung QuốcHiện tượng Nhật thực lần sớm nhất được ghi lại là vào năm 2136 tr.CN: “Năm thứ 5 đời Trọng Khang nhà Hạ, mùa thu, hạ tuần tháng 9, ngày Canh Tuất, có hiện tượng Nhật thực”. Khi có Nhật thực, người Trung Hoa tin rằng đó là do mặt trời bị ăn mất (thực - ăn), nên làm lễ cầu nguyện, cúng bái, dùng âm thanh để “xua đuổi quái vật ăn mặt trời”. Hiện tượng Nguyệt thực thường xảy ra hơn, nên cũng ít được chú ý hơn, lần ghi chép về nguyệt thực sớm nhất là năm 1065 tr.CN.Một tài liệu đời Tây Hán (thế kỷ II tr.CN) tìm được năm 1973 ghi rõ chu kỳ của Sao Kim là 584.4 ngày, Sao Mộc là 377 ngày, Sao Thổ là 594.4 ngày, chỉ sai lệch so với kết quả ngày nay chưa đến 0.3 ngày. Đời Hán Cao Tổ, hiện tượng 5 hành tinh của hệ mặt trời ở vị trí thẳng hàng được gọi là “chuỗi ngọc 5 sao”. Vào khoảng năm 484 tr.CN, các tính toán cũng xác định độ dài chính xác của một năm là 365.25 ngày, là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống âm dương lịch khá hoàn chỉnh.Tuệ tinh (Sao chổi) được quan sát sớm nhất từ năm 613 tr.CN. Trong một lăng mộ cổ từ thế kỷ V tr.CN được khai quật năm 1973 có cuộn lụa vẽ lại 29 ngôi sao chổi, thành quả quan sát hơn 300 năm. Trong đó có ngôi có 2 đuôi, ngôi có đuôi thẳng và dài, có ngôi lại có đuôi móc câu. Họ cũng nhận xét là hầu hết các sao chổi có đuôi bay ngược chiều mặt trời, và cho rằng đó là Thiên khí từ mặt trời thổi ra.Sao chổiTham khảo InternetNgôi sao chổi Halley xuất hiện năm 240 tr.CN (năm thứ 7 đời Tần Thủy Hoàng) đã quay lại vào năm 164 tr.CN, rồi lại được nhìn thấy vào những năm sau đó, đã giúp các nhà thiên văn Trung Quốc tìm ra chu kỳ 76 năm của nó. Thực ra quan sát thấy sao chổi đầu tiên năm 613 tr.CN (ghi trong Kinh Xuân Thu) chính là Halley, nhưng bị gián đoạn. Quĩ đạo của hơn 40 sao chổi đã từng xuất hiện cũng được ghi lại cẩn thận trong các bản đồ cổ, đặc biệt năm 600, một sao chổi được ghi lại là “sáng như mặt trăng”. Trong toàn bộ thời phong kiến, từ thời Ân đến 1911, có 360 văn bản ghi lại sự xuất hiện của sao chổi, trong đó sao chổi Halley là 31 lần.Một quan sát đặc biệt quan trọng của người Trung Hoa đó là sao Khách - những vì sao sáng rực lên trong một thời gian ngắn rồi tối đi, giống như người khách qua đường, ngày nay ta gọi đó là các Siêu tân tinh. Quan sát đầu tiên trên thế giới của họ được ghi lại là năm 14 tr.CN. Hiện tượng nổi tiếng nhất là vào đời nhà Tống. Ngày 4 tháng 6 năm 1054, một ngôi sao bống rực sáng trên bầu trời phía Đông, thậm chí thấy rõ trong ánh sáng ban ngày suốt 23 ngày khiến người Trung Quốc kinh hoàng. Các quan khâm thiên quan sát suốt ngày đêm không nghỉ, cho đến khi nó tối hẳn vào cuối tháng 4 năm 1056, sau 643 ngày bùng nổ. Vị trí của nó ở gần Hoàng đạo và sao Tất (Zeta Taurius), ngày nay Siêu tân tinh đó được biết đến dưới cái tên Crab Nebula, và đến năm 1968 vẫn còn tiếp tục phun vật chất vào vũ trụ. Hỗn Thiên Nhất thống Tinh tượng Toàn đồ - 1500Tư liệu Trung QuốcCùng với các quan sát tỉ mỉ, các hệ thống công trình cũng được triều đình cho xây dựng. Đầu Công nguyên, nhà Hán đã xây dựng một loạt đài thiên văn dọc theo Trường Thành để đo thời gian và chuyển động của các thiên thể. Thậm chí có tài liệu viết rằng năm 721-725, dưới thời Đường, một hệ thống cột định vị được dựng theo hướng Bắc - Nam, cận Nam từ tận miền Trung Việt Nam, cực bắc lên đến sát Trường Thành. Cột đồng lớn nhất được dựng năm 1276 đời Tống, cao đến 12m. Dùng Thổ Khuê và Biểu Can để đo nhật ảnh, xác định ngày Đông ChíCây nêu cốt là để đo bóng mặt trời để xác định các ngày Đông Chí, Hạ Chí, Xuân Phân, Thu Phân, v.v. Theo Đổng Tác Tân, tác giả bộ Ân đại chi lịch pháp nông nghiệp dữ khí tượng, từ đời Thương người ta đã biết dùng cây nêu để đo bóng mặt trời.Cây nêuNhật quĩ: trên nguyên tắc, nhật quĩ là một vòng tròn, chung quanh có ghi giờ hoặc ghi khắc, giữa vòng tròn có một cây trục để lấy bóng mặt trời. Nhật quĩ có thứ để thẳng, có thứ để nghiêng theo độ dốc của đường xích đạo, cũng có thứ nhật quĩ hình chữ nhật.Nhật quỹNhật quĩ hình chữ nhật Hình trên nhật quĩNhật quĩ đào được ở Lạc Dương Hồn nghi là một dụng cụ để xem xét sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, và sự xuất-một (mọc và lặn) của các vì sao. Trung Quốc Sử Lược của Phan Khoang chép: “Đời vua Hoàng Đế, Dung Thành đã phát minh ra cái máy Cái Thiên để quan sát tinh tượng. Đến đời Đông Hán có Trương Hành chế ra hai thứ máy gọi là Hồn thiên nghi, xem biết sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, và sự xuất-một của các ngôi sao, và Địa động nghi để xem nơi nào có địa chấn. Hai thứ máy ấy rất có giá trị; đời sau nhiều người bắt chước làm theo”. Hồn nghi tân tiến Hồn nghi tại Nam Kinh Năm 1932, người ta đào được ở Lạc Dương một thứ nhật quĩ để thẳng. Đó là một vòng tròn, có lỗ ở tâm điểm để cắm cọc lấy bóng. Chung quanh vòng tròn chia thành 100 độ tức 100 khắc. Nhưng 32/100 thì để trống; 68/100 còn lại chia thành 68 khắc. Khắc đầu và khắc cuối của nhật quĩ này cho thấy hướng mặt trời mọc và lặn ngày Hạ Chí.Trên nhật quĩ này ta còn thấy những hình tương tự như các mẫu tự T, L, V. Cho đến nay người ta cũng chưa biết được ý nghĩa của những hình ấy.Có cái lạ nữa là những hình T, L, V này còn được thấy khắc trên cái gương đời Hán, cũng như trên nhiều đồ chơi của người xưa.Do nhận ra chu kỳ quay tròn của bầu trời, người Trung Quốc cũng chia vòng tròn thiên cầu thành các độ, tuy nhiên độ này ứng với các ngày trong năm, nên một vòng tròn có 365 và ¼ độ. Vào đầu Công nguyên họ cũng tính ra độ dài của 1 cung kinh độ là khoảng 155km, đến đời Đường (thế kỷ VII) họ tính lại là 123.7km (thực tế khoảng 111km).Thiên văn Đông Phương cho rằng tâm điểm là Bắc Thần tức Tiểu Hùng Tinh ngày nay, là Hạo Thiên Thượng Đế, càng ở trong càng quý, càng ra bên ngoài thì càng hèn, và tổ chức thiên văn cũng như tổ chức triều đình dưới thế. Vua dưới trần có nội cung, có triều đình, có cung quán và lãnh thổ quốc gia, thì Hạo Thiên Thượng Đế cũng có Tử Vi Viên tức là nội cung với thê tử, Thái Vi Viên là triều đình luận sự, Thiên Thị Viên tức là lãnh thổ quốc gia.Mặt trời, mặt trăng, và ngũ tinh chẳng qua là những vì sao nhỏ, xoay vần trên vòng Hoàng Đạo, trên 12 cung Hoàng Đạo, qua 28 quán xá trời mây hay 28 chòm sao mà ta thường gọi là Nhị thập bát tú, để mà tạo nên tứ thời bát tiết, tạo nên thời gian thiên nhiên và thời gian lịch sử cho nhân quần.Sông Ngân Hà <a href="http://nhantu.net/BienKhaoTongQuat/ThienVan/ThienVan8.htm#T%E1%BB%AD%20Vi%20Vi%C3%AAn">Tử Vi Viên: Tử Vi Viên tức là nội cung, gồm 54 chòm sao. Ta thấy Thiên Hoàng Đại Đế ngự ở ngôi Bắc Thần. Có Câu Trần làm cận vệ, có Đế Tọa (Thiên Đế Tinh), có Thiên Sàng, có lọng che (Hoa Cái và Giang), lại có các Hậu Phi, Thái Tử, các Thứ Tử, các công chúa (Ngự Nữ). Điểm qua hàng phụ tá, ta thấy có: Tứ Phụ, Thượng Thư, Trụ Sử (Ngự sử), Đại Lý, Tam Sư, Tam Công (tương ứng với 3 vị quan lớn trong triều vua dưới trần gian: Tư Đồ, Tư Không, Thái Úy), Tướng, Tam Thai, Văn Xương, Thái Tôn, Thiên Ất, Thái Ất, Lục Giá, Thái Dương Thủ, Truyền Xá. Ngoài ra còn có: Thiên Trù, Nội Trù, Thiên La, Tả Khu. Hữu Khu.Và nhất là chiếc xe trời Đế xa gồm 7 vì sao Bắc Đẩu - Đại Hùng Tinh: (1) Khu Tinh (Tham Lang), (2) Tuyền Tinh (Cự Môn), (3) Kỵ Tinh (Lộc Tồn), (4) Quyền Tinh (Văn Khúc), (5) Hành Tinh (Liêm Trinh), (6) Khai Dương (Vũ Khúc), (7) Giao Quang (Phá Quân).Tử Vi ViênThái Vi Viên:là chỗ Thượng Đế thiết triều. Ở giữa có Ngũ Đế Tòa chỗ ấy là ngai Thượng Đế (Hoàng Đế). Đàng sau ngai Đế Tòa, ta thấy: Thái Tử và các cận vệ như: Hạnh Quan, Tòng Quan, Hổ Bí, Thường Trần, Lang Tướng, Tam Thai, Lang Vị. Hai bên tả hữu phía trước ngai lại giàn ra hai hàng văn võ: Thượng Tướng, Thứ Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng, Tả Chấp Pháp, Hữu Chấp Pháp. Nơi sân rồng ta thấy bức bình phong (Nội bình) và sự hiện diện của: Cửu Khanh, Tam Công, Chư Hầu, Yết Giả. Xa hơn nữa, ta thấy có cửa Đoan Môn, toà Minh Đường, tòa Linh Đài cùng với bức tường ‘Trường Viên’ của triều đình Thiên Quốc. Thái Vi Viên gồm 29 sao hay chòm sao.Thái Vi ViênThiên Thị Viên:Còn gọi là Hạ Viên trong Tam Viên, đặc biệt có các chòm sao mang tên các nước thời Chiến Quốc. Do 2 hàng rào vây quanh, mỗi hàng rào gồm 11 ngôi sao chính, ở 2 phía Đông (Tả Viên) và Tây (Hữu Viên) hợp thành, tượng trưng cái “chợ trên trời”. Đế Tòa cư ở bên trong, có 22 vị quan hoặc chư hầu vây quanh. Cửa Thiên Thị nằm giữa hai sao ở phía Nam. Khu Thiên Thị Viên gồm 19 chòm sao: Lưỡng Viên, Thị Lâu, Xa Tứ, Tông Chính, Tông Nhân, Tông, Bạch Đạc, Đồ Tứ, Hầu, Đế Tòa, Hoạn Giả, Liệt Tứ, Đấu, Hộc, Quán Sách, Thất Công, Thiên Kỷ, Thiên Sàng, gồm 87 ngôi sao chính.Thiên Kỳ Đình tên chòm sao gồm 22 ngôi, tức hai hàng rào của Thiên Thị Viên. 11 ngôi ở hàng rào phía đông (Tả Viên) tính từ phía nam là: Tống, Nam Hải, Yên, Đông Hải, Tử, Ngô Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 ngôi ở hàng rào phía tây (Hữu Viên) tính từ phía nam là: Hành Sở, Lương, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà Gián, Hà Trung.Thiên Thị ViênTừ điển văn hóa Trung Quốc, tác giả Nghiêm Tôn NhanTrung đạo tức Hoàng đạo, còn gọi là Quang đạo, đường vận hành trong một năm của mặt trời giữa các hằng tinh mà ta nhìn thấy. Hán thư - Thiên văn chí: "Mặt trời có Trung đạo". Mặt trăng và ngũ tinh cũng vận hành gần Trung đạo. Thời cổ nói Trung đạo phía bắc đến sao Tỉnh, phía nam đến sao Ngưu phía đông đến sao Giốc, phía tây đến sao Lâu; tiết Hạ Chí đến sao Tỉnh, tiết Đông Chí đến sao Ngưu, tiết Xuân Phân đến sao Lâu, tiết Thu Phân đến sao Giốc. Căn cứ mặt trời, mặt trăng và Ngũ tinh vận hành theo Trung đạo mà xác định bốn mùa, dự đoán khi hậu. Thời cổ cũng có khi gọi Trung đạo là Quỹ đạo. Thiên Hán: tức Ngân Hà, còn gọi là Thiên Hà, Ngân Hán hoặc Hán Tân. Là hệ sao do rất nhiều hằng tinh hợp thành. Thời cổ thấy nó có hình dạng một dải mây sáng, nên gọi là Hà (dòng sông tượng dòng sông trên trời. Thời cổ cho rằng nó khởi nguồn tử phương đông, qua đuôi sao Ki thì tách ra hai nhánh nam bắc; nhánh nam đi qua các sao Phó Thuyết, Ngư, Thiên Thược, Thiên Bôn, Hà Cổ; nhánh bắc đi qua các sao Quy, sao Ki, Nam Đẩu Khôi, Tả Kỳ, đến dưới sao Thiên Tân thì hợp với nhánh nam mà chảy về phía tây nam, vòng sao Qua, qua sao Nhân, sao Chử, Thiên Thuyền, Quyển Thiệt; rồi đi về phía nam, qua Ngũ Xa, Bắc Hà Nam, nhập vào vị trí sao Tỉnh mà chảy ra đông nam, cuối cùng chìm lẫn vào sao Thất Tinh. Thuật chiêm tinh thường căn cứ vị trí của Thiên Hán qua chòm sao nào mà xem tượng, dự đoan nhân sự.Dải Ngân Hà ban đêmSông Ngân Hà vắt ngang theo chiều Tí Ngọ. Cát Hồng Bão Phác Tử viết: Sông Ngân Hà nơi gần Bắc Cực chia thành hai nhánh, và từ đó vắt sang Nam Cực. Một nhánh qua chòm sao Nam Đẩu, một nhánh qua chòm sao Đông Tỉnh. Gustav Schlegel cho rằng quả thực cách đây 18.500 năm sông Ngân Hà đã có vị trí như trên, và sách chiêm tinh học đều ghi chép như vậy. Tuy nhiên, vì sự chuyển dịch ngày nay chỗ sông Ngân Hà chẻ nhánh đã xa Bắc Cực nhiều. Khoảng gần Bắc Cực, sông Ngân Hà có một chỗ khô “có thể lội qua” gọi là Thiên Tân (bến trời) thuộc các chòm sao Ngưu, Đẩu, vì thế Thiên Tân còn có một tên là Cách Tinh. Cách là đến, Tân là qua.Bắc Cực: Còn gọi là Bắc Thần, chỉ ngôi sao ở sát Bắc cực. Trong lịch sử, từng lấy sao Đế làm sao Bắc Cực (như Thiên quan thư). Sau lấy sao Nữu làm sao Bắc Cực. Chòm sao Bắc Cực gồm 5 ngôi: Thái Tử, Đế, Thứ Tử, Hậu, Nữu hoặc Bắc Cực. Sao thứ 5, sao Nữu, còn gọi là sao Thiên Khu. Tùy thư - Thiên văn chí: "Trời vận động không ngừng, Tam Quang đổi ngôi, riêng sao Cực không xê dịch, nên nói mọi ngôi sao đều hướng về chỗ nó". Tượng trưng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vương. Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã được Kinh Thư đề cập đến khi nói rằng (vua Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.Chòm sao Tiểu Hùng Tinh tức chòm sao Gấu Nhỏ, nó quan trọng vì nó chứa sao Thiên Cực Bắc (Bắc Cực, Bắc Thần) là ngôi sao duy nhất đứng yên trên bầu trời. Đường nối từ Trái Đất tới sao Bắc Cực được gọi là Thiên trục và người xưa quan sát mọi tinh tú quay quanh Thiên trục này. Thiên trục bản thân lại không cố định mà nó có chuyển động theo một hình nón gọi là tiến động (tuế sai). Hình chóp này có đỉnh là trái đất và đáy thì quét thành một vòng tròn nhỏ đi qua các chòm sao Thiên Vương, Thiên Nga, Thiên Cầm, Vũ Tiên, Thiên Long. Hiện giờ, sao Bắc Cực đang nằm ở trong chòm Tiểu Hùng Tinh, 2.000 năm nữa sẽ ở chòm sao Thiên Vương, 8.000 năm nữa sao Bắc Cực sẽ ở chòm sao Thiên Nga, 10.000 năm nữa ở chòm sao Thiên Cầm,... một chu kỳ như vậy thiên văn phương Tây tính được xấp xỉ 26.000 năm, còn thiên văn phương Đông theo môn Thái Ất tính ra là 25.920 năm, sai số giữa hai nền thiên văn khoảng 80 năm.Mặt trời di chuyển trên Hoàng ĐạoNhị thập bát tú: tức là 28 quán xá trời để cho mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh chuyển vận lại qua. Nhị thập bát tú theo từ nguyên, vừa có ý nghĩa luân lý, vừa có mục đích mô tả lại công việc một năm của nhà vua. Ví dụ: Giác là vạn vật bắt đầu sinh. Vạn vật sinh ra rồi thì phải định tông miếu lễ nghĩa (Cang), v.v. Giác là đầu mùa xuân, cũng là sừng để tung lòng trời, lòng đất mà nhô lên. Giác có phụ tinh là Thiên Điền, vì đầu xuân vua ra đồng để cấy một luống tượng trưng… Nhị thập bát tú gồm 4 nhóm sao lớn và được xếp theo vòng vận động trời đất là Đông - Bắc - Tây - Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long - Huyền Vũ - Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là: Giác - Cang - Đê - Phòng - Tâm - Vĩ - Cơ - Đẩu - Ngưu - Nữ - Hư - Nguy - Thất - Bích - Khuê - Lâu - Vị - Mão - Tất - Chủy - Sâm - Tỉnh - Quỷ - Liễu - Tinh - Trương - Dực - Chẩn.Tứ LinhThiên đồ vùng phụ cận Bắc CựcNgười xưa còn chia vòng Hoàng Đạo ra làm 12 cung, so sánh với những tên tương ứng theo cung thiên văn phương Tây:A (Xưa) C D E F SửuTinh KỷMa YếtĐẩu, Ngưule GénitalTíHuyền HiêuBảo BìnhNữ, Hư, Nguyle GerminalHợiThú Tư Song NgưThất, Bíchl’AréalTuấtGiáng Lâu Bạch DươngKhuê, Lâul’InitialDậuĐại Lương Kim NgưuVị, Mão, Tấtl’AgitatoireThânThật Trầm Song TửChủy, Sâmle CloturalMùiThuần Thủ Cự GiảiTỉnh, Quỉle CollisalNgọThuần Hỏa Sư TửLiễu,Tinh, Trươngle PructidorTỵThuần Vĩ Thất NữDực, Chẩnle MessidorThìnThọ Tinh Thiên XứngGiác, CangVendemiaireMãoĐại Hỏa Thiên YếtĐê, Phòng, Tâmle SicaireDầnTích Mộc Nhân MãVĩ, Cơle RéfugiaireNhị thập bát tú mang nhiều ý nghĩa văn hóa, chẳng hạn chòm sao Khuê tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quý của văn học, ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê), trong chòm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải chòm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học.Mô hình vũ trụ thu nhỏTrích Thiên văn lịch pháp phương Đông, Trần Văn TamTrong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất). Thất Chính:Thất Chính gồm: Mặt trời (Thái Dương); Mặt trăng (Thái Âm); và Ngũ tinh: Kim Tinh (Thái Bạch); Mộc Tinh (Mộc Đức); Thủy Tinh (Thủy Diệu); Hỏa Tinh (Vân Hán); Thổ Tinh (Thổ Tú). Hỏa, Mộc, Thổ: Dương (chủ ngoại) và Kim, Thủy: Âm (chủ nội)Người xưa quan sát tinh tượng từ trái đất và bằng mắt trần, nên thấy các hành tinh có những đường lối hết sức là phức tạp, lắt léo, lúc tiến lúc lui, lúc đi lúc đứng, lúc hiện lúc ẩn, lúc ấp lúc trì; ánh sáng cũng tùy theo thời tiết, tùy theo các lớp mây lớp mù mà biến sắc, do đó họ cho là các vì sao biết giận biết vui như con người, tiến thì hay, thoái thì dở…Các hành tinh Thổ, Mộc, Kim:Các hành tinh Kim, Thủy:Người xưa muốn xem điềm trời lành dữ ứng vào nước nào, bèn chia Trung Quốc và các nước chư hầu thành những miền ứng với một chòm sao nào đó của Nhị thập bát tú, cách đó gọi là Phân dã. Như vậy trời trở thành một trạm thám sát cho nhà vua để vua trông lên trời mà biết tình hình từng phương, từng xứ dưới trần gian… ví dụ, nước Việt Nam theo Hán Thư Thiên Văn Chí thì ứng vào sao Dực Chẩn, theo Tấn Thư Thiên Văn Chí thì ứng vào chòm sao Ngưu Nữ. Bảng tóm tắt Phân dã theo cuốn Nghiên cứu tính mệnh học - từ thuyết phân dã đến các khoa mệnh lý, tác giả Nguyễn Anh Vũ, Nxb Thời Đại, 2010Phân dã theo Sử Ký - Thiên quan thưGiác, Khang, ĐêDuyện ChâuPhòng, TâmDự ChâuVĩ, CơU ChâuĐẩu Hồ Châu Ngưu, NữDương ChâuHư, NguyThanh ChâuThất, BíchTịnh ChâuKhuê, Lâu, VịTừ ChâuMão, HoaDực ChâuChủy, ThamÍch ChâuTinh, QuỷUng ChâuLiễu, Tinh, TrươngTam HàDực, ChẩnKinh ChâuKhảo sát về thiên văn học cổ phương Đông, ta thấy các nhà thiên văn chẳng những muốn nghiên cứu sự vận chuyển các vì sao, mà còn muốn đem tâm tư con người mà điểm xuyết cho các vì sao, làm cho bầu trời trăng sao trở thành một thiên đình linh động, thành một triều đình được tổ chức như trần thế. Sau cùng, đem gắn liền hoạt động các vì sao vào công việc, vào số mệnh và sự hưng vong họa phúc của dân nước. Chúng ta cũng nhận thấy tên các nước lớn trong thời Chiến Quốc sau khu nhà Chu tan rã đều có tên trong các ngôi sao này, đặc biệt Ba và Thục là hai cái tên riêng thể hiện là hai nước riêng biệt, theo sách Hoa Dương Quốc Chí của Thường Cứ đời Tấn. Theo Việt Nam và cội nguồn trăm họ của Bùi Văn Nguyên, thì hai nước cùng một gốc, vùng Hoa Dương, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay. Trên bản đồ Thiên Thị Viên, chúng ta không thấy nước nào tên là Hán cả. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Hán là tên nước do Lưu Bang lập ra sau khi chiến thắng Hạng Vũ, vua nước Sở, thu phục toàn bộ lãnh thổ. Hán Cao Tổ là hậu duệ của Nghiêu, Thuấn. Ngoài ra, một số nước như Tần, Sở, Hán cũng được đặt tên trong nội dung bức tranh thờ dân tộc Thập Điện Diêm Vương của Đạo giáo. Đến thời nhà Chu, đất đai được phân phong 72 nước nhỏ, chứng tỏ các nước có tên trong các chòm sao là các bộ tộc lớn, đến khi phát triển, mâu thuẫn xã hội nảy sinh, dẫn đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc chỉ tồn tại các nước lớn, đủ thực lực mà thôi. Như vậy, toàn bộ Trung Quốc cổ phía Bắc sông Dương Tử và Lạc Việt đều có chung một nguồn gốc trước thời vua Đế Nghi là Đế Minh tức Khương Thượng, Khương Tử Nha. Đến thời Đế Minh, đất nước được chia làm 2 phần, phía Bắc do Đế Nghi làm vua và phía Nam do Lộc Tục nắm giữ như truyền thuyết Hồng Bàng Thị. Hầu hết các gia phả đều nói nước ta thuộc phân dã của hai sao Ngưu, Nữ làm giới cận, hàm ý việc phân chia lãnh thổ đã bao hàm cả việc phân chia theo địa lý và định ranh giới theo thiên văn rồi. Ngưu, Nữ thuộc chòm sao Huyền Vũ, vậy thì bảng phân dã chỉ cho toàn bộ khu vực phía Bắc Dương Tử, giao Bắc Nam chính là dòng sông Dương Tử thuộc phân dã của chòm sao Ngưu và Nữ. Cha ông ta đã lấy tên hai sao này xây dựng nên một câu chuyện cổ tích tuyệt vời Ngưu Lang Chức Nữ được mô tả qua bức tranh dân gian Đông Hồ Chàng Ngưu ả Chức hai người hai ở bên sông Ngân Hà theo quyết định của Ngọc Hoàng Thượng Đế, hàng năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày mưa Ngâu mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Dòng sông Ngân Hà trên trời tương ứng với dòng sông Dương Tử dưới mặt đất, như vậy Thiên Thị Viên thuộc vùng phía Bắc Dương Tử và Thái Vi Viên Thuộc Nam Dương Tử, và Tử Vi Viên chính là trung tâm của Bắc Nam với sao Bắc Thần.Các chòm sao Bắc bán cầu và Nam bán cầuẢnh tham khảo Văn Xương Đế QuânTrên trời, Thái Cực hay Tuyệt Đối thể trở thành Thiên Hoàng Thượng Đế, ngự ở tòa Bắc Thần, làm khu nữu cho muôn vị tinh tú, còn vòng Dịch có thể tượng trưng bằng vòng Nhị thập bát tú bên ngoài. Chúng ta cũng đã biết chòm sao Bắc Cực (Tiểu Hùng Tinh) là chòm sao biểu tượng của Hùng Quốc Vương và chòm sao Nam Tào (Nam Cực) biểu tượng của Lạc Long Quân, do vậy chòm sao Văn Xương trong Tử Vi Viên không thể là Lạc Long Quân hoặc Hùng Quốc Vương được. Văn xương là tên một chòm sao gồm sáu ngôi, thuộc khu vực Tử Vi Viên. Để xác định chòm sao Văn Xương tương ứng với vị thần cụ thể nào, chúng ta hãy cùng xem xét các công trình kiến trúc tôn giáo định vị kinh thành Thăng Long, đó chính là Thăng Long Tứ Trấn. Thăng Long Tứ trấn bao gồm đền Bạch Mã trấn phía Đông, đền Voi Phục trấn phía Tây, đền Kim Liên trấn phía Nam và đền Quán Thánh trấn phía Bắc. Bốn ngôi đền thờ bốn vị thần bảo vệ đất kinh kỳ đã tồn tại từ bao đời nay trong tâm tưởng người dân Việt.Thăng Long Tứ Trấn Tham khảo Đền Bạch Mã: Đền Bạch Mã xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức - là cửa sông Tô Lịch thông với sông Hồng - hai dòng sông huyết mạch của Hà Nội cổ; nay tọa trên phố Hàng Buồm. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, hay còn gọi là Tô Lịch giang thần, thành hoàng Hà Nội gốc. Theo truyền thuyết, khi vua Lý Công Uẩn định đô Thăng Long (năm 1010), xây thành mà cứ bị sụt lở, nhà vua tới đây cầu lễ và lạ thay, một buổi sáng chợt thấy có ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, chạy đến đâu để dấu chân đến đấy rồi trở lại đền và vụt biến mất. Vua Lý cứ theo vết chân ngựa mà xây, thành không lở nữa. Thành xây xong, nhà vua xuống chiếu cho chúng dân Thăng Long phong thần Long Đỗ làm thành Hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Từ đấy, ngựa trắng là một biểu tượng thiêng liêng của đền.Đến đời Vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 22 (1314) bao phong Vương hiệu cho Thần. Hồi đó ở cạnh đền, nhà cửa san sát, có ba lần hỏa hoạn mà đền không bị thiêu hủy, có câu đối là:Thụy khí trác tiên cung, não sát Chúc Dung tam độ hỏa,Thần bang thể trượng, đảo tan Đô hộ vạn cân Kim.Khí lành rực tiên cung, dập tắt Chúc Dung ba đợt lửa,Oai Thần phù vẻ đẹp, nghiền tan Đô hộ vạn cân vàng. Tác giả Nhữ Công Chân. Đền Voi Phục: Đền còn có tên là Thủ Lệ hay Linh Lang do thờ thần Linh Lang Đại Vương. Đền nằm phía Tây kinh thành Thăng Long cũ, tọa lạc bên hồ Thủ Lệ, nay thuộc phường Cầu Giấy.Theo Thần tích đức Linh Lang Đại vương và sách Đại Nam nhất thống chí, Linh Lang là con trai thứ tư của Vua Lý Thánh Tông. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, hoàng tử nhỏ vươn mình trở thành một dũng sĩ cưỡi voi xung trận, diệt tan quân xâm lược. Sau chiến thắng, bỗng nhiên hoàng tử lâm bệnh, vua cha đến thăm, chàng cho biết mình không phải là người trần rồi biến thành con giao long trườn xuống hồ Dâm Đàm và biến mất. Vua cho lập đền thờ, phong là Thượng đẳng thần. Đền Kim Liên: thờ Cao Sơn Đại Vương; trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa. Theo tín ngưỡng dân gian, Cao Sơn Đại Vương là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau theo mẹ lên núi. Còn tài liệu lưu giữ tại đền ghi chép, đền được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tổ ngay khi vị hoàng đế này rời đô tới Thăng Long.Tương truyền Thần đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh và sau này lại giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê. Do đó vua Lê cho xây đền, dựng bia để hương khói phụng thờ. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa. Lễ hội đền Kim Liên mở vào ngày 16-3 âm lịch hàng năm.Di vật quan trọng nhất tại đình Kim Liên là tấm bia đá Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh do sử thần Lê Tung soạn năm 1510 nói về công lao của thần Cao Sơn trong việc ngầm giúp vua Lê giành lại ngai vàng từ tay ngoại thích và hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620)Đền Quán Thánh:Đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ - một vị thần trấn giữ hướng Bắc kinh thành. Đời Lê, đền thuộc phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía Nam Hồ Tây, nay ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh.Theo sử sách, Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương Bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái phá hoại đời sống yên lành vùng chung quanh thành Thăng Long: trừ cáo chín đuôi ở Tây Hồ; giúp vua An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa; diệt hồ ly tinh trên sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông... Đền Quán Thánh được xây dựng vào những năm đầu khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Năm 1823, Vua Minh Mạng lên ngôi đổi tên là Trấn Vũ Quán. Đến đời vua Thiệu Trị năm 1842, đổi tên là đền Quán Thánh như hiện nay. Chính hội vào ngày 3/3 âm lịch.Trần Quốc Vượng cho rằng, ngựa trắng là biểu tượng thần thoại của mặt trời, ngựa trắng từ đền ra, đi một vòng từ Đông sang Tây rồi lại quay về, đó là biểu tượng cho sự vận động biểu kiến của mặt trời. Theo đạo Hindu Ấn Độ, Thần mặt trời cưỡi trên chiếc xe được kéo bởi 7 con ngựa trắng.Thần mặt trời Surya, đạo HinduTranh tham khảo mạng Internet Căn cứ vào hình ảnh Tứ Linh, biểu tượng cho bốn phương trời ứng với Nhị thập bát tú, phía Đông ứng con Rồng biểu tượng của vua Kinh Dương Vương, phía Nam ứng chim Phượng hoàng biểu tượng của vua Đế Minh, phía Tây ứng Kỳ lân biểu tượng của Hùng Quốc Vương và phía Bắc ứng con Rùa biểu tượng của vua Lạc Long Quân. Mặt khác, theo bài viết Những người họ Đỗ 5.000 năm trước, tác giả Đỗ Tòng: “Cụ Bà Hương Vân Cái Bồ Tát, Đỗ (Quý thị), húy là Ngoan, còn gọi là Công chúa Đoan Trang. Tục truyền Cụ là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm (cụ Long Đỗ về sau còn được gọi là Thần Bạch Mã, một trong Tứ trấn Thăng Long thành, thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội)”. Như vậy, đã có những sự khác biệt trong dữ liệu lịch sử, cho nên cần phải xem xét thêm. Để làm rõ Thăng Long Tứ Trấn, chúng ta tham khảo Tứ Trấn của kinh đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình thời vua Đinh Tiên Hoàng (924-979). Đinh Tiên Hoàng Tranh dân gian Đông Hồ, Việt NamBức tranh trên miêu tả một đoạn trong truyền thuyết mang tính huyền thoại lúc ngài bị người chú cầm gươm đuổi, do dám giết trâu của chú khao các trẻ mục đồng. Ngài nhảy xuống sông để trốn, tưởng chết đuối, nhưng một con rồng vàng xuất hiện cõng ngài sang bên kia sông. Người chú thấy vậy sợ hãi, cắm thanh gươm xuống đất vái lạy một người có chân mệnh thiên tử (trích Minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, Nguyễn Vũ Tuấn Anh)Trấn Đông Thần Thiên Tôn: Thần Thiên Tôn là vị thần trong truyền thuyết trấn phía Đông. Tương truyền, trước khi đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã mang lễ vật vào tế lễ trong động để mong được thần giúp đỡ đánh tan các sứ quân khác. Sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đóng đô ở Hoa Lư, ông đã cho xây cất nhà tiền tế và kính thiên đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi vào kinh đô. Theo các thần tích đình làng Bích Đào, làng Đại Phong, thì thần Thiên Tôn là vị thiên thần, nguyên là hoàng tử, do hoàng hậu nằm mộng thấy nuốt mặt trời, có thai rồi sinh ra ngài vào ngày mồng 3 tháng Ba năm Khai hoàng thứ 25 (năm 625), gọi là Huyền Nguyên. Lớn lên hoàng tử dũng mãnh hơn người, đi khắp thiên hạ, vào núi Dũng Dương, Hoa Lư tu luyện 42 năm, khi đắc đạo có thể bay lượn, biến hóa, trừ tà ma quỷ quái. Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho thanh kiếm Tam Thai Thất tinh và phong làm Bắc Phương Trấn Vũ đại tướng quân. Sau phóng gươm ở dưới núi Cánh Diều, Ninh Bình mà hóa. Năm 938, Cao Đô Đường Thái sư xây đền ở cửa động Thiên Tôn, tạc tượng tay chống bảo kiếm, chân đạp lên rùa rắn và ban sắc phong là Trấn Vũ An Quốc đại vương. Đinh Tiên Hoàng khởi nghĩa ở động Hoa Lư được hai tướng rùa, rắn của thần giúp sức nên được sắc phong là An Quốc hoàng đế.Trấn Tây Thần Cao Sơn:Theo như thần phả các đền thờ Cao Sơn ở vùng phía Tây Ninh Bình như: đền Núi Hầu, Yên Thắng - Yên Mô, đền Quèn Thờ, Đông Sơn - Tam Điệp, đền Sơn Thần Gia Thủy - Nho Quan và đền Cao Sơn khu núi chùa Bái Đính thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh Hùng Quốc Vương đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang Lang (cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân sinh sống và bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ.Trấn Nam Thần Quý Minh:Thần Quý Minh hay thánh Quý Minh đại vương là tên gọi của một vị thần trong truyền thuyết Việt Nam. Theo tín ngưỡng Việt Nam, Sơn Tinh, Thần Cao Sơn và thần Quý Minh là những hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tức em của Hùng Quốc Vương. Tuy nhiên, khác với hai vị thần núi kia được thờ ở những vùng núi cao, thần Quý Minh thường được coi là vị thổ thần, thủy thần và thờ phụng ở những vùng trũng hoặc đồng bằng. Theo truyền thuyết dân gian xứ Sơn Nam, Đức Thánh Quý Minh Đại Vương là một vị thủy thần, là người có công trấn giữ vùng chiêm trũng ải Sơn Nam, bảo vệ đất nước thời vua Hùng Duệ Vương (vua Hùng Vương thứ XVIII). Người là một “Thượng đẳng thần”, được các nhà vua qua nhiều triều đại ban sắc phong, được nhân dân khắp xứ này thờ phụng. Đền chính được Vua Đinh Tiên Hoàng cho xây dựng tại thành Nam (Trường An) ở cố đô Hoa Lư, sau vua Trần Thái Tông cho xây dựng lại với quy mô như ngày nay.Trấn Bắc Đức Thánh Nguyễn: Đức Thánh Nguyễn lại là danh nhân sinh ra trên quê hương vua Đinh Tiên Hoàng và có công gây dựng, tu tạo nhiều di tích trong cố đô Hoa Lư nên ông được coi là vị Thánh trấn Bắc Hoa Lư. Tên gọi thông dụng nhất của ông là Lý Quốc Sư, là tên gọi chức danh pháp lý cao nhất của thiền sư, pháp sư Nguyễn Minh Không. Tên gọi này để chỉ ông là một cao tăng có chức vị đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là ông tổ nghề đúc đồng. Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành sinh tại xã Đàm Xá, phủ Tràng An (xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình). Khi tu hành đắc đạo, ông trở về quê nhà dựng nhiều chùa như chùa Viên Quang, chùa Địch Lộng, chùa Am Tiên, chùa Bái Đính để tu hành, lấy vị hiệu là Minh Không. Là một nhà sư tài danh lẫy lừng, Ông đã được coi là thần y khi chữa bệnh "hóa hổ" cho vua Lý Thần Tông. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.”Qua thần tích Thần Thiên Tôn trấn Đông kinh thành Hoa Lư, sự kiện hoàng hậu nuốt mặt trời là một chi tiết đáng chú ý, và ngài mang tên Thiên Tôn cũng chứng tỏ hình ảnh của trời nhưng đoạn sau ghi nhận Thiên Tôn là Huyền Thiên Trấn Vũ - vị thần trấn Bắc là không hợp lý. Như vậy, kết hợp xác sự kiện chúng ta nhận định chắc chắn trấn Đông kinh thành Thăng Long là vua Kinh Dương Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Chúng ta sắp xếp lại:Thăng Long Tứ trấn Đền Quán Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ - Lạc Long Quân - Rùa Đền Voi phục Linh Lang Đại Vương - Hùng Quốc Vương - Kỳ lân Trung ương ??? Đền Bạch Mã Long Đỗ đại vương - Kinh Dương Vương? - Rồng Đền Kim Liên Cao Sơn đại vương - Đế Minh - Phượng hoàng Như vậy thì tại sao có sự khác biệt trong nhận định? Chúng ta thấy Thăng Long Tứ Trấn bảo vệ kinh thành Thăng Long - trung tâm quốc gia, như vậy phải chăng còn một “Ngũ Trấn” nữa ở giữa kinh thành?. Trong các bộ tranh thờ dân tộc miền Bắc Việt Nam có bộ tranh Ngũ Phương Yết Đế (Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần) - đây là năm vị Thánh cai quản năm phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và trung tâm. Mặt khác, chúng ta nhận thấy trong quá trình lịch sử, vua Lý Nam Đế đã cho xây ngôi chùa Trấn Quốc bên cạnh Hồ Tây ghi dấu nước Việt hưng quốc, và sau này nhà Lý xây tháp "Đại Thắng Tư Thiên" Hay còn gọi là tháp Báo Thiên 12 tầng, thuộc ngôi chùa "Sùng Khánh Báo Thiên" - một trong Tứ đại pháp khí của Đại Việt vào năm 1057. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ "Đao Ly Thiên," thể hiện ý chí vươn lên tận trời cao cho nên tháp Báo Thiên luôn được coi là "Kình Thiên Trụ" (Cột chống trời) của kinh đô Thăng Long. Nhà thơ - tể tướng đời Trần là Phạm Sư Mạnh đã có bài thơ rất hay, tả lại cây tháp với hình tượng thật hoành tráng: Giữ vững kinh đô, trấn Tây Đông,Sừng sững vươn cao vượt núi sông.Chống trời một cột yên đất nước,Mũi nhọn xưa nay chẳng hề cong! Không chỉ vậy, chúng ta cũng còn phải xét đến việc thờ Ông Trời trong dân gian với một bàn thờ không có bài vị, hình ảnh mà chỉ có một lư hương, còn đối với triều đình đó là điện Kính Thiên. Trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, chúng ta cũng nhận thấy trục tâm trống thể hiện ý nghĩa Trục vũ trụ, đồng thời trong Chương VIII: KIM CƯƠNG BẤT HOẠI, chúng ta sẽ thấy Ngọc Hoàng Thượng Đế ở trung tâm của Kim Cương Giới trong Mật Tông Tây Tạng hay ở vị trí trung tâm của điện Đại Hùng của một ngôi chùa. Không chỉ vậy, chúng ta còn thấy Trung Quốc có Ngũ Nhạc, tức năm ngọn núi thiêng, nơi thờ các vị Thánh của quốc gia. Kết hợp tất các dữ liệu trên, chúng tôi khẳng định trấn Nam vẫn chính là Thần Long Đỗ Đại Vương hay còn gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình - Long Vương, cha của bà Hương Vân Cái Bồ Tát theo ghi nhận trong cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, tác giả Nhóm nghiên cứu thời tiền sử là chính xác. Vua Cha Bát Hải Động Đình - Long Vương còn được chính thờ tại đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Thần Long Đỗ Hậu điện đền Bạch Mã, Hà Nội Hệ quả là trung tâm kinh thành Thăng Long được bảo vệ chắc chắn bởi Ngọc Hoàng Thượng Đế - vua Kinh Dương Vương ở tại nơi nào? Chính là điện Kính Thiên. Nơi tôn thờ Trời của triều đình, đại diện là vị vua của một quốc gia, mà thời xưa các vị vua thường xưng là Thiên Tử, tức “con Trời”. Điện Kính Thiên Ảnh và bản đồ tham khảo Mặt khác, kinh thành cũng phải có một nơi thờ Trời cho nhân dân, điều đó không gì khác hơn chính là một ngôi chùa thời Hùng Vương, trong cuốn tiểu thuyết Phong Thần, Bồ Tát Nguyễn Minh Không cũng viết Tam giáo hợp nhất là rất quan trọng nhưng trong “ba” thì có “một” quan trọng nhất, dĩ nhiên đó là Phật giáo. Do vậy, ngôi chùa đại diện nằm trong kinh thành Thăng Long là ngôi chùa nào? Chúng tôi tạm chỉ nhận định là chùa Trấn Quốc thời Lý Nam Đế, mà trong cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Chí, Bồ Tát Nguyễn Minh Không có nhấn mạnh ngôi chùa này. Còn nếu chúng ta muốn xem xét trở lại vào thời Hùng Vương, thì hiện thời chưa thể xác định được chính xác, đó là ngôi chùa nào. Trong các ngôi đền cổ của kinh thành Thăng Long, còn một ngôi đến gắn với nhiều truyền thuyết mang màu sắc huyền bí, đó là đền Kim Ngưu tại Hồ Tây, chúng ta hãy cùng xem lại truyền thuyết Trâu vàng hồ Tây ở chương I: KIM CỔ TIÊN TRI. Đây là một truyền thuyết văn hóa của các tộc Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà có phong tục đúc hình con trâu bằng kim khí để trấn yểm. Theo sách Từ Nguyên thì do lẽ đó mà nhiều nơi ở Nam Trung Quốc hiện nay có tên Kim Ngưu. Tỉnh Tứ Xuyên có một hẻm núi tên là eo Kim Ngưu, ở thành phố Vũ Xương có gò Kim Ngưu, ở Thường Châu, Giang Tô có đầm Kim Ngưu, ở Triết Giang, thành phố Hàng Châu có Tây Hồ cực kỳ đẹp cũng gọi là Kim Ngưu hồ, có thể thấy rằng ở khu vực từ Trường Giang đổ xuôi xuống Nam thời cổ sơ có tục đúc Trâu đồng để trấn yểm. Tục đó ở mỗi địa phương được giải thích theo tín ngưỡng của từng tộc người cũng như điều kiện lịch sử từng thời điểm. Như ở hồ Tây Việt Nam, Trâu Vàng được coi là Thần trấn áp cáo chín đuôi từ thời Lạc Long Quân, các điển tích khác nói quê quán là núi Tiên Du chạy sang Hà Nội, hoặc có gốc từ bên Trung Quốc nhưng sang tìm mẹ ở đất Việt. Đền Kim Ngưu Hà Nội, Việt Nam Mười đứa con trai thể hiện độ số 10 của hành Thổ, trung tâm của Hậu Thiên Bát quái phối Hà Đồ và cũng là hình ảnh của “con trâu”. Trong đạo Bà La Môn, con bò đực là vật cưỡi của thần huỷ diệt Shiva, trong bách thần Ai Cập thì con bò cái cũng là biểu tượng của nữ thần Hathor, tương đương Hương Vân Cái Bồ Tát. Trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM cũng đã nhận biết con trâu là biểu tượng của Đế Minh và con bò là biểu tượng Hương Vân Cái Bồ Tát, vậy thì đền Kim Ngưu với truyền thuyết về Trâu vàng hồ Tây chính là đền thờ vua Đế Minh.Bản đồ địa danh Tham khảo bản đồ, tác giả Bùi Dương Hải Các địa danh Lạn Kha, Tiên Du còn gợi lên những huyền thoại người gặp tiên được lưu truyền hàng ngàn năm nay. Lạn Kha có nghĩa là “cái rìu mục”, ghi lại điển tích Vương Chất lên núi đốn củi gặp hai vị tiên đánh cờ, mải mê xem không hay rằng cán búa bị mục nát từ bao giờ, vì thời gian trên trần thế đã trôi qua đến bảy đời. Trên núi Lạn Kha nay còn có tảng đá vuông, mặt phẳng tương truyền là bàn cờ tiên. Trong truyện Tây Du Ký và Tùy Đường Diễn Nghĩa của vua Trần Nhân Tông hay Tam Quốc Chí của Bồ Tát Nguyễn Minh Không, còn mô tả hai vị tiên đánh cờ là Nam Tào coi sổ sinh và Bắc Đẩu coi sổ tử, vị tiên thứ ba ngồi xem chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trong các ban thờ ở điện Đại Hùng của một số ngôi chùa miền Bắc Việt Nam, chúng ta thường thấy bố trí cạnh tòa tượng Cửu Long chính là ba ông tiên nói trên. Đồ đồng Điền Tỉnh Vân Nam, Trung Quốc Trong nền văn hóa Điền Vân Nam, hình con bò cũng được trang trí ở giữa các thạp đồng hình trụ, tượng trưng trục thế giới, chúng ăn khớp với các nhận định. Trâu, bò thường được dùng vào lễ tế Trời hay tế Nam giao của các vùng phương Nam. Xung quanh con bò là con nai và con hổ, mà ta biết nai là biểu tượng vua Kinh Dương Vương, hổ phương Tây là biểu tượng Hùng Quốc Vương. Chùa Phật Tích có tên là Vạn Phúc Tự - nguyên tên ban đầu là Thiên Phúc Tự - nằm trên sườn núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Du; nay là xã Phượng Hoàng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc. Theo văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686), "Vua thứ ba triều Lý (tức Lý Thánh Tông) vào năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) cất lên cây tháp qúy ngàn trượng, lại dựng pho tượng mình vàng cao sáu thước, cấp cho hơn trăm thửa ruộng, xây chùa hơn trăm tòa". Tấm bia này còn ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá?". Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đã đến thăm chùa, chính tay nhà vua viết chữ "Phật" dài một trượng sáu thước và khắc vào bia đá để dựng trước chùa. Sang đời Trần, chùa đổi tên là Vạn Phúc. Vua Trần Nghệ Tông cho dựng điện Bảo Hòa và thư viện Lạn Kha ở gần chùa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, năm 1384 Vua đã mở kỳ thi Thái học sinh ở chùa này. Ngoài đền Kim Ngưu Phủ, còn có phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn của làng Nghi Tàm, nhô ra giữa Hồ Tây. Phủ thờ Bà chúa Liễu Hạnh, thần chủ của đạo Mẫu Việt Nam, bà chính là Hương Vân Cái Bồ Tát. Tục truyền rằng: bà là Quỳnh Hoa, con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu. Chúng ta cũng đã biết công chúa Quỳnh Hoa là Thánh Mẫu Thượng Ngàn, bà chúa Tằm hay cũng là Phật Mẫu Man Nương chùa Dâu và công chúa Quế Hoa là Chúa Mẫu Thoải. Như vậy, có ba thánh tích thần kỳ đó là: hồ Hoàn Kiếm đối với vua Lạc Long Quân và bà Âu Cơ; Hồ Tây với vua Đế Minh và Hương Vân Cái Bồ Tát và chùa Hương với Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật Bà Quan Âm, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát.Liên quan đến phương Đông, mùa xuân còn có một tục lệ rất quan trọng của một quốc gia nông nghiệp đó là phép “Đả xuân ngưu”, theo Việt sử lược, năm 1048, Vua Lý Thái Tông xuống chiếu định phép "Đả xuân ngưu". Mỗi năm, con trâu đất được nhuộm một màu ứng với năm đó theo Ngũ hành. Đàn tế được lập ở cửa Đông Hà nay là ô Quan Chưởng, và lễ tế được tiến hành đúng giờ Tý, đúng tiết lập xuân. Vua sai vị trưởng họ dùng roi đánh vào con trâu, sau đó các quan vào cùng dự yến tiệc. Đến thời Lê, sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi rõ: Quan Phủ Doãn và hai quan huyện Thọ Xương, Quảng Đức làm lễ xong thì cho dân đến rước trâu đất đến đền thờ thần Long Đỗ, vị Thành hoàng của Thăng Long. Hôm sau, quan Phủ Doãn đến lấy cành dâu đánh vào con trâu đất, đem vào sân điện nhà vua làm lễ tiến xuân ngưu, văn võ bá quan đều tới hầu lễ. Như vậy, thành Thăng Long đã được các Phật, Tiên, Thánh, Thần của tâm linh người Việt bảo hộ đã trải hàng bao thiên niên kỷ. Mở rộng ra khỏi Thăng Long, vùng Hà Nội được bảo vệ bởi các vị thần thánh theo suốt dòng chảy lịch sử của dân tộc, chúng ta hãy tham khảo bản đồ địa hình sơ bộ sau: Bản đồ sơ bộ địa chí nơi thờ tự Tham khảo ảnh tác giả Bùi Dương Hải Chúng ta thấy, thủ đô Hà Nội được hộ vệ bởi ngọn núi Ba Vì phía Tây với đền thờ Đức Thánh Tản - Hộ Quốc đại vương; dãy núi Tam Đảo phía Đông với đền Sóc thờ Thánh Gióng - Xung Thiên đại vương; phía hậu là đền Và thờ Sơn Tinh - Hùng Hoa Vương - Hùng Vương thứ IV; phía trước là đền thờ Chử Đạo Tổ - Chử Đồng Tử, ở Đa Hòa. Một chi tiết cực kỳ quan trọng, tại ngã ba Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ là đền thờ các vua Hùng, chưa kể hệ thống đình, đền, chùa, miếu, cung quán… xung quanh bốn hướng tạo thành một bức thành tâm linh kiên cố. Căn cứ bộ tranh Hành Say và Thánh đạo hưng long cùng với bản đồ Tử Vi Viên, chúng tôi nghi ngờ Đức Tản Viên Sơn Thánh, con người lỗi lạc, văn võ song toàn trong đời Hùng Vương XVIII - Hùng Duệ Vương chính là thần Văn Xương. Ngài là người góp ý vua Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Phán, bộ chủ bộ Tây Vu, lập lời thề ở Đền Hạ trên đỉnh Nghĩa Lĩnh. Đối diện với ban văn thờ thần Văn Xương, chính là ban võ và thờ võ thần tức là Đức Thánh Gióng thời Hùng Vương thứ VI - Hùng Hồn Vương, người tổ chức quân đội đánh thắng giặc Ân thời nhà Thương Ân, Trung Quốc. Khôi Tinh Tranh vẽ đời Thanh, Trung Quốc, trích Bách khoa toàn thư văn hóa cổ điển Trung Quốc, tác giả Nguyễn Tôn Nhan, Nxb Văn hóa Thông tin, 2000. Trong thiên văn Đông Phương thì Nhị thập bát tú có tên Long, Lân, Quy, Phượng, trong đó con Lân biểu tượng cho 7 chòm sao phương Tây, hành Kim, chòm sao Văn Xương thuộc chòm sao phương Tây. Chòm sao Văn Xương trong Tử Vi Viên - thể hiện cấu trúc của một triều đình, như vậy chòm sao Văn Xương biểu tượng cho vị quan văn có chức phẩm cao nhất. Thần Văn Xương với hình ảnh là cái tháp cao, thường gọi là tháp Văn Xương trong phong thủy. Theo các thần tích vùng Sơn Tây, Vĩnh Phú thì Tản Viên Sơn Thánh là người ở động Lăng Xương (Thanh Thủy - Phú Thọ ngày nay), tên là Nguyễn Tuấn (Nguyễn Tùng), con ông Nguyễn Cao Hạnh (Hành) và bà Đinh Thị Điêng (Đen). Khi lớn lên nhận bà Ma Thị Cao Sơn ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Mẹ đẻ của Nguyễn Tuấn là bà Đinh Thị Điêng hay Đen, còn gọi là Thái Vĩ. Đen là tên của sông Đà xưa. Đinh Thị Đen có nghĩa chỉ Thái bà (Thái Vĩ hay Thái Thủy) là người ở Tả ngạn sông Đà (dòng sông Đà ở quãng chân núi Ba Vì đổi hướng chảy lên phía Bắc, nên tả ngạn sông nằm ở phía Tây). Bà mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn ở Ba Vì được thờ như Mẫu thượng Ngàn, là người cai quản núi Ba Vì trước khi “di chúc” lại cho Thánh Tản. Đền Lăng Xương nơi sinh ra Thánh TảnẢnh tham khảo__ Qua thần tích trên, chúng ta thấy hình ảnh thần Thái Vĩ trong bộ tranh thờ Đạo giáo Hành Say và “Lăng Xương” hàm ý liên quan đến “Văn Xương” hoàn toàn khẳng định Tản Viên Sơn Thánh là thần Văn Xương.Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống, có bộ tranh nhị bình Tử Vi Trấn Trạch - Huyền Đàn Trấn Môn với hình ảnh của hai vị thần cưỡi sư tử, Huyền Đàn Trấn Môn tay phải cầm kiếm còn Tử Vi Trấn Trạch tay phải cầm la bàn, tay trái nâng cao biểu tượng âm dương tương giao và bông ngù nhiều sắc màu. Theo dân gian, bộ tranh này được dán ở cửa chính vào ngày Tết để ma quỉ sợ, không dám đến quấy nhiễu. Tuy nhiên, đây cũng chính là hình ảnh của các vị hộ pháp trong các tôn giáo, nếu so sánh với hình ảnh của Tản Viên Sơn Thánh và Xung Thiên Đại Vương, thì chúng tôi nhận định đây chính là hình ảnh của nhị vị và thông thường được đắp hai bên chính môn của mỗi ngôi đình, đền, chùa. Tử Vi Trấn Trạch - Huyền Đàn Trấn Môn Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam Trong bức tranh thờ Đạo giáo Dẫn Hương Lộ có nêu Tứ đại nguyên soái và Lý Thiên Sư cùng Trương Thiên Sư là những vị khác nhau, trong đó Tứ đại Nguyên soái bao gồm Quan, Triệu, Đặng, Mã trong thần thoại Trung Quốc, là bốn vị thần tướng canh giữ trên thiên đình: - Mã nguyên soái còn gọi là Mã nguyên quân, Hoa Quang thiên vương, Hoa Quang đại đế. - Triệu nguyên soái tức Vũ Tài thần Triệu Công Minh, Triệu Huyền Đàm. - Ôn nguyên soái tức Ôn Quỳnh, Đông nhạc đế bộ tướng. - Quan nguyên soái tức Quan Vũ, Quan Đế sống vào thời Tam Quốc. Cũng các chương trước, chúng ta dễ dàng thấy, Tứ đại Nguyên soái theo văn hóa Trung Quốc đã được cải biên và không còn ý nghĩa ban đầu trong tranh Đạo giáo Việt Nam nữa. Qua việc xác minh Tản Viên Sơn Thánh và Xung Thiên Đại Vương ở trên, chúng tôi nhận định Tứ Đại nguyên soái là bốn vị khác nhau, bao gồm: - Triệu Nguyên Sư: là Tản Viên Sơn Thánh - Đặng Nguyên Sư: là thần sấm sét hay Xung Thiên Đại Vương. - Hữu Lý Thiên Sư cưỡi hổ: tức Lý Tịnh (Lý Võ) là văn quan Hữu Sào thời vua Thần Nông. - Tả Trương Thiên Sư cưỡi lân: thay vì là Trương Đạo Lăng, tổ sư của Đạo giáo là võ tướng Toại Nhân - Lão Long Cát thời vua Thần Nông. Lão Long Cát và Hữu Sào cũng chính là Thái Vĩ và Hải Bá, thuộc bộ tranh thờ Đạo giáo Hành say và Tam Thanh và cũng phù hợp hoàn toàn với nội dung Nguyễn tộc từ đường phả lục chính bản: “Thần Nông tức Đế Khôi lúc nhỏ có Hữu Sào và Toại Nhân tức Lão Long Cát cùng trợ giúp nhiếp chính, đánh đuổi gia nô Hiên Viên do dấy binh làm phản, thừa kế sự nghiệp của tổ tiên, tiếp nối của cha Đế Thiên - Phục Hy, lên ngôi vua sáng, thi hành chính nhân, dân chúng một mực kính yêu. Trước đây, ở nước ta có lưu truyền cuốn sách y dược Thần Nông bản thảo sau bị giặc nước tiêu hủy”. Lễ hội Thánh Gióng Tranh tham khảo Qua bản đồ địa hình, chúng ta thấy hộ vệ biên ngoài của Thăng Long thành là Tản Viên Sơn Thánh, Xung Thiên Đại Vương, Chử Đồng Tử và Thánh Mẫu Liễu Hạnh tạo thành Tứ Bất Tử của nước ta? Tuy nhiên, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là Phật Bà Quan Âm, bà là Thánh Mẫu Bất Tử trên toàn thế giới, do vậy vị Thánh thay thế cho vị trí của Thánh Mẫu Liễu Hạnh là ai?. Theo thần tích đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”, Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi. Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, dựng nhiều hành cung trên đất Việt, hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm: Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của Ba Vì; Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với quê Lăng Xương; Nam Cung là đền Ao Vua; Đông Cung là đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh sông Hồng. Hội đền Và khi tổ chức còn có sự tham gia của làng Duy Bình, nơi có đền Dội ở đối diện bên kia bờ sông Hồng, tương truyền là nơi Thánh Tản đã lấy nước tắm bên sông; Bắc Cung là đền Thính (Thính là đọc trại âm của Thánh) ở Tam Hồng, Yên Lạc,Vĩnh Phúc. Bắc Cung Thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên, Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Tuy gọi là Đông - Tây - Nam - Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây. Đây là cũng là hướng “tọa Tốn hướng Cấn”, hướng của đền Thượng. Bản đồ cụm di tích Ảnh tham khảo Đông Cung Tản Viên nay là đền Và, ở làng Vân Già, cạnh thị xã Sơn Tây. Tương truyền khi Tản Viên đi qua đây thấy có đám mây che phủ, cho là điềm lành, nên dựng hành cung ở đây, gọi là Vân Già. Đông Cung là nơi có cung điện chính, được chép là nơi Tản Viên “nghe tâu bày các việc”. Đền tới nay được dựng với hệ thống tượng như một triều đình, như vậy thì rõ ràng Tản Viên đã lên ngôi vua. Nam Cung Tản Viên đóng tại Ao Vua, Thần Tản Viên được người Mường gọi là Thánh Cả Ba Vì, là Vua. Rõ ràng Tản Viên không phải chỉ dừng lại là con rể Hùng Vương mà chính là một vị vua Hùng. Tản Viên đã dựng hành cung khắp nơi, nếu Tản Viên chỉ là con rể vua Hùng thì đã không thể dựng nhiều hành cung như vậy. “Xuất hồ Chấn” Hoành phi ở đền Và, Sơn Tây, Việt NamVà đôi câu đối ở nghi môn: Đề vu Tây, hỗ trấn nguy nguy thiên bính thọ?Xuất hồ Chấn, cố cung hách hách nhật đồng quang. Những câu này lấy ý trong thuyết quái truyện của Kinh Dịch: “Đế xuất hồ Chấn”, cung Chấn phương Đông, “Xuất hồ Chấn” ý nói đế vương tại Đông Cung tức đền Và, thông tin này một lần nữa khẳng định Tản Viên đã là bậc đế vương. Theo thần tích đền Và, phép thuật của Tản Viên bắt đầu từ việc đi chặt cây trên núi Tản gặp Thái Bạch Thần Tinh, được truyền cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử. Từ đó Nguyễn Tuấn xưng là Thần Sư, bắt đầu đi cứu dân độ thế. Bảo bối thứ hai của Thánh Tản bắt đầu từ việc cứu được con rắn thần, là con trai Long Vương ở Động Đình. Sau khi xuống thăm Long cung Tản Viên đã được tặng quyển sách ước. Tản Viên từ đó dùng gậy thần và sách ước đi khắp nơi, lấy được công chúa Ngọc Hoa, chiến thắng Thủy Tinh, đánh quân Thục. Hiện nay ở các cung điện cũ của thần Tản Viên đều có nhắc đến 2 bảo vật gậy thần sách ước trên. Câu đối ở đền Và thôn Vân Già, Sơn Tây: Tiên trượng ước thư truyền dật sử,Đông cung Tây trấn ngật linh từ.Gậy thần sách ước dã sử truyền.Cung Đông trấn Tây đền linh tỏ. Hay câu đối khác cùng một ý tại đền Và:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn,Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, túc kim dục đắc kỳ thuật, diêu hô tiên trượng ước thư.<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> </b> Dịch nghĩa:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Thần linh thiêng, đất linh thiêng, vĩ nhân linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất,Núi thành thuật, sông thành thuật, đạo đức thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ. Bắc Cung Thượng - đền Tranh Ảnh tham khảo Nghi môn đền Và Ảnh tham khảo Trong các câu đối đã nêu tại Đông Cung có nói tới “Tây Trấn” (trấn phương Tây), “đề vu Tây” (ở tại phương Tây). Tại sao lại là Tây? Lý do rất rõ Tản Viên là Tốn Vương, Tốn là quẻ chỉ hướng Tây (tham khảo và trích dẫn một phần nội dung trong bài viết Long mạch Tản Viên, tác giả Minh Xuân - http://bachviet18.com). Theo một số thần tích Tản Viên Sơn Thánh đời Hùng Vương thứ XVIII khác, thì Tản Viên Sơn Thánh là con rể vua Hùng, không truyền ngôi mà gợi ý cho vua Hùng truyền ngôi cho Thục Phán An Dương Vương, điều này rõ ràng mâu thuẫn với dữ liệu lịch sử ở trên. Chúng ta biết, chỉ có truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh thời vua Hùng Vương thứ III là nói về việc truyền ngôi cho Sơn Tinh, như vậy rõ ràng Sơn Tinh và Tản Viên Sơn Thánh là hai người khác nhau. Vậy thì, đền Và chính là thờ Sơn Tinh, vua Hùng Vương thứ IV - Hùng Hoa Vương còn Đền Thượng núi Ba Vì thờ Tản Viên Sơn Thánh, nhưng trước đây chính là thờ Sơn Tinh và đền Và được xây dựng từ thời Hùng Vương thứ XVIII trở về sau. Như vậy, đền Và nơi thờ Sơn Tinh - Hùng Vương thứ IV sẽ trấn mặt hậu của kinh thành Thăng Long, còn trấn mặt tiền chính là ngôi đền thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, một trong Tứ Bất Tử. Theo cuốn Thái Ất thần kinh, tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, dịch giả Thái Quang Việt, Nxb Văn hóa dân tộc, 2009, nói Lão Tử chínhlà hậu duệ của Lão Long Cát và nhận định Chử Đồng Tử chính là Lão Tử, chúng tôi sẽ quay lại vấn đề này trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ. Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung trên bãi Tự Nhiên phía Nam thành Thăng Long, dạy dân buôn bán, tu hành rồi hóa thánh lên trời tại đầm Dạ Trạch, Chử Đạo Tổ là biểu tượng của tình yêu, của hôn nhân và cuộc sống hạnh phúc. Phù Đổng Thiên Vương thăng thiên hóa thánh trên đỉnh Sóc Sơn là biểu tượng chống ngoại xâm của người Việt, là hình tượng của vị đại tướng trong quân đội. Thánh Tản Viên là biểu tượng nền văn hóa nhân bản, của trí tuệ siêu việt trong những lúc đất nước khó khăn, ngài cùng vua Hùng Duệ Vương cưỡi rồng lên trời trên đỉnh núi Ba Vì, ngài là biểu tượng cho vị quan văn tài giỏi, trụ cột của triều đình. Sơn Tinh là biểu tượng của một vị thánh vương, có tài an bang trị nước với Hồng phạm cửu trù là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta. Ông cũng là Hùng Hoa Vương - Hùng Vương thứ IV, vậy ông có phải là vị Thánh Bất Tử thay cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay không? Chúng ta cũng đã biết vua An Dương Vương, là vị vua cuối cùng trong chi Hùng Vương thứ XVIII, cũng là vị vua thứ 108 trong Đền Hùng, do vậy vua Hùng Hoa Vương không thể là vị Thánh trấn phương Bắc của Thăng Long, vậy thì là ai? Chúng ta sẽ biết sau. Tiếp tục, xét toàn cục địa lý của miền Bắc Việt Nam, thì tổ long chính là dãy núi Himalaya hùng vĩ, là nơi của 14 đỉnh núi cao nhất thế giới: các đỉnh cao trên 8.000 m, bao gồm cả đỉnh Everest. Để thấy được kích thước khổng lồ của những dãy núi trong dãy Himalaya, hãy so với Aconcagua, trong dãy Andes, với độ cao 6.962 m, là đỉnh cao nhất bên ngoài Himalaya, trong khi hệ thống núi Himalaya còn có trên 100 núi khác nhau vượt quá 7.200 m. Dãy Himalaya trải khắp 7 quốc gia: Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Myanma và Afghanistan. Nó cũng là nơi khởi nguồn của 3 hệ thống sông lớn trên thế giới, đó là lưu vực các sông như sông Ấn, sông Hằng và sông Dương Tử. Mạch núi Hymalaya Tham khảo Internet Sinh khí của dãy Himalaya hình thành nên mảnh đất “Thần kinh” là nước Việt, với Đền Hùng - trung tâm tín ngưỡng và Thăng Long - trung tâm chính trị, văn hóa của quốc gia. Xét về mặt phong thủy, Đền Hùng là một nơi vô cùng đặc biệt, là địa linh nổi tiếng cả nước. Núi Nghĩa Lĩnh như hình đầu rồng bay từ hướng Tây Bắc của tổ long Himalaya về và dừng lại ở Hy Cương. Thân của rồng uốn lượn, lúc ẩn, lúc hiện tạo thành 100 con voi, trong 100 con voi có một con quay đầu về hướng Bắc, truyền thuyết cho nó là con voi bất nghĩa, bị Vua Hùng chém cổ, đuôi con rồng được cho là vùng đạo Bạch Long Vĩ và đầu của nó chính là Thăng Long. Bên trái núi Nghĩa Lĩnh là sông Lô xanh ngắt, còn bên phải là dòng sông Thao ngầu đỏ phù sa. Sông Lô, sông Thao, sông Đà hợp lưu tại ngã ba Hạc Trì rồi thành sông Hồng làm nên một miền châu thổ màu mỡ, trù phú. Ngã ba Hạc Trì là thuỷ khẩu nối với huyệt là Đền Hùng và minh đường là miền châu thổ bao la thoáng đãng trước mặt. Hy Cương là trung tâm của vùng phong thủy đẹp hiếm có của nước ta, mà núi Nghĩa Lĩnh chính là huyệt của cả vùng đất thiêng đó. Nếu Nghĩa Lĩnh như một bệ rồng, thì Đền Hùng là bệ chính với hai tay ngai giang rộng ra, ôm lấy một vùng sông nước và châu thổ sông Hồng, còn xét về toàn cục thế giới thì biển Thái Bình Dương chính là minh đường và Huyền vũ chính là dãy Himalaya. Tay ngai bên trái thanh long, là núi Tam Đảo chạy dài từ Tuyên Quang, qua Vĩnh Phúc rồi dừng lại ở núi Sóc, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Tả Thanh Long này rất linh thiêng, là đất Phật của trường phái Trúc Lâm ở Tây Thiên. Núi Sóc là nơi Phù Đổng Thiên Vương sau khi đánh tan giặc Ân, phi ngựa lên đỉnh rồi hóa về trời. Tay ngai bên phải bạch hổ là núi Tản Viên, nơi lưu thánh tích của Sơn Tinh và Tản Viên Sơn Thánh. Triều án là núi Sài Sơn, các ngọn núi lân cận của huyện Quốc Oai và các quả đồi ở Thanh Tước của Phúc Yên. Truyền thuyết nói rằng Cao Biền là người rất giỏi phong thuỷ, thấy địa thế Đại La cực tốt, nơi hội tụ đủ cả sông núi, long mạch linh huyệt của đất Giao Châu, nên vừa là đắp thành trấn giữ, vừa tìm cách triệt hạ long mạch. Biền lấy nghìn cân sắt để trấn yểm chỗ thần hiện ra. Bỗng nhiên trời nổi cuồng phong sấm, sét đánh nghìn cân sắt vụn ra thành tro bụi, Biền hoảng sợ lập đền thờ thần Long Đỗ và nói rằng "Ta phải về Bắc thôi" và sau này Biền bị vua nhà Đường gọi về và xử tội chết. Sau này, tên tướng Hoàng Phúc, nhận lệnh vua Minh với kế hoạch đi trấn yểm những huyệt đạo còn sót lại, dựa trên những tài liệu của Cao Biền còn lưu trữ trong triều đình. Qua phân tích, chúng ta thấy rằng các vị thần thánh của Việt Nam đã được mã hóa bằng các vì sao trên bầu trời, và được xem là thành tố của các phương pháp học thuật cổ Đông Phương như phong thủy, tử vi… và hình ảnh của các “pháp khí” trong tôn giáo, đồng thời, cũng có liên quan đến mọi sự ứng dụng trên thực tế như âm dương lịch, mà thời xưa gọi là Nông lịch. Tính độc đáo của loại lịch này so với tất cả các loại lịch khác đã được biết đến trong lịch sử văn minh nhân loại là: có sự ứng dụng của một học thuyết vũ trụ quan cổ đại trong nội dung của nó, đó chính là sự nạp âm ngũ hành trong Lục thập hoa giáp. Sẽ là một sự phi lý, nếu thuyết Âm dương Ngũ hành thuộc về văn minh Văn Lang nhưng Âm Dương lịch với dấu ấn của thuyết Âm Dương Ngũ Hành lại không thuộc về nền văn minh này. Nhưng thật chu đáo thay! Ông cha ta đã để lại một câu ca dao nổi tiếng lưu truyền trong dân gian như nhắc nhở cho con cháu tìm lại những dấu ấn của tổ tiên:Ai về nhắn họ Hy Hòa,Nhuận năm sao chẳng nhuận vài trống canh?.Tất nhiên câu ca dao trên đây nhắc đến các chuyên gia làm lịch đời Nghiêu, Thuấn, nhưng hẳn là mới xuất hiện về sau, với ý nghĩa chế diễu một cặp tân hôn vào dịp Hạ chí “đêm tháng năm, chưa nằm đã sáng”. Qua đoạn trích dẫn trên chúng ta sẽ nhận thấy tính khiên cưỡng trong việc lý giải nội dung của câu ca dao, nếu chủ đề của câu ca dao này, chỉ là sự ham muốn kéo dài thời gian đêm của một cặp tân hôn thì không lẽ sự ham muốn đó chỉ nảy sinh vào mùa hạ của năm nhuận? (trích cuốn Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002). Canh nông chi đồ Trang dân gian Hàng Trống, Việt Nam Trong câu ca dao, mật nghĩa “vài trống canh” với một canh thời xưa bằng 1/100 ngày = 1/120 giờ cổ = 1/240 giờ hiện nay là một khoảng thời gian rất nhỏ, đó chính là thời gian điều chỉnh bổ sung cho năm âm dương lịch do hiện tượng tuế sai có chu kỳ 25.920 năm, hay có thể hiểu nền tảng thiên văn Đông Phương với việc quan sát các chòm sao Thiên Cực Bắc thời cổ đại. Mô hình vũ trụ của Ptolemy Trích Vũ trụ quanh em, tập I, Nguyễn Thị Vương - Nguyễn Thanh Hương Mãi cho đến thế kỷ XV, nghĩa là ít nhất 4.000 năm sau nhà thiên văn học Copecnic (1473-1543) mới khám phá ra trái đất quay xung quanh mặt trời. Ông từng bị đưa ra xét xử tại tòa án dị giáo thời đấy do đã nói rằng trái đất quanh quanh mặt trời. Tháng 11 là tháng Một xuất phát từ phiên âm hay tháng 12 là Chạp. Nhiều người chỉ dùng Một, Chạp cho các tháng âm lịch. Tháng Chạp là tháng đi chạp mả, thăm sửa mộ phần, làm cỗ cúng tập thể tổ tiên. Cũng theo cách gọi của âm lịch, ngày một và ngày 15 hàng tháng gọi là ngày mồng Một và ngày Rằm. Lịch cổ Việt Nam là âm lịch gọi là lịch Kiến Dần, mang ý nghĩa thể hiện đầu chu kỳ vận động Âm Dương Ngũ Hành trong một năm với quy ước Trái đất là hành Âm Mộc trong Hệ Mặt trời. Như vậy, Tết Nguyên đán của văn minh Lạc Việt thể hiện cái “Một” tức “Vũ trụ thống nhất”, và như vậy chúng ta thấy ngày này cũng chính là ngày sinh nhật của Vũ trụ.Các chòm sao Thiên Cực Bắc Trích Thiên văn lịch pháp phương Đông, tác giả Trần Văn Tam Chúng ta nhận thấy sự liên quan chặt chẽ giữa thứ tự thời gian qua sáu chòm sao Thiên cực Bắc với phả hệ ghi nhận trong các truyền thuyết và huyền thoại thời vua Hùng: - Chòm sao Thiên Nga (chim thiên nga): ứng với bà Hoàng Thị Phú, mẫu của vua Đế Minh. - Chòm Thiên Cầm (cây đàn trời): ứng với Hương Vân Cái Bồ Tát, Phật Bà Quan Âm, Cửu Thiên Huyền Nữ, mẫu vua Kinh Dương Vương. - Chòm sao Vũ Tiên (nàng tiên múa): ứng với bà Tây Vương Mẫu, Phật Mẫu, chính thất vua Kinh Dương Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế. - Chòm sao Thiên Long (con rồng trời): ứng với vua Lạc Long Quân - Hùng Vương II, Câu trần Thượng quan Nam cực Thiên hoàng đại đế. - Chòm sao Tiểu Hùng Tinh (con gấu nhỏ): ứng với vua Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III, Trung Thiên Bắc Cực Tử Vi Đại Đế - Chòm sao Thiên Vương (tướng nhà trời): ứng với Hùng Vương IV - Hùng Hoa Vương - Sơn Tinh. - Chòm sao Bắc Đẩu Đại Hùng Tinh (con gấu lớn): sẽ được xác định sau. Cấu trúc dựa trên hướng Bắc - Bắc Cực là hướng Nam của la bàn trên mặt đất theo quy ước cổ, cho nên khi xác định tên các chòm sao trên trời thì theo chiều ngược lại, điều này giống như biểu tượng Long, Lân, Quy, Phượng của Nhị thập bát tú.La kinh phong thủy Trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007 Như vậy, ngoài chòm sao Tiểu Hùng Tinh định vị phương Bắc thì chòm sao Nam cực định vị phương Nam chính là biểu tượng của Câu trần Thượng quan Nam cực Thiên hoàng đại đế. Trong Đạo giáo tôn xưng Thọ Tinh là Nam Cực Tiên Ông, Nam cực Chân quân, Trường sinh Đại Đế. Hình ảnh Thọ Tinh thường thấy là hình ảnh của một lão nhân tay trái chống gậy, tay phải cầm quả đào, tóc bạc, mày dài, đầu cao, trán nổi, tai dài, mình ngắn. Nam Cực Lão nhân là Ông Thọ, mà Ông Thọ lại chính là vua Lạc Long Quân. Chòm Nam Cực (Nam Thập)Những chòm sao chìa khóa của bầu trời, www.thienvanhoc.org Khác với Bắc cực, Nam cực không có sao để làm mốc.Thật ra là có, đó là sao Sigma (σ) của chòm Octans (Kính bát phân), chòm sao được đặt theo tên của một dụng cụ đo góc trong thiên văn và hàng hải. Thế nhưng, với độ sáng biểu kiến là +5.5 gần như sao Sigma Octantis cực kì khó nhận biết bằng mắt thường. Chòm Nam Thập cũng hữu dụng như chòm Bắc Đẩu để xác định phương hướng. Kéo dài cây thánh giá sẽ cho ta gần như chính xác hướng Nam. Bây giờ quán xét lại thuận tự của Thái Dương hệ tính từ trong ra ngoài:lưu ý về tên gọi của hai hành tinh trong Thái Dương hệ là sao Kim và sao Thủy: Sao Thủy được gọi tên theo thiên văn hiện đại, theo sách cổ thiên văn Đông phương gọi là sao Kim và ngược lại. (Theo Ban Cố, Tiền Hán thư). Thuận tự của Thái Dương hệ dưới đây, với tên hai sao này gọi theo sách cổ:Hệ mặt trời Trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007 Nếu bây giờ chúng ta lấy Mặt Trời làm hành Thổ (theo nguyên lý trung cung thuộc Thổ) thì ta sẽ thấy một chiều Ngũ hành tương sinh từ trong ra ngoài như hình vẽ. Như vậy, Trái Đất tương ứng với hành Mộc. Căn cứ vào các hiện tượng và nhận thức sau: Những hành tinh nhóm hai (bên ngoài vành đai thiên thạch) có chiều Ngũ Hành tương khắc. Giả thuyết này dựa trên cơ sở Ngũ hành tương khắc do hai sao đầu tiên của nhóm này, tính từ trong ra ngoài là, Sao Mộc (Thái Tuế) khắc Thổ (Sao Thổ). Từ đó, sắp chiều Ngũ Hành tương khắc cho các sao còn lại thì sự kết thúc chu kỳ tương khắc đúng ở sao Diêm Vương. Sao Diêm Vương có cấu trúc hình thể và vật chất gần giống với các hành tinh thuộc nhóm I (Những hành tinh bên trong vành đai thiên thạch). Điều này lại cho thấy sự phù hợp với một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành là cực Âm sinh Dương / Cực Dương sinh Âm. Từ hiện tượng này dẫn đến kết luận của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh mang tính tiên tri, cho rằng: Không có hành tinh thứ 10 trong hệ Mặt Trời vì theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã có sự cân bằng Âm Dương và Ngũ Hành trong cấu trúc Thái Dương hệ được giải thích bằng phương pháp luận của học thuyết này Trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007. Thất Chính:Hệ mặt trời Hùng Vương Thứ tự Tên gọi Ngày Ghi chú Mặt trời Kinh Dương Vương Hùng Vương I Thái Dương Chủ Nhật Mặt trăng Lạc Long Quân Hùng Vương II Thái Âm Thứ hai Kim tinh Hùng Quốc Vương Hùng Vương III Mộc Đức Thứ ba Thủy tinh Hùng Hoa Vương Hùng Vương IV Vân Hán Thứ tư Sơn Tinh Mộc tinh Hùng Hy Vương Hùng Vương V Thổ Tú Thứ năm Hỏa tinh Hùng Hồn Vương Hùng Vương VI Thái Bạch Thứ sáu Thổ tinh Hùng Chiêu Vương Hùng Vương VII Thủy Diệu Thứ bảy Lang Liêu Trong chư thần Đạo giáo, ngoài Tam Thanh còn có Tứ Ngự tức bốn vị Thiên Đế phò tá Tam Thanh bao gồm: Hạo Thiên kim khuyết Ngọc hoàng đại đế (Kinh Dương Vương), Trung thiên Bắc cực Thái hoàng đại đế (Hùng Quốc Vương), Câu trần thượng quan Nam cực thiên hoàng đại đế (Lạc Long Quân), Thừa thiên cứu pháp Hậu thổ hoàng địa chi (Đế Minh). Chắc chắn ở thời kỳ Hùng Vương, ông cha ta đã có một kiến thức rất sâu sắc về thiên văn học để xác định được chu kỳ vận động của các thiên thể; không phải chỉ giới hạn ở những hành tinh thuộc Thái dương hệ, mà là sự vận động có thể của phần lớn các ngôi sao trong Thiên hà liên quan đến hệ mặt trời. Để bổ sung cho sự liên hệ giữa khoa thiên văn học hiện đại với văn minh Văn Lang, tham khảo một hiệu ứng vũ trụ từ sự vận động của các thiên thể đối với con người. Hiệu ứng này đã được Gs. Lê Văn Sửu nói đến trong cuốn Nguyên lý thời sinh học cổ Phương Đông, Nxb Văn hóa Thông tin 1996, được bổ sung và hiệu chỉnh lại, đó là vấn đề mà có lẽ các bà mẹ lớn tuổi đều biết về trường hợp trẻ sinh vào giờ Quan Sát: Giờ Quan Sát. Bài ca về giờ sinh phạm giờ Quan Sát như sau:Chính, thất, sơ sinh Tỵ, Hợi thìNhị, bát Thìn, Tuất bất thậm nghiTam, Cửu, Mão, Dậu đinh thượng nhiênTứ, Thập Dần, Thân kỷ định kỳNgũ, đồng thập nhất Sửu, Mùi thượngLục đồng thập nhị Tý, Ngọ chi. Nghĩa là: giờ Quan Sát theo tháng Âm lịch và giờ địa chi:Tháng giêng - giờ Tị Tháng bảy - giờ HợiTháng hai - giờ Thìn Tháng tám - giờ TuấtTháng ba - giờ Mão Tháng chín - giờ DậuTháng tư - giờ Dần Tháng mười - giờ ThânTháng năm - giờ Sửu Tháng mười một - giờ MùiTháng sáu - giờ Tý Tháng Chạp - giờ Ngọ Người xưa cho rằng trẻ em sinh phạm giờ Quan Sát khi nhỏ thường ốm yếu khó nuôi, lớn lên thì đầu trộm đuôi cướp. Những bậc làm cha mẹ khi có con sinh giờ Quan Sát thường vô cùng đau khổ. Theo những điều tôi thâu lượm được bấy lâu nay thì những trẻ sinh phạm giờ Quan Sát thường có chức năng gan không ổn định, số lớn dễ bị mắc bệnh viêm gan khi có dịch truyền nhiễm bệnh này. Để tìm hiểu giá trị thật của giờ Quan Sát ta tiến hành mô hình hóa giờ Quan Sát trong một đồ hình dưới đây. Trong đồ trên chúng ta thấy điểm giờ Tý của tháng đều ở trên quả đất có hướng đối chiếu với Mặt trời qua tâm quả đất, từ đó theo các tháng vị trí giờ Quan Sát đều có hướng gần đối chiếu với hướng Bắc của quỹ đạo năm. Như vậy giờ Quan Sát có giá trị là thời điểm nơi sinh đứa trẻ chịu tác động ảnh hưởng vũ trụ từ ngoài mặt trời. Hướng giả định sự vận động của Mặt trời trên quỹ đạo trên thực tế có thể sai với vị trí tương ứng với bốn mùa, trong sự tương quan trái đất và mặt trời, nhưng dù hướng vận động của mặt trời theo hướng nào trong vũ trụ, thì vị trí giờ Quan Sát trên trái đất tương ứng với nhau vẫn không thay đổi so với mặt trời. Tức là đường nối từ tâm trái đất với vị trí giờ Quan Sát vẫn tạo thành những đường thẳng song song như hình vẽ trên. Như vậy, sẽ nhận thấy một hiệu ứng vũ trụ nào đó, tác động lên con người ở các vị trí giờ Quan Sát. Qua đồ hình trình bày, chứng tỏ rằng: nền văn minh cổ Đông phương đã phát hiện hiện tượng trái đất vận động quanh mặt trời mà còn phát hiện ra mặt trời vận động theo quỹ đạo của nó. Để nói lên được điều này, những người tiên phong của nền thiên văn học hiện đại đã phải ra tòa án dị giáo hoặc lên giàn hỏa thiêu, đó là trường hợp của Galile và Bruno ở nước Ý vào thế kỉ XV-XVI. Hiện tượng giờ Quan Sát nêu trên đã chứng tỏ tri thức của nền thiên văn cổ Văn Lang về nhiều mặt đã vượt xa khả năng của tri thức thiên văn học hiện đại, khi xác định một hiệu ứng vũ trụ với đơn vị thời gian nhỏ nhất là giờ ảnh hưởng đến con người. Với nhận định trên, có thể lập luận phản bác theo những khả năng sau: Hiện tượng giờ Quan sát nêu trên chỉ có thể giải thích một cách hợp lý là: đó là kết quả của một tri kiến thiên văn siêu việt được kết hợp với sự ứng dụng phương pháp luận của một lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh để lý giải cho những hiện tượng liên quan đến con người. Qua sự phát hiện trên đã chứng tỏ rằng: thời Hùng Vương, ông cha ta đã phát hiện ra không phải chỉ trái đất vận động quanh mặt Trời, mà còn phát hiện ra mặt Trời phải vận động theo một quỹ đạo của nó. Không những thế, mà còn phát hiện được kết quả của sự vận động này, đã tạo ra những hiệu ứng vũ trụ đối với con người thể hiện ở giờ Quan Sát. Trên đây chỉ là một thí dụ để thấy rằng: việc khoa học hiện đại phát hiện ra hiệu ứng vũ trụ từ những vụ nổ của mặt trời gây ảnh hưởng đến cuộc sống ở trái Đất, thật sự là khiêm tốn so với kho tàng khoa thiên văn học của thời Hùng Vương. Khoa học vũ trụ hiện đại có thể ước mơ hàng trăm năm sau sẽ đưa các phi thuyền tới những ngôi sao cách trái đất hàng chục năm ánh sáng, cho dù điều viễn tưởng đó được thực hiện, thì so với việc tìm ra những hiệu ứng vũ trụ ảnh hưởng đến trái đất và con người như nền văn minh Văn Lang đã chứng tỏ vẫn còn là một ước mơ xa xôi khó thực hiện của khoa học vũ trụ hiện đại. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì khoa thiên văn học hiện đại chỉ thực sự phát triển khoảng vài trăm năm nay, còn khoa thiên văn của thời Hùng Vương đã có gần 3.000 năm khảo nghiệm. Còn có rất nhiều hiện tượng tương tự như vấn đề của giờ Quan Sát nêu trên và những hiện tượng tương tự như vậy, không thể giải thích một cách thô sơ cho đó là do kinh nghiệm dân gian được. Với nền khoa học hiện đại để thống kê và tìm ra một hiệu ứng vũ trụ trên con người trong một đơn vị thời gian như vậy, có sự hỗ trợ của những máy vi tính hiện đại nhất, cũng phải mất hàng trăm năm để theo dõi và phải huy động một khối lượng nhân sự rất lớn, nếu bắt đầu ngay từ bây giờ (trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).Văn Xương cũng là một sao trong 114 sao của môn khoa học Đông phương Tử Vi. Sao Văn Xương cùng với Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt được gọi chung là sáu cát tinh. Trong các phương pháp cổ Đông phương, Tử Vi là một bộ môn dự đoán tương lai của một con người với các quy tắc an sao, đặc biệt phương pháp an sao Khôi Việt rất nhiều sách viết khác nhau, không có cách nào có thể kiểm chứng. Từ nguyên lý căn bản Hậu thiên Bát quái liên hệ Hà đồ đã chuyển đổi Tốn - Khôn, bảng an sao Khôi Việt được tổng hợp như sau: Vị trí Khôi Việt trên Hà đồ và bảng tổng hợp an sao Trích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để có thể kết luận rằng: trục Hoàng Đạo của Trái Đất chính là nguyên lý an sao Khôi Việt (chúng đối xứng qua trục này). Trục Sửu - Mùi (Bạch Đạo) chính là nguyên lý lạc hãm của sao Khôi Việt. Sự giải thích trên đây cũng cho thấy tính qui luật của hai sao này chỉ có thể giải thích được với nguyên lý căn bản Hậu thiên Bát quái phối Hà đồ. Từ hệ thống tên gọi các chòm sao trên trời được đặt tên dựa trên cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành theo Tiên Thiên Bát quái, chiếu xuống bộ Phong Châu thuộc Văn Lang theo Hậu Thiên Bát quái, tương ứng với vị trí các ngôi đình, đền, chùa cổ kính - nơi thờ tự các thánh nhân nước Việt, đã định vị nên một vùng đất linh thiêng của đất nước, nơi phong thủy và tâm linh hội tụ ở tầm toàn thế giới. Bản đồ thiên văn và các phương pháp học thuật cổ Đông phương là thành quả của tổ tiên sau hàng nhiều thiên niên kỷ để lại cho hậu nhân. Chúng ta hãy cùng tiếp tục quay trở lại với việc xác định cương vực của nước Văn Lang thời các vua Hùng. Cương vực nước Văn LangVăn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam, kinh đô đặt ở Phong Châu tỉnh Phú Thọ ngày nay. Theo Lĩnh Nam chích quái thì nước Văn Lang Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình hồ, Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ bao gồm Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Hai sự kiện lớn nhất được truyền thuyết và sử sách ghi nhận đó là việc Hùng Vương sai sứ sang thông hiếu với triều đại phương Bắc, tặng rùa thần và chim bạch trĩ. Trong bộ Thái Bình ngự lãm ở quyển thứ 131 dẫn lại một số sách khác về việc này như sau: Thuật dị kí của Nhậm Phưởng (thời Nam Bắc triều) viết: Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước. Trên lưng có hoa văn, đều là chữ khoa đẩu, ghi lịch rùa từ thủa mới mở mang đến nay. Trong Sách Thông giám cương mục có đoạn chép: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5 (2353 TCN), có Nam di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”; sách Cương mục tiền biên cũng cho biết: “Vào đời Đào Đường thị, năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5, Việt Thường thị sang chầu dâng rùa thần”. Sách Thông chí thì viết rõ hơn: “Đời Tào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa”… Một số thư tịch nước ta cũng viết về điều này, như Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn có viết: “Xứ Việt Thường Thị đem dâng rùa thần sang Trung Quốc, sau hai lần thông dịch mới hiểu được nhau. Rùa thần sống nghìn năm, vuông hơn ba thước, lưng có chữ khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai người chép lại, gọi là lịch rùa”. Không rõ sự kiện này do vua Hùng đời thứ mấy tiến hành, nhưng điều thú vị là duy nhất có cuốn sách cho biết rõ điều đó. Trong Tân đính Lĩnh Nam chích quái cho hay đó là vua Hùng chi đời thứ II (Hùng Hiền Vương, tức Lạc Long Quân): “Thời đó có người hái củi bắt được con rùa sống đã nghìn năm, lưng rộng khoảng 3 thước, trên lưng có chữ Khoa đẩu, đem đến dâng vua. Vua nói rằng: Rùa vốn có hai loại, linh quy (rùa thiêng) và dâm quy (rùa dâm), tuy bề ngoài có vẻ giống nhau, nhưng chất thì khác nhau rõ ràng. Khoảng đó, nghe nói họ Đào Đường ở Trung Quốc là hiền đức, bèn sai đem dâng. Vua Nghiêu truyền sao chép chữ trên lưng rùa mà làm ra lịch rùa”. Sau lần đầu tiên đi sứ Đường Nghiêu, đến thời nhà Chu sứ nước ta lại một lần nữa sang thông hiếu. Thư tịch đầu tiên nói Việt Thường thị ở phía Nam hiến chim trĩ trắng cho Chu Thành Vương được thấy ở sách Thượng thư đại truyện, Trúc thư kỷ niên và Hiếu kinh của Trung Quốc. Chuyện ấy được chép lại ở sách Hậu Hán thư và một số sách đời sau. Sử ký của Tư Mã Thiên viết: “Đất Giao Châu, ở phía Nam có Việt Thường thị, qua nhiều lần thông dịch, đến hiến một con chim trĩ trắng”. Sách Đại Việt sử lược viết: “Đến đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường Thị mới đem dâng chim bạch trĩ…”. Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chép: “Nước Việt ta khi mới vào cống nhà Chu, tự xưng là họ Việt Thường, dâng con bạch trĩ, 9 lần đổi trạm mới đến được, ông Chu Công ủy lạo cho 5 cỗ xe đặt kim chỉ nam để chỉ lối về”. Tuy nhiên trong cuốn Thần phả thôn Nông Xá (tên cũ là Nguyễn Xá), huyện An Dương, TP Hải Phòng thì thân thế, tên tuổi của sứ Việt Thường thị là hai anh em ông Nguyễn Hưng (tự là Quảng Tế) và Nguyễn Hiền (tự là Khả Liễm) người thôn này đã đi sứ nhà Chu dâng chim trĩ trắng vào năm Tân Mão (1110 TCN) theo lệnh của vua Hùng Định Vương (tức vua Hùng thứ IX): “Hùng Định Vương biết tiếng hai anh em bèn triệu về triều phong cho chức Lạc tướng rồi sai hai ông làm sứ thần đem chim bạch trĩ biếu vua Thành Vương nhà Chu. Hai anh em vâng mệnh, không quản gian nan lên đường. Khi dâng xong chim bạch trĩ, Chu Công sai đóng xe chỉ nam để đưa về nước”... Khi trở về, vua Hùng ghi công và phong chức cho hai anh em ông Nguyễn Hưng, Nguyễn Hiền coi giữ bộ Dương Tuyền (một trong 15 bộ thời Hùng Vương, nay thuộc địa phận Hải Dương, Hải Phòng). Sử ký Tư Mã Thiên ghi về Giao Chỉ, dẫn lại trong Kinh Thư, ở mục Đế Nghiêu viết: (vua Nghiêu) sai Hy Thúc sang ở Nam Giao” và chú giải “Nam Giao tức Giao Chỉ ở phương Nam”, ở mục Đế Chuyên Húc viết: “đời vua Chuyên Húc, phía Nam giáp Giao Chỉ”. Trích Hùng Vương - Thục Phán An Dương Vương, tác giả Phạm Đức Quý, Nxb Văn hóa - Thông tin, 2007. Cuốn Đại Việt sử lược cũng có đoạn chép cho thấy đôi nét về chính sách đối ngoại đó: “Xưa, Hoàng Đế dựng nên muôn nước, thấy Giao Chỉ xa xôi, ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc Tây Nam… Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn thường sai sứ sang dụ, Hùng Vương chống cự lại”. Trung tâm thời Thương - Chu Trích Từ điển lịch sử Trung Quốc, Nxb Thanh niên Căn cứ vào bản đồ các trung tâm thời nhà Thương và Tây Chu, chúng ta thấy cương vực của nhà Thương và Tây Chu hoàn toàn nằm phía Bắc của con sông Dương Tử (Trường Giang), cùng với vùng hữu ngạn hạ lưu sông Dương Tử - thuộc nước Việt thời Xuân Thu. Truyền thuyết cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh, nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Kinh Dương Vương cố nhường cho Đế Nghi, nhưng không dám không vâng mệnh. Đế Minh lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho Kinh Dương Vương, làm vua cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Dương Tử Giang, đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và nơi diễn ra trận Xích Bích giữa Ngụy và liên minh Ngô - Thục Trên cơ sở câu truyện huyền thoại này, nhà nghiên cứu Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ đã tới tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc để kiểm chứng và tìm kiếm các dữ liệu lịch sử, qua bài viết Biên cương nước Việt Cổ: Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế Dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh Bắc tức Trung Quốc, Lĩnh Nam tức Đại Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên Đài. Nhưng dãy núi Quế Dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên Đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau ông hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho núi Thiên Đài nằm gần bên bờ Tương Giang. Thiên Đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằng đá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối, chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ Nam ông tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Ðầu đề ghi: Thiên Đài di sự lục, Trinh quán tiến sĩ Chu Minh Vãn sọan. Trinh quán là niên hiệu của vua Ðường Thái Tông, từ nãm Ðinh Hợi (627) đến Ðinh Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến sĩ nãm nào? Tuy sách do Chu Minh Vãn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh Vãn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh Vãn, của một sư ni tên Ðàm Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang Hy (1662-1772). Chu Minh Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ thư, Ngũ kinh cùng kinh Phật. Tài liệu Chu Minh Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên Đài núi cũng mang tên Thiên Đài sơn, Minh Vãn còn kể thêm: “Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên Đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Đương. Đến thời Đông Hán, một tướng của vua Bà (Trưng Trắc và Trưng Nhị) tên Đào Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa. Khi rút tới Quế Dương ông cùng nghìn quân lên Thiên Đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Ðường để xóa vết tích Việt - Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh Nam mới cho xây chùa tại đây”. Nơi có dấu vết Thiên Đài, còn đôi câu đối khắc vào đá:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Thiên Đài đại đại phân Nam Bắc, Lĩnh địa niên niên dữ Việt Thường.Thiên Đài bao thời phân ra Nam Bắc,Ngũ Lĩnh vạn năm giống Việt Thường. Chỗ miếu thờ Đào Hiển Hiệu có đôi câu đối:Nhất kiếm Nam hồ, kinh Vũ Đế, Thiên đao Bắc lĩnh, trấn Lưu Long.Một kiếm đánh trận Nam hồ Động Đình, kinh tâm Quang Vũ,Một nghìn tay đao Bắc núi Ngũ Lĩnh, trấn áp Lưu Long. Như vậy, việc vua Đế Minh tế cáo trời đất là có thực, vì có Thiên Đài, nên thời Lĩnh Nam mới có trận đánh hồ Động Đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh địa Văn Lang xưa quả tới núi Ngũ Lĩnh, hồ Động Đình. Ngày nay, lãnh thổ vùng Giang Nam đều có đền thờ Hai Bà Trưng tức Vua Bà ở khắp nơi., chẳng hạn tại tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình có miều thờ với chữ đại tự “Trưng Vương Miếu”. Đền Đồng Nhân - dao cán tượng “Hai Bà” Tranh dân giang Đông Hồ, Việt Nam và cổ vật Đông Sơn Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (?-43) đánh đuổi giặc Hán, chỉ trong một thời gian ngắn đã thu phục trên 65 thành trì và thống nhất toàn bộ vùng Lĩnh Nam, Nam sông Dương Tử, giang sơn lại về một mối. Có lẽ, trong lịch sử chiến tranh thế giới mà người phụ nữ đứng lên, tốc chiến tốc thắng và trở thành vua của một lãnh thổ rộng lớn là chỉ có một, nếu đem so sánh với lịch sử của 10 người phụ nữ được cho là vĩ đại nhất thế giới trong đó ____ (Thập đại tùng thư - Mười người đàn bà làm chấn động thế giới, tác giả Bốc Tùng Lâm, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010). Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Tam Quốc Chí, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không đã ngụ ý: Thành Tề, hạ bảy mươi hai,Thế gian há dễ mấy ai nối mình?Hai người công tích rành rành,Đến nay ai bảo không anh hùng nào?.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Mặc dù cuộc chiến đã thất bại, nhưng người dân Lạc Việt vẫn trân trọng gìn giữ hình ảnh bất khuất của Hai Bà - tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của người dân Việt. Cho đến tận bây giờ, vẫn còn vang vọng những bài thơ bi tráng ca ngợi Hai Bà: Ải Bắc, quân thù kinh vó ngựa,Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi.Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá,Trăng chếch, ngôi trời bóng lẻ soi. (trích bài thơ Trưng Nữ Vương, nữ sĩ Ngân Giang).Gần 200 năm sau, một nữ anh hùng khác là Triệu Thị Trinh (225-248) đã cùng anh Triệu Quốc Đạt chiêu tập nghĩa binh, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân. Người ta kể lại rằng khi người thân hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: "Lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị!". Bà Triệu là người giỏi võ nghệ, có chí lớn, năm 19 tuổi, có người hỏi bà về việc chồng con, bà nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô xâm lược, cởi ách nô lệ, chứ không chịu cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp cho người ta”. Trong nhân dân còn mãi lưu truyền câu ca dao nói lên lòng tôn kính đối với Bà Triệu: Ru con, con ngủ cho lành,Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.Muốn coi lên núi mà coi,Có bà Triệu Tướng cưỡi voi đánh cồng. Còn quân Ngô, sau những lần bị Bà Triệu đánh bại, đã khiếp đảm: Múa giáo giết cọp dễ,Đối diện vua Bà khó! Hình ảnh của Bà Triệu được phác họa trong dân gian như một nữ tướng oai nghiêm “mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi trận”. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ có bộ tranh nhị bình lịch sử rất hùng tráng Bà Trưng và Bà Triệu. Bà Triệu Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Quay trở lại cương vực nước Văn Lang, trong bản đồ cổ cương vực thời Thương, Chu có nước Việt thuộc vùng Nam Dương Tử, mặt khác theo Sử Ký Tư Mã Thiên, vùng trường Sa cho tới thời Tần đã thuộc Trung Quốc. Vì vậy, để giải thích hiện tượng này, chúng ta cần phải xem lại sự kiện giặc Ân sang cướp nước ta trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương. Cổ sử Trung Hoa cho rằng nhà Ân Thương tồn tại xấp xỉ 400 năm (1766-1122 tr.CN Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, Tập I, Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Nxb VHTT 1997, dịch giả Trần Ngọc Thuận) nếu tính từ vua Bàn Canh nhà Thương dời đô sang Ân Khư, vì vậy gọi là nhà Ân. Gia phả ghi nhận Chi Ly - Hùng Vương VI - Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr.CN), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr.CN) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr.CN), ngang với Trung Quốc vào thời Ốc Đinh nhà Thương. Như vậy, giữa thời vua Hùng Vương thứ VI và Ân Thương có sự tương đương về niên đại, niên đại trong cổ sử Trung Hoa được coi là tương đối chính xác chỉ từ thời Chu Lệ Vương (khoảng 850 tr.CN. Sự tương đương về niên đại này không thể coi là ngẫu nhiên bởi ông cha ngày xưa viết sử biên niên chỉ dựa vào niên hiệu của các vị vua. Theo Đại Việt sử ký (Nxb Tp Hồ Chí Minh 1993 - dịch giả Nguyễn Gia Tường): “Việt Vương Câu Tiễn (505-465 tr.CN) thường sai sứ sang dụ, Hùng Vương chống cự lại”. Nước Việt cuối thời Xuân Thu là một nước ở vùng Triết Giang Trung Hoa ngày nay tức là vùng đất của Văn Lang cũ theo truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, vào thời Câu Tiễn là một quốc gia hùng mạnh, bá chủ của các nước chư hầu thuộc vùng Nam Trung Quốc cuối thời Xuân Thu của nhà Chu. Nước Việt có một nền khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là kỹ thuật luyện kim, những thanh kiếm báu nổi tiếng trong truyền thuyết là Can Tương và Mạc Da đều được sản xuất từ nước này. Với một thực lực hùng hậu như vậy, mà chưa hề có một truyền thuyết, di vật hoặc thư tịch nào chứng tỏ có một cuộc chiến giữa Việt Câu Tiễn và Văn Lan và sự kiện này cũng chứng tỏ rằng Văn Lang rất mạnh. Thanh kiếm Việt Vương Câu TiễnẢnh tham khảo Trong Chu Dịch về ý nghĩa của quẻ Ký Tế, phần Tượng truyện, hào 3 có nói:“Cửu tam: Cao Tôn phạt Quỉ phương, tam niên khắc chi, tiểu nhân vật dụng -Vua đánh các vùng nước Quỷ, ba năm mới được, chớ dùng tiểu nhân”. Bị chú hào này: trong bản Chu Dịch hiện lưu hành, vua ở đây ghi là Cao Tông tức vua Cao Tông nhà Ân Thương. Thuật ngữ Quỷ Phương chỉ các phương giống người quỷ tức người còn man rợ như phía trên đã nói: Nam Man, Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung. Nước Việt Thường chúng ta cũng bị nhà Chu gọi là nước Xích Quỷ... nhà Ân Thương có điều quân đi đánh bốn phương đều dẹp loạn, có xuống đến tỉnh Quý Châu. Ở đây có bộ tộc Thi La Quỷ, thời Hùng Vương thứ VI, vào đánh nước ta nhân danh nhà Ân Thương (Theo Vũ Quỳnh trong sách Tân đính Lĩnh Nam Chích Quái). Vua Cao Tông nhà Ân Thương tên là Vũ Đinh, con Đế Tiểu Ất và cháu vua Bàn Canh. Vũ Đinh có đánh dẹp quanh hồ Động Đình và đến vùng Quý Châu, có thể cuộc dẹp loạn trải qua ba năm. Quẻ Tùy, hào 6 có nói: “Thượng lục: Câu hệ chi, nãi tùng duy chi, vương dụng hanh vu tây sơn - Lòng mình theo mình cấu kết không rời, không trói buộc cũng theo, như dân ấp Mân theo vua chạy qua Tây Sơn”. (Phần trích dẫn, theo Kinh Dịch Phục Hy, Gs. Bùi Văn Nguyên - Nxb Khoa học Xã hội - Hà Nội 1997). Đất Mân thuộc địa danh khoảng vùng Phúc Kiến ngày nay (Khả năng sau này là nước Mân Việt mà Sử ký của Tư Mã Thiên nhắc đến trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện), vào thời Chu, đất Mân không thuộc về Trung Quốc. Nhưng với quan niệm cho rằng: Hào 6 của Kinh Dịch phản ánh cuộc chiến Ân Thương - Văn Lang, thì đây có thể là đoạn miêu tả cuộc rút lui của quân đội vua Hùng về phía Tây núi Lĩnh Nam, thuộc bộ Vũ Ninh (Quí Châu ngày nay). Tại đây, vua Hùng đã kịp triệu tập quân đội các bộ chống giặc và ngài Phù Đổng Thiên Vương đã hiện thân cứu nước. Vua Vũ Đinh nhà Ân Thương khả năng chính là vua Ốc Đinh. Trong những thư tịch cổ của Trung Hoa còn lại đến ngày nay thì không có sử sách nào nói đến, ngoại trừ một cuộc chiến mà truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương đã nhắc tới, điều này chứng tỏ chính nhà Ân Thương đã gây chiến với Văn Lang cho nên không có quan hệ ngoại giao. Sau khi mất các vùng đất, có lẽ Văn Lang đã không chủ động giành lại những vùng đất này, chứng tỏ khả năng các vua Hùng đã có những sách lược không gây chiến tranh, cùng tồn tại với nhà Ân Thương cho tới khi chuyển qua đời Chu. Do đó, khi nhà Chu lật đổ Ân Thương, đương nhiên tiếp quản và làm đất phong cho con cháu, công thần của họ. Điều này giải thích tại sao một số nước chư hầu của nhà Chu đã xuất hiện ở đấy như Ngô, Việt và một phần nước Sở.Bản đồ thời Chiến QuốcThời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tấm bản đồ Chiến quốc được vẽ lại từ những tấm bản đồ minh họa trong cuốn Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, tập I của Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương (Nxb VHTT 1997 - Dịch giả Trần Ngọc Thuận) và phần biên giới của các nước chư hầu nhà Chu trong Bản đồ Trung Quốc vào khoảng 350 năm tr.CN (Sử Trung Quốc, Tập I của Nguyễn Hiến Lê - Nxb Văn Hóa - 1997). Qua tấm bản đồ trên chúng ta sẽ nhận thấy: nếu nước Văn Lang chỉ giới hạn ở một vùng thuộc Bắc Việt Nam ngày nay, mà lại được sự quan tâm của Việt Vương Câu Tiễn để làm đồng minh chống lại Trung Nguyên thì thật là một sự vô lý. Từ giới hạn biên giới phía Nam của các nước chư hầu nhà Chu thời Chiến quốc đến biên giới phía Bắc hiện nay của Việt Nam là một khoảng trống lớn. Trong khoảng trống đó có vùng Quý Châu là điểm mà vua Ân tuần thú xuống phía Nam để đánh các nước Quỷ. Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương có nói: Ngài giáng hạ ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Như vậy, theo truyền thuyết giặc đã đánh đến ngay quê hương của ngài. Do đó, so với những lời chú thích trong quẻ Ký Tế thì hoàn toàn có cơ sở để đặt một giả thuyết cho rằng: bộ Vũ Ninh chính là vùng Quý Châu cũ.Bản đồ thời TầnThời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tấm bản đồ thời kỳ nhà Tần trong cuốn Lịch sử Trung Quốc 5000 năm. Theo sử Trung Hoa thì Nam Việt lúc đầu thuộc nhà Tần, nhưng đến cuối thời Tần thì tách ra lập một quốc gia riêng. Từ bản đồ này, có thể thấy trong khoảng 125 năm (350-221 tr.CN) lãnh thổ Văn Lang đã bị thu hẹp đáng kể. Sự hình thành một số quốc gia như Dạ Lang, Điền Việt, Tây Âu, đây vốn là những vùng đất các bộ thuộc Văn Lang, tức là đã có những tổ chức xã hội ổn định và phát triển, nên hoàn toàn có cơ sở để từ đó hình thành những quốc gia độc lập, do những sự biến động lớn của lịch sử (Trích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Trong cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, tác giả giải thích “Quỷ phương” liên hệ đến vùng đất Quý Châu, tức bờ Nam sông Dương Tử. Mặt khác, theo truyện Bát Tiên đắc đạo khuyết danh, thời nhà Hạ Trung Quốc thì Nam Dương Tử vẫn còn thuộc nước Việt, vua Hạ Vũ trị thủy nhờ vào kinh nghiệm của người Việt, tác giả khẳng định: “Chuyện Hạ Vũ trị thủy có ghi chép đầy đủ chi tiết trong thiên “Vũ Cống” đối với sách Bát Tiên Đắc Đạo không quan hệ bao nhiêu chỉ là bổ khuyết cho nhau thôi”. Bát Tiên Đắc Đạo là câu truyện thần tiên được sáng tác dựa trên các hình ảnh động vật biển hóa thân mà chỉ có duy nhất trên bức tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam là Bát Tiên náo hải, do vậy tác giả cuốn sách này chắc chắn phải là một người Việt. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Tây Du Ký, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tại Hồi 67: “Cứu xóm Đà La thiền tính vững - Thoát đường ô uế đạo tâm trong” nói về vùng Thủy Nguyên, Hải Phòng nơi đất trồng nhiều cây thị (ngày nay vẫn còn) và nhắc lại sự kiện vua Đại Vũ trong lịch sử Trung Quốc, ông cưới vợ Việt vùng Đồ Sơn được ghi lại trong Thiên Ích Tắc, Kinh Thư, do Khổng Tử san định. Hồi sách này cũng là mật ngữ nói về câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám mà cô Tấm xinh đẹp đã dấu mình trong quả thị “Thị ơi thị rụng bị bà - Bà về bà ngửi chứ bà không ăn”. Tác giả ý muốn nói Cô Tấm nhân hậu chính là hoàng hậu của vua Đại Vũ nhà Hạ và ông Bụt (Phật) trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám đã có trước thời vua Đại Vũ rồi. Đồng thời, tên vùng Thủy Nguyên cũng còn mang ý nghĩa lịch sử: nơi đã từng chôn vùi những đạo quân thiện chiến Nguyên Mông nhất thế giới thời bấy giờ khét tiếng bạo tàn. Rõ ràng, nước Việt cùng thời nhà Hạ Trung Quốc không thể là nước Việt hạ lưu sông Dương Tử được, bởi thời kỳ này vùng Nam sông Dương Tử vẫn thuộc nước Văn Lang của các vua Hùng. Cho nên, vua Hạ Vũ lấy vợ người Việt khẳng định trong sách sử, bà chính là người nước Văn Lang. Do vậy, Bát Tiên đắc đạo và Tây Du Ký đã đề cập tới sự kiện lớn trong lịch sử giữa hai nước Văn Lang và Trung Quốc thời kỳ này. Câu chuyện Tấm Cám và tính minh triết Việt Dịch Với tâm hồn trong sạch của tuổi thơ, chúng ta cảm nhận được ở chuyện Tấm Cám về cái thiện đã thắng cái ác và kẻ ác phải trả giá cho việc làm của họ. Câu chuyện Tấm Cám không chỉ mang một triết lý nhân sinh về tính nhân quả gần gũi với giáo lý Phật giáo, mà còn chưa đựng trong đó cả một giá trị minh triết Đông phương đó chính là sự minh triết Việt Dịch. Có thể khẳng định rằng: Hầu hết những di sản văn hoá phi vật thể Việt để lại cho hậu thế đều mang tính minh triết rất sâu sắc. Mỗi câu ca dao tục ngữ đều là một châm ngôn về con người và cuộc sống, về cách xử thế hàng ngày, hoặc đó là những lời khuyên khôn ngoan về các tri thức thiên nhiên xã hội và con người. Trong những di sản văn hoá độc đáo ấy, chúng ta nếu chịu suy nghĩ và tìm tòi, còn thấy cả những chìa khóa giải mã những bí ẩn của giá trị Đông phương. Câu chuyện Tấm Cám của dân tộc Việt, ngoài những giá trị về tính minh triết và nhân văn, còn là giá trị khám phá sự bí ẩn của Đông phương của Việt Dịch. Chính vì nội dung rất sâu sắc và tính minh triết của câu truyện này, đã khiến cho tác phẩm có một sức sống vượt thời gian và không gian trải hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử Việt. Một thời gian mà tất cả các tác giả của nhân loại hiện đại, không một ai dám mơ ước cho những tác phẩm vĩ đại của họ. Mở đầu câu truyện, chúng ta thấy cảnh ngộ của Tấm thật là bi đát: Cha mẹ mất sớm và ở với dì ghẻ.Đây là những mâu thuẫn đầu tiên của con người, trong mối quan hệ xã hội. Mâu thuẫn này không mang nặng tính ý thức hệ, như sau này khi xã hội loài người phát triển. Đối tượng chính trong câu truyện này là bà mẹ Cám và Tấm, cô Cám chỉ là một cái cớ để câu truyện diễn tiến. Sự tồn tại của ba nhân vật nữ chính và sự bị đát của cô Tấm cho thấy một hoàn cảnh thuần Âm, được biểu tượng bằng ba người đàn bà trong gia đình. Đó chính là tượng của quẻ Thuần Khôn: và địa vị của cô Tấm, trưởng nữ, tượng của quẻ Tốn: Mâu thuẫn xã hội là một thực tại và nó phát triển theo quá trính phát triển của lịch sử nhân loại. Mâu thuẫn đầu tiên và sơ khai nhất chính là mối quan hệ gia đình và hoàn cảnh của cô Tấm trong câu chuyện là một ví dụ. Nếu câu chuyện giải quyết theo hướng người mẹ kế của cô Tấm có ý thức nhân đạo, nuôi cô Tấm như con đẻ của mình. Như vậy, sẽ có Dương (Ý thức thuộc Dương) trong Âm (Ba người đàn bà) thì Âm Dương đã cân bằng và câu chuyện bi thương này diễn biến theo chiều hướng khác. Nhưng bà mẹ của Cám lại sống theo bản năng của người đàn bà trong mối quan hệ giữa con mình và con không do mình đẻ ra. Trong giai đoạn đầu, tính thuần Âm chỉ đạo toàn bộ sự diễn tiến và phát triển của câu truyện. Âm càng phát thì mâu thuẫn ngày càng tăng. Chuyện bắt đầu chỉ là con tép, rồi lên con cá. Sau đó, khi mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển trong lịch sử tiến hoá của loài người thì nhu cầu về ăn mặc cũng phát triển. Phần Dương trong một hoàn cảnh thuần Âm này chỉ là mơ ước của Tấm với hình tượng ông Bụt hiện lên mỗi khi hoạn nạn. Với những người nghiên cứu về Kinh Dịch, chúng ta đều biết rằng: Trong một quẻ 6 hào thì quái Thượng phía trên là Dương, quái Hạ, phía dưới là Âm. Qua ba giai đoạn gian truân trong gia đình và phát triển từ thấp đến cao, chính là ba hào Âm của quái Hạ: Ba sự kiện đó là giỏ tép bị tráo, cá bống bị giết và sự đau khổ của Tấm khi phải nhặt thóc một cách vô vọng cho ước mơ của mình. Đây chính là hình tượng ba hào Âm cuối của quẻ thuần Khôn. Trong giai đoạn này, Đến Hào hai - Hào Lục nhị là Hào Âm chính vị theo lý Dịch - hình tượng của con cá bống mỗi khi Tấm cho ăn, có một câu ca kỳ lạ: Bống bống bang bang, Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta,Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Câu ca nổi tiếng này được các bà mẹ Việt truyền từ đời này sang đời khác - qua bao thăng trầm của giống nòi - khi kể lại câu truyện cho đứa con thơ dại. Mỗi khi đọc bài ca này, mắt mẹ lại ánh lên nhìn vào mặt con, như muốn truyền cảm tình yêu mái ấm gia đình mà mẹ là người chở che, bao bọc. Cũng như chuyện thằng Bờm, sự quay cuồng bão tố của không thời gian lịch sử không làm thay đổi một chữ. Ở đây, trong bài ca này của cô Tấm, cũng không hề bị sửa chữa bởi một ý thức hàn lâm ngớ ngẩn. Tại sao thể nhỉ? Ông cha ta dùng ngoa ngữ chăng? Cơm của Tấm cũng là cơm lại là cơm của con nhà nghèo, làm sao gọi là cơm vàng cơm bạc được? Phải chăng đây chính là hình tượng, nhắc nhở hậu thế đừng vội quay lưng với những di sản của ông cha. Mà trong đó, ẩn chứa những giá trị vô giá không thể so sánh với những giá trị vật chất tầm thường. Khi Tấm cưỡi ngựa hồng, mặc áo đẹp, đội nón quai thao, mang hài đi dự lễ hội, thoả mãn ước mơ của mình thì câu chuyện bước sang một cấu trúc khác. Mâu thuẫn của mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình, đã chuyển sang mâu thuẫn trong quan hệ xã hội: Mâu thuẫn về danh vọng và quyền lực. Tấm đang ở trong hào Lục tứ của quẻ thuần Khôn thuộc Âm. Xã hội loài người liên tục phát triển thì mâu thuẫn xã hội tiếp tục phát triển với những hình thái mới của nó. Qua giai đoạn thuần Âm của ba hào của quái Khôn hạ, mâu thuẫn xã hội chuyển sang một hình thái mới là Dương trong Âm của 3 hào trong quái Khôn thượng của quẻ Thuần khôn. Diễn biến của câu truyên từ lúc này về sau không có hình ảnh của ông Bụt (Tính Dương trong quái Hạ thuần Âm). Trong hào lục tứ chính vị, Tấm được tấn phong hoàng hậu chỉ dưới hào Cửu Ngũ là hào của vua. Nếu như lúc Tấm trở về làng, mẹ con nhà Cám phục tùng hoàng hậu, giữ đạo quần thần. Tức là có ý thức trong mối quan hệ xã hội (Thuộc Dương) thì câu truyện có thể chấm dứt ở đây. Và đây cũng là kết thúc của một câu chuyện dị bản tương tự của văn hoá cổ Châu Âu trong câu chuyện Lọ Lem. Nhưng nền văn minh cổ của người Việt đã tiếp tục câu chuyện sâu sắc hơn nhiều, theo đúng tinh thần của Dịch học: Quẻ Thuần Khôn chưa đi hết 6 hào của nó và mâu thuẫn xã hội tiếp tục phát triển. Tấm bị mẹ con nhà Cám lừa giết chết, khi đang trèo lên cây cau và biến thành con chim vàng anh. Đây là lần biến hoá thứ nhất của hào Lục Tứ. Sự tranh chấp quyền lực - mâu thuẫn trong quan hệ xã hội - vẫn tiếp tục xảy ra và Âm vẫn thắng Dương: Con chim vàng anh hoá thân của Tấm bị giết. Đến đây sự kiện chuyển sang hào lục ngũ: Linh hồn của Tấm biến thành cây xoan tiếp tục oán than. Cám tiếp tục truy sát, chặt cây làm khung cửi . Sự kiện tột cùng của hào Thượng lục trong quẻ thuần Khôn và cũng là lúc Âm đạt đến đỉnh cao nhất: Tấm trở thành cái khung cửi và là một công cụ của Cám.Chúng ta cũng nhận thấy rằng: Trong giai đoạn sau được diễn tả thông qua 3 hào thượng của quẻ Thuần Khôn - từ lục tứ đến thượng lục - không có hình ảnh của Bụt trong câu chuyện. Linh hồn của Tấm - thuộc Dương trong Âm (Hồn người chết) - trực tiếp tham gia diễn biến câu truyện, thay thế cho hình tượng ông Bụt. Nhiềư nhà phê bình văn học đã cho rằng: Đây là hình ảnh chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Nhưng đây chính là sự minh hoạ đặc sắc cho tính vi diệu của Dịch học, có sự tương đồng với Phật Pháp. Để chứng tỏ điều này, chúng ta có thể xem lại bản văn sau đây trong Kinh Dịch:Hệ Từ thượng truyện. Chương V. Tiết 2 viết: Ngẩng lên xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý, cho nên biết cái cớ của sáng tối. Quay về nguyên thuỷ của vạn vật, theo dõi đến cuối cùng, nên biết được bài học về sống chết. Tinh khí hợp lại sinh ra vạn vật. Hồn thoát ra tạo nên biến hóa, nên biết được tình trạng của quỉ thần. Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên “Hồn thoát ra ngoài tạo nên biến hoá”, cho thấy tinh thần của Dịch rất gần gũi với giáo pháp của Phật về sự luân hồi. Bởi vậy nên có sự quan hệ giữa chuyện Tấm Cám và ảnh hưởng của Phật giáo, điều này cũng giống như sự tích Chử Đồng Tử hoặc sự tích Cây Nêu, đều có hình ảnh của Đức Phật, nhưng hình tượng cây Nêu là một giá trị văn hoá phi vật thể thuần Việt: Chỉ có ở văn hoá Việt Nam mới có cây Nêu, còn những quốc gia ảnh hưởng Phật pháp khác, không có hình tượng này, điều này cho thấy hình tượng cây nêu là một sản phẩm văn hoá thuần Việt. Nhưng chính tính gần gũi của tư tưởng Dịch học và Phật pháp, nên sự tích cây Nêu đã dùng hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật phủ lên cây nên. Đây là một biểu tượng sự che chở của Phật Pháp cho những giá trị văn hoá Việt trong sự bi tráng của lịch sử giống nòi, vì tình gần gũi của những giá trị minh triết trong văn hoá truyền thống Việt với Phật pháp. Quay trở lại với nội dung câu chuyện Tấm cám, chúng ta thấy rằng: Mâu thuẫn đã lên đến tột đỉnh trong quan hệ xã hội của con người. Đó là mâu thuẫn ở đỉnh cao của quyền lực: Tấm và Cám trong sự tranh giành địa vị Hoàng Hậu. Âm tính đã phát triển đến hào Thượng Lục trong quẻ Thuần Khôn. Vì tính thuần Âm nên mâu thuẫn không được giải quyết. Linh hồn của Tấm vẫn khắc khoải với sự đau khổ, oan trái của mình. Nhưng về Lý Dịch thì sự việc phải chuyển hóa. Chiếc khung cửi bị Cám đốt hoá thành tro đã chuyển hoá câu chuyển sang một hoàn cảnh mới: Nhất Dương sinh, theo nguyên lý cực Âm sinh Dương của Dịch. Quả Thị là một biểu tượng tuyệt vời trong trường hợp này. Đây là một loại quả chỉ dùng trong việc thờ cúng của văn hoá truyền thống Việt. Quả thị chỉ có mùi hương (Mùi vị thuộc Dương - hình thể thuộc Âm) và không ăn được. Thị ơi! Thị à! Thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi, chứ bà không ăn! Các bà mẹ Việt Nam kể lại câu chuyện này, cũng có bà bảo rằng: Chính vì vậy mà quả thị từ đó về sau không ăn được. Linh hồn của Tấm nấp trong quả thị và phục sinh từ quả thị. Đây là hình tượng của quẻ Phục, nhất Dương sinh: Tấm đã sống lại và ở với bà lão. Như vậy, khi linh hồn cô Tấm nằm trong quả thị và hàng ngày bước ra giúp dọn việc nhà thì câu chuyện đã đang ở trong hào Nhất Dương sơ Cửu của quẻ Phục. Khi bà lão rình phát hiện được Tấm và xé bỏ quả thị đi thì cô Tấm hoàn Dương. Cô Tấm sống với bà lão, chính là hào 2 Cửu nhị của quẻ Lâm và câu chuyện đang diễn biến trong nội hàm của nó. Ngôi Dương của hào cửu nhị không đắc chính. Tấm còn đang chịu cảnh đất khách quê người. Câu chuyện tiếp diễn khi nhà vua tình cờ vi hành qua hàng nước của bà lão. Một tình tiết rất độc đáo ở giai đoạn này và có lẽ cũng là lời giáo huấn của tiền nhân, chính là hình ành của miếng trầu têm cánh phượng. Trầu cau là một giá trị đặc thù của văn hoá Việt. Trầu têm cánh phượng chính là hình tượng của một giá trị cao nhất của nền văn hoá đó. Và chỉ có cô Tấm mới thực hiện được điều này. Toàn bộ đoạn này, cha ông ta đã gửi gắm lại cho đời sau một thông điệp: “Chính những giá trị văn hoá Việt là tiền đề cho sức sống và sự phát triển của dân tộc Việt”. Bởi vậy, những thế hệ tiếp nối nền văn hiến Việt phải có trách nhiệm bảo tồn những giá trị văn hóa Việt. Khi nền văn minh toàn cầu hội nhập thì dân tộc nào có giá trị văn hóa cao cấp, chính là dân tộc được trân trọng trên thế giới. Trở lại với câu truyện Tấm Cám, chúng ta thấy rằng: Nhờ miếng trầu têm cánh phượng, nhà vua đã đưa cô Tấm trở về hoàng cung và là chính cung hoàng hậu. Câu chuyện đang ở hào Cửu Tam. Dương đắc ngôi dương. Nhưng đến đây nếu chúng ta vội cho rằng: 3 hào Âm của quẻ Thuần khôn đã biến thành ba hào Dương là tượng của quẻ Địa Thiên Thái thì thật sai lầm. Đây chưa phải là quẻ Địa Thiên Thái. Về tượng quái thì quẻ Khôn trong Địa thiên thái và trong quẻ Thuần Khôn đều giống nhau. Nhưng là những người đã tìm hiểu về Dịch thì chúng ta sẽ thấy rằng: Ý nghĩa của cùng một quái nhưng ở hai quẻ khác nhau sẽ khác nhau. Quái thượng Khôn trong quẻ Thuần Khôn và quái thượng Khôn trong quẻ Địa Thiên Thái, mặc dù giống về hình tương nhưng không thể cùng một nội dung. Sự tuần hoàn của tạo hoá khiến mỗi quẻ ở vị trí khác nhau trong vòng tuần hoàn vô tận, sẽ không giống nhau dù giống tượng. Điều này giải thích lá số Tử Vi trùng dữ kiện 60 năm trước và 60 năm sau, dù giống hệt nhau nhưng không thể giống nhau. Sao Thiên Mã 100 năm trước là con ngựa, nhưng 100 năm sau là xe hơi. Người sinh cùng ngày giờ tháng năm, nhưng ở hai hoa giáp khác nhau sẽ có độ số khác nhau… Bởi vậy, quái Khôn trong quẻ Thuần Khôn tượng là bà mẹ của Cám, nhưng quái Khôn trong quẻ Địa Thiên Thái thì lại khác hẳn về tính chất. Đó chính là sự chuyển hoá tính chất khi những sự kiện diễn biến liên tục ở đoạn cuối. Cám chết vì tham vọng vô độ. Cô ta không từ một cách nào dể đạt mục đích. Lòng tham đã dẫn đến sự ngu xuẩn, thể hiện bằng hành động tự dội nước sôi vào mình. Bà mẹ Cám ăn thịt con mà không biết. Đây là một hình tượng rất ấn tượng vì tính khủng khiếp của nó. Nhưng về tính minh triết của hình tượng này lại cho thấy: Chính bà mẹ Cám đã giết dần con mình khi xui con lao vào tội ác. Bà mẹ Cám đã ăn thịt chính con bà từ lâu. Đến khi thấy hậu quả của tội ác chính bà thì bà ta cũng chết. Bởi vậy, chính hình ảnh ấn tượng này lại là sự cảnh tỉnh cho lòng tham của con người làm ảnh hưởng đến thế hệ sau. Khi bà mẹ Cám - tượng cho quái Khôn trong quẻ Thuần Khôn chết và Tấm - trưởng nữ, tượng quái Tốn - chính thức thay thế trong vị trí hoàng hậu làm Mẫu nghi thiên hạ - Một nội dung khác của quái Khôn để cuộc đời mở ra với quẻ Địa Thiên Thái. Và cũng chính hình tượng này lại cho thấy vị trí của Tốn (Trưởng Nữ - Tấm) phải thay thế cho quái Khôn - Mẹ Cám trong Việt Dịch với Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ.Hình minh họa Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ & Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư Câu chuyện Tấm Cám với luận điểm trình bày trong bài viết này thì đây chính là nội dung sâu sắc đầy tình minh triết của văn hiến Lạc Việt. Có thể nói, chỉ có truyện Tấm Cám của Việt Nam mới có nhiều tình tiết trong một mạch truyện xuyên suốt, mang tính minh triết thông qua những hình tượng của nó, hơn hẳn những chuyện dị bản của những nền văn hoá khác. Do đó, nếu chỉ với cái nhìn thông thường thì cũng thật là bất công khi những kẻ ác như mẹ con nhà Cám không bị trừng trị. Trong truyện Thạch Sanh, chàng Thạch Sanh cũng tha chết cho mẹ con Lý Thông đấy chứ! Nhưng cũng sẽ không thể gợi lên một ước mơ công lý, nếu những nhân vật này không bị sét đánh chết. Câu truyện Tấm Cám đã sống với nền văn hoá dân tộc Việt trải hàng thiên niên kỷ, còn chưa đựng nhiều nội dung sâu sắc thuộc về nền minh triết Lạc Việt. (Trích bài viết Câu chuyện Tấm Cám và tính minh triết việt dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).Truyền thuyết cũng đã ghi nhận vua Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ, chữ Xích nghĩa là màu đỏ, phương Nam, nơi của ánh sáng tức là nơi của văn minh, còn chữ Quỷ chiết tự bao gồm 3 chữ Vương, như vậy Xích Quỷ có thể đọc là Ba Vua Đỏ, Ba Mặt Trời hay mảnh đất của của Ba Mặt Trời hay đó chính là Vua Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân và cũng là “Tam vị nhất thể” trong các tôn giáo trên thế giới. Trong Dịch lý thì mang ý nghĩa “Tam Dương” như đã trình bày trong các chương trước. Mặt khác, chữ Quỷ hiện cũng mang ý nghĩa là quỷ tức thuộc Cõi Âm, Cõi Chết và đấy là lý do Ải Nam Quan còn gọi là Quỷ Môn Quan, cổng tới Cõi Chết, Cõi Phong Đô, “kinh đô của Gió” hay “kinh đô Tây Phương” tức bộ Phong Châu - một trong 15 bộ thuộc Văn Lang cổ. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng Tranh tham khảo Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn. Nghĩa là:Cổng địa ngục, Cổng địa ngục! Mười người đi, một người về. Quỷ Môn Quan chính là một phần không thể tách rời của Ải Chi Lăng. Đến thời Tây Sơn, vua Quang Trung, sau khi dành độc lập chủ quyền cho đất nước, ông đã gởi biểu cho nhà Thanh đòi lại đất Lưỡng Quảng. Đến năm Nhâm Tý (1792), để thăm dò thái độ nhà Thanh, Quang Trung cử một phái đoàn do tướng Võ Văn Dũng làm Chánh sứ sang Trung Quốc với hai đề nghị: cầu hôn với công chúa Nhà Thanh và đòi lại đất Lưỡng Quảng. Về vấn đề này, cuốn gia phả họ Võ của Võ Đình Thứ (cháu ba đời Võ Văn Dũng) soạn năm Tự Đức thứ 23 (Bính Ngọ - 1870) cho biết: khi bệ kiến Càn Long, Võ Văn Dũng đã tâu xin cầu hôn với công chúa nhà Thanh và xin đất Quảng Đông và Quảng Tây để làm kinh đô, viện cớ nhà vua đang ở nước hẻo lánh, hai đường thủy bộ đều không tiện … Càn Long đem điều tâu xin của Võ Văn Dũng giao cho đình thần nghị xét và sau đó chuẩn y cho Quang Trung tỉnh Quảng Tây. Riêng việc cầu hôn, Càn Long cũng thuận ý và xuống chiếu giao cho bộ Lễ sửa soạn nghi thức và chọn ngày cho công chúa nhà Thanh sang nước Nam kết duyên với Quang Trung. Song “ước mơ vượt biên giới” của Hoàng đế Quang Trung đã không thành, vì khi bộ Lễ nhà Thanh đang xúc tiến mọi việc thì ông băng hà. Đoàn sứ giả của vua Quang Trung đến triều nhà Thanh Tranh vẽ tham khảo Qua đây, chúng ta thấy vua Quang Trung chắc đã dựa trên cổ sử Văn Lang còn ghi chép lại, để có cơ sở địa chí nhằm lấy lại hai mảnh đất Lưỡng Quảng, tức Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay. Còn theo Cổ Việt Hùng thị Thập bát Diệp Thánh Tông Ngọc Phả cổ truyền do Hàn Lâm viện Trực học sĩ soạn năm Nhâm Thìn 1472, niên hiệu Hồng Ðức thứ 3 thì vua Lê Thánh Tôn giao cho Bảng Nhãn Nguyễn Như Ðỗ nghiên cứu về cương giới nước Việt xưa. Bản Hùng Vương bát cảnh do Nguyễn Như Ðỗ sưu tập thì lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm: - Miền gò ngựa (Mã Kỳ) rộng khoảng 2.000 dặm, xưa tên là châu Ðiền nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. - Miền cỏ trâu (Ngưu Lang) rộng khoảng 1.500 dặm tức Việt Tây nay là tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. - Miền ao cá (Ngư Trì) rộng 1700 dặm xưa có tên là Việt Ðông nay là tỉnh Quảng Ðông, Trung Quốc. - Miền rừng quạ (Ô Lâm) xưa là châu Kiềm nay thuộc tỉnh Phúc Kiến, Quí châu giáp hồ Ðộng Ðình, Trung Quốc. - Miền động hoa tức tức nước Phù Nam cổ rộng khoảng 1.000 dặm thời Lê Thánh Tôn là nước Chân Lạp. Vương quốc Phù Nam cổ ở Hạ Lưu sông Mekong, Vương quốc này tồn tại mãi đến thế kỷ thứ VI. Cương giới Phù Nam trải rộng hầu như khắp lục địa Ðông Nam Á cổ bao gồm cả miền Nam Trung Việt, Nam Việt Nam sang phía Tây gồm cả thung lũng sông Mê Nam Thái Lan. Phía Bắc tới vùng trung lưu sông Mê Kông tức lãnh thổ Lào ngày nay, trải dài xuống phương Nam tới bán đảo Mã Lai, tức nước Malaysia bây giờ. - Miền núi quả (Quả Sơn) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Hồ Tôn (Lâm Ấp cổ còn gọi là Chămpa) sau là Chiêm Thành. - Miền bầy voi (Tượng Tào) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Ai Lao hay Lào. - Miền lũ hươu (Lộc Hữu) rộng khoảng 1.000 dặm ở phía Nam Ai Lao tức Cao Miên (Cambodia) bây giờ. - Còn về trước nữa thì biên giới nước ta lên tới Hồ Bắc và Nam Hà Nam lấy phân dã 2 sao Ngưu Nữ làm giới cận. Vấn đề cương vực nước Văn Lang theo Hùng Vương bát cảnh còn mở rộng về phía Nam hơn nữa, tuy nhiên chúng cũng cần phải được nghiên cứu kỹ càng và cẩn thận thêm. Cùng với vấn đề cương vực thì lịch sử nước Âu Lạc thời vua An Dương Vương hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt việc khai quật trống đồng Cổ Loa, là một chứng tích vật thể cực kỳ quan trọng, ghi nhận các thông tin liên quan đến thời kỳ này. Do vậy, chúng ta cần xác định mối quan hệ lịch sử giữa các triều đại Văn Lang và Trung Quốc: Sử cổ đại Trung Quốc Tương ứng với Văn Lang Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê với các thuyết về Ngũ Đế: - Mẹ ông Phục Hy Truyền thuyết Bà Hoa Tư - Thái Hạo, Hoàng Đế, Thần Nông, Thiếu Hạo, Chuyên Húc. Cùng xem vua Phục Hy, Thần Nông là tổ tiên của mình. - Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc Truyền thuyết về vua Phục Hy và Nữ Oa và Hoàng Đế. - Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Đế Khốc (Cốc), Đế Chí (theo Từ Hải) Đế Cốc mang hình ảnh con “chim Cốc”. - Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc (Cốc), Nghiêu, Thuấn (theo Tsui Chi) Truyền thuyết Hồng Bàng thị. Vua Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 tr.CN. Sách Kinh Thư do Khổng Tử san định: Đời Đào Đường: 2347-2246 tr.CN Bang giao Trung Quốc với việc hiến tặng rùa thần có chữ Khoa đẩu. Đời Hữu Ngu: 2246-2204 tr.CN Đời Hạ: 2204-1766 tr.CN Vua Hạ Vụ hội chư hầu tại Đồ Sơn, Hải Phòng, nước Văn Lang. Đời Thương: 1766-1123 tr.CN Cuộc chiến với Văn Lang - truyền thuyết Thánh Gióng thời Hùng Vương thứ VI. Đời Chu: 1123-249 tr.CN Bang giao Trung Quốc với việc hiến chim trĩ trắng - trở về bằng xe chỉ nam. Theo tác giả Trần Đại Sỹ qua bài viết Biên giới nước Việt cổ Vua Đế Nghi (2889-2843 tr.CN) Truyền thuyết Hồng Bàng thị. Vua Đế Lai (2843-2794 tr.CN) Gia phả Văn Lang ghi nhận vua Đế Lai là cha bà Âu Cơ, hoàng hậu vua Lạc Long Quân. Vua Ly (2795-2751 tr.CN) Vua Du Võng (2752-2696 tr.CN) Theo Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, chủ biên Đường Đắc Dương, phó chủ biên Tạ Duy Hòa, dịch giả Nguyễn Thị Thu Hiền, Nxb Hội Nhà văn, 2003 thì người Trung Quốc coi Viêm Đế và Hoàng Đế là tổ tiên sớm nhất của dân tộc Trung Quốc. Qua các dữ liệu nêu trên, chúng ta thấy lịch sử cổ đại của Trung Quốc cũng rất mù mờ, chúng ta chỉ biết rằng vua Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, Thuấn truyền ngôi cho Đại Vũ 2205-2098 tr.CN và vua Đại Vũ lấy vợ người Việt. Theo truyền thuyết Trung Quốc cổ đại, Chuyên Húc là Thiên Đế ở phương Bắc, tên là Cao Dương, cháu của Hoàng Đế. Theo Sử ký, Hoàng Đế và Luy Tổ có hai con trai là Huyền Hiêu và Xương Ý. Xương Ý được phong ở Nhược Thủy, lấy người con gái của thị tộc Thục Sơn là Xương Phó và sinh ra Chuyên Húc. Sau khi Chuyên Húc kế ngôi, thành tích chính trị thể hiện rõ rệt, xa gần đều phục tùng. Sử ký - Ngũ Đế bản kỷ, mô tả ông là người uyên bác, trầm tĩnh, có mưu lược. Ông thông hiểu mọi việc, sử dụng đất đai và ghi chép thời tiết, chú trọng việc giáo hóa và định ra các chế độ. Dân các tộc phía Bắc tới U Lăng, phía Nam tới Giao Chỉ, phía Tây tới Lưu Sa, phía Đông tới Bàn Mộc đều thuận theo. Chuyên Húc - Đế Khốc - Vua Thuấn - Vua Đại Vũ Tranh tường thời nhà Hán, Trung Quốc Theo Sử ký, Chuyên Húc có người con trai là Cùng Thiền. Cùng Thiền sinh Kính Khang. Kính Khang sinh Câu Vọng. Câu Vọng sinh Kiều Ngưu. Kiều Ngưu sinh Cổ Tẩu. Cổ Tẩu sinh Trọng Hoa. Trọng Hoa tức là vua Thuấn sau này. Theo truyền thuyết, Đế Khốc trị vì từ năm 2412-2343 tr.CN. Sử ký - Ngũ Đế bản kỷ nói, Đế Khốc sinh ra đã là thần linh, tự nói tên mình, ban phát lợi vật ở khắp nơi, không nghĩ gì đến thân mình. Cũng theo Sử ký, ông là người nhân ái khiêm nhường. Ông có khả năng tận dụng tài nguyên và tài lãnh đạo mọi người. Ông còn là người chế ra lịch phù hợp và thành kính thờ tế quỷ thần. Đế Khốc có thái độ nghiêm túc, phẩm chất cao thượng, ứng xử hợp tình hợp lý, không tạo ra sự chênh lệch lớn trong xã hội. Đế Chí là một vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ, trị vì khoảng 2366-2358 tr.CN. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Đế Chí là con của Đế Khốc (hay Cốc). Sau khi vua cha qua đời, ông lên nối ngôi, nhưng không có tài cai trị nên con vợ cả của Khốc (họ Trần Phong) là Phóng Huân thay ngôi - tức Đế Nghiêu. Đế Nghiêu cũng được gọi là Giao Đường Thị. Theo Sử ký - Ngũ đế bản kỷ, ông có tên là Phóng Huân, là con trai của Đế Khốc, mẹ họ Trần Phong. Ông có người em khác mẹ là Đế Chí. Vì Nghiêu thuộc bộ tộc Đào Đường nên ông cũng được gọi là Đường Nghiêu. Cũng theo Sử ký, Đế Khốc mất, Đế Chí lên thay, tuy nhiên do Chí không có tài trị nước nên Phóng Huân thay ngôi, tức là Đế Nghiêu. Đế Thuấn là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, tên khai sinh của ông Diêu Trọng Hóa, ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị. Vua Thuấn, cùng với các vua Nghiêu và Vũ, được Nho giáo coi là những vị vua kiểu mẫu, và Thuấn nổi tiếng là người hiền đức trong thiên hạ. Theo truyền thuyết, mẹ ông, Ốc Đăng là người rất hiền đức mất sớm, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con. Danh tiếng của Thuấn đồn xa, ông được vua Nghiêu mời giúp cai quản việc nước và gả cho hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh. Sau một thời gian, Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi. Ông đặt thủ đô của vương quốc tại Bồ Phản, Sơn Tây hiện nay. Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức. Hạ Vũ (2205-2098 tr.CN) là vị vua nhà Hạ huyền thoại ở Trung Quốc cổ đại nổi tiếng với về việc chống lũ, tên ông khi sinh là Tỉ Văn Mệnh, thường được gọi là Đại Vũ. Lịch sử đời vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Hạ, Thương, Chu… được ghi chép trong Kinh Thư do Khổng Tử san định, cùng với các Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, riêng Kinh Nhạc bị thất lạc cho tới ngày nay (Tham khảo mạng Wikipedia). Kết hợp với Sử ký - Tam Hoàng bản kỷ gồm 5 đoạn thì 3 đoạn đầu chép Tam Hoàng bao gồm Thái Hạo của Bào Hy Thị (tức Phục Hy) với 111 năm, Nữ Oa của Nữ Oa Thị không rõ số năm và Viêm Đế của Thần Nông Thị với 120 năm. Viêm Đế sinh Đế Đồi, Đế Đồi sinh Đế Thừa, Đế Thừa sinh Đế Minh, Đế Minh sinh Đế Trực, Đế Trực sinh Đế Ly, Đế Ly sinh Đế Ai, Đế Ai sinh Đế Khắc, Đế Khắc sinh Đế Du, với 8 đời này tổng cộng kéo dài 530 năm thì Hiên Viên Thị mới nổi lên. Đoạn thứ tư mới nói rằng có thuyết cho rằng Tam Hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. So sánh với các gia phả cổ đại của Văn Lang, chúng ta sắp xếp được bảng tổng hợp sau: Trung Quốc Ghi nhận quan hệ hai bên Văn Lang Thủy Tổ Thủy Tổ Hòa Hy - Lịch Đại Đế Vương Gia phả cổ đại của Văn Lang Hòa Hy - Lịch Đại Đế Vương Phục Hy - Thanh Đế Truyền thuyết và huyền thoại về vua Phục Hy và Nữ Oa Phục Hy - Thanh Đế Thần Nông - Viêm Đế Truyền thuyết Hồng Bàng thị của Văn Lang. Thần Nông - Viêm Đế Đế Tiết (Đế Đồi) - Hoàng Đế Truyền thuyết Hoàng Đế của Trung Quốc. Đế Tiết - Hoàng Đế Đế Thừa - Bạch Đế Đế Thừa - Bạch Đế Đế Minh - Hắc Đế hay còn gọi Huyền Đế Truyền thuyết Hồng Bàng thị của Văn Lang. Đế Minh - Hắc Đế hay còn gọi Huyền Đế Đế Nghi tức Đế Trực (em song sinh với vua Đế Minh) Truyền thuyết Hồng Bàng thị của Văn Lang: Đế Minh chia đôi lãnh thồ cho Đế Nghi và Kin Dương Vương. Phục Hy - Thần Nông - Đế Tiết - Đế Thừa - Đế Minh chính là Ngũ Đế chung của hai quốc gia Đế Lai tức Đế Ly (con vua Đế Nghi) Gia phả cổ của Văn Lang ghi nhận Đế Lai là con của vua Đế Nghi. Vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm 2879 trCN - Hùng Vương I - Thiên Hoàng - nước Xích Quỷ Đế Chuyên Húc tức Đế Ai (nhận định là anh em với bà Âu Cơ) Gia phả Văn Lang ghi nhận con gái Đế Lai là bà Âu Cơ lấy vua Lạc Long Quân. Vua Lạc Long Quân - Hùng Vương II - Địa Hoàng Đế Cốc tức Đế Khắc Đế Cốc mang hình ảnh con “chim Cốc” Vua Hùng Quốc Vương - Hùng Vương III - Nhân Hoàng - nước Văn Lang Đế Chí tức Đế Du Vua Nghiêu: 2347-2246 tr.CN Bang giao với việc Văn Lang hiến rùa thần có chữ Khoa đẩu. Đời vua cuối cùng của chi Cấn - Hùng Vương III Vua Thuấn: 2246-2204 tr.CN Không thấy ghi nhận rõ nét Vua Kinh Dương Vương - Vua Lạc Long Quân - Vua Hùng Quốc Vương là Tam Hoàng. Vua Kinh Dương Vương là Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Thiên Hoàng. Vua Vũ: 2204-1766 tr.CN Hội chư hầu Trung Quốc tại Đồ Sơn, Hải Phòng, nước Văn Lang, ghi nhận trong Kinh Thư. Truyện cổ dân gian Tấm Cám. Nhà Thương: 1766-1123 tr.CN Thời vua Ốc Đinh gây cuộc chiến với Văn Lang được ghi nhận trong Kinh Dịch. Hùng Hồn Vương - Hùng Vương VI, truyền thuyết Thánh Gióng. Nhà Chu: 1123-249 tr.CN Bang giao với việc Văn Lang hiến chim trĩ trắng - sứ thần trở về bằng xe chỉ nam Hùng Định Vương - Hùng Vương IX (1100 tr.CN) Xuân Thu Chiến Quốc Không thấy ghi nhận rõ nét: Việt sử lược ghi nhận Việt Vương Câu Tiễn sai sứ sang dụ, Hùng Vương cự lại Nhà Tần: (221-206 tr.CN) Nhà Tần tấn công Âu Lạc Nước Âu Lạc - Vua An Dương Vương - đời cuối chi Hùng Vương XVIII với truyện Thần Kim Quy Nhà Hán Nhà Hán tấn công Nam Việt Nước Nam Việt - Triệu Vũ Đế với truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thủy Như vậy, chúng ta có thể nhận định là khoảng thời gian truyền ngôi trực tiếp từ Đế Chuyên Húc - Đế Cốc - Đế Chí cho tới vua Nghiêu ước khoảng 530 năm, từ Đế Chí cho tới vua Nghiêu mới chuyển chi. Do đó, chính từ sự tổng hợp cổ sử Trung Quốc và cổ sử Văn Lang, thì chúng ta mới làm rõ được cội nguồn dân tộc, có thơ cổ rằng: Bát bách lý Động Đình kim nhập nhãn,Ngũ thiên niên lịch sử tái tòng đầu.Tám trăm dặm Động Đình nay thu vào mắt,Năm ngàn năm lịch sử làm lại từ đầu. Cổ Loa ThànhTruyền thuyết của dân tộc Việt nói về một cuộc nhường ngôi của vị vua cuối cùng ở thời Hùng Vương thứ XVIII cho Thục Phán - An Dương Vương, về nguyên nhân kết thúc thời đại Hùng Vương, giáo sư Đào Duy Anh đã dẫn những tài liệu trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời như sau: Sách Giao Châu ngoại vực ký dẫn ở Thủy kinh chú có lẽ là sách xưa nhất chép chuyện An Dương Vương là con Thục Vương, làm vua nước Âu Lạc sau khi chiếm nước Văn Lang của Lạc Vương: “Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương và Lạc Hầu. Các huyện gọi là Lạc tướng, có ấn đồng dải xanh, tức là quan lệnh ngày nay. Sau con Thục Vương đem binh đánh Lạc Vương và Lạc hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng trị sở ở Phong Khê. Sau Nam Việt Vương là Úy Đà đánh An Dương Vương, sai hai sứ cai trị hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, tức là nước Âu Lạc”. Việt sử lược thì chỉ nói rằng: “Cuối thời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu”.Toàn thư thì chép rằng: “An Dương Vương (húy là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, sử cũ cho là họ Thục là sai) - Giáp Thìn, năm đầu (năm 58 Chu Văn Vương), vua nổi binh đánh diệt nước Văn Lang. Trước vua đã đánh nhiều lần. Hùng Vương binh cường tướng giỏi, vua nhiều lần bị thua. Hùng Vương nói rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ sao? Bèn bỏ không săn sóc vũ bị, ngày ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Quân Thục bức đến gần, Hùng Vương còn say mềm chưa tỉnh, hộc máu nhảy xuống giếng chết. Binh chúng trở giáo đầu hàng. Thục Vương gồm chiếm lấy nước, đổi tên là nước Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.” Tại miền Cao Bằng ngày nay, trong đồng bào Tày được lưu hành một truyền thuyết bằng thơ về nguồn gốc của các bộ lạc, gồm ba phần: phần thứ nhất trình bày tình hình của các bộ lạc Nam Cương, phần thứ hai kể chuyện chín chúa tranh ngôi vua, phần thứ ba trình bày sự thắng lợi của Thục Phán trong cuộc cạnh tranh ấy.Từ thuở xưa, khi người ta vừa mới biết ánh sáng, biết ăn chín, biết che thân, biết phát rừng trồng lúa, biết đào mương lấy nước, biết dựng nhà che mưa nắng thì người ta cũng tụ tập thành bản mường, nhưng mỗi mường ở độc lập một phương. Về sau người ta tụ tập đông hơn, nhiều mường họp lại thành bộ, đứng đầu là vua chủ trương mọi việc, đặt chữ cho dân, vỗ về dân chúng khiến họ làm ăn yên ổn. Vua tốt thì dân được nhờ, vua ác thì dân nổi loạn, vua mạnh thì bờ cõi yên lành, vua không được dân phục thì phải nhường ngôi cho người khác. Ở phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Trị Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình, do chín xứ họp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hòa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh (tức phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây), Quy Sơn. Từ lúc An Trị Vương lên ngôi, nhân dân yên ổn, chín xứ đều thần phục cho nên dần dần trở nên hùng cường. Nước Trung Quốc mấy lần xâm lăng đều bị đánh lui, rồi từ đấy không dám quấy nhiễu nữa, hai bên kết tình giao hảo. Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán mới lên 10 tuổi, cháu họ là Thục Mô tạm lên cầm quyền. Chín chúa nghe tin ấy tưởng rằng Thục Mô cướp ngôi, bèn kéo quân về bao vây kinh đô. Thục Mô sợ, phải giao quyền lại cho Thục Phán, các chúa mới chịu yên. Thục Phán còn nhỏ, sợ bị các chúa lấn át, nói rằng: Nay trong bộ có mười xứ, chín chúa giữ chín xứ, còn lại một xứ cho vua, như vậy thì có đâu phải là vua. Nay hãy thi tài, ai có tài hơn người mà thắng tất cả mọi cuộc thì ta xin nhường ngôi cho cai trị cả bộ. Các chúa nghe theo. Thục Phán bèn tổ chức mười cuộc thi tài:1. Đấu võ2. Làm nghề tốt việc nhanh;3. Sang Trung Quốc lấy trống rồng (có lẽ là trống đồng);4. Bắn cung trúng lá đa;5. Làm một nghìn bài thơ;6. Nhổ mạ Phiêng Pha (gần Tinh Túc) cấy ruộng Tổng Chúp (Cao Bằng);7. Đóng thuyền rồng;8. Đẽo đá làm guốc;9. Nung vôi gạch xây thành;10. Mài lưỡi cày thành kim.Trong các cuộc thi ấy Thục Phán đều dùng kế mỹ nhân để phá, không cho chúa nào thắng được, nên cuối cùng Phán được các chúa tôn làm vua. Thục Phán ra sức củng cố cơ đồ nước Nam Cương, làm cho dân giàu nước mạnh. Nước Văn Lang láng giềng bấy giờ đang suy yếu, nhân dân xiêu tán đói rét, quân lính biếng lười, các tướng chỉ thích rượu thơ. Thục Phán nhớ lại đời Tiên Vương đất nước nhiều lần bị nước Văn Lang uy hiếp, cho rằng nay đã đến lúc phục thù, bèn cất quân sang đánh, Hùng Vương nhu nhược bại vong. Thế là nước Văn Lang bị gồm làm một nước với nước Nam Cương. Thục Phán đặt tên nước mới là Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành. Từ đó bốn phương yên ổn. Do truyền thuyết trên ấy, chúng ta có thể nhận thấy rằng bộ Nam Cương do Thục Phán làm vua là tương đương với miền Cao Bằng từ Bảo Lạc lấn sang đến cả một phần phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Nếu thế thì có thể nói rằng con cháu của vua nước Thục mà Thục Phán là đại biểu cuối cùng đã từ miền Tứ Xuyên và Vân Nam vào nước Nam Cương của truyền thuyết theo đường sông Lô, sông Gầm, rồi tràn sang miền thượng lưu sông Cầu và sông Hữu Giang. Người nước Nam Cương là người gì? Chúng ta đã biết rằng người nước Văn Lang là người Lạc Việt, lại cũng biết rằng nhóm Việt tộc sinh tụ ở miền Quảng Tây, tức trong lưu vực sông Tây giang với hai nhánh của nó là Tả giang và Hữu giang, là người Tây Âu, vậy nhân dân nước Nam Cương ở đầu sông Tả giang và lưu vực Hữu giang cũng là thuộc nhóm Tây Âu. Trước hết, chúng ta xem một đoạn tư liệu sau đây trong cuốn sách nói trên của giáo sư Đào Duy Anh. “Về nước Thục ở thời Xuân Thu thì sách Hoa Dương Quốc chí đời Tấn là sách đầu tiên chép rõ. Sách ấy chép rằng: “Năm thứ 5 Chu Thận Vương, bọn đại phu Trương Nghi, Tư Mã Thác và đô úy Mặc của nước Tần theo đường Thạch Ngưu đi đánh nước Thục. Vua Thục tự cầm quân cự chiến ở Gia Manh, thua, bỏ chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần giết. Tướng phó cùng với thái tử lui đến Phùng Hương, thái tử chết ở Bạch Lộc Sơn. Thế là họ Khai Minh mất, gồm 12 đời vua nước Thục.” Về việc nhà Tần đánh nước Ba Thục, Sử ký - Truyện Trương Nghi, chép rõ như sau: “Huệ Vương nói: Phải, quả nhân xin nghe theo nhà ngươi. Rồi đem binh đánh Thục. Đến tháng 10 lấy được Thục. Bèn bình định nước Thục, truất Thục Vương, đổi hiệu làm Hầu, rồi khiến Trần Trang làm Thừa tướng nước Thục.”. Qua đoạn Sử ký nói trên có thể thấy rằng: không hề có việc Hoàng triều nước Ba Thục bị giết sạch, mà dòng dõi vua Thục vẫn tồn tại. Thời điểm nhà Tần thống nhất lục quốc được ghi nhận là năm 221 tr.CN, chấm dứt thời Chiến quốc. Để chứng tỏ điều này, có thể lấy thời điểm kết thúc thời Hùng Vương theo quan niệm mới là năm 208 tr.CN. Như chúng ta đã biết: chiến công lớn nhất tạo điều kiện để ngài Thục Phán nắm vương quyền chính là chiến công chống lại nhà Tần. Điều này trong truyền thuyết của người Tày lại không thấy nói tới hoặc giả thuyết nó xảy ra trước khi quân Tần tấn công Âu Lạc. Với giả thuyết dựa trên truyền thuyết của người Việt được lưu truyền ở Vĩnh Phú, thì Vua Hùng Vương đã nghe theo lời của ngài Tản Viên Sơn Thánh, nhường ngôi cho Thục Phán.Sau đó hậu duệ của ngài đã về miền Tây Bắc Việt Nam và một phần Nam Trung Quốc, đây chính là vùng của dân tộc Tày Mường, nơi có truyền thuyết mà giáo sư Đào Duy Anh đã dẫn chứng ở trên, cũng như trong các chương sách dẫn chứng tranh thờ các dân tộc miền Bắc Việt Nam lưu giữ gia phả Hùng Vương thứ VI trở lên. Việc hoàng tộc của vua Hùng cùng với những quan chức trung thành với ngài chuyển lên vùng Tây Bắc mà truyền thuyết người Việt nói tới, hoàn toàn phù hợp với một hiện tượng văn hóa đã được các học giả quan tâm nghiên cứu: đó chính là sự liên hệ giữa những di sản văn hóa truyền thống của vùng Tày - Mường với người Việt cổ. Tại vùng Tây Bắc Việt Nam (cũng là Tây Bắc Vĩnh Phú) tồn tại một di sản văn hóa nổi tiếng thế giới, đó là bãi đá cổ Sa Pa.Như vậy sự tồn tại của một “nước Thục” ở Quảng Tây - theo giáo sư Đào Duy Anh; chỉ có thể giải thích đó là những sự kiện vào cuối thời Hùng Vương hoặc với hậu duệ của vua Hùng sau khi đã nhường ngôi, chỉ còn cai quản và cư trú tại vùng Tây Bắc Việt Nam.Những tình tiết của cuộc chiến trong truyền thuyết dân tộc Tày và của Toàn thư, nếu theo miêu tả của những tư liệu này thì đây không thể là cuộc chiến giữa hai quốc gia, vì quá dễ dàng và đơn giản như diễn biến sân khấu. Hơn nữa, cả Việt sử lược lẫn Toàn Thư đều là những cuốn sách viết sau khi Văn Lang sụp đổ đã hàng ngàn năm.Quan điểm cho rằng: vua Hùng đã nhường ngôi cho An Dương Vương được chứng tỏ bằng những truyền thuyết, ca dao, tục ngữ lưu truyền trong dân gian, nếu triều đại Hùng Vương bị kết thúc một cách đột ngột trong chiến tranh thì không thể có sự chuẩn bị như thế.Bởi vậy, truyền thuyết cho rằng: Vua Hùng đã nghe theo lời Đức Tản Viên Sơn Thánh, nhường ngôi cho Thục Phán nhằm bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc là hoàn toàn có cơ sở và hợp lý với những hiện tượng văn hoá lịch sử liên quan. Chính vì có công lao lớn trong việc bảo tồn văn hoá Việt là nguyên nhân và cũng là sự giải thích: Ngài Tản Viên Sơn Thánh được người Việt tôn vinh là một trong Tứ trụ Thiên Vương Hộ Quốc của người Lạc Việt (trích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002).Cổng vào đền và ban thờ An Dương Vương Ảnh tham khảo Đặc biệt hơn, sau hơn 2.000 năm, chiếc trống đồng Cổ Loa tìm thấy ở xã Cổ Loa I, huyện Đông Anh, Hà Nội, hiện nay trống được giữ tại Sở Văn Hóa Hà Nội có ghi chép những dấu ấn lịch sử liên quan đến thời kỳ này. Trong hàng trăm chiếc trống đồng Đông Sơn đã được khảo sát, thì chiếc trống đầu tiên có minh văn ở nước ta chính là chiếc trống đồng Cổ Loa khai quật được ở Gò Mả Tre, khu vực nằm giữa thành Trung và thành Nội của thành Cổ Loa, vào năm 1982, còn tươi màu vàng óng, có một hàng chữ Hán rất khó đọc ở bên trong vành chân đế, hàng minh văn này đã được một số nhà khoa học nghiên cứu và công bố và nó chính là một chứng cứ vật thể cực kỳ quan trọng về thời kỳ Âu Lạc. Trống đồng Cổ Loa Trống đồng Cổ Loa, chúng loại Heger I Minh văn và chữ “Tây Vu” trên trống đồng Cổ Loa Chữ “Tây Vu” trên ấm đồng niên đại thế kỷ I tr.CN Nếu tạm chấp nhận cách đọc mới của Ba Hyu (Ba Hjo, 2011, Giải nghĩa minh văn trên trống đồng Heger loại I đào được tại Cổ Loa, trong Văn hóa Cổ đại, kỳ 1 quyển 63, Kyoto, tháng 6-2011, tr. 120-124), với sự chỉnh sửa (trích từ bài viết Trống đồng Cổ Loa - minh văn và cách hiểu mới, tác giả tiến sĩ Nguyễn Việt) ở chữ đầu tiên thì dòng minh văn trong chân trống Cổ Loa có thể đọc mới là: “Tây Vu tập (tứ thập) Bát Cổ, Trọng Lưỡng Cá Bách Bát hập Nhất Cân”, dịch nghĩa: “Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân”. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu mật ngữ trống đồng Cổ Loa nói gì? Trống đồng Cổ Loa loại H.I, cũng thuộc nhóm trống có mặt trời 14 tia sáng và thật kỳ lạ, chỉ có 16 con chim bay vành ngoài của mặt trống. Mặt trống đồng Cổ Loa Trích Phạm Huy Thông và các cộng tác viên Nhìn tổng quát, vành sinh hoạt nhân sinh cũng có các yếu tố giống như ở trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ (người nhảy múa, nhà …) duy chỉ khác các chi tiết quan trọng đó là hình các ngôi nhà theo các trục định vị đã bị đảo ngược, tức trên mặt trống Cổ Loa thì nhà thuyền, dương nằm theo trục Bắc - Nam và nhà chuông, âm nằm theo trục Tây Bắc - Đông Nam. Hình nhà chuông trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng hạ là hình cái chuông úp, còn trên trống đồng Cổ Loa lại quay ngửa lên. Mặt khác, trên nhà thuyền thì trên mái nhà thuyền chỉ có một con chim, với đuôi rất dài họ nhà trĩ giống như ở trống đồng Ngọc Lũ. Đặc biệt, cả hai nhà thuyền trên nóc đều chỉ có một con chim thay vì một và hai như trên trống Ngọc Lũ. Căn nhà này có bên góc dưới phải hình một con thú bốn chân không có sừng trông giống như con heo, có con mắt dương vòng tròn chấm. Con heo dưới chái nhà hình thuyền Khác ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ, vành cò bay trên trống đồng Cổ Loa chỉ có vành 16 con cò bay không có chim đứng, còn trên trống đồng Ngọc Lũ là 18 đôi tương ứng ngôi sao ở tâm trống 14 tia và trên trống đồng Hoàng Hạ là 14 con chim bay tương ứng với ngôi sao ở tâm trống 16 tia. Qua mô tả tổng quát bề mặt trống, chúng ta thấy vai trò của trống đồng Cổ Loa giống như trống đồng Hoàng Hạ, tuy nhiên có những điểm khác biệt với cả trống đồng Hoàng Hạ và Ngọc Lũ, nhằm mô tả lại một sự kiện lịch sử của dân tộc: - Con heo là biểu tượng của Địa chi, nằm ở vị trí cuối cùng thể hiện sự kết thúc của một chu kỳ thời gian theo thiên văn lịch pháp. Con heo ứng cung Càn trong Hậu Thiên Bát quái, phương Tây Bắc. - Sự đảo ngược các ngôi nhà thuyền và nhà chuông thể hiện sự đảo ngược thuộc tính âm dương, âm thay dương và dương thay âm hoặc ẩn ý đảo ngược vị trí địa lý hoặc thay thế triều đại quốc gia. - Trống khắc tên Tây Vu, tên một vùng hay bộ thời Âu Lạc. Tên Tây Vu là một cái tên hoàn toàn không phổ biến tại Việt Nam như những cái tên địa danh khác. - Con số 1 và 6 ghi nhận ở trên thuộc hành Thủy, cung Càn và Khảm của Hậu thiên Bát quái cũng là hành cuối trong chu kỳ vận động năm hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim và Thủy tương ứng với Thiên can. Hình ảnh vua Anh Dương Vương được thần Kim quy dẫn xuống biển chính là biểu tượng cho hành Thủy. Thời Hùng Vương thứ XVIII truyền ngôi được 6 đời - tức cung Khảm độ số 6. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt thời Âu Lạc, thì trống đồng Cổ Loa mang một số ý nghĩa lịch sử như sau: - Vua An Dương Vương là vị vua cuối cùng trong chi Hùng Vương thứ XVIII của triều đại Hùng Vương. - Vua An Dương Vương là một bộ chủ vùng cao, miền núi, phía Tây Bắc của kinh đô của nước Âu Lạc. Bộ mà vua An Dương Vương nắm có tên là Tây Vu (cũng có thể xem đây là mật ngữ). - Số 1 - Thái Cực cũng mang ý nghĩa chữ “Lý” nhỏ nhất cũng là to nhất, và số 6 mang ý nghĩa hành “Thủy”, nếu ghép lại chính là Lý Thủy, Trọng Thủy, con rể của vua An Dương Vương. Như vậy, khả năng trống này đã được làm sau khi Trọng Thủy đã cưới con gái Mỵ Châu của vua An Dương Vương. Chúng ta cần xem lại bản đồ lãnh thổ Trung Quốc nhằm định hướng phía Tây Bắc của Cổ Loa là vùng nào và xác định được đó chính là tỉnh Vân Nam (Điền Việt), điều này khẳng định chỉ có một vùng rộng lớn tương ứng với Phong Châu mới đủ tiềm lực và địa thế thuận lợi tấn công Phong Châu trước khi nhà Tần, Trung Quốc mở cuộc viễn chinh xuống phương Nam. Bản đồ hành chính Trung Quốc Tham khảo Internet Không còn nghi ngờ gì nữa, trống Cổ Loa là một chứng tích khẳng định ông là bộ chủ vùng Vân Nam, vị trí địa lý hướng Tây Bắc so với Cổ Loa và ngay cả Phong Châu với trung tâm là kinh thành Thăng Long. Các đồ đồng Điền Việt, là những chứng tích vật thể quan trọng được sử dụng để giải mật ngữ lịch sử được ghi nhận trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM. Thành Cổ Loa thời Âu Lạc [Keith W. Taylor 1983: 2] và tư liệu tham khảo Theo truyền thuyết sử cũ thì An Dương Vương tên thật là Thục Phán, là cháu nước Thục, tục gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể rằng: Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng các Lạc tướng can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng vua Hùng Duệ Vương có nhiều tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì Doanh Chính nước Tần đã kết thúc mọi hỗn chiến đời chiến quốc, thống nhất nước Trung Quốc, lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thỏa tham vọng mở mang lãnh thổ và vơ vét của quý, Doanh Chính huy động lực lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh xâm lược Bách Việt (Âu Lạc). Năm 218 tr.CN, Doanh Chính huy động 50 vạn quân đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, quân Tần phải đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực của quân Tần do viên tướng lừng danh Đồ Thư thống lĩnh vào đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân Tần nên bỏ vào rừng để bảo toàn lực lượng. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, chúng gặp khó khăn chồng chất. Quân địch tiến sâu đến đâu, người Việt làm vườn không nhà trống và trốn rừng đến đó. Chẳng mấy chốc quân Tần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương, khí hậu độc địa, thì người Việt, do Thục Phán làm tướng, mới bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường máu tháo chạy về nước. Như vậy, sau gần 10 năm lãnh đạo nhân dân Âu Lạc kháng chiến chống quân Tần thắng lợi. Thục Phán đã thực sự nắm trọn uy quyền tuyệt đổi về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy tín của Thục Vương ngày càng được cũng cố và nâng cao. Từ vị trí ấy, Thục Vương có điều kiện thi thố tài năng, dựng xây nước Âu Lạc vững mạnh (tham khảo và trích Hùng Vương Thục Phán An Dương Vương, tác giả Phạm Đức Quý, Nxb Văn hóa Thông tin, 2007). Theo câu truyện truyền truyết Thần Kim Quy, Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều đổ, sau nhờ có Rùa vàng hiện lên, bò qua bò lại nhiều vòng dưới chân thành, An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân, từ đó thành xây không đổ nữa. Kết hợp truyền truyết Thần Kim Quy cùng với câu truyện Mỵ Châu Trọng Thủy và các dữ liệu lịch sử ghi nhận trong Sử Ký Tư Mã Thiên, các truyền thuyết và gia phả trong dân gian, chúng ta có một số nhận xét như sau: - Thời điểm Thục Phán tấn công nhiều lần vào Phong Châu thời vua Hùng Duệ Vương - Hùng Vương thứ XVIII. Lịch sử không thấy ghi nhận bất kỳ một sự cát cứ nào khác từ các bộ xung quanh như Quảng Châu, Quảng Đông, Quý Châu… - Nhiều truyền thuyết và gia phả ghi nhận vua Hùng Vương truyền ngôi cho Thục Phán và Thục Phán lập lời thề tại Đền Hùng, trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. - Thành Cổ Loa được xây trước khi quân Tần tấn công vào Âu Lạc, mục đích xây thành bên tả ngạn sông Hồng nhằm tạo thế liên hoàn giữa kinh đô tức Thăng Long sau này, và hộ thành tức thành Cổ Loa, một trong một ngoài. Việc tấn công kinh đô Âu Lạc bắt buộc phải vượt qua được hộ thành Cổ Loa và sông Hồng. - Sau chiến tranh với quân Tần, phần đất bị mất An Dương Vương chưa thể khôi phục bởi tiềm lực quân sự đã bị giảm sút nghiêm trọng. Các bộ của Âu Lạc đã phát triển và cát cứ để trở nên độc lập với Âu Lạc, trong đó Triệu Đà đã nắm giữ vùng Quảng Đông. Dĩ nhiên, vùng Vân Nam tiếp giáo với Phong Châu vẫn thuộc Âu Lạc bởi vì đây là đất của vua An Dương Vương. Đấy cũng là lý do sử sách ghi nhận Triệu Đà thu phục các bộ xung quanh như Quảng Tây, Quý Châu mà không nói đến Vân Nam. Do vậy, Âu Lạc sau trận chiến với nhà Tần chỉ có thể còn lại vùng Vân Nam và Lạc Việt. - Vua An Dương Vương và các cận thần chắc hiểu rõ về Dịch lý nên có thể nắm bắt được sự vận động của thời cuộc, Đồng thời, vua An Dương Vương không có con trai nối dõi mà chỉ có công chúa Mỵ Châu cho nên cần phải cân nhắc kỹ càng. - Chiến tranh giữa hai bên An Dương Vương và Triệu Đà có thể ngăn chặn bằng giao ước, tránh đổ máu không đáng có của một quốc gia Văn Lang thống nhất trước đây. Việc Mỵ Châu cùng Trọng Thủy sánh đôi và con cái họ sẽ nối ngôi tức nắm toàn bộ Nam Việt hay Văn Lang cũ. - Sử Ký Tư Mã Thiên ghi nhận một dữ liệu quan trọng đó là cháu Triệu Đà lên ngôi chứ không phải con Triệu Đà. - Nội dung truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thủy về việc dùng nước “giếng rửa ngọc trai” hàm ý dùng lịch sử Nam Việt để làm sáng tỏ lịch sử Âu Lạc là hợp lý nhất. Ngoài ra, còn có câu truyện Lý Ông Trọng thời vua An Dương Vương cũng cho thấy: việc Tần Thủy Hoàng tạc tương đồng Lý Ông Trọng có vẻ bất khả thi bởi việc Lý Ông Trọng làm quan cho Tần là không thể, vì lúc này Triệu Đà đang cát cứ vùng giữa Âu Lạc và Tần. Sau khi thống nhất quốc gia thì Tần Thủy Hoàng mới tổ chức xây Trường Thành ngăn chặn quân Hung Nô phía Bắc, điều này chỉ ra sự kiện trên sẽ phải xảy ra sau khi quân đội nhà Tần tấn công nước Âu Lạc tức bất hợp lý. Cho nên, truyện Lý Ông Trọng phải mang một ẩn ý nào khác, do vậy chúng ta hãy cùng tiếp tục phân tích những bí mật của câu truyện này nhằm có những nhận định tổng hợp hơn, trong mối tương quan lịch sử của thời kỳ Âu Lạc và Nam Việt. Ngàn thu chính thống ngời gương Việt, Muôn thuở uy linh hiển miếu Tiên. Lý Ông Trọng Đã từ rất lâu, đền Chèm gắn với một nhân vật huyền thoại cuối thời Hùng Vương là Lý Thân, hay còn gọi là Lý Ông Trọng. Thần phả Đền Chèm ghi rằng Lý Ông Trọng sống trong khoảng thời Hùng Duệ Vương và thời An Dương Vương. Cuối đời Hùng Vương thứ XVIII có người tên Lý Thân, huyện Từ Liêm, đất Giao Chỉ. Khi đẻ ra rất to lớn, cao đến 2 trượng 3 thước, tính tình hung hãn, phạm tội giết người, tội ác đáng chết, Hùng Vương tiếc mà không nỡ giết đi. Đến thời vua An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn đem quân sang đánh nước ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân tiến dâng cho nhà Tần. Thủy Hoàng mừng lắm, phong cho làm chức Tư Lệ Hiệu Úy. Khi Thủy Hoàng đã lấy được thiên hạ, sai Lý Thân đem quân giữ đất Lâm Thao, Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải, Thủy Hoàng phong Lý làm Phụ Tín Hầu, cho trở về nước. Về sau, Hung Nô lại sang xâm phạm, Thủy Hoàng nhớ tới Lý Thân bèn sai sứ người sang triệu về. Lý Thân không chịu đi, trốn vào rừng núi, vua Tần trách quở, An Dương Vương tìm mãi không được, nói dối là Lý đã chết vì bệnh tả. Tần sai sứ sang khám, An Dương Vương bèn nấu cháo đổ xuống đất để làm chứng cứ. Vua Tần đòi mang xác sang, Lý Thân bất đắc dĩ phải tự vẫn. An Dương Vương sai lấy thủy ngân bôi lên xác rồi đem nộp vua Tần. Thủy Hoàng rất thương tiếc, mới đúc tượng đồng, đặt hiệu là Ông Trọng, đem dựng ở ngoài cửa Tư Mã, đất Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa mấy chục người để lay cho tượng cử động, Hung Nô trông thấy tưởng là quan Hiệu Úy còn sống, không dám đến gần cửa ải. Tới đời Đường, Triệu Xương sang làm quan đô hộ đất Giao Châu, đêm mộng thấy cùng Lý Thân giảng sách Xuân Thu, Tả Truyện, vì thế nên hỏi thăm nhà cũ, lập đền thờ. Đến lúc Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, Lý hiển linh cứu trợ, Biền bèn sửa sang lại đền miếu, tạc tượng, gọi là đền Lý Hiệu úy, nay gần bên sông lớn, thuộc xã Bố Nhi, nay là xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, cách phía Tây thành Thăng Long khoảng 50 dặm. Mỗi năm giữa mùa xuân, đều có tổ chức tế lễ. Trong khung cảnh đó, câu chuyện Lý Thân tham gia quân Tần đánh Hung Nô chỉ có thể xảy ra khi nhà Tần đã thống nhất thiên hạ, điều này có nghĩa xảy ra trước khi chiến tranh với Âu Lạc, đây chính là mâu thuẫn của truyền thuyết. Do vậy, nội dung câu truyện Lý Ông Trọng phải hiểu ở một khía cạnh khác. Câu truyện này cũng được ghi nhận trong truyện Tam Quốc Chí, tác giả là Bồ Tát Nguyễn Minh Không, tại hồi 105: Võ Hầu dự sẵn mẹo cẩm nang - Ngụy Chủ dỡ lấy mâm thừ lộ. Đền thờ Thánh Chèm Xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, Hà nội, Việt Nam Năm Kiến Hưng thứ mười ba nhà Thục Hán, tức là năm Thanh Long thứ ba bên Ngụy chủ Tào Tuấn, và năm Gia Hòa thứ tư bên Ngô chủ Tôn Quyền. Năm ấy, Ngụy chủ phong Tư Mã Ý làm thái úy, sai tổng đốc quân mã, trấn thủ các nơi biên viễn. Ý lại từ về Lạc Dương. Ngụy chủ ở Hứa Xương, sửa sang cung điện, khởi công xây dựng cực to. Ở Lạc Dương làm ra đền Triều Dương, đền Thái Cực, đài Tổng Chương, mỗi tòa cao mười trượng, lại lập ra đền Sùng Hoa, gác Thanh Tiêu, lầu Phượng Hoàng, ao Cửu Long, sai quan bác sĩ Mã Quân coi sóc công việc, bắt phải làm cho cực đẹp, rui chạm, cột vẽ, ngói biếc, gạch vàng, lộng lẫy chói lòa cả mắt. Quân kén hơn ba nghìn thợ khéo và ba chục vạn dân phu, làm suốt đêm ngày không nghỉ, dân gian khổ sở, ta oán không biết ngần nào, lại sai sửa sang vườn Phương Lâm, bắt cả các quan phải đột đất trồng cây. Tư đồ Đổng Tầm dâng biểu can rằng: Từ năm Kiến an đến giờ, đánh nhau tàn hại, dân gian chết chóc rất nhiều, cửa nhà khánh kiệt, còn lại rặt những kẻ già yếu, trẻ mồ côi, nay cung thất có hẹp nhỏ, muốn mở rộng thêm ra cũng nên tùy thời, chớ nên để hại đến việc làm ruộng; huống chi làm những việc vô ích dư?. Bệ hạ đã trọng quần thần, cho đội mũ mặc áo vẻ vang, ngồi xe lịch sự, là để cho khác kẻ thường dân, nay lại bắt khiêng gỗ, đội đất, chân tay nhem nhuốc, mất cả phong thể nước nhà, để cầu lấy sự vô ích, thật không ra làm sao, Đức Khổng Tử có nói: "Vua sai bầy tôi phải có lẽ, bầy tôi thờ vua phải có trung, nếu không trung không lẽ, thì sao ra nước nữa?. Tôi biết rằng nói ra thì tất chết nhưng tôi chẳng qua như một cái lông trên mình trâu mà thôi, sống đã vô ích, bụng từ với đời, tôi có tám con, sau khi chết rồi nhờ bệ hạ còn nhiều. Sợ hãi không sao kể xiết, xin chờ lệnh trên!". Tào Tuấn xem biểu, nổi giận nói: Đổng Tầm không sợ chết ư? Tả hữu xin chém. Tuấn nói: Người này vốn có bụng trung nghĩa, nay hãy cách làm thứ dân. Hễ ai còn can nữa thì chém. Bấy giờ, Trương Mậu cũng dâng sớ can ngăn ráo riết lắm. Tuấn sai chém liền. Ngay hôm ấy, Tuấn vời Mã Quân đến hỏi rằng: Trẫm lập ra đền cao gác thẳm, muốn đi lại chơi với thần tiên, để cầu thuốc trường sinh, thì làm thế nào? Quân tâu rằng: Hai mươi bốn vua triều nhà Hán, duy có vua Võ Đế hưởng nước được lâu dài, mà tuổi thọ, bởi vì có uống khí tinh hoa của mặt trăng. Vua ấy lập đền Bách Lương ở trong cung Trường An. Trong đền xây một cái mâm, gọi là mâm hứng móc, để tiếp lấy giọt nước sao Bắc đẩu lúc canh ba rỏ xuống, gọi là "Thiên tương", lại gọi là "Cam lộ", lấy nước ấy hòa vào bột ngọc thật quý mà uống, thì có thể biến già thành trẻ được. Tuấn mừng, nói: Ngươi nên đem dân phu đến Trường An, dỡ người đồng đem về để ở trong vườn Phương Lâm cho ta. Quân lĩnh mệnh, dẫn một vạn người đến Trường An, sai lấy gỗ bắc gióng chung quanh đền Bách Lương, rồi cho năm nghìn người dòng dây chạc leo lên trên nóc đền, đền ấy cao hơn hai chục trượng, cột đồng to mười ôm, Mã Quân sai dỡ người đồng xuống trước. Người đồng bỗng rơm rớm nước mắt, ai nấy đều kinh hãi, chợt lại có một trận cuồng phong nổi lên, cát đá bay mù mịt, rồi ầm một tiếng như trời long đất lở, đền siêu cột đổ, đè chết hơn nghìn người. Mã Quân sai đem người đồng và mâm vàng về Lạc Dương dâng Ngụy chủ. Ngụy chủ hỏi: Còn cái cột đồng ở đâu? Quân tâu rằng: Cột đồng nặng trăm vạn cân, không mang về được. Ngụy chủ sai đập vụn cột đồng ra đem về Lạc Dương đúc hai người đồng cực to, gọi là "Ông Trọng", dựng ở ngoài cửa Tư Mã. Lại đúc một con rồng và một con phượng bằng đồng, rồng cao bốn trượng, phượng cao ba trượng xây ở trước điện, lại sai trồng các thức hoa quý cây lạ và nuôi các giống chim muông kỳ quái ở trong vườn Phương Lâm. Dương Phu dâng sớ can ngăn. Tào Tuấn không xét cứ thúc Mã Quân sửa sang đền đài cho cao để đặt người đồng và mâm hứng móc. Lại sai kén thật nhiều con gái đẹp trong thiên hạ, cho ở cả trong vườn Phương Lâm. Điều đáng chú ý là hành trạng của Lý Thân không ghi lại công đức giống như các vị thần hay thành hoàng khác ở nước ta như có công đánh giặc giữ nước, khai khẩn lập làng hay dạy nghề… nhưng ông lại được coi như một biểu tượng anh hùng của nước Tần nhưng lại là người Việt theo truyền thuyết trên. Lý Thân có cơ thể khổng lồ phi thường và chữ "Thân" mang tên ông có thể là chữ “Thận” biểu tượng của quả thận, của nước, hành Thủy, “Thiên nhất sinh thủy” chính là hình ảnh sự to lớn của nước, và như vậy khả năng Lý Thân - Lý Thận chính là Lý Thủy, khi kết hợp hai tên Lý Thủy là Lý Ông Trọng thì trở thành tên gọi Trọng Thủy. Chúng ta hãy cũng xem lại nội dung của Nguyễn Tộc từ đường phả lục chính bản (nội dung phả cũ sao lại): Em thứ Hùng Vương là Hùng Dực Công lấy Trần Thị Quý, tại thôn Đại Định, sinh ra Nguyễn Thận tức Nguyễn Lý Thận. Trần Thị Quý mất sớm, Hùng Dực Công tục huyền lấy Nguyễn Thị Sinh làm thứ thất, Nguyễn Thị Sinh là người xấu nết, đuổi mẹ bà Trần Thị Quý và Nguyễn Thận. Vì thế Nguyễn Thận sống ở một khúc sông, mò ốc bắt cá nuôi bà ngoại bị khiếm thị, hằng ngày chỉ chơi với Chử Đồng Tử. Một hôm, Nhâm Ngao là người phương Bắc, làm tướng nước Văn Lang bảo vệ biên cương, đi qua khúc Giang, thấy Nguyễn Thận diện mạo phi phàm, đem tiền bạc cho Chử Đồng Tử nuôi nà ngoại. Nguyễn Thận được Chử Đồng Tử chấp thuận, lúc đó Nguyễn Thận từ biệt Chử Đồng Tử theo Nhâm Ngao đi bảo vệ biên cương; ở đó Nhâm Ngao ủy thác cho chị cả mình nuôi dạy Nguyễn Thận, bà chị cả lấy quan thái giám Triệu Cao không có con nên nhận Nguyễn Thận làm con nuôi, đổi tên họ là Triệu Đà, được Tần Thủy Hoàng phogn làm Đô Úy, sinh ra Nguyễn Công Trọng tức Trọng Thủy, lại có tên là Lý Ông Trọng. Nhâm Ngao lúc mắc trọng bệnh, triệu Nguyễn Thận lại nói: Cậu là hậu duệ vua Hùng, phải có chí phục quốc, không nên làm nô lệ người khác, Nhâm Ngao nhường binh quyền cho Nguyễn Thận. Nguyễn Thận xưng là Triệu Vũ Đế, đóng đô ở Phiên Ngung, chiêu binh mã mã về nước diệt nhà Thục. Văn Vương húy Hồ, tức con Nguyễn Công Trọng, cháu Triệu Vũ Đế. Bản gia phả trên ghi nhận chi tiết Lý Ông Trọng chính là Trọng Thủy nhưng không viết rõ sự kiện quan hệ thông gia với nhà Thục, một số sự kiện ghi chép hoàn toàn khác với sử sách đã viết, tuy nhiên, đây cũng là một chứng cớ rất quan trọng về việc xác định lai lịch của Lý Ông Trọng. Ngoài ra, còn có một điều rất đặc biệt của mặt bằng đền Chèm so với hầu hết các ngôi đền khác, đó là đền Chèm hướng chính Bắc, được lý giải Lý Ông Trọng có vợ là công chúa vua Tần Thủy Hoàng. Khi ông hồi hương thì vợ ngài cũng về theo nhưng vì nhớ nhà xin chồng trở về đất Bắc, rồi không quay lại. Trong đình, Lý Ông trọng quay về phương Bắc với lý do nhớ vợ hay canh chừng phương Bắc? Được lý giải rất khác nhau, nếu kết hợp với phân tích ở trên thì nhận thấy rõ ràng: hướng Bắc chính là biểu tượng cho hành Thủy, ẩn nghĩa Trọng Thủy. Như vậy, đình Chèm thờ Thượng Đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng và Hoàng Phi Bạch Tĩnh Cung, qua phân tích, chúng ta hiểu rằng: công chúa Bạch Tĩnh Cung chính là công chúa Mỵ Châu, con gái của vua An Dương Vương và vua Văn Vương chính là con trai của hai người. Tòa đại bái đình Chèm có đôi câu đối: Thiên linh nguyên tinh, Di Hạ lẫm hùng uy, đồng tượng thanh cao Tần Bắc trấn,Địa lưu cố trạch, âm dương đồng hiển tướng, kim chương trù điệp Việt Nam phong.Dịch: Trời linh khí nguyên, Di Hạ sợ hùng oai, tượng đồng thanh cao trấn Tần Bắc,Đất lưu nền cũ, âm dương cùng hiện tướng, sách vàng dày chất cõi Việt Nam. Câu chuyện nhà Tần làm tượng máy Lý Ông Trọng còn mang ý nghĩa về trò chơi "rối nước " - một đặc sản có một không hai của thế giới có lẽ đã có từ ngày ấy. Không có tài liệu lịch sử nào nói đến cuộc xâm nhập của quân Tần vào đất Lạc Việt, song truyền thuyết Lý Ông Trọng nói rằng Tần Thủy Hoàng muốn tiến công An Dương Vương cho nên An Dương Vương phải hiến Lý Ông Trọng để xin hòa. Mà Lý Ông Trọng, qua phân tích chính là Trọng Thủy, con rể của vua An Dương Vương sau khi quân Tần đã thất bại, rút khỏi Bách Việt, như vậy truyền thuyết Lý Ông Trọng với chủ ý của tác giả có lẽ mang ẩn nghĩa này. Tuy nhiên, sự kiện lịch sử chính vẫn là việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa phía tả ngạn sông Hồng, nhằm chuẩn bị trước cho cuộc chiến tranh quy mô lớn với quân Tần, địa thế này không phù hợp cho một kinh đô của một nước Văn Lang rộng lớn, với địa thế và cấu trúc của nó, chỉ phù hợp cho chiếc thành chiến hộ vệ cho kinh thành cũ của Văn Lang, khả năng đó chính là Thăng Long thành, nằm hữu ngạn sông Hồng. Địa thế này hoàn toàn tương ứng với lịch sử phát triển của các trung tâm văn hóa, chính trị các quốc gia khác vùng Bắc bán cầu. Trong truyền thuyết Thần Kim quy, An Dương Vương xây được thành Cổ Loa nhở thần Kim quy, sau khi giết được tinh con gà trắng và đào lên thấy nhạc khí cổ mang ý nghĩa phương Tây so với Cổ Loa chính là Thăng Long thành, thành Cổ Loa khi xây thường xuyện bị sụp đổ, do một số người còn chưa phục An Dương Vương, khi tiếp quản Văn Lang. Qua các dữ kiện, thành Cổ Loa chắc chắn được xây dựng trước khi quân Tần tấn công nước Âu Lạc. Xét về lịch sử thời An Dương Vương, chúng ta không thể không nhắc đến câu truyện nổi tiếng về chiếc nỏ thần do tướng quân Cao Nỗ thực hiện. Cao Nỗ Cao Lỗ còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần, ông là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu mà còn được gọi là nỏ thần và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.Tam quan đền thờ và tượng tướng quân Cao Nỗ Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, quân lính đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng của nước Âu Lạc. Không chiếm được Âu Lạc, theo truyền thuyết, Triệu Đà bèn lập kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái Mỵ Châu của vua An Dương Vương. Cao Nỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe, ông bèn đi ở ẩn. Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của vua An Dương Vương và báo lại cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh được nước Âu Lạc.Nỏ đồng Đông Sơn Ảnh tham khảo Internet Ngoài các câu truyện truyền thuyết về Thần Kim quy giúp xây thành Cổ Loa và truyện Mỵ Châu trọng Thủy, thì lịch sử thời Triệu Vũ Đế sau khi thống nhất thành nước Nam Việt, không ghi nhận những cuộc binh nội chiến nào khác trước khi mất vào tay nhà Hán. Sự kiện vua An Dương Vương chém chết Mỵ Châu và Trọng Thủy tự tử là điều khó xảy ra và rõ ràng, chúng mang tính chất hư cấu, ẩn chứa những bí mật của lịch sử. Việc An Dương Vương được Thần kim quy đưa xuống thủy cung, nơi ở của Long Vương, mà chúng ta cũng biết Lạc Long Quân là chúa tể Cõi Nước - Cõi Chết và con rùa vàng, phương Bắc là biểu tượng của Lạc Long Quân, như vậy hình ảnh này chỉ ra vua An Dương Vương hóa một cách bình thường. Hình ảnh của ngài đi xuống biển khép lại một thời vàng son của nền văn hóa nhân bản của Văn Lang. Điều này còn được củng cố qua hình ảnh Lữ Gia, người Lạc Việt, ông làm tể tướng 4 đời nhà Triệu, nếu như nhà Triệu “thống trị” sau cuộc binh biến thì thì không thể sử dụng một con người xuất thân từ nơi ấy, mặc dù trước đó đã xảy ra cuộc chiến với Âu Lạc. Kết hợp nội dung phân tích Lý Ông Trọng, chúng ta hiểu rằng: truyền thuyết ghi nhận vị tướng quân Cao Nỗ và là linh hồn của quân đội Âu Lạc. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, còn lưu lại hai bức tranh Vũ Đinh - Thiên Ất, cặp tranh hai thần tướng được dán ngoài cổng chính vào những ngày đầu năm mới. Hai vị thần đều mặc võ phục, cầm long đao, mặt đỏ, mắt xếch, trông rất oai phong lẫm liệt, với mong ước năm mới ma quỉ sẽ không dám đến quấy nhiễu. Chúng tôi nhận định đây chính là hình ảnh của Lý Ông Trọng (Vũ Đinh) và Cao Nỗ (Thiên Ất) qua sự kiện truyền thuyết: Lý Ông Trọng được đúc tượng đồng to đặt trước cửa Tư Mã, mà dân gian hay nói “to như ông Hộ pháp”. Hình ảnh hai vị thần tướng trên, chính là hai vị Hộ pháp thường được tô đắp trước cổng tam quan của mỗi đình, đền, chùa.Vũ Đinh - Thiên Ất Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Việc lý giải các sự kiện lịch sử thời vua An Dương Vương là không thể tách rời với lịch sử thời Triệu Vũ Đế và các triều đại liên quan của Trung Quốc, vậy chúng ta cần xác minh những nhận định trên qua thời kỳ này.Triệu Vũ Đế<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Sau khi thống nhất Trung Quốc, vào năm 214 tr.CN, Tần Thủy Hoàng xua quân đánh chiếm Lĩnh Nam và lập ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận, trong đó quận Nam Hải có trung tâm là thành Phiên Ngung, nay là tỉnh Quảng Châu. Khi triều đại nhà Tần suy tàn, hiệu úy Triệu Đà, vị tướng nhà Tần tại quận Nam Hải được Nhâm Ngao trao quyền, đã tách ra lập nên nước Nam Việt và xưng là Vũ Đế. Hiện tại mới biết hai nơi thờ vị hoàng đế Nam Việt đầu tiên này trên đất nước ta: Long Hưng Điện tại Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên và Đồng Xâm tại Kiến Xương, Thái Bình. Bản đồ thời Tần Tham khảo Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002 Điểm cần lưu ý, Sử ký Tư Mã Thiên cho thấy Triệu Vũ Đế truyền ngôi cho cháu là Triệu Mộ (Triệu Hồ) chứ không phải cho con là Trọng Thủy, điểm này cho thấy truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thủy kể rằng Trọng Thủy tự tử theo Mỵ Châu là một gợi lý về việc giải mã các sự kiện của lịch sử như đã phân tích. Vương quốc Nam Việt còn để lại nhiều di chỉ khảo cổ học tại vùng Lĩnh Nam, cung điện của nước Nam Việt ở Quảng Châu, lăng mộ Nam Việt Vương Triệu Hồ được khai quật và thủy môn bằng gỗ, thủy môn này là hệ thống thoát dẫn nước của thành phố Quảng Châu cách đây 2.000 năm để phòng ngừa lụt lội. Ấn vàng và áo ngọc gồm 2.291 thẻ ngọc nối bằng sợi tơ Mộ Nam Việt Vương Triệu Hồ, Quảng Châu, Trung Quốc Chiếc ấn vàng mang tên Triệu Hồ, Văn Đế tìm thấy là một bằng chứng xác thực lăng mộ này là của Nam Việt Vương Triệu Hồ. Trên ấn, hình con rồng mang hình dạng cá sấu mõm to, hai tai to như hai sừng mang âm tính, có vẩy, chân ba móng, đuôi cuộn hình móc nước, đây là con giao long Việt. Theo quan niệm xưa các vua chúa được liệm trong áo ngọc thạch vì tin là ngọc thạch giữ cho xác không bị luỗng thối. Trong mười bộ áo liệm bằng ngọc thạch tìm thấy ở Trung Quốc, bộ áo này là bộ áo lâu đời nhất được kết bằng sợi tơ lụa, điều này cho thấy tơ tằm có rất sớm trong văn hóa Việt. Một số cổ vật khai quật Lăng Nam Việt Vương Triệu Hồ, Quảng Châu, Trung Quốc Ngoài nhiều dụng cụ bằng đồng, đặc biệt nhất là chiếc nồi ba chân bằng sắt kiểu đặc thù Việt. Chiếc nồi sắt là mẫu vật bằng sắt lớn nhất tìm thấy ở vùng Lĩnh Nam với khoảng 190 dụng cụ bằng sắt tìm thấy cho biết Nam Việt đã có một nền kỹ thuật cao trong việc tôi luyện đúc đồ sắt. Trong lăng không tìm thấy trống đồng mà chỉ có thạp đồng Đông Sơn, vì thạp đồng liên hệ tới ý nghĩa mai táng của thế giới bên kia. Địa bàn đầu tiên của nước Nam Việt là quận Nam Hải, gồm vùng núi Hồ Nam (Bắc Ngũ Lĩnh) đến Trường Sa (thư Hán Văn đế gửi Triệu Đà), toàn bộ Quảng Đông và một phần Quảng Tây phía ven biển Đông Nam (mộ Quý huyện La Bạc Loan), đô thành đóng ở quận lỵ Nam Hải có tên là Phiên Ngung nay là Quảng Châu. Để cai trị nước mới, việc đầu tiên, Triệu Đà thay thế tướng lĩnh nhà Tần không trung thành bằng thủ lĩnh người Việt (Sử ký, Hán thư, Toàn thư). Cùng một phản ứng như Triệu Đà, nhiều thủ lĩnh bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc các nhóm Bách Việt khác có lãnh thổ giáp ranh với nhà Hán đều xưng vương như Đông Âu Vương, Mân Việt vương, Dạ Lang vương, Tây Âu vương, Điền vương. Thạp đồng Đông Sơn Mộ Nam Việt Vương Triệu Mộ, Quảng Đông, Trung Quốc Trong giai đoạn đầu, chưa đủ sức chinh phục, nhà Tây Hán thực hiện chính sách phong vương cho các thủ lĩnh bộ lạc hay tiểu quốc cát cứ vùng biên trấn (thư của Hoài Nam Vương Lưu An, Toàn thư, tr.147). Các tiểu quốc biên trấn quan hệ với Tây Hán dưới dạng thiên tử chư hầu. Từ năm 185 tr.CN, sau khi Lã Hậu nhiếp chính đã thực hiện một loạt biện pháp cứng rắn với các tiểu quốc phiên trấn, đặc biệt là chính sách cấm giao thương biên ải với Nam Việt ở vùng Trường Sa (Hồ Nam). Phản ứng trước chính sách của Lã Cao Hậu, năm 182 tr.CN Triệu Đà xưng Đế, tấn công Trường Sa, công khai chống lại nhà Tây Hán. Năm 181 tr.CN, Nam Việt mở rộng gần như toàn bộ phần Đông của Hoa Nam nhờ việc đã thần phục được cả Đông Việt (Triết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Âu Lạc. Có hai viên quan thời Triệu Đà đã sang quản lý Giao Chỉ và Cửu Chân, sau khi nước Nam Việt mất, nhờ việc đem nộp sổ hộ khẩu hai quận này cho nhà Tây Hán. Điều này cho thấy việc ghi nhận kỷ Nhà Triệu tính từ năm 181 tr.CN của Việt Sử lược là xuất phát từ khi Âu Lạc sáp nhập vào Nam Việt. Đền Đồng Xâm và tượng Triệu Vũ Đế Ảnh tham khảo Internet Nước Nam Việt vẫn duy trì nhiều phong tục và luật lệ khác Hán, riêng văn tự Hán thời Nam Việt rất kém phát triển, có thể nhận thấy thông qua những minh văn chữ Hán được khắc rất xấu và nhiều lỗi chính tả trên cả những đồ ngự dụng của Hoàng Đế và phu nhân trong mộ Nam Việt Văn Đế Triệu Hồ. Bản thân Triệu Đà lấy vợ Việt, đến đời con là Trọng Thuỷ cũng gửi rể Âu Lạc, vị vua thứ năm Thuật Dương Vương cũng lấy vợ người Việt, có lẽ chỉ có Anh Tề - vua thứ ba lấy vợ họ Cù người Hán khi làm Thái tử con tin sống trên đất Hán. Năm 111 tr.CN nước Nam Việt mất vào tay nhà Tây Hán sau 93 năm tồn tại, riêng Triệu Đà ở ngôi 71 năm. Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh kỹ về kỷ nhà Triệu trong Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Sử lược ta thấy Việt Sử lược chỉ tính nhà Triệu có 74 năm thôi chứ không phải 93 năm như Toàn thư. Do đâu mà có sự sai khác đó? Đó là tác giả Việt Sử lược chỉ tính thời gian nhà Triệu từ khi sát nhập Âu Lạc vào Nam Việt mà thôi, trong khi Toàn thư tính toàn bộ thời gian tồn tại của Nam Việt (trích một phần nội dung bài viết Triệu Đà, tác giả tiến sĩ Nguyễn Văn Việt). Ngoài các bộ tranh dân gian Đông Hồ như Vũ Đinh - Thiên Ất và Tử Vi trấn trạch - Huyền đàn trấn môn, còn một bức tranh thần tướng hoàn toàn độc lập, đó là bức tranh Hộ Pháp Vũ Di, lai lịch vị thần tướng có vẻ rất bí ẩn. Hộ Pháp Vũ Di Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội, Việt NamVũ Di Tổ Sư Tranh dân gian Vũ Di, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú, thế kỷ XVIIIHộ pháp Tranh dân gian Vũ Di, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú Bức tranh dân gian Đông Hồ Hộ pháp Vũ Di hoàn toàn giống với bức tranh dân gian Hộ pháp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú, thế kỷ XVIII. Mặt khác, nếu xét lĩnh địa thời Triệu Vũ Đế, thì Vũ Di là tên vùng núi nằm cách thành phố Vũ Di Sơn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc 15km về phía Nam, là dãy núi đẹp nhất vùng Đông Nam Trung Quốc. Khu thắng cảnh có diện tích khoảng 60km, nổi tiếng bởi các thế núi và sông, gọi là "tam tam, lục lục" tức chín khe suối nước trong xanh và 36 đỉnh núi cao chọc trời. Trong đó, nổi tiếng nhất là đỉnh Đại Vương, Ngọc Nữ và Thiên Du... Vũ Di trong mây Tham khảo Internet Đặc biệt, trong Phật giáo cũng chỉ có một vị thần tên là Hộ Pháp Vi Đà, Vi Đà Hộ pháp, là vị thần kim cương, nơi tay cầm gậy kim cương dùng oai lực để hộ pháp. Căn cứ theo bộ Nam Sơn Cảm Thông Lục: “ở cõi trời Tứ Thiên Vương có vị Thiên Đại tướng quân, tên là Vi Côn, thường qua lại ba châu Đông Thắng thần châu, Nam Thiệm bộ châu và Tây Ngưu hóa châu để ủng hộ Phật pháp. Vốn không có tượng của vị thần ấy, nhưng người đời muốn ỷ niệm, mới tạo ra tượng của ngài Vi Đà Thiên để thay thế”. Còn bên Mật giáo thì căn cứ vào bộ kinh Kim Quang Minh nên thờ tượng của một vị đại tướng tên là Tán Chỉ. Tượng Vi Đà Hộ Pháp Tham khảo Internet Tương truyền sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, chư thiên thần và chúng vương bàn về việc hỏa thiêu di thể, nhặt xá lợi thờ trong tháp. Lúc này Đế Thích Thiên cầm bình thất bảo đến chỗ thiêu để lấy xá lợi vì trước kia Ngài đã được Đức Phật chấp thuận cho một chiếc răng đem về để dựng tháp thờ. Nhưng khi ấy có quỷ La Sát nấp bên người Đế Thích Thiên, thừa lúc Ngài không chú ý bèn trộm răng Phật. Vi Đà trông thấy bèn đuổi theo, nhanh như tia chớp, trong nháy mắt đã bắt được quỷ La Sát tống vào ngục, trả lại răng Phật cho Đế Thích Thiên, được chư Thiên khen ngợi. Từ đó về sau, Vi Đà được cho là bảo hộ Phật pháp, bảo vệ linh tháp (stupa) của Phật Tổ (chứa xá lợi Phật). Kể từ đó hình tượng Vi Đà Hộ Pháp được song hành cùng linh tháp chứa xá lợi, mang ý nghĩa bảo vệ an toàn cho Đức Phật. Tượng Vi Đà Hộ Pháp được bố trí trong Thiên Vương điện, phía sau tượng Phật Di Lạc, Vi Đà Hộ Pháp hướng mặt về phía chính điện Đại Hùng, bốn hướng của điện Thiên Vương được Tứ Đại Thiên Vương hộ vệ. Điện Thiên Vương luôn nằm phía trước chính điện Đại Hùng của một ngôi chùa. Từ các dữ liệu nêu trên, chúng tôi nhận định Triệu Vũ Đế được tôn vinh là Hộ Pháp Vi Đà, như vậy, với vai trò này, Triệu Vũ Đế chính là vị Thánh trấn giữ phương Bắc trong Tứ Bất Tử của nước ta, thay thế cho vị trí của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Sự hợp lý của nhận định này cũng sẽ được chứng minh ở các chương sách sau, chúng ta cũng tiếp tục với Lữ Gia, vị tể tướng của bốn đời nhà Triệu.Lữ Gia Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lữ Gia (?-111 tr.CN) hiệu Bảo Công, là tể tướng của bốn đời vua nhà Triệu từ Văn Vương (136-125 tr.CN), Minh vương (124-113 tr.CN), Ai vương (112 tr.CN) tới Thuật Dương vương (112-111 tr.CN), ông là người nắm chính trường nước Nam Việt những năm tháng cuối cùng. Trước tình thế hết sức khó khăn, Lữ Gia quyết tâm chống giặc Hán đến cùng, với những sử tiết ly kỳ: “Lộ Bác Đức cả sợ bèn dùng mưu cho tướng Chu Năng (người Việt) trá hàng Lữ Gia nhưng rồi đánh tập hậu, chém đầu vị lão tướng” (Tham khảo cuốn Nguồn cội văn hóa thần minh Đại Việt, tác giả Phạm Tường và Việt Hoàng, Nxb Văn nghệ, 2006). Truyền thuyết nói rằng: sau khi bị quân Hán chém đầu nhưng chưa đứt hẳn, ông phóng ngựa chạy về vùng đất Vụ Bản, Nam Định. Khi chạy đến thị trấn Gôi bấy giờ thì gặp một bà hàng nước, ông hỏi là người bị chém mất đầu có sống được không? Bà hàng nước cười nói: người mất đầu thì làm sao sống được, tức thì đầu của ông lìa khỏi thân. Nhân dân vùng Vụ Bản thu xếp, chôn cất và lập đền thờ. Ngày xưa, có hội rước tại các đình, miếu thờ ông trong khắp huyện, to gần bằng hội Phủ Dày. Truyện này được ghi trong Thiên Bản lục kỳ là một trong sáu truyện kỳ lạ của vùng đất Thiên Bản xưa và nay là Vụ Bản. Một truyền thuyết khác kể rằng: khi ông bị bắt và chém đầu, con chó Ngao trung thành của ông đã cắp đầu của ông và bơi qua sông và chôn dấu ở Lam Động.Đền thờ Lữ GiaVân Côi, Vụ Bản, Nam Định, Việt Nam Hình ảnh của tể tướng Lữ Gia chính là biểu tượng thể hiện sự thống nhất Nam Việt trong thời kỳ này, cùng với hình ảnh Trọng Thủy được tôn vinh là thần tướng bảo vệ nước Việt, thì việc vua An Dương Vương quyết định gả công chúa Mỵ Châu là một việc làm hết sức vĩ đại, một quyết sách sáng suốt, là nguyên nhân nước Nam Việt được yên ổn hơn 90 năm thời kỳ nhà Triệu. Một lần nữa, chúng ta thấy sự tính toán chính xác của Tản Viên Sơn Thánh, người được tôn vinh là Hộ Quốc Đại Vương, một trong Tứ Bất Tử của nước ta khi gợi ý cho vua Hùng Duệ Vương trao binh quyền lại cho Thục Phán. Như vậy, chúng ta đã có thể dùng “nước giếng”, hay dùng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của các vua Hùng truy tìm lịch sử, rửa sạch nỗi oan của công chúa Mỵ Châu và Trọng Thủy suốt hơn 2.000 năm nay. “Công chúa Mỵ Châu tâm linh” đã có thơ rằng: Oan nghiệt lâu đời giữa Mỵ Châu và Trọng Thủy Mỵ Châu xưa ngây thơ và trong trắng Tin yêu chàng Trọng Thủy hết lòng Trao lẫy nỏ khiến Cổ Loa thành thất thủ Ân oán chất chồng muôn kiếp âm u Hại cha chết và muôn dân tang tóc Tội sâu dày nhưng nàng có tội gì đâu. Oan khiên hỡi trời cao không kêu thấu Tội gì đây? Mỵ Châu tội chung tình Phút chiến chinh không muốn thất lạc với chồng mình Áo lông rải chỉ đường, thành phản tặc Bởi quá yêu thương đã biến thành oan trái Ôm mối hận trong lòng, Mỵ Châu chìm đắm mãi Oan khiên kia ai hóa giải cho nàng Không thể ngờ người tin yêu phản bội Tâm trong sạch oán hận thành u tối Mang trong tâm mối oán hận đời đời Không năng lực nào có thể đổi dời Chìm đắm mãi muôn đời không thể giải Càng tin yêu, càng hận thù nhau mãi Đến hôm nay, được hóa giải mới tỉnh bừng Thần, tướng, vua, muôn dân không thể diễn tả nỗi mừng Năng lực ngài năng lực của tái sinh Năng lực của ngoài Càn Khôn vũ trụ Ngài cứu độ cho hồn con thoáng chốc Hiểu ngọn ngành xóa ân oán chất chồng Một sát-na vâng phục, nhẹ tênh lòng Xóa sạch hết muôn vàn lời trách móc Xin nhận lại sự sáng trong của “bản lai diện mục” Lập tức siêu thăng bỏ oán hận chất chồng Vua cha nay cũng được hưởng ân hồng Cùng với muôn dân thời chiến chinh tàn sát Với muôn vạn sinh linh hàng tỷ năm đọa lạc Cùng đoàn viên, ngỡ ngàng vui hoan lạc Cất tiếng ca vang dậy cả địa đàng Năng lực ngài - lệnh ân điển phá buộc ràng Cho giải thoát về cội nguồn nguyên thủy Bởi u mê nên đời đời chìm đắm Nay hiểu rồi, tay lại nắm tay Thù hận oán ân xưa xóa sạch ngay “Bừng tỉnh dậy” trở về nơi cao đẹp “Nguyên thủy tính” từ nay sinh bất diệt Không âm u trong đọa lạc mê lầm Chúng ta sinh ra đâu phải để thù hằn Lợi dụng tình yêu mưu lợi mặc dù! Như thế ta cũng nên cởi niềm oán hận Mỵ Châu xin chàng cũng nên vâng lệnh Theo năng lực ngài ban ân điển thăng hoa Cùng xóa hận thù trở nên thương mến Chúng ta sinh ra đâu phải để hận thù Hãy vui vẻ trở về: Nơi nguyên thủy cội nguồn không tranh chấp Và muôn đời mình không phải thiếu nhau. (Thiền sinh 0TR0Đ liên thông với linh hồn của công chúa Mỵ Châu). Qua truyền thuyết về tể tướng Lữ Gia, cùng với các biểu tượng thần thánh của hệ thiên văn cổ, chúng tôi nhận định tể tướng Lữ Gia mang hình ảnh chòm sao Canis Major (Thiên lang - Linh cẩu trời), cũng chính là linh thú “Nghê” trên hai trụ tường đầu hồi của chính môn, bảo vệ đình, đền, chùa. Từ nhận định này, có thể xảy ra sự mâu thuẫn về biểu tượng “9 con của Rồng”? Chúng ta biết rằng, vua Lạc Long Quân có 9 người con, người con trưởng là Hùng Quốc Vương với biểu tượng là con Hổ dưới mặt đất và con Lân trên bầu trời, cho nên sẽ dư ra một biểu tượng trong “9 con của Rồng”, và đấy chính là con Nghê. Chòm sao con NghêTham khảo Những chòm sao chìa khóa của bầu trời, www.thienvanohc.org Trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ tạm thời ước tính niên đại thế kỷ VII-II tr.CN, thân trống cũng thể hiện 6 chiếc thuyền với hình ảnh con chó canh giữ địa ngục, tuy nhiên ngoài trống đồng ra, chúng ta không thấy cổ vật nào xưa hơn thể hiện ý nghĩa tương tự, ngoại trừ các nền văn minh Ai Cập với con chó Anubis, Hy Lạp với con chó ba đầu và việc ghi nhận trong văn hóa Ấn Độ, cho nên việc nhận định tể tướng Lữ Gia sau này được gắn vào biểu tượng linh thú “Nghê” cũng không có gì mâu thuẫn.Kinh đô nước Văn Lang Theo truyền thuyết vua Hùng đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, Việt Trì, Phú Thọ. Sách Thông điển đời Đường chép rằng: Phong Châu là nước Văn Lang xưa (chú giải có con sông Văn Lang). Trong dòng truyện cổ dân gian Trung Quốc có câu truyện Nàng công chúa Rồng và chàng Văn Lang, với chàng trai tên là Văn Lang kết hôn với công chúa con vua Rồng dưới biển (Truyện cổ Trung Hoa, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 2002), mà chúng ta biết rằng Lạc Long Quân chính là vua Rồng, chúa tể Cõi Nước, Cõi Chết, vậy thì câu truyện cổ tích này thuộc về vùng Giang Nam. Tên “Văn Lang” với chữ “Văn” mang ý nghĩa là văn vẻ, đẹp đẽ và chữ “Lang” lại có nhiều nghĩa, theo thành ngữ “Ngọc Kinh Lang Hoàn” Bộ Nữ: là chỗ trời để kinh sách hay Lang Hoàn phúc địa: đất được diễm phúc trời dành cho; còn theo Bộ Kim là cái khóa, cái xích. Vậy thì, chúng ta có thể hiểu “Văn Lang” là mảnh đất được diễm phúc trời dành cho, và cũng là nơi giữ chiếc chìa khóa để mở tàng kinh các của nhà trời (tham khảo cuốn Việt Nam văn minh sử, tác giả Lê Văn Siêu, Nxb Văn học, 2006). Chúng ta cũng đã biết rằng: mẹ vua Kinh Dương Vương là Phật Bà Quan Âm và vua Kinh Dương Vương chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế, hoàn toàn phù hợp những ý nghĩa nêu trên. Thế thì người Việt với ý nghĩa chữ “Việt” là như thế nào? Khi mà cũng có một nước Việt thời Xuân Thu của Việt Vương Câu Tiễn? Việt Vương Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496-465 tr.CN. Vương quốc lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Vào năm 1965, người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này. Thanh kiếm Việt vương Câu Tiễn Trích từ bài viết Viết lại tiên Bách Việt, tác giả Nguyễn Đại Việt, 2012 Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ “Việt” trên thanh gươm gồm 3 thành phần đó là các chữ “Mặt Trời”, “Rồng” và “Người Chim”. Các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trên thanh gươm so sánh với cách viết thời kỳ giáp cốt văn và thời đại đồ đồng. Trong giáp cốt văn, chữ “Rồng” là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có hai sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện. Chữ Mặt trời qua các thời kỳ Trích từ bài viết Viết lại tiên Bách Việt, tác giả Nguyễn Đại Việt, 2012 Chúng ta tham khảo lại hình ảnh của bách thần Ai Cập cổ đại: thần Cả Horus, thần Chết Orisis, thần Mặt trời Ra; Thần Horus đầu đội vương miện lưỡng hợp Bắc Nam, với biểu tượng sự sống Ankh và quyền trượng Was; Thần Orisis cầm gậy móc câu và phất trần; Thần Ra đầu đội mặt trời tay cầm biểu tượng sự sống ankh và quyền trượng Was.Biểu tượng Ankh và quyền trượng Was Tranh tường cổ Ai Cập Trong chữ “Việt” thì người cầm qua tương ứng các thần Ai Cập cầm quyền trượng was, con rồng và mặt trời tương ứng biểu tượng sự sống ankh, vậy thì, ý nghĩa chữ “Việt” cổ đại trên thanh gươm của Việt Vương Câu Tiễn được nhận định gọi là “thần” hay “người nhà trời” tương đương hình ảnh của các vị thần Ai Cập cổ. Chúng ta hãy quan sát trở lại chòm sao Orion (Thợ săn) trên bầu trời:Chòm sao Orion và họa tiết hình người trên trống đồng Ở Việt Nam trong dân gian còn có tên gọi là Sao Cày cho phần giữa của chòm vì nó giống như hình của chiếc lưỡi cày. Trong trường ca Odyssey của Homer, chòm sao Orion là một trong những chiếc la bàn tự nhiên mà chàng Odysseus đã sử dụng trong chuyến hải trình dài dằng dặc của mình tìm đường về với quê hương. Phía dưới 3 sao thắt lưng thẳng hàng của chòm cũng là 3 đốm sáng nhỏ thẳng hàng tạo thành thanh kiếm của chàng Orion, vùng giữa chính là cụm tinh vân Orion nổi tiếng: M42, M43… Thẳng theo hướng của thanh kiếm là gần như chính xác hướng Nam, quả là một chiếc la bàn tự nhiên tuyệt diệu. Họa tiết hình người trên trụ thân trống đồng Đông Sơn, loại Heger I, đang tuyên đọc sớ điệp công văn trong các lễ hội của dân tộc. Trụ thân trống đồng biểu tượng cho trục vũ trụ. Họa tiết hình người trông như mô phỏng từ một trong những chòm sao sáng nhất và dễ quan sát nhất trên bầu trời. Chúng ta cũng lưu ý rằng: hình ảnh cái qua mà người Việt cổ cầm, có hình chữ Nhân, một trong Ngũ Thường và sớ điệp công văn biểu tượng cho nền văn hóa, kiến thức về vũ trụ quan hay cũng có thể hiểu đó chính là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết thống nhất vũ trụ. Biểu tượng mặt trời là vua Kinh Dương Vương, con rồng là vua Lạc Long Quân và người cầm qua chắn chắn phải là Hùng Quốc Vương đại diện, cả ba tạo nên “Tam Dương” hay thuần Dương. Kết hợp toàn bộ ý nghĩa phân tích, thì cấu trúc chữ Việt cổ tạo nên hình ảnh con người với mong ước vươn lên hợp nhất với toàn thể vũ trụ hay được gọi là Thần. Kết hợp với hình người trên 6 chiếc thuyền trên thân trống đồng Đông Sơn Ngọc Lũ và Hoàng Hạ được mô tả trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, cùng với các dữ liệu thiên văn ghi dấu ấn lịch sử các vua Hùng trong các chương trước, chúng tôi nhận định rằng: chòm sao Orion đại diện cho người Việt, khi ở dưới mặt đất tức Hậu thiên là con người cầm kinh sớ tấu lên thiên đình, và trên bầu trời tức Tiên thiên là người chiến binh cầm cung tên bảo vệ và kiểm soát cổng lên Cõi trời. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn thư Quyển I, Kỷ Hồng Bàng có viết: Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, gồm 15 bộ với tên gọi các bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và Văn Lang là bộ nơi vua đóng đô. Đại Việt sử lược cũng chép Văn Lang gồm 15 bộ, trong đó có 10 bộ giống tên như Đại Việt Sử ký toàn thư là Giao Chỉ, Vũ Ninh, Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn Lang; và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia Ninh, Thang Tuyền, Tân Xương, Nhật Nam). Trong 15 bộ có tên bộ Văn Lang, điều này không hợp lý bởi vì tên nước không thể trùng tên bộ, truyền thuyết nói vua Hùng đóng đô ở Phong Châu có thể hiểu Phong Châu cũng là một bộ, và có thể đó là miền Bắc Việt Nam. Tại vùng Lạng Sơn có cửa ải “Quỷ môn quan” nghĩa là cửa đi tới vùng đất của thần Chết và Phong Châu nghĩa là “vùng đất của gió hay kinh đô của gió”, hay còn gọi là Phong Đô, vùng đất của Thần Chết, mà chúng ta đã biết vua Lạc Long Quân chính là Phong Đô Đại Đế. Qua nhận định cương vực nước Việt cổ thì biên giới với Trung Quốc của vua Đế Nghi và vua Kinh Dương Vương là con sông Dương Tử, cho đến khi xảy ra chiến tranh với nhà Ân Thương thì cương vực bị co hẹp lại. Theo Sử ký (q. 31) thì đời Chu Thái Vương (trước thế kỷ XI tr.CN), Thái Bá chạy xuống hạ lưu sông Dương Tử mà lập nước Ngô, gồm tỉnh Giang Tô và một phần tỉnh Chiết Giang. Đời Thành Vương (thế kỷ VII tr.CN), nhà Chu phong cho con cháu một hầu thần là Hùng Dịch ở miền Kinh Man lập ra nước Sở (Sử ký, q. 40) chiếm miền Hồ Bắc, Hồ Nam và một phần Giang Tây. Ở miền Chiết Giang thì thời nhà Hạ, con thứ vua Thiếu Khang được phong ở Cối Kê, dựng nên nước Việt, cũng thần phục chư hầu nhà Chu. Sở, Ngô, Việt là ba nước chư hầu lớn nhất của nhà Chu ở lưu vực sông Dương Tử, còn một khoảng trống giữa nước Sở và nước Việt, đại khái tương đương một phần tỉnh Giang Tây, tức là miền đất thời nhà Hán đặt quận Dự Chương. Có lẽ đất Việt Chương mà vua Sở Hùng Cừ phong cho con út, sau khi đã đánh lấy đất ở miền Dương Việt. Có lẽ Việt Thường là một nước nhỏ do người Việt tộc dựng lên ở miền ấy vào đầu thời Chu, vì ở xa nên phải là nước chư hầu triều cống nhà Chu (Lịch sử cổ đại Việt Nam, trang 218, tác giả Đào Duy Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005). Cho tới thời vua An Dương Vương lên ngôi, đặt tên nước Âu Lạc và xây thành Cổ Loa bên vùng tả ngạn sông Hồng, vùng Đông Anh, Hà Nội ngày nay, thì không thấy thư tịch cổ đại nào ghi nhận kinh đô Văn Lang, ngoại trừ Đại Việt Sử Ký Toàn thư và truyền thuyết vua Hùng đóng đô ở Phong Châu, ngã ba Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Qua phân tích, chúng ta chú ý đến sự kiện vua An Dương Vương là bộ chủ vùng Vân Nam, truyền thuyết đóng đô tại thành Cổ Loa, điều này cho phép chúng ta ghi nhận kinh đô Văn Lang trước đó là ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, như đã phân tích, trong nội dung Kinh Dịch, vua chạy ra đất Mân tạo nên một giả thuyết kinh đô Văn Lang ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay. Sau trận chiến với giặc Ân, nếu nhận định kinh đô chuyển về miền Bắc Việt Nam, điều này lại mâu thuẫn với truyền thuyết vua Hùng đóng đô ở Phong Châu. Tuy nhiên, việc vua Hùng Vương VI không tổ chức tấn công lấy lại những vùng đất đã mất sau chiến thắng, mà lại thiên đô thì điều này có vẻ không hợp lý lắm với một quốc gia hùng mạnh. Câu truyện Thánh Gióng, cũng nó về vũ khí của ngài là cây gậy sắt, ngựa sắt, giáp sắt, nón sắt chứng tỏ thời kỳ này Văn Lang có thể đã sản xuất được sắt nhưng vẫn còn non, cho nên trong trận chiến cây gậy đã bị gãy và Thánh Gióng đã thuận tiện dùng tre ngà làm vũ khí cùng với chiến mã sắt phun lửa. Sách Thủy Kinh Chú nói rằng: “Năm Kiến Vũ thứ 23, khi mới lập châu, thấy có giao long cuốn bện ở hai bến Nam và Bắc, cho nên đổi tên Long Uyên thành Long Biên”. Đời Tùy lại đặt quận trị Giao Chỉ, đời Đường đặt làm An Nam đô hộ phủ. Cho đến khi Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, xưng hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Nay là Hà Nội, là kinh đô nước Vạn Xuân, tồn tại 58 năm (544-602), kéo dài từ triều đại nhà Lý - Lý Nam Đế đến nhà Triệu - Triệu Quang Phục. Chùa Trấn Quốc và chân dung vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Quân Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam Chùa được xây dựng lần đầu vào thời vua Lý Nam Đế (544-548) trên bãi sông Hồng, thuộc địa phận làng An Hoa, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (phường Yên Phụ, quận Tây Hồ ngày nay). Khi đó, ngôi chùa được đặt tên là Khai Quốc, đến triều Lê Thái Tông thế kỷ XV, chùa được đổi tên là An Quốc. Năm 1615, do bờ tả bãi sông Hồng bị lở đến sát nền chùa nên nhân dân và chính quyền đã dời toàn bộ chùa về hòn đảo Kim Ngư nằm gần bờ phía Đông của Hồ Tây. Chùa có tên là Trấn Quốc vào cuối thế kỷ XVII, đời vua Lê Hy Tông. Theo sách Nguyên Hòa Quận Chí (q38) thì năm 767 Trương Bá Nghi bỏ thành cũ mà xây lại thành mới ở phía Bắc sông Tô Lịch chỉ cách 200 thước. Thành cũ sông Tô Lịch chép trong Man Thư chính là thành ấy. Bấy giờ sông Tô Lịch còn là một con sông lớn chảy vào hồ Tây và là một khúc của sông Hồng, chỗ gọi là Hồ Khẩu ngày nay. Thành của Trương Bá Nghi có lẽ là vào khoảng giữa sông Tô Lịch và hồ Tây hiện tại. Theo Mapéro - căn cứ vào Man Thư - Thì năm 863, khi quân Nam Chiếu xâm lược nước ta, ở khoảng Hà Nội ngày nay có đến ba thành: thành thứ nhất là thành đô hộ phủ, do quân nhà Đường cố thủ đến cùng; thành thứ hai là thành cũ bên sông Tô Lịch, do quân Hà Nam chiếm đóng; thành thứ ba là Tử Thành do quân Nam Chiếu chiếm đóng (Man Thư. q4 và Tư Trị Thông Giám, q260). Thành Đô hộ phủ ở về phía Đông thành cũ Tô Lịch, vì khi quân Đường cùng thế quyết định phá vây để chạy thoát thì Man Thư chép rằng họ xông ra bờ sông phía Đông thành, và khi ra đến sông không thấy thuyền thì họ lại vào La Thành ở phía Đông. Về sau Cao Biền xây Đại La Thành là xây đắp thêm ở địa điểm ấy thôi. Bản đồ cổ Hà Nội Tư liệu tham khảo Đời vua Đinh Tiên Hoàng đặt làm đạo, đời Lê Đại Hành làm lộ. Đến đời Vua Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) từ thành Hoa Lư dời về đây, có rồng vàng hiện trước thuyền ngự, nhân đó đổi tên là thành Thăng Long, đặt phủ Ứng Thiên, dựng kinh đô, xây cung điện, xây dựng hoàng thành có 4 cửa: phía Đông là cửa Tường Phù, phía Tây là cửa Diệu Đức, phía Nam là cửa Đại Hưng và phía Bắc là cửa Quảng Phúc. Năm Thiên Thành thứ 2 (1029) lại đắp tường đất bao quanh bốn phía, vòng quanh một lớp gọi là Phượng Thành. Đầu đời Trần vẫn giữ nguyên như thế, đến năm Thiệu Bảo (1279-1284) đổi làm Trung Kinh, mới đặt 61 bạn phường ở tả hữu kinh thành, đặt ty Bình bạc (là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long), La Thành môn tứ ủy, Phượng Thành tứ sương, quan quân thay nhau canh giữ. Nội thành gọi là thành Long Phượng. Đời Hồ gọi là Đông Đô, Lê Thái Tổ gọi là Đông Kinh, cũng gọi là Đông Đô, vì lấy Thanh Hoá làm Tây Đô nên gọi Thăng Long là Đông Đô. Lê Thánh Tông nhân chế độ thời Lý, Trần mà mở rộng hoàng thành (trích một phần nội dung bài viết Đi tìm Thăng Long thành, tác giả Nguyễn Quốc Hùng). Truyền thuyết Vua Hùng chọn đất đóng đô: truyện xưa kể rằng, Kinh Dương Vương về nước chọn đất đóng đô. Ngài đi ngắm cảnh khắp đất nước, đến đất Thanh Hóa, ngài thấy cả trăm trái núi hình chim phượng nhưng không vừa ý. Ngài quay về đất Phủ Lý thấy bãi biển có hình con cá chép lúc ẩn lúc hiện, cũng không vừa ý. Ngài đến đất Hạ Long thấy có trăm trái núi hình rồng nhưng thấy cũng không phải là đất đế đô. Ngài lại lên đất Phú thọ, thấy có môt trăm trái núi hình 100 con voi, 99 con quay đầu về phương Nam, 1 con quay đầu về phương Bắc bị trời đánh gãy cổ, ngài không lấy đất ấy làm kinh đô. Rồi ngài lại về vùng đất có 100 con rùa, đất rộng, ở đây có những gò đất cao nổi lên, con người có thể ở đấy mà không sợ bị ngập lụt, đất có thể cày cấy được, ngài mới xây dựng cung điện để ở. Con cháu đời đời mở rộng Quốc đô. 100 con rùa đó là các nền đền chùa ngày nay, từ Hoài Đức đến xã Liêm Châu, Thanh Oai, các chùa đình đều được ghi là Ngũ Nhạc chầu quy (5 gò đất chầu hình con rùa) và cũng chỉ đất này mới có địa danh (tên Nôm) còn tên tự là Thanh thủy làng Rùa và làng Xốm gọi là Xốm Rùa. Vua Lạc Long Quân đang ở đất Phong Châu nghe tin ở Phủ Lý có loài Lý Ngư Tinh quấy phá dân chài lưới, ăn thịt người, Long Quân lấy một khối sắt nướng đỏ liệng vào miệng cá, Ngư tinh vùng vẫy nhảy đến đánh thuyền, Long Quân chém được khúc đuôi, lột da treo lên trên núi, nay gọi là Bạch Long Vỹ, khúc đầu trôi ra ngoài biển, hóa ra chó mà chạy mất, Long Quân lấy đá lấp biển thì chém được, nó bèn hóa ra đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn, khúc mình trôi vào Man Cầu, nay gọi là Cầu Man Cẩu. Được tin ở hồ Dâm Đàm (tức Hồ Tây - vùng đỉnh Cáo xưa, sau là Xuân Đỉnh, Xuân Tảo) có loài Cáo Chín Đuôi thành tinh chuyên phá phách. Ngài lại đến đó trừ diệt xong, rồi lập chùa quán để trấn yểm. Rồi được tin dưới chân núi Ba Vì loài Đại Bàng Tinh (là đất Hạ Lôi, Bằng Trù, Thạch Thất), ngài đến đó trừ diệt loại này xong rồi về Phong Châu. Ở đất Phong Châu (có vùng đất Bạch Hạc) có loài Mộc Tinh tên là Quỷ Xương Cuồng (đất Lôi Phong có nhiều địa danh là Mộc như Hoàng Mộc, Mộc Xá, Mộc Quan Nhân, Mộc Nhân Chính…) ẩn hiện nhiều nơi, Ngài phải nhiều phen truy đuổi mới bắt được. Một bản phả của họ Nguyễn còn lưu giữ ở Văn Nội, Thanh Oai trong cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ ghi nhận: “Thăng Long xưa gọi là Phượng Thành đến thời Hán sang cai trị mới đổi thành Đại La, sau Lý Thái Tổ dời đô mới gọi là Thăng Long (Thăng Long thành) - nghĩa tên đất Rồng - chứ không phải rồng bay lên như truyền thuyết. Vì vua Lý đến Phong Châu là đất Lạc Long Quốc, Sơn Nam Thượng mà Nguyễn Trãi và Phan Huy Chú đã ghi lại. Nay là đất Phượng Châu Đại Thành và Đại La, Yên Nghĩa…”. Đảo Bạch Long Vĩ Ảnh tham khảo Internet Bạch Long Vĩ đảo quê hương, em đứng trên biển Đông, thôn xanh Phù Thủy Châu, mênh mông sóng bạc đầu, gió rì rào năm tháng… Bạch Long Vĩ đảo quê hương, sóng vỗ bao tình thương, gió mang đi ngàn phương, quê hương đuôi Rồng Trắng, quê hương của hải bào, tiếng hát em ngân càng cao…Bạch Long vĩ đảo quê hương, nhạc sĩ Huy Du. Tổng hợp các dữ liệu trên, chúng ta có khẳng định rằng: Phong Châu là tên một bộ chỉ miền Bắc Việt Nam, kinh đô của nước Văn Lang chính là thủ đô Hà Nội hiện nay. Địa danh hòn đảo Bạch Long Vỹ - đuôi con Rồng Trắng, được đặt tên cho trục Càn - Khôn của Hậu Thiên Bát Quái, và như vậy đầu con Rồng Trắng chính là dãy núi Himalaya hùng vĩ. Mặt khác, trong cấu trúc cung điện của vua chúa, trung tâm thiết triều thường tên gọi là điện Kim Loan hay Kim Loan điện, Loan là con trống và Phượng là con mái, do vậy Phượng Thành hàm ý ở trung tâm kinh thành chứ không phải là tên chung cho kinh thành, Long Thành ngoại, Phượng Thành nội thể hiện trung tâm kinh tế chính trị (Âm) so với Đền Hùng trung tâm tín ngưỡng tâm linh (Dương). Kết hợp với truyền thuyết vua Lạc Long Quân diệt trừ Cáo chín đuôi là lập đạo quán vùng Hồ Tây, chúng ta có thể nhận định: kinh thành đã có từ thời vua Lạc Long và được lấy tên là Rồng Trắng hay Bạch Long Thành, gọi tắt là Bạch Thành. Chúng ta nhớ lại trong cuốn Tam Quốc Chí, Bồ Tát Nguyễn Minh Không___ tại Bạch Thành. Qua các nhận định các dữ kiện lịch sử trên, chúng ta không thể không quay trở lại với nội dung Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn qua sự kiện dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình, cố đô của Đại Cồ Việt về thành Đại La, nay là Hà Nội. Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô, khi ra đến La Thành, ông lấy cớ có điềm lành trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành, và chuyển cố đô Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ. Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?. (Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) Trong Chiếu dời đô, chúng ta thấy đặc biệt là có ý đề cao việc Cao Biền xây thành Đại La và oán trách hai nhà Đinh, Lê gây tổn hao trăm họ, đây chính là mắt xích gây nên nghi ngờ về việc Chiếu dời đô không còn mang nội dung nguyên thủy của nó. Trước thời nhà Lý, chúng ta cũng đã biết về nhà sư Định Không (?-808) nói về mảnh đất Cổ Pháp và tiên tri sự phá hoại long mạch nước Việt, sau này ứng đúng với việc viên tướng Cao Biền đã trấn yểm khắp nơi, truyền truyết ghi chép việc này rất nhiều và rõ ràng. Đồng thời, nước Việt hưng quốc trở lại bắt đầu từ thời vua Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, cùng lúc ngài xây dựng nên ngôi chùa Trấn Quốc nổi tiếng còn lại đến ngày nay, chưa kể tới thời vua Lý Công Uẩn với các quân sư rất am tường phong thủy địa lý, ít nhất là dấu ấn còn ghi lại bố cục tổng thể và tên gọi, vị trí các công trình của kinh đô Thăng Long hoàn toàn theo dịch lý, cho nên việc vua Lý Công Uẩn đưa tên “Cao Vương” vào trong Chiếu dời đô là không thể xảy ra, bởi nó đã tạo ra sự tương phản rõ nét với việc nhận định hai nhà Đinh, Lê đã gây tác hại tới trăm họ. Tượng thờ Thái hậu Dương Vân Nga, vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành Ảnh tham khảo Internet Mặt khác, theo dòng lịch sử, thì Cao Biền cũng không phải là người chọn Đại La là nơi lập kinh đô, mà đây là một sự kế thừa lâu dài trong lịch sử nước Việt và chúng ta có thể chắc chắn một điều, thời kỳ này sử sách còn lưu trữ lại rất nhiều, chỉ khi thời giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, kinh sách mới bị hủy diệt hầu như không còn lại thứ gì. Minh Thành Tổ đưa ra ba chỉ dụ liên tiếp đề ngày 21/8/1406, 16/6/1407 và 24/6/1407 căn dặn các tướng lĩnh nhà Minh thi hành chính sách đồng hóa và tiêu diệt tận gốc nền văn hóa Đại Việt. Thi hành chỉ thị của Minh Thành Tổ, quân Minh tịch thu hoặc tiêu hủy toàn bộ tất cả các loại sách vở của nước Nam, kể cả các bia đá ghi lại sự nghiệp của tiền nhân. Sau đây là lệnh của Minh Thành Tổ gởi các tướng Minh ngày 21/8/1406: "... Trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự cho đến cả những loại (sách ghi chép) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ ... một mãnh chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn.". Quân Minh còn chở về Trung Hoa hầu như toàn bộ sách vở đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước, đó là sách của các tác giả sau đây: Lý Thái Tông (Hình thư), Trần Thái Tông (Hình luật, Quốc triều thông lễ, Kiến Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập), Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập), Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút), Trần Minh Tông (Thi tập), Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển), Trần Nghệ Tông (Bảo hòa điện dư bút, Thi tập), Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền), Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi), Trần Quốc Toại (Sầm lâu tập), Trần Quang Khải (Lạc đạo tập), Trần Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập), Nguyễn Trung Ngạn (Giới Hiên thi tập), Phạm Sư Mạnh (Giáp thạch tập), Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo), Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần, Việt nam thế chí, Việt sử cương mục), Lê Văn Hưu (Đại Việt sử ký), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lý Tế Xuyên (Việt điện u linh tập)... (Trích một phần nội dung bài viết Đại nạn Trung Hoa, tác giả Trần Gia Phụng). Sau này, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh đi đến thành công, sau hơn mười năm gian khổ, ba lần phải lên núi Chí Linh chịu cảnh bao vây có lúc tưởng như đã bị tiêu diệt, để bảo toàn lực lượng: Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. (Trích Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi). Trong cuộc chiến, quân ta bắt được viên tướng Hoàng Phúc, là một người rất giỏi địa lý, đã có mang theo tập kế hoạch và bản sao Cao Biền địa lý kiểu tự sang để duyệt và định yểm nốt những đất lớn nào còn sót lại, để Việt nam không thể sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... Nguyễn Trãi Tranh lụa, thế kỷ XVIII, Bảo tàng lịch sử, Việt NamVua Lê Thái Tổ Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam Nhong nhong ngựa ông đã về, Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn. Ca dao. Mặt khác, vua Lý Công Uẩn cũng đã được các quan lại triều cũ tôn xưng làm vua và cuộc chuyển giao hoàn toàn yên bình, không gây nên bất kỳ một cuộc chiến nào, do vậy việc tôn trọng tiền triều cũng là một vấn đề của đạo lý, chưa kể vua Lý Công Uẩn là một vị vua thực hiện Tam giáo đồng nguyên nhưng xem Phật giáo là quốc đạo, cho nên nội dung Chiếu dời đô là hoàn toàn không thể có nội dung trên được. Vua Lý Thái Tổ Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam Việc Chiếu dời dô lấy các triều đại tối cổ của Trung Quốc, làm điểm xuất phát nội dung cũng không phải là đề cao mà đây là những vấn đề nổi bật đã từng làm thay đổi toàn cục lịch sử của nước Trung Quốc rộng lớn như đã được ghi nhận trong cổ thư. Như vậy, việc Chiếu dời đô thực sự đã không tồn tại các đoạn văn liên quan đến hai triều Đinh, Lê và Cao Biền thì vẫn giữ nguyên nghĩa, cũng như mục đích của việc dời đô, đều này có nghĩa bản gốc Chiếu dời đô đã bị sửa đổi và ghi nhận vào bộ Đại Việt Sử ký toàn thư, tuy nhiên cũng không chắc chắn nội dung thay vào đó đã được soạn như thế nào. Chúng ta cũng biết rằng, truyền thuyết vua Lý Công Uẩn nhân thấy rồng vàng hiện lên cũng là một mật ngữ của cha ông muốn nói về con “Rồng vàng” Lạc Long Quân, và nội dung cuốn sách cũng không tách rời việc liên quan đến con “Rồng vàng” này và gián tiếp khẳng định truyền thuyết này là chính xác - tức việc chọn lựa tên Thăng Long đã được triều Lý nghiên cứu lịch sử cổ đại Văn Lang hết sức kỹ càng. Sau này, Lý Thường Kiệt (1019-1105) chiến thắng quân Tống trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, ông đã làm bài thơ thần Nam Quốc sơn hà trong đêm tại đền thờ Trương Hống, Trương Hát để cỗ vũ và phát huy khí phách của quân đội Đại Việt: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Sông núi nước Nam, vua Nam ở, Rành rành định phận tại Sách Trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm? Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. “Sách Trời” ở đây chính là lịch sử thời Hùng Vương của nước Việt, được “viết lên trời xanh” bằng tên gọi của những hành tinh trong hệ mặt trời, những chòm sao trong dải Ngân hà... Lý Thường Kiệt Tranh khắc đồng, Việt Nam Cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư, tại ___ viết: "Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con không hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương, thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là Tiên Sĩ Vương. Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy". Nội dung này đoạn viết trên đã bị nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thái cực lực phản đối trong cuốn Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh 2006, là hoàn toàn hợp lý. Sĩ Nhiếp (137-226) là Thái thú đất Giao Chỉ vào thời Bắc thuộc từ năm 187-226, được phong là Long Độ Đình Hầu, đóng đô tại thành Luy Lâu và cho tới nay, Sĩ Nhiếp được tôn xưng là “Nam giao học tổ” - đây là một sự tôn xưng có lẽ đã được tạo ra trong suốt thời kỳ nước ta bị Bắc thuộc, và không có lý do gì tôn xưng không bị xóa bỏ ngay, bởi đây là một tôn xưng ngớ ngẩn nhất từ trước tới nay trong suốt tiến trình lịch sử văn hóa nước Việt. Rõ ràng, lịch sử về Sĩ Nhiếp cần phải được nghiên cứu, xem xét một cách kỹ càng hơn nữa. Trong cuốn tiểu thuyết nối tiếng thế giới là Tam Quốc Chí, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tại Hồi 86: “Bát Giới giúp trừ yêu quái - Ngộ Không trổ phép diệt yêu ma”, có đoạn viết: … Lão quái nghe xong, chẳng còn cách nào đành hạ lệnh: Các con hãy dốc sức đồng lòng cầm binh khí tinh nhuệ sông ra đánh trận. Bọn tiểu yêu hò hét vang lừng xông ra ngoài cửa động. Đại Thánh và Bát Giới vội vã lùi lại vài bước, tới chỗ rộng rãi bằng phẳng mới chặn bọn tiểu yêu quát: Tên nào là yêu quái sừng sỏ? Tên nào bắt sư phụ của ta?. Bọn tiểu yêu cắm doanh trại bày trận, phất một lá cờ gấm bay phần phật, lão quái cầm chày sắt bước ra lớn tiếng quát: Đồ hòa thượng khốn kiếp kia, các ngươi không nhận ra ta sao? Ta là “Nam Sơn đại vương” đã lêu lổng ở đây mấy trăm năm nay rồi. Đường Tăng của các ngươi đã bị ta ăn thịt. Ngươi dám làm gì ta nào?. Hành Giả quát mắng: Đồ đê tiện to gan kia! Nhà ngươi bao nhiêu tuổi mà dám dùng hai chữ “Nam Sơn đại vương”. Lão Quân họ Lý (Lão Tử) là ông tổ khai thiên lập địa chỉ được ngồi ở bên phải của cung Thái Thanh. Phật Tổ Như Lai là bậc giúp đời chỉ được ngồi ở dưới cánh Chim đại bàng, đức Thánh Khổng là ông tổ của đạo Nho cũng chỉ được gọi là “Phu Tử” thôi. Nhà ngươi là đồ nghiệt súc mà dám xưng là “Nam Sơn đại vương”, lêu lổng ở đây mấy trăm năm cơ à? Chớ có chạy! Nếm một gậy của ông ngoại nhà ngươi đây! Trong lịch sử nước ta không thấy ghi nhận bất kỳ ai được gọi là Nam Sơn Đại Vương, trong cuộc chiến chống Nguyên Mông thì chỉ có Thái tử Thoát Hoan, con thứ tư của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, thường được gọi là Tứ Vương Tử, được phong làm Trấn Nam Vương sau phải thoát thân về nước bằng cách chui ống đồng, tuy nhiên nội dung đoạn văn trên lại hàm ý liên quan đến lịch sử văn hóa, có lẽ ngài muốn nhắc nhở hậu thế về sự kiện tôn xưng Sĩ Nhiếp làm “Nam Giao Học Tổ”. Ngay cả Đức Lão Tử, Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Thánh Tiên Sư còn chưa thể xưng Nam Sơn Đại Vương của nước Việt, huống hồ là Sĩ Nhiếp? Con “Chim đại bàng” trong đoạn văn, tác giả ẩn ý về một vị Thánh nhân nước Việt, và cũng là Thánh nhân mà các tôn giáo trên thế giới đang mong chờ xuất hiện, cũng sẽ được xác định trong các chương sách sau. Như vậy, việc Đại Việt sử ký toàn thư ghi hẳn “Kỷ Sĩ Nhiếp” trong khoảng 40 năm cần phải xem xét lại, và Sĩ Nhiếp là Thái thú đất Giao Chỉ làm sao gọi là “Vương”, cũng giống như Cao Biền - tên tướng pháp sư dùng phong thủy trấn yểm nước Việt cũng được gọi là “Cao Vương”? Nhằm làm sáng tỏ lịch sử hơn nữa, các sự kiện đã được liên kết chặt chẽ không thể tách rời qua Chương VIII: KIM CƯƠNG BẤT HOẠI. *** Share this post Link to post Share on other sites