Posted 13 Tháng 1, 2013 LỜI MỞ ĐẦU Từ bao la sâu thẳm trong tâm hồn mỗi con người đã không từng tự hỏi: Vũ trụ bao la này từ đâu mà sinh ra? Và mỗi khi ngước nhìn bầu trời lấp lánh những ánh sao đêm, nhiều lúc cảm thấy mình thật là nhỏ bé trong cõi đời đang vận động không lúc nào ngừng nghỉ này. Lịch sử văn minh nhân loại được ghi nhận bằng sử sách chỉ ước chừng trên 5.000 năm qua, và khoảng thời gian trống trước đấy chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết và huyền thoại về một trận đại hồng thủy khủng khiếp, đã nhấn chìm đại lục địa có tên Atlantic, các dấu vết còn lại hầu như không mấy rõ ràng.Sự phát triển như vũ bão khoa học kỹ thuật trong thể kỷ XXI cho tới nay, cũng chưa thể giải thích được nguồn gốc của vũ trụ từ đâu mà có một cách hợp lý, cũng như chưa xác định được vũ trụ này giới hạn hay vô cùng ngoại trừ thuyết Bigbang ghi nhận vũ trụ trong khoảng 14.7 tỷ năm ánh sáng qua quan sát và tính toán, cùng với giả thuyết vũ trụ khởi nguyên trong một trạng thái vật chất vô cùng đặc, có nhiệt độ cực lớn từ đó phát sinh ra một tiếng nổ khủng khiếp ban đầu, sau đó theo thời gian hình thành nên vũ trụ ngày nay. Không chỉ giới hạn trong lý giải nguồn gốc vũ trụ, kích thước của vũ trụ, mà các nhà khoa học còn bị giới hạn ở việc nghiên cứu trạng thái vi mô của vật chất. Cỗ máy gia tốc CERN phân tích hạt cơ bản được xây dựng giúp cho việc nghiên cứu khoa học về thế giới vi mô rõ ràng hơn, nhưng không đồng nghĩa sẽ xác định được giới hạn nhỏ nhất của vật chất. Mặc dù trong lịch sử triết học thế giới, triết gia Hy Lạp Democritos (460 tr.CN) cũng đã nhận định về hạt vật chất nhỏ nhất mà ông gọi là nguyên tử - là nền tảng của vật chất, đồng thời nếu truy nguyên lịch sử Phật giáo, Đạo giáo thì cũng đã tồn tại định nghĩa này và họ cũng đã biết rõ quy luật vận động của chúng trước đó vài thiên niên kỷ. Không chỉ vậy, hầu hết các truyền thuyết và huyền thoại của các dân tộc trên thế giới cũng đã viết rằng: Khởi thủy vũ trụ mênh mông, tràn ngập “nước” và tĩnh lặng, nó hoàn toàn tự thân tồn tại và vận động. Trong lĩnh vực sinh học và tâm lý học nghiên cứu về bộ não của con người cho tới nay cũng chưa thấu hiểu nguyên nhân nào hình thành nên tư duy, khi nó cũng chỉ là một hệ thống các cấu trúc vật chất hữu cơ. Song song với việc nghiên cứu về bộ não con người, thì thực tế diễn ra trên khắp thế giới, tồn tại những hiện tượng giao tiếp giữa những người đang sống và những người trong “thế giới vô hình”, những hiện tượng khách quan lại sừng sững thách đố trí tuệ các nhà khoa học với câu hỏi muôn thuở chẳng lẽ linh hồn là có thật và đang tồn tại xung quanh chúng ta? Nhưng nếu nó tồn tại thì hữu hạn hay vĩnh cửu? Câu hỏi này lại quay trở về với một vũ trụ thực sự có tồn tại vĩnh cửu hay không? Và lúc nào thì bị hủy diệt như trong các kinh sách của các đạo giáo nói về “Ngày tận thế” của loài người và của cả vũ trụ? Nhằm giải đáp cho một câu hỏi muôn đời của loài người trong nỗi khắc khoải: Chết là hết hay sao? Không chỉ vậy, với sự giới hạn về mặt thời gian của cuộc đời, trong khi đó hầu hết mỗi con người đều có những niềm mơ ước riêng, nhưng không biết có đạt được hay thỏa mãn trong một chừng mực nào đó hay không? Khi mà sự được, mất phụ thuộc vào những quy luật của tự nhiên, xã hội và con người. Như vậy, các triết gia lại càng đau đầu với những câu hỏi về hạnh phúc và khổ đau. Và thực sự kết quả hầu hết là khổ đau như nhận định của một số tôn giáo lớn trên thế giới, để từ đó xây dựng nên những nền triết học và khoa học thực nghiệm giúp cho nhân loại thoát khỏi tình trạng này, đồng thời cũng đã tạo ra những công cuộc đi tìm kiếm sự bất tử vô tiền khoáng hậu trong suốt quá trình lịch sử.Đó thực sự là những bí ẩn vĩ đại vẫn chưa thể giải đáp, chúng đã trở thành những điều huyền bí, trở thành cốt truyện trong những bản sử thi hùng tráng, những câu chuyện viễn tưởng hấp dẫn hay các hiện tượng ma thuật kỳ lạ. Từ những giới hạn trong việc lý giải những bí ẩn của thế giới, đã hình thành nên những niềm tin vô bờ bến vào các thần thánh sáng tạo nên thế giới, cảm thấy họ chi phối lên mỗi cuộc đời, có quyền phán quyết về thiên đường hay địa ngục, con người phải tuyệt đối tôn sùng. Nếu chúng ta nghiên cứu lịch sử văn minh nhân loại vào thời thượng cổ, thì qua các câu truyện truyền thuyết và huyền thoại của các dân tộc trên thế giới hầu hết đều có nội dung tương tự khi giải thích về vũ trụ, xã hội, con người bao gồm cả “thế giới vô hình”. Nhưng cơ sở nào để họ có thể lý giải một cách hợp lý? Phải chăng đã có một nền tảng kiến thức đã được tích lũy rất lâu trong lịch sử loài người như thiên văn, y học, tâm linh, khí công… đã từng tồn tại như truyền thuyết đã từng nói về một lục địa Atlantic đã bị nhấn chìm trong trận đại hồng thủy. Vậy, thì những nguồn kiến thức đó còn lưu dấu đến ngày nay hay không? Trong nền Lý học và các tôn giáo Đông phương, chúng ta đã nhận thấy rằng đều có cùng chung một triết lý về vũ trụ, xem nó là cái “Một”, là một thể thống nhất, vạn vật đều có mối quan hệ hay có chung “bản thể”. Đặc biệt, tồn tại hẳn một học thuyết đáp ứng được các tiêu chí về một học thuyết khoa học đó là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Học thuyết này được áp dụng mọi lĩnh vực trong cuộc sống, nó có thể lý giải đến tận cùng thế giới vi mô và vĩ mô của vũ trụ, thậm chí cả lĩnh vực “vô hình”, nhưng nó vẫn còn là một bí ẩn đối với phương Tây, mặc dù các nhà khoa học bỏ rất nhiều công sức nhưng thực sự thành quả đạt được rất còn hạn chế. Ngày nay, với công cuộc toàn cầu hóa về mọi mặt, đặc biệt là thông tin viễn thông đã làm cho các quốc gia với khác biệt văn hóa xích lại gần nhau hơn, do vậy việc tìm hiểu các dữ liệu lịch sử, văn hóa và khoa học cũng được thuận lợi. Từ đó sự tìm hiểu sâu học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cũng được dễ dàng, làm nảy sinh sự nghi ngờ về một nền văn hóa toàn cầu mối quan hệ lịch sử, văn hóa của các quốc gia vào thời cổ đại. Thực sự, những nhà nghiên cứu không thể ngờ rằng, toàn bộ bí ẩn của vũ trụ lại tồn tại trong một nền văn hóa lâu đời đậm tính nhân bản - đó là Việt Nam và đấy cũng là lý do tại sao Việt Nam là nơi giao lưu và tồn tại rất nhiều nền văn hóa, tôn giáo khác nhau những vẫn không mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Thực sự, nơi đây đã chôn dấu một kho báu trí tuệ vĩ đại của nhân loại về vũ trụ quan và nhân sinh quan, nơi được xem là “đất của Thần” trong truyền thuyết của Ai Cập cổ đại và của toàn thế giới thời thượng cổ. Vậy bí ẩn đang nói tới này là những vấn đề gì? Chúng ta sẽ biết sau khi đọc hết cuốn sách này. Xin thành tâm gửi lòng biết ơn vô hạn tới các vị tiên liệt nước Việt với sự trợ giúp thần thánh và gửi lời cảm ơn tới tất cả tác giả của các tác phẩm mà tôi đã tham khảo và trích dẫn, nếu không cuốn sách này không thể hoàn thành, đặc biệt: - Nhóm nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ, chủ nhiệm chương trình cố giáo sư Đỗ Tòng (cũng xin gửi nội dung cuốn sách tới trang website: hodovietnam.vn).- Bác Lâm Thanh Điền và cô Nguyễn Thị Chí Liêm trong việc giúp đỡ tư liệu liên quan đến minh triết Việt và “tâm linh thần thánh” của nước Việt.- Tác giả Hà Văn Thùy: tác giả của cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, Nxb Văn học, 2008 và các tác phẩm khác.- Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh: hệ thống tư liệu và các tác phẩm liên quan đế Lý học Đông phương và lịch sử, văn hóa của nước Việt (lyhocsongphuong.org.vn).- Tác giả Nguyễn Xuân Quang: hệ thống các bài viết lịch sử, văn hóa trống đồng Đông Sơn và các bài viết liên quan khác (bacsinguyenxuanquang.wordpress.com)- Cố triết gia Lương Kim Định: tuyển tập các trước tác về hệ thống triết học thế giới và lịch sử, văn hóa nước Việt (www.dunglac.org).- Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ: các bài viết và sách về văn hóa, thiên văn và các tôn giáo trên thế giới, đặc biệt về Đạo giáo, Dịch lý (nhantu.net).- Tác giả Lê Anh minh với các tác phẩm về triết học, đạo Cao Đài và Dịch lý (www.thienlybuutoa.org).- Tác giả Phan Ngọc Khuê: tác giả của cuốn Tranh Đạo giáo ở Bắc Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, 2008.- Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: các bài viết và nội dung nghiên cứu chữ Việt cổ.- Nhà nghiên cứu Minh Xuân: các bài viết điền dã và phân tích về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (http://bachviet18.com)- Nhà nghiên cứu Văn Nhân: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (www.laclong.tk).- Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt, phong thủy và các phương pháp ứng dụng cổ (dienbatnblog.blogspot.com).- Nhà nghiên cứu Lãn Miên và Bùi Anh Tuấn: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (lyhocsongphuong.org.vn).- Cùng với các trang mạng website: chanhkien.org; daitangkinhvietnam.org; anvietttoancau.net; thegioivohinh.com; vutruhuyenbi.com; giaodiemonline.com; hodovietnam.vn; hoalinhthoai.com; caodaism.net; phatgiaohoahao.net; tukhicongdentamlinh.net; khicongydaoviet.wordpress.com; kynguyentamlinh.com và các trang website khác.Ngoài ra còn rất nhiều các tác giả và trang website khác nữa, chúng tôi sẽ ghi nhận chính thức sau khi hoàn thành cuốn sách vào thời điểm thích hợp. Cuối cùng xin gửi lời nhớ ơn mãi mãi tới gia đình và những người bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện công tác nghiên cứu này, nếu không sẽ chẳng bao giờ có thể kết thúc dù ở một mức độ rất giới hạn.Tác giảNguyễn Tấn HoàngEmail: thaihoanglienson@gmail.comghi chú: chúng tôi sẽ nhờ Trung tâm Lý học Đông Phương gửi lên mỗi chương một lần hoặc tất cả nội dung cuốn sách một lần. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 1, 2013 Chương I KIM CỔ TIÊN TRI Cho đến nay khi “Tiên tri thế giới 10.000 năm” đã được giải thích - Thật là bái phục nguyên lý tuần hoàn vô cùng kỳ diệu. Càn Khôn vạn niên ca - Khương Thái Công. Dự ngôn hay tiên tri là những dự đoán về các sự kiện sẽ phát sinh trong tương lai. Các nhà tiên tri diễn tả những sự kiện, từ sự việc xảy ra đối với mỗi con người, mỗi gia đình, những biến động xã hội của một quốc gia, thậm chí cho tới tương lai toàn cầu. Lời tiên tri là một trong những hiện tượng thú vị, được xem là những bí ẩn khó giải đáp và mộ trong những sự kiện được bàn luận nhiều nhất trong suốt lịch sử loài người. Con người sống tại nhiều quốc gia đã lưu truyền các lời tiên tri từ đời này sang đời khác, dưới nhiều hình thức khác nhau đã tạo nên một trang sử đẹp trong nền văn minh nhân loại. Nền văn minh Tây phương với các phương pháp chiêm tinh qua 12 cung Hoàng Đạo. Trong khi đó, nền văn minh Đông Phương đã xây dựng được những phương pháp dự báo có hệ thống như Kinh Dịch, Lạc Việt độn toán, Tử Vi, Mai hoa dịch số… dựa trên số lượng biến số “sao” rất lớn như trong môn Tử Vi, nó có khả năng tiên tri tới tận từng hành vi của mỗi con người. Chưa kể, có những người với những khả năng đặc biệt, có thể dự đoán rất chính xác về những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai, mà các nhà khoa học cũng không thể giải thích được nguyên do tại sao.Cho tới nay có nhiều hình thức tiên tri, nhưng những phương pháp tiên tri của nền Lý học Đông Phương có đầy đủ những yếu tố của một phương pháp khoa học với dữ kiện đầu vào là yếu tố thời gian ngày, giờ, tháng, năm, nó có nội dung của sự kiện cần dự báo và khả năng kiểm chứng kết quả tiên tri. Những yếu tố thời gian này phản ánh cái gì? Nếu như không phải sự tương quan của những quy luật vận động của vũ trụ tương ứng với nó để có thể tiên tri? Nếu xét về góc độ khoa học thì rõ ràng đây là một hiện tượng khách quan, mọi sự tồn tại khách quan đều phải coi là đối tượng nghiên cứu khoa học. Sự chứng nghiệm những lời tiên tri sẽ xác minh tính chính xác của nó với những sự việc đã xảy ra sau lời tiên tri cho dù được giải thích như thế nào, bởi vậy chính kết quả thực tế này là cơ sở khoa học để phân tích và giải mã lời tiên tri.Thế giới đã từng biết đến rất nhiều nhà tiên tri nổi tiếng như Naustradamus người Pháp, bà Vangan người Bungari, Khổng Minh Gia Cát Lượng người Trung Quốc, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm người Việt Nam…; tiên tri của các tôn giáo như Do Thái giáo, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Bái Hỏa giáo, Hồi giáo…; tiên tri của các dân tộc khác nhau như Ai Cập, Mexico… Và lời tiên tri cổ xưa nhất cho tới nay, theo truyền thuyết là bài thơ Càn Khôn Vạn Niên Ca của Khương Thái Công - tể tướng của nhà Chu, Trung Quốc, khoảng năm 1122 tr.CN và những lời tiên tri gần đây nhất, có lẽ là của các tôn giáo mới thành lập ở Việt Nam như đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Đặc biệt nhất, bộ lịch pháp cổ của dân tộc da đỏ Maya ở Mexico cũng đã được các nhà nghiên cứu lịch sử giải mã, bộ lịch chỉ rõ thời gian thay đổi thế giới là vào ngày Đông chí 21/12/2012, tuy nhiên vào ngày này cũng có những lời tiên đoán ngày này cũng là “Ngày tận thế”? Bởi vì rằng: thế giới cũng đã từng chờ đợi Ngày tận thế nhiều lần trong lịch sử nhưng đều sai bét. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu và nhận định thêm về nội dung của những lời tiên tri với chủ đích về sự kiện đặc biệt nào đó của thế giới có khả năng xảy ra hay không vào ngày Đông chí 21/12/2012. Tiên tri của dân tộc Maya, Mexico (Châu Mỹ)Cho đến nay, không ai có thể đưa ra câu trả lời chính xác cho câu hỏi nền văn minh Maya cổ đại được hình thành thế nào, đã ba thập kỷ nay, rất nhiều cuộc tranh luận và bút chiến nổ ra giữa các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau tranh luận về đề tài này. Trong đó, sự sáng tạo kỳ diệu nhất của người Maya đó là việc làm ra lịch pháp. Mốc chuẩn đã được đặt ra để làm cơ sở cho lịch Maya chính là ngày 13 tháng 8 năm 3113 tr.CN. Kiến trúc cổ đại MayaMột công trình ở Chicanna tại bán đảo Yucatan file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Người Maya từng sống trên vùng lãnh thổ của Mexico ngày nay và đã xây dựng các thành phố ở đây. Có quan điểm cho rằng, người Maya xuất thân từ một dân tộc cổ đại có tên là Olmec, nhưng các giáo sĩ của bộ tộc Maya, những “Người bảo vệ ban ngày” nói rằng sau khi vùng đất huyền thoại Atlantic tách ra, những nhóm người lớn đã di tản ra khắp nơi trên thế giới. Cho nên, ngày nay văn hóa một số nền văn minh vẫn còn thấy nhiều điểm tương đồng như các kim tự tháp, nét chữ viết giống nhau, tên gọi các chòm sao trong thiên văn học, việc tôn thờ thần thánh… và những lời tiên tri có vẻ tương tự nhau.Kim tự tháp Polenke là một viên ngọc kiến trúc giữa rừng rậm, tại đây có đền thờ “Chữ khắc”, nơi mà tuyển tập chữ khắc và các bức bích họa của người Maya đã được tìm thấy. Nhà khoa học Nga Yuri Knorozov đã trở thành người anh hùng khi tìm ra chìa khóa giải mã những ký hiệu đó. Nền văn minh Maya không hề thua kém bất kỳ nền văn minh cổ đại nào từng tồn tại như toán học, thiên văn học và lịch pháp, sự hiểu biết về tâm hồn, sự sáng tạo, y học và kiến trúc. Trong toán học họ còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 20 và là dân tộc nắm vững khái niệm số “0″.Hệ thống số đếm theo cơ số 20file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgTrước đây, người ta không thể trả lời được những câu hỏi bộ lịch nổi tiếng của người Maya xuất hiện thế nào, những “Người bảo vệ ban ngày” khẳng định rằng, những kiến thức này đến từ nền văn hóa Atlantic. Nền văn minh ngoài trái đất từ chòm sao Đại Hùng Tinh, đã dạy cho người dân của nền văn hóa Atlantic những kiến thức này, dường như còn tồn tại bốn “Á thần ức Báo”, đó là những vị thần đến trái đất sau trận đại hồng thủy để vực lại sự sống cho trái đất. Người Maya có hai bộ lịch chính xác nhất là lịch Tzolkin Ritual với một năm 260 ngày và lịch Thái dương rất giống với lịch Gregory một năm có 365 ngày. Hai bộ lịch này đều thể hiện chu kỳ đồng bộ 52 năm. Điều này có nghĩa là cứ 18.980 ngày hay 52 năm thì ngày Thánh lịch và lịch năm sẽ trùng nhau, con số 52 rất có ý nghĩa đối với người Maya, và sau này là đối với người Aztec, cứ sau mỗi chu kỳ 52 năm thì tất cả của một chu kỳ lại kết thúc và bắt đầu. Lịch mặt trời và ngày được ghi trên lịch Dài của người Mayafile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.gifNgười Maya đã xây dựng các đài thiên văn để theo dõi các vì sao trên bầu trời, họ xây dựng lịch dựa vào vị trí của chòm sao trong vòng Hoàng đạo, người Maya cũng biết về các chòm sao và họ cho rằng có 13 chòm sao, thậm chí, họ còn biết đến cả chòm sao thiên cực Bắc Ophiuchus, và dải Ngân hà người Maya gọi là “zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”.Dải Ngân hàngười Maya gọi “zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image011.jpgNền văn minh Maya có một kiến thức rất cao về thiên văn, theo một số nhà nghiên cứu, kim tự tháp Maya chính là đài quan trắc thiên văn. Bản chép tay Dresden là một trong số 4 quyển sách chép tay duy nhất còn sót lại, nó mô tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong Thái Dương hệ chúng ta trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau.Bảng Venus (sao Kim)Tham khảo Bản chép tay Dresdenfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image013.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Một minh chứng khác là tri thức của họ về sự dịch chuyển của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ mỗi 25.920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng năm của các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao mọc sớm hơn 3, 4 giây so với cùng thời điểm đó của năm trước, các câu chuyện cổ của họ kể rằng những kiến thức này được trao truyền cho họ từ nền văn minh khác. Năm 755, một vị đạo sư Maya tiên tri sau năm 1991 nhân loại sẽ trải qua 2 sự kiện trọng đại đó là sự tỉnh giác của nhân loại về vũ trụ và sự tịnh hóa của địa cầu. Người Maya đã gọi 20 năm cuối cùng của B’ak’tun thứ 13 từ năm 1992 đến năm 2012, là thời kỳ tịnh hóa địa cầu.Căn cứ vào lịch pháp Dài của người Maya, từ sự tính toán của Eric S. Thomson, ngày 21 tháng 12 năm 2012 sẽ là ngày kết thúc lịch pháp Maya: 13. 0. 0. 0. 0 = 13 x 144.000 = 1.872.000 ngày, tính ra là 5125.26 năm, đây là ngày Đông chí của năm. Căn cứ vào sự tính toán của Eric S. Thomson, 0. 0. 0. 0. 0. của người Maya tương đương với thứ 584.283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm 3114 tr.CN. 13. 0. 0. 0. 0 sẽ là ngày sau 5.125 năm, tức ngày 21 tháng 12 năm 2012.Người Maya đã nghiên cứu thiên văn và nắm bắt rõ quy luật vận động và tương tác của vũ trụ tới trái đất và con người, có lẽ họ hiểu tại sao đem ngày này đặt là ngày chung kết của sự thay đổi nền văn minh đúng vào ngày Đông chí, đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với giao điểm hình thành bởi Hoàng đạo và Xích đạo của Ngân hà. Theo người Maya thì ngày 21/12/2012 sẽ kết thúc chu trình lịch thứ 13 - tức Kỷ nguyên Thái Dương Thứ Tư, đúng vào ngày này Chúa Polonakte sẽ xuống trái đất. Nhưng đồng thời, truyền thuyết của người Maya cũng nói rõ kỷ nguyên thay đổi sẽ bắt đầu, đàn con của Báo sẽ được sinh ra với nhiều màu da khác nhau và sẽ sống trên toàn thế giới, chúng sẽ đưa con người về với tình yêu, trí tuệ và cội nguồn. Người Maya đã không đề cập đến nguyên do nào khiến nền văn minh kỳ này thay đổi, mà là ám chỉ một thứ tỉnh giác và biến chuyển ở tinh thần và phương diện ý thức của nhân loại.Tượng Chúa MayaCổ vật MexicoThần Chết Bolon Yokte' K'uhHình vẽ trên chiếc lọ cổ, Mexicofile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgTortuguero nằm ở cực Nam Tabasco, Mexico có từ thế kỷ thứ VII, nơi có nhiều bia khắc chữ chủ yếu là để vinh danh vị vua đương thời là Bahlam Ajaw. Một dòng chữ trên đài tưởng niệm Tortuguero 6 có liên quan đến B'ak'tun thứ 13. Nó đã bị xóa đi một phần, Sven Gronemeyer và Barbara MacLeod đưa ra bản dịch hoàn chỉnh:tzuhtzjo:m uy-u:xlaju:n pikchan ajaw u:x uni:wuhto:m il[?]ye'ni/ye:n bolon yokte'ta chak joyajSẽ hoàn tất xong B'ak'tun thứ 13.là 4 Ajaw 3 K'ank'invà một “hiện tượng” sẽ xảy ra [?].Đó là sự xuất hiện của thần B'olon-Yokte trong một "sự tấn phong vĩ đại”.Rất ít điều được biết về thần Bolon Yokte, theo một bài viết của nhà Maya học Markus Eberl và Christian Prager trong Báo cáo nhân chủng học, tên của ông bao gồm các yếu tố: "số Chín", ‘te-OK' và "Thần". Sự rắc rối của những chữ khắc quá xưa này cho thấy đây là một vị thần rất cổ và những chữ này không giống với những tài liệu sao chép hiện có.B'olon-Yokte cũng xuất hiện trong các bảng khắc khác được tìm thấy tại Palenque, Usumacinta và La Mar, được miêu tả như là một vị thần của chiến tranh và địa ngục. Trong một tấm bia, thần B'olon-Yokte được trang trí với một sợi dây quanh cổ, và trong một tấm bia khác thì với túi hương, cả hai vật này đều là vật cúng tế trong các dịp tất niên. Theo bản dịch trên, thần B'olon-Yokte sẽ xuất hiện trong một “sự tấn phong vĩ đại” ngay khi hoàn tất xong B'ak'tun thứ 13 (Tham khảo trang mạng Wikipedia).Vào thế kỷ XVII, Francsico Ximénez, một mục sư Thiên Chúa giáo đã phát hiện quyển sách tên là Popol Vuh (Sách Hội Đồng), một trường ca thần thoại do bộ tộc Quiche, Maya sống trên cao nguyên Guatemala sáng tác. Nội dung trong sách không phải lịch sử của bộ lạc Maya, mà là lịch sử của nhân loại trên quả địa cầu chúng ta từ khởi thủy được tạo ra trong lịch sử đã thành và hoại ba lần, đây là lần thứ tư được tạo ra, có một phần rất quan trọng trong sách đã tiên đoán rằng: “Rất nhiều chư Thần từ các tinh tú cố hương, họ sẽ đến thế gian này… thiên ngữ của các ngài rất là tuyệt vời, bằng chứng là họ từ các thiên giới đến, chắc chắn là như thế. Khi họ trở lại quả địa cầu này, những gì đã được tạo nên trước đó sẽ được chỉnh sửa lại hết”. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image005.gifBản chép tay DresdenBia đá Cfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image007.jpgQuang cảnh nhìn tử bản chép tay Dresden, quyển sách bằng chữ tượng hình gần đây, có vẻ thể hiện cảnh lũ lụt tàn phá trái đất. Một con cá sấu trên trời cùng một nữ thần cao tuổi đổ nước xuống thần God L.file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image009.jpgTảng đá nguyên khối ở thành phố Quirigua gọi là Bia đá C gồm mô tả chi tiết về các biến cố sáng thế của năm 3114 tr.CN. Một mặt bia ghi lại sự hoàn tất của 13 B’ak’tuns.Một số lớn các truyền thuyết Trung Mỹ đều cùng phát ra một thông điệp: Thời đại Thứ Tư của thế giới đã kết thúc một cách rất tệ. Một trận đại hồng thủy khủng khiếp đã nhấn chìm trái đất trong nước, và tiếp đó là một thời kỳ tối đen, không còn thấy mặt trời. Lúc ấy các vị thần nhóm họp tại Teotihuacán (nơi ở của chư thần) và lo ngại hỏi nhau, ai sẽ là mặt trời sắp tới. trong bóng tối, người ta chỉ có lửa thiêng (sự thể hiện của Huehueteotl, vị thần khai sinh sự sống), còn leo lét sau thiên tai khủng khiếp. Các vị thần buồn bã than “Một trong chúng ta phải hy sinh và nhảy vào lửa. Chỉ lúc ấy, Mặt trời mới có thể sinh ra.”.Sau đó, hai vị thần (Nanahuatzin và tecciztecatl) đã phải hy sinh vì lợi ích chung. Một vị nhanh chóng bị thiêu rụi giữa đống lửa, vị thứ hai thì bị nướng dần trên đống than hồng gần đó. “Các thần chờ đợi mãi, cho đến khi mặt trời ứng đỏ như lúc bình minh. Ở phía Đông xuất hiện vầng thái dương, phì nhiêu và rực lửa…”.Chính vào lúc vũ trụ tái sinh này mà Quetzalcoatl đã hiện hiện. Sứ mệnh của ngài là giáo huấn nhân loại của Thời Đại Thứ Năm. Trong vùng núi Andes, kinh đô của Viracocha là Tiahuanaco. Ở Trung Mỹ, kinh đô của Quetzalcoatl là Teotihuacán, thành phố của chư Thần, nơi được cho là đã phát sinh ra Mặt Trời Thứ Năm.TeotihuacánThung lũng Teotihuacan, cao nguyên miền Trung Mexico file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image011.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image013.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image015.jpgMột di tích khác của văn hóa Aztec còn tồn tại sau cuộc xâm lược của Tây Ban Nha, là “Đá Mặt trời” của Axayacatl, vị vua thứ sáu của triều đại. Khối đá đồ sộ này được cắt đẽo từ đá bazan vào năm 1479, nặng 24.5 tấn, và có một loại những vòng tròn đồng tâm, trên mỗi vòng đều có khắc những hình biểu phức tạp. Các biểu tượng loan báo rằng thế giới đã trải qua bốn thời đại hay còn gọi là bốn Mặt Trời. Thời đại Mặt Trời Thứ Nhất được tượng trưng bằng Ocelotonatiuh, thần Beo: “Trong thời mặt trời này đã tồn tại những người khổng lồ”. Họ được các Thần tạo ra, nhưng sau họ bị những con beo tấn công và ăn thịt. Mặt Trời Thứ Hai được tượng trưng bằng đầu rắn Ehecoatl, thần Không khí: “Trong thời đại này, loài người bị hủy diệt bởi những trận bão và giông tố, và người ta đã biến thành khỉ”. Biểu tượng Mặt Trời Thứ Ba là một cái đầu do mưa và lửa từ trời tạo ra: “Vào thời này, mọi sự đều bị phá hủy bởi cơn mưa và lửa từ trời và trận hồng thủy bằng nham thạch. Mọi nhà cửa bị thiêu rụi”. Người ta được biến thành chim để sống còn qua tai họa. Mặt trời Thứ Tư được biểu tượng bởi cái đầu của nữ thần Nước Chlacchiuhtlicue: “Sự tàn phá ập đến dưới dạng mưa như thác và lũ lụt. Núi biến mất và người ta bị biến thành cá”.Biểu tượng Mặt Trời Thứ Năm là thời đại chúng ta, là khuôn mặt của Tonatiuh, thần Mặt Trời hiện thân. Lưỡi của thần, được miêu tả như một lưỡi dao bằng đá opxidian, thè ra như muốn nuốt tất cả, tượng trưng cho sự khát máu và đói ăn những trái tim loài người của thần. Nhiền nếp nhăn cho thấy thần đã cao niên. Tonatiuh xuất hiện ở bên trên biểu tượng Ollin, nghĩa là “sự chuyển động”. (Trang 130, cuốn 23 tháng 12 năm 2012 - Ngày tận thế, tác giả Graham Hancock, Nxb Thời đại, 2011). Ngày tận thế?Trích từ bộ phim “2012”file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image017.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image019.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Tiên tri của người Maya nói rằng sau khi chu kỳ này kết thúc và chu kỳ mới bắt đầu, tri thức cổ xưa sẽ trở lại nhân gian và những người có khả năng thiên phú sẽ được sinh ra ngay giữa chúng ta, toàn bộ nhân loại đều gánh vác trách nhiệm nghênh đón thời đại mới. Như vậy, tiên tri của người Maya khẳng định không có “Ngày tận thế” mà là “Ngày chuyển thế”, vậy phải chăng trong các nền văn hóa khác khác trên thế giới cũng có những tiên tri tương tự? Chúng ta hãy cùng tiếp tục.Bí ẩn của thời gian tại đền Denderah, Ai Cập (Châu Phi)Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt như chữ viết, lịch pháp, nghệ thuật, hình học, tri thức khoa học, đại số… đã từng có ảnh hưởng sâu sắc tới Tây bộ châu Âu và đã có cống hiến vô cùng lớn lao không thể phai mờ với lịch sử loài người. Những chứng tích của nền văn minh Ai Cập cổ đại còn để lại cho nhân loại rất tuyệt vời và thuyệt phục qua các tuyệt tác kiến trúc như đền đài, kim tự tháp, các mộ cổ và xác ướp, châu báu, các văn kiện như ghi khắc trên vách kim tự tháp, trên quan tài và trên giấy cói papyrus… Bản đá Palermobảo tàng Palermo ở Sicily, Ýfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgBản đá Palermo là bản đá diorite lớn nhất làm dài 2.2m, rộng 0.61, được khám phá vào năm1866, hiện lưu giữ tại bảo tàng Palermo ở Sicily. Những mảnh nhỏ khác lưu giữ ở bảo tàng Cairo Ai Cập và bản tang tại trường đại học (Wilkinson, 2000). Nó được chế tác thời vương triều thứ 5th Dynasty (2565-2420 B.C.), được viết bằng chữ cổ chronicle về lịch sử Ai Cập.Thật là may mắn, ngôn ngữ tượng hình của Ai Cập cổ đã được giải mã là một thành công to lớn trong công cuộc tình hiểu và phục dựng một nền văn minh huy hoàng có niên đại hơn 5.000 năm lịch sử. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều bí ẩn cần được làm sáng tỏ, trong đó bí ẩn đặc biệt nhất được trình bày qua hệ thống biểu tượng được lưu giữ trong ngôi đền Denderah - thờ nữ thần bò cái Hathor.Bản đồ các thánh địa Ai Cập và kiến trúc đền DenderahSách Các thánh địa trên thế giới, Colin Wilson, NXb Mỹ Thuật, 2004file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, vòng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp được khắc trên trần, đó chỉ là một phó bản đã được sao lục lại, vì bản chính đã bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bản được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.Cái vòng tròn đó chứa đầy những hình ảnh các loài thú, hình người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tròn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có hình mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người quì, sắp chung quanh hình bầu tròn, hai tay đưa lên, lòng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một vòng tròn.Như thế, toàn thể vũ trụ lưng chuyển không ngừng được hình dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới hình thức tượng trưng. Đó chính là sự trình bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đã làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.Hiểu một cách đúng đắn, thì vòng Hoàng Đạo của đền Denderad hình như mô tả hình trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một chòm sao khác hẳn.Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào... do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những vì sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với chòm sao. Khi đã đo lường sự vận chuyển trung bình của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đã trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai. Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, và mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ vãng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta tìm ra những sự kiện vô cùng quan trọng. Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra vòng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đã tìm được cái chìa khóa để truy nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, vì họ thấy trong vòng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ. Nhưng mãi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mã và vòng Hoàng Đạo Ai Cập này đã phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.Tổng mặt bằng kiến trúc và vòng Hoàng đạoChạm nổi trên trần đền Denderah, Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.gifMột ý kiến cho rằng vòng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ý kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có vòng Hoàng Đạo của họ... Nếu vậy thì giới tăng lữ Ai Cập đã từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có vòng Hoàng Đạo chăng... Giới tăng lữ Ai Cập đã từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đã sáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một vòng Hoàng Đạo... Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.Thật vậy, người Ai Cập đã sao lục một phần vòng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đã có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đã được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bản để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời. Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo trì bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lãng và rốt cục đã biến mất theo những nhân viên bảo trì văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập (trích từ cuốn Ai Cập huyền bí, nguyên giả Paul Brunton, dịch giả Chi Lan và Lê Tuyên, Nxb Tổng hợp T.p Hồ Chí Minh, 2004).Chi tiết vòng Hoàng Đạo và trích dẫnTham khảo__file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgTrên chu vi vòng Hoàng đạo, thần Horus tay phải cầm phất trần, tay trái chỉ vào miệng ngồi trên bông hoa súng ứng vào khoảng cuối cung Dương Cưu, và có vị trí trước cung Song Ngư một chút. Hình ảnh tay trái chỉ vào miệng của thần Horus ám chỉ có những bí mật đang được giữ kín, biểu tượng ngón trỏ cũng tương ứng con số 10.000, như vậy chúng ta có thể hình dung những bí mật trong vòng 10.000 năm. Cũng dự vào biểu tượng này, có thể nhận định ngôi đền Denderah đã được trùng tu, và khắc vòng Hoàng Đạo cùng các bí ẩn của lịch sử Ai Cập tại thời gian điểm xuân phân chưa đi vào cung Song Ngư một chút.Horus ngồi trên bông súngCổ vật Ai Cập file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Thần Cả Horus như một đứa bé đội vương miện kép, tay phải cầm quyền trượng móc cong và phất trần, ngón trỏ bàn tay trái như ám chỉ hãy im lặng hay giữ kín.Tiếp theo sau hình ảnh thần Horus là hình ảnh thần Osiris trong biểu tượng xác ướp con Ram không đầu có sừng hình sóng nằm ngang, đường trục lúc này trùng với con mắt phải Wedjat nằm ngay trên biểu tượng Song Ngư; hình ảnh tiếp theo là bốn đầu con Ram chồng lên nhau đội đĩa mặt trời đứng trên ngai; và biểu tượng cuối cùng trong cung Song Ngư là một thanh niên với hình dáng đang đọc chữ trên một tấm vải nâng bằng hai tay cuối cung Song Ngư. Hình ảnh con Ram với thân hình tách rời bốn đầu mang ý nghĩa thần Osiris đang được tôn thờ ở khắp nơi, nhưng không biết ngài là ai, chỉ sau khi kết hợp tư liệu từ bốn phương, bao hàm cả tư liệu tôn giáo (bốn đầu con Ram) để tạo thành nội dung trên tấm vải - Tử thư Ai Cập.Ram bốn đầu (biểu tượng Gió phương Bắc)Tranh khắc đá cổ Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgNgày phía trên cuốn sách Tử thư Ai Cập là hình ảnh một người nữ với con thú cưng mongoose trong vòng tròn, hình chữ nhật chứa 3 đường sóng nước và con mắt phải Wedjat (Uchat) - 3 hình ảnh này nằm trên trục nối tâm vòng Hoàng Đạo tới vị trí cuốn sách.Bản vẽ trích dẫnfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.gifHình tròn có vị nữ thần nâng con thú cưng mongoose (cầy mangut) chắc chắn là hình ảnh của mặt trăng, loài cầy mangut biểu tượng của sự nhạy cảm và hay thay đổi của tâm, tính con người. Trong văn hóa Trung Quốc thú cưng trên mặt trăng là con thỏ giã thuốc tiên cho nàng Hằng Nga với câu truyện Hằng Nga cung quế, còn theo văn hóa Việt Nam nữ thần mặt trăng là Nguyệt Thần hay Bà Nguyệt - nữ thần hôn nhân và mặt trăng găn với câu truyện Chú cuộc ngồi gốc cây đa.Hình ảnh hình chữ nhật chứa 3 đường sóng nước biểu tượng cho vũ trụ nguyên thủy, biển vũ trụ, được mô tả như một biển nước mênh mông, vô tận, chứa đựng mọi tiềm năng của sự sống, cũng thường là hồ nước Thánh Nun. Theo một truyền thuyết về sự sáng thế của người Ai Cập, hồ nước không hình dạng và luôn chao đảo này chứa bốn cặp vợ chồng Nun và Nauner, Kuk và Kaukel, Huh và Hauhel, Amon và Amaunet, các cặp này gọi là Ogdoad, tượng trưng cho hồ nước nguyên thủy. Sau cùng bốn bộ đôi này hợp thành một quả trứng trong hồ nước Nun, trứng nở ra thành một con chim huyền thoại, con chim này là một biểu hiện của Thần sáng thế.Thần Atum nhô lên từ biển vũ trụ NunTranh tường cổ Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image030.jpgThần Atum là vị thần tổ đầu tiên thai nghén trong biển vũ trụ, tự sinh ra hay trỗi dậy từ biển vũ trụ Nun dưới dạng một gò đồi hay gò đất nguyên thủy. Atum biểu hiện tối cao của tất cả các vị thần mặt ở vùng Heliopolis, là một thành phần hết sức quan trọng trong hệ thống thần linh của người Ai Cập. Người ta nói rằng ông bắt đầu xuất hiện trên gò đất nguyên thủy nhô lên khỏi biển vũ trụ Nun và đã tiến hành công cuộc sáng thế, tạo ra ra vạn vật trong bầu trời và trái đất sau khi ông đã sống không biết bao nhiêu năm và tự cảm thấy hết sức cô đơn và lạnh lẽo. Tuy nhiên, đôi khi ông được mô tả như một cậu bé từ đóa hoa sen hiện ra. Ông là một vị thần vĩ đại nhất có cơ thể tự nhiên không bao giờ bị kiệt quệ. Vị thần đầu tiên do ông sáng tạo ra trong vũ trụ chính là thần mặt trời Ra, là vị thần vĩ đại nhất, hàng ngày mọi người đều phải chuẩn bị đồ thờ cúng ông, mà trung tâm thờ cúng ông nằm ở vùng Heliopolis thần thánh tức thành phố Cairo ngày nay.Hình tượng con mắt phải Wedjat (Uchat) gọi là mắt phải của thần Horus giúp người chết thấy trở lại. Con mắt Utchat là con mắt thần, con mắt phán xét, con mắt nhìn thấy bốn phương. Tuy nhiên, con mắt phải cũng chính là biểu tượng của thần chết Osiris, thần mặt trăng, tương ứng với nữ thần trong mặt trăng tay cầm con cầy mangut sẽ là nữ thần Isis, người vợ của thần chết Osiris.Chim cúCổ vật Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgSự kết hợp của 3 biểu tượng này được giải thích như sau: vào thời điểm kết thúc cung Song Ngư, bằng con mắt của trí tuệ nhìn xuyên suốt qua cái chết - tương tự như mắt con chim cú nhìn xuyên bóng đêm - chim cú biểu tượng của ý thức Ba, sẽ hiểu được thực tại của sự khởi nguyên vũ trụ hay sự hình thành của thế giới, lúc này sẽ hiểu được bí mật của cuốn Sách của Thần Chết - tương truyền do vị thần trí tuệ Thoth làm ra. Đồng thời, lúc này thần chết Osiris sẽ phục sinh như đã được tiên tri qua hình ảnh con Ram sẽ được lắp bốn đầu trở lại. Trong hình khắc trên bia đá Metternich Stele và Leiden Hypocephalus (300 tr.CN) dưới đây, hình con Ram bốn đầu được linh hồn Ka nâng lên phía trên và tám con khỉ đầu chó giơ hai tay tôn vinh thần chết Osiris.Bia đá Metternich Stele và Leiden HypocephalusCổ vật Ai Cậpfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgChúng ta cũng thấy trong Bà La Môn giáo, Ấn Độ thần Brahma - một trng Tam vị nhất thể là Brahma, Shiva và Vishnu, cũng có bốn đầu giống như thần chế Osiris.Đản sinh thần Brahma Tranh tham khảofile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgBức tranh mô cảnh thần Vishnu đản sinh thần Brahma từ cuống rốn của mình. Thần Vishnu nằm trên biển vũ trụ, được nâng đỡ bởi rắn thần Shesha 7 đầu, tay trái cầm bông sen trắng, tay phải giữ chặt nhánh sen mọc ra từ cuống rốn. Trên đài sen là hình ảnh thần Brahma có bốn đầu nhìn về bốn hướng đang ngồi, tay cầm pháp khí. Ở phía chân thần Vishnu là hình ảnh một vị đạo sĩ đang chúc phúc cho cuộc đản sinh. Trên bầu trời các loại hoa rơi xuống như mưa, mùi hương thơm tỏa ngát khắp nơi chào đón sự ra đời của thần Brahma. Ngoài con mắt phải của thần chết Osiris, còn có con mắt trái của thần Ra, biểu tượng cho quyền lực và sức mạnh, đối ngẫu với con mắt phải của thần chết Osiris đó là sự thấu triệt bản chất của sự sống thay vì sự chết.Thần chết Osiris - Thần mặt trời Ra - Nữ thần Isis đang bế thần HorusTranh cổ tham khảofile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpgThần Horus được thừa hưởng con mắt trái của thần mặt trời Ra và mắt phải của thần mặt trăng Orisis và con mắt thứ ba (con mắt nội quán) của nữ thần Hathor. Con mắt trái tượng trưng cho sức mạnh của quy luật hay quyền lực tương ứng là cây quyền trượng wa-scepter của thần Ra, con mắt phải biểu tượng sức mạnh của trí tuệ tượng trưng là trụ djed của thần Osiris và con mắt thứ ba biểu tượng của lòng nhân ái tương ứng là chìa khóa sự sống Ankh của nữ thần Hathor, khi hợp nhất được ba biểu tượng này mới trở thành vĩnh cửu đó là biểu tượng Shen. Shen cũng là hình ảnh của linh hồn bất diệt, sau khi chết lên thiên đường “Vùng đất lau sậy” của nữ thần Hathor trong hình ảnh con bò cái đeo vòng cổ âm nhạc Sistrum giống như Ankh. Tại cõi chết, Osiris là Chúa tể Cõi Âm với biểu tượng quyền trượng móc cong biểu tượng phán quyết buộc phải chết và phất trần biểu tượng phán quyết cho sống được trao cho thần Cả Horus.Hợp nhất Ankh, Dject và Was-scepterCổ vật Ai Cập tham khảofile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpgTheo những người Ai Cập cổ đại thì thần trí tuệ Thoth là vị thần đã dạy cho tổ tiên của họ những nguyên lý thiên văn học: “Ngài là đấng tính toán các tầng trời, đấng liệt kê những vì sao, (…) đấng đo Trái đất”. Thường được mô tả dưới những nét của một người đàn ông mang mặt nạ cò lửa, Thoth là một trong những vị thần hàng đầu của “Thời đầu tiên” và nổi trội trong đời sống của tôn giáo Ai Cập cổ đại trong suốt chiều dài lịch sử của nó, được gọi là những Neterou, theo kho tàng thần thoại Ai Cập, những thần vĩ đại đó đã bằng cách nào đấy làm ra chính mình, và họ cũng được người Ai Cập liên kết với một vùng đất xa xăm - một xứ hoang đường, thần thoại mà các cổ thư gọi là Ta-Neterou “Đất của các Thần”. Theo người Ai Cập thì Ta-Neterou nằm ở phía Nam đất nước họ, ở rất xa, bên kia các đại dương, xa hơn cả Pount, vùng đất nổi tiếng của những gia vị (được xác định là vùng biển Xomali tại Đông Phi). Tuy nhiên, Pount đôi khi cũng được gọi là “Đất Thần Thánh” hay “Xứ của Thần”. Trầm và nhựa trám hương, những thứ mà các thần rất ưa chuộng, đã xuất phát từ vùng đất đó (trích từ cuốn 23 tháng 12 năm 2012 - Ngày tận thế? Tác giả Graham Hankook, dịch giả Lê Thành, Nxb Thời đại, 2011).Thần Thoth trong hình tướng khỉ đầu chó đội mặt trăng (Tượng đồng, 1340 tr.CN)Cổ Vật Ai CậpThần trí tuệ Thoth trong hình tướng con cò quăm IbisTranh tường cổ Ai Cập file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Như Wallis Budge đã ghi nhận trong nghiên cứu thần chết Osiris và sự tái sinh của người Ai Cập (Osirsis and Egyptian Resurrection) của ông, người Ai Cập cho rằng họ chỉ có thể đến đất đó bằng tàu thuyền, và với sự trợ giúp của các thần muốn cho những người mà họ yêu thương đến đó… Những ai may mắn được du hành đến đó thấy mình ở torng một khu vườn thần tiên gồm những hòn đảo được nối liền với những con kênh đầy nước, khiến chúng luôn xanh tươi và phì nhiêu.Phải chăng những vùng đất được tưới tắm một cách tuyệt vời, và được trồng trọt một cách khoa học mà Osiris, với tước vị “Vua của đất phương Nam”, đã xuất hành và chu du đến tận Ai Cập, vào buổi bình minh của Thời đại đầu tiên? Phải chăng cũng từ đất đó mà thần Thoth đã vượt qua các đại dương để mang đến dân cư ban sơ của châu thổ sông Nile những sự giảng dạy quý báu về thiên văn học và trắc địa học? Dù phần sự thật được chứa dựng trong truyền thuyết đó có là bao thì như ta đã biết, người Ai Cập cổ đại đã tôn kính Thoth vì ngài là đấng phát minh toán học, thiên văn học và kiến trúc đồ sộ. Bởi quyết tâm của ngài, mà những lực của trời đất được cân bằng. Thoth cũng là đấng chỉ dạy người Ai Cập về hình học, y học và thực vật học, và ngài đã phát minh những con số, bảng chữ cái, và những thuật đọc viết. Ngài là chúa tể của phép thuật, đấng có thể dịch chuyển những đồ vật chỉ bằng quyền năng của giọng nói mình, và là tác giả của mọi công trình thuộc mọi ngành của tri thức, con người và thần thánh. Theo lời xác nhận của chính những người Ai Cập cổ đại, thì nhờ vào những lời giảng dạy của Thoth mà họ đã có được sự minh triết và sự hiểu biết của các tầng trời - những điều mà họ cất giữ trong các ngôi đền của họ và đã truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác qua những ghi chép trong 42 tập sách.Trong các công trình đồ sộ của Ai Cập, thì tượng nhân sư như là một cọc tiêu, một điểm mốc thuộc phân điểm, với cái nhìn rất chính xác về nơi mặt trời mọc vào điểm xuân phân. Đối với những người cổ đại, thì chính điểm xuân phân mới đánh dấu thời kỳ thuộc thiên văn. Theo G. Satillana và H. von Dechend thì: “Chòm sao mọc ở phương Đông, ngay trước khi mặt trời mọc, đánh dấu vị trí của mặt trời… Đối với các nhà thiên văn học cổ đại, chòm sao đó “mang” mặt trời, và xuân phân (…) đánh dấu khởi đầu chu kỳ hàng năm của mặt trời…”. Nhưng tại sao cái điểm mốc thuộc phân điểm đó lại mang hình dạng một con sư tử to lớn?Vào thời đại chúng ta ngày nay, nếu ai muốn xây một cột mốc như thế, thì hẳn phải trình bày nó dưới dạng một con cá, trong chừng mực mà mặt trời, từ khoảng hơn hai ngàn năm nay, mọc vào ngày xuân phân với chòm sao Song Ngư đã bắt đầu vào khoảng thời Đức Jesus. Phải chăng chỉ là tình cờ khi những biểu tượng chính của những người Kitô hữu đầu tiên không phải là thập tự mà là con cá?Trong kỷ nguyên trước đó, khoảng từ Thiên niên kỷ thứ hai đến Thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, thì chòm sao Dương Cưu (cừu đực) có vai trò “mang” mặt trời vào Xuân phân. Một lần nữa phải chăng ngẫu nhiên khi hình ảnh con cừu đực thường xuất hiện trong các tranh tượng tôn giáo thời đó? Chẳng hạn, phải chăng là ngẫu nhiên khi Yaweh, Đức Chúa của kinh Cựu Ước, đã bảo Abraham hãy cúng một con cừu đực để làm lễ hiến tế thay cho con trai Isaac của ông? (Theo các nhà nghiên cứu Thánh kinh, Abraham và Isaac đã sống vào đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên). Phải chăng là một sự ngẫu nhiên khi buổi đầu kỷ nguyên Dương Cưu, cuối Thiên niên kỷ thứ ba, Ai Cập đã phục hồi tục thờ cúng thần Amon, mà biểu tượng của thần là con cừu đực?Đến trước kỷ nguyên Dương Cưu là kỷ nguyên Kim Ngưu (4380-2200 tr.CN). Chính trong thời kỳ thuộc chuyển động quay của địa trục đó, khi mặt trời mọc vào xuân phân “trong” chòm sao Kim Ngưu, mà tục thờ cúng bò đực đã phát triển mạnh tại Crete. Và cũng vào thời, nền văn minh của Ai Cập thời Triều Đại đã đột ngột xuất hiện trên sân khấy lịch sử, một nền văn minh đã hoàn toàn được hình thành, và trước đó chưa từng có trường hợp nào như thế. Phải chăng, một lần nữa sự ngẫu nhiên khi những người Ai Cập, và buổi thời lỳ Triều Đại, đã thờ cúng những con bò đực Apis và Mnevis-Apis được xem như là sự thần hiện của Osiris, và Mnevis vật linh thiêng của Heliopolis, sự thần hiện của Ra?Tại sao một điểm thuộc phân điểm phải có hình dạng một con sư tử? Theo các nhà Ai Cập học thì Khephren, Pharaoh của triều Đại Thứ Tư, là người đã ra lệnh tạc “Nhân sư” trong đá, vào năm 2500 tr.CN. Khephren là một quân vương thuộc kỷ nguyên Kim Ngưu. Trong 1.800 năm trước triều đại của ông, và trong ba thể kỷ tiếp đó, mặt trời, vào ngày xuân phân, luôn mọc trong chòm sao Kim Ngưu. Như vậy, vào thời đó, nếu một quân vương muốn dựng một điểm mốc thuộc phân điểm tại Gizeh, thì có mọi lý do để ông cho nó hình dạng một con bò đực chứ không phải là một hình con sư tử. Quả thật, điều đó khiến ta nghĩ rằng, chỉ có một thời kỳ mà hệ biểu tượng sư tử hẳn đã thích hợp cho điều đó là Kỷ nguyên Sư tử, từ 10907 tr.CN đến năm 8810 tr.CN.Vào thế kỷ thứ IV tr.CN, Platon cho biết rằng người Ai Cập đã quan sát các tinh tú “trong mười ngàn năm”. Ba trăm năm sau đó, Diodore người Sicily, đã viết: “Những vị trí của các vì sao và các chòm sao cùng những chuyển động của chúng luôn là mục tiêu quan sát một cách chú tâm của người Ai Cập… Từ thời xa xưa cho đến ngày nay, trong suốt vô số năm, họ đã ghi lại trong những ký hiệu biên niên của họ đủ mọi chỉ dẫn liên quan đến từng vì sao”.Nhiều chuyên gia hàng đầu thú nhận nỗi phân vân trước tính đột ngột của nền văn minh Ai Cập, Walter Emery, giáo sư khoa Ai Cập học tại đại học London đã tóm tắt vấn đề: “Vào khoảng năm 3400 tr.CN, một biến chuyển lớn đã xảy ra tại Ai Cập, một nền văn hóa thời kỳ đồ đá, với những cơ cấu theo bộ tộc phức tạo, đã gần như tức thì biến thành một nền quân chủ có tổ chức… cùng thời kỳ ấy, chữ viết xuất hiện, kỹ thuật và kiến trúc đồ sộ phát triển với tốc độ cao một cách đáng ngạc nhiên, và tất cả chỉ rõ rằng ta đã gặp một nền văn minh rất tinh tế. Tất cả những điều đó đột ngột xuất hiện với một thời gian tương đối ngắn, bởi những tiến hóa cơ bản đó trong chữ viết và kiến trúc hình như không có tiền đề, hoặc chỉ có rất ít”.Một cách đơn giản, có thể giải thích rằng, nền văn minh của Ai Cập hẳn đã có thể cất cánh đột ngột và dứt khoát, là nhờ một nền văn minh khác của Cựu Thế Giới. Giữa người Ai Cập và người Sumer đã thờ các thần thuộc mặt trăng gần y như nhau, những thần được kể là xa xưa nhất trong các chư thần của họ (người Ai Cập thờ thần Thoth, người Sumer thờ thần Sin), theo nhà Ai Cập học E. A. Wallis thì, “những tương đồng giữa hai vị thần này là rất quan trọng nên không thể là một trùng hợp ngẫu nhiên… hẳng ta sẽ sai lầm khi nghĩ rằng người Ai Cập vay mượn các chư thần của người Sumer, hoặc ngược lại. Quả thật, ta có thể cho rằng những người có học thức của hai dân tộc đó đã vay mượn hệ thần học từ một nguồn chung, nhưng cực kỳ xa xưa.”.Do đó, vấn đề là cái “nguồn chung cực kỳ xa xưa” đó là ở đâu? Đâu là “vùng xa lạ”, “nền văn minh thứ ba” tiên tiến mà cả Bdhe Emery đều nói đến? Nếu như nền văn minh ấy để lại một di sản văn hóa cấp cao cho Ai Cập và Mesopotamina, thì tại sao không nghĩ rằng cả Trung Mỹ cũng được thừa hưởng di sản ấy?.Nội dung của cuốn 23 tháng 12 năm 2012 Ngày tận thế? Tác giả Graham Handcock, Nxb Thời Đại, 2011) cũng đã viết:Những con số thuộc chuyển động quay của địa cực mà J. Sellers đã phát hiện trong thần thoại về Osiris là 12, 30, 72 và 360. Phần lớn những con số đó nằm trong một phần thần thoại chứa một số lớn thông tin về tiều sử các nhân vật của nó. Những nhân vật đó được nhà Ai Cập học E. A. Wallis giới thiệu như sau: “Nữ thần bầu trời Nut, vợ của thần mặt trời Ra, lại được thần đất Geb yêu. Khi phát giác chuyện lét lút ấy, thần Ra chúc dữ cho vợ và tuyên bố y thị sẽ không sinh con được. Lúc ấy thần Thoth, lại càng thầm yêu nữ thần bầu trời Nut, chơi xúc xắc với mặt trăng và ăn được 5 ngày chẵn, mà thần đem cộng với 360 ngày, lúc đó tạo thành một năm. Ngày thứ nhất trong 5 ngày đó, Osiris sinh ra đời, và khi thần chào đời, người ta nghe có tiếng loan báo rằng vị thần tạo dựng đã ra đời”.2160 (72x30) năm là một cung Hoàng Đạo mà mặt trời phải di chuyển được 30 độ dọc theo mặt phẳng hoàng Đạo, từ cung này qua cung kia. Như vậy 25.920 năm là số năm của một chu kỳ tuế sai hay là một “Năm lớn”, đó là số năm phân cách hai “Sự trở lại vĩ đại”.Trong số 9 thần, các thần Ra, Shu, Geb, Osiris đều đã trị vị Ai Cập. Kế vị thần đó là Horus, và cuối cùng là Thoth, thần của Trí Tuệ trị vì trong 3226 năm.Các tư tế Innou, có nhiệm vụ nuôi dưỡng những truyền thuyết, là những người được toàn bộ Ai Cập biết đến sự minh triết và am thông của họ trong lĩnh vực sấm ngôn, chiêm tinh học, toán học, kiến trúc và pháp luật. Cuối cùng người ta cũng biết rằng họ sử hữu một vật thiêng liêng và một sức mạnh đáng gờm gọi là Benben.Người Ai Cập gọi Heliopolia Innou, “cột trụ” là vì các truyền thuyết kể rằng, vào thời xa xưa, trước thời Triều Đại, Benben được gìn giữ ở nơi này và được đặt cân bằng trên một trụ làm bằng những khối đá đẽo hơi vuông.Benben hẳn đã rơi xuống từ trời, chẳng may, từ lâu không ai còn trông thấy nó nữa, và vào thời kỳ Senouseret lên ngôi vua, nó đã mất tích quá lâu không ai còn có thể nhớ hình dạng của nó. Vào thời ký đó (Triều Đại Thứ Mười Hai), tất cả những gì mà người ta có thể nhớ là Benben có dạng một kim tự tháp, và (với cột trụ mà nó được đặt trên đó) nó là bản mẫu đầu tiên của mọi trụ cột tháp sau này. Cũng vậy, cái tên Benben sau đó được dùng để gọi chop tháp hay khối đá nóc, thường được đặt ở đỉnh kim tự tháp. Trên bình diện thuộc hệ thống biểu tượng, Benben được liên kết một cách chặt chẽ và trực tiếp với Ra- Atum, mà các cổ thư gọi là Ra- Atum đã “được dựng lên như khối đá Benben trong nơi cư ngụ của chim Phượng hoàng…”.Nơi cư ngụ của chim Phượng hoàng chính là ngôi đền Heliopolis, nơi Benben đã được gìn giữ trong buổi đầu. Điều đó có nghĩa, nagy từ buổi đầu, Benben đã được dùng làm biểu tượng cho chim Phượng hoàng của các thần thoại, và nó cũng là thần điểu Bennou mà những lần biến mất và tái hiện của nó được gắn liền với những chu kỳ của vũ trụ. Hình ảnh thần Thoth thường được trình bày trên những bức tường các lăng mộ và các ngôi đền, dưới những nét của con cò lửa, hoặc một người có đầu của cò lửa.. Thần Thoth đặc biệt được người Ai Cập tôn kính, bởi họ xem thần là sức mạnh điều hòa và phối hợp những chuyển động cơ học thiên thể, là chúa công của thời gian, đấng phát minh ra bảng chữ cái và là bậc thầy của pháp thuật. Đặc biệt, thần được liên kết với thiên văn học, toán học, trắc địa học và hình học, và được mô tả như là “Đấng tính toán trên trời, đếm các tinh tú và đo trái đất”. Thoth cũng được xem là một thần am hiểu những bí ẩn của “tất cả những điều được che giấu dưới vòm trời”, và có thể truyền sự khôn ngoan cho một số người được chọn. Người ta nói rằng Thoth đã ký thác những kiến thức của ngài trong những cuốn sách bí ẩn, và ngài đã giấu chúng ở những nơi khác nhau trên trái đất, với hy vọng chúng sẽ được tìm kiếm bởi những thế hệ tương lai, và chỉ được phát hiện bởi “những người xứng đáng nhất” - những người đưa phát hiện của mình vào phục vụ nhân loại.Tóm lại, điểm nổi bật nhất ở Thoth (cũng là thần Hermes của người Hy Lạp), đó là ngoài tính chất thông thái, vai trò của thần là khai hóa và mang lại điều tốt lành cho nhân loại. Ở điểm này, Thoth rất giống với vị thần đã xuất hiện trước ngài là Osiris, chúa thượng của các bản văn Kim tự tháp, vị Pharaoh Thần thánh thứ Tư, quân vương của đất Phương Nam, có tên là Sah (Orion).Kỷ Song Ngư được cho là đã bắt đầu từ 2.160 năm trước đây, trước cả Chúa Jesus ra đời. Tính đến năm 2012, chúng ta đang chuyển đổi từ cung Song Ngư sang kỷ Bảo Bình. Sự thay đổi này là một quá trình chứ không phải là một sự kiện. Vấn đề là không có ranh giới rõ ràng giữa các cung Hoàng Đạo nói trên. Mỗi cung Hoàng Đạo đều kèm theo những đặc điểm là duy nhất đối với thời gian trong lịch sử của nó. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà trước kỷ Song Ngư hiện tại, đầu con cừu biểu thị cho chòm sao Bạch Dương đóng vai trò mạnh mẽ trong thế giới cổ đại. Ví dụ, người Ai Cập của thời đại Tân Vương Quốc (thế kỷ XVI-XI tr.CN) đã thể hiện chòm sao Bạch Dương đại diện cho thần Mặt Trời, Amen Ra đầu cừu.Trong hệ thống biểu tượng của Ai Cập, thần trí tuệ Thoth cũng là biểu tượng của mặt trăng, người vợ của ngài - nữ thần công lý Maat cũng đã từng xuất hiện trong Ngày phán xét linh hồn. Mà chúng ta cũng biết thần chết Osiris và nữ thần Isis với biểu tượng mặt trăng. Không còn nghi ngờ gì nữa, thần trí tuệ Thoth chính là thần chết Osiris, vì là thần chết nên mới nắm bắt được bí ẩn của Sách của thần chết do thần Thoth viết ra. Như vậy, thần trí tuệ Thoth mang hình ảnh phục sinh của thần chết Osiris, khi điểm xuân phân đi vào cuối cung Song Ngư và lúc đó, nữ thần Maat cũng chính là nữ thần Isis.Vậy thì, ý nghĩa viết trong vòng Hoàng Đạo khắc trên trần của đền thờ nữ thần Hathor, tiên tri về sự phục sinh của thần chết Osiris và nữ thần nhân duyên Isis, tương tự như tiên tri của các dân tộc da đỏ, châu Mỹ. “Ngày phán xét” trong tôn giáo cổ Ai Cập chính là ngày linh hồn mỗi người phải đối diện với cái chết của thân xác và nó sẽ phải tiếp tục một cuộc sống trong môi trường mới, dĩ nhiên tự thân đối diện với ý thức về thiện ác trong suốt cuộc đời đã qua vẫn còn nguyên vẹn. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 1, 2013 Tiên tri của các tôn giáo trên thế giới Tiên tri của đạo Bà La Môn, Ấn Độ Hindu là một tôn giáo truyền thống của người Ấn còn gọi là Ấn Độ giáo. Tôn giáo này có mặt từ rất xa xưa, tiền thân của tôn giáo này là Bà La Môn giáo với những qui định nghiêm ngặt về giáo điều, phép tu, tầng lớp xã hội... Các vị thần quan trọng nhất trong phả hệ thần Ấn Độ giáo là Trimurti tức "Tam vị nhất linh" hay còn gọi là "Tam vị nhất thể" bao gồm Brahma - Shiva - Visnu. Visnu và Shiva là hai thế lực đối lập, còn Brahma là thế lực cân bằng. Đền Sri Ranganathaswamy Thành phố Tiruchirapalli, Ấn Độ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Theo truyền thuyết về thần Vishnu, ngài có mười hóa thân, Đức Phật Thích Ca được xem là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu, và thần Kalkin là hóa thân thứ 10 và cũng là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu. Thần Kalki vẫn chưa xuất hiện, vị thần này sẽ xuất hiện vào cuối thời đại hiện nay - thời đại Kalkin Yuga và sẽ kéo dài 432.000 năm. Mười hóa thân của thần Vishnu Tranh của Jaipur, bảo tàng Victoria & Albert file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg 1- Mastya: con cá từng bảo vệ cho Manu, thủy tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ. 2- Con rùa Kurina (Kurma): chở núi ngọn Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa. 3- Varaha: con heo rừng đã cứu cả trái đất. 4- Narasimha: hóa thân sư tử vương giết chết quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana. 5- Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con qủy Bali. 6- Parasurama: người tạo ra tầng lớp Sát đế lỵ. 7- Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong Sử thi Ramayana. 8- Krisna: vị thần tài năng với tiếng sáo mê hồn. 9- Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính. 10- Kalkin (Kali Yuga): hóa thân này sẽ hiện ra ở hiện tại để lập ra Kỷ nguyên mới. Vào những năm cuối cùng của thời đại này, loài người sẽ phải đối diện với sự sụp đổ của nền văn minh và sự mất mát của các giá trị tinh thần và đạo đức. Hóa thân Kalkin thần thánh sẽ xuất hiện cưỡi trên con ngựa bạch, sẽ có mặt để quét sạch các ác thần thế gian và thiết lập một kỷ nguyên mới. Bà La Môn giáo chú trọng đến vận hội của loài người, chu kỳ gồm bốn thiên kỷ trong 25.920 năm: Krita-yuga, Tetra-yuga, Dvapara-yuga và Kali-yuga. Chúng ta đang sống trong kỷ Kali yuga, kỷ này ghi trong Kinh Veda bắt đầu vào 3.012 tr.CN và kết thúc sau 5.000 năm tức vào năm 2012 (Bí mật về năm 2012 và một thế giới kỷ mới, tác giả Gregg Braden, dịch giả Trần Cung, Nxb Văn hóa Thông tin, 2011). Nữ thần hắc ám Kali Tranh tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chúng ta thấy, thời gian hoàn toàn tương tương với lịch cổ đại Maya, chỉ chênh lệch nhau 12 năm. Kali là tên nữ thần Hắc ám. Kỷ nguyên này tôn sùng vật chất, luân lý đi xuống cho nên con người chịu nhiều đau khổ. Mặc dù vậy, trong đó cũng có một lớp người tỉnh ngộ. Sau đó sẽ là kỷ Krita-yuga hay còn gọi là thời kỳ Hoàng Kim, được tiên tri trong sấm truyền Ấn Độ cổ đại Vishnu Purana, trong đó cũng báo trước thời kỳ Kali-yuga, thời kỳ dâm loạn, hôn nhân gia đình bị phá bỏ. Con người sống dối trá và của cải vật chất là mục đích tối hậu. Sự lạm dụng quyền lực của Thiên Chúa giáo thời trung cổ, phong trào độc tài phát xít ở thế kỷ XX…, đó là bệnh của thời kỳ hắc ám Kali-yuga (Những tiên đoán mới lạ về thế kỷ XXI, tác giả Paul Roland, dịch giả Mặc Uyên, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004). Phật giáo Theo truyền thuyết, Đức Phật Di Lạc xuất thân từ một gia đình quý tộc Bà La Môn ở thôn Kiếp Ba Lợi thuộc Nam Thiên Trúc (Ấn Độ cổ đại), có hiệu là A Dật Đa (Adijita) nghĩa là Vô Năng Thắng (không gì có thể thắng nổi). Di Lạc là phiên âm từ Phạn ngữ có nghĩa là “Từ Thị” (lòng từ bi). Tín ngưỡng Phật Di Lạc đã được lưu truyền rất sớm tại Trung Quốc. Ngay từ đời Tây Tần (265-316) đã có những bức tranh vẽ Phật Di Lạc, thường mô tả Phật Di Lạc cũng giống như các vị Phật, Bồ Tát khác. Trong suốt các thời kỳ của Phật giáo Trung Quốc, Phật Di Lạc được mô tả ngồi trên một chiếc ghế hoặc một chiếc ngai với chân bắt chéo hoặc chân trái buông thõng, tay phải chống cằm như đang suy nghĩ về tương lai. Đền Mahabodhi Bodhgaya, Bodh Gaya, Ấn Độ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đền Mahabodhi có nghĩa "Đại Giác Ngộ Tự" là một đền thờ Phật Giáo ở Bodh Gaya, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đạt được chính quả. Bodh Gaya tọa lạc cách Patna thuộc bang Bihar, Ấn Độ 96km. Bên cạnh ngôi đền, phía Tây là cây bồ đề linh thiêng. Theo kinh điển Phật giáo, Di Lạc Bồ Tát sẽ xuất hiện trên trái đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lạc sẽ là vị Phật sẽ nhận chuyển pháp luân và kế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời đại mới. Di Lạc Bồ Tát Tượng đá, Northern Wei dynasty (386-535) Di Lạc Bồ Tát Cổ vật gỗ sơn, Hàn Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Cõi giáo hóa của ngài hiện nay là cung trời Đâu suất. Như vậy, theo sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật Vương Di Lạc, vị thầy mới sẽ bơm một luồng sinh khí tươi mát và làm thay đổi toàn bộ công cuộc tìm kiếm chân lý trên toàn thế giới. Do Thái giáo Dân tộc Do Thái có một niềm tin không lay chuyển vào đấng Chúa Cứu Thế Messiah rằng: dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại được dẫn đến một thời đại Hoàng kim, trong đó nền công lý toàn hảo và nền hòa bình thế giới được thực hiện bởi đấng Messiah. Ngài là vị vua lý tưởng và là một người toàn hảo. Danh từ "Messiah" có nghĩa là "Người được xức dầu", đây là một phương cách cổ xưa để tôn vinh một người được trao trọng trách đặc biệt. Jerusalem Israel file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Jerusalem còn có tên gọi khác là Thánh địa (The Holy), thành phố cổ kính và linh thiêng ở Trung Đông, nằm trên lưu vực giữa Địa Trung Hải và Biển Chết, trên độ cao từ 650-840m. Theo truyền thuyết của người Do Thái thì Jerusalem được xây dựng bởi Shen và Ever, tổ tiên của Thánh tổ Abraham. Người Do Thái vẫn chờ đợi sự xuất hiện của đấng Messiah. Dân tộc Do Thái rất kiên trì trong niềm tin tôn giáo vì họ tin tưởng rằng đạo Do Thái là đạo duy nhất do Thiên Chúa mặc khải cho cả quốc gia. Thiên Chúa giáo Theo Kinh Tân Ước các Thánh Tông Đồ có ghi lại lời Chúa Jesus, tiên tri “Ngày phán xét” cuối cùng và ngày ấy những người chết sẽ sống lại, trong Kinh Tin Kính có câu: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Lời tiên tri ấy như sau: "Anh em thân mến! Tôi không muốn để anh em phải hồ đồ về vấn đề những người đã chết, như người không còn hy vọng. Nếu chúng ta tin Chúa Jesus đã chết và đã sống lại, thì những ai đã an giấc trong Chúa Jesus cũng thế, Thiên Chúa sẽ kết hợp với Người..." (Tê-sa-lô-ni-ca 4, 13-18) (Tham khảo cuốn Kinh Thánh Tân ước và Cựu ước, Arms of Hope 2002). Nhà thờ lớn của Thánh Basil Matxcơva, Nga Tòa Thánh Vatican Rome, Italy file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trong Bức Thư Fatima (được xuất bản tại Việt nam, bàn dịch từ tiếng Bồ Đào Nha) Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha năm 1917, rất ít được phổ biến, Đức Mẹ có tiên tri: "Đại Chiến thứ III, nhân loại mười phần, chết chín còn một. Chúa Xi-ri Ki-tô, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giu-se sẽ có xác thân người Việt Nam để cứu con ngài trên thế giới... Nhân loại sẽ về Việt Nam rất đông. Chị Lucie viết: "Nước Việt Nam là một thánh địa Gerusalem thứ hai... Nước Việt Nam sẽ đổi lại là Đại Nam Tịnh Quốc ... Nhân loại nên hướng vế Miền Nam Nước Việt để xây dựng cho quốc gia Việt Nam thành một thánh địa, hầu khi đại chiến thứ III sẽ về đó mà nương tựa" (Bức Thư Fatima của chị Lucie tr. 5,9,10). Hồi giáo Truyền thuyết kể lại thì Mecca là quê hương của giáo chủ Mohammad (570-632) thuộc gia tộc Casimu. Tục truyền rằng Thánh Allah đã cử Thiên sứ Gabriel đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên "khải thị" cho Mohammad chân lý của Kinh Koran (Qur'an) điều này khiến ông trở thành "Thánh thụ mệnh" tiếp thu sứ mệnh chân chủ trao cho để bắt đầu công cuộc truyền bá đạo Hồi. Ông là người sáng lập ra đạo Hồi và trở thành vị giáo chủ tối cao, Mecca trở thành nơi thánh địa linh thiêng và là nơi hành hương quan trọng nhất của các tín đồ Hồi giáo khắp nơi trên thế giới. Thánh địa Mecca Tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Chiếc đồng hồ 4 mặt được đặt trên nóc tòa nhà Mecca Clock Royal Tower có độ cao 640m, đây là một trong những công trình cao nhất thế giới. Chiếc đồng hồ có đường kính 39m, được ghép từ 98 triệu tấm kính. 21.000 bóng đèn trắng và xanh đặt trên đỉnh Royal Clock có thể chiếu sáng một quãng đường xa đến 30km, mỗi mặt của đồng hồ được khắc tên Thánh Allah. Qua hình ảnh mặt trăng lưỡi liềm, chúng ta biết rằng biểu tượng của sự tái sinh, phục sinh là hình ảnh của mặt trăng hết khuyết rồi lại tròn theo một chu kỳ, như vậy hình tượng khả năng tiềm ẩn biểu tượng tiên tri về sự phục sinh của giáo chủ Mohammad. Bái Hỏa giáo, Iran Một nhà tiên tri thời Ba Tư cổ tên là Zoroaster hay còn gọi là Zarathustra (630-550 tr.CN) đã từng dự báo sẽ có một “trận chiến giữa Thiện và Ác”. Ông nói rằng ông đã nhận được một nhiệm vụ thần thánh từ Ahura Mazda, vị Chúa tể Trí tuệ và Thần Quang minh (Ánh sáng), người rao giảng sự thật. Ông đã tiên đoán rằng toàn thế giới sẽ bị đưa vào trận chiến giữa Thiện và Ác bởi vì một nhóm thế lực Hắc ám sẽ chống lại lực lượng Quang minh. Loài người có thể được cấp cho sức mạnh để chọn lựa giữa Thiện và Ác. Thời kỳ kết thúc của thế giới sẽ tới khi lực lượng Quang minh giành thắng lợi và những linh hồn được cứu rỗi sẽ tận hưởng niềm vui chiến thắng, Đài tưởng niệm Zoroaste Thế kỷ V tr.CN, Iran file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Ông phân chia sự phát triển của thế giới ra làm bốn giai đoạn, với 3.000 năm trong mỗi giai đoạn. Trong ba ngàn năm đầu tiên, thế giới vật chất này được tạo ra. Vào thời điểm cuối của ba ngàn năm tiếp theo, Ahriman, kẻ cầm đầu thế lực Hắc ám, sẽ cố gắng hủy diệt thế giới. Vào thời điểm cuối của 3.000 năm sau đó, Ahriman đã thành công, nhưng hắn sẽ mang đến sự hủy diệt cho chính mình. Vào lúc bắt đầu 3.000 năm cuối, Zoroaster sẽ chuyển sinh và mang đến một đức tin mới cho nhân loại. Trong lúc ấy, nhân loại sẽ phải trải qua một thử thách cuối cùng, từ bỏ mọi đặc tính trái luân lý để trở thành những người tiên phong và lãnh đạo thế giới mới. Theo lời tiên tri của Zoroaster, bản tính con người là rực rỡ và đức hạnh, nhưng Ahriman muốn hủy diệt mọi thứ. Do đó, một thế giới với cả Thiện lẫn Ác sẽ đồng thời tồn tại và loài người cần phải lựa chọn một trong hai. Sau khi chết, linh hồn sẽ phải đi qua một chiếc cầu. Linh hồn cao thượng sẽ được lên thiên đàng, linh hồn xấu xa sẽ phải xuống địa ngục. Trong trận chiến đó, một linh hồn trong sạch không tội lỗi sẽ hòa mình vào một thế giới mới. Chúng ta có thể hiểu “Lửa” là đại biểu cho phát minh thời thái cổ và chính nó đã thay làm đổi cuộc sống của loài người, nhưng “Lửa” cũng là biểu tượng cho văn minh, biểu tượng của ánh sáng, do vậy thờ “Lửa” chính là thờ “Thần Quang Minh Ahura Mazda”, và vị thần này là ai? cũng sẽ được làm rõ trong các chương sách sau. (*) Hỏa giáo: Còn được gọi là Bái hỏa giáo hay Đạo thờ Lửa (Zoroastrianism), là một tôn giáo cổ của Ba Tư được sáng lập bởi nhà tiên tri Zoroaster (Zarathustra), với bộ kinh chính thức là Cổ kinh Ba Tư. Hỏa giáo phát triển mạnh ỏ Iran khoảng thế kỉ X-VII tr.CN, sau đó, phát triển sang nhiều nước khác ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Hoa. Ngày nay trên thế giới cũng như tại Ba Tư chỉ còn rất ít người theo tôn giáo này. Đạo Cao Đài, Việt Nam Đạo Cao đài là một trong những đạo mới tại Việt Nam, Thánh giáo cơ bút đạo Cao Đài nói rất nhiều về Hội Long Hoa. Trong Kinh Đại Tường của Cao Đài giáo có nói đến Phật Vương Di Lạc giáng thế, thâu hồi các tôn giáo hữu hình hiện có qui thành một Đạo duy nhất: Hỗn Nguyên Thiên dưới quyền giáo chủ, Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên. Tái sinh sửa đổi chân truyền, Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị, Cõi Tây phương đuổi quỉ trừ ma. Giáng sinh Hộ Pháp Vi Đà, Chuyển cây ma xử đuổi tà trục tinh. Thu các Đạo hữu hình làm một, Trường thi Tiên Phật dược kiếp khiên. Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sinh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn. Trong quyển Đại Thừa Chân Giáo của phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi Cao Đài Đại Đạo, sưu tập những bài Thánh giáo của Đức Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát dạy về triết lý, phương pháp thiền định có nói về Hội Long Hoa, ngài tiên tri cho biết thời kỳ mạt pháp sẽ có “Ngôi Hai” giáng thế dạy Đạo: Gần tận thế Ngôi Hai ra mặt, Đặng toan phương dìu dắt chúng sinh, Chỉ đường cội phúc nguồn lành, Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêng năng. Theo triết lý của Đạo Cao Đài thì vũ trụ vạn vật cũng như trái đất nói riêng, sẽ tiến hóa theo một chu trình làm ba Nguyên, trong Thánh giáo Đức ngọc Hoàng Thượng Đế dạy như sau: "Các con khá biết: Đạo có ba Nguyên. Ba Nguyên ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất. Trước hết, mở đầu là Thượng nguyên. Đấy chính là Nguyên Tạo Hóa, là Nguyên đã gây dựng Càn Khôn Vũ Trụ. Vậy khi mới Tạo Thiên Lập Địa, nhân loại sinh ra thì tánh chất con ngườI rất đổi hồn hồn, ngạc ngạc, còn đang thuần phác thiện lương, nên chỉ cứ thuận tin Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Thời người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh nhàn khoái lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày. Bởi đó, thời Thượng Cổ mới có danh là đời Thượng Đức, mà Thượng nguyên ấy cũng kêu là Nguyên Thánh Đức nữa. Kế đó, bước qua Trung Nguyên thì nhân thân bất nhất, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm nhiều nết xấu, mới làm cho mất điểm thiện lương, bèn cậy bởi sức mình mà hiếp bức lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất, nên mới sinh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại đồng chủng, phai lạt tình đồng nghĩa, đồng bào, bởi đó, đời Trung Cổ mới có danh là Thượng Lực, mà Trung nguyên ấy cũng kêu là Nguyên Tranh Đấu nữa. Tiếp đến Hạ nguyên, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, ghê gớm thì nhân loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ mưu tà, kế sâu bẫy độc, thật là khốc liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự nhiên, càng tranh đấu mới càng tiến hóa. Ngặt nỗi càng tranh đấu lại càng ác liệt lắm, nên tranh đấu phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó là hiện tại là đời Mạt Kiếp. Còn Hạ nguyên này là Nguyên Điêu Tàn. Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất hưng, nên Nguyên Tiêu Diệt tất sẽ bước đến Nguyên Bảo Tồn là Nguyên Đạo Đức phục hưng, để sắp lại như đời Thượng Cổ, thế nên cũng gọi là Nguyên Tái Tạo. Như vậy, Hội Long Hoa là một Hội lập ra trong thời kỳ tận diệt để chọn người hiền. Đây là cơ hội mấy muôn năm mới trở lại một lần. Người Việt nam hữu phước lắm mới được cơ bút tiết lộ để biết trước mà lo tu tập trong trường thi chót này. Ráng tu kịp Hội Long Hoa, Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời. DiLạc Vương Phật là vị Phật Tương lai, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ sẽ xuống trần một lần nữa, làm chính chủ khảo của Đại Hội Long Hoa tuyển phong Thần, Thánh, Tiên, Phật, đồng thời thay mặt Đức Chí Tôn Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn Khôn Thế giới và Vạn linh. Đại lễ đường và Đạo kỳ Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới thì gọi Ngài là Đức DiLạc Vương Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sinh thì gọi Ngài là DiLạc Vương Bồ Tát. Trong quyển Con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp giảng:“Trong Tam Kỳ Phổ Độ này, Đức Phật ADiĐà giao quyền lại cho Đức DiLạcVương Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nênĐức DiLạc Vương Phật hiện nay ngự tại Kim Tự Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới; Đức Phật A Di Đà vào ngự trong Lôi Âm Tự và Đức Phật Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện”.Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cực Lạc Thế Giới có hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, nhưng mình nó lại tròn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có Liên đài riêng. Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho hai bài Kinh: Kinh Đại Tường và Di Lạc Chân Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm vụ và quyền hành của Đức Di Lạc Vương Phật: “Đức Phật A Di Đà đã giao cho Đức Di Lạc quyền Chưởng quản Cực Lạc Thế giới, thay mặt Lôi Âm Tự hiệp cùng Bạch Ngọc Kinh lập Tân Pháp cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Di Lạc đang ngự nơi Hỗn Nguyên Thiên, thuộc từng Trời thứ mười một, nắm Pháp điều hành Càn Khôn thế giới. Đức Chí Tôn lập Đạo kỳ này để lập vị cho Đức Di Lạc cầm quyền Chưởng Giáo Đại Hội Long Hoa kỳ ba”. Trong những ngày Đại lễ Khai Đạo Cao Đài tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm Tự Gò Kén, Tây Ninh, có trưng bày đôi câu đối do Đức Chí Tôn ban cho: Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo, Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn. Dịch nghĩa: Đức Phật Di Lạc 700.000 năm, rộng mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Thích Ca 25 thế kỷ, chấm dứt việc lập nền Phật giáo. [ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Việt Nam Tương tự như đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cũng là một đạo mới được thành lập tại Việt Nam. Qua quyển Sấm Giảng người đời, Sư Vãi Bán Khoai nói rằng: đời Hạ nguyên sắp mãn và thời gian rất gần sẽ khai diễn Hội Long Hoa. Ông Sư Vãi Bán Khoai cũng cho biết Hội Long Hoa được mở ra để chọn người hiền đức và lập đời Thượng nguyên vô cùng đẹp đẽ, một xã hội của người hiền, không còn kẻ ác, vì ở cuối đời Hạ nguyên đa số con người tội lỗi quá nhiều: Bởi Trần lỗi quá muôn phần, Cho nên lập Hội Long Hoa chọn người. Hiền từ thì đặng thảnh thơi, Nghênh ngang khó trốn lưới Trời bớ dân! Lưới hồng bủa khăp cõi trần, Chuyển luân Bát Quái còn trông nỗi gì? Hạ nguyên sau chót xét suy, Sự vong nào có khác chi sự tồn. “Hạ nguyên sau chót xét suy - Sự vong nào có khác chi sự tồn” câu thơ này Sư Vãi Bán Khoai nhấn mạnh đặc biệt sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết, do vậy mỗi con người cần phải tu luyện. Ý nghĩa “Hạ nguyên sau chót xét suy” cũng không khác về “Ngày phán xét” trong tôn giáo cổ Ai Cập. Trong đàn cơ ngày 5 tháng 10, năm Kỷ Mùi (1979) tại Thiên Lý Bửu Tòa, San Jose, USA, đức Lý Thái Bạch Ðại Tiên có luận như sau: Lão: Thái Bạch Kim Tinh kiêm Giáo Tông Đại Đạo. Nay Lão xin sơ lược mấy lời diễn tả qua các nội dung của công cuộc Long Hoa Ðại Hội: Thời nhiệm ấy khởi đầu khai mạc từ Nhất ngoạt, Thập Ngũ nhật, Kỷ Mùi niên (15-1-1979). Cuộc Ðại Hội sẽ còn tiếp diễn đến Thập ngoạt, Thập Ngũ nhật, Giáp Tý niên (15-10-1985), tức là lục niên thời nhiệm hội. Kể từ khi Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Thiên Khai tức là Cao Ðài Ðại Ðạo Nam Phương Việt Nam sơ khai đúng vào Giáp Tý hiệu niên, tây lịch nhằm 1924, đến bây giờ đã ngũ thập lục (56) niên. Ðức Chí Tôn có dạy rằng: Mối Cao Ðài Ðại Ðạo Tam Kỳ khai môn độ thế. Vì đến cận thời kỳ Tam nguyên mạt hậu, đại hội Long Hoa sẽ diễn hành nhằm vào cuối thế kỷ XX tức là chu kỳ của mười ngàn (10.000) năm thế hệ. Mục đích cuộc Ðại Hội Long Hoa, tức là một cuộc phán đoán đại đồng của Ðức Chúa Trời trong tất cả toàn cõi từ vô vi lẫn hữu hình không riêng biệt. Chung qui từ ba ngàn thế giới, thất thập nhị địa tức là 72 cõi hành tinh và 36 cõi trời gọi chung là Bộ Châu Tứ Ðại. Ðặc quyền ngự trị tối đại một Ðấng Tối Cao quản cai toàn thể tức là một Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. ... Nhiệm kỳ khai diễn Ðại Hội Long Hoa trong vòng lục niên. Thời gian ấy chia thành 3 giai đoạn: 1) Giai đoạn thứ nhất: Gồm có nhị niên. Thời gian ấy dành cho Tam Giáo Thượng Tòa sắp xếp các công cuộc đặc trách về qui nguyên, khai đường phổ độ truyền Ðạo khẩn thiết để vớt cứu sinh linh cho kịp kỳ thế diệt. Dụng máy huyền vi hạ điển Tiên Thiên mầu nhiệm tận Cõi giới trung mà sáng soi mọi đường chân lý... ... Vì nay là thời kỳ Ðại Ân Xá, nếu người thế tục đã hiểu rành mà bồi công lập đức thì chẳng có gì hơn. Long Hoa Ðại Hội vốn là một cơ hội thi đức, thi công, một thời kỳ phán xét chung mảy lông không hề lọt. Sau khi phán xét xong có thưởng phạt rồi thì các bộ sổ đều xóa bỏ để lập lại cái mới. 2) Thời nhiệm thứ hai: Là thời nhiệm phán xét đến toàn Cõi giới trung, các bộ sổ vô vi khắp 12 cõi trung thiên và thưởng phạt đến cõi thế giới hữu hình địa cầu thứ 67 này, tức là cõi thế giới hiện tại giữa nhân vật cõi trần xã hội của nhân loại ngày nay. 3) Thời nhiệm thứ ba: Sẽ phán đoán đến 12 cõi Hạ Thiên Vương, Thập Ðiện Minh Vương khâm trình bộ sổ tại Cõi địa ngục từ nhiệm thời mười ngàn (10.000) năm đến nay. Sau khi cuộc phán đoán đã hoàn tất thì 10 cửa ngục môn sẽ bắt đầu bế tắc. Các linh hồn phạm tội sẽ bị đời đời khó mong giải thoát! Thượng Cổ lập đời mười ngàn (10.000) năm tương lai sẽ định kỳ cho thế hệ khác. Bát ngát niềm thương chốn biển trần, Ðoái nhìn cảnh tượng dĩ đồng thân. Tam Giáo chung nhà kỳ dựng thế, Phép mầu chuyển đạt bởi Thiên Ân. Thái Cực Hà Ðồ qui vạn pháp, Bát Môn trận địa triệt yêu thần. Thiên tướng vạn quân đồng trí thủ, Trùng trùng điệp điệp sắc tường vân. Vì quả địa cầu duy vật 68 này đến đây đã hết thời nhiệm. Kể từ ngày thời gian vật nhân sinh hóa sáng tạo đặng sự sống cho đến bây giờ, cộng sổ thời gian thì đã 12 muôn 9 ngàn 6 trăm mấy chục niên lẻ rồi (129.600), nên nhiệm thời tuần hoàn đã mãn cuộc. Thầy cũng đã ấn định từ thuở tiền khai rằng quả địa cầu 68 đến kỳ mạt thế sẽ không còn nơi cư ngụ. Ngày nay các con đã hiểu Ðạo biết Thầy, thì Thầy nỡ nào tai ngơ mắt lấp. Nếu xét tội nhơn loài thì khó nỗi vị tha, nhưng vì lòng bác ái nên Thầy phải chịu nhọc nhằn mà tận độ. Nhưng đạo làm người gồm những gì? Đức Phật Thầy Tây An cũng đồng với Phật mà nhận rằng, đạo làm người có bốn cái ân lớn cần phải làm cho tròn: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng và ân đồng bào và nhân loại. Nếu bốn cái ân này mà làm không tròn thì khó mà tu luyện cho tròn Phật đạo. Nói thế không thể hiểu nên trọng phần Nhân đạo mà bỏ qua phần Phật đạo. Trong Đạo còn lưu truyền cho đến nay một bài thơ tiên tri của Đức Phật Thầy Tây An sáng tác, mà nhiều người được biết: Sửu Dần vốn thiệt hẳn hoi, Minh Vương khôi phục Hán Châu Phong thần, Hội mười tám nước tôn vương Đế Hoàng. Chọn người của Phật mến thương, Đặng giao mối nước cho Vương Minh Hoàng. Ngọc Hoàng phán rõ nguồn cơ, Minh Vương vốn thiệt là vua nhân từ. Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên. Sơn Trung Sư Mạng Địa Nam Tiền. Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc, Hương Xuất Trinh Sinh Tạo Nghiệp Yên. Bốn khổ thơ cuối thuộc loại "tung hoành dọc ngang", nghĩa là đọc bề dọc cũng có nghĩa mà đọc bề ngang cũng có nghĩa. Cứ theo chiều dọc đọc xuống, chúng ta sẽ có một bài thơ bảy câu bốn chữ: Bửu Sơn Kỳ Hương Ngọc Trung Niên Xuất Quân Sư Trạng Trình Minh Mạng Tái Sinh Thiên Địa Tân Tạo Việt Nam Phục Nghiệp, Nguyên Tiền Quốc Yên. Thánh nhân, Minh Quân hay Minh Vương có nghĩa là người lãnh đạo quốc gia rất sáng suốt. Sư Vãi Bán Khoai nói vị vua tương lai là Minh vương. Nội dung bài thơ nói về nước Việt Nam sẽ phục nghiệp của tổ tiên, đồng thời đây cũng là giai đoạn tân tạo của thiên địa nhân. Thánh nhân tức người có “Minh mạng” sẽ tái sinh. Phật giáo Hòa Hảo, Việt Nam Đức Huỳnh Giáo Chủ hay Đức Huỳnh Phú Sổ mở Đạo vào năm Kỷ Mão (1939). Trong vòng mấy mươi năm mà tôn giáo mới đã hấp dẫn một số tín đồ rất lớn ở các tỉnh miền Tây Việt Nam. Khi nói về “Ngày tận thế”, Đức Huỳnh Giáo Chủ mở đầu quyển Sấm Giảng khuyên Đời tu niệm của ngài như sau: Long Hoa Tiên Phật đáo ta bà, Lừa lọc con làng, diệt quỉ ma, Nếu mãi mê man mùi tục lụy, Linh hồn chìm đắm chôn Nê hà. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng tuyên giảng hoàn toàn giống như những lời tiên tri của các tôn giáo mới tại Việt Nam rằng: Hội Long Hoa sẽ xuất hiện tại Việt Nam. Dự ngôn của các nhà tiên tri Bách Tự Minh Trong lịch sử Trung Quốc có khá nhiều tiên tri như Thôi bối đồ, Mã Tiền Khóa, Mai Hoa Thi, Bộ Hư Đại Sư Thi Văn... nhưng Bách Tự Minh (Bài minh văn một trăm chữ) rất chi tiết và ngắn gọn chính vì vậy Bách Tự Minh sẽ được nhận định trước so với các tiên tri khác, dưới đây là nguyên văn và giải nghĩa. Hình 1 Hình 2 Toàn văn bài giải được đọc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image003.gif file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image005.jpg Phiên âm: Đại Đạo bản vô nhai tế, Thị nhân dũ hảo dũ kỳ, Khả tri kim đan cửu chuyển, Chuyên vi lập tức huyền cơ. Kỷ cá hợp đồng hội thượng, Nhất tự bán điểm bất di, Đa thiểu dẫn chứng bằng xứ, Xứ xứ hữu nhân thị duy. Hệ thời lộng nhập khấu toán, Củng lai Phật tử hoàn Tây, Tứ diện bát phương trước nhãn, Cấn ly khôn đoài truyền tế. Tề khẩu cấp cấp mạc cải, Văn nhân dã bả đao đề, Thị nãi hoàn bích quy Triệu, Tẩu trước dương liễu thuỳ đê. Thổ mộc kim thuỷ hợp hoả, Bát bát cửu cửu quy tề, Hữu kết hồng thệ đại nguyện, Nguyên nhân tiếu tiếu hỷ hỷ. Đại Đạo bản vô nhai tế, thị nhân dũ hảo dũ kỳ - Đạo lớn vốn không có biên giới lằn mé, thị hiện cho con người thì quá tốt quá kỳ diệu: Đây là hai câu tán thán Đạo vốn là rất lớn, không có biên giới, vô cùng vôn tận. Truyền cho con người thấy được, thế là quá kỳ diệu quá tốt, rất là khó có cơ duyên được vậy. Khả tri kim đan cửu chuyển, chuyên vi lập tức huyền cơ - Có thể biết được đan vàng xuay chuyển chín [lần], chuyên vì để cho cơ [chế] huyền [bí]: Hai câu này nói về đặc điểm Cửu Thừa Đại Chuyển trong phương pháp luyện tập khí công Mật Tông, Đạo giáo, cùng có nền tảng như phương pháp Yoga của Bà La Môn giáo... Kỷ cá hội đồng hợp thượng, nhất tự bán tổng bất di - Trải qua mấy lần hội, một chữ nửa điểm cũng không thay đổi: Ý nghĩa của Đạo và nền tảng lý thuyết của các phương pháp tu luyện cũng phải có nguồn gốc của nó. Đa thiểu dẫn chứng bằng cứ, xứ xứ hữu nhân thị duy - Có biết bao nhiêu dẫn chứng bằng cớ, ở đâu cũng có người thị hiện: Câu này giải nghĩa then cho câu trên, lịch sử được ghi dấu ở khắp nơi như ở trong kinh sách, bia đá, truyền miệng... và ở bất cứ đâu cũng có tác giả hoặc những người đã san định các kinh sách, dữ liệu này nếu chúng ta tìm hiểu kỹ lịch sử. Hệ thời lộng nhập khấu toán, củng lai Phật tử hoàn Tây - [Dự] toán thời gian, hai mươi năm Phật tử trở về Tây: Đây là nói về việc xác định nguồn căn cũng đều phải quay trở về nghiên cứu lại kinh sách của Phật giáo, để tìm hiểu Đạo và các lý thuyết, phương pháp tu luyện. Tứ diện bát phương trước nhãn, Cấn Ly Khôn Đoài chuyển tế - Đặt mắt xét cả bốn mặt tám phương, chuyển đến Cấn Ly Khôn Đoài: Việc nghiên cứu phải xem xét tới khắp bốn phương tám hướng của lịch sử thế giới, trong quan hệ với bốn cung “Cấn, Ly, Khôn, Đoài” của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đây là nền tảng lý thuyết về quy luật vận động của vũ trụ, con người và xã hội. Tề khẩu cấp cấp mạc cải, văn nhân dã bả đao đề - Các cái miệng đều sốt sắng nhưng không thay đổi, văn nhân cũng rút đao ra: Sau khi xác định Đạo có nguồn cội từ đâu và Đạo là gì? Người sáng suốt nghe Đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe Đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe Đạo thì cười rộ lên. Nếu không cười thì Đạo đâu còn là Đạo nữa? (Đạo Đức Kinh). Hệ quả là gây nên một trận kịch chiến trên tuyền hình, truyền thanh, báo chí…, đến nỗi các văn sỹ cũng không tránh khỏi bút chiến. Thị nãi hoàn bích quy Triệu, tẩu trước dương liễu thùy đê - Rồi thì cũng trả ngọc bích về Triệu, đi đến bờ đê có hàng dương liễu rủ bóng: Cuối cùng tất cả cũng phải công nhận nguồn gốc của dữ liệu lịch sử và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là chuẩn mực, tình trạng này giống như câu thành ngữ “hoàn bích quy Triệu” nói về điển cố: Thời Xuân Thu Chiến Quốc nước Tề mạnh hơn nước Triệu, đã cưỡng đoạt bảo bối ngọc bích của Triệu nhưng về sau lại bị thua và trả lại. Điều này có nghĩa phải chấp nhận ai là chủ nhân đích thực của lịch sử và học thuyết cổ nói trên. Đồng thời, nói rõ đạo Phật chính là một đạo giúp con người thoát khổ và đạt được hạnh phúc viên mãn, dĩ nhiên tôn giáo cũng có nguồn cội của nó. “Đi đến bờ đê có hàng dương liễu rũ bóng” chính là ẩn dụ về hình tượng của Quan Âm Bồ Tát tay cầm nhành dương liễu và bình nước cam lộ độ cho những chúng sinh đang đau khổ, tình thương mới chính là tài sản quan trọng nhất. Quan Âm Ngư Lam Trích Mỹ thuật Trung Quốc, tác giả Patricia Bjaaland Welch file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image007.jpg Thổ mộc kim thuỷ hợp hỏa, bát bát cửu cửu quy tề - Thổ mộc kim thuỷ hợp hỏa, tám tám chín chín quy về một nơi: Đây là nói về phương pháp tu luyện khí công đạt đến trạng thái “Ngũ khí triều nguyên” của Đạo gia, tất cả đều quy về một mối hay hiểu là vũ trụ là một chỉnh thể duy nhất. Phương pháp tu luyện giúp mọi người đạt được trạng thái an lạc và tự mình mới giúp mình thoát khỏi luân hồi. Hữu kết hồng thệ đại nguyện, nguyên nhân tiếu tiếu hỷ hỷ - Đại thệ nguyện lớn đã kết, con người nguyên lai cười vui: Lịch sử cội nguồn và ý nghĩa của cuộc đời đã biết, lý thuyết, nội dung phương pháp tu luyện cũng đã có, tất cả mọi người đều cùng tư tưởng hòa chung với nhau trong một chân lý mới. Người truyền Pháp, người luyện Pháp, người đắc Pháp, cùng nhau thề nguyện đã xong, mọi người đều vui vẻ, cùng đại khai một “Kỷ nguyên mới” tức Kỷ nguyên Bảo Bình. Bài thơ này tương truyền là do một đạo sỹ tên là Huyền Diệu Đạo viết. Ông lấy một tấm giấy hồng ước khoảng 3 tấc, lấy bút viết theo lối chính Khải chữ nhỏ mà viết ra. Sau đó được chép trong một cuốn sách nhỏ tên là Dị Kinh Thể Chú. Cuốn sách này trải qua nhiều đời lưu lạc nhân gian, ngày nay tái xuất hiện. Tác giả của bài thơ này chỉ dùng 100 chữ mà đã khái quát được một quá trình biến đổi, mà lại dưới hình thức thi thơ như vậy, quả là xuất thần nhập hóa. Trong bài thơ có đề cập đến việc nhân loại sẽ tiến nhập vào chu kỳ mới, tương tự như các dự ngôn khác nhưng lại không đề cập đến vị Thánh nhân tương lai của nhân loại là ai, hay lúc nào sẽ xảy ra những hiện tượng tiên tri nêu trên. Tuy nhiên, tổng thể bài thơ chung kết vẫn đề cập đến giáo lý Phật giáo cùng các phương pháp tu luyện cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, triệt để trong việc tìm hiểu chân lý “ai cũng có Phật tính”. Thôi Bối Đồ Thôi Bối Đồ là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (627-649), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành quyển 1 (đến tượng 40) và quyển 2 (sau tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh. Trong dự ngôn này, chúng ta cũng chỉ nhận định một phần nội dung mà thôi (Tham khảo cuốn Thôi bối đồ, tác giả Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Nxb Hồng Bàng, 2012). Tượng 1 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Sấm viết: Mang mang Thiên Địa, Bất tri sở chỉ. Nhật nguyệt tuần hoàn, Chu nhi phục thủy. Trời Đất mênh mang, Không biết chốn dừng. Nhật nguyệt tuần hoàn, Xoay đi chuyển lại. Tụng viết: Tự tòng Bàn Cổ ngật hi di, Hổ đấu long tranh sự chính kỳ. Ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại, Thí vu Đường hậu luận nguyên cơ. Từ thuở Bàn Cổ đến mãi khi, Long tranh hổ đấu sự thật kỳ. Ngộ được tuần hoàn chân lý tại, Thử từ Đường hậu luận nguyên cơ. Nội dung biểu đạt vũ trụ quan của quy luật vận động Âm Dương Ngũ Hành như sự vận động của tự nhiên như mặt trời, mặt trăng, cũng như của xã hội kể từ thuở khai thiên lập địa qua hình tượng ông Bàn Cổ trong câu truyện truyền thuyết Ông Bàn Cổ, dĩ nhiên cũng không thể tách rời câu truyền thuyết liên quan khác Nữ Oa vá trời. Từ đấy “Ngộ được tuần hoàn chân lý tại”, đây là căn cứ lý thuyết trên mà tác giả dùng để dự đoán tương lai bắt đầu từ triều Đường. Tượng 2 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.gif Sấm viết: Lũy lũy thạc quả Mạc minh kỳ số, Nhất quả nhất nhân Tức tân tức cố. Ỉu xìu quả lớn, Không rõ mấy số. Mỗi quả một nhân, Tức mới tức cổ. Tụng viết: Vạn vật thổ trung sinh, Nhị cửu tiên thành thật. Nhất thống định Trung Nguyên, Âm thịnh Dương tiên kiệt. Vạn vật sinh trong đất, Hai chín trước thành thật. Thống nhất định Trung Nguyên, Âm thịnh Dương kiệt trước. Hình tượng đĩa táo thể hiện sự sinh sôi vạn vật kể cả trên trái đất, ngụ ý từ khởi thủy vũ trụ là Thái Cực ứng với quả táo trên cùng và từ cổ cho tới nay đều như vậy. “Mỗi quả một nhân” hay mỗi con người đều có “Nhân Tâm” của mình. Đặc biệt, quả táo số 4 không thấy cuống tức “ẩn của độ số 4 cung Tốn tại trong Hậu Thiên Bát quái” tức cung Tốn Khôn bị đảo ngược (quả số 4 là bên trái bởi trái, trước là dương phải là âm, sau cho nên quả thứ 5 sẽ ở bên phải). “Hai chín” mang ý nghĩa quy luật vận động của 9 loại tương tác trong Huyền không phi tinh trên Cửu cung - tương tác từ vũ trụ tới trái đất. Giai đoạn này đang trong tình trạng Âm thịnh Dương suy tức phương Bắc thịnh phương Nam suy. Tượng thứ 40 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Sấm viết: Nhất nhị tam tứ, Vô thổ hữu chủ. Tiểu tiểu Thiên Cang, Thùy củng nhi trị. Một hai ba bốn, Không đất có chủ. Sao trời nhỏ bé, Rũ tay cũng trị. Tụng viết: Nhất khẩu đông lai khí thái kiêu, Cước hạ vô lữ thủ vô mao. Nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán, Sinh ngã giả hầu tử ngã điêu. Nhất khí phương Đông thật quá mạnh, Chân không dày dép đầu không tóc. Nếu gặp Mộc Tử băng sương hết, Sinh ra là khỉ chết là điêu. Sự vận động của xã hội theo dòng lịch sử, các triều đại kế tiếp thay thế nhau. Khí tốt từ phương Đông quay trở về tức Thánh nhân phương Đông trở về, rũ tay trị nước. Mộc Tử có nghĩa là người con của Mặt Trời mang biểu tượng “Chân không có móng đầu không mao”, đó chính là hình tượng con “Rồng” - biểu tượng của một vị vua tái xuất hiện, sẽ làm rõ được chân lý của vũ trụ, giải thích được luân hồi trong sự sinh tử. Trong hình là ba tiểu đồng tử đến từ phương hướng khác nhau, biểu hiện cho “Tam giáo đồng nguyên” hay “Long Hoa Tam hội” của dự ngôn trong nhân gian. Tại đây sẽ hội tụ ba giáo chủ vĩ đại của Tam giáo. “Sinh ra là khỉ chết là điêu” sống là con người với cái tâm luôn thay đổi “mã ý tâm viên” và khi chết thì linh hồn giống như con chim bay. Tượng thứ 41 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Sấm viết: Thiên địa hối manh, Thảo mộc phồn thực. Âm Dương phản bối, Thượng thổ hạ nhật. Trời đất tối tăm, Cỏ cây tươi tốt. Âm Dương đảo chiều, Trời dưới đất trên. Tụng viết: Mạo Nhi tu đới huyết vô đầu, Thủ lộng càn khôn hà nhật hưu, Cửu thập cửu niên thành đại thác, Xưng vương chích hợp tại Tần Châu. Mũ cần phải đội, huyết không đầu, Bỡn cợt Càn Khôn đến khi nào. Chín mươi chín năm thành lỗi lớn, Xưng vương chỉ hợp tại Tần Châu. Trong đồ hình là một người đàn ông đang đạp chân lên một trái cầu thể hiện Âm Dương đảo chiều (ngược trở lại so với tượng thứ nhất của Thôi bối đồ), có nghĩa là tương tác tới trái đất chuyển qua pha khác, dẫn đến trạng thái con người, gia đình, xã hội, quốc gia… cũng phải có thay đổi. Hình ảnh này cũng tương tự hình ảnh con Kỳ Lân đặt chân lên trái cầu, Kỳ Lân là chúa của muôn loài và khi nó xuất hiện là điềm báo “thiên hạ thái bình”. Kỳ Lân Cổ vật bằng đồng, bảo tàng lịch sử Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Cuộc sống của đời người chỉ trong vòng 99 năm mà thôi, trời đất đều có quy tắc của riêng mình “Thiên la Địa võng”, do vậy sống phải tuân theo Đạo tức trên đầu phải biết có Trời đang theo dõi ta. Tần Châu thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc nhưng hàm ý nói rằng bất kỳ ai xưng vương bá chỉ hợp ở mỗi nơi mà thôi, còn Thánh nhân là “vua của các vua” mới là người được tôn sung trên toàn thế giới, chúng ta sẽ xét nội dung này trong các đồ hình tiếp theo. Tượng thứ 42 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Sấm viết: Mỹ nhân tự Tây lai, Triều trung nhật tiệm an. Trường cung tại địa, Nguy nhi bất nguy. Mỹ nhân đến từ Tây, Trong triều dần dần an. Cung dài dưới đất, Nguy mà không nguy. Tụng viết: Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên, Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên, Thử thời hồn tích cư triều thị, Nháo loạn quân thần bách vạn bàn. Cô gái phương Tây Tỳ Bà Tiên, Trang phục trắng muốt sắc càng duyên. Lúc này khuấy đục nơi triều chính, Náo loạn vua tôi trăm vạn đường. Mỹ nhân này chính là Hằng Nga trên cung trăng, con thỏ ngọc là thú cưng và có nhiệm vụ giã thuốc tiên cho Hằng Nga. Thuốc tiên và nhạc Thiên thay thế cho chiến tranh - biểu tượng cây cung đã bỏ lại dưới đất hay có thể hiểu rằng sự xuất hiện của Hằng Nga làm cho “Thiên hạ thái bình”. Như vậy Hằng Nga là ai? trong tôn giáo cổ Ai Cập đó là cũng nữ thần vĩ đại Isis, vợ của thần chết Osiris được tiên tri sẽ phục sinh, và trong một “sự tấn phong vĩ đại” như tiên tri của dân tộc Maya. Mặt khác, trong lịch sử Phật giáo có tám vị Phật, trong đó có một vị Phật tên là Tỳ Bà Thi Phật, phải chăng là ngài?“Lúc này khuấy đục nơi triều chính” đấy là lý do lịch sử Trung Quốc được xem xét lại, mọi người bàn tán náo loạn về nhân vật này. Tượng thứ 43 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Sấm viết: Quân phi quân, Thần phi thần. Thủy gian nguy, Chung khắc định. Vua không vua, Quan không quan. Khởi gian nguy, Chung cũng định. Tụng viết: Hắc thỏ tẩu nhập thanh long huyệt, Dục tận bất tận bất khả thuyết. Duy hữu ngoại biên căn thụ thượng, Tam thập niên trung tử tôn kết. Thỏ đen chạy vào huyệt Thanh long, Ý nghĩa đến vô cùng khó nói hết. Chỉ có bên ngoài trên cội gốc, Trong ba mươi năm con cháu kết. Trong đồ hình là một già một trẻ đang làm động tác trông giống như luyện khí công, phản ánh một phương pháp tu luyện để đạt đến những mục tiêu an định thân tâm, mọi người đều bình đẳng, không phân biệt. Để giải thích cội nguồn của phương pháp thì rất phức tạp, khó mà giải thích hết được, chỉ cần áp dụng đúng cách và phải có một ý chí sắt đá mà thôi. Trong số các Thiên Can thì Nhâm, Quý chỉ Thủy, Thủy chủ màu đen, Mão chỉ thỏ. “Hắc thỏ” rõ ràng là chỉ năm Quý Mão. “Thỏ đen chạy vào huyệt Thanh Long”, ở đây Đông phương thuộc vào Thanh Long, lại làm chủ mùa xuân. Như vậy, tác giả nói về chu kỳ kết thúc của cung Song Ngư và điểm xuân phân đi vào cung Bảo Bình, thì sẽ xuất hiện Thánh nhân. Nếu theo tượng 42 trên, Thánh nhân cũng có thể là một người nữ. “Trong ba mươi năm con cháu kết”, con cháu của Thánh nhân sẽ có một tương lai tươi sáng. Tượng thứ 44 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Sấm viết: Nhật nguyệt lệ thiên, Quần âm nhiếp phục. Bách linh lai triều, Song vũ tứ túc. Nhật Nguyệt tươi đẹp, Quần Âm khuất phục. Sơn ca về triều, Đôi cánh sung túc. Tụng viết: Trung Quốc nhi kim hữu Thánh nhân, Tuy phi hào kiệt dã chu thành. Tứ Di trọng dịch xưng Thiên Tử, Phủ cực thái lai cửu quốc Xuân. Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân, Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn. Tứ Di nhìn lại xưng Thiên Tử, Khổ tận cam lai nước mãi xuân. Trời Đất hòa hợp, chân lý tối thượng của cuộc sống xuất hiện, bắt buộc con người với những mưu mô cũng sẽ phải thay đổi mà thôi, không còn con đường nào khác. “Sơn ca về triều” mang ý nghĩa như tượng 42 trên. “Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân” Thánh nhân xuất hiện Trung Quốc? Tuy nhiên câu sau “Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn” chứng tỏ còn có những Thánh nhân khác nữa nhưng các ngài hiện diện ở đâu? Bốn phương khắp nơi đến triều kiến và tôn suy. Đất nước của ngài đã chịu nhiều khổ đau, nhiều lúc đến tận cùng của sự hủy diệt trong suốt chiều dài lịch sử, và sẽ trở lại huy hoàng như ngày xưa, mùa xuân mãi ngự nơi đây. Tượng 57 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Sấm viết: Vật cực tất phản, Dĩ độc công độc. Tam xích đồng tử, Tứ di giai phục. Vật cực tất phản, Lấy độc trị độc. Đồng tử ba thước, Tứ Di đều phục. Tụng viết: Khảm Ly tương khắc kiến thiên nghê, Thiên sứ tư nhân nhị sát cơ. Bất tín kỳ tài sản Ngô Việt, Trùng dương tòng thử tức binh sư. Khảm Ly tương khắc thấy mối trời, Trời phái người này dẹp sát cơ. Không tin tài ấy từ Ngô Việt, Biển cả từ đó ngừng binh cơ. Quy luật vận động và phát triển xã hội hết thăng rồi lại giáng, khi đến cùng cực thì lại thái lai, chỉ khi nhận biết được sự tương khắc và hòa hợp của Âm Dương thì mới hiểu rõ được quy luật của Đất Trời. Thánh nhân sẽ hiện ra từ nước Ngô, Việt, chân lý cuộc đời sáng tỏ và lúc này những cuộc chiến tranh trên thế giới sẽ phải ngừng lại “Cứu khổ cứu nạn duy chỉ có Thánh nhân” bởi tất cả chỉ là hữu hạn trên thế gian, trong khi đó chúng ta lại mong cầu hạnh phúc vô hạn trên những thứ ngắn hạn?. Tượng 58 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Sấm viết: Đại loạn bình, Tứ di phục. Xưng huynh đệ, Lục thất quốc. Đại loạn bình, Tứ di phục. Xưng huynh đệ, Sáu Bảy nước. Tụng viết: Phong yên tịnh tận hải vô ba, Thống Đế thống Vương hựu thống hòa. Do hữu sát tinh ẩn Tây Bắc, Vị năng biến xướng thái bình ca. Khói lửa tiêu tan biển không cồn, Thống Đế thống Vương lại thống Hòa. Do có sát tinh ẩn Tây Bắc, Chưa thể hát lớn thái bình ca. Sấm nói đã tương đối minh bạch, sau khi đại loạn được dẹp rồi, thiên hạ thái bình. “Xưng huynh đệ, Lục Thất quốc” nghĩa là phương Bắc và phương Nam đều là anh em, Sáu là độ số phương Bắc và bảy là độ số phương Nam trên Hậu thiên Bát quái. Mở rộng ra câu nói của dân gian “Giang hồ bốn biển đều là anh em” hay tất cả các dân tộc trên thế giới đều có chung nguồn gốc. Bởi vì cuộc chiến có lẽ liên quan đến lịch sử, tín ngưỡng, cho nên còn chưa thể thống nhất chung về “Chân lý” hoặc “vua của các vua”. “Do có Sát Tinh ẩn Tây Bắc, Chưa thể hát lớn thái bình ca” đây quả thực là sự việc vô cùng đáng tiếc, có lẽ cần thêm thời gian nhưng rất ngắn thôi. “Khói lửa sạch trơn biển không òa, Thống Đế thống Vương lại thống Hòa”, hiện nay trên thế gian có ai có được năng lực và trí tuệ lớn như vậy! Chỉ có duy nhất Thánh nhân, kỳ thực điều này sẽ được gợi ý rõ hơn ở Tượng sau. Tượng 59 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Sấm viết: Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã. Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa. Không thành không phủ, Không bạn không tôi. Thiên hạ một nhà, Đến thời đại trị. Tụng viết: Nhất nhân vĩ đại thế giới phúc, Thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc. Hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục. Một người vĩ đại thế giới phúc, Tay nắm ống trúc rút thẻ xăm. Đỏ vàng đen trắng không phân biệt, Đông Nam Tây Bắc được hòa đồng. Thiên hạ đều có cùng một nguồn cội, không còn phân biệt nữa, bởi cuộc đua tranh rồi cũng phải chấm dứt, bởi hoàn toàn là hữu hạn trong thân xác như các tượng trước đã nói, vậy thì quyền lực, địa vị hay cái gì là “của” chúng ta mãi mãi? Thánh nhân ra đời sẽ đưa chúng ta đi trên một con đường chân lý, đạt được sự an lạc viên mãn trong cuộc đời, nhân loại bước vào kỷ nguyên mới với Tân Thiên Địa. “Tay nắm ống trúc rút thẻ xăm”, câu này hàm ý sự việc đã được sắp đặt để tiên tri cho hàng ngàn năm sau, điều này cũng có nghĩa là sự vận động của vũ trụ là có quy luật, xã hội con người cũng vậy, cũng phải tiến tới “đại đồng” trong tương lai “Đỏ vàng đen trắng không phân minh, Đông Nam Tây Bắc đều hòa thuận”, là chỉ không phân nhân chủng, không phân khu vực, thiên hạ một nhà. Tượng thứ 60 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Sấm viết: Nhất Âm nhất Dương, Vô chung vô thủy. Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy. Một Âm một Dương, Không cuối không đầu. Người cuối ngày cuối, Người đầu từ đầu. Tụng viết: Mang mang thiên số thử trung cầu, Thế Đạo hưng suy bất tự do. Vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận, Bất như thôi bối khứ quy hưu. Số trời mênh mang khó truy cầu, Thế Đạo thịnh suy chẳng tự do. Muôn vạn lời nói cũng không hết, Chi bằng đẩy lưng về nghỉ ngơi. Đây đã là Tượng cuối cùng của Thôi Bối Đồ, ngôn ngữ mộc mạc sáng tỏ, mà ngụ ý lại thâm sâu. Trời Đất là vĩnh hằng, chưa chắc đã do mỗi sinh mệnh tự mình lựa chọn, mà phải sống phù hợp theo những quy tắc của nhân luân, của đất trời. Các sự tình trên thế gian con người đều là số Trời, không phải tùy theo ý nguyện con người mà cải biến, thế Đạo hưng suy đều đã an bài, đều có nguyên do trong đó, thật sự khó mà nói rõ được. Trong đồ hình là một người đẩy lưng người kia, ấy là tác giả có ngụ ý sâu xa trong đó, mỗi người phải tự chính mình đi tìm hiểu sự thật của Đạo, không ai có thể giúp bạn giải thoát ngoài chính bạn, các vị thầy hay chân sư chỉ là những người hướng đạo và dìu dắt mà thôi. Mã Tiền Khóa Gia Cát Lượng (181-234), tự Khổng Minh, là quân sư của Lưu Bị thời Tam Quốc, sau khi Lưu Bị xưng Đế ông trở thành Thừa tướng nhà Thục Hán. Tương truyền Gia Cát Lượng trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, dụng binh như thần “ngồi trong trướng bày mưu tính kế, quyết thắng ngoài ngàn dặm”. Trên thực tế, Gia Cát Lượng chẳng những tinh thông binh pháp, biết dùng Dịch lý để giải thích và quan sát thiên tượng, tức là có khả năng quan sát những biến hóa của thời gian, không gian trong một phạm vi rộng. Ngoài ra, ông còn có khả năng xem tướng như ngay lần đầu tiên gặp Ngụy Diên, Gia Cát Lượng đã biết trước người này tất sẽ tạo phản, sau này Ngụy Diên quả nhiên phản bội sau khi ông bệnh chết, tuy nhiên ông đã sớm chuẩn bị cẩm nang, dặn dò Đại tướng Mã Đại đem Ngụy Diên đi chém. Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn không thành công, ông đã sớm biết nhà Thục Hán rốt cuộc không thể thống nhất đại nghiệp, biết không thể làm mà vẫn làm, biết trước sứ mệnh của mình không thể thay đổi được lịch sử. Dự ngôn Mã Tiền Khóa (Quẻ bói gieo trước ngựa) là do Thừa tướng Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc sáng tác. Tương truyền Gia Cát Lượng vào lúc nhàn hạ trong quân ngũ đã sáng tác Mã Tiền Khóa, đây là bài tiên tri dự đoán những đại sự trong thiên hạ, tổng cộng có 14 khóa. Lời chú của Thủ Nguyên, lão tăng 86 tuổi ở núi Bạch Hạc:“Mã Tiền Khóa là tác phẩm Khổng Minh soạn ra lúc nhàn hạ ở trong quân, chỉ ra phương hướng cho hậu nhân. 14 khóa trong Mã Tiền Khóa có sách sắp xếp riêng, mỗi khóa chỉ một triều đại. Đạo trời tuần hoàn, người biết tự biết, người mê tự mê, kỳ diệu lắm thay.”. Thủ Nguyên giải đến Khóa 9, cuối cùng là một câu như thế này:“Lão tăng sinh vào những năm Gia Khánh, năm nay đã 86 tuổi, mấy câu sau này không dám nói bừa.”. Khóa 1 Trung Hạ Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy. Âm cư Dương phất, Bát thiên nữ quỷ. Không sức đổi Trời, Còng mình gắng sức. Âm ngừng Dương phất, Tám ngàn nữ quỷ. Quy luật trời đất là không thể chuyển đời được, sự kiện Gia Cát Lượng lập đàn Thất Tinh cầu sống thêm vài tuổi nhưng cũng không tránh khỏi số mệnh đã sắp đặt. Khóa 2 Trung Hạ Hỏa thượng hữu hỏa, Quang chúc Trung Thổ. Xưng danh bất chính, Giang Đông hữu hổ. Trên lửa có lửa, Rọi sáng Trung Thổ. Xưng danh bất chính, Giang Đông có Hổ. Ở đâu cũng có anh hùng, người này giỏi còn có người khác giỏi hơn “cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Vùng Giang Đông có “Hổ” tức có nhân tài. Khóa 3 Hạ Hạ Nhiễu nhiễu Trung Nguyên, Sơn hà vô chủ. Nhị tam kỳ vị, Dương chung Mã thủy. Rối loạn Trung Nguyên, Non sông không chủ. Hai ba vị ấy, Dê chết Ngựa chạy. Lịch sử Trung Nguyên thay đổi liên tục, non sông không biết được nguồn gốc của mình. Dê cung Tốn, Ngựa cung Khôn đã bị đảo vị trí trên Hậu Thiên Bát quái. Nếu đảo ngược lại để trở về vị trí nguyên thủy, sẽ phát sinh sự kiện. Khóa 4 Trung Thượng Thập bát nam nhi, Khởi vu Thái Nguyên. Động tắc đắc giải, Nhật Nguyệt lệ thiên. Mười tám nam nhi, Khởi tại Thái Nguyên. Động ắt được giải, Nhật Nguyệt tươi đẹp. Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), giống như các bài sấm thì “Lý” ám chỉ vị Thánh nhân sẽ xuất hiện. Thái Nguyên cũng một địa chí của Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, 18 nam nhi cũng có lẽ được gơi ý là 18 vua Hùng Vương của nước Văn Lang, nằm bờ Nam sông Dương Tử. Khi mật mã được giải (động), thì là lúc Thánh nhân ra mặt, mặt trời mặt trăng tỏa ánh sáng rực rỡ. Khóa 11 Trung Hạ Tứ môn sạ tích, Đột như kỳ lai. Thần kê nhất thanh, Kỳ đạo đại suy. Bốn cửa mở toang, Thình lình đột ngột. Tiếng gà gáy sớm, Đạo này đại suy. Tốn Khôn đổi chỗ, thuyết Âm Dương Ngũ Hành như là “Pháp đại uy nỗ” - quy luật bao trùm, như một tiếng gà gáy sớm báo hiệu bình minh, lúc này sẽ có những quan điểm, triết lý lâu đời của các tôn giáo sẽ bị phá hủy do không còn phù hợp. Khóa 12 Thượng Trung Chửng hoạn cứu nan, Thị duy Thánh nhân. Dương phục nhi trị, Hối cực sinh minh. Cứu họa cứu nạn, Duy có Thánh nhân. Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng. Thánh nhân xuất hiện cứu họa muôn phương, thời mạt pháp đã được chỉnh sửa như đêm tối trở rạng Đông. Chu kỳ chuyển từ cung Song Ngư sang cung Bảo Bình (Tý) tương ứng quẻ “Phục”. Khóa 13 Thượng Trung Hiền bất di dã, Thiên hạ nhất gia. Vô danh vô đức, Quang diệu Trung Hoa. Hiền không rơi mất, Thiên hạ một nhà. Không danh không đức, Chói lọi Trung Hoa. Như người ta thường nói, tiến về thịnh thế, chính là cảnh tượng tân thế kỷ. Sau khi trải qua bài học giáo huấn nghiêm khắc trong lịch sử này, đạo đức nhân loại khắp nơi thăng tiến, con người không còn mưu tính lẫn nhau nữa, mà yêu thương lẫn nhau. Câu tiếp “Vô danh vô đức” là nói con người đều hành thiện xuất phát từ nội tâm, yêu thương, tin tưởng lẫn nhau, không còn vì danh lợi ích kỷ nữa. “Quang diệu Trung Hoa” là nói Thánh nhân chói sáng cả Trung Hoa, thiên hạ cùng một nhà, hiền không rơi mất, vạn vật tân sinh, văn hóa vì thế mà hưng thịnh. Khóa 14 Trung Hạ Chiêm đắc thử khóa, Dịch số nãi chung. Tiền cổ hậu kim, Kỳ Đạo vô cùng. Bói được quẻ này, Dịch số đã hết. Trước cũ sau mới, Đạo ấy vô cùng. Khóa này nói rằng, xem bói bốc được quẻ này, dự ngôn đã đến chỗ kết thúc rồi. Đều cùng một ý, nói rằng hết thảy đều có định số, đều có an bài. “Trước cũ sau mới”, ấy là Đạo bất biến, là phép tắc vĩnh viễn không thay đổi của vũ trụ, vậy mới viết rằng “Trước cũ sau mới, Đạo ấy vô cùng”. Tam giáo đồng nguyên mới thấy rõ Đạo, và hội tụ vào Thiên Đạo từ thượng cổ do Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra, nay lại trở về. Tại Việt Nam, hơn 80 năm trước, Ngọc Hoàng Thượng Đế sáng lập ra một đạo mới có tên Cao Đài, dựa trên nền tảng các học thuyết Tam Giáo, với biểu tượng là con mắt trái - đây cũng là biểu tượng của thần mặt trời Ra trong tôn giáo cổ của Ai Cập. Dự ngôn của Bộ Hư đại sư triều Tùy Bộ Hư Đại sư dự ngôn thi là do một vị cư sĩ Phật gia sống vào những năm Quang Tự triều Thanh vô tình có được tại chùa Sơn Bích ở Tây Sơn, Bắc Kinh. Dự ngôn này kết thúc bằng một đoạn miêu tả thời thái bình thịnh thế. Thơ rằng: Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề Ngộ nhập Thiên Đài thạch bảo tây Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát Dạ xan ngọc lộ lược sung cơ Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo Chỉ đạn thập đại hoán tân nghi Dục ngã tích đồ đồ ngộ ngã Thiên cơ nan tiết tiết thiền cơ. Bởi rằng Tùy loạn chọn Bồ Đề Lỡ đến Thiên Đài thạch bảo tây Sớm uống mây bay thời giải khát Đêm ăn sương ngọc đỡ đói lòng Quay mặt chín năm theo Đạo lớn Chỉ đạn mười đời hoán tân nghi Ta trước lỡ lầm đường dục vọng Cơ Trời khó tỏ rõ cơ thiền. Trong thơ trước tiên thuật lại nhân duyên đắc Đạo của Bộ Hư Đại sư, ông là đại tướng triều Tùy, bởi thương cảm thiên hạ mê loạn, việc nước hoang phế, nên đã lên núi Thiên Đài tu Đạo, bước vào cửa Phật cầu thánh quả Bồ Đề. “Quay mặt chín năm theo Đạo lớn”, là chỉ quá trình tu Đạo khắc khổ ấy, noi theo Đạt Ma Tổ sư quay mặt vào vách chín năm, cuối cùng đắc Đạo, tác giả muốn chỉ rõ con đường Đạo, và rằng ông cũng từng mê lầm. Thiên cơ không thể tiết lộ, do vậy ông mới dùng thơ thiền để điểm lộ những huyền cơ ấy. Bồ Đề Đạt Ma Tranh tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đoạn thứ mười một: Cái quan định Công tội phân Mang mang hải vũ kiến thừa bình Bách niên đại sự hồn như mộng Nam triều kim phấn thái bình xuân Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh. Đậy nắp hòm, Công tội phân. Mênh mang hải vũ gặp thái bình, Trăm năm đại sự hồn như mộng. Nam triều kim phấn thái bình xuân, Non sông vạn dặm xứ xứ thanh. “Đậy nắp hòm, công tội phân” ý nghĩa tương tự như trong Tử thư Ai Cập, mỗi con người phải trải qua Ngày phán xét. “Mang mang hải vũ kiến thừa bình”, là nói trong cuộc đại thẩm phán thế kỷ vô tiền khoáng hậu này, thế giới tiến nhập vào thời kỳ thái bình thịnh thế, Đạo xưa quay lại chỉ rõ con đường, khắp nơi ca khúc thanh bình, về điểm này nhiều dự ngôn khác cũng giảng hoàn toàn tương đồng. “Bách niên đại sự hồn như mộng”, trăm năm đời người có khác gì một giấc mộng đâu. “Nam triều kim phấn thái bình xuân, Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh”, Nam triều làm trung tâm cho thời thái bình thịnh thế, non sông vạn dặm sau khi trải qua trường kiếp nạn này sẽ lại khôi phục cảnh tượng thanh bình. Nam triều ở đâu là một câu hỏi lớn? Đoạn thứ mười hai Thế vũ tam phân Hữu Thánh nhân xuất Huyền sắc kỳ quan Long trương kỳ phục Thiên Địa phục minh Xử trị vạn vật Tứ hải âu ca Ấm thụ kỳ phúc. Thế giới chia ba, Có Thánh nhân xuất. Đội mũ huyền sắc, Trang phục rồng bay. Thiên Địa phục minh, Sửa trị vạn vật. Bốn biển ngợi ca, Đắm trong hạnh phúc. “Thế giới chia ba” là chỉ Thiên Địa Nhân. “Có Thánh nhân xuất” là nói có Thánh nhân xuất hiện, giáo hóa chúng sinh. “Đội mũ huyền sắc - Trang phục rồng bay”, Thánh với biểu tượng phương Bắc, y phục màu vàng thêu hình Rồng, lời ấy nói rằng Thánh nhân là con Rồng Thiêng. “Thiên Địa phục minh - Sửa trị vạn vật - Bốn biển ngợi ca - Đắm trong hạnh phúc”, là nói đến lúc ấy Trời Đất chuyển từ âm u sang cảnh thanh minh, Thánh nhân làm mới lại vạn vật, sửa trị giáo hóa, làm cho bốn phương hạnh phúc. Mai Hoa Thi Để hiểu được Mai Hoa Thi, thì không thể không tìm hiểu về kỳ nhân Thiệu Ung. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết (1011-1077). Thuở thiếu thời, Thiệu Ung đã ôm ấp chí lớn, không có sách nào là chưa đọc. Sau đó, để tăng cường kiến thức, ông còn du học tứ phương, sau khi trở về, ông nói “Đạo là đây rồi” và sau đó không vân du nữa. Thiệu Ung lưu lại hậu thế một dự ngôn Mai Hoa Thi, tiên tri về những diễn biến lịch sử trọng đại sau khi ông mất. Toàn bộ bài thơ có thể được chia làm 10 tiết nhỏ: Tiết 1 Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai. Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai. Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về. Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn, Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa. Cánh cổng thông lên bầu trời mênh mang từ vạn cổ nay đã khai mở lần đầu tiên. Biết bao người đã đến nhân gian, biết bao người có thể quay về? Tuy nhiên, hai câu này thực sự là chỉ điều gì? “Hoàng Kim” chính là “Đạo” - được các Thánh nhân truyền ra cho nhân loại, nhưng từ cổ chí kim mấy người đã hiểu Đạo và đắc Đạo? Dù là vua chúa ngự trên ngai vàng chỉ qua như là như bóng chớp trong đêm, tưởng non sông là “của Ta” nhưng đâu phải vậy, huống cho là người bình thường. Tần Thủy Hoàng là mộ ví dụ điển hình, lên ngôi Đế Vương nhưng cũng phải đi tìm tiên nhưng cuối cùng cũng phải chết trên đường trở về mà không thu hoạch được gì cả. Tiết 8 Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn. Báo tử do lưu bì nhất tập, Tối giai thu sắc tại Trường An. Như ván cờ mới rơi vào thế tàn, Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn. Con báo chết còn lưu lại bộ da, Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An. “Như ván cờ mới rơi vào thế tàn - Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn”, đại ý là cuộc đời mỗi con người, mỗi xã hội, mỗi quốc gia, thậm chí cục diện toàn thế giới cũng tựa như một ván cờ vậy: Bàn cờ là đất, quân là Trời, Tạo hóa Âm Dương thật tuyệt vời, Đến chỗ huyền vi thông biến ấy, Lạn Kha kinh ấy cũng trò chơi. Trích từ cuốn Tây Du Ký, tác giả Trần Nhân Tông. “Con báo chết còn lưu lại bộ da” người xưa để lại kinh sách giúp con con người thông tỏ Đạo, lưu truyền vạn đại, tên tuổi muôn năm giống như hình ảnh con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. “Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An” Trường An là kinh đô thời nhà Đường, Trung Quốc mà Trường An cũng là kinh đô của vua Đinh Tiên Hoàng tại thành Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Trong lịch sử, kinh đô Thăng Long cũng có tên Trường An. “Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An” mùa thu ứng với Tết Trùng Cửu hàm ý mãi mãi, trường tồn. Tiết 9 Hỏa long trập khởi Yên Môn thu, Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu. Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ, Liên tiêu phong vũ bất tu sầu. Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn, Nguyên Bích chịu nạn, nhà Triệu thu về. Một vườn hoa đẹp diệu kỳ, mùa xuân có chủ, Mưa gió suốt đêm không phải lo sầu. “Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn”: Rồng đỏ hay có thể hiểu là con Rồng phương Nam, đã chụ quá nhiều đau khổ rồi sẽ tới hồi thái lai. “Trập khởi” cũng mang nghĩa con Rồng đỏ sau cơn ngủ Đông mà tỉnh dậy. “Nguyên bích chịu nạn, nhà Triệu thu về” nói về điển cố ngọc quý của nhà Triệu như đã viết ở trên, mùa xuân đã có chủ tức Thánh nhân xuất hiện như mùa xuân đến cho muôn loài, giúp cho thông hiểu Đạo thì còn sợ gì nữa? “Mưa gió suốt đêm không còn phải lo sầu”. Tiết 10 Số điểm mai hoa thiên địa xuân, Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân. Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật, Tứ hải vi gia thục chủ tân. Số điểm hoa mai trời đất là xuân, Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa. Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình, Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách. “Số điểm hoa mai trời đất là xuân” câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là “Mai Hoa Thi”. Kinh qua mùa Đông giá rét, vạn vật trỗi dậy đón mùa xuân đến, đây chính là thời khắc Chính Pháp truyền khắp thế gian. Tới đây, hai câu đầu tiên “Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở - Hỏi mấy người đến mấy người trở về” vậy là đã rõ. Trên thế giới, vô luận là tu luyện môn nào, Đạo từ phương Đông truyền ra (Dần biểu tượng phương Đông), rao giảng con người đến từ Thiên Thượng, bởi vậy mục đích tu luyện chính là phản bổn quy chân, trở về Thiên quốc. Lịch sử toàn nhân loại đã được an bài cho lần hồng truyền Đại Pháp này. Tuy nhiên, bao nhiêu người đã tới đây để chờ đợi Pháp, bao nhiêu người có thể đắc Pháp để viên mãn? Vở kịch lớn này vẫn còn đang diễn ra sôi nổi trên địa cầu, trong đó mỗi cá nhân chúng ta vừa là khán giả, vừa là diễn viên. “Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa” Bác, Phục là tên hai quẻ trong Kinh Dịch. Bác cực tất Phục cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như chuyển luân, có nhân trước tất có quả sau. “Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa” cũng là hỏi rằng sự tuần hoàn vãng phục của lịch sử này rốt cuộc là vì điều gì? “Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình” có ý là trong cõi hoàn vũ bát ngát bao la này tự nhiên thừa hưởng ngày thái bình là có nguyên nhân cội rễ của nó. “Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách” Thánh nhân bước ra truyền Pháp, bốn biển là nhà không phân biệt màu da, sắc tộc. Nửa câu sau “hỏi ai chủ khách” là muốn hỏi: Trong vũ đài lịch sử của nhân loại này, ai là vai chính, ai là vai phụ? Chẳng phải hết thảy đều theo kịch bản sớm được định trước mà diễn hay sao? Văn minh nhân loại lần này chính là vì sự hồng truyền của Đại Pháp vũ trụ mà được tạo ra, vì Đại Pháp mà khai sáng. Đây cũng chính là chủ đề của toàn bộ dự ngôn Mai Hoa Thi (tham khảo và trích dẫn từ trang website chanhkien.org). Hoàng Bá thiền sư thi Hoàng Bá thiền sư thi là bài thơ 14 đoạn do một vị cao tăng tên là Hoàng Bá sống vào thời nhà Đường sáng tác, tuy nhiên dự ngôn của ông lại bắt đầu từ triều Minh, chứ không phải từ triều Đường. Liệu dự ngôn nguyên gốc của ông có đúng như vậy hay không? Dù sao đi nữa, chúng ta hãy nhận định một phần lời tiên tri của ông. Nhất: Nhật nguyệt lạc thời giang hải bế, Thanh viên tương ngộ phán hưng vong. Bát ngưu vận hướng Điền Kiềm tận, Nhị cửu đan thành kim cốc ang. Nhật nguyệt thời suy sông biển bế, Vượn xanh gặp gỡ phán hưng vong. Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết, Hai chín thành đan trữ lúa vàng. “Nhật nguyệt thời suy sông biển bế” hàm ý chúng ta đang sống trong thời kỳ mạt pháp, chỉ khi “Vượn” tức cung Tốn trong Hậu Thiên Bát quái, được nhận biết sai lạc độ số với cung Khôn, thì mới phát sinh sự kiện, tuy nhiên cũng hàm ý phương Tây tức cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. “Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết” tức chu kỳ vận động tương tác thay đổi, “tám” độ số cung Cấn, phương Đông hay hiểu rằng Đại Đạo xuất hiện – Thánh nhân xuất hiện. “Hai chín thành đan trữ lúa vàng” nói về quy luật tương tác từ vũ trụ tới như Huyền không phi tinh, bổ sung ý nghĩa câu trước. Mặt khác, đây cũng chỉ đến phương pháp tu luyện Đại thừa cửu chuyển của thiền và khí công của Phật giáo, Đạo giáo. Tứ: Càn quái chiêm lai cảnh vận Long, Nhất bàn lục giáp tổ tôn đồng. Ngoại nhướng sơ độ trù biên sách, Nội thiền vô tàm thái cổ phong. Quẻ Càn bói được cảnh vận Long, Giống như lục giáp ông cháu đồng. Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách, Trong Thiền không thẹn với cổ phong. Tác giả bói quẻ Càn tốt nhất trong các quẻ, thời kỳ hợp hội Thiên Địa Nhân “Giống như lục giáp ông cháu đồng” và phương pháp Thiền là phương pháp tu luyện tối cổ của Phật giáo, nghĩa này bổ sung cho đoạn thơ trên về Đại thừa cửu chuyển. Phương pháp ty luyện này xuất phát từ một học thuyết siêu việt, các lý thuyết của các tôn giáo khác không thể đầy đủ hơn được “Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách”. Lục: Bạch xà đương đạo mạn đằng Quang, Tiêu cán cần lao nhất thế mang. Bất hạnh anh hùng lai hải thượng, Vọng dương tòng thử thán dương dương. Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng, Thức khuya dậy sớm cả đời mang. Anh hùng bất hạnh theo đường biển, Trông biển từ đây than mênh mang. “Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng”, chỉ năm Tỵ, năm con rắn, Thánh nhân ra mặt nhưng không rõ chính xác khi nào, nếu căn cứ vào dự ngôn dân tộc Maya thì chính là năm kế tiếp 2012 tức 2013. “Anh hùng bất hạnh theo đường biển” dù là anh hùng đi nữa vẫn cảm thấy còn bất hạnh, bởi chưa “nếm” được Đạo, là cái bao trùm lên tất cả, có thể dưa mỗi người trở về nguồn cội viên mãn. “Trông biển từ đây than mênh mang” nếu ai đã từng nhìn biển hay ngước lên bầu trời, thật là kỳ vĩ - sự mênh mông, vô tận khiến chúng ta phải cảm thán, con người và những ước mơ thật là nhỏ bé, vậy có cách gì hiểu được toàn bộ vũ trụ vĩ đại này chăng? Hay cuộc đời rồi sẽ tới đâu? Bát: Đồng tâm tá Trị vận trung hưng, Nam Bắc phong yên nhất tảo bình. Nhất kỷ cương chu Dương nhất phục, Hàn băng không tự chiến cảng cảng. Đồng lòng giúp Trị vận phục hưng, Nam Bắc khói lửa sớm dẹp xong. Một vòng kỷ cương Dương nhất phục, Băng lạnh không từ rét căm căm. “Đồng lòng giúp Trị vận phục hưng” câu này bổ sung ý nghĩa khổ thơ trên, hiểu sự nhỏ bé và to lớn của ta rồi thì cùng nhau giúp rập Đại pháp của Thánh nhân. “Một vòng kỷ cương Dương nhất phục” chu kỳ “thuần dương” của địa cầu trở lại, tức thế giới chuyển qua cung Bảo Bình, một thời đại của hòa bình, thịnh vượng. “Băng lạnh không từ rét căm căm” hiểu rõ “Ngày phán xét” rồi, thì cùng nhau mà tôn vinh Đại pháp hồng truyền. Cửu: Quang mang thiểm thiểm kiến Tai Tinh, Thống tự bàng diên tín hữu bằng. Tần Tấn nhất gia nhưng đỉnh túc, Hoàng viên vận ngột lực nan thắng. Hào quang rực rỡ thấy Tai Tinh, Nghiệp Thống bên mời có chứng tin. Tần Tấn một nhà thành chân vạc, Vượn vàng vận cao sức khó thắng. “Hào quang rực rỡ thấy Tai Tinh” ánh sáng rực rở từ Thánh nhân phát ra như những vì sao trong đêm. “Nghiệp Thống bên mời có chứng tin” Thánh nhân là ai, Đạo từ đâu mà tới? đều có nguyên do và lịch sử của nó, chứng cứ và dữ liệu đều minh xác, và đầy đủ trình bày trước nhân loại. Mọi sự đã rõ, không nên đối kháng bởi thế sự đã được sắp đặt từ hàng ngàn năm trước. Thập tam: Xích thử thời đồng vận bất đồng, Trung Nguyên hảo cảnh bất vi công. Tây phương tái kiến Nam quân chí, Cương đáo kim xà vận dĩ chung. Chuột đỏ thì giống vận không đồng, Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công. Tây phương lại thấy Nam quân đến, Vừa đến rắn vàng vận đã xong. “Chuột đỏ” có lẽ chỉ phương Bắc cùng phương Nam chỉ là một, nhưng vận hội khác nhau, “Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công” ở đây là chỉ điều gì? Phải chăng Trung nguyên được xây dựng từ những Thánh nhân thời thượng cổ nhưng có ai tính công bao giờ đâu? “Tây phương lại thấy Nam quân đến” hàm ý Đạo xuất phát từ quốc gia phía Nam của phương Đông, truyến về phương Tây. Cho tới thời điểm chuyển cung Song Ngư sang Bảo Bình thì mọi sự đã xong. Tỵ chính là năm 2013 sau năm chuyển thế như nhận định của dân tộc Maya. Thập tứ: Nhật nguyệt thôi thiên tự chuyển luân, Giai dư xuất thế cánh vô nhân. Lão tăng tòng thử hưu nhiêu thiệt, Hậu sự hoàn tu vấn hậu nhân. Nhật nguyệt chuyển dời tựa chuyển luân. Ôi sinh ta càng chẳng nguyên nhân, Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng Việc sau cần phải hỏi người sau. Xã hội tuần hoàn, Thiên số mênh mang, chân lý vũ trụ là điều con người khó có thể nhận biết được. Tất cả các dự ngôn trong lịch sử, khi đến một thời kỳ nhất định liền kết thúc. Vì một tương lai vĩnh viễn thì cũng phải tự xem xét lại chính bản thân của mỗi cá nhân. “Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng - Việc sau cần phải hỏi người sau”, bởi vì vũ trụ đang canh tân đổi mới tương lai là khác với hiện tại, do đó sự việc sau này cần phải hỏi người đời sau mới biết được. Con người hiện tại không cách nào biết được, chẳng hạn ngày nay chế tác được con tàu vũ trụ mà trước đây không thể có được…, dự ngôn cũng chỉ có thể tới đây là dừng. Dự ngôn Tháp Kim Lăng Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1400 bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ tức Lưu Bá Ôn. Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ XX và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Chữ trong dấu ngoặc vuông […] là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ trong dấu ngoặc đơn (…) là chú thích tiếng Việt, chỉ có tác dụng tham khảo. Vạn vật đồng tao kiếp, trùng nghĩ diệc tao ương - Vạn vật đều gặp tai kiếp, kiến trùng cũng gặp tai ương Vạn vật gặp các tai kiếp như ôn dịch, lũ lụt, lửa và nhiều tai ương khác, đó sẽ là một cảnh tượng vô cùng đau khổ trong lịch sử nhân loại. Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ. Điểu phi dương tẩu phản gia bang - May mắn thay có hai cột trụ gỗ chống đỡ cho lâu đài. Con dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà. Nội dung trình bày có hai vị Thánh nhân làm trụ cột trong lịch sử, giúp cho nhân loại tránh một phần tai ương, chúng ta không rõ hai vị này là ai. “Con dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà” hàm ý tới lúc âm suy dương thịnh, nhị vị Thánh nhân sẽ được nhận biết. Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, trạch cập quần sanh nhạc thả khang - Gặp người Mộc Thỏ có thể giúp người có đời sống đời đời; chúng sinh có may mắn được phúc lành và mạnh khỏe. “Mộc” trong các sự ngôn phương Đông hay gặp, thể hiện biểu tượng cho mặt trời, là thần mặt trời Ra trong tôn giáo cổ Ai Cập, Đại Nhật Phật trong Mật giáo, thần Vishnu trong Bà La Môn giáo. Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, phú quý vinh hoa bách thế xương - Những ai có thể hiểu biết được và tán thành Đại Pháp, sẽ có vinh hoa và phú quý trong nhiều đời Ai hiểu được Đại pháp hay Trung Đạo, sẽ có vinh hoa và phú quý trong nhiều đời. Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, xa thủy mã long cánh tịch hiêu - Lớp lớp nhà, giao thông nhộn nhịp và hoạt động bận rộn đột nhiên biến mất. Nói lên những sự kiện xảy ra bất ngờ, làm ngựng trệ các hoạt động. Chẳng lẽ Đại pháp làm thế giới kinh hoàng? Thiển thủy lý ngư chung hữu nan, bách tái phồn hoa nhất mộng tiêu - Như cá trong ao nước cạn, sự phồn hoa biến đi như giấc mộng. Tất cả chỉ như một ván cờ? có khác gì cá trong ao mà tưởng là biển lớn? Sự phồn hòa chỉ là hữu hạn, cuộc đời có khác gì mộng ảo huống gì phú quý. Một khi “Ngày phán xét” cuối cùng ập tới, tất cả hoang ngôn và giả tượng sẽ bị quét sạch. Càn Khôn Vạn Niên Ca Bài thơ tiên tri thế giới 10.000 năm Càn Khôn Vạn Niên Ca cho rằng được viết bởi Khương Tử Nha (Lã Vọng) người từng là đại tướng quân thống lĩnh quân đội nhà Chu đời vua Chu Văn Vương và vua Chu Vũ Vương trong suốt thời kỳ đầu (khoảng năm 1111 tr.CN). Ông cũng là nhân vật đứng đầu như là người được yêu cầu bởi Nguyên Thủy Thiên Tôn, để phong tước cho các vị Thần trong tác phẩm tiểu thuyết kinh điển Phong Thần, tác giả là Bồ Tát Nguyễn Minh Không. Chúng tôi cũng chỉ nhận định một phần trong bài thơ tiên tri này. Thái Cực vị phán hôn dĩ quá Phong Hậu, Nữ Oa thạch thượng tọa Tam Hoàng, Ngũ Đế kỷ phái tương. Khác với Thôi bối đồ bắt đầu bài thơ với Âm Dương, còn Càn Khôn vạn niên ca mở đầu bài thơ nói về Thái cực là khởi nguyên vũ trụ và lịch sử theo truyền thuyết của Trung Quốc là thời đại của Tam Hoàng Ngũ Đế, cho đến nay các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn chưa thống nhất về thời kỳ này. Bà Nữ Oa được xem là tổ đầu tiên của nhân loại, trong truyền thuyết dân gian Bà Nữ Oa và vua Phục Hy là thủy tổ của dân tộc Trung Quốc. Phục Hy Nữ Oa Tranh khắc trên đá cổ, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Trong bức tranh đá, Phục Hy tay cầm thước tròn và Nữ Oa tay cầm thước vuông quay mặt ra ngoài hàm ý âm dương tương tác, vũ trụ vận động, còn ở giữa có hai người tương tự nhỏ hơn quay mặt vào trong, mang ý nghĩa âm dương hợp nhất. Hình sóng nước hai bên biểu tượng của chòm sao Bắc Cực Thất tinh (Tiểu Hùng tinh) và Nam Đẩu lục tinh, định vĩ trục thiên cầu trên bầu trời. Nhị bách niên lai vi chánh chủ - Nhất độ điên nguy hầu thượng thủy Trong vòng 200 năm cuối của chu kỳ chuyển đổi, vị Chủ thật sự của Càn Khôn sẽ xuất hiện, Ông xuất hiện trước công chúng để truyền Pháp, cứu độ thế nhân trong thời khắc nguy khốn của nhân loại. Biệt chi khai hoa quả nhi hồng - Phục thủ giang sơn như cựu hứa. Nhánh “riêng biệt” cho hoa nở rộ sinh trái “Hồng”, và theo như sự an bài từ trước. Chữ “Hồng” trong “Hồng âm”, ứng với chữ “Hoàng” nghĩa là vua, và ứng với màu vàng kim. Chúng ta hiểu rằng vị Thánh nhân hay “Thánh Vương” sẽ khôi phục giang sơn như đã hứa từ trước. Nhị bách niên lai suy khí vận - Nhâm quân bảo trọng thành hà tể. Trong vòng 200 năm cuối cũnd là thời đại khí vận suy, mặc cho những người đứng đầu quốc gia ra sức bảo vệ. Thủy biên điền thượng mễ lang lai - Trực nhập Trường An gia chỉnh đốn. Dòng chảy của chính Pháp trở về kinh đô Trường An nhằm chỉnh đốn lại hoàn toàn. Kinh đô Trường An cũng được giải thích ở các tiên tri trước. Mộc biên nhất Thỏ tẩu tương lai - Tự tại vi quân bất động thủ. Nội dung tương tự như các lời tiên tri khác, Thánh nhân họ “Lý” sẽ là lãnh đạo tinh thần, không tham gia mà ung dung tự tại hướng dẫn. Hựu vi miên mộc định san hà - Tứ hải vô ba nhị bách cửu Thánh nhân định định vị lại sơn hà, thế giới thanh bình không có phong ba bão tố. Hành nhân hành nghĩa lập càn khôn - Tử tử tôn tôn tam thập thế. Dựng xây lại xã hội thuận theo các tiêu chuẩn đạo đức cao, con cháu 30 đời được sống vui khỏe và bình an. Ngã kim chỉ toán vạn niên chung - Bác Phục tuần hoàn lý vô cùng. Cho đến nay khi 10.000 năm tiên tri đã được giải thích, thật là bái phục nguyên lý tuần hoàn vô cùng kỳ diệu Tri âm quân tử tường thử sổ - Kim cổ tồn vong nhất quán thông. Nếu người tri âm quân tử hiểu mệnh trời thì có thể dễ dàng thông tỏ những biến cố thăng trầm của lịch sử xưa và nay. Khương Tử Nha Tranh khắc gỗ đời Minh, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Nội dung của bài thơ ghi nhận thuyết Âm Dương Ngũ Hành, và sự xuất hiện của Thánh nhân tương tự các lời tiên tri khác. Đồng thời, cũng nói về sự sáng tỏ của lịch sử thời thượng cổ Tam Hoàng Ngũ Đế. Nhà tiên tri Nostradamus, Pháp (Châu Âu) Cuốn sách Các Thế Kỷ (Les-Centuries) của Nostradamus, nhà tiên tri người Pháp sống từ hơn 400 năm trước, đã đoán trước được nhiều sự kiện xảy ra sau này như một số cuốn sách đã nhận định, khó khăn duy nhất để hiểu được các lời tiên tri của Nostradamus nằm ở tính đại diện của thông điệp, bao gồm những mật mã mang tính tượng trưng, khó hiểu và tối nghĩa, người ta thường chỉ có thể xác nhận hàm nghĩa của những lời tiên tri sau khi các sự kiện quan trọng đã xảy ra. Các Thế Kỷ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, tổng cộng 10 cuốn, mỗi cuốn gồm 100 bài thơ, duy chỉ có cuốn số 7 là chỉ có 42 bài, tổng cộng có 942 bài thơ tiên tri, tuy nhiên nội dung dự ngôn lại không theo trình tự thời gian, là do Các Thế Kỷ có một số bộ phận bị làm xáo trộn. Quá trình này Nostradamus đã lưu lại cho con trai ông trong bức thư làm lời mở đầu cuốn sách tiên tri Các Thế Kỷ, đã chứng tỏ lời tiên tri của Nostradamus là xuất phát từ Thần khải, trong đó có đoạn viết: “Về những lời tiên tri huyền bí, đó là qua tiếp xúc với những linh thể ma quái của lửa, hoặc là lý giải qua sự quan sát các vì sao xa xôi, hoặc lời biểu thị công khai nào đó; sau đó người ta sẽ thấy giật mình khi viết ra mà không sợ bị nguyền rủa bởi những lời tiên tri tùy tiện này. Lý do là vì tất cả điều này bắt nguồn từ sự ban tặng sức mạnh thần thánh đến từ Thượng Đế Toàn Năng.” Đối với tình huống này, Nostradamus cũng đã kể lại cho con trai ông trong bức thư mở đầu, trong đó có đoạn: “Sở dĩ những người trong tương lai có thể được người hiện tại nhìn thấy, là vì Thượng Đế Toàn Năng thông qua hình tượng hé lộ cho chúng ta, cùng với các bí mật khác nhau của tương lai được trao cho thuật chiêm tinh chính thống, cũng như trong quá khứ, để sức mạnh và lời tiên đoán đi xuyên qua họ, và ngọn lửa thần truyền cảm hứng để họ công bố chúng cho cả người và Thần.” Chúng tôi chỉ nhận định sơ bộ qua một số khổ thơ, bởi số lượng lời tiên tri rất nhiều bao gồm của cả các nhà tiên tri khác trên thế giới. Nền tảng để phân tích và nhận định dựa trên tiên tri của dân tộc Maya và so sánh, đối chiếu với các lời tiên tri khác, dĩ nhiên, không ngoài việc đã nhận biết một số sự kiện sắp xảy ra. Tại (3) Các Thế Kỷ II, Khổ 29: Người phương Đông sẽ rời chỗ của ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp. Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy thần của ngài. Khổ thơ tiên tri về một Thánh nhân sẽ xuất hiện tại phương Đông rồi đi sang phương Tây, có năng lực như thần Hermes “Đánh thức mọi người bằng cây gậy thần của ngài”, tương đồng với tiên tri về Chúa Cứu Thế (Messiah) mà Do Thái giáo nói tới và tiên tri Phật Di Lạc ra đời của Phật giáo. Các Thế Kỷ IV, Khổ 30 Hơn 11 lần Mặt trăng Mặt trời sẽ không muốn, Tất cả thăng lên và hạ xuống bởi cấp bậc. Và đặt thật thấp để người sẽ khâu sợi chỉ nhỏ vàng, Như vậy sau nạn đói dịch bệnh, bí mật được tiết lộ. “Người sẽ khâu sợi chỉ nhỏ vàng” đây là kết quả tu luyện đạt được của một hành giả, linh hồn có thể thoát ra khỏi thân xác nhờ điều động của ý thức nhưng nó luôn được nối bằng một sợi chỉ vàng tới đỉnh đầu thân xác của hành giả. Như vậy, tiên nói về sự tồn tại của linh hồn và việc chứng minh nó cho tới nay, vẫn chưa có kết quả - phải chăng đây cũng là một bí mật được tiết lộ? Các Thế Kỷ IV, Khổ 31 Trăng tròn trong đêm treo trên đỉnh núi cao, Tân Thánh nhân với đầu óc quạnh hiu nhìn nó. Bởi các đệ tử của ngài mời trở thành bất diệt, Mắt nhìn phương Nam, tay đặt trước ngực, thân thể trong lửa. Vị Thánh nhân hiện ra tại một quốc gia phương Nam của phương Đông, ngài sẽ xuất hiện chứng minh chân lý vũ trụ và sẽ trở nên bất diệt. Phải chăng đó là Thần mặt trăng? Mà mặt trăng cũng là biểu tượng của thần chết Osiris như tiên tri Ai Cập. Các Thế Kỷ I, Khổ 48: Khi hai mươi năm sự thống trị của Mặt Trăng qua đi, Một vật thể khác sẽ tiếp nhận sự thống trị trong bảy ngàn năm. Khi Mặt Trời đã mệt mỏi rã rời tiếp tục chu kỳ vận chuyển, Là lúc lời tiên tri và đe dọa này đi đến hồi kết. Đoạn thơ nói rằng đến lúc ấy hết thảy tiên tri trong Các Thế Kỷ và lời cảnh tỉnh đối với nhân loại sẽ kết thúc đúng lúc. Dĩ nhiên, đoạn thơ không thể xác định được mốc thời gian. Trong các bức tranh được cho là do ông sáng tác, bức tranh số 69 hàm ý kết thúc chu kỳ cung Song Ngư và những bí mật sẽ được đọc lên bởi một người phụ nữ đội vương miện. Hình vẽ số 69 Tranh của Naustradamus file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Ông cũng viết Thiên niên kỷ vĩ đại vào thời khắc quan trọng qua khổ thơ sau: Các Thế Kỷ X, Khổ 74: Sự tuần hoàn của con số bảy vĩ đại, Nó sẽ xuất hiện trong năm đại đào thải. Cách không xa thiên niên kỷ vĩ đại, Khi những ai có thể đi vào sẽ rời ngôi mộ. Những người chết chôn trong các ngôi mộ sẽ sống dậy, điều này có nghĩa linh hồn là vĩnh cửu như đã nói, và những người đang sống có khả năng, sẽ giao tiếp được với họ. Con số 7 vĩ đại là gì? Chúng ta hãy xem tiếp. Các Thế Kỷ I, Khổ 69 Ngọn núi vĩ đại, hình tròn, bảy cái đài, Sau hòa bình, chiến tranh, nạn đói, và lũ lụt. Nó sẽ lan xa, nhấn chìm những quốc gia vĩ đại, Ngay cả các di chỉ và nền móng đồ sộ của chúng. “Bảy cái đài” và “Ngọn núi vĩ đại, hình tròn” ở đây chính có lẽ nói về dãy núi hùng vĩ Himalaya, nơi thánh địa tôn sùng của Đạo giáo, Mật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo... Lịch sử Phật giáo có ghi nhận về thời quá khứ có sáu vị Phật nguyên thủy hạ thế độ nhân, cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni là 7 vị Phật. Ngoài ra trong sách Khải Huyền - Thánh Kinh cũng giảng về bảy phong ấn của Thần... Con số 7 cũng tương ứng với 7 luân xa quan trọng nằm dọc trục xương sống, là các trung tâm phân phối năng lượng mà các hành giả của các tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Bà La Môn giáo, Đạo giáo, Kỳ na giáo… tu luyện Yoga và Thiền nhằm chứng đắc giác ngộ. “Nó sẽ lan xa, nhấn chìm những quốc gia vĩ đại” phải chăng nói đến một học thuyết sẽ làm sáng tỏ chân lý của vũ trụ? Nó sẽ làm sụp đổ các hệ thống lý thuyết cũ xưa của các quốc gia? Tiếp tục xem xét: Các Thế Kỷ X, Khổ 75 Được đợi từ lâu, ngài sẽ không bao giờ trở lại, Ở Châu Âu, ngài sẽ xuất hiện ở Châu Á. Người của liên minh với thần Hermes vĩ đại, Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị vua của phương Đông. Thánh nhân phương Đông như “được đợi từ lâu” sẽ đến nhân gian vào thời mạt thế để cứu độ chúng sinh sẽ xuất hiện ở Châu Á, ngài cũng đã cư ngụ từng “ở Châu Âu. Thần Hermes (biểu tượng sao Kim trong thiên văn hiện đại), theo thần thoại Hy Lạp, là một trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus; Ngài vừa là vị thiên sứ truyền ý chỉ của Thần đến nhân gian, lại cũng chưởng quản ngôn ngữ, văn tự, khẩu thuật… Do đó câu thơ này nói vị Thánh nhân sẽ là người giảng Đạo cho nhân loại. Ngài sẽ là “vua của các vị vua” chân chính. Các Thế Kỷ VIII, Khổ 27 Đi đường phụ, hết mái vòm này đến mái vòm khác, Hoang phế rất nhiều, ngoại trừ người dũng cảm và chú mèo. Những chữ viết của hoàng đế Phượng Hoàng, Ngài nhìn thấy rằng chính không phải ai khác. Điều khiến người ta khó hiểu nhất chính là hai câu sau bài thơ: “Những chữ viết của hoàng đế Phượng Hoàng - Ngài nhìn thấy rằng chính không phải ai khác”, Phượng Hoàng là một loài chim linh thiêng đối với hầu hết các dân tộc trên thế giới, có khả năng tái sinh và bất từ từ đống tro tàn của mình.Phượng hoàng là biểu tượng của đế vương phương Đông của thời cổ đại, biểu tượng của phương Nam trên trái đất và là một trong Tứ Linh Long, Ly, Quy, Phượng - biểu tượng các chòm sao tên bầu trời. Phượng hoàng là loài chim không có thật, nhưng đều tồn tại dưới dạng tranh vẽ tại các quốc gia. Các Thế Kỷ V, Khổ 79 Sự huy hoàng thần thánh sẽ hạ thấp các lối đi, Thông qua sự đi tới của nhà lập pháp vĩ đại: Ngài sẽ nâng đỡ người khiêm tốn, làm phật ý những kẻ nổi loạn, Sẽ không có đối thủ trên Trái đất này. Vị Thánh nhân là người bất khả chiến bại, không có đối thủ trên trái đất và ngài sẽ lập ra chính pháp cho nhân gian, giúp đỡ những người khiêm tốn và là phật ý những kẻ nổi loạn. Các Thế Kỷ VII, Khổ 14 Ngài sẽ tới để phơi bày những hình tượng giả dối, Những cái vạc (nước) cổ xưa bất hủ sẽ được mở ra Môn phái và triết lý thần thánh sẽ phát triển mạnh, Đen thay cho trắng và mới thay cho cũ. Chính pháp và triết lý mà ngài mang tới để phơi bày những hình tượng giả dối, những học thuyết sai lệch đang được rao giảng, những cái “vạc” - pháp khí trong các tôn giáo cổ Đông Phương, được bố trí những nơi thờ tự, có vẻ nó mang những bí mật cần được giả mã. Trong cuốn Kinh Dịch, san định bởi Khổng Tử, “vạc” trong hình tượng quẻ Thủy Hỏa ký tế nói về một vận hội mới tốt đẹp. Các Thế Kỷ III, Khổ 67 Một môn phái mới của những nhà triết học, Xem thường cái chết, vàng, danh dự và của cải. Sẽ không chỉ giới hạn trên những ngọn núi của nước Đức, Để theo họ, họ sẽ có quyền năng và những đám đông. Minh triết mới sẽ chứng minh vàng bạc, quyền năng chỉ là hữu hạn, còn có những minh triết siêu đẳng không thể so sánh, giúp cho mỗi con người vươn tới những tầm cao trí tuệ và hạnh phúc viên mãn. Các Thế Kỷ VII, Khổ 17 Vị Hoàng Tử với lòng trắc ẩn và nhân từ hiếm có, Sau hòa bình, những thùng nước vĩ đại của ngài. Sẽ cải biến qua đại thẩm phán với người chết, Bằng tái tạo vĩ đại, thống trị tinh xảo. Khổ thơ này có vẻ nói khi bước vào thời đại Bảo Bình qua hình tượng một người nữ đang đổ bình nước từ trên trời xuống, Thánh nhân với chính pháp của ngài sẽ giúp nhiều chúng sinh được cứu độ. Tái tạo lại quy tắc đạo đức trên dương thế. Các Thế Kỷ III, Khổ 2 Lời của Thần sẽ ban cho vật chất, Bao gồm thiên đàng, mặt đất, vàng ẩn trong dải Ngân Hà thần bí. Thân thể, linh hồn, tinh thần có mọi sức mạnh, Tít mãi dưới chân như Thiên Thượng thấy. Minh triết của Thánh nhân sẽ ban cho vật chất bao gồm thiên đàng, mặt đất, vàng ẩn trong dải Ngân hà thần bí hàm ý về Đại Pháp vĩ đại; giảng cho các Thần, và chúng sinh trong vũ trụ, có sức mạnh và trí tuệ cho cả cơ thể và linh hồn. Giọng nói êm dịu của người bạn thiêng liêng được nghe nơi mảnh đất thánh, Ngọn lửa nhân loại chiếu sáng giọng nói thần thánh. Nó sẽ làm trái đất bị kéo căng bởi máu của những tu sĩ xuất gia, Và tiêu hủy những ngôi đền linh thiêng (hay giả dối) của những kẻ ô uế. Đoạn thơ bốn câu này tiên đoán rằng tôn giáo có tổ chức sẽ bị tiêu hủy bởi chân lý được giảng ra do “người bạn” thông qua “ngọn lửa nhân loại” của một tôn giáo mới. Các tòa tháp phát nổ và bốc cháy Tranh của Naustradamus file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Ngài sẽ lấy ngày của Nữ thần Diana, Làm ngày cho sự nghỉ ngơi bình yên của Ngài. Ngài sẽ đi xa và rộng với sự thôi thúc để làm nổi giận, Giải cứu một dân tộc vĩ đại khỏi sự khuất phục. Mặt trăng và sự kiện đi sang phương Tây của một vị Thầy phương Đông. Nostradamus ám chỉ rằng ngài chỉ nghỉ ngơi vào ngày của nữ thần Diana, tức là ngày thứ Hai, ngày Mặt Trăng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Thánh nhân chính là thần chết Osiris trong tôn giáo cổ Ai Cập và Mặt trăng cũng là biểu tượng của nữ thần Isis - người vợ của ngài. Ngài sẽ giải cứu một dân tộc vĩ đại, chắc chắn đó phải là dân tộc của ngài. Tuy nhiên, thần Osiris và Isis chưa chắc chắn là người Ai Cập bởi vì rằng: còn một vùng “Đất của Thần” mà người dân Ai Cập phải vượt qua vài vùng biển mới tới được, đó là nơi nào được xác định chính xác trong lịch sử tôn giáo cổ đại Ai Cập? Các Thế Kỷ III, Khổ 94 Trong hơn 500 năm, người ta sẽ ngóng tới Ngài Ngài là vinh diệu cho thời đại của Ngài: Rồi đột nhiên, ánh sáng vĩ đại Ngài sẽ ban cho, Ngài sẽ đưa họ về thật viên mãn trong thế kỷ này. Chính pháp của Ngài giúp cho đạt được sự viên mãn. Trong 500 năm cũng đủ giúp những người không rõ cũng trở nên hiểu biết. Nữ tiên tri Vanga, Bungari Bà Vanga (1911-1996) sống ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary, bà mất thị lực năm 12 tuổi sau khi bị cuốn đi bởi một cơn lốc lớn, người ta tìm thấy cô gái nhỏ vẫn còn thoi thóp hơi thở nằm vùi lấp giữa bụi và đá, và bà làm bạn với bóng tối từ đó. Khả năng tiên tri của Vanga đạt đến độ chín năm 30 tuổi, có nhiều người tìm đến bà để xin những lời tiên tri, trong đó có cả Adolf Hitler. “Một học thuyết thông thái và cổ nhất sẽ quay lại với họ”. Người ta hỏi dì: “khi nào thì thời kỳ đó tới?” không nhanh đâu! Xiry vẫn còn chưa bị sụp đổ (câu chuyện được ghi lại vào tháng 5 năm 1979 và xin thề là tôi không biết ý nghĩa phù thủy gì bao hàm trong bốn từ cuối cùng) trang 246 Bí ẩn của các Nhà tiên tri trên thế giới, tác giả Lê Nguyễn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005 Lời tiên tri của bà đã xác định: “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại", khái niệm "nhân loại" cho thấy sự bao trùm của lý thuyết đó. Với khái niệm "Lý thuyết" thì nó phải là một hệ thống những nhận thức vũ trụ, thiên nhiên, xã hội cuộc sống và con người, có tính nhất quán, hoàn chỉnh, vừa thỏa mãn những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và phải tương thích để lý giải được các quan niệm tôn giáo với mọi vấn đề minh triết về xã hội, cuộc sống và con người. Tương lai nhân loại còn tiếp tục phát triển với sự tồn tại, phát sinh của các tôn giáo, tín ngưỡng và cả những tri thức khoa học được công nhận tính chân lý trong hiện tại cộng với tất cả những tri thức khoa học hay nói rõ hơn: Nền văn minh nhân loại còn tiếp tục phát triển trong tương lai, nhưng vẫn phải thừa nhận tính vượt trội với sự tương thích của lý thuyết này trong văn minh tương lai của nhân loại. Có nghĩa là lý thuyết này phải thỏa mãn và giải thích được cả niềm tin tôn giáo và những tri thức khoa học đã khám phá và cả những bí ẩn của vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống, xã hội và con người trong tương lai theo tiêu chí khoa học. Để thỏa mãn điều kiện này thì Lý thuyết đó phải chính là "Lý thuyết thống nhất vũ trụ", vì chỉ có một lý thuyết thống nhất mới đủ khả năng tương thích mang tính bao trùm khái niệm "nhân loại". Về phương diện lịch sử,vì là một lý thuyết cổ xưa nên nó phải đang tồn tại trên thực tế hiện đại dưới dạng nào đó từ một quá khứ xa xăm mà tri thức nhân loại chưa phát hiện được, nhưng thừa nhận những giá trị của nó đã tồn tại trong quá khứ. Nhưng văn minh phương Đông tồn tại một hệ phương pháp luận rời rạc, mâu thuẫn cục bộ giữa các mảng kiến thức liên quan đến một lý thuyết gọi là Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, vốn được coi là có cội nguồn xuất xứ từ văn minh Hán. Ngay cả các tri thức khoa học hiện đại đã cất công tìm hiểu cũng không giải thích được và đành phải coi là một sự huyền bí vĩ đại. Bởi vậy, mặc dù những cố gắng của tri thức khoa học hiện đại cho đến lúc này chưa khám phá được những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền bí, nhưng họ vẫn phải ngạc nhiên và thừa nhận tính hiệu quả của các phương pháp ứng dụng trên cơ sở phương pháp luận của một hệ thống lý thuyết có vẻ rất mơ hồ liên quan đến nó. Khoa chiêm tinh Tử vi dựa trên cơ sở ngày tháng năm sinh của một con người để dự đoán một cách chính xác có hiệu quả những hành vi của người đó trong tương lai. Phương pháp luận của khoa Tử vi hoàn toàn sử dụng những khái niệm và cơ sở lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mà trong đó tất cả các đại lượng của môn này - gọi là các sao - đều được phân loại theo thuyết này. Nó hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một phương pháp được coi là khoa học. Đông y là phương pháp chẩn trị bệnh chủ yếu bằng các loại y dược được lấy trực tiếp từ thiên nhiên. Sự bào chế thuộc từ các dược liệu này thành các loại thuốc viên rất hạn chế và cũng chỉ là sự chế tác đơn giản. Nhưng để chẩn trị bệnh và khám bệnh bệnh thì rất đáng chú ý vì phương pháp tiếp cận bệnh vô cùng bí ẩn ít nhất với phương pháp phổ biến của y học hiện đại. Nếu y học hiện đại dùng các phương tiện tối tân để chẩn trị bệnh thì trong Đông y, thầy thuốc dùng phương pháp "bắt mạch". Trong phương pháp này thầy thuốc trong dùng ngón tay cái đặt lên động mạch ở cổ tay, dưới ngón trỏ của bệnh nhân. Căn cứ vào mạch đập, cùng với các quan sát và dò hỏi hiện tượng bệnh, thầy thuốc xác định chính xác bệnh tật và căn cứ vào đó để bốc thuốc. Vấn đề được đặt ra là: Cơ chế nào để các thầy thuốc căn cứ vào mạch đập ở cổ tay liên quan đến tình trạng bệnh tật của các bộ phận trong cơ thể? Mặc dù đó là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả và lưu truyền từ hàng ngàn năm nay trong xã hội Đông phương còn đầy huyền bí trong tri thức khoa học hiện đại? Vào năm 1967, các nhà khoa học Pháp đã làm thí nghiệm cho các chất đồng vị phóng xạ vào các huyệt theo phương pháp Đông y, sau đó dùng tia phóng xạ chiếu vào cơ thể người thí nghiệm để kiểm tra. Họ đã xác định một hệ thống vận động hoàn toàn trùng khớp với các đường Kinh Lạc miêu tả của Đông Y trong cơ thể người. Tuy nhiên, tri thức khoa học hiện đại chưa tìm hiểu được bản chất của "Khí" là một khái niệm miêu tả sự tồn tại của một dạng vật chất tương tác cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể thông qua các đường Kinh Lạc đã được thừa nhận. Những cây kim dùng để châm cứu đào được trong ngôi mộ thời Tây Hán Mãn Thành, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. cách đây hơn hai thế kỷ trước Công nguyên. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Mô hình người “Kinh lạc huyệt vị bằng thủy tinh” Giáo vụ giảng dạy châm cứu file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Như vậy, những bí ẩn của Đông y đôi khi vì tính phổ biến trong ứng dụng làm người ta thấy bình thường những hiện tượng đó với cái nhìn của người Đông phương và khi nền văn minh Đông Tây giao lưu thì lại cho rằng đó là những sự huyền bí. Một cuốn sách nổi tiếng, đứng đầu trong tất cả những cuốn sách mang tính lý luận của Đông y chính là cuốn Hoàng Đế Nội kinh tố vấn. Nhưng mọi việc chưa dừng ở đây, Đông y nói riêng và tất cả các phương pháp ứng dụng các bộ môn khác bao trùm mọi lĩnh vực trong cuộc sống, sinh hoạt và xã hội đều có một hệ thống phương pháp luận của nó. Qua những sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng: Với giả thuyết lời tiên tri của bà Vanga đúng thì duy nhất có thuyết Âm Dương Ngũ Hành phù hợp và đó chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước (trích bài viết của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Vạn Hạnh thiền sư, Việt Nam Trong thế kỷ thứ X, cũng tại Bắc Ninh xuất hiện một thiền sư nổi tiếng, có đóng góp rất lớn trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam, đó là thiền sư Vạn Hạnh (938-1025), ông là cố vấn của vua Lê Đại Hành, cũng là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Vạn Hạnh chuẩn bị khai thị nhân tâm, vận động lòng dân bằng sấm truyền một cách siêu dị. Sách Đại Việt Sử Ký ghi lại rằng: Trong thời Lê Phong Đỉnh sét đã đánh lên cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Cổ Pháp (do Thiền Sư La Quí An trồng năm 936) in thành chữ: Thọ căn diễu diễu - Mộc biểu thanh thanh. Hoa đào mộc lạc - Thập bát tử thành. Đông A nhập địa - Dị mộc tái sanh. Chấn cung kiến nhật - Đoài cung ẩn tinh. Lục thất niên gian - Thiên hạ thái bình. Gốc cây thăm thẳm - Ngọn cây xanh xanh. Cây hoa đào rụng - Mười tám hạt thành. Cành Đông xuống đất - Cành khác lại sinh. Đông mặt trời mọc - Tây sao ẩn hình. Sáu bảy năm nữa - Thiên hạ thái bình. Thiền sư Vạn Hạnh đã đưa ra lời lý giải như sau: trong câu “Thụ căn diểu diểu” chữ Căn là gốc, gốc tức là vua, chữ Diểu đồng âm với chữ Yểu, thế là nhà vua (Lê Long Đĩnh) chết yểu. Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ Biểu là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ Thanh đồng âm với chữ Thịnh, thế là một người trong số quần thần (Lý Công Uẩn) sẽ lên nắm chính quyền. Ba chữ Hòa, Đao, Mộc góp lại (theo Hán tự) là chữ Lê, Lạc là rụng, tức là nhà Lê rụng. Ba chữ Thập, Bát, Tử góp lại là chữ Lý. Chữ Lý họp với chữ Thành, là nhà Lý lên. Ngày Rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 16 (tức 13 tháng 6 năm 1025), thiền sư không bệnh nhưng đã linh cảm trước được kết cục đang gần, đã gọi các đệ tử đến và đọc cho nghe bài kệ: Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Thân như bóng chớp, có rồi không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng. Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi, Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông. Sau khi thiền sư qua đời, vua Lý Thái Tổ và triều thần nhà Lý đến làm lễ trà tỳ, thỉnh xá lợi của ông về thờ tại chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh. Vua Lý Nhân Tông (1066-1127) có làm bài kệ truy tán: Vạn Hạnh dung tam thế, Chân phủ cổ sấm kị. Hương quan danh Cổ Pháp, Trụ tích trấn vương kỳ. Vạn Hạnh thông ba cõi, Lời sư nghiệm sấm thi. Từ làng quê Cổ Pháp, Chống gậy trấn kinh kỳ. Trong bài thơ tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh luận ra chữ “Lý” và sự lên ngôi của vua Lý Công Uẩn, tuy nhiên chữ Lý cũng đã xuất hiện trong những dự ngôn của các nhà tiên tri của Trung Quốc. Như vậy, “Lý” có thể mang nghĩa kép là biểu tượng của vị Thánh nhân trong tương lai. Tiên tri tương tự cũng đã được Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhắc lại trong cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, tại Hồi 29: “Tùy Dượng Đế hai viện xem hoa - Chúng phi tần một thuyền chơi biển” với ba câu kệ sau đây: Đuôi trâu, đầu cọp. Binh đao loạn lạc, Ai sẽ làm vua, con người thợ Mộc. Nếu lấy chữ “mộc” với chữ “tử” là con mà đặt chữ “mộc” trên, “tử” dưới thì là chữ “Lý”. Sấm Trạng Trình, Việt Nam Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), quê ở làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Nhờ hiểu rõ thuyết Âm Dương Ngũ hành và Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri số một” của Việt Nam và người Trung Quốc coi là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông đã sáng tác những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình. Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Buổi lễ tổ chức vào ngày mồng 10 tháng Mười âm lịch ở Văn Miếu, là ngày Tết cơm mới, ngày mà dân tộc ta có truyền thống hướng về tổ tiên. Ngày diễn ra lễ kỷ niệm, trời lại mưa, từ 7h sáng trở đi mưa rất to nhưng đến khoảng 8h30 thì trời tạnh, không khí, khung cảnh ở Văn Miếu sạch sẽ, thoáng đãng. Sau đó trời nắng lên rất đẹp. Buổi lễ bắt đầu vào giờ Tỵ, trong buổi lễ điều cảm động nhất là khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thắp hương thì bát hương bùng cháy lớn, lửa của bát hương hóa rơi vào 4 chén rượu thờ cùng bốc cháy (tham khảo bài viết Sự trở lại của Sấm Trạng Trình, tác giả Lã Xưa). Bản đồ chẳng sót cho ai, Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn. Vững nền vương cha truyền con nối, Dõi muôn đời một mối xa thư. Đoạn thơ nói về hệ thống bản đồ, mật ngữ… được xem là những bức thư của các vua Hùng gửi lại cho hậu thế, làm bằng chứng của một thời kỳ lịch sử huy hoàng. Xem tượng trời biết đường đời trị, Ngẫm về sau họ Lý xưa nên. Dòng nhà để thấy dấu truyền, Ngẫm xem bốn báu còn in đời đời. Thần Quy cơ nổ giữa trời, Để làm thần khí thuở nơi thị trường. Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lạc chùa Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Quy Điền, còn gọi là An Nam tứ đại pháp khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng như là dấu ấn của triều đại thịnh trị. Mặt khác, bốn báu cũng có thể hiểu là Tứ Linh: Long, Ly, Quy, Phượng hình tượng của các chòm sao thiên văn trên bầu trời, được diễn họa trên bức tranh dân gian Đông Hồ Tứ Linh. “Thần Quy cơ nổ giữa trời” Quy cũng là một trong Tứ Linh, trogn truyền thuyết dân gian có thần Kim Quy giúp cho vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa và đưa ngài xuống biển, cũng như Lê Lợi trả lại thanh gươm “Thuận Thiên” cho Rùa vàng tại hồ Hoàn Kiếm. Phong đăng, hòa cốc chứa chan, Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây. Chính cung phương Khảm vần xoay, Thực thay Thiên tử là tay trị đời... Kết hợp với đoạn thơ trên, “Chính cung phương Khảm vần xoay” sẽ hiểu là chòm sao Bắc Đẩu và chòm sao Tiểu Hùng Tinh, với Tứ Linh và “mây, mưa, sấm, chớp” vần xoay xung quanh. Tuy nhiên, phương Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc trên bầu trời ứng phương Nam dưới mặt đất “kim chỉ Nam”, do vậy phương Nam trên bầu trời có thể hiểu là phương Bắc, tức chòm sao Nam Cực - biểu tượng cho Nam Cực tiên ông Thọ Tinh. Nhìn xem phong cảnh cũng xinh, Tả long triều lại có thành đợt vây. Hữu hổ quấn khúc giang này, Minh đường Thất diệu trước bày mặt tai. Ở xa thấy một con voi, Cúi đầu quen bụi trông về hồ sâu. Ấy điềm Thiên tử về chầu, Tượng trưng Đế Thánh tộ lâu trị đời. Đoạn thơ mô tả địa thế phong thủy của khu vực Đền Hùng, ngọn núi Vạn phía bên tay trái Đền Hùng có hình như một con voi to đang quỳ chầu về. Núi Vạn hình con voi quỳ chầu về Đền Hùng Ảnh chụp tại khu vực Đền Hùng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Cửu cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo Dương đầu Mã vĩ, Hồ binh Bát Vạn nhập Trường An. Bảo Giang Thiên tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. Lê dân bào bảo noãn, Tứ hải lạc âu ca. Đoạn thơ đề cập đến quy tắc vận động tương tác của vũ trụ tới trái đất, các phương pháp ứng dụng tính toán như Huyền Không phi tinh, Thái Ất thần kinh… hết xuân rồi đến hạ, vòng quay của đất trời. “Đầu con dê đuôi con ngựa” có vẻ hàm ý cung Tốn và cung Khôn chuyển đổi tức được mở khóa, thì quân phương Nam tiến vào Trường An, kinh đô nhà Đường Trung Quốc, thời kỳ khuếch trương Phật giáo. “Bát Vạn” trùng với tên núi Bát Vạn, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nơi Bồ Tát Nguyễn Minh Không trấn yểm 80.000 cây tháp đất nung 5 tầng nhằm giúp cho quốc gia và Phật giáo hưng thịnh, đồng thời ngăn chặn sự trấn yểm hủy diệt của các thế lực phương Bắc. Như vậy, nội dung đoạn thơ nói về sự xuất hiện của “Thiên tử” cùng với cương vị của Phật? Lúc này nhân dân ca ngợi, bốn biển thanh bình. Chẳng nhẽ đấy lại là Phật Vương Di Lạc như các tiên tri của các tôn giáo mới tại Việt Nam sau này như đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương nhận định?. Trong đoạn thơ có nói đến “Bảo giang”, nếu liên hệ đến đoạn thơ nói về phong thủy Đền Hùng thì Bảo giang khả năng là sông Nhị hà tức sông Hồng. Mặt khác Giang cũng mang hình tượng con Rồng, nên hiểu là Thiên tử mang biểu tượng con Rồng, Bảo giang là con Rồng quý, là Thiên tử tức “con Trời”, vậy ông Trời hay Thượng Đế là vị nào? Trong Sấm còn có đoạn thơ khẳng định con sông Hồng: Nhị hà một giải quanh co, Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào. Khắp hòa thiên hạ nao nao, Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng? Đoạn thơ khẳng định đế đô nằm cạnh con sông Nhị hà chính là Thăng Long thành, Hà Nội ngày nay, có lẽ hàm ý nơi đây chính là đế đô của nước Văn Lang thời cổ đại, bởi vì trong những khổ thơ đầu, tác giả đã đề cập đến vua Lạc Long Quân. Một cơn sấm dậy đất bằng, Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh. Lược thao văn vũ tài tình, Mới hay phú quí hiển vinh lạ lung. Tam Công gập hội vui mừng, Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông. Bõ khi chém rắn vẽ rồng, Bõ khi non Bắc ải Đông mịt mù. Bõ khi kẻ Việt người Hồ, Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường. Đoạn thơ mang ý nghĩa chính phương Bắc và phương Nam có cùng chung một nguồn gốc, nếu chúng ta xem lại truyền thuyết Hồng Bàng Thị và nội dung một số gia phả khác, thì Vua Đế Minh giao cho người em sinh đôi là Đế Nghi làm vua phương Bắc - Bắc sông Dương tử và con trai cả Kinh Dương Vương làm vua phương Nam - Nam sông Dương Tử. Cả hai người lập lời thề trên núi Thiên Đài, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, dấu vết nay vẫn còn (tham khảo bài viết Biên cương nước Việt cổ, tác giả Trần Đại Sỹ). Hiệu xưng “Thiên hạ Thái Bình”, Đông Tây vô sự, Nam thành quốc gia. Nam thành quốc gia chính là nước Việt Nam, tuy nhiên hiệu xưng “Thiên hạ Thái Bình” có thể nói về hiệu của vị Thiên tử là “Thái Bình”. Ô hô thế sự tự bềnh bồng, Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. Hổ ẩn trên non mao thấy trắng, Kinh ngoi ngoài biển huyết loang hồng. Gà kêu cây ngọc nghiêng trời Bắc, Trâu đến lam điền Nhật chính Đông. Đến khi ưng về sư tử dậy, Thái bình mới tỏa khắp non sông. Nam Bắc thông điều này chỉ được mở ra khi hai cung Tốn Khôn chuyển đổi tức trước đây bị khóa “Tịch Địa”, ý này cũng được giải thích trong đoạn thơ về độ số 2 cung Khôn (Rắn) và độ số 4 cung Tốn (Dê). Khi sự thật hai cung này bị sai số, thực sự làm cho nhiều người bất ngờ nhưng vẫn còn bảo thủ, khó chịu về việc này. Rồng nằm bể cạn dễ ai hay, Rắn mới hai đầu khó chịu thay. Ngựa để gác yên không ai cưỡi, Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây. Chỉ đến khi Thánh nhân xuất hiện, giống như con chim ưng (chim đại bàng thường được biểu tượng cho phương Bắc, mùa Đông qua những bức tranh thủy mặc phổ biến Đại Bàng - Tùng) và sư tử thuộc cung Càn trong Hậu Thiên Bát quái, hình ảnh của “ông Trời”, thì thái bình tỏa khắp đất nước Việt và theo như nội dung toàn bài Sấm Trạng Trình, thì ảnh hưởng tới toàn thế giới. Vậy thời gian nào Thánh nhân sẽ xuất hiện? Chờ cho động đất chuyển trời, Bấy giờ Thánh mới nên trai anh hùng. Dù cho ai chửa biết tường, Nhất thổ thời sĩ Khảm phương thuở này. Ý ra Lục Thất gian nay, Thời vận đã định tuần này hưng vương. Trí xem nhiệm nhặt cho tường, Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở này. Ngày Thiên tử xuất hiện chính là “động đất chuyển trời” nhưng rất khó hiểu. Tuy nhiên, Trạng Trình lại có đoạn thơ: Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ, Hưng tộ diên trường ức vạn xuân. Đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm, Sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân Như vậy, thời điểm Thánh nhân xuất hiện có thể được xem là trùng khớp tiên tri của dân tộc Maya tức năm 2012 bởi năm 1991 là năm kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, so với năm 2012 cách đúng một con giáp. Ông còn tiên tri thêm: Sau ta hơn nữa tám đời, Khắp nơi binh lửa, nơi nơi chiến trường. Ngưu giang hợp với Bảo giang, Đại nhân chính vị bốn phương một nhà. Cùng thời gian này, sẽ xuất hiện một Đại nhân cùng với Thánh nhân “Bảo giang” với ngụ ý “Ngưu giang”? Chúng tôi sẽ minh chứng trong các chương sách sau. Cuối cùng, xuất hiện một sự kiện hy hữu, vào dịp cuối năm 2010, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn, nhà ngoại cảm mọi người đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. Sách lịch sử, văn hóa, khoa học trên thế giới Kinh Dịch Cùng với những dự ngôn khác nhau, thì lời tiên tri của tiền nhân cũng được ghi chép lại trong cuốn Kinh Dịch, do Khổng Tử san định, đây một trong những cuốn sách thời cổ đại còn lưu giữ cho tới nay. Thuyết quái truyện vốn được không ít các học giả cho rằng mang tính dị đoan. Điều này được thể hiện ở nhiều cuốn Kinh Dịch Việt ngữ đã bỏ không dịch Thuyết quái. Tuy nhiên, Tiết 5 của Thuyết quái lại được coi là sự bảo chứng cho cấu hình Hậu thiên Bát quái, vì tính trùng khớp với thứ tự thuận chiều của nó. Tiết 5 - Thuyết Quái viết: “Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Chí dịch hồ Khôn. Duyệt ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Kiền. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn”. Sự trùng khớp theo thứ tự thuận chiều với đồ hình Hậu thiên Bát quái theo cổ thư chữ Hán bắt đầu từ quái Chấn như sau: Hậu thiên Bát quái Trích Kinh dịch - Đạo của người quân tử, dịch giả Nguyễn Hiến Lê. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Nhưng với sự diễn đạt ở trên thì nội dung Thuyết quái không trực tiếp thể hiện cấu trúc phương vị Hậu thiên Bát quái. Nghĩa đen của Tiết 5 - Thuyết quái chỉ có thể hiểu là: Đế xuất hồ Chấn; Vua ra cửa Chấn; Tề* hồ Tốn; Làm bằng cửa Tốn; Tương kiến hồ Ly; Gặp gỡ cửa Ly; Trí dịch hồ Khôn; Suy nghĩ chuyển cửa Khôn; Thuyết ngôn hồ Đoài; Vui vẻ cửa Đoài; Chiến hồ Càn; Tranh chấp cửa Càn; Lao hồ Khảm; Mệt nhọc ở cửa Khảm; Thành ngôn hồ Cấn. Nói xong ở cửa Cấn. * Chú thích: Tề - Động từ; tiếng cổ có nghĩa là: làm bằng, cào bằng, làm cho cùn, tà. Hiện ở đồng bằng Nam Bộ, người ta vẫn còn dùng với nghĩa trên. Như vậy, rõ ràng ý nghĩa trực tiếp của câu 2 và 4 trong tiết 5 là: san bằng cửa Tốn, suy nghĩ để chuyển cửa Khôn tức nghĩa là chuyển đổi Tốn Khôn như tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chứng minh tính hợp lý trong cuốn Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt và Tìm về cội nguồn Kinh dịch của mình. Khổng Tử miếu Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Bên trong Khổng miếu trưng bày hơn 2.000 bia đá thuộc các triều đại Trung Quốc, là một trong những rừng bia đá cỡ lớn của Trung Quốc. Trong đó, có những hơn 50 tấm Ngự bia tức bia có bút tích của vua, đã thể hiện đầy đủ địa vị cao cả của Khổng Tử trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Mặt khác, trong Tiết 5 - Thuyết quái còn nói đến “Vua ra cửa Chấn”, Chấn là phương Đông, hướng của mặt trời mọc, vậy thì “Vua” ở đây mang ý nghĩa là “Mặt Trời”… hay có ẩn nghĩa tiên tri nào khác? Chúng ta cũng sẽ được biết chính xác câu trả lời trong các chương sách sau. Chữ Khoa đẩu Một trang cổ thư của người Việt vùng Giang Nam, là một vuông chữ Khoa đẩu ngoằn ngoèo có 56 chữ. Cạnh đó là một bản chữ Nho, cũng gồm 56 chữ, hẳn là của người đời sau còn giữ hiểu được chữ Khoa đẩu dịch lại, như sau: 一 歲 兩 歲 三 歲 參。 Nhất tuế, lưỡng tuế, tam tuế tham, 一 正 兩 劃 分 頭 辦 Nhất chính, lưỡng hoạch phân đầu biện. 正 寺 上 下 靈 九 天。 Chính tự thượng hạ linh cửu thiên, 半 字 兩 遺 流 八 川。 Bán tự lưỡng di lưu bát xuyên. 潛 字 左 右 留 一 萬, Tiềm tự tả hữu lưu nhất vạn, 遺 字 前 後 留 五 千。 Di tự tiền hậu lưu ngũ thiên. 八 卦 倒 傳 乾 坤 定, Bát quái đảo truyền, Càn Khôn định, 天 圖 地 方 才 算 完。 Thiên đồ địa phóng tài toán hoàn. Ý người xưa muốn nhắn rằng phải bỏ công liên tục nhiều năm để học cho hiểu ký tự một vạch kẻ, hai vạch kẻ của Bát Quái vì nó rất linh nghiệm tới 9 tầng trời. Người xưa đã di lưu lại nền văn minh ở 8 dòng sông. Người xưa đã dấu lại khoảng 15.000 con chữ ẩn náu. Phải đổi ngược lại vị trí của Bát Quái thì mới đúng với qui luật của trời đất, và lúc đó cái bản đồ vũ trụ và trái đất mới coi là xong hoàn toàn. 15.000 con chữ ẩn náu chính là toàn bộ nội dung Kinh Dịch và Đạo Đức Kinh và ý nghĩa của 8 dòng sông chính là cấu trúc của Hậu Thiên Bát quái phối Hà Đồ. Bên cạnh đó còn có một bài chữ Nho, như sau: 三 皇 五 帝 春 秋 史, Tam Hoàng Ngũ Đế Xuân Thu sử, 萬 歲 天 秋 北 鬥 尊。 Vạn tuế thiên thu Bắc Đẩu tôn. 天 外 兩 星 露 中 見, Thiên ngoại lưỡng tinh lộ trung kiến, 人 間 七 子 同 時 生。 Nhân gian Thất Tử đồng thời sinh. Kèm theo có đánh dấu sự thay đổi vị trí các sao trong chòm sao Bắc Đẩu, như sau: + + + + + + + (96.000 năm trước) + + + + + + + (hiện tại) + + + + + + + (96.000 năm sau)<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Trong câu thứ nhất và thứ hai, ý người xưa muốn nhắn rằng cứ theo như cổ sử thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì muôn đời tôn thờ sao Bắc Đẩu như là một Đế Vương (sao Bắc Đẩu đang biến đổi hình dạng của nó theo chu kỳ). Câu thứ ba và bốn thì nói về nhận thức sự hòa hợp lưỡng tinh tức mặt trời và mặt trăng hay chính là Âm Dương, sẽ hiểu được sự vận động vạn vật. Lúc này, sẽ tìm ra bí ẩn của sự sống con người và lịch sử “Vua của các vị vua“ ở phương Nam (Thất là 7 là độ số của phương Nam theo Hà Đồ). Ý nghĩa này cũng tượng tự như những tiên tri khác trên thế giới về sự trở lại của một vị Thánh nhân vĩ đại. Sự đánh dấu chu kỳ 96.000 năm ở trên, có lẽ nói đến một chu kỳ lớn hơn gọi là Đại Nguyên 129.600 năm, mà thế giới chúng ta đang ở trong khoảng thời gian đó (trích bài viết Chữ Khoa đẩu, tác giả Lãn Miên). Tây Du Ký Trong cuốn Tây Du Ký, tại Hồi 66: “Các thần gặp độc thủ, Di Lạc trói yêu ma, tác giả đề cập tới hội Long Hoa, còn được gọi là “Đại hội quần Tiên” mà giáo chủ là Đương Lai Tôn Phật Di Lạc - Di Lạc Phật Vương. Ngài sẽ là vị Phật Thứ Năm chuyển luân từ Phật Thích Ca Mâu Ni trong tương lai. Trong hồi này có nói Đại Thánh tới núi Vu Thai, Nam Thiệm Bộ Châu nhờ Quốc Sư Vương Bồ Tát. Dưới tay có Trương Thái Tử và bốn đại tướng. Bài thơ nói về Trương Thái Tử: Quê hương là nước Lưu Sa, Cha ta vốn dĩ chính là quốc vương. Ấu thơ lắm bệnh khôn lường, Mệnh phạm Hoa Cái nhiều phương giữ mình. Theo thầy học phép trường sinh, Ơn duyên nên gặp thuốc linh tuyệt vời. Đan sa nửa hạt bệnh lui, Tu hành từ đấy, lên ngôi chẳng bàn. Thọ ngang trời đất vô vàn, Mà người vẫn trẻ như chàng thiếu niên. Hội Long Hoa đã dự tên… Tác giả cũng hàm ý sẽ dự tham dự Hội Long Hoa như những dự ngôn truyền trong dân gian, cũng như các tôn giáo từ xưa tới nay. 3.000 năm một kiếp luân hồi Chúng ta cùng tham khảo một phần nội dung từ cuốn sách 3.000 năm một kiếp luân hồi, nguyên tác Jonathan Cott, dịch giả Thích Tâm Quang: Có một cuốn sách bằng giấy cói papyrus từ thời Ptolemy (304-30 tr.CN) nói rằng các Thần tức giận Ai Cập bỏ nước ra đi, vì lẽ đó chim hạc, hoa sen và cây cói đều biến mất và Ai Cập bị ngoại bang thống trị cho đến khi các Thần tha thứ mới thôi. Lúc đó, chim hạc, hoa sen, cây cói mới trở lại và người Ai Cập sẽ tự mình cai trị nước mình. Khi Bá Tước Cromer, Đại sứ Anh tại Cairo, người nắm giữ mọi quyền hành đằng sau ngai vàng ở tiền bán thế kỷ, nghe được chuyện về cuốn sách này đã ra lệnh đốt hết… Bấy giờ, tôi còn ngụ tại Giza, trong số láng giềng của tôi có một người Anh và người em gái của ông, cả hai đều chưa lập gia đình. Ông này có một vườn xoài ở phái Bắc các Kim tự tháp nằm trên đường Alexandria. Một hôm ông đến thăm tôi và cho biết: “Cô có biết gì không? Tôi trông thấy một bông hoa sen xanh trên con kênh”. Tôi nói là không khi nào có được, nhưng ông ta quả quyết đó là sự thật. Lần sau đến thăm tôi, ông đã mang đến cho tôi một bông. Sau đó không lâu, tôi cũng nghe nó chim hạc đã xuất hiện ở phía Nam Luxor. Và ngay sau đó, cói cũng đã mọc lên tại đồng bằng sông Nile. Đến năm 1953 cuộc cách mạng bùng nổ, Ai Cập giành lại được độc lập. Theo lời tiên tri của Ptolemaic thì Horus sẽ trị vì Ai Cập, rồi đến Osiris. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thuần phục. Tôi tin đều đó sẽ đến, không phải ngay lúc này, mà phải một thời gian nữa… ngày đó sẽ đến. Omm Sety thường nói với tôi dưới đất Ngôi Đền Sety có một kho tàng đang chờ khám phá và một tài liệu độc nhất vô nhị đang chờ được ráp nối lại. Đó là Nhật ký của Vua Sety được viết trên giấy cói đã hơn 3000 năm qua, giờ đây hẳn đã rời ra từng mảnh hay không chừng thành nhiều mảnh vụn li ti… Omm Sety nhấn mạnh là tài liệu và kho tàng này là có thực, không phải nghi ngờ gì nữa vì lẽ ở ngay trên các bức tường của Ngôi Đền cũng còn khắc những dòng chữ cho biết cả hai thứ đó đều được chôn dấu ở một nơi nào đó trong ngôi đền… Có lần tôi hỏi quan trọng như thế nào? thì Bà trả lời: “Tôi cho rằng việc tìm ra Biên niên sử là khám phá vĩ đại nhất vì trong đó ghi mọi biến cố trong thời gian khủng hoảng nhất của lịch sử Ai Cập. Biên niên sử này được dấu trong triều Đại Vua Ptolemy Đệ Tam (246-221 tr.CN) khi vua này hạ lệnh tất cả các đền trong Ai Cập phải nộp hết sách cho thư viện vĩ đại Alexandria. Không còn chút nghi ngờ, tất cả các sách vở đều phải nộp cho thư viện này, có thể vài bài ca ngợi các vị thần Ptolemaic, vài cuốn Sách về người chết, vài quyển thánh ca là hoàn toàn không cần thiết. Những sách quan trọng thì được dấu biệt.”. Bà Omm Sety khẳng định về sự phục sinh của thần chết Osiris sẽ xảy trong thời gian sắp tới, và các quốc gia trên thế giới đều thuần phục trước ngài. Ai Cập huyền bí Chúng ta hãy cùng xem xét đoạn trích Chương XVIII. Tôi gặp một vị Chân sư của cuốn Ai Cập huyền bí, nguyên giả Paul Brunton, dịch giả Chi Lan và Lê Tuyên, Nxb Tổng hợp T.p Hồ Chí Minh, 2004: Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đã gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi vì tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố, và bởi vì những điều ấy có thể làm cho cái thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quý độc giả. Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại. … Tôi vừa quay lại, và đi vài bước thì chính lúc đó, tôi nhìn thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc. Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi bé, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu ngắn. Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nhìn thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi. Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương phản rõ rệt với tròng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục. Chúng tôi im lặng nhìn nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng. Một bộ phận nào bí mật thình lình hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác hình như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm. Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh. Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Đông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu gì để vào đề, thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói: - Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài. Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên: - Phải tôi hiểu. Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, vì điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng. Đôi mắt của dị nhân lại nhìn tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói: - Chính tôi đã có ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy. - Ngài muốn nói chi? - Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã. Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đã nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nhìn vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác. Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu. Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Đôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói: - Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài. - Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đã điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên tình cờ, trước hết đã ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta. Tôi lắng nghe, mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững tình hình. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người co mộtù trình độ tâm linh cao cả như thế. Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả. Người còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị Chân sư. Người nói: - Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một Chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai. Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm. Tôi cảm thấy dị nhân nói có lý. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị Chân sư đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền diệu của cõi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết. Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong vòng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đệ tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử. Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian. Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động. Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ: - Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton. Tôi thụt lùi vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài: - Tôi có thể được biết quý danh của ngài chăng? Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa. Tôi nhìn gương mặt cao quý của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói: - Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ra-Mak-Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu ý nghĩa của nó. Theo tôi nó nghĩa là “Bình An”. Xứ sở Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thế giới. Tôi đã từng chu du khắp năm châu bốn biển. Tôi có thân xác người phương Đông, nhưng còn tinh thần thì không thuộc về một miền nào duy nhất và trái tim tôi chỉ thuộc về cảnh “Thanh Bình”. Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi. Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rõ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một trình độ tâm linh và giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hiện giờ. Ngài nói một cách thành thật, và thậm chi cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nile, trong đền thờ Louqsor. Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy. Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt Chân sư, vì cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn. Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trượt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn lên đỉnh đồi hùng vĩ. Chân sư Ra-Mak-Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó? tuy "rất bận rộn," nhưng ngài vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng? khi màn đêm buông xuống bao phủ trọn dãy đồi Lybie. Chân sư với cái tên Ra-Mak-Hotep chắc chắn không phải là Thần mặt trời Ra vì tên Ra đã đặt trước, trong đoạn văn nói đến cảnh “Thanh Bình”, hay cũng có thể xem cung Bảo Bình trong thiên văn Ai Cập mang ý nghĩa hòa bình. Tuy nhiên, với quý danh của chân sư được lý giải nhẹ nhàng và có lẽ, ngài không phải là người Ai Cập. Điều này nảy sinh sự hoài nghi: các thần thánh Ai Cập đến từ mảnh đất khác, mà truyền thuyết ghi nhận về “đất của Thần” ở phương Nam mà đội thuyền Ai Cập phải vượt vài vùng biển mới tới nơi. Hành trình về phương Đông Theo Hành trình về Phương Đông, tác giả Blair T.Spalding, dịch giả Nguyên Phong, Nxb Hồng Đức, có đoạn: Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền xứ Ấn đã làm cho phái đoàn phấn khởi, nhưng còn các bậc Chân sư thì họ như thế nào? Tại sao một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn? Đây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc mắc. Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc Chân sư không? Những vị này ở đâu? Giáo sư Mortimer đã hỏi giáo sư Kavir, và ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dãy Tuyết Sơn và có kiến thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn tìm đến đạo sĩ này, đó là một ông lão gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười. Giáo sư Mortimer nôn nóng : - Theo lời truyền tụng thì ông đã có dịp tiếp xúc với các đạo sĩ Tuyết Sơn? Đạo sĩ xác nhận : - Đúng thế, tôi đã có dịp gặp gỡ các bậc Thánh nhân đó. - Ông tin rằng họ là những Thánh nhân? - Dĩ nhiên, không những tôi tin mà còn biết rõ họ là những bậc hiền giả. - Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy? Họ có biểu diễn quyền năng hay làm gì khác người không? Liệu có thể có những bậc siêu nhân như vậy không? Đạo sĩ gật đầu: - Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp lý, nếu ta tin các luật Luân hồi, Nhân quả và Tiến hoá. Nếu quan sát, ta sẽ thấy con người đều có các trình độ khác nhau. Có người kém ta rất xa, có người lại hơn ta rõ rệt. Nếu nhân loại tuần tự tiến hoá thì trải qua nhiều kiếp sống, và thời gian, tất phải có những người đã tiến bộ rất xa chứ. Theo tôi biết, đã có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đã khai mở một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi cơ hội khai mở, khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rõ các nấc thang tiến hoá của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đã có kẻ đạt đến. Lịch sử các quốc gia đều chứa đựng công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi lãnh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đã vượt xa quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời, thí dụ như các bác học, các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị vì sự sống vô cùng cần được biểu lộ qua hình thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lý do sự kết tinh đến mức tuyệt đỉnh của một con đường tiến hoá dài và liên tục. Tất cả kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân. Mọi tôn giáo khi thành lập đều có các bậc Thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần linh như Brahman, Vishnu, Shiva hoặc các Đấng cao cả như Krishna, Sancharacharya. Tín đồ Phật giáo thì có đức Phật Thích Ca, đức Quan Thế Âm. Tín đồ Thiên chúa giáo thì có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc Thánh. Các bộ lạc man dã cũng có các thần linh riêng của họ. - Xin ông giải thích rõ hơn về sự tiến hoá này? - Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đều thay đổi theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm còn tùy cá nhân và hoàn cảnh xung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú sau thảo mộc, và loài người tiếp theo loài cầm thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói cách khác, trên loài người là đời sống Siêu nhân loại. Trong mỗi con người có ba phần chính: xác thân, linh hồn và tinh thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân ngã, Thần tính v.v... - Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này? - Đây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện, tôi ý thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Đức Phật đã nói: “Mọi chúng sinh đều có Phật tính.”. Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần: xác, hồn, thần... Sự tiến hoá là trở về với Thượng Đế, trở về với con người thật của mình, phát triển Phật tính của mình trọn vẹn, để giác ngộ. Danh từ tuy khác nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với Thượng Đế nghĩa là trở về với Ngài vì chúng ta đều là một phần của Ngài. Theo sự hiểu biết của tôi về luật Tiến hoá thì với con người, Thể xác họ đã phát triển khá hoàn hảo, nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đã chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lý trí và linh hồn. Một người kém tiến hoá là người còn nhiều thú tính, chỉ lo nghĩ đến các đòi hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính. Chính vì thế, họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác thân. Thế gian là một trường học mà trong đó có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị được xác thân là người tuy đã kiểm soát được hành động của xác thân, nhưng vẫn còn để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưởng phải theo một đường hướng suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát Thể vía. Sau đó là kiểm soát Thể trí, nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Định trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính, đúng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba là thể xác, thể vía và thể trí hoàn toàn được kiểm soát thì ta sẽ hòa hợp với Chân ngã. Từ đó, phàm nhân và chân nhân hoà hợp làm một, con người sẽ tiến hoá đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc Chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời sống của đấng Thượng Đế. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. - Ông tin rằng tất cả đều tiến tới đời sống đó? - Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược dòng tiến hóa, nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của mình, nhưng không thể chặn đứng được dòng tiến hoá của nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi dòng, ngược dòng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng dòng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước sau gì thì ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận Thiên ý là bơi xuôi dòng, nghịch Thiên ý là ngược dòng. Đa số con người thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc chìm đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược dòng, có khi lại xuôi dòng vì chưa ý thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo. - Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo? - Chính vì con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh nhân chỉ bảo, hướng dẫn. Sự hiện diện của các bậc như Đức Phật, Đức Chúa, Đức Krishna... và các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ thích nghe những ai nói thuận ý mình, đúng với điều mình mong ước, chứ không thích những điều đúng sự thật, không thích bị đánh thức... - Làm sao mình có thể biết được đâu là “đúng sự thật”? - Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm gì? Tại sao không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp? - Ông muốn nói đến con đường Đạo? Làm sao ta có thể bước vào cửa Đạo? Đạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười: - Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa Đạo. Nhân duyên thứ nhất là gần gũi, tiếp xúc, thân cận với những bậc thiện tri thức, những người đang đi trên đường Đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị đạo sư, giám mục, một người bề trên có kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Ta hết sức khâm phục và thiết tha mong rằng mình sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài bão như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp Đạo trong kiếp sau. Nhân duyên thứ hai là nghiên cứu sách vở, nghe giảng giải về đạo lý. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn tìm hiểu và đi sâu vào Đạo nhiều hơn, dĩ nhiên khi hiểu biết, ta sẽ thay đổi đời sống để cho nó có ý nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường Đạo. Nhân duyên thứ ba là sự mở mang trí tuệ, vì một lý do nào đó, ta nhận thức những việc xảy ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta suy ngẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra chìa khoá mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lý. Đây là con đường tu Thiền mà các ông đã nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân, làm những việc thiện, mở rộng lòng bác ái, quên mình để giúp đỡ mọi người và dần dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng tâm hồn ta. - Xin ông cho biết thêm về các bậc Siêu nhân mà ông đã từng tiếp xúc. Bakhtir mỉm cười, vuốt nhẹ chùm râu bạc: - Tôi đã gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đã sống nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Điều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với quan niệm khác hẳn chúng ta vì trong tư tưởng các ngài không còn một chút ích kỷ như đa số chúng ta. Các ngài đã loại trừ bản ngã thấp hèn, không còn sống cho mình mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài còn phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Đa số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến trình độ cao tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến trình độ cao tột trên một phương diện nào đó thôi, và còn nhiều khía cạnh khác chưa được hoàn hảo. Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và phát triển không đồng đều. Các bậc Siêu nhân là người đã phát triển toàn vẹn mọi đặc tính trên phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Phần lớn các vị Siêu nhân đều có hình dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đã sống nhiều thế kỷ mà trông vẫn khoẻ mạnh như một người ngũ tuần. Tôi đã gặp một vị đạo sư sống hơn 2.000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong lòng núi. Viện cổ tàng này chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại dấu tích toàn thể lịch sử tiến hoá của nhân loại. Trong đó có chứa đựng các hình thể của nhiều giống người đã sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemura đến các loài người khổng lồ từ thời xa xưa. Có các mô hình diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa cầu sau các thiên tai, cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa. Có các bản thảo bút tự rất cổ của những bậc đạo sư, giáo chủ, như có một bản viết của chính Đức Phật khi Ngài còn là Thái tử Siđharta. Có các ngăn tủ bằng gỗ lim kiên cố chứa các tài liệu giáo lý nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ lùng của những nền văn minh đã biến mất từ lâu. Ngoài ra còn có các bản đồ, mô hình các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất cổ xưa... Giáo sư Mortimer lên tiếng: - Ông có nhớ chỗ đó không? Làm sao có thể đến nơi đó được? Đạo sĩ nghiêm nghị: - Dãy Hy Mã Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ dàng vì nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các tinh linh canh giữ, phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được. - Nhưng tại sao các bậc Siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người? Cất dấu như thế có lợi gì đâu? - Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ, chả khác nào ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn, ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu các tài liệu đều có lý do mà ta không thể nghĩ bàn được... - Theo thuyết tiến hoá ông vừa trình bày, thì trên con người còn có một đời sống siêu nhân, và như thế hẳn còn các bậc cao cấp nữa? Bakhtir bật cười một hồi rồi mới trả lời: - Các ông vẫn còn quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước... Một khi đã giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử, trở nên một bậc Chân tiên thì thánh đạo chia ra làm bảy con đường cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của tôi còn nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ có thể cắt nghĩa một cách sơ lược. Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, các cảnh giới này có tên gọi như: Thượng thiên, Phi tưởng xứ, Phi phi tưởng xứ, Niết bàn... Sau khi bước vào các cõi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển kiếp xuống trần gian trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ. Đây là con đường Dharmakaya. Các ngài có thể bước vào trạng thái tâm linh với một ý nghĩa huyền bí mà tôi không biết rõ, đây là con đường Sambhogakya. Các ngài có thể hoà hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các công việc hợp với định luật vũ trụ, đây là con đường Nirmanakya. Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại, dưới hình thức một vị Bồ Tát, đây là con đường Bồ Tát Đạo (Boshivartakya). Những con đường khác ra sao, tôi không được biết rõ. Theo sự hiểu biết của tôi thì số người giải thoát đã ít, mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian còn ít hơn. Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một Đức Chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất được gọi là Di Lạc Bồ Tát. Bakhtir im lặng một hồi rồi tuyên bố: - Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rõ hơn điều tôi muốn nói. Thật ra các điều này đã được tiên đoán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ tàng ngầm dưới lòng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ gìn rất cẩn thận. - Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây Tạng vẫn còn chính sách bế môn toả cảng, không giao tiếp với bên ngoài, nhất là với người da trắng? Bakhtir mỉm cười bí mật: - Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi. Sự hiện diện của các ông tại xứ Ấn không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt mấy năm đi sưu tầm chân lý mà có thấy gì đâu, có đúng không? Đó chẳng qua chỉ là một thử thách mà thôi. Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông đã tiếp xúc với các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn Độ và được tiết lộ những điều chưa từng công bố cho một người Âu nào? Nếu không có thông điệp của một vị Chân sư thì làm sao các ông gặp được những người mà ngay cả tín đồ thuần hành nhất xứ Ấn cũng không dễ gì gặp được. Trong một xã hội đầy dị đoan, mê tín, hình bóng chân lý gần như phai mờ, người dân xứ này muốn còn phải mất công, thế mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng. Có bao giờ các ông tự hỏi tại sao không? Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người Ấn, vì hệ thống dị biệt, nhưng các ông đã gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các ông đã vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không chân chính để tìm gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo. Đó không phải là việc dễ dàng, có thể các ông không biết, nhưng các ông đã vượt qua những thử thách phi thường. Tây Tạng không bao giờ đón nhận một du khách bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ, vì các ông được che chở bởi một vị Chân sư. Các ông sẽ lãnh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hãy quay về phương Đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để tìm kiếm một chân lý mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức gì mới lạ. Nhưng để hiểu biết rằng chân lý luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đường khác nhau đưa đến chân lý. Toàn thể phái đoàn yên lặng nhìn nhau, quả là chỉ một thời gian ngắn họ đã gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lý quý báu. Đó không phải một may mắn tình cờ mà như có sự sắp đặt trước. - Ông biết rằng có một vị Chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi? - Đúng thế! Tôi biết rõ chuyện này nên các ông mới có thể gặp tôi hôm nay. Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong các ông đã từng học Đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn Độ dưới bộ da người ngoại quốc. Tuy nhiên, các ông không nhớ những điều đã học. Nhưng khi nhân duyên đến, các ông sẽ phục hồi ký ức. Định mệnh đã dẫn dắt các ông trở lại Á Châu để hoàn tất một sứ mạng cao cả... Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Lòng ao ước gặp vị Chân sư bí mật gia tăng. Giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu: - Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp Ngài? - Thời gian không còn lâu nữa, đến khi đó các ông sẽ biết. Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi. Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng: - Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công? Đạo sĩ bật cười: - Điều này đâu có gì lạ. Chỉ là một phương tiện di chuyển tầm thường, nhỏ mọn mà thôi. - Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được? Bakhtir mỉm cười gõ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân hình ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô hình kéo lên. Ông ta vẫn ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động. Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy họ đã chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung là một điều lạ lùng, ngoài tưởng tượng. Đạo sĩ bỗng xoay mình, thân thể ông bỗng như một cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đã xa cách phái đoàn đến mấy chục thước. Đạo sĩ nói vọng lại: - Này các ông, tại sao con người lại phải bò lết trên mặt đất? Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú thì y phải bay cao hơn chim, lội nhanh hơn cá chứ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm duy vật về bản chất của mình? Tư tưởng của y nghĩ rằng mình chỉ có thể đi được mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô lệ. Nếu biết rõ mình và phát triển khả năng của mình một cách đúng đắn, họ có thể làm hầu như mọi chuyện. Đạo sĩ lao mình vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ qua mấy phút ông đã mất hút, chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động, không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được. … Giáo sư Mortimer run giọng: - Vậy theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ XX này? Sudeih Babu - Nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn Độ im lặng suy nghĩ một lúc rồi trả lời: Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cùng thuyết “Tiến hóa” của Darwin, và phong trào Thiên Chúa giáo tự do. Từ đây băt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. CÓ hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ XX bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết Duy vật. Con người bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà như cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách mãnh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thức đẩy sự tiến hóa tâm linh. Cuối thế kỷ XX, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tương nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các ông bạn, bạn là những người đi tiên phong. Trước khi một sự phổ thông “Bí giáo” được thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nảy mầm. Đó là lý do các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí phương Đông. Tác giả viết rằng: hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một Đức Chưởng giáo tương lai, mà danh từ chính xác nhất được gọi là Di Lạc Bồ Tát và sự phổ thông của Bí giáo được thực hiện giúp cho nhân loại tiến bộ torng lĩnh vực tâm linh. Hội Thông Thiên Học Người lập ra hội Thông Thiên Học hàng đầu của thế kỷ XIX, bà Blavatsky (1831-1891) đã tiên đoán rằng đức Di Lạc sẽ lộ diện tại Á Châu trong khoảng năm 1950: “chúng ta đang ở trong giai đoạn cuối của chu kỳ 5.000 năm của thời kỳ Mạt pháp (Kali-yuga) hay là thời kỳ hắc ám, sau thời kỳ này là thời kỳ ánh sáng. Một sứ giả tâm linh mới sẽ được gởi đến các quốc gia phương Tây với một thông điệp tinh thần hoàn toàn mới lạ.”. Các tác phẩm quan trọng nhất của bà Blavatsky bao gồm: Những học thuyết bí ẩn, Nữ thần Isis lộ diện… Họ là những người được kính trọng, những người đã truyền cảm hứng cho việc tìm kiếm xã hội Thần bí vào năm 1875 ở New York. Qua người đại diện H.P Blavatsky, họ đã được thực hiện một bước khác trong kế hoạch chủ yếu của mình để nâng cao trình độ cho con người và đánh dấu sự khởi đầu cho một thời đại Hoàng Kim. Ở thời đại của chúng ta, kế hoạch này đòi hỏi sự đi xuống từ dãy Himalaya và sự xuất hiện trong thế giới bởi những bậc thầy vị tha bất tử, đã được dẫn dắt những bậc thầy đó không phải ai khác hơn là Thánh Di Lạc (Maitreya), bậc thầy của những bậc thầy, bậc hiền nhân của nhân loại trong kỷ nguyên mới. (trích cuốn Tiếng gọi của mặt trời, tác giả Surya Green, dịch giả Nguyễn Kim Dân, Nxb Từ điển Bách khoa, 2009). Cờ Phật giáo Tác giả Henry Steel Olcott, Hoa Kỳ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Người phác họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey - Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891) để viết bài về những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New York, hai người đã gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo. Ngoài ra, trong hội Thông Thiên Học, còn có ngài Ziddu Khrisna Murti (1895-1986) triết gia Ấn Độ, với biệt danh người trầm tưởng vĩ đại. Khrisna Murti được các người thuộc hội Thông Thiên Học tôn sùng như hóa thân của Phật Di Lạc, nhưng sau này ông đã quyết liệt từ chối danh xưng trên và đã rời bỏ hội. Những lời tiên tri đã ứng nghiệm trong thực tế Câu chuyện kể về cuộc đời “Phật Sống” Lưu Công Danh giống như một huyền thoại. Ông sinh ngày 29/12/1900 tại tỉnh Kiên Giang, Việt Nam và hóa vào ngày 31/5/2003. Cuộc đời ông trải qua bao thăng trầm, từ việc ra đi tìm kế sinh nhai, có cơ duyên lập gia đình với người vợ Ấn Độ, sau đó đi tu thành Phật (năm vào rừng 1934, năm ra khỏi rừng 1939, cũng năm này ông về Ấn Độ và năm 1941 sang Campuchia trụ trì ở chùa Prệp Pra), du hành qua nhiều quốc gia và quay trở về tổ quốc. Ông là người thứ ba đắc quả vị Phật Sống tại ngôi chùa Tây Phương, chính tay Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni cùng các đệ tử xây dựng hơn 2.500 năm trước, trong khu rừng già xứ sở Ấn Độ. Ông đã thông linh trực tiếp với Đấng Tam Tông, hỏi về tình hình cá nhân mình, của Việt Nam và thế giới, và nghe những bài thuyết pháp chính từ Đấng Tam Tông (Đấng lo tôn giáo cho loài người) hết sức cụ thể, đến từng chi tiết xảy ra trong tương lai. Sau đây là nội dung tiên tri: Tiên đoán số phận Phật Sống Khi đi gần 6 năm, khi về độ hai năm vì ngươi ghé lại các chùa và nhờ sự giúp đỡ đưa đón của các chùa, chỉ đường cho ngươi đi nhanh, đức tin giúp cho ngươi có sức mạnh. Về đến nước Ấn Độ, hai năm sau đó chính quyền Anh đưa ngươi về Anh quốc vì sợ uy tín của ngươi động viên dân Ấn đòi dộc lập. Sang Anh quốc, ngươi được bảo vệ chu đáo, ăn ở sang trọng nhưng bị biệt lập. Ở Anh quốc hai năm, ngươi nhờ chính phủ Ấn can thiệp cho ngươi về một quốc gia có biên giới liền với nước ngươi được sinh ra. Ở vương quốc này, ngươi được vị vua cất cung điện cho ngươi và được tôn vinh vì sự thành chính quả của ngươi là Đức Phật Sống. Lục vua của nước này cũng được cá chùa ở Ấn báo tin sự đắc quả của ngươi thành Phật Sống. Các chùa này cũng mong nhà ngươi đến thuyết pháp. Các chùa đã báo tin cho các chùa lớn torgn toàn quốc. Ngươi ở lại vương quốc này cho đến khi nước Việt Nam có chính kiến đòi độc lập với Pháp, ngươi phải trở về nước tham gia vào việc chống ngoại xâm. Sau đó ngươi được gặp lại người vợ ở Ấn. Tiếp đó ngươi được cử qua một nước ở Châu Âu để học quân sự hơn một năm. Tại nơi học, tâm linh của ngươi đã được báo trước nước này sẽ có chính biến lớn đổi thay cả màu cờ, cả khối tan rã. Ngươi đem việc này ra nói với với người cùng học. Sau đó ngươi được cho về nước với lý do học kém vì sợ ảnh hưởng đến ngoại giao hai nước. Về nước, đến khi nước nhà toàn thắng, ngươi được vế quê quán trở lại đời thường và và tịch diệt ở nơi hẻo lánh. Tiên đoán về thế sự Độ 4800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có trăng. Đấng Tam Tông kết luận: có con người là có tất cả, không có con người là không có gì cả. Thiên nhiên tính ôn hòa nhưng con người đang làm thái quá phá hủy quy luật ôn hòa thì sẽ bị chính thiên nhiên trừng phạt bằng hai hình thức: nóng đến cực điểm và lạnh đến cực điểm. Sự sống trên trái đất sẽ bị diệt vong hoàn toàn. Độ 10 năm nữa có cuộc chiến Á Âu lớn lắm. Sau cuộc chiến này có nhiều nước thoát khỏi cảnh sống nô lệ. Thế giới lập lại nền trật tự mới. Thế lực các nước giằng co nhau. Nước gây chiến tranh bại trận đầu hàng. Sau chiến tranh, Ấn Độ được độc lập nhưng không còn nguyên vẹn: Đông Hồi, Tây Hồi, Nepal không còn là tiểu vương quốc của Ấn Độ nữa. Còn Kashmir cũng bị chia làm ba: Ấn Độ một phần, Trung Quốc một phần và Tây Hồi một phần. Cuộc tranh giàng tại đó giữa Ấn Độ và Trung Quốc khó tránh khỏi nổ ra chiến tranh. Nhưng sau chiến tranh là hòa bình lâu dài. Còn Ấn Độ với Tây Hồi thì có sự cạnh tranh chấp rất lâu dài vì không ai nhường cho ai, người dân chịu nhiều đau khổ. Phải chờ đến khi tổng thống Tây Hồi là người Ấn Độ sinh ra tại Tây Hồi, như tiền định. Vì nhớ cội nguồn nên sự thù hằn, tranh chấp được giải quyết ôn hòa đi đến hòa bình lâu dài. Vì nghĩa cũ tình xưa nơi cất tiếng khóc chào đời, nhớ lại dòng sữa ban đầu rồi cơm ăn nước uống mà việc giải quyết có tình có lý êm đẹp hơn. Sau chiến tranh, Việt Nam độc lập nhưng còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh chống xâm lược xong rồi mới hoàn toàn độc lập thống nhất, được thế giới kính nể. Trung Quốc độc lập sau Ấn Độ nhưng không trọn vẹn lãnh thổ. Chế độ quân chủ bị xóa hoàn toàn. Chế độ mới vì người nghèo được thành lập. Còn Cao Miên, Ai Lao nhờ cùng Việt Nam đứng lên chống xâm lược nên cũng được độc lập. Riêng nước Cao Miên phải gặp một đại họa, sau đại họa thì được an cư. Nước Cao Ly độc lập chia hai thành Nam, Bắc là do cường quốc chiến thắng muốn “chia sức mạnh”. Nhật đầu hàng vô điều kiện nhưng vẫn còn vua. Vua lỗi thời, trước sau cũng bị phế truất. Kết quả là những lời tiên tri hầu hết hoàn toàn chính xác, đặc biệt trong đó có nói: “Độ 4.800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có trăng” và “Sự sống trên trái đất sẽ bị diệt vong hoàn toàn”. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu trong các chương sau. Sự kiện xảy ra trong cuộc đời Phật Sống Lưu Công Danh là bằng chứng cho biết những lời tiên tri đã ứng nghiệm, và vì vậy những lời tiên tri khác trên thế cũng có khả năng chính xác, bởi sự giống nhau trong những lời tiên tri đều nhận định chung về một vị Thánh nhân sẽ xuất hiện và rao giảng chính pháp cho nhân gian. (Trích một phần nội dung từ cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, tác giả Hà Văn Thùy, Nxb Văn học, 2008). Những người có khả năng đặc biệt Người có điển lành cô Trúc Lâm Nương, Việt Nam Cô Trúc Lâm Nương cũng giải thuyết rằng thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp, cuộc đời sẽ tiến đến cơ tiêu diệt, mà đó cũng chẳng qua là luật tuần hoàn đã định, vì chúng sinh gây quá nhiều quả báo, cho nên hễ vay nhiều thì phải trả nặng. Và để cứu vớt chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp, các đấng Phật, Thánh, Thần, Tiên lâm phàm: Là tri kỷ, đôi lời ta in nhắn, Phật, Thánh, Tiên xuất hiện nước non nhà. Độ chúng sinh, giữ vững khắp sơn hà, Đời mạt pháp hoằng khai thành chính pháp. Chính nhờ phép màu của Phật, Thánh, Tiên mà các hùng binh đều giải giáp, Thánh Chúa xuất hiện tại Việt Nam, lập lên đời Thượng nguyên vô cùng rực rỡ. Chúa thánh trong bài thơ có khả năng là vua Lạc Long Quân: Cơ màu nhiệm hùng binh đều giải giáp, Đời Thượng nguyên rực rỡ áng mây hồng. Khắp bầu trời tỏ rạng bóng Lạc Long, Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt. Trước khi đi đến Hội Long Hoa, loài người phải điêu linh về tai trời ách nước như chiến tranh, nạn hồng thủy, sóng thần, dịch bệnh…, lúc này Việt Nam có Thánh chúa giáng lâm và sẽ truyền bá chính pháp ra toàn thế giới, làm rạng danh non sông Việt, Cô Trúc Lâm Nương viết: Bão tố đầy trời ngoại xứ Âu, Nước tràn lợp đất đổ nghiêng bầu. Đau lòng bạt gió chim sa bẫy, Não dạ mê mồi cá mắc câu. Rồng lộn sông vàng mây tái mặt, Sấm rền rừng thẳm núi tơi đầu. Việt Nam tỏ rạng màu Anh Thánh, Rưới đức năm châu, chủ bá hầu. Về Hội Long Hoa, cô Trúc lâm Nương có bài thơ sau đây, với câu khoán thủ “ Long Hoa Đại Hội hợp nhất linh căn”, không chỉ Phật Di Lạc ngự tại Việt Nam mà có lẽ, còn có Quan Âm Bồ Tát nữa?: Long môn Di Lạc ngự tòa sen, Hoa quí Quan Âm tọa trước đèn. Đại mở chân thần nhuần thạch thủy, Hội hòa kim tánh đượm hương sen. Hợp hoàn chín cõi trên thềm ngọc, Nhất thống năm châu dưới ánh đèn. Linh diệu phép màu qui một mối, Căn nguyên hòan bổn thắm mùi sen. Một bài thơ đã giải về cõi đời Hạ nguyên, hiện tượng khi “ba tiếng sấm nổ”, báo hiệu Hội Long Hoa bắt đầu: “Tam giáo qui nhất - Ngũ Chi hiệp Thiên đạo” nghĩa là thống nhất Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo lớn như Bà La Môn giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo… hiệp chung Thiên Đạo nhưng không đồng nghĩa bỏ đạo của minh theo đạo mới, mà biểu hiện công cuộc hồi sinh Chính pháp của Đức Chí Tôn. Chính pháp thể hiện ra ở ở chỗ tổng hợp tinh hoa, đắc nhất của Tam giáo và các tôn giáo khác. Giống dân Hồng Lạc sẽ lập nên dòng Bích Ngọc, vạn quốc tới chiêm bái Thánh địa: Việt Nam xuất hiện Hạ nguyên kỳ, Thánh Tổ lâm phàm hiệp Ngũ Chi. Ba tiếng sấm vang khai địa huyệt, Bảy nguồn Thủy dựng tảo sơn kỳ. Rồng mây Phật Hội Phong Thần mạng, Sen nở, Long Hoa vạn quốc qui. Ớ hỡi! Lạc Hồng nền bích ngọc, Vững lòng Chúa ẩn, hạnh duyên tùy. Cô Trúc Lâm Nương cho rằng giống dân Lạc Hồng sẽ trổ mặt, bình trị bốn phương, các nước đều lai đầu Minh Chúa: Non tòng vị thắm chảy tràn Âu, Bát ngát hương bay khắp trọn bầu. Đương lúc gió đùa cây đổi lá, Giữa mùa sóng bủa cá vương câu. Ra nhân mở khóa năm châu hội, Trổ đức khai cơ tám hướng chầu. Hồng Lạc làu làu lòa ngọc chiếu, Bốn phương bình trị đến minh hầu. Giống dân Lạc Hồng qui phục được năm cõi mà lập nên đời Nghiêu Thuấn, chính pháp sẽ đưa con người về miền an lạc, ngay cả trong cõi đời này: Thuyền Giác muốn chèo đến bến Âu, Đón đưa căn quí hội chung bầu. Bởi xa rừng Thánh, hùm sa lưới, Vì đắm bến Trần, ngạc vướng câu. Rối dạ gió đùa dê tản lạc, Thỏa lòng biển cạn nước quay đầu. Ai hay Hồng Lạc qui năm cõi, Đất Thuấn Trời Nghiêu tụ một bầu. Cô Trúc lâm Nương nhận định rằng đến thời kỳ lập đời Thượng nguyên, đất Thuấn trời Nghiêu, thì Tam giáo qui nhất, Đức Phật Vương Di Lạc ra mặt hoằng khai chính pháp, các thánh thần tụ họp trong hội Bàn đào của Tây Vương Mẫu: Lập đời thượng cổ Đạo cao thâm, Tam giáo qui nguyên định chẳng lầm. Chính pháp hoằng khai ngôi Di Lạc, Quần tu phổ độ sắc Quan Âm. Tam thiên Ngũ hiệp qui lai thế, Thất thập nhị hiền tụ giáng lâm. Bốn hướng tuần du công Thánh Mẫu, Bàn đào mở hội đón linh căn. Chính đó là thời kỳ bình trị, muôn dân lạc nghiệp âu ca, chừng đó mới biết nhà Nam có chốn mang tên “Bảo Hà”: Lạc Hồng rỡ rỡ chốn triều ca, Mới biết nhà Nam có Bảo hà. Xích Tử ra đời an vạn quốc, Hào quang chói rạng khắp gần xa. Xà chuyển ánh hồng rọi sắc Long, Mới hay cháu Phụng với con Rồng. Càn Khôn chuyển máy Âm Dương định, Rực rỡ muôn năm ánh Lạc Hồng. Thượng cổ lai hoàn dấu Lạc Long, Huyền cơ xoay chuyển rực trời hồng. Vân môn trước địa chi thiên lý, Hội chốn Bảo hà mới rõ thông. Nhưng chốn Bảo Hà cũng thường gọi là Bảo Giang ở đâu? chính đó là bí quyết để tìm ra chỗ Thánh vương xuất hiện, mà cô Trúc Lâm Nương thường thử thách: Đố ai biết Bảo giang môn? Là nơi Thánh địa Thiên Tôn định phần. Làu làu ngọc chiếu cảnh trần, Là nơi Tiên, Phật, Thánh, Thần xuất thân. Xuất kim thân hóa kim thân, Ly nơi Đông thổ xoay vần Tây phương. Hay: Tìm cho đến Bảo giang môn, Là nơi Chúa Thánh Chí Tôn tọa thiền. Cầu xin được phép diệu huyền, Hài vân thoăn thoát đến miền Đế Kinh. Đợi thời trăng lặng bể kình, Long Hoa thành tựu phỉ tình ngao du. Về danh từ Bảo Giang hay Bảo Hà, chúng ta thấy cô vẫn nhắc đến luôn nhưng Bảo giang ở nơi nào? Nếu nghiên cứu về Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chắc nhận thấy danh từ Bảo Giang cũng được xuất hiện: Lại nói sự Hoàng giang sinh Thánh, Sông Bảo giang Thiên định ai hay? Hoặc là: Trí xem nhiệm nhặt cho tường, Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở này. Hay là: Bảo giang Thiên tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. Cô cho biết Bảo giang là nơi xuất Thánh nhưng không chỉ Bảo giang là ở nơi nào. Cô rất tha thiết trông mong Thánh vương xuất hiện: Chí khí công minh chí nguyện thành, Tâm hòa ý đẹp nhất tầm sinh. Mộng người đại đức nơi thềm ngọc, Tưởng kẻ từ bi chốn cửa thanh. Thánh đạo nghiệp duyên còn chọn đón, Vương minh ngôi vị sẵn riêng dành. Xuất năm Rồng giỡn cùng non nước, Hiện giữa trời Nam một giống lành. Giáo huấn tâm linh của tiến sĩ Lương Minh Đáng Giáo sư, Bác sĩ, Tiến sĩ, Huân tước, Đại hiệp sĩ Prof. Dr. Sir Master Lương Minh Đáng (1942-2007), người sáng lập ra pháp môn Nhân Điện trên toàn thế giới với mục đích ”Nhân Loại - Giác ngộ - Tình thương”. Sau khi mất, các môn sinh thông linh trực tiếp với linh hồn ông và nhận được một số giáo huấn tâm linh, dưới đây là trích dẫn nội dung Giáo huấn số 8 của giáo chủ Lương Minh Đáng 21 tháng 8, năm 2008: Hơn thầy, trần gian sẽ có, Sẽ có một người, thầy thường nhắc luôn. Một người thương hết mọi người, Mọi người cũng sẽ yêu thương người này. Người này linh hồn thuở xưa, Thuở xưa trở lại, Thượng Thiên mong chờ. Mong chờ xuất thế lập đời, Lập đời, đổi hết từ trong ra ngoài. Thánh nhân trở lại ở trong tình trạng “linh hồn”, được sự mong chờ của Thượng Thiên đã từ lâu. Vị Thánh nhân này chắc có lẽ, mọi người thực ra cũng đã biết?, ngài sẽ xuất thế lập đời, trùng tổ canh tân. Thông điệp tâm linh của một thiền sinh Thiền sinh nhận được một số thông điệp tâm linh, tuy nhiên chỉ ghi nhận một phần nội dung Thông điệp số 2, giai đoạn 3 ngày 07/06/2010: … Thời nay, may mắn là có hai vị Tự Chủ xuống trần gian, ở cùng một địa cầu và xuống cùng một Thánh địa Âu Lạc nữa. Là điều quan trọng Ngài Tạo Hóa đã ân điển và sắp xếp rồi, ngày nay địa cầu này là may mắn nhất so với các tinh cầu khác, vũ trụ và hằng hà sa số đại vũ trụ Càn Khôn nữa. Sư phụ Tự chủ Đấng sáng tạo nói tiếp, từ lúc bây giờ đây là thời cuối, kết thúc của đại chu kỳ này, là thanh lọc sạch sẽ, sửa sang tất cả lại, thì sự việc này đâu có dễ chút nào đâu. Nên chúng ta hãy cẩn thận mà trân quý từng giây phút này để nhận được năng lực to lớn vô cùng tận. Khi Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo hiện hữu tại thế là vô cùng quý báu, chưa từng có bao giờ, đừng để chậm lại thì uổng lắm đó. Hãy trân quý, trân quý từng sátna, từng giây, từng phút, từng giờ. Trong giây phút khẩn cấp, nóng bỏng này, nhớ ghi lấy lời Ngài dạy và gìn giữ không được gợn động, giữ im lặng. Nhớ nhất là trong khi Ngài giảng kinh tạng sống thì chấn động lực phát ra trực tiếp từ Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo vô cùng mạnh mẽ và xóa đi biết bao nhiêu kiếp sống của con người từ hữu hình đến vô hình, còn tồn tại trong thân của chúng ta, mỗi một kiếp sống lại tạo ra biết bao nhiêu nghiệp chướng. Giờ đây may mắn quá sức rồi, được Ngài gội rửa đi, chứ nói tu gì đâu mà tu, ân điển thời mạt pháp này Ngài xuống để cứu rỗi những linh hồn đang đắm chìm triền miên, khổ ải không biết bao tỷ tỷ năm nữa cả, nên họ ở mãi đó thôi, làm sao thoát cho được. Nên thời nay mạt pháp, đúng lẽ ra không bao giờ có cả, chỉ có thời đại chính pháp các Ngài mới xuất hiện mà thôi. Nhưng ân điển quá lớn, thời mạt pháp lại có hai vị Tự Chủ xuống cùng một lúc, ở cùng một địa cầu, tại cùng Thánh địa Âu Lạc. Vô cùng, vô cùng quý báu, quý báu, mà con người lại còn làm chuyện vô minh nữa, không biết đời nào mới thoát ra được, nên giờ đây Ngài phải cứu tất cả linh hồn đó, còn có những linh hồn còn sống họ khát khao tìm về chân lý thì Ngài sẽ giúp cho liền và trực tiếp dạy dỗ cho họ. Điểm quan trọng là nơi đây, chứ nói chi ba cái chuyện mà các ông bà lãnh đạo chưa làm được, nên phải cứu giúp họ là ở điểm quan trọng này đây, còn lại những chuyện khác chưa tính tới. Chúng ta quá ư nhiều phước báu, lại ở gần Ngài, trực tiếp gặp Ngài trong Kim Cương thân Ngài nữa. Chao ôi! Quá tuyệt vời rồi, nên chúng ta phải cướp lấy từ giây phút này nhé các bạn. … vì vậy, thời đại nào cũng có Minh Sư cao cấp xuống trần gian để cứu lại địa cầu và giữ được địa cầu, đó là điểm quan trọng. Chứ để loài người sống tự do thì không còn gì mà tồn tại cả, phá hủy hết. Khi Đấng Sáng Tạo đã dày công tạo dựng, tốn biết bao công năng của Tạo Hóa mới tạo được, mà con người sống trong đó coi rất bình thường nên mới phá hủy môt cách an nhiên, không thương tiếc. Con người chúng ta cũng vậy, linh hồn do Ngài sáng tạo mà cũng không gìn giữ, con người đem ba thứ thuốc độc hại chết đi linh hồn, điều này đáng sợ cho con người. Không biết bao giờ mới được làm người, mà không biết trân quý và giữ gìn nó mà học hỏi, tu hành để có được quyền Tự Chủ giống như các Ngài vậy. Tại họ còn quá vô minh, không biết con người quý đến mức nào, nên họ mới lầm lạc ở chỗ này, bỏ lỡ cơ hội làm người rồi thì biết bao lâu mới có được và gặp được Minh Sư cao cấp nữa thì khó đến trăm vạn lần, nên ngày nay là ân điển cho nhân loại quá rồi. Hãy trân quý mà nắm lấy cơ hội lần cuối, giữ gìn nó và bảo bọc để có thể gặp được Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo, về được cội nguồn nguyên thủy không có gì khó nữa. Mong tất cả con người, nhân loại, và tất cả vô giới hạn chúng sinh sớm được ân điển này. … Tại Thánh địa Âu Lạc, đất nước nhỏ bé kia, Mong nhân loại, đồng tu trong và ngoài nước, Hãy mau mau tìm về Âu Lạc quê hương, Thánh địa mẹ hiền ChingHai giáng thế. Hai vị Tự Chủ ở cùng một địa cầu, Nếu không có hai vị Tự Chủ ngự từ lâu, Địa cầu ngày nay thành tro bụi mất rồi, Chứ nói chi đến con người nhỏ mọn. Sống trong địa cầu chẳng biết bảo vệ cho Nếu không có hai vị Tự Chủ anh minh, Giữ được địa cầu tươi sáng lại, Nhờ năng lực Ngài nuôi dưỡng cả Càn Khôn, Bao bọc, thương yêu từng giây, từng phút. … Thông điệp nói về hai vị Thánh nhân tại nước Âu Lạc, Âu Lạc là tên gọi quốc gia Văn Lang thời vua An Dương Vương (thời gian tại vị khoảng từ 257-208 tr.CN). Điều này cho phép nhận định hai vị Thánh nhân có lịch sử trước cả thời cua An Dương Vương, nếu chấp nhận ý nghĩa Giáo huấn từ tiến sĩ Lương Minh Đáng, các vị mang dáng vẻ “linh hồn”. Thông điệp của công chúa Nhật Bản Đó là bài phát biểu của công chúa Nhật Bản Kaoru Nakamaru, trong Hội nghị Pythagoras toàn cầu 2012 vào ngày mồng 02/01/2012 vừa qua. Sau đây là nội dung bài diễn thuyết của bà: Tôi là Kaoru Nakamaru, công chúa Nhật Bản.cháu gái của Nhật hoàng Meiji Về cơ bản, loài người chúng ta là ánh sáng và tình thương, bởi vì đó là một phần của Đấng Tạo Hóa ban cho chúng ta, trong tâm hồn, và rằng chúng ta hiện thân ở đây nhờ thân xác thịt trên Trái đất, nhưng còn tinh thần thì đi, đi mãi, vẫn tiếp tục sống. Trên Trái đất này, tôi có thể nhớ được cuộc sống của mình, nhiều ngàn năm trước ở trên hành tinh này. Và ngoài ra tôi còn từng sống ở nhiều vùng đất khác nhau trên hành tinh này. Tất cả những ký ức đó trở lại với tôi, và tôi thậm chí còn có thể nói thứ ngôn ngữ mà tôi chưa từng học bao giờ [trong kiếp này]. Nghĩa là, thực sự, tôi đã trải nghiệm rằng thuyết luân hồi là sự thật. Vâng,… bất cứ ai lắng nghe hội thảo này đi nữa, cứ nghĩ như thể là loài người đang an toàn. Chúng ta đã bị chia rẽ sâu sắc từ sau năm 1913, một bên là những người tin vào quan niệm [luân hồi] loại này, còn một bên thì không. Họ đã chia rẽ vô cùng sâu sắc. Và với bên những người mà không hiểu điều này hoặc không tin điều này, hoặc hoàn toàn ngờ vực sự tồn tại của thế giới tâm linh, thì họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới khác rất giống như Trái đất này, những nơi đó đầy bạo lực và chiến tranh. Họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới đó. Vì vậy, giờ đây chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng nhờ hội thảo tuyệt diệu này. [Điều đó sẽ đến] rất sớm, rất nhanh. Chúng ta hãy xem tiếp các chương sau để xác minh lại bài pháp biểu này “sự tồn tại của thế giới tâm linh”. Thiên Tượng Kinh văn cổ luôn nói đến khi xuất hiện một vị Phật, Bồ Tát, Chúa, Thánh, Thần, Tiên thì xảy ra những hiện tượng tự nhiên, biểu lộ điềm báo trước sự kiện. Bằng con mắt huyền môn, các bậc chân sư hay những nhà nghiên cứu uyên thâm sẽ phát hiện ra, chúng ta hãy cùng tham khảo một số thiên tượng xảy ra trong thời gian qua, chắc chắn một số người cũng đã từng nhận biết trên các kênh thông tin phổ thông. Hoa Ưu đàm bà la bừng nở Truyền thuyết kể rằng hoa Ưu đàm Bà La (Udumbara) 3000 năm mới nở một lần. Đáng chú ý là trong những năm gần đây, hoa Ưu đàm đã được nhìn thấy khai nở ở nhiều nơi trên thế giới, truyền thuyết trở thành hiện thực, đã khiến hàng ngàn người chứng kiến cảm thấy vô cùng kinh ngạc và thích thú. Hoa Ưu đàm nở đã được trông thấy lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào năm 1997, những bông hoa sau đó đã được tìm thấy tại Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Bắc California, New York và Texas. Sự kiện hoa Ưu đàm khai nở có ý nghĩa gì. Theo kinh Phật ghi chép, “Ưu Đàm Bà La” trong tiếng Phạn, có nghĩa là “một loài hoa mang đến điềm lành từ Thiên đường.”, quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” của Phật giáo viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra, đây là một loài hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài.”. Tức là theo kinh Phật viết, sự khai nở của hoa Ưu đàm báo hiệu Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã tới thế gian, nói cách khác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã có dự ngôn từ rất lâu để nói với con người về thiên cơ rằng hoa Ưu Đàm sẽ khai nở khi Đức Chuyển Luân Thánh Vương truyền Pháp độ nhân. Hoa Ưu Đàm Bà La khai nở Tượng Bồ Tát, chùa Sumi Zen, Suncheon, Hàn Quốc (ảnh Minh Huệ) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Theo kinh Phật ghi chép, Ưu Đàm Bà La trong tiếng Phạn có nghĩa là “một loài hoa mang đến điềm lành từ Thiên đường”. Quyển 8 kinh Huệ Lâm Âm Nghĩa viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra; đây là một loài hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài.”. Kinh Phật Vô Lượng Thọ cũng ghi lại rằng “con người sẽ phát hiện ra rằng hoa Ưu Đàm là một dấu hiệu tiên tri”. Sự khai nở của hoa Ưu Đàm, một sự kiện hy hữu chỉ xảy ra 3.000 một lần, là một dấu hiệu cho thấy thời kỳ Phật Pháp hồng truyền tại nhân gian để độ nhân đã bắt đầu. Nói cách khác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã có dự ngôn từ rất lâu để nói với con người về thiên cơ rằng: khi hoa Ưu Đàm khai nở thì Đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ có mặt tại nhân gian để truyền pháp độ nhân, đó chính là Phật Di Lạc (Maitreya - Từ Thị), vị Phật lấy từ bi làm gốc. Vương Phật là Phật Vua, tức là vị Phật thay mặt Đức Chí Tôn làm vua cai quản Càn Khôn thế giới và vạn linh trong thời Tam kỳ phổ độ. Di Lạc Vương Phật là vị Phật Vương tương lai, giáng sinh xuống cõi trần làm giáo chủ hội Long Hoa. Trong chùa Labrang thuộc huyện Hạ Hà, tỉnh tự trị dân tộc Tạng ở miền Nam Cam Túc, Trung Quốc có một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Vương Di Lạc hạ thế độ nhân. Chùa Labrang được xây vào những năm Khang Hy của triều Thanh (năm 1709), gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ tức chùa Cát Tường. Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng lưỡng tôn Di Lạc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy. Lưỡng Tôn Phật Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chùa Labrang, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc thuộc Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lạc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay đặt trước ngực. Theo lời giải thích của vị Lạt Ma hướng dẫn tham quan khi được hỏi về tư thế tay của Phật: “Di Lạc Vương Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ ngài sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Ở chính giữa Đại Kim Ngõa điện thờ cúng Phật Vương Di Lạc là một tượng đồng mạ vàng khổng lồ. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Vương Di Lạc là một tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị Tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng chính điện quả thực là hiếm thấy. Điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu Kim Ngõa điện, còn Di Lạc Vương Phật điện được gọi là Đại Kim Ngõa điện. Có bài thơ nói về hoa Ưu đàm bà la như sau: Ưu tuyệt vời Tam tòa Thánh giáng cơ, Đàm Thiên Nhân Địa chính Tôn cơ. Hoa Long chi thấu mùi hương lạ, Nở rộ “ba ngàn” tuyết như tơ. Cám cảnh lòng ngay thời mặt thế, Ơn nhờ chiêu tuyết Ngọc Đế ban. Phật Tổ cuối thời buông Chính Pháp, Trước tác vẫn còn Bi Trí Dũng. Kia đã rồi đây Tổ tiếp cờ. Ưu nhất Tiên thiên Đạo tại người, Đàm linh bất hoại bởi Cha Trời. Hoa đào muôn tuổi xuân Thánh đức, Long giáng Rồng thiêng xuất thế chơi. Tam thế Tam ngôi Tam tòa Thánh, Thiên cơ đã thấu đến muôn nơi. Hội này bảy ức muôn năm thịnh, Sáng dạ tay ta đã đến thời. Ưu thuyết chính kinh giảng khắp rồi, Đàm nhân pháp chính đúng một người. Hoa kia Thượng đế gieo mùa đến, Nở khắp nhân gian hợp nhất nuôi. Chuyển trục tâm linh thay tất cả, Thế giới đại đồng một quy khôi. Thay đổi tên xưa quy ba cõi, Ngôi nhị Trung Thiên giáng khắp nơi. Ưu điểm không còn thiếu Đạo cao, Đàm nguyên vũ trụ Bắc Đẩu trao. Hoa màu tuyết trắng linh hồn xuất, Nở khắp nhân gian hợp cội nào. Thiên Đế cho con xuống thế này, Đường xưa nay đón chúng ta nay. Thế Tôn nhập diệt, Thiên Tôn xuống, Gian ngọc thế gian Ngọc Đế Thầy. Thiên trượng Bảy sao quyền Thượng Đế, Đạo chuyển luân vương chính luật đây. (trích của tác giả Trần Thế Thuận Thiên Hành Đạo) Quan Âm Bồ Tát hiển linh Bán đảo Sơn Trà nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 10km về phía Đông Bắc, với độ cao 693m so với mực nước biển là một đặc ân mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Đà Nẵng. Không biết từ bao giờ, ở Sơn Trà có một địa danh mang cái tên rất huyền nhiệm Bãi Bụt. Tương truyền, người dân nhiều lần thấy Quan Thế Âm Bồ Tát tay bồng hài nhi đi từ phía biển vào, nên gọi nơi đây là Bãi Bụt, và thật đúng với câu “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” của dân gian. Nhìn ra phía trước là vịnh Đà Nẵng, biển lặng yên đẹp như một bức tranh. Bên phải là một phần bán đảo Sơn Trà với bãi biển tuyệt đẹp viền quanh, xa xa là Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm nổi lên giữa biển như một con rùa khổng lồ, đèo Hải Vân bềnh bồng trong mây. Trong dáng nhoài người vươn ra biển, Sơn Trà luôn là một bức bình phong khổng lồ che chắn bão giông cho thành phố. Chùa Linh Ứng và bờ biển du lịch Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg <br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Ngày 19 tháng 6 năm 2004 (âm lịch), ngôi chùa Linh Ứng Bãi Bụt được khởi công xây dựng, đây là ngôi chùa đẹp nhất, lớn nhất và… trẻ nhất trong 3 ngôi Linh Ứng Tự ở Đà Nẵng. Linh Ứng Non Nước nằm trên hòn Thủy của núi Ngũ Hành Sơn, Linh Ứng Bà Nà nằm trên đỉnh Bà Nà - “Đà Lạt của miền Trung” và Linh Ứng Bãi Bụt nằm ở sườn bán đảo Sơn Trà, cả ba cùng hộ thế một góc biển trời Đà Nẵng. Bằng mắt thường chúng ta có thể định vị được vị trí tam giác của ba ngôi chùa. Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m). Công trình hoành tráng này do điêu khắc gia Thụy Lam xây dựng. Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, Quan Âm Bồ Tát với đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn Tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ. Trên mão tượng Quan Thế Âm có tượng Phật A Di Đà cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”. Tại ngôi chùa Linh Ứng Bãi Bụt đã và đang xảy ra một hiện tượng “màu nhiệm”, đó là hào quang tỏa sáng trên bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Vào lúc khoảng 11h00’ trưa ngày 16/8/2008, giữa lúc đang thi công phần mão tượng, các công nhân bất ngờ thấy một vầng hào quang tỏa sáng ngay trên đầu bức tượng. Ai nấy đều sững sờ trước cảnh tượng quá đỗi kỳ vĩ chưa từng thấy này, mọi người cùng đồng loạt cầm tay nhau múa chung quanh chân tượng. Một vị sư trong chùa nhanh tay chụp lại được hình ảnh đó, nhưng câu chuyện được giữ kín như giữ một “bí mật nhiệm mầu". Không ngờ hiện tượng hào quang tỏa sáng lại tiếp tục diễn ra thêm nhiều lần trên bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và cả ngay trên lễ đài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhân ngày lễ Phật Đản năm 2009. Hào quang trên tượng Phật Chùa Linh Ứng Bãi Bụt, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Lúc 11h00’ ngày 16/8/2008, lần đầu tiên xuất hiện vầng hào quang khi đang thi công phần mão tượng và vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên lễ đài Phật đản lúc 10h10’ ngày 14/4/2009. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Hào quang xuất hiện lúc 10h30’ ngày 19/3 âm lịch, 2009; Lúc 10h30’ ngày 14/5/2009; Ngày 22/5/2009, hào quang tiếp tục xuất hiện; Hòa thượng Thích Thiện Nguyện trước tượng Quan Thế Âm đang xuất hiện vầng hào quang lúc 11h15’ ngày 4/6 âm lịch, 2009; Hào quang chiếu diệu lúc 9h23’ ngày 19/7/2009. Hào quang tỏa sáng là một hiện tượng thiên nhiên khá kỳ thú, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên bầu trời Đà Nẵng, nhất là từ khoảng cuối xuân đến đầu thu, tuy nhiên đã có một sự trùng hợp kỳ lạ là rất nhiều lần hào quang tỏa chiếu xuống bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát chùa Linh Ứng Bãi Bụt, Đà Nẵng, thật “huyền diệu” và có lẽ hiện tượng này sẽ nói lên những điều gì với chúng ta chăng? Không chỉ vậy, Đà Nẵng cũng là thành phố đầu tiên của Việt Nam cũng như trên thế giới được triển lãm tượng Phật Ngọc, là pho tượng Phật bằng ngọc bích quý lớn nhất thế giới hiện nay, tượng Phật Ngọc thiêng liêng này cũng được gọi là “Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới”. Về xuất xứ khối ngọc thạch, Phật tử Lan Green cho biết, theo giấc mơ về một khối ngọc thạch tỏa sáng trên vùng Bắc Cực của Lat-ma Zopa Rinpoche và lời khuyên của ngài, ông đến mỏ ngọc thạch ở miền Bắc Canada với hy vọng có thể tìm được khối ngọc thạch như ý để tôn tạo tượng Phật. Ông đã tìm thấy khối ngọc thạch có tên gọi Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực (Polar Pride), nặng 18 tấn, không tì vết, được đánh giá là “khám phá của Thiên niên kỷ”, được khai thác trong năm 2000. Ông liền phát tâm bồ đề và đấu giá mua được khối ngọc thạch này, và chuyển đến Thái Lan để tôn tạo tượng Phật. Cuối năm 2008, tượng Phật Ngọc hoàn thành, cao 3.5m, nặng 4.5 tấn và phỏng theo mẫu tượng Phật trong tháp Đại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Chùa Quan Âm tại Đà Nẵng được chọn là nơi đầu tiên trong chương trình triển lãm Phật Ngọc nhiều nước trên thế giới, Phật Ngọc được cung nghênh từ Thái Lan đến Đà Nẵng và tôn trí tại chùa Quan Thế Âm nhân Lễ hội Quan Âm hằng năm. Tượng Phật Ngọc đã gỡ niêm phong Chùa Quan Thế Âm, Đà Nẵng, Việt Nam Phật Ngọc Quan Âm Chùa Quan Thế Âm, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Sau khi hoàn thành “Phật ngọc Hòa bình thế giới”, được sự đồng thuận của Lạt ma Zopa Rinpoche, cùng đạo tâm và lòng ưu ái, ông Ian Green đã nhường một phần khối ngọc còn lại cho Chùa Quan Thế Âm tại Đà Nẵng để chùa thực hiện tôn tượng Phật Bà Quan Âm, hay “Phật Ngọc Quan Âm cho tình thương nhân loại” với ước nguyện cho hòa bình thế giới được bền vững. Lễ chú tượng tại ngôi chùa cổ Đồi Thông, tỉnh ChiangRai, Thái Lan, tại buổi lễ gia trì, vua Sãi của đất nước Chùa Vàng đã trực tiếp khai nhãn cho pho tượng, ông VaNit giám đốc xưởng điêu khắc ngọc tại ChiangRai cho biết: “Qua nhiều đời làm nghề chế tác tượng, lần đầu tiên tôi mới chứng kiến Vua Sãi trực tiếp ấn chú khai nhãn cho tượng Phật, thường thì ngài ngồi từ xa tụng niệm gia trì, đây quả thật là một cơ duyên lớn”. Ngọn núi Ngũ Hành Sơn - đây chính là ngọn núi được đặt tên trong câu truyện nổi tiếng thế giới Tây Du Ký và truyện cổ Sự tích núi Ngũ Hành của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Đặc biệt, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội cũng có ngọn núi tên Ngũ Hành Sơn (tên Nôm là núi Trầm), có ngôi chùa Trầm nằm ngay bên sườn núi, đây là ngôi chùa cổ còn lưu giữ những bí ẩn thời các vua Hùng, trong các chương sách sau chúng ta sẽ được biết. Một góc núi Ngũ Hành Sơn (núi Trầm) Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Trong thời gian gần đây, cũng xuất hiện nhiều các hiện tượng tự nhiên kỳ lạ và đẹp mắt như hình ảnh của các linh thú rồng, lân… ở một số vùng ở Việt Nam, mà dân gian cho rằng chúng là điềm lành của một thời an bình, thịnh trị sẽ tới. Mây hình Rồng và vảy Rồng ở T.p Hồ Chí Minh và Hà Nội Ảnh Nguyễn Thành Chiến, ngày 20/7/2010, T.p Hồ Chí Minh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpg Hành giả đã thay đổi và điều khiển được tâm tính của mình, chứng ngộ được sự nhiệm màu của tạo hóa ở trong ta và trong vạn vật nhưng việc áp dụng vào cuộc đời mới thực sự là một bước không đơn giản, tuy nhiên hành giả vẫn có thể dễ dàng vượt qua. Nếu vượt qua được và phát nguyện “Tâm Bồ Đề” với hành trang “bi, trí, dũng” để hóa độ chúng sinh thì thật sự đã tham dự vào hành Bồ Tát rồi. Kết quả, sự rèn luyện và chứng ngộ của hành giả là không hoàn toàn tách rời khỏi cuộc sống này, khi hành giả đạt “Tính Không” thường trực nhưng vẫn nhận thấy hòa nhập vào cuộc đời, vẫn cảm xúc an lạc hay vẫn tồn tại “Tính Có”, nhưng trong Tâm có lẽ vẫn nhận thức một chân lý: Ta và vạn vật vẫn bất diệt đối với cả cái “chết”, đó chính là điều tuyệt diệu nhất và do vậy mà dân gian có câu: “ Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Hoàng Long vân giáng Đúng 8 giờ sáng ngày 26/8/1998 (tức ngày mồng 5 tháng Bảy âm lịch) là ngày giỗ vua Lý Anh Tông - vị vua thứ sáu của vương triều nhà Lý. Giữa lúc trống giong, cờ mở và lễ hội rực rỡ sắc màu, khi các bô lão đang tiến hành lễ tế thì trên trời bỗng đâu xuất hiện 11 vầng mây trắng, các vầng mây đậu lại trên đỉnh “Thọ lăng Thiên đức” - nơi đặt 11 lăng của các đức trị nhà Lý. Qua hồ bán nguyệt, 3 đám tự nhiên rã ra và 8 vầng mây tụ lại trên trời xanh thăm thẳm, ứng với 8 đời vua nhà Lý. Sự kỳ diệu của tạo hóa chẳng biết có phải là ngẫu nhiên hay không, song nó đã làm nức lòng bao người có mặt, không khí lễ hội trở nên trang trọng lạ thường. Tám vầng mây nằm song song giữa nền xanh thiên thanh, phủ phục trên đỉnh đền cổ kính 45 phút cho tới khi buổi tế kết thúc. Hoàng Long vân giáng Ảnh tác giả Nguyễn Đức Thìn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trước cảnh tượng kỳ thú trên, không ít người liên tưởng tới sự kiện vua Lý Thái Tổ dời đô vào năm 1010. Nhà Lý là triều đại mà lúc thịnh thì rất oai hùng, lúc suy thì không để lại nhiều tai tiếng bằng việc chuyển giao quyền lực ôn hòa cho nhà Trần. Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà Lý huy hoàng trong lịch sử. Năm 1010, vua Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La, viết Chiếu đời đô, nhân mộng thấy rồng vàng hiện lên trước mũi thuyền nên đổi tên Đại La thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay. Cho tới giai đoạn nhà Lý suy thoái (1009-1225), có sự kiện hoàng tử Lý Long Tường là thứ nam của vua Lý Anh Tông (con của bà phi Lê Mỹ Nga), em của vua Lý Cao Tông (Lý Long Trát) vượt biển sang cư ngụ tại Cao Ly. Trước cuộc binh biến của đất nước, Lý Long Tường đã cùng một số tôn thất nhà Lý vượt biển ẩn tránh ra nước ngoài, điểm đến là huyện Ung Sơn, nước Cao Ly, thuộc Bắc Triều Tiên ngày nay. Nương náu ở Trấn Sơn phía Nam phủ thành, đặt hiệu là Tiểu Vi Tử. Mục đích ra đi của Lý Long Tường là để giữ việc thờ cúng tổ tiên như trường hợp Vi Tử đời Ân đã làm, nên ông đặt hiệu là Tiểu Vi Tử và nơi ở là Vi Tử Động. Tích xưa kể rằng, vua Cao Tông (Kojong) một hôm nằm mộng thấy một con chim rất lớn bay từ phương nam lên đậu ở bờ Tây Hải như điềm báo trước nhà vua sẽ gặp được một vị tướng từ phương xa. Vua Cao Tông đã long trọng tiếp đón vị hoàng tử của nước Đại Việt và đoàn tùy tùng, cấp cho vùng đất ở Ung Tân để làm ăn sinh sống. Ông cùng gia nhân và binh sĩ bắt đầu cuộc sống mới trên xứ người bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt và cả đánh cá. Vị hoàng tử còn mở trường học, dạy thi phú lễ nhạc và cả võ thuật nữa, bởi trong lòng còn mang nặng niềm thương nhớ cố quốc và ngày khôi phục lại giang sơn. Năm 1253, đế chế Mông Cổ tiến công xâm lược Cao Ly, đánh vào Quốc Đô và Ủng Tân, nơi tôn thất nhà Lý ở ẩn. Lý Long Tường đã đứng ra tổ chức kháng chiến, cùng với quan quân trong phủ và nhân dân chiến đấu dũng cảm. Hoàng tử Lý Long Tường khi ra tận cỡi ngựa trắng đôn đốc binh sĩ chống trả quân xâm lăng. Bởi vậy sau này người dân trong vùng gọi ông là Bạch Mã Tướng Quân. Ông Lý Hi Uyên kể: Đánh nhau một thời gian không phân thắng bại, quân Mông Cổ trá hàng. Họ bày mưu cống hiến lễ vật đựng trong những cái lu cho hoàng tử nhưng bên trong những cái lu đó giấu binh sĩ Mông Cổ. Biết việc này, hoàng tử sai người đục lu và đổ nước sôi vào, sau đó sai người trả lu lại. Phục trí thông minh của Bạch Mã Tướng Quân, quân Mông Cổ chấp nhận thua và rút lui. Nhà vua rất mừng vui, khen ngợi và cho đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, cấp cho ông 30 dặm vuông đất làm thái ấp để phụng thờ tổ tiên, rồi sai dựng bia ghi công trạng của ông tại nơi quân Mông Nguyên đầu hàng, gọi là Thụ Hàng Môn. Vùng ông ở đổi tên thành Hoa Sơn, nên người dân còn gọi ông là Hoa Sơn Tướng Quân. Thụ hàng môn Hoa Sơn Trung Hiếu Đường Bong-hwa, Đại Hàn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Để con cháu và các đời sau còn nhớ đến quê cha đất tổ, ông đã xây một ngôi đình kiến trúc kiểu Đại Việt để thờ các vị vua nhà Lý, làm nơi con cháu tụ họp. Tại Hoa Sơn có một quả núi gọi là Quảng Đại Sơn, trên đỉnh có một nền đá bằng phẳng, truyền thuyết kể rằng Lý Long Tường thường lên đó ngóng trông về phương Nam, thương nhớ quê nhà ôm mặt khóc, ngọn núi đó vì thế mang tên “Vọng Quốc Đàn”. Mộ của ông ở phía Tây phủ thành Ung Tân, dưới chân núi Di Ất. Kể từ Lý Long Tường, con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn ngày càng phát triển và sống hoà nhập vào cộng đồng dân cư nước sở tại và có rất nhiều người thành đạt. Tượng đài hoàng tử Lý Long Tường Quảng trường trung tâm thành phố Seoul, Hàn Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Ngày nay, tượng đài hoàng tử Lý Long Tường được đặt ở quảng trường trung tâm thành phố Seoul, phía sau là tượng vua Cao Tông của nước Cao Ly dựa lưng vào dãy núi, phía trước án ngữ là tượng đài của hoàng tử Lý Long Tường tay cầm bảo kiếm, tương truyền đó chính là thanh bảo kiếm của vua Lý Thái Tổ, cũng chính thanh kiếm này đã cùng ông đánh đuổi quân Nguyên Mông. Ở dưới chân là hình ảnh chiến thuyền của Nhà Lý, chiến thuyền khi hoàng tử tới nước Cao Ly tị nạn, hai bên là tượng của hai chiếc trống trận nhà Lý, nhìn các bài trí có thể thấy người dân nước Cao Ly đã ngưỡng mộ ông như thế nào. Năm 1994 sau gần 800 năm, hậu duệ đời thứ 26 của hoàng tử Lý Long Tường là Lý Xương Căn đã mở đầu cuộc trở về Việt Nam của dòng họ Lý Hoa Sơn bằng chuyến thăm Đình Bảng lễ đền Lý Bát Đế. Người con Việt ở xứ sở Cao Ly cúi đầu trước anh linh tiên tổ, nguyện trở về với tổ quốc góp phần xây dựng quê hương. Tóm tắt Sự trùng hợp của tất cả các lời tiên tri về vị “Thánh nhân” xuất hiện tại phương Đông trong thời kỳ mặt pháp, có lẽ thời gian ứng nghiệm tương ứng với nhận định của lịch pháp Maya tức vào năm 2012. Ngoài ra, còn có sự xuất hiện rất nhiều các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần trên toàn thế giới đồng nghĩa với sự “trở lại” của “linh hồn” nhân loại bởi tự thân của nó là vĩnh cửu, chẳng hạn những linh hồn của những người sống tại lục địa Atlantic đã bị chìm đắm dưới đại dương theo truyền thuyết. Mặt khác, Thánh Nhân xuất hiện “có vẻ” thiên về khía cạnh tôn giáo hơn, tuy nhiên với nội dung của các dự ngôn thì ngài còn có vai trò làm thay đổi cục diện ý thức hệ của nhân loại, điều này hàm nghĩa có liên quan tới cả nền tảng của khoa học nữa, hay có thể tạm hiểu rằng mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học sẽ được giải thích một cách hợp lý hơn thông qua một học thuyết phù hợp. Đặc biệt, sự xuất hiện của vô số các thánh thần từ cổ chí kim trong một đại hội vô tiền khoáng hậu mang tên Hội Long Hoa, như dự ngôn sẽ diễn ra tại Việt Nam cũng là một ẩn số thú vị. Không chỉ vậy, tiên tri còn nhận định một học thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại có lẽ đó chính là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, sản phẩm trí tuệ cổ xưa của nước Văn Lang, nay hậu duệ kế thừa chính là người Việt Nam ngày nay. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính là học thuyết thống nhất vũ trụ, với sự kết hợp các lý thuyết của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các mối quan hệ với các tôn giáo khác trên thế giới, để có thế lý giải về sự hợp nhất của tôn giáo và khoa học. Ngày phán xét chính là ngày mỗi người phải đối diện với cái chết của thân xác và hiện hữu ở trạng thái linh hồn, như vậy sự chuẩn bị cho cuộc sống mới này như thế nào khi mà ý thức trong cuộc sống đã qua vẫn còn nguyên vẹn, thiện ác vẫn được phân biệt rạch ròi? Và như vậy, rõ ràng công cuộc tìm kiếm chân lý của cuộc sống sẽ phải hoàn toàn thay đổi. Vậy thì, “Ngày tận thế” chắc chắn không thể xảy ra, bởi sự mâu thuẫn của nó với toàn bộ nội dung của các lời tiên tri và nếu nó sẽ xảy ra, thì nhân loại phải chấp sự thật mà thôi. Có bài thơ rằng: Bao nhiêu chuyện xoay vần thế sự, Chung cuộc rồi mới rõ huyền cơ. Nước non trong cuộc tranh đua, Ai hay cũng vẫn hơn thua tại Trời. Chúng tôi sẽ làm rõ kết quả các những lời tiên tri trong các chương sách sau, bây giờ hãy cùng tiếp tục với chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 1, 2013 TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM Sấm rung lòng đất động lòng trần, Vạn vật hòa ca khúc nhạc xuân. Tiên đế “Pháp Thiên” làm nhạc vũ, Tế Trời, tế Tổ lại hòa Nhân. Tượng truyện quẻ Dự - Kinh Dịch. Trống đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại dưới rất nhiều hình thức như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa… kể ra không hết. Huyền thoại có nói tới trống da quỳ (giao long) của Hoàng Đế, trống một chân của nhà Hạ (túc cổ), trống có lỗ thông giữa của nhà Thương (doanh cổ). Sử ký Tư Mã Thiên có nhắc tới sự việc vua nhà Chu tặng Tần Mục Công một chiếc trống đồng vào năm 623 tr.CN. Chiếc trống đồng được cho là cổ nhất, đó là chiếc trống đồng cổ minh văn thao thiết của nhà Thương, lưu giữ tại bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc (Tham khảo và trích dẫn Sử điệp trống đồng, tác giả Lương Kim Định).Trống đồng hoa văn thao thiết Cuối đời Thương, Viện bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, Trung QuốcTrống đồng hoa văn thao thiết Đời Thương, thời kỳ An Dương, Trung Quốc. Sen’oku Hakkokan (bộ sưu tập Sumitomo), KyotoTrống đồng là một loại cổ vật đặc biệt được tìm thấy ở một số nước như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaxia, Indonexia, Triều Tiên, Nhật Bản… nhưng nhiều nhất là vẫn ở Việt Nam và tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1980, Trung Quốc có 1460 chiếc, trong khi đó Việt Nam chỉ có 360 chiếc, tuy Việt Nam có số lượng trống đồng ít hơn, nhưng trong đó có 140 chiếc thuộc loại H.I (Heger I). Bản đồ phân bố trống đồng Đông Sơn ở Đông Nam ÁTạp chí Khảo cổ học Việt Nam, Tập I, 1974Sách Hậu Hán thư của Phạm Việp (424-425) quyển 54, mục Mã Viện truyện như sau: "Mã Viện thích cưỡi ngựa, giỏi phân biệt ngựa tốt xấu. Ông ta lấy được trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ bèn đúc thành ngựa mẫu… ngựa cao 3 thước 5 tấc (khoảng hơn 1.0m), vòng thân ngựa 4 thước 4 tấc (khoảng 1.5m), vua xuống chiếu đặt ngựa mẫu trước cửa điện Tuyên Đức để làm ngựa mẫu (hẳn vùng đó) sẽ yên”. Trước Mã Viện không thấy ai nói đến trống đồng, chỉ khi Mã Viện đàn áp các Lạc tướng, bắt đày sang Linh Lăng hơn 300 cử soái của Giao Chỉ thì mới thấy nói đến cướp trống đồng. Sau này Minh sử có ghi sử việc Lưu Hiển đánh tù trưởng A Đại cướp được 93 cái trống đồng.Tiếp đến sách Quảng Châu ký của Bùi Thị xuất hiện vào khoảng năm 420-487 ghi lại hiện tượng người Lý, Lão sử dụng trống đồng ở thế kỉ thứ III sau Công nguyên, sách đã thất truyền, chỉ còn lại những đoạn dẫn để chú giải cho Hậu Hán thư: "Người Lý, Lão đúc đồng làm trống. Trống lấy cao lớn làm quý, mặt rộng hơn 1 trượng. Lúc mới đúc xong, treo trống ở sân, buổi sáng bày rượu mời đồng loại đến. Người đến đầy cửa. Con trai con gái nhà hào phú lấy vàng bạc làm thoa lớn, cầm thoa gõ trống, gõ xong để thoa lại cho chủ nhân”. Sách Tấn thư có hai chỗ ghi về trống đồng:- Thực hóa chí ghi: “Năm Thái nguyên thứ ba xuống chiếu rằng: Tiền là vật quý của nước, kẻ tiểu nhân tham lợi phá hủy không biết đâu mà kể, Giám ty nên chú ý. Người Di ở Quảng Châu vốn quý trống đồng mà trong châu vốn không có đồng. Nghe nói bọn con buôn công và tư trong châu đều tham lợi bèn mài vành tiền, cân lạng nhẹ đi để nhập vào Quảng Châu bán cho người Di để họ phá ra đúc trống. Phải hết sức cấm, bắt được phải trị tội”.- Hách Tiên bột bộ hải ký chép: “(Bột bộ) bèn lấy lĩnh tướng Sát can a lợi làm đại tượng (xem việc xây dựng thổ mộc), đem mười vạn người cả Di lẫn Hạ ở phái Bắc (Tùng) Lĩnh xây dụng đô thành ở phía Bắc sông Sóc Phương phía Nam Hắc Thủy… chế tạo binh khí rất sắc bén… lại đúc đồng làm trống lớn”.Sách Trần thư chuyện Âm Dương Ngỗi ghi: “Ngỗi thường theo (Lan) Khâm đi đánh dẹp… Khâm xuống phái Nam đánh Di, bắt Trần Văn Triệt thu nhiều chiến lợi phẩm không kể xiết, dâng lên vua, trống đồng lớn các đời chưa từng có… Ngỗi đến, Lĩnh Nam đều khiếp sợ thần phục, ông bèn tiến vào Quảng Châu chiếm tất cả đất Việt. (Vua) bèn lại phong cho ông làm Đô đốc cai quản 19 châu là Quảng, Giao, Việt, Thành, Định, Minh, Tân, Cao, Hợp, La, Ái, Kiến, Đức, Nghi, Hoàng, Lợi, An, Thạch, Song, Trấn Nam tướng quân, Bình Việt trung lang tướng, Quảng Châu thứ sử, trì tiết Thượng thị hầu… Em Ngỗi là Thịnh làm thứ sử Giao Châu, em thứ là Tuy làm thứ sử Hành Châu. Cả nhà hiển quý tiếng dậy đất Nam. (Ngỗi) thường được người ta dâng trống đồng và tù binh”. Trần thư viết xong năm 636, ghi chép sự việc nhà Trần (557-589). Riêng sự việc Âu Dương Ngỗi đánh dẹp ở phương Nam là xảy ra từ năm 551. Sau này Lý Diên Thọ tập hợp sử liệu các triều Lương, Trần viết thành bộ Nam sử, đã chép y lại phần này của chuyện Âu Dương Ngỗi trong Trần thư. Trần Văn Triệt là một Lý soái (Lương thư - Lan Khâm liệt truyện - liệt truyện 26).Sách Thủy kinh chú chú dẫn một đoạn văn trong sách Lâm Ấp ký: “Cửa (sông) ấy thông với Đồng Cổ, bên ngoài qua cửa Hoàng Cương của An Định, vượi qua Đồng Cổ tức là Lạc Việt. Có trống đồng nên gọi là Đồng Cổ, Mã Viện lấy trống đồng đúc ngựa đồng. Đến Tạc Khẩu do Mã Viện đào. Bên trong thông với huyện Phố Dương của Cửu Chân”. Lịch Đạo Nguyên là Thủy kinh chú vào thế kỷ thứ VI, cũng đoạn văn này, Trịnh Sư Hứa chỉ đất Đồng Cổ thuộc Quảng Tây, Hà Kỷ Sinh lại xác định cụ thể hơn là huyện An Định tức huyện Đo An ngày nay của Quảng Tây”. Tạc Khẩu và Phố Dương đều là địa điểm của Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo dõi kỹ dòng sông Ôn, Uất, Thọ Linh cũng sẽ thấy kết luận đó là chính xác. Hơn nữa Lâm Ấp ký không thể ghi về các địa điểm thuộc Quảng Châu, lại bỏ qua Giao Châu ở giữa.Lưu Hú viết sách Cựu Đường thư vào khoảng năm 937-946 tức từ 30 đến 40 năm sau khi nhà Đường diệt vong, có hai đoạn ghi chép về trống đồng, trong mục Âm nhạc chí ghi: Tiết cổ là trống đúc bằng đồng. Một mặt trống úp xuống, đánh lên mặt trên. Loại trống đồng của Nam Di, Phù Nam, Thiên Trúc đều như thế. Nhà quyền thế ở Lĩnh Nam ắt có trống đồng, chiếc lớn rộng hơn một trượng”. Chuyện Đông Tạ Man viết: “người Đông Tạ Man ở cách phía tây Kiềm Châu khoảng vài trăm dặm… ai có công thì thưởng trâu ngựa và trống đồng”.Sách Linh biểu lục dị của Lưu Tuân là quan lại tại Quảng Châu vào khoảng năm 889 - 903 ghi rằng: “Nhạc của người Man Di có trống đồng, hình dáng như yêu cổ (trống có thân eo lại) nhưng chỉ một đầu có mặt. Mặt trống tròn hơn hai thước. Mặt liền với thân. Đúc toàn bằng đồng. Thân trống đầy hình côn trùng, cá, hoa, cỏ. Toàn thân đều đặn dày hơn hai phân. Đúc rất giỏi, thật là tinh xảo. Đánh trống tiếng vang trong trẻo không kém tiếng mai rùa. Trong thời Trinh Nguyên (785-804) Phiên Quốc dâng nhạc, có ốc ngọc và trống đồng, mới biết nhà tù trưởng Nam Man đều có trống đồng. Cuối thời Hàm Thông (860-873), Trương Trực người U Châu vừa bị biếm xuống làm thứ sử Cung Châu, sau khi đến nhậm chức, sửa chữa châu thành, nhân đào được một trống đồng. (Ông) mang trống về kinh đến Tương Hán cho là vật vô dụng, bèn bỏ ở chùa Diên Khánh, treo ở nhà trai dùng thay mõ, nay vẫn còn. Thời Hy Tông (874-888). Trịnh Nhân trấn Phiêng Ngung, một hôm có thái thú Cao Châu là Lâm Cát (trình về việc) có trẻ con ở trong làng đi chăn trâu nghe tiếng ếch kêu trong ruộng, trẻ trăn trâu bèn xuống bắt ếch. Ếch nhảy vào một cái hang. Chúng đào hang. Hang sâu và lớn, chính là mộ tù trưởng người Man. Ếch mất tích. Được một trống đồng trong hang. Trống màu xanh biếc. Đất ăn mấy chỗ, đã sứt mẻ. Trên trống gồ lên mờ mờ, đúc nhiều hình ếch và rùa. Ngờ rằng con ếch kêu là tinh của trống. Bèn trình nguyên do, nạp (trống) vào dinh Quảng, treo trong kho vũ khí, nay vẫn còn” (Tham khảo và trích dẫn Tập I Khảo cổ học số 13 - Trống Đồng, 1974) Sử sách Trung Quốc cổ xưa chưa bao giờ thừa nhận trống đồng là một di sản của Trung Quốc. Trong thế giới văn chương, thi phú, ta cũng thấy không thiếu những câu thơ khẳng định trống đồng là của người phương Nam, Đỗ Mục, trong một bài thơ nổi tiếng đã viết:Đằng các trung xuân ý tịch khai,Thác chi Man cổ ân tình lôi Dịch.Mùa xuân trải chiếu gấm giữa gác Đằng,Qua lá cành, tiếng trống Man hòa trong tiếng sấm.Trần Vũ, một nhà thơ đời Đường khác, khi đến quận Kiến Vi, Tứ Xuyên thuộc khu Bộc Việt cũng viết một bài ca dài Thành hạ văn dĩ ca mà hai câu cuối kết như sau:Thử dạï khả liên giang thượng nguyệt,Di ca đồng cổ bất thăng sầu.Đêm nay trăng sáng trên sông, Trống đồng hát Rợ cho lòng buồn thương.Hứa Hồn trong bài thơ Tiễn khách về Nam, đã viết:Ngõa bôi lưu hải khách, Đồng cổ trại giang thần.Chén sành lưu khách biển, Trống đồng tế thần sông.Tôn Quang Hiến thời Ngũ Đại (907-906), có bài từ vịnh trống đồng theo điệu “Bồ Tát Man”:Mộc miên hoa ánh tùng từ tiểu,Việt cầm thanh lý xuân quang hiểu.Đồng cổ dữ Man ca,Nam nhân kỳ trại đa…Hoa gạo ánh đỏ cả khu đền nhỏ,Trong tiếng hót của đàn chim Việt dưới nắng xuân.Tiếng trống đồng hòa cùng tiếng hát của dân Man,Người phương Nam cầu cúng nhiều…Ta thấy thi văn của các danh sĩ trên đều xác nhận, một cách không cố ý, như một chuyện tự nhiên, hơn thế nữa, hiển nhiên, rằng trống đồng là của người phương Nam mà họ gọi là của người Man. Có khi họ còn liên hệ trống đồng với nước Sở như hai câu thơ trong bài Hà độc tái thần của Ôn Đình Quân sau đây:Đồng cổ tái thần lai, Sở sơn như họa yêu khai.Tế thần vẳng tiếng trống đồng, Xa xa nước Sở khói lồng như tranh.Câu thơ trên là một chứng cớ quan trọng bổ túc cho thuyết mà chính Sở Vương Hùng Cừ đã nói: “Ta là man di, không cùng hiệu thụy với Trung Quốc (Tư Mã Thiên, Sử Ký, q. 40, Sở thế gia, tờ 3b)”. Nó chứng tỏ không những dân Sở, sử gọi là dân Bộc Việt thuộc đại tộc Bách Việt, mà còn chứng tỏ nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 - 221 tr.CN) cũng thuộc nền văn minh trống đồng như dân Lạc Việt của nước Văn Lang dưới thời các vua Hùng. Lễ hội Quý Châu Trung QuốcTrích Hà Nội thời Hùng Vương An Dương Vương, tác giả Trịnh Sinh, Nxb Hà Nội, 2010Sử Chính Nghĩa viết: Nam Việt và Âu Lạc đều lập họ. Lại dẫn Thế Bản Việt họ Mi cùng tổ với Sở. Sách xưa gọi là đồng tính, đồng tổ tức là cùng một chủng tộc. Vả lại theo sách sử Việt thì cương vực của người Việt ngày xưa, phía Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam tiếp với nước Hồ Tôn (Lâm Ấp) thì bỏ Sở đi sao được”. (Hứa Văn Tiên viết ở bài Dịch Giả Tự trong bản dịch quyển An Nam Thông Sử, nguyên tác của sử gia người Nhật tên Nham Thân Thành Doãn - Tân Hoa ấn loát, Cty Hương Cảng ấn hành 1957, trang 34).Sách Việt điện u linh viết rằng, năm 1020 Thái tử Phật Mã vâng mệnh vua cha đi đánh Chiêm Thành, kéo quân từ Thăng Long vào phía Nam, dừng chân tạm trú tại khu vực đền núi Đồng Cổ thuộc làng Đan Nê, Ái châu, nay thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Đêm ngủ, đến giờ Tý bỗng từ ngoài có tiếng vọng lại vang rền như sấm. Phật Mã thấy bóng một người cao to chừng 8 thước hiện ra khuôn mặt phong sương, râu cứng, mặc áo giáp bào, tay cầm binh khí đứng trước mặt nói: “Ngài đi đánh giặc, tôi giúp một tay”. Phật Mã đem quân vào đến Tân Bình (Quảng Bình) thì đánh tan giặc. Thắng trận trở về, Thái tử đến núi Đồng Cổ làm lễ tạ ơn. Sách Toàn thư thế kỷ XV kể thêm: Tám năm sau (năm 1028), trước hôm Lý Thái Tổ qua đời một ngày (mùng 3 tháng Ba âm lịch), lại được thần Đồng Cổ báo mộng rằng có ba tước vương sẽ nổi loạn, Phật Mã vâng lời cùng tùy tùng cấp tốc về kinh đô, quả như thần đã báo mộng. Khi Lý Thái Tổ vừa băng hà, ba con trai là Đông Chinh Vương, Vũ Đức Vương và Dực Thánh Vương đưa quân vào ẩn trong Cấm Thành, toan đánh úp. Do có phòng bị, lại được các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa giúp nên Thái tử đã dẹp được cuộc nổi loạn này. Mười ngày sau khi lên ngôi, Phật Mã tức vua Lý Thái Tông (1028-1054) cho xây ngôi đền thờ thần Đồng Cổ cạnh hoàng thành và quyết định lấy ngày 25 tháng Ba âm lịch hàng năm làm ngày hội thề. Trước ngày hội thề, một cái đàn cao được đắp lên, xung quanh bày biện cờ xí, hương án, dàn nhạc lễ, đội ngũ chỉnh tề, bá quan văn võ đi từ phía Đông vào đền đến trước đàn, quì trước thần vị và tuyên đọc lời thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, Thần minh chu diệt”. Về sau vì ngay hội thề trùng với ngày kỵ của vua, nên hội thề chuyển sang ngày 4 tháng Tư âm lịch hàng năm. Sau này, các đời vua nhà Lý đều giữ lệ thề ấy, và cho đến thời nhà Trần cũng vẫn tiếp tục giữ lệ thề này.Ở Thăng Long có hai nơi thờ thần Đồng Cổ: Đền Đồng Cổ ở ven Hồ Tây và miếu Đồng Cổ ở thôn Nguyên Xá, xã Minh Khai, huyện Từ Liêm. Đền Đồng Cổ được xây dựng từ thời Lý vào năm 1028 ở làng Đông, nay ở đường Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.Trống đồngĐền Đống Cổ, Yên Định, Thanh HóaỞ hai cột hoa biểu của đền Đồng Cổ bên Hồ Tây, gắn liền với hội thề “Trung Hiếu” có đôi câu đối:Tám đời vua Lý, Đồng Cổ lời xưa, các triều phong thần còn lưu sắc ngọc,Ngàn năm trải, Đàn Thề ghi tạc, một lòng trung hiếu ánh vàng son.Hai bên cửa phụ thông với gian trung tế có đôi câu đối:Dựa vào Thanh Hóa, Nê Sơn linh tích nổi,Bất hủ Long Thành, Đồng Cổ hội thề lưu.Sách Đả cổ lục cũng có ghi chép về cách đánh trống đồng thời xưa, minh họa nhịp trống giống như nhịp hành quân, qua bốn câu thơ sau:Chinh tùng chinh, Chinh tùng chinh,Thề không giết giặc,Thề không trở về.Thời nhà Trần, sau ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông một cách oanh liệt, sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu sang sứ nước ta vẫn còn mang nỗi ám ảnh kinh hoàng sau thất bại thảm hại tại Đại Việt. Tâm trạng này được ghi lại trong bài thơ Sứ hoàn cảm sự của Trần Cương Trung thi tập, đặc biệt là với bốn câu:Bóng lòe gươm sắt lòng thêm đắng,Tiếng rộn trống đồng tóc đốm hoa,Được sống trở về mừng mạnh khỏe,Còn ghê khí độc, giấc Nam Kha*.Trong lịch sử, trống đồng có minh văn khắc nội dung đủ nhất cho tới nay là chiếc trống đồng được làm thời Tây Sơn là trống Cảnh Thịnh. Trống đồng Cảnh Thịnh nặng 32kg, đường kính mặt 54.3cm, cao 37.40cm, được đúc mô phỏng theo kiểu trống da, hình trụ. Mặt trống cong vồng lên hình chỏm cầu, chính giữa có hai vòng tròn kép tượng trưng cho mặt trời. Thân trống được chia làm ba phần, ngăn cách bằng hai đường gân nổi. Trống có 4 quai hình khuyên gắn cách đều trên thân. Xung quanh trống, từ trên xuống dưới, đúc nổi các băng hoa văn: nhũ đinh, lá đề, hồi văn chữ T và đề tài tứ linh: long, ly, quy, phượng. Minh văn được khắc phần thân trống nói về chuyện người vợ của Tổng thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời Vua Lê Ý Tông (1736) góp công lập chùa Linh Ứng (nay là chùa Nành nổi tiếng), cùng những lời dẫn đến việc đúc trống để thờ cúng, tu bổ chùa. Ngoài ra minh văn còn cho biết trống được đúc vào ngày lành tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Vua Nguyễn Quang Toản (1800), tại xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội). Trống đồng Cảnh Thịnh là hiện vật độc bản có giá trị nghệ thuật cổ tiêu biểu của giai đoạn lịch sử thời Tây Sơn. Theo tư liệu lưu trữ, trống Cảnh Thịnh vốn được lưu giữ tại chùa Cả, sau được nhân dân xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội tặng lại cho Bảo tàng. Minh văn khắc trên trống đồng Cảnh Thịnh là nguồn sử liệu có giá trị lịch sử hiếm quý, bản dịch phần minh văn khắc trên trống: "Đại tự xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn. Dẫn thuyết việc đúc mới trống đồng.Trộm nghĩ, việc trống được đúc bằng đồng há chẳng phải là ngẫu nhiên sao? Việc rằng, năm Vĩnh Hựu triều Lê thứ 2 (1736), có người trong ấp là bà Nguyễn Thị Lộc hiệu Diệu Bảo nên nghĩa vợ chồng với Thị nội Tổng thái giám Giao quận công, đã làm phúc thuê thợ xây dựng chùa Linh Ứng tại bản địa, phân khu điện xứ, lại làm gác chuông, đúc chuông lớn cho treo ở trên, tiếng chuông vang trong trẻo, người nghe tiếng chuông sẽ tỉnh ngộ mà xét lại bản thân, không làm chuyện xấu xa. Sau đó chùa này lại bị xuống cấp hỏng nặng, bà lại quyên góp rất nhiều tiền sửa chữa, rồi đem gác chuông cho làm của chung, dâng chuông làm chuông thánh. Người trong ấp ta thấy xót xa về việc công đức của các bậc tiền nhân không được đánh giá coi trọng, bèn hội họp cùng đưa lời bàn, góp công sức, tiền của, rồi nấu đồng đúc tạo một chiếc trống lớn và một chiếc chuông nhỏ, số đồng còn dư lại cho đúc các đồ khí thờ để cúng dâng lên ban Phật. Ôi lớn lao thay Phật pháp vô biên, chẳng thể lấy cái này mà làm khác cái kia, con người ta làm việc thiện, nhân lấy việc người xưa mà làm gương sáng cho người nay, tôn sùng coi trọng công đức của người xưa để lưu truyền mãi mãi cho muôn đời hậu thế vậy.Ngày tốt, tháng 4 nhuận năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) đúc mới.Các quan viên hương lão, xã khán, thôn trưởng trung nam trên dưới toàn xã Phù Ninh, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn cùng ký”.Bác sĩ A. B. Meyer và W. Foy là những người đầu tiên, trong quyển Bronzepauken aus Sdostasien (Dresden 1897) phân loại trống đồng Đông Nam Á dựa theo hình dạng, các ông dựa vào hình dạng 52 trống đồng và chia ra làm 6 loại. Năm 1902, học giả người Áo F. Heger F. Heger là cố vấn cho Hội Nghiên Cứu Viễn Đông Bác Cổ, trong cuốn Trống Kim Loại ở Đông Nam Á (Alte Metalltrommeln aus Sdost Asien) không đồng ý với sự phân loại của hai tác giả trên. Dựa vào hình dạng của 165 trống đồng trên khắp thế giới, F. Heger đã chia trống đồng ra làm bốn loại chính Heger I (H.I), H.II, H.III và H.IV, Sự phân chia này được hầu hết các học giả uy tín trên thế giới công nhận và vẫn còn được tôn trọng cho đến tận ngày nay.Loại Heger I: là loại cơ bản, từ đó mà phát triển sang các loại khác, ngôi sao giữa mặt trống thường có 14 cánh. Nhìn nghiêng dáng trống có ba phần rõ rệt: tang phình đều, thân thẳng hoặc choãi, chân hình nón cụt. Mặt trống thường trang trí bằng nhiều hoa văn đẹp theo những hình tròn đồng tâm. Đây là loại trống lớn nhất, đẹp nhất, gọi là trống Đông Sơn. Trên mặt trống H.I nhóm muộn, bắt đầu thấy xuất hiện các tượng cóc trên mặt trống.Trống đồng Ngọc Lũ - H.ILoại Heger II: Do từ loại H.I diễn biến ra, mặt chồm khỏi tang và có tượng cóc, tang không phình mà thẳng hay thóp đều, thân nở và liền với chân, không tách thành hai phần rõ rệt.Trống đồng Yên Lương III - Loại H.IILoại Heger III: Mặt chồm khỏi tang trống, có hình tượng cóc, tang thon dần, thân và chân là một hình ống thẳng hoặc hơi loe về phía chân.Trống đồng - Loại H.IIILoại Heger IV: Nhỏ hơn các loại trên, có dáng thấp lùn, mặt liền sát với mép tang, tang và thân được phân biệt bởi một đường chỉ kép lồi.Trống đồng - Loại H.IVCăn cứ vào bảng phân loại trên của Heger, ta thấy trống xuất hiện sớm nhất là trống loại H.I, trống lớn nhất và đẹp nhất vì có trang trí hoa văn hình người, hình muông thú. Những trống thuộc loại H.I nổi tiếng nhất và đẹp nhất đều tìm thấy ở Việt Nam. Khung niên đại chung sớm nhất được xác định thuộc nhóm trống H.I, đáng tiếc việc nhóm trống này không có chiếc nào có tuổi, do vậy phải viện dẫn đến một hiện vật khác, tương cận với nhóm này. Đó là chiếc trống có niên đại Tây Hán (thế kỷ II-I tr.CN) nằm trong ngôi mộ M14 thuộc khu mộ tang núi Thạch Trại, huyện Tấn Ninh tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. So với nhóm trống H.I thì trống Tấn Ninh là chiếc trống đơn giản, trang trí sơ lược, trên mặt có 4 hình chim bay, tang trống mang 4 chiếc thuyền, đây là loại trống có bố cục xuất hiện muộn. Trống đồng có tuổi sớm nhất được biết đến là trống Việt Khê (thế kỷ V-III tr.CN), nhưng cũng là chiếc trống nhỏ, trang trí đơn giản, trên mặt chỉ có hình 4 chim bay, chắc chắn đây là một tiểu phẩm xuất hiện muộn so với các trống phong phú nói trên. Việc xác định tuổi nhóm trống H.I tạm thời được nhận định trong khoảng từ thế kỷ thứ VII-II tr.CN. (Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Huyên - Hoàng Vinh, Viện Bảo tàng lịch sử, 1975).Sự phân loại theo hình dạng trống của Heger mà các nhà khảo cổ thế giới hiện nay chỉ có tính cách mô tả, sự phân loại trên chắc chắn khẳng định chúng phải mang một số ý nghĩa nào đấy, bởi vì hiện nay, trên thế giới có hàng ngàn trống đồng tìm thấy, mà chung qui về hình dáng phần lớn đều nằm trong bốn loại trống theo Heger. Làng cổ Đông SơnHàm Rồng, Thanh Hóa, Việt NamTài liệu được xem là cổ nhất có đề cập tới vai trò của trống đó là kinh Dịch, một trong Ngũ Kinh do Khổng Tử (551-479 tr.CN) san định. Trong 64 quẻ Dịch có quẻ Lôi Địa dự tạo thành bằng quẻ Lôi trên quẻ Địa. Với lời quẻ: sấm nổ trên đất chính là tượng của trống đồng, dùng vào việc phong tước hầu hay là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, cùng với ấn tín sắc phong. Dùng để hành quân, trống đồng trở thành một quân khí dùng trong quân sự. Lời tượng: sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ Dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên Thượng đế cùng với anh linh tiên tổ. Trống đồng còn gọi là trống sấm là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo “lôi xuất địa phấn”. Chữ “tác nhạc” cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế. Qua lời quẻ và lời tượng của quẻ Lôi Địa dự, việc liên hệ giữa Dịch học và trống đồng là điều không thể phủ nhận (trích bài viết của tác giả Văn Nhân). Các nhà khảo cứu đã nhận thấy trống đồng rất đa dụng, trống được dùng trong nhiều lĩnh vực: từ việc trống đồng là trống thờ, trống cầu mưa, trống dùng đựng tro than hỏa táng, đựng vỏ sò, đựng các vật báu khác, dùng làm vật tùy táng chôn theo người chết, dùng làm nhạc cụ điều động chiến tranh, trống đồng không có chủ đích chính là làm ra sử dụng như một chiếc trống thông thường để chơi âm nhạc.Trống thờ mạ vàngTrống minh khíTrống minh khíMộ chiếc trống được khai quật tại khu mộ Số 20, Trại Thạch Sơn (206 tr.CN-25), dùng làm vật đựng vỏ ốc sứ, trên nắp diễn tả một cảnh hiến tế người dưới sự chủ tọa của một nữ lưu hoàng tộc được che lọng, trụ cao ở tâm trống là phần nối dài của trục trống tức Trục Vũ Trụ dùng làm đường để đưa tế vật lên trời.Trống đồngKhai quật tại khu mộ Số 20, Trại Thạch Sơn, Trung QuốcTrống được xem như là một vị thần linh, như thần sấm và được tôn thờ. Đặc biệt, còn có tục giết trống, tục này thấy nhiều ở Vân Nam và Bắc Việt Nam. Vì trống là biểu tượng cho thế quyền và linh hồn của một tộc, nên khi một tộc nào chiến thắng, họ giết trống của kẻ thù nhằm tiêu diệt luôn cả linh hồn tộc đó để tránh hậu hoạn. Muốn giết trống đồng chỉ việc chọc thủng hay phá hủy mặt trời ở tâm trống, bởi vì mặt trời là linh hồn của trống, khi đánh lên biểu hiện như một trái tim đang đập, là sự sống của trống. Phá hủy mặt trời ở tâm trốngTrống đồng Điền, Vân Nam, Trung QuốcTrong hàng trăm chiếc trống đồng Đông Sơn đã được khảo sát, thì chiếc trống đầu tiên có minh văn ở Việt Nam chính là chiếc trống đồng Đông Sơn do nhân dân khai quật được ở Gò Mả Tre, khu vực nằm giữa thành Trung và thành Nội của thành Cổ Loa, năm 1982, còn tươi màu vàng óng đó có một hàng chữ Hán rất khó đọc ở bên trong vành chân đế, hàng minh văn này đã được một số nhà khoa học nghiên cứu và công bố. Trống đồng Cổ LoaTrống Cổ Loa, khai quật tại gò Mả Tre năm 1982Minh văn bên trong vành chân đế trống Cổ Loa và chữ “Tây Vu” phóng đại. Chữ “Tây Vu” khắc trên ấm đồng niên đại thế kỷ I tr.CNNếu tạm chấp nhận cách đọc mới của Ba Hyu (Ba Hjo, 2011, Giải nghĩa minh văn trên trống đồng Heger loại I đào được tại Cổ Loa, trong Văn hóa Cổ đại, kỳ 1 quyển 63, Kyoto, tháng 6-2011, tr. 120-124), với sự chỉnh sửa (trích bài viết của tiến sĩ Nguyễn Việt) ở chữ đầu tiên thì dòng minh văn trong chân trống Cổ Loa có thể đọc mới là: “Tây Vu tập (tứ thập) Bát Cổ, Trọng Lưỡng Cá Bách Bát hập Nhất Cân”, dịch nghĩa: “Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân”.Chiếc trống đồng Đông Sơn thứ hai có minh văn đã được phát hiện ở thôn Trạch Bái, xã Hòa Lâm huyện Ứng Hòa, Hà Tây. Chiếc trống được mô tả là trống “Phú”, bởi trên dòng minh văn trên trống, chính chủ nhân xưa đã cho khắc một câu: ”Danh viết Phú” nghĩa là: “Trống có tên là Phú”. Trống “Phú” thuộc loại trống cỡ lớn, có đường kính miệng 65cm, phần tang rộng nhất tới 71cm. Chiều cao toàn thân trống là 43cm, thuộc loại trống lùn mang đậm phong cách miền núi (Tây Âu).Trống “Phú” Dòng minh văn gồm 16 chữ Hán và Giả thiết phục dựng hai chữ Cửu Chân từ bản gốc minh văn (đọc từ phải qua trái)Như vậy “Cửu Chân” còn mang nặng tính giả định, tuy có sự gần gũi và sự hợp lý về tự dạng với tính vùng nơi khai quật được trống Phú. Nếu tạm chấp nhận giả thuyết nêu trên, toàn văn dòng chữ Hán 16 chữ khắc trong vành chân đế trống Phú có thể được đọc như sau: “Cửu Chân, Trọng Lục Quân, Ngũ Cân, Bát Lạng, Danh Viết Phú, Đệ Vị Thập Nhất, tạm dịch: “Trống của bộ Cửu Chân, đứng hàng thứ 11 (đệ vị thập nhất), nặng 185 cân rưỡi, tên đặt là Phú”. “Quân” là đơn vị đo lường cổ được dùng từ đời nhà Chu cho đến hết đời nhà Minh. Hai “bình” làm thành một quân. Một bình nặng 15 cân, như vậy một quân nặng 30 cân. Đời nhà Tần có đúc chuẩn những quả quân có quai để thống nhất đo lường toàn thiên hạ. Theo đó, mỗi quân nặng 7.75kg (một cân đời Tần - Hán là khoảng 258g). Chiếc trống này có niên đại tương đương Tần - Hán, tức khoảng thế kỷ III-II tr.CN, ngang với thời kỳ nhà nước Âu Lạc ở Việt Nam. Nói chung các sách đều ghi nhận trống đồng là vật biểu tượng của quyền uy, được cất giữ trong nhà các tù trưởng, lang đạo hoặc trong các đền, miếu, nó chỉ được đem ra đánh vào các dịp đặc biệt như các lễ tế thần linh, cầu đảo, hội xuống đồng hoặc những lúc có giặc giã. Sách Tỉnh Mường Hòa Bình của Pierre Grossin cho biết: Đầu thế kỷ XX một số nhà quan lang lớn ở người Mường còn thờ trống đồng và đánh trống đồng trong đám tang quan lang, nhưng chỉ các thầy mo mới được thực hiện. Niên đại trống đồng Đông Sơn loại H.I tạm thời được xác định trong khoảng từ thế kỷ VII-II tr.CN, và với việc khám phá hai chiếc trống đồng có những chữ khắc là những chứng cứ vật thể rất quan trọng để phục vụ công tác nghiên cứu về thời đại An Dương Vương và nhà Triệu ở nước ta. Hầu hết các loại trống H.I đều không có tượng cóc hoặc ếch trên mặt trống, đấy là các loại trống xuất hiện muộn hơn cũng như những chiếc trống có khắc hoa văn đơn giản và sơ lược khác.Hình tượng cócTrống đồng Đông Sơn, Việt Nam.Trong hàng ngàn trống đồng được tìm thấy, thì trống đồng Ngọc Lũ là chiếc trống là tinh tế và mỹ thuật nhất được khai quật cho tới nay và cũng được xem là loại H.I cổ nhất. Trống đồng Ngọc Lũ vốn để ở đình làng Ngọc Lũ, tìm thấy ở xã Như Trác, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam Ninh, Việt Nam. Hiện nay trống được trưng bày tại viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam, Hà Nội. Do vậy, để tìm hiểu vai trò của trống đồng so với cổ thư đã ghi nhận, chúng tôi đi sâu vào phân tích ý nghĩa của trống đồng Ngọc Lũ và toàn bộ hoa văn được khắc trên trống.TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ Mặt trống đồng Ngọc LũPhạm Huy Thông và các cộng tác viênTrống đồng Ngọc Lũ có hình dáng cân đối, có đường kính 79cm, chiều cao 63cm, thân trống được chia làm ba phần: Phần trên phình ra gọi là tang trống, nối liền với mặt trống. Phần giữa gọi là thân trống, hình trụ tròn thẳng đứng. Phần đế hơi loe thành hình nón cụt gọi là chân trống. Trống có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần thân trống, được trang trí hoa văn bện dây thừng. Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh, xen giữa các cánh sao là 14 họa tiết mà các nhà nghiên cứu gọi là họa tiết “lông công”. Từ trong ra ngoài có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm bao bọc lấy nhau, các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ. Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là hình chữ S gẫy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16 là hoa văn răng cưa. Các vành răng cưa ngoài biên trống chia vòng tròn 360o thành 360 đơn vị, mỗi đơn vị tương ứng với 1.5 răng cưa (tổng cộng 540 răng cưa) nhằm định vị chính xác đến từng vị trí của mỗi họa tiết trên trống đồng.Vành 6 với hình người, động vật vận động ngược chiều kim đồng hồ quanh tâm trống.- Hình người: Nhóm người trang phục cổ, có người tay cầm rìu, có người thổi khèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía ngôi nhà, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào một chiếc cối, đầu chày có trang trí lông chim.- Hình nhà: Gồm hai loại nhà, loại nhà thứ nhất (2 cái) có vẻ liên quan đến nghi lễ tôn giáo, mái cong giống như hình cái chuông đồng úp xuống, bên trong có người. Loại nhà thứ hai (2 cái) hình thang, giống hình nhà sàn có nóc cong lên như hình con thuyền hay yên ngựa, Nóc mỗi nhà có hai con chim đậu và nhà kia một con chim đang đậu.Vành 8 gồm hai nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng hai tốp chim bay, một tốp 6 con và một tốp 8 con, cứ một con hươu đực thì đến một con hươu cái.Vành 10 gồm 36 con chim, bao gồm 18 con chim đậu và 18 con chim đang bay. Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc. Chim đậu có nhiều loại, con thì mỏ ngắn vênh lên, con thì mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi, đều có đuôi ngắn.Phần trên cùng của tang trống là đoạn tiếp giáp với mặt trống có 6 vành hoa văn hình học, các vành 1 và 6 là những đường chấm nhỏ thẳng hàng, vành 2 và 5 là văn răng cưa, đỉnh quay về hai phía có những chấm nhỏ xem kẽ, vành 3 và 4 là hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.Tiếp theo đoạn này là hình 6 chiếc thuyền, chuyển động từ trái sang phải, xen giữa các thuyền là hình các con chim đứng, chim có từ 1 đến 3 con. Đứng giữa thuyền là người đánh trống điều khiển. Mũi thuyền có từ 1 đến 2 người tay cầm vũ khí như giáo hoặc rìu. Mỗi thuyền đều có một người cầm lái đầu đội mũ lông chim cao, tay lái có trang sức lông chim. Trên sàn thuyền có một người bắn cung đứng trên “đàn”, không đội mũ lông chim mà búi tóc. Số lượng người trên các thuyền có khác nhau. Ngoài ra, trên khoảng giữa hai thuyền có một con thú đứng nghểnh mõm giống như chó săn.Phần dưới của tang trống là ba vành hoa văn hình học, sáu cặp hình người, mỗi cặp hai người. Chân trống không có trang trí.Trống đồng mang trọn vẹn hình ảnh của tự nhiên, xã hội và nhân sinh đang vận động, hướng chuyển động của toàn bộ nhân vật đều quay ngược chiều kim đồng hồ: thể hiện sự vận động của vũ trụ bao gồm cả con người và động thực vật theo thời gian trong không gian vô tận, hướng về một ngôi sao 14 cánh ở tâm trống. Như vậy, triết lý trên mặt trống là một đi một về, quay vòng liên miên bất tận, từ số phận vạn vật hữu tình hữu hạn như con người, động thực vật đến lúc cũng sẽ phải chuyển hóa thành số phận của thần thánh vô hạn, tức hòa nhập vào ngôi sao ở tâm trống, hòa nhập hoàn toàn vào vũ trụ “Vạn thù quy nhất bổn”. Chúng ta phải giải mã hệ thống các biểu tượng trên trống đồng theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Dịch học, cùng với việc so sánh các biểu tượng với các nền văn hóa khác trên thế giới.Từ hiện thực khách qua đến tư duy trừu tượng, con người nhận thức các cung bậc của không thời gian và cuộc sống, xây dựng nên các triết lý về đạo đức, hình thành nên các thể chế, định hình nên các nghi lễ từ gia đình cho tới quốc gia, nhằm tạo ra một mối quan hệ xã hội hài hòa, tương ứng với nhịp điệu muôn thuở của đất trời:Trời xoay phải đất xoay trái,Xưa qua nay lại đã bao phen.Quạ đen bay ngọc thỏ chạy,Vừa từ cửa bể hiện ra,Lại biến đằng sau núi biếc.Sông Giang sóng chập chùng,Hoài Tế nước mênh mông,Chảy thẳng vào dòng ngày đêm mịt mùng.Pháp Nhãn Thiên Sư - Trung Quốc.Hình dạng trống gồm 3 phần tang trống, thân trống và chân trống ứng Tam Tài: thiên, địa, nhân. Mặt trống thể hiện sự vận động của vạn vật trong vũ trụ quanh một trục qua tâm trống gọi là Trục vũ trụ hay Trục định vị, Thuyết quái truyện nói: "Trời đất định vị, núi đầm thông khí, sấm gió cùng nhau xô xát, nước lửa không diệt nhau, 8 quẻ giao nhau". Trục định vị Thiên ĐịaTrích Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002.Mặt trốngTâm trống gồm vòng tròn bao quanh mặt trời, được diễn tả vòng tròn có chấm, có một khuôn mặt là linh tự Ra - Thần Mặt Trời của tôn giáo Ai Cập cổ.Linh tự Ra của tôn giáo Ai Cập cổ Tranh tường và cổ vật Ai CậpCăn cứ vào bức tranh dân gian Hàng Trống Cao quý đồ quan, tạm thời nhận định họa tiết “lông công” là thể hiện tính âm, còn các tia sáng thể hiện tính dương.Cao quý đồ quanTranh dân gian Đông Hồ, Việt NamTrống đồng Ngọc Lũ thuộc nhóm trống có ngôi sao 14 tia sáng, 14 tia sáng hợp 14 “lông công” thể hiện sự hòa hợp âm dương tại trung tâm trống. Con số 14 cùng với “tâm trống” tương ứng với 15 bộ của nước Văn Lang, trong đó bộ Phong Châu, kinh đô của nước Văn Lang chính là “tâm trống”. Đồng thời số 14 cũng là 14 chính tinh trong khoa tử vi Đông Phương, là một môn khoa học dùng để tiên tri các sự kiện diễn ra trong một đời người. Mặt khác, ngày rằm cũng chính là giờ Tý ngày 15 âm lịch hàng tháng, ngày trong tháng có trăng tròn nhất trong một năm, lúc này khí âm dương giao hòa, chính là ngày Tết Trung Thu của trẻ em. Mặt khác, số 14 cũng thể hiện cung Tốn, sau khi đã đổi Tốn Khôn trong Hậu Thiên Bát Quái.Hậu thiên Bát quái phối Hà ĐồTrích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007Một điều thú vị là tại khu mộ tang Thạch Trại, huyện Tấn Ninh, tỉnh Vân Nam, trung Quốc tìm được hai cổ vật bằng đồng: Trên một trống đồng trên đó có cảnh tế “Cột Đồng” với hình rắn quấn quanh có hy sinh người, còn trống kia diễn tả cảnh “Tế Trời” cũng lấy người làm vật hy sinh, ở giữa dàn tế có đặt 3 chiếc trống đồng chồng lên nhau, tượng trưng cho “ông Trời”.Các vật hiến tế, tế vật thường đứng trên mặt hay chung quanh thân trống, ba chiếc trống chồng lên nhau ở tâm trống dùng như một Trục thế giới. Trống đồng khi được chế tác mang ý nghĩa như một Trục Vũ trụ, nó trở thành hình trụ tròn như một cái thùng, thì nó không còn được gọi là trống đồng nữa. Trục vũ trụĐồng Điền, Vân Nam, Trung QuốcBức tranh dân gian cổ của dân tộc Tày, Nùng phía Bắc Việt Nam, thể hiện hình ảnh một cái cây cổ thụ đứng ở trung tâm, xung quanh là nhị thập bát tú, mặt trời và mặt trăng cùng các động vật như long, lân, phượng, trâu, ngựa chầu hầu xung quanh. Cây cổ thụ bị một cái đinh sắt đâm xuyên qua thân, ngụ ý sự nhận biết về thực tại tối hậu của vũ trụ đang bị che lấp. Như vậy, Trục Vũ trụ vẫn còn được gọi tên là Cây Vũ trụ, Cây Đời sống hay Cây Đời.Ngọc thụTranh dân gian Tày - Nùng, Việt NamTrục Thế giới ở nhiều nền văn hóa cũng dùng như Cây Vũ trụ, trong văn hóa vương quốc Điền, Trung Quốc cũng vậy. Ở một trống có cảnh diễn tả tục đâm bò tế trời, trụ cột đâm trâu bò mang hình ảnh Cây Vũ trụ, dùng làm phương tiện để dâng cúng lễ vật tới thánh thần.Cảnh hiến tế bò trên thân một trống đồngCổ vật đồng Điền, Vân Nam, Trung QuốcVùng cao, rừng núi mang tính âm nên thủ tục giết bò tế lễ bằng rìu một cánh, dương còn vùng thấp, đồng bằng mang tính dương giết trâu tế lễ bằng rìu hai cánh, phân loại vùng đất theo nguyên tắc “âm nhô cao, dương trũng thấp”.Lưu ý Cây Tam Thế (Cây Vũ trụ, Cây Đời sống) có hai vòng tròn ở hai đỉnh đường chéo ngang hình thoi biểu tượng cho lưỡng nghi, bốn vòng tròn ở hai đỉnh đường chéo đứng hình thoi biểu tượng cho tứ tượng. Lưỡng nghi, Tứ tượng, sinh ra Tam Thế được diễn tả bằng ba tầng phía trên hình thoi. Phần dưới cột trâu là một phần của Trục Thế giới nối liền Tam Thế.Qua bức tranh dân gian Đông Hồ Rước Trống, chúng ta nhận thấy rõ trống được đón rước một cách long trọng qua hình tượng chiếc lọng báu che trên trống. Đặc biệt, hình ảnh 6 người phụ nữ rước trống tay cầm quạt che ngực thật ấn tượng, trong đó chiếc trống nằm ở vị trí giữa bốn người đi trước và hai người đi sau, đây chính là một trong những mật ngữ nói về “Trống” tương ứng Thái cực, hai người đi sau trống tương ứng Lưỡng Nghi và bốn người đi trước là Tứ tượng của Hậu thiên Bát quái. Còn trong bức tranh Kéo co, thì cây gỗ ở giữa chính là Trục Vũ trụ và 5 cặp vận động viên hai bên biểu tượng sự vận động của Âm Dương Ngũ Hành.Rước Trống và Kéo CoTranh dân gian Đông Hồ, Việt NamNhư vậy, hình ngôi sao tâm trống thể hiện Trục Vũ trụ, Cây Đời và một phần lịch sử nước Văn Lang, chúng cũng sẽ được chứng minh một cách hợp lý. Từ ngôi sao tâm trống ra có những vành sinh tạo, hai vành là hình vòng tròn chấm nối nhau kẹp ở giữa vành hai chữ S sắc nhọn gẫy ba khúc ôm nhau. Ta cũng thấy chữ S gẫy ba khúc là một dạng của tia chớp khi trời dông bão, ngày nay chữ S gẫy ba khúc dùng làm biểu tượng cho điện cao thế.Chữ S gẫy mang dương tính diễn tả tương tác từ ngôi sao 14 cánh tới các vành nhân sinh bên ngoài và tương tác này là biểu tượng của Khí, thể hiện tính linh động và tế vi qua hình tượng hai chuỗi vòng tròn chấm kẹp chữ S tạo thành tượng quẻ Khảm: “Khí gặp nước thì dừng, gặp gió thì tán”. Khí là khái niệm phổ biến được dùng trong các phương pháp ứng dụng cổ Đông phương như Đông Y, phong thủy…Trên mặt trống đồng, nếu ta xác định trục đối xứng qua tâm đi qua tâm “nhà chuông” và biên “nhà thuyền” thì sẽ tương ứng trục địa cầu nghiêng một góc 23.5o. Như vậy, trống đồng Ngọc Lũ thể hiện cấu trúc của Hậu Thiên Bát quái, vạn vật trên trống đồng được phân bố chính xác vào trong tám cung tương ứng. Hai nhà hình chuông nằm trên trục Nam - Bắc, hai nhà hình thuyền nằm trên trục Tây Bắc - Đông Nam, còn hai biên khu vực chứa 4 trống đồng tạo thành trục Đông - Tây.Mặt phẳng Hoàng ĐạoTrích Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2007Lúc này, mái nhà thuyền có 1 con chim trên nóc nằm cung Tây Bắc thể hiện độ số 1 của cung Càn và mái nhà thuyền có 2 con chim đứng ngược nhau trên nóc nằm cung Đông Nam thể hiện độ số 2, hoàn toàn chính xác với cung Khôn độ số 2. Con nhỏ là con cái, con to hơn có đuôi dài là con đực.Từ hệ trục trên, chúng ta hiểu rằng ngôi sao 14 cánh chính là biểu tượng cho mặt trời, trung tâm của Tiểu vũ trụ - Hệ mặt trời. 14 hình ảnh “lông công” lúc này chính là biểu tượng cho mặt trăng, sự hợp nhất mặt trời và mặt trăng chính là âm dương hợp nhất, hay “ánh sáng”, được hội tụ qua hình ảnh của trái đất, nơi vạn vật sinh trưởng. Như vậy, trong tiểu vũ trụ, trống đồng gọi là trống mặt trời, trống thái dương, trống Hùng bởi Kinh Dương Vương là vị vua Hùng đầu tiên trong 18 đời các vua Hùng.Ngôi sao tâm trống tượng trưng cho mặt trời, Thái cực, các phần còn lại của mặt trống nhận Mặt trống và tang trống biểu tượng toàn bộ không gian sống bao quanh trái đất, được chia thành 3 vành rõ rệt: vành chứa người, nhà, chim; vành chứa 10 cặp nai và 14 con chim; vành còn lại chứa 18 cặp chim. Tang trống chứa 6 chiếc thuyền chứa một nhóm người và phần thân trống được xem là trục vũ trụ vẽ 6 cặp người tay cầm rìu và kinh sớ. Nhằm xác định ý nghĩa tượng trưng của các vành trống, chúng ta xem lại đạo Mẫu Việt Nam, toàn bộ cõi nhân gian được chia thành 4 cõi và được quản lý bởi các Thánh mẫu:- Cõi Thượng Thiên: do Mẫu Thượng Thiên cai quản, Mẫu Thượng Thiên cũng là Mẫu Liễu Hạnh và còn có thể hóa thân thành Địa Tiên Thánh Mẫu, Mẹ Đất (Thổ Địa) cai quản mọi vùng đất đai và đời sống vạn vật. Bà là vị Thần Chủ của Đạo Mẫu, được thờ cúng nhiều nhất trong đạo Mẫu Việt Nam. Đền thờ Bà có ở nhiều nơi, nổi tiếng nhất có đền Sòng ở Thanh Hóa và Phủ Giầy ở Nam Định.- Cõi Nhạc phủ: do Mẫu Thượng Ngàn cai quản, trông coi đời sống vạn vật ở các miền rừng núi, vùng cao. Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là Suối Mỡ, Bắc Giang, Hà Bắc và Bắc Lệ, Lạng Sơn. - Cõi Thủy phủ: do Mẫu Thoải (Mẫu Thủy) cai quản, đó là vị thần trị vì vùng sông nước, nữ thủy thần gắn với đời sống thủy sinh của dân tộc Việt từ xa xưa. - Cõi Địa phủ: do Mẫu Địa cai quản, trông coi đời sống vạn vật ở vùng đồng bằng.Đối chiếu với bốn phần trên mặt và tang trống, chúng ta thấy chúng hoàn toàn tương hợp với nhau, cho nên hệ thống tranh thờ dân gian Hàng Trống về đạo Mẫu có khả năng giải thích các biểu tượng trên trống đồng, và ngay trên bức tranh Tam phủ Công đồng cũng có hình chiếc trống được chở trên thuyền.Tam phủ Công đồngTranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam Như đã nhận định, 14 cánh ngôi sao thể hiện cung Tốn, đồng thời vành ngoài cùng chứa 18 cặp chim, số 18 này theo phương pháp trấn yểm phong thủy nó thể hiện độ số 8 trên Hậu Thiên Bát quái chính cung Cấn, chúng ta cũng biết cung Cấn đối xứng cung Tốn qua tâm Hậu Thiên Bát quái, với chú ý là cung Tốn và cung Cấn chỉ đối xứng nhau sau khi đổi chỗ Tốn Khôn.Hậu Thiên Bát Quái (đổi Tốn Khôn)Tiên Thiên Bát QuáiNhư thế, trống Ngọc Lũ có mặt trời 14 tia sáng có khuôn mặt lưỡng hợp âm dương, với Tiểu vũ trụ là Hệ mặt trời. Như vậy, chúng ta đã có cái nhìn nhận toàn thể về ý nghĩa cơ bản của trống đồng.Trên mặt trống, chúng ta dễ dàng nhận thấy khả năng nhóm người đang biểu diễn các nghi lễ tôn giáo hoặc các nghi thức của những ngày lễ hội lớn của một quốc gia, toàn cảnh lễ hội diễn ra tại các ngôi nhà thuyền và nhà chuông. Trục Bắc - Nam là trục cố định trong Hậu Thiên Bát quái cũng như Tiên Thiên Bát quái, còn trục Tây Bắc - Đông Nam là trục Càn - Khôn trong Hậu Thiên Bát quái, do vậy ngôi nhà hình chuông biểu thị cho tôn giáo, giá trị tinh thần vĩnh cửu, thông thường đó là những ngôi chùa, đền, thánh đường qua hình tượng cái chuông, còn ngôi nhà thuyền biểu thị cho nơi tổ chức quốc gia như kinh thành, ngôi đình làng, quan đường… đối với nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, chúng ta nhận định là ngôi đình làng ở miền xuôi hay ngôi nhà rông ở vùng cao qua hình tượng những cái trống dưới sàn nhà. Trống còn có nghĩa là đực, dương cho nên những ngôi đình, nhà rông, nhà lang thì người phụ nữ bị ngăn cấm bước vào. Một cổ vật thùng đồng Điền, Vân Nam, Trung Quốc thể hiện ngôi nhà chứa trống tương tự nhà thuyền trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.Thùng đồng ĐiềnVân Nam, Trung Quốc Nhà Trên Trống Ngọc LũTừ việc nhận định bề mặt trống đồng thể hiện các lễ hội của quốc gia và tôn giáo, cần xem xét khu mặt mặt trống qua hai nhóm người: Nhóm 7 người diễn xướng, cùng với dàn trống và cảnh giã cối trong lễ hội, ứng với nhà hình thuyền bởi số 7 cung Ly trong Hậu Thiên Bát quái, nhà hình thuyển thể hiện tính dương. Nhóm 6 người diễn xướng, cùng với dàn trống và cảnh giã cối, ứng với nhà hình chuông thể hiện tính âm, ứng số 6 của cung Khảm trong Hậu Thiên Bát quái. Nhằm xác định lễ hội gì, chúng ta quan sát hai hình người đang giã cối, một người như đang ngửa mặt lên trời cầu nguyện và trên đầu là hình con chim bồ nông.Cảnh giã gạo và Tượng đồng cổ chim bồ nôngTượng đồng Điền, Vân Nam, Trung QuốcBồ nông loài chim nước, tính âm thể hiện vùng đất thấp hay vùng nông nghiệp lúa nước, tên chim bồ nông trùng hợp hợp với vua Thần Nông, thủy tổ của ngành nông nghiệp và y học. Vậy thì, nhận định đây chính là lễ hội Tết Cơm Mới vào ngày 10 tháng Mười âm lịch hàng năm của các dân tộc vùng cao trồng lúa nương và vùng đồng bằng trồng lúa nước. Như vậy, ứng với Tết Cơm Mới đối diện qua tâm trống chính là Tết Đoan Dương ngày 5 tháng Năm âm lịch. Hai cái tết này được lấy làm đại diện cho lễ hội quốc gia trình bày qua nghệ thuật điêu khắc trên mặt trống đồng, Tết Cơm Mới và Tết Đoan Dương là một trong những ngày lễ hội quan trọng của nước Văn Lang.Cảnh giã chầy cối thể hiện công tác giã gạo để làm cơm mới và bánh thánh dâng cúng lên các vị thánh tổ của quốc gia. Hai người giã cối cũng thể hiện tính âm dương, người đứng giã bên phải tóc búi ngắn phía sau ở trần là người nam, còn ngược lại người bên trái phía âm tóc dài có sọc ngang, trang phục dài là người nữ. Một người nam thứ ba đứng ngửa mặt lên trời, hai tay như đang dâng lễ vật, đây chính là người đại diện cho việc cúng tế bởi vì hình tròn chấm biểu tượng mặt trời được vẽ ngay giữa ngực.Hai nhóm 6 và 7 người, chuông nhạc Đông SơnQuan sát các nhóm người, nhóm 7 người nhảy múa nằm trong cung Cấn, Chấn ứng với mùa xuân và ngược lại nhóm 6 người nhảy múa nằm trong cung Tốn, Đoài ứng với mùa thu. Như vậy, khả năng đây là một lễ hội nông nghiệp hoặc vào hai mùa xuân thu, là những nghi lễ quan trọng của quốc gia. Trong tranh dân gian Đông Hồ có cặp tranh nhị bình Vụ cấy và Mùa gặt, nội dung quan trọng nhất của lễ hội là đề cao hai tác động then chốt của nông nghiệp là gieo vào mùa xuân và gặt vào mùa thu.Mùa gặtTranh dân gian Đông Hồ, Việt NamVụ cấyTranh dân gian Đông Hồ, Việt NamHai bức tranh thể hiện vụ cấy và mùa gặt của người nông dân, cùng phù hợp với nhận định Tết Cơm Mới ở trên, đặc biệt trong hai bức tranh này thể hiện ngôi đình làng với hai bên là tả vu và hữu vu, so sánh với hai mái nhà hình thuyền trên mặt trống đống ở cung Càn và Khôn, thì con Trâu sẽ ứng với cung Càn và con Bò ứng với cung Khôn, chúng được dùng là vật tế trời đất. Như vậy, nhóm 6 người thực hiện nghi lễ của mùa xuống đồng cấy lúa với hình người đi đầu cầm gậy đầu nhọn như đang chọc xuống đất tra hạt vào lỗ, còn nhóm 6 người thực hiện nghi lễ của mùa gặt lúa với người đi đầu cầm gậy bằng đầu trong tay.Bộ tranh nhị bình “Cày - Bừa”Tranh dân gian Đông Hồ, Việt NamSo sánh với nghi lễ của người Ê Đê: Trong ngày lễ gieo hạt, người Ê Đê làm một tòa nhà sơ sài gọi là Nhà Trời. Trên bốn đầu cột có cắm mỗi cột một đầu lông gà trắng (tương ứng Hành Kim, Tây Bắc). Người lên sàn bằng một thang tre, chiếc thang này, sau đám, sẽ được cất đi, năm sau đến ngày lễ lại mang ra dùng. Chiếc thang này được gọi là Thang lên trời hay còn gọi là thang Con Cóc. Bên cạnh Nhà Trời có một vựa thóc, trong vựa treo đầy cồng tượng trưng bằng những vòng tròn cắt ở quả bầu khô, trên sàn là một thúng đầy ắp thóc ngô (tượng trưng bằng đất đỏ). Dưới sàn, ở các cột, treo những dụng cụ âm nhạc, những phách tre và những dùi để đánh. Việt Điện U Linh, một cuốn sách đời Trần có chép truyện Thiên tổ địa chủ xã tắc đế quân: “Thần là Hậu Tắc, dạy nghề trồng lúa được các triều vua trước thường làm lễ tế Nam giao hòa cùng với trời đất… thờ Đế Quân tại phái Nam La Thành, bên cửa Quốc Bình. Miếu điện rất tôn nghiêm, tục gọi là Xã đàn tư thần. Khi có hạn hán thì làm lễ cầu mưa rất linh ứng…”. Hiện nay, sau phố Khâm Thiên và Ngã tư Sở còn làng Xã Đàn. Ở đó còn một cột đá nhất trụ, xung quanh chân cột có nhiều kim nhọn. Giao ở đây có thể hiểu là sự giao hòa, sự phối hợp giữa trời và đất. Giữa trời và đất có quan hệ âm dương, vợ chồng. Mưa chính là sự hòa hợp tính giao giữa cặp vợ chồng này. Lễ hội Lồng Tồng Các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Việt Nam Trong hai nhóm thì người cầm chuông luôn là trưởng nhóm với chuông trong tay và cái đầu hình quả bầu, thể hiện âm dương hòa hợp tức Thái cực, riêng người này trong nhóm 7 người còn cầm thêm nhạc cụ như cái mõ, tiếp theo người thổi khèn bầu và người đi đầu trong nhóm 7 người thể hiện âm và dương tức Lưỡng nghi, 4 người còn lại cầm phách và gậy biểu hiện cho Tứ tượng. Toàn bộ một nhóm người múa hát được bố trí sao cho thể hiện được học thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong nhạc lý: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Cõi Trên thường biểu tượng bằng hình chim vì thế thường có hình chim đậu trên nóc nhà, nhà biểu tượng Cõi Giữa nhân gian, trong nhà có cảnh sinh hoạt của con người thường liên hệ tới tín ngưỡng, nhà có để trống cho biết nhà là nhà dương, nhà cho phái nam, gầm nhà là Cõi Dưới, Hạ Thế. Hình nhà thuyền cung Khôn Đầu hồi nóc nhà trang trí với hai hình đầu chim, mắt chim là mắt âm biểu tượng bằng hai vòng tròn đồng tâm có chấm. Trên nóc ngôi nhà này có hai con chim đậu quay ngược nhau chính là độ số 2 cung Khôn, hai chim quay ngược nhau thể hiện sự vận động theo chiều đi ra, tán tức vận động theo nguyên lý Hậu Thiên Bát quái sau khi đổi Tốn Khôn. Ngoài cái mào trên đầu, hai bên cổ có chùm lông dài khi dựng lên tạo thành cái vòng cổ, hình chim trên nóc nhà là loài chim trĩ. Đuôi trĩ xòe lên thành hình giải, vì thế có tên là chim giải cùi, chim đuôi dài như cái giải. Chim trĩ là chim biểu tượng cho lửa thần thoại hóa thành chim phượng có nghĩa là chim lửa, nhưng chim trĩ thuộc loài gà sống nhiều trên mặt đất, nhà thuyền có hai con chim trĩ cái và đực trên biểu tượng cho cung Khôn. Dưới chái nhà, bên phải có chiếc trống cho biết căn nhà này là căn nhà trống, dương. Ta cũng thấy mặt trống nằm ngang quay về bên trái, trống để nằm ngang biểu tượng đất bằng thế gian nhưng trống không để sát mặt đất mà để trên cao. Ở dưới chái nhà bên trái có một vật hình chữ U vuông góc, mặt cối vuông quay lên, để chứa nên mang tính âm. Ở đây trống mang dương tính và đối ứng với chiếc cối vuông mặt lõm quay lên ở phía bên kia, nằm sát đất so với trống. Ở giữa nhà, trên sàn nhà có đôi trai gái ngồi đối diện nhau, người con gái xõa tóc, tay chân của hai người đang giao nhau, đây có thề xem là hình ảnh của một tục lệ về hát đối đáp gái trai thời đó. Đại Việt Sử Ký toàn thư đã mô tả cụ thể về những cặp trai gái vừa hát vừa ngoái cổ và ngoắc chân giao tay với nhau, gọi là Cài hoa kết tóc. Có người cho là trò chơi Trồng nụ trồng hoa, trò chơi này còn thấy ở ngày nay, là một trò chơi của trẻ con. Nhưng có điều gần như thành quy luật, là nhiều phong tục cổ khi bị mai một đi thì được các trò chơi của trẻ con còn giữ lại như Ô ăn quan chẳng hạn. Trồng nụ, trồng hoa Tranh tham khảo Internet Ngoài Bắc gọi trò chơi Trồng nụ trồng hoa, còn miền Trung gọi là Đi chợ về chợ, trò chơi phải có bốn em, chia làm hai cặp, một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lại rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc:Đi chợ - về chợ: Đi canh một - về canh một,Đi canh hai - về canh hai, Đi canh ba - về canh ba, Đi canh tư - về canh tư, Đi sen búp - về sen búp, Đi sen nở - về sen nở, Đi sen tàn - về sen tàn. Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua, hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua, cặp thua bị loại để hai em khác vào thay. Hình nhà thuyền ở cung Càn Hai đầu nóc căn nhà này trang trí bằng hai đầu chim dương có con mắt dương “vòng tròn có chấm giữa. Trên mái nhà chỉ có một con chim trĩ, số 1 là số lẻ, dương thể hiện cung Càn của Hậu Thiên Bát quái. Ở dưới chái nhà bên phải, có một người đánh trống da bịt hai đầu hình tròn, đối ứng với trống ở nhà hình thuyền cung Khôn. Trống tròn hình trứng thể hiện trống Thái cực. Trống ở góc trái là so với với trống Thái cực và là dương so với cối đá hình vuông ngửa lòng của hình thuyền cung Khôn. Như vậy, nhà hình thuyền so với nhà hình chuông mang tính dương, nhưng hai nhà hình thuyền cũng mang tính âm dương, ngay cả mọi thứ liên quan với nó. Dưới sàn nhà thuyền cung Khôn có một cái trục ở giữa, trục này nối nhà thuyền cung Càn tạo nên trục Càn - Khôn của tiểu vũ trụ, ứng với hệ mặt trời vì mặt trời tâm trống làm chủ đạo. Dưới sàn nhà thuyền cung Càn có một lò lửa. Người thổ dân Ainu ở Nhật thờ Mẹ Mặt Trời Buchi có hình bóng là ngọn núi lửa Buchi mà người Nhật chuyển âm thành Fuji (Phú Sĩ) cũng để lò lửa hồng giữa nhà gọi là Trái Tim Hồng. Người Navajo cũng có lò lửa Trái Tim Hồng ở giữa nhà giống như người Ainu. Nhìn chung lò lửa, hố lửa cũng là một nghi thức tế lễ tôn giáo có liên hệ tới mặt trời. Hơi nóng, lửa dùng để tẩy uế, làm tinh khiết tâm hồn và thể xác con người, chữa trị bệnh tật. Ta rút ra một qui luật rất quan trọng là tất cả các nhà trên trống đồng, nếu có để trống, vật hình trống hay trang trí hình trống đều là những nhà có dương tính tức là nhà dương, nhà trống, nhà lang, nhà phái nam, nhà mặt trời, nhà nội. Đình làng cũng thuộc là loại nhà dương, đình biến âm với đinh có nghĩa là vật nhọn rất dương, đình là nhà con trai, nhà tráng đinh, nhà đình là nhà tổ của người Việt thể hiện tính dương.Đình làng Đình Bảng Tranh tham khảo Internet Người Katu có căn nhà thiêng liêng trên nóc có hình con chim mang dương tính, chim mỏ cắt, hình chim này đầu có mào hay mũ sừng hình nhọn biểu tượng cho dương, lửa, mặt trời. Con chim cho ấn tượng nhiều về con chim cắt. Nhà thiêng của Người Katu trên nóc có hình con chim đực, chim sừng, mỏ cắt Nhà mái hình võng hai đầu cong vểnh lên cũng có thể là biểu tượng của sừng trâu, sừng bò, nhiều khi phải dựa vào các trang trí sừng trâu ở đầu hồi hay trong nhà để xác quyết. Các tộc ở Nam Dương như Menangkerbau (kerbau: trâu), Batak… cũng có những nhà rông mái hình sừng trâu, Sừng trâu cho biết thuộc tộc, chi làm ruộng nước. Loại nhà này mang hình bóng ngôi đình của người Lạc Việt, làm ruộng nước. Batak Indonesia, Tongkonan Ảnh tham khảo Internet Nhà chuông cung Khảm Ta thấy ngay mấu chốt chính là người đứng ở cửa, cầm một vật gì hình tròn, đa số tác giả đều cho đây là một cái trống cầm tay hình tròn, hoặc chiếc cồng. Do nhà chuông mang tính âm so với nhà thuyền có chứa trống đồng, cho nên nhà chuông không thể chứa trống, vậy thì nó phải chứa những chiếc cồng, chiêng thể hiện âm tính so với trống. Cồng âm thanh trầm còn chiêng âm thanh cao, nhận định này hoàn toàn phù hợp các lễ hội nông nghiệp của vùng cao. Hình nhà chuông ở bán viên dương có nhóm 7 người nhảy múa Tấm phên bên trái phía trước nhà, có bảy hình ngữ giống cồng. Bên phải trong khung có 7 hình ngữ và ở phía ngoài có thêm một cái nữa, tổng cộng là 8. Hình tròn chấm bên ngoài hiện tính dương của cồng so với chiêng. Dưới gầm có cái siêu nước thể hiện cung Khảm. Cồng chiêng là nhạc cụ không thể thiếu trong đời sống văn hóa của các dân tộc vùng cao, từ xa xưa trong những áng sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường còn ghi rõ những không khí lễ hội có sự tham gia của chiêng cồng: Lễ hội cồng chiêng Ảnh tham khảo Internet Con trai đi trước khiêng trống,Con gái đi sau xách cồng,Đến Mường đánh lên hồi trống cái,Cồng bảy cồng mười lên tiếng cho giòn,Cồng cái cồng con kêu cho rộn… Trong hệ thống cồng chiêng cổ nhất của người Jrai thuộc ngành Tơbuăn ở làng Pang lang, xã La Chia, huyện Chứ Păh, Tây Nguyên, Việt Nam còn thấy cồng gồm 3 loại có núm và chiêng 7 loại không có núm, có bài hát phối cồng chiêng qua điệu Ayêl thong thả, chậm rãi, biểu hiện sự tình cảm mến thương, nhớ nhung và tôn trọng: Em như hoa bênh bung đang nở,Em như hoa bênh bang trổ lá trổ hoa,Em như ngôi sao ngân hà nhảy múa,Anh muốn như chim K’bong bay bay cao,Anh muốn như chim K’lang lượn nhào đôi cánh,Anh muốn như ánh nắng mai lấp lánh sớm nhiều,Để được đến bên em, ơi em quý em yêu. Nhà chuông cung Ly Hình nhà chuông ở bán viên âm có đám rước 6 người Chỉ khác nhà chuông cung Khảm là người không đeo cồng, vòng tròn bên ngoài nay đưa vào, dãy nhạc khí này là dãy cồng “lệnh ông không bằng cồng bà”. Dưới gầm sàn nhà, có một hố hay lò lửa thể hiện cung Ly. Như vậy, dàn cồng chiêng sẽ bao gồm 7 cái, tương ứng với nhóm người 7 người thể hiện đầy đủ nhạc lý theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Chúng ta cũng biết nhà thuyền mang tính dương như đình làng, nhà rông… dùng cho các hoạt động cộng đồng, còn nhà chuông mang tính âm thể hiện mặt tôn giáo, nếu nhận định là các công trình tôn giáo thì chưa phù hợp bởi lẽ nơi đây tôn thờ giáo vị giáo chủ hay các thánh cả nam lẫn nữ, như vậy chỉ những công trình mang tính tôn giáo thiên về nữ giới mới tương ứng. Do vậy, trong nền văn hóa Việt Nam đó chính là Đạo Mẫu, nơi tôn thờ các Thánh Mẫu của dân tộc. Đã có nhiều tác giả giải thích về hình các nhà âm này, sau đây là ý kiến của vài tác giả đã dẫn lại trong Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh (tr.25): Đào Duy Anh trong Văn Hóa Đồ Đồng và Trống Đồng Lạc Việt (Hà Nội, 1957) đồng ý với Gouloubev cho đây là cảnh đánh chiêng (tr.34). Nguyễn Văn Huyền, Hoàng Vinh tán thành ý kiến với ông Nguyễn Ngọc Chương cho đây là ngôi nhà để tiến hành nghi lễ có liên quan đến việc cầu mùa (Nguyễn Ngọc Chương, Tìm hiểu một số hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, Nghiên Cứu Lịch Sử No 141, Hà Nội 1971). Như vậy, chúng ta có thể nhận định ngôi nhà chuông chính là thể hiện những nơi thờ tự của Đạo Mẫu Việt Nam, hay chính là của các nơi thờ tự mẫu của các tôn giáo khác. Nội dung trên hoàn toàn phù hợp với các bức tranh dân gian Đông Hồ là Rồng dâng hương và Hạc tiến quả với tên chùa Hương Tích trên nóc điện thờ. Rồng dâng hương và Hạc tiến quả Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Con Nai là biểu tượng cho cõi Thượng Ngàn, đang dâng quả cho cho Thánh Mẫu trong điện thờ, như vậy chúng ta có thể nhận định đây chính là Thánh Mẫu Thượng Thiên. Con Rồng dâng hương trong bức tranh là biểu tượng của Lạc Long Quân, Nai biểu tượng cho Kinh Dương Vương, Mèo và Hạc đối ứng mang tính âm so với Nai và Rồng, đây chính là Chúa Mẫu Thoải (Âu Cơ) và Thánh Mẫu Thượng Ngàn (Long Nữ). Theo Cổ Lôi Ngọc phả truyền thư, có 18 đời vua Hùng (mỗi đời có nhiều vua kế tục, vua đầu tiên trong một đời gọi là vua chủ) bắt đầu từ Vua Kinh Dương Vương (lên ngôi năm 2897 tr.CN) truyền tới vua Hùng Vương thứ 18 là tương hợp với 18 cặp chim cò trên vành số 10. Vành số 10 cũng thể hiện Cõi Thượng Thiên và Thánh Mẫu Thượng Thiên là mẫu của vua Kinh Dương Vương, hay là mẫu của Thánh Mẫu Thượng Ngàn là hoàn toàn hợp lý. Trong nền văn hóa cổ đại của Ai Cập, có nhiều nữ thần nhưng quan trọng nhất là nữ thần mẹ hay còn gọi là nữ thần bò cái Hathor, bà được tôn thờ trong ngôi đền nổi tiếng Dendarah, đây là ngôi đền mỹ lệ nhất của đất nước Ai Cập. Ngôi đền Dendarah còn giữ lại một bàn đồ bầu trời sao và các hình tượng kỳ bí, mang những ý nghĩa ẩn dấu của lịch sử tôn giáo Ai Cập cổ đại, được trang trí ở trên trần và tường của ngôi đền. Theo Tử thư Ai Cập thì những linh hồn của người chết sau khi trải qua các cuộc kiểm tra dưới Cõi Âm một cách nghiêm ngặt, linh hồn của lương thiện tiếp kiến nữ thần bò cái Hathor, và sẽ có được “mảnh đất lau sậy” tươi tốt cho mình và sống một cuộc đời hạnh phúc mãi mãi. Bức tranh dưới đây thể hiện hình ảnh nữ thần bò cái Hathor nhô ra từ bụi hoa súng, hoa súng chính là biểu tượng của bà. Phía trước là nữ thần Tê giác và thần chết Osiris trong hình hài của một xác ướp, đầu chim ưng, đầu đội vương miện hợp nhất Bắc - Nam và hai tay nắm các quyền trượng.Nữ thần bò cái Hathor và Mảnh đất lau sậy Tranh và tượng cổ Ai Cập trước Công Nguyên Công trình kiến trúc Ponagar Po Nagar (Tháp Bà) là ngôi đền thờ Chămpa nằm trên đỉnh một ngọn đồi ở cửa sông Cái, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam, đây là nơi tôn thờ nữ thần Po Nagar, nữ thần có hình dạng của nữ thần Umar, vợ của thần Shiva. Thần Po Nagar hay còn gọi theo người Việt là Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Đây là ngôi đền cổ tuyệt đẹp với các dáng vẻ và đường cong thể hiện rất âm tính. Đền thờ Thánh Mẫu Thiên Y A NaNha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam Đền thờ Thần Đạo, Nhật Bản có viền nóc cửa hình vòm cong, con cháu của Thái Dương Thần Nữ Amareterasu thể hiện âm tính. Thần Đạo Công trình kiến trúc Nhật Bản Hình ảnh các tháp (stupa) của Phật giáo hình chuông có cán úp, phần đáy hình chuông úp là âm và trụ cột nhọn phía trên là dương, tượng Phật ngồi bên trong các tháp, kiến trúc tháp mang thuộc tính cực âm, với ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng. Tháp BurrabodurNam DươngĐền, tháp cổ ở BaganMyanmarMiến điện Dàn Trống Dàn trống ở bên nhà thuyền của nhóm 7 người nhảy múa Dàn trống có 4 người biểu tượng cho Tứ tượng, bốn phương trời. Người đứng là dương nhất thể hiện cung Ly phương Nam, người cuối cùng là Khảm phương Bắc, người kế người đứng là Chấn phương Đông và người còn lại là Đoài phương Tây. Những người đánh trống, đánh theo chiều thẳng đứng từ trên xuống mặt trời dương của mặt trống. Dàn trống phối hợp với dàn nhạc xướng tạo nên những cung bậc âm dương giao hòa cùng vũ trụ. Điểm đặc biệt là phía trước có một lá phướn rũ, trên lá phướn có vòng tròn có chấm mang tính dương. Đối với bộ trống đối diện thì lá phướn đang bay, hoàn toàn tương ứng với quy ước trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là “Dương tịnh, Âm động”. Trong nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, loại cờ dùng từ xưa tới nay là lá cờ ngũ sắc hình vuông, hay còn gọi là cờ thần, cờ tua với tâm cờ màu đỏ, các viền cờ theo trang trí màu sắc theo lý tương sinh từ trong ra ngoài: đỏ - vàng - trắng - đen - xanh lá cây - tua răng cưa đỏ, trung tâm lá cờ thêu chòm sao Bắc Đẩu, số lượng răng cưa mỗi cạnh là bảy răng hàm ý tương ứng với Nhị thập bát tú. Như vậy, lá cờ thần hợp với lá phướn trên mặt trống đồng sẽ tạo thành một bộ cờ âm dương. Người trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ Trang phục đầu hình chim, người chim có một khuôn mặt là người mặt trời, thần mặt trời Ra và thần Horus của tôn giáo cổ Ai Cập có khuôn mặt tương đương Kinh Dương Vương và Hùng Quốc Vương với đầu hay trang phục đầu chim ưng. Thần Cả Horus Thần Mặt Trời RaTrang phục hình chim Người trên mặt trống đồng gồm nhóm dương là nhóm 7 người nhảy múa và nhóm âm là nhóm 6 người nhảy múa, trang phục của 12 người này có hình chim. Nhóm 7 người nhẩy múa và nhóm 6 người nhảy múa ở bán viên âm Một số so sánh khác: Hoa văn trống đồng có 7 người tranh phục chim thì Lễ gieo hạt của người Ê Đê cũng có 7 người, Lễ tế Nam Giao của triều đình nhà Nguyễn cũng có 7 người. Lễ tế Nam Giao cũng có 7 người: 1 vị Cung kiếm - coi sóc, tính toán các lễ vật bày lên hương án; 1 vị Cung hầu - đứng hầu khi tế; 2 vị Hành nghi - xướng lễ trong khi tế; 1 vị Độc chúc - đọc văn tế và 2 vị Chấp sự - mang các lễ vật. Lễ gieo hạt có 7 người: 1 vị Chủ lễ (Khoa căm); 1 vị Tổ chức chung - Pô trưng cai; 1 vị Phụ trách lễ nghi - khấn; 1 vị chịu trách nhiệm sau một đoạn khấn lại thay trời hú lên mộ tiếng dài; 1 vị cầm gậy chọc lỗ xuống đất; 1 vị rắc hạt vào lỗ đất và vị còn lại làm thần mưa tưới nước vào rẫy. Ý nghĩa vành chim thú Như ở trên ta đã thấy vành thứ 6 trên mặt trống đồng Ngọc Lũ diễn tả cảnh sinh hoạt nhân sinh, kế tiếp là vành số 8 chim và thú. Giống như các yếu tố khác như người, nhà, trống thì chim thú trên trống đồng Ngọc Lũ cũng mang khuôn mặt tượng trưng nên phải hiểu theo ý nghĩa biểu tượng trong học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Ở vành số 8 này, mỗi phần dương và âm đều có một nhóm chim và một nhóm hươu, Phần dương của nhóm 7 người nhảy múa có nhóm chim 6 con và nhóm hươu 10 con trong khi phần âm nhóm 6 người nhảy múa có nhóm chim 8 con và nhóm hươu cũng 10 con. Những con chim bay này có mỏ to, đầu to, đuôi ngắn, chim có cái túi, cái nang dưới mỏ. Chim bồ nông trên trống đồng Ngọc Lũ Chim này là chim bồ nông. Trong thiên nhiên, chim bồ nông cũng mỏ to, đầu to, đuôi ngắn, hình khắc cũng giống như trong thực tế mỏ dài hơn nửa chiều dài cổ. Hình chim có túi dưới cổ trong tư thế bay ở thế liệng chứ không vỗ cánh, đầu rụt về phía sau, mỏ hạ xuống phía cổ. Đây chính là những nét đặt thù của chim nông, chim nông chân ngắn nên khi bay không thấy chân. Một mấu chốt chính nữa là những con chim này có con mắt âm diễn tả bằng chữ viết hình vòng tròn kép đồng tâm có chấm, con chim này phải là loài chim nước giống như chim nông là loài chim nước chân có màng như chân vịt. Hình ảnh chim bồ nông đã xuất hiện ở vành số 6 bay trên đầu người chủ tế nhưng lại được lặp lại ở đây rõ ràng phải mang một ý nghĩ chung nào đó? Chúng ta biết hưu là biểu tượng của Kinh Dương Vương và theo truyền thuyết thì Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông, do vậy Kinh Dương Vương là cháu 4 đời, số 4 là mấu chốt của vấn đề. Số lượng 2 nhóm, mỗi nhóm 10 con nai trên vành trống luôn chia ra từng đôi, một đực một cái hoàn toàn tương ứng nhận định lễ hội Tết Cơm Mới ngày 10 tháng Mười âm lịch và Tết Đoan Dương ngày 5 tháng Năm âm lịch, cho nên chim bồ nông cũng phải tương ứng, nghĩa là có hai nhóm: nhóm 4 cặp chim nông 8 con và nhòm 3 cặp chim nông 6 con. Vành 8 tượng trưng cho cõi Thượng Ngàn, được cai quản bởi Mẫu Thượng Ngàn, bà chính là hoàng hậu của vua Kinh Dương Vương. Trong lễ hội chọi trâu ngày 5 tháng Năm âm lịch, thì con trâu thắng trận sẽ được giữ lại nuôi và vỗ béo, chờ đến ngày làm lễ hiến sinh mồng 10 tháng Mười âm lịch của Thần Nông. Tục lễ chọi trâu này cũng đã được thể hiện trong bức tranh dân gian Đông Hồ Chọi Trâu, tuy nhiên nội dung bức tranh còn mang những ý nghĩa sâu xa khác. Hãy bưng xôi nếp của ta,Hãy bưng mâm thịt dê ra theo cùng.Khi bốn phương tế chung Thần xã,Đều tốt tươi khắp cả ruộng đồng. Ấy nhờ phúc lớn nhà nông,Trống khua, cầm sắt gảy chung nhịp nhàng.Đón Thần Nông rộn ràng lễ rước,Là để cầu cho được mưa lành.Để cho lúa nếp lớn nhanh, Gái trai dân chúng đủ dành dưỡng nuôi. (Bài 217, chương II, Kinh Thi, san định Khổng Tử, Nxb Văn học, 2004) Như vậy, nhóm 3 cặp chim tương ứng cung Chấn của Hậu Thiên Bát quái ứng vào mùa xuân, và nhóm 4 cặp chim tương ứng cung Tốn sau khi đổi chỗ Tốn Khôn ứng vào mùa Thu. Kết hợp với việc tương quan đến các lễ hội quốc gia và tôn giáo thì đây chính là “Xuân Thu Tế”, hoàn toàn chính xác vì Kinh Dương Vương là vua tổ nước Văn Lang với biểu tượng mặt trời. Nhóm 6 con chim ở ngay dưới nhóm 7 người nhảy múa trên bán viên dương Chim nông ở đuôi thuyền trên trống Ngọc Lũ và các trống họ hàng như trống Hoàng Hạ có hình đầu chim, đầu chim này có con mắt âm “hai vòng tròn đồng tâm có chấm” và cái túi dưới mỏ đã thể điệu hóa thành hình đa giác cho thấy đây là đầu chim nông. Chim bồ nông đi cặp với chim bồ cắt ở dạng lưỡng hợp âm dương, chim bồ nông rõ rệt nhất thể hiện trống đồng Hoàng Hạ. Chim bồ nông hai đầu Đồng bằng Danube, nhiếp ảnh gia Vladimir Kucherenko Hình trên là hai con chim đang đạp mái, chim mỏ có túi, chỉ có thể là hai con chim mỏ nông không thể nào là loài chim gì khác. Người nghệ sĩ tuyệt vời nào đó đã cho ta một cái “chìa khóa” để nhận diện ra loài chim này là động tác đạp mái. Hai con chim này có mắt âm là vòng tròn kép có chấm giữa và trên người có phụ đề hai vòng tròn kép. Vòng tròn kép đồng tâm có một nghĩa là âm. Đuôi thuyền hiện bồ nông cái và đực. Ở phía đuôi thuyền có hình hai đầu chim. Đuôi thuyền hình đầu chim có con mắt âm hai vòng tròn có chấm cho biết con chim này là chim nước, dưới mỏ có túi nang hình thể điệu hóa thành hình thang có mũi nhọn mang dương tính.Sau đuôi thuyền hình đầu chim bổ nông này có hình một đầu chim khác. Đầu chim thứ hai này có con mắt dương chỉ có một vòng tròn có chấm cho biết đây là con chim dương lửa. Mỏ lớn trên có bờm như sừng, đây là đầu chim cắt. <br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Như thế ở đuôi thuyền có dạng lưỡng hợp âm bổ nông với dương bồ cắt, chim bồ nông còn thấy chứng tích qua ca dao: Bổ nông là ông bồ cắt,Bồ cắt là bác chim di,Chim di là dì sáo sậu,Sáo sậu là cậu sáo đen,Sáo đen là em tu hú,Tu hú là chú bồ nông. Bài hát có thể có nhiều dị bản nhưng dù là bản nào đi nữa thì bao giờ con nông cũng được xếp lên trên hết. Điểm này cho thấy hình chim nông đã được ghi vào ngàn năm bia miệng ca dao. Các con chim nông này đang bay biểu tượng cho cõi Thượng Thế. Hòa hợp âm dương là điểm then chốt trên toàn cảnh trống đồng Ngọc Lũ, cũng như cho cả các Cõi Thượng Thiên, Cõi Thượng Ngàn, Cõi Nước và Cõi Đất. Điều này cũng còn được thể hiện rõ nét qua thạp đồng Đào Thịnh, nắp thạp là dương thân thạp là âm, khi đậy nắp lên thân thạp thì xuất hiện hình ảnh nam nữ giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh. Thân thạp thể hiện hai con thuyền một trước một sau có đầu gắn hai con giao long đang giao mõm và đuôi nhau, điều này chứng tỏ rằng những biểu tượng ngầm chứa nội dung một lễ hội đám cưới thời Hùng Vương “thuyền anh đi trước thuyền nàng theo sau”. Thạp đồng Đông Sơn chứng tỏ là một món quà quý và sang trọng trong các lễ cưới rất lớn. Bảy con chim bay trên chiếc thuyền đi sau, biểu tượng người nữ, chứng tỏ là độ số 7 của phương Nam theo Hà Đồ hay chúng ta hiểu là một đám cưới quyền quý phương Nam. Trong lăng mộ Triệu Muội cháu Triệu Đà, cũng đã khai quật được một thạp đồng Đông Sơn có khắc minh văn cũng chứng tỏ điều này. Thạp đồng Đào Thịnh Bản tàng lịch sử Hà Nội, Việt Nam Hươu nai ở vành số 8 Con đực gọi là hươu, con cọc, hươu sừng và con cái gọi là nai, con nai cái là con nái, con cái. Mang cũng chỉ hươu nai như mang gạc, kì mang, điểm này thấy rõ mang cũng có một nghĩa là có bầu, có mang, mang thai, cưu mang, từ mang hàm nghĩa sinh tạo, tạo hóa chỉ loài biểu tượng cho khuôn mặt sinh tạo tạo hóa cõi trên, cõi trời. Truyền thuyết và cổ sử Việt Kinh Dương Vương là vua tổ đất thế gian Văn Lang. Truyền thuyết cho rằng hươu mang hình bóng con người đầu tiên trên mặt đất như thấy qua từ Đông Á cổ kek có nghĩa là con hươu và cũng là con người đầu tiên trên mặt đất (James Churchward). Hai nhóm 5 đôi nai tương ứng Lưỡng nghi và Tứ tượng chia thành hai phần âm dương hai hòa của mặt trống. Con đầu đàn sừng phải có 5 mấu nhọn. Hươu đực dẫn đầu nhóm ở bán viên dương có nhóm 7 người nhảy múa Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là tộc Người Mặt Trời Kinh Dương Vương thái dương, như thế chúng ăn khớp với đại tộc Người Mặt Trời ở vành số 6. Con cuối cùng của nhóm là con nai cái có sừng phải ba mấu nhọn và sừng trái hai mấu nhọn. Con cuối cùng ở bán viên dương có nhóm 7 người nhảy múa là nai cái, có sừng phải có 3 mấu nhọn và sừng trái hai mấu. Nai cái cuối đàn ở bán viên âm Theo Nguyễn Văn Huyên, thì con nai cuối đàn này có sừng bên phải có 3 mấu nhọn. Con nai cái cuối đàn 10 con ở bán viên âm nhóm 6 người nhẩy múa Ta thấy theo hình vẽ thì nai cái cuối đàn phải ăn khớp với khuôn mặt của con hươu đực đầu đàn. Hươu đực là thú biểu của dương nam và nai cái là thú biểu của âm, nữ. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, phía nam là Kinh Dương Vương và về phía nữ Long Nữ. Mỗi nhóm hươu nai này có con đầu và con cuối mang tính chủ đại diện. Ta có thể suy ra 8 con hươu nai còn lại là 4 cặp biểu tượng cho tứ tượng dương và âm. Mười tám chim bay ở vành số 10 Kế tới là vành số 10 gồm 18 chim bay và 18 chim đứng. Cõi Thượng Thiên mang tính rất dương, cho nên trong số những loài chim cò, vạc, nông, hạc, cốc… mà trong chúng loại chim nào dương nhất sẽ là biểu tượng cho cõi này. Các loài chim trên là loài chim sinh sống của vùng đất có nước, ao đầm, chim biểu thật sự là con Cốc bởi có mỏ mang dương tính nhọn như mũi phi tiêu, có loài dùng mỏ đâm cá, từ Cốc biến âm với Cọc… Con Cốc mang âm tính nhiều hơn Cò vì chân Cốc có màng, bơi lội và lặn hụp dưới nước được, con Cốc thường có mầu đen là mầu của nước rất âm. Loài Vạc thường bay kiếm ăn ban đêm nên nó rất âm tính so các loài khác, còn loài Cò thường kiếm ăn vào lúc rạng Đông. Như vậy, con chim trên vành số 10 là con Cò mà dân gian thường gọi “U Cò” hay “Mẹ Cò”. Con Cốc là chim thể hiện tính cực âm trong dòng họ cò là biểu tượng của Lạc Long Quân, vua Cõi Nước. Nhìn chung cò có bờm rất cường điệu, rất đặc biệt, hình cờ phướn hay con diều gió bay theo chiều gió tạt ngang về sau, trên có tua hay mào, đặc trưng vương miện trên đầu các loài chim bay trước gió, thể hiện không gian, cõi trời. Hình ảnh con Cò đã đi vào lời ru muôn thuở của những người mẹ Việt Nam mang mật ngữ của cha ông: Con cò mà đi ăn đêm,Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.Ông ơi ông vớt tôi nao,Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.Có xáo thì xáo Nước trong,Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Cò trên trống đồng Ngọc Lũ bay ở thế liệng nghĩa là đang xoải cánh rộng buông la đà trong gió, không ở thế vỗ cánh hình chữ V và có nét đặc thù là khi bay cổ duỗi thẳng không co rụt cổ lại dựa vào vai, mỏ cũng duỗi thẳng, toàn thân trông như một mũi tên bay trong gió, con mắt dương vòng tròn chấm mang tính dương. Mười tám con cò bay trên trống Ngọc Lũ ở vành số 10, tuy nhiên nhìn tổng quát ta thấy 18 con cò bay này là chim biểu tượng cho đại tộc cò gió ứng với 18 đời Hùng Vương, với thời gian trị vì kể từ vua Kinh Dương Vương khoảng 2622 năm (vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm 2879 tr.CN và kết thúc thời An Dương Vương khoảng 256 tr.CN). Như vậy, trống đồng Ngọc lũ được chế tác trong thời kỳ vua Hùng Vương cuối cùng là Hùng Vương thứ XVIII, hoặc sớm hơn là thời vua Hùng Vương thứ XVII qua thuật tiên tri Phương Đông, có thể dự báo sự suy tàn theo chu kỳ của quốc gia. Tương ứng vành số 8 là cõi Thượng Ngàn, cho nên ở vành số 10 là cõi Thượng Thiên cao hơn cõi Thượng Ngàn, được quản lý bới Mẫu Thượng Thiên, do vậy con cò chính là biểu tượng của Mẫu Thượng Thiên, tức bà Vũ Tiên với ý nghĩa của từ ngữ là tiên múa hay chim múa.Một con chim nổi tiếng trong tôn giáo cổ Ai Cập là con cò Bennu, cò Bennu là hóa thân của nữ thần bò cái Hathor ở Cõi Thượng Thiên. Trong các bức tranh cổ, hình ảnh con cò Bennu thường đi cùng với những bông hoa súng, hoa súng cũng là biểu tượng của tôn giáo cổ Ai Cập. Trong bức tranh cổ trong Tử thư Ai Cập dưới đây, một linh hồn đang đứng trước và giơ hai tay lên, bày tỏ sự tán thán tới nữ thần cò Bennu: Cò vàng Bennu ở lăng Anhurtkhawi, vùng Thebes (Triều đại thứ 20) Vùng nước thế gian Vùng Nước thế gian ở tang trống đồng âm dương Ngọc Lũ Nguồn: Trống đồng Đông Sơn, tác giả Hà Thúc Cần, 1989 Hai phần trang trí với các vành chữ viết chính vùng nước ở giữa của tang trống có chủ thể là 6 hình thuyền. Trong lịch sử văn hóa nhân loại, có nhiều loại thuyền biểu tượng như thuyền tang dùng như một phương tiện chuyên chở người chết tương đương với xe tang ngày nay, dưới đây là tuyền tang Ai Cập cổ đang chở một xác người đem đi chôn, thuyền được trang trí đầu dê rừng Ibex biểu tượng của Thần Mặt Trời, phía trên mái che là thần chó rừng Anubis. Thuyền tang Ai Cập Thời Trung Vương Quốc (2040-1640 tr.CN) V. Goloubew gán cảnh các con thuyền trên trống đồng với lễ chiêu hồn Twah của người Đay-ắc ở Indonexia. Lễ Twah diễu hành trong 7 ngày nhằm mục đích giải thoát cho hồn người chết về thế giới bên kia. Goloubew xem ngôi nhà sàn mái cong là “nhà chứa linh hồn” còn hình thuyền đây là “thuyền vàng” dùng để chở linh hồn người chết về vương quốc của họ. Thuyền đưa linh hồn (thuyền đưa vong) được ghi lại ở nhiều dân tộc, chẳng hạn như thuyền đưa linh hồn của người Tempon Telon, mũi và đuôi của chiếc thuyền này đều có hình con chim mỏ cong là hình ảnh của con chim bồ cắt, dương so với chim bồ nông, âm. Nguồn của Kampes dẫn theo Tạ Đức ( ) <br style="mso-special-character: line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Truyền kỳ trong tâm thức dân gian rằng: dân tộc Giao Chỉ có tục, khi cha mẹ chết các con dùng thuyền rồng đưa linh hồn cha mẹ về miền cực lạc với tổ tiên. Thuyền rồng phải đi qua dòng sông Ngao do thầy Pháp dẫn lối, dòng sông này người Thái ở Tây Bắc Việt Nam gọi là sông Ta Khái. Dòng sông của cõi hồn vắng lặng như dải khăn tang, mặt nước bạc trắng cuồn cuộn chảy, giữa dòng những ngọn đá trắng nhô lên lởm chởm, sóng xô nghe xốn xang khắc khoải, hai bên bờ sông những tốp ma ăn mày đói rách gớm ghiếc, chực xin ăn, cấu xé tranh dành lẫn nhau. Thầy Pháp phải gạt chúng ra, để người nhà của linh hồn ném tiền giấy cho chúng. Trên dòng sông Ngao, có chiếc cầu nhỏ mảnh khảnh khó đi, bên kia cầu có con chó Ngao mắt đỏ ngầu dữ tợn đứng canh, trông chừng những linh hồn đi qua. Những hồn khi còn sống ăn ở phúc đức thì chó Ngao mừng rỡ, cúi đầu nhường lối cho linh hồn, còn những linh hồn khi còn sống ăn ở bạc ác thì chó Ngao nhe răng sủa mấy tiếng, rồi chồm lên cắn xé, quẳng linh hồn xuống sông (tham khảo bài viết trên internet). Thuyền Bổ Cắt hay thuyền châu báu dùng cho phái nam Plate XIX, illustration 22 Thuyền liên hệ với nước, nước là mẹ của sự sống, vì thế thuyền biểu tượng mang trọn vẹn ý nghĩa sự sống, chết và tái sinh, hằng cửu. Thuyền tái sinh thấy rất rõ trong truyền thuyết cổ Ai Cập, hình thuyền trên một sợi dây chuyền cổ của vua Tutankhanum, con bọ hung tiêu biểu cho thần mặt trời bình minh biểu tượng cho tái sinh. Đĩa tròn đỏ biểu tượng mặt trời mọc, trong khi hai đĩa tròn vàng trên hai vành trăng bán nguyệt trên đầu hai con vượn biểu tượng mặt trăng (Peter Miller, National Geographic, April 1988, tr. 540-541).Dây chuyền Cổ vật mộ vua Tutankhamun (1333-1323 tr.CN) Hai cây gậy âm dương “was” ở hai bên xác nhận chiếc thuyền này mang ý nghĩa âm dương, nguyên lý căn bản của Vũ Trụ Tạo Sinh. Đầu gậy có hình con cáo biểu tượng cho dương, chân gậy có hình túi vòm, âm. Thần Bầu Trời Nut của Ai Cập cổ thường diễn đạt bằng hình người đàn bà uốn cong hình vòm trời, còn cây quyền trượng chống đỡ như phần chân tay của thần đất Geb. Giống như 6 người múa trên mặt trống, trong 6 thuyền sẽ có hai thuyền biểu hiệu cho Lưỡng Nghi và 4 thuyền cho Tứ Tượng, nói một cách khác có ba thuyền thuộc phía âm và 3 thuyền dương. Hình dạng và kích thước các thuyền trên trống Ngọc Lũ đều giống nhau nhưng về chi tiết không một thuyền nào giống một thuyền nào, như vậy điểm mấu chốt là phải nhận diện ra hai chiếc thuyền đại biểu Âm Dương. Giống như biểu tượng đặc trưng của nhà thuyền và nhà chuông là trống và chiêng, thì các con thuyền cũng tương tự. Thuyền chứa trống là dương và thuyền chứa vật dụng đối ứng âm của nó hoặc lật ngửa trống, cường độ tùy theo sự sắp xếp theo số lượng. Ta xác định ngay được 3 thuyền âm và 3 thuyền dương, thuyền cực âm là thuyền không chứa trống hoặc bất kỳ thứ gì dưới “đài”. Riêng thuyền cực dương thể hiện chỉ có một mái chèo, tức nhát chèo đầu tiên vào”Cõi âm” và những người trên thuyền “âm” hơn để gia tăng tính “dương” so với thuyền kia. Do đó, chúng ta đã xác định được hai thuyền Lưỡng nghi, kết hợp hình tượng “trống” và “không chứa gì” đọc là “Trống không”. Các thuyền còn lại dễ dàng sắp xếp theo thuộc tính âm dương qua cái trống, thuyền chứa siêu nước chính là thuyền Khảm, 6 thuyền sắp xếp theo thứ tự cường độ giảm dần như sau từ dương đến âm: trống với thuyền một mái chèo - trống với thuyền hai mái chèo - trống lật ngửa - trống lật ngửa và cái nậm - siêu nước - không chứa gì. Trên tang trống Ngọc Lũ I có 6 con thuyền, được đánh số theo quy tắc như sau: Thuyền số 1 biểu tượng DƯƠNG - Thuyền số 2 biểu tượng ÂM Thuyền số 3 biểu tượng cung CHẤN - Thuyền số 4 biểu tượng cung ĐOÀI Thuyền số 5 biểu tượng cung LY - Thuyền số 6 biểu tượng cung KHẢM Vì tang trống là biểu tượng cho Cõi Âm, cho nên 6 con thuyền phải liên quan tới Cõi Âm hay cái chết, trước khi tìm hiểu sâu hơn, cần tham một số các loại thuyền biểu tượng liên quan đến Cõi âm trên thế giới. Phía dưới mạn thuyền không có hình tượng của nước, chứng tỏ con thuyền “lướt trên không”, bay trong không gian tức con thuyền chở linh hồn. Linh hồn người chết như một đứa trẻ trần truồng ngồi trên sàn thuyền đang bị canh giữ và phán xét. Đặc biệt, tại cung Chấn có hai linh hồn khác hoàn toàn với các con thuyền khác chỉ có một linh hồn, chỉ ra nó mang một ý nghĩa quan trọng nào đó, bởi vì mỗi con người chỉ có một linh hồn mà thôi. Giả thiết rằng, nếu trước khi đổi Tốn Khôn trong Hậu thiên Bát quái thì nếu dùng nó bố trí là không hợp lý, cho nên con thuyền được xác định ở cung Chấn thì phải “chứng minh” đại diện Bát Quái hay cho cả cung Khôn đúng hay “hai linh hồn” thể hiện lại sự đổi Tốn Khôn nhằm xác định học thuyết đã được hiệu chỉnh qua thể hiện. Cũng tương tự như vậy, chiếc thuyền cung Đoài cũng phải thể hiện được thay đổi điều này, rõ ràng chiếc thuyền này có 4 người (thay vì 5 người) chính là độ số của cung Tốn, đã được đổi Tốn Khôn. Cung Chấn và cung Đoài chính là trục Đông - Tây hay còn gọi là trục Sinh - Tử của vạn vật hữu tình. Trục Tây Bắc - Đông Nam trong Phong thủy gọi là trục Thiên Môn - Địa Hộ, đổi Tốn Khôn được gọi là là mở Địa Hộ, tức trước đây Địa Hộ đã bị khóa lại. Nhóm người này đang thực hiện một cảnh phán xét linh hồn, các thuyền thể hiện một chu trình phán xét linh hồn người chết. Trên hai thuyền Chấn và Đoài có con thú trông giống như con chó nhỏ đứng sau Cầu Thử thách, con chó này gác Cầu Thử Thách hay gác cổng từ Cõi Âm lên Cõi Trên. Chúng phụ giúp người gác cổng Cõi Trên xé xác hay ném những linh hồn ác xuống vực thẳm âm ty. Chúng có một khuôn mặt liên hệ với Thần Anubis đội lốt chó rừng của tôn giáo cổ Ai Cập, đang giữ vai trò giám sát việc cân trái tim của linh hồn, một bên quả cân là cái lông chim, nếu con người là điều thiện thì cân thăng bằng còn làm ác thì ngược lại, lúc này trái tim sẽ bị con linh thú Ammit vồ lấy ăn ngấu nghiến.Thần Anubis Tượng cổ và tranh cói Tử thư Ai Cập Tại các ngôi chàu, đình, đền, miếu… chúng ta thường thấy hình con chó đứng trên đỉnh trụ hoặc tam quan, sơn môn mà dân gian hay gọi là con Nghê, chính là hình ảnh con chó linh canh giữ khi hoàng hôn xuống. Con chó được chọn làm linh thú bởi sự trung thành tuyệt đối của nó đối với người chủ của mình, thể hiện chữ “Tín”. Con Nghê Tượng gốm sứ cổ, Việt Nam Hình ảnh con chó còn liên hệ đến con chó ngao ở địa ngục của nhà Phật, và nó có vẻ gần giống con chó ngao hơn bởi vì chân rất cao. Trong hệ thống tranh thờ Đạo giáo dân gian Việt Nam, có bức tranh Đám Rước, cũng thể hiện con thuyền vượt qua sông mê, bến lú cập vào vùng đất vĩnh cửu, linh hồn phải qua một chiếc cổng lớn, phía dưới cổng thành là hìn ảnh của một con chó canh giữ. Đám Rước Trích từ bức tranh thờ Đạo giáo Đám Rước, miền Bắc Việt Nam Trong văn hóa Ấn Độ, Cõi Chết do Diêm vương Yama làm chủ, hồi ban đầu thế giới của Yama cũng chính là thế thế giới của thần linh, đó là một thiên đường mà người ta phải lội nước và qua cầu để tới. Chiếc cầu, trong huyền thoại thế giới, thường được ghi là cầu hẹp nhất, nhất là đối với kẻ ác, có lẽ để nói lên tính cách nghiêm ngặt của việc xét hỏi, gạn lọc. Hai con chó ngao mà linh hồn phải đi qua để tới Yama chắc cũng tượng trưng cho sự xét hỏi, gạn lọc đó, vì hình như nhiệm vụ của chúng là canh giữ cõi thiên đường, và không phải ai chúng cũng cho vào (tham khảo cuốn Triết sử Ấn Độ I, tác giả Hoàng Sơn và Hoàng Sĩ Quý, Nxb Hưng giáo Văn Đông). Trong thần thoại Hy Lạp, Cerberus hay Kerberos, là con chó săn ba đầu của Hades, với cái đuôi rắn, là con vật canh giữ ở cổng địa ngục. Cerberus giữ cổng cho Hades và đảm bảo chỉ có linh hồn người đã chết mới được vào và ngăn không cho bất kỳ ai ra. Trong cõi địa ngục, nó vẫn có một ao ước là có được một cái đầu người, điều đó chứng tỏ Cerberus có nhân tính chứ không phải là thú vật. Tượng đồng (thế kỷ thứ V tr.CN) Tham khảo Internet Nhóm người thực hiện công việc phán xét linh hồn tùy mỗi loại thuyền 5 và 6, hai con số này tương ứng dương hoặc âm tùy cung nào trong Hậu Thiên Bát quái, nhưng theo quy ước Dương trước Âm sau, cho nên con thuyền số 1, Dương có 6 người, do vậy nhóm 6 người là đầy đủ, nếu con thuyền là một hình thức văn hóa tín ngưỡng dân gian liên quan đến thủ tục tang ma. Người thuyền trưởng ngồi ở mũi thuyền tay đều cầm gậy hay khí biểu đầu chẻ hai hình chạc cây Y, giống cây rìu chiến, vì thế rìu chữ Y trên trống Ngọc Lũ này có đầu rìu thay đổi với tính âm dương. Như thế rìu chữ Y thấy ở tay người thuyền trưởng là thứ rìu lửa sấm sét. Sấm sét là dạng giao hòa âm dương vũ trụ, thái dương thái âm có một khuôn mặt mang nghĩa sinh tạo. Mặt khác, nhìn theo diện tín ngưỡng búa rìu sấm sét là búa rìu thiên lôi, búa rìu nhà trời, phán xét. Những kẻ ác thường bị sét đánh, trời đánh. Trên mỗi thuyền có một người dùng tay trái gõ vào một cái trống hình lục giác đặt trên một cây trụ biểu tượng cho Trục Vũ Trụ. Trống Cây Vũ Trụ trên thuyền trên trống đồng Ngọc Lũ Trống hình lục giác biểu tượng không gian, hợp nhất âm dương thành ánh sáng, “tính Không” là sự hợp nhất giữa trống âm và trống dương. Tay phải của người này nắm đầu một người nhỏ bé, trần truồng ngồi trên sàn thuyền, đây là linh hồn người chết. Tay trái của người này thì gõ trống, đây chính là người phán xét linh hồn, người này gõ trống lục giác để khơi động “Tính Không” để làm cơ sở so sánh với mức độ thiện, ác của linh hồn. Trống lục giác mang hình ảnh của con mắt thần nhìn thấu suốt các cõi hay cái gương thần dùng ánh sáng chiếu rọi muôn phương, dùng trong quá trình phán xét linh hồn. Sau khi được phán xét xong, linh hồn thiện, tốt được cho qua Cầu Thử Thách để về miền hằng cửu ở Cõi Trên, và các hồn ác bị tống xuống Cõi Âm.Hình vẽ trên đá Thời Đông Hán, Trung Quốc Bức họa trên đá thể hiện một cái trống bịt da hai mặt Thái Cực đặt ở trung tâm, được đặt trên trụ gỗ. Trong mỗi trống hình lục giác, phía trên trống bên cạnh hình đầu chim, trên bốn thuyền còn có cắm thêm các gậy hay khí giới biểu tượng, đầu chim cắm trên trống biểu tượng cõi trên. Những hình vật này giúp nhận diện các thuyền, không một trống lục giác nào giống nhau về chi tiết. Trong đồng văn (kim văn) cổ ngữ zhù diễn tả bằng một hình trống thờ gọi là jian, để trên một trụ cao có trang trí bằng hình lông chim, lông chim hay chim có một khuôn mặt mang biểu tượng cho Cõi Trời. Hình cây và chim thấy rõ trên trống jian khắc trên giáp cốt hay kim văn. Trống thờ Jian khắc trên giáp cốt, kim văn, cổ văn và đá, gạch (Wang Hongyuan 2004). Cầu Gian Nguy Ở trống Ngọc Lũ và các trống họ hàng, trên mỗi thuyền, phía sau cảnh phán xét linh hồn đều có một cây cầu thử thách có hình một đài cao. Cầu gian nguy là cây cầu mà người chết phải đi qua để chịu sự thử thách cuối cùng trước khi được về cõi hằng cửu, Cõi Trời. Những linh hồn ác hay tội lỗi không thể nào vượt qua được cây cầu này và bị rơi xuống vực thẳm của Cõi Âm. Cầu Thử thách là nhịp cầu nối, giao thông giữa Tam Thế đúng như M. Eliade đã ghi nhận: “Sự giao thông giữa thiên đường và trần gian có thể mang lại-hoặc có thể là illo tempore- bởi một vài phương tiện thể chất (cầu vòng, cầu, cầu thang, cây thang, dây, rợ, “xâu chuỗi mũi tên”, núi, v.v…). Tất cả những hình ảnh biểu tượng của sự liên kết giữa trời và đất chỉ là dạng biến thể của Cây Thế Giới hay trục vũ trụ. Trong một chương trước, chúng ta đã thấy huyền thoại hay biểu tượng của Cây Vũ Trụ bao hàm ý của “Trung Tâm Thế Giới” ở điểm mà đất, trời và âm thế gặp nhau” (M. Eliade, 1964, p. 492). M. Eliade cũng đã viết: Người Niassans biết rằng Cây Vũ Trụ đã sinh ra mọi vật. Để đi lên trời, người chết đi qua một cây cầu, dưới cầu là vực thẳm của Cõi Âm. Một người gác với lao và khiên đứng ở cổng trời, một con mèo giúp hắn ném hồn người ác xuống nước hỏa ngục. Quan niệm về cây “cầu gian nguy” này rất phổ thông trong tôn giáo ở Đông Nam Á: Có một sự tương đồng giữa phức thể này của người Niassans và ý tưởng của người Naga ở (cận) Ấn Độ (Naga là người Rồng), chúng ta có quan hệ với di tích của cái gọi là nền văn minh Nam Á, chia xẻ với người Tiền-Aryan và Tiền-Nam Ấn của Ấn Độ và đa số của dân bản địa ở Đông Dương và Quần Đảo Ấn Độ. Một điểm rất quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là cây cầu thử thách trên các thuyền này trong quá trình phán xét linh hồn người chết mà M. Eliade đã xác nhận là thuộc nền văn minh Nam Á và của dân bản địa Đông Dương, trước cả nên văn hóa Tiền Aryan và Tiền Nam Ấn của Ấn Độ. Phong Đô (Feng Du), thành phố của Người Chết, tại đây có những cảnh Cõi Âm, địa ngục và cũng có một tấm bích họa vẽ chiếc cầu thử thách này. Trong Đạo giáo, cây cầu này có tên gọi là cầu Nại Hà. Cầu thử thách có ba tầng: tầng trên hay Cõi Thượng Thiên là khoảng không gian trên mặt cầu biểu hiệu bằng một hay hai cây trụ hay thành cầu có hình đầu chim. Sàn cầu biểu tượng Cõi Trời, Cõi Thượng Ngàn, một người đứng trên sàn cầu cầm cung, là người gác cổng Cõi Trời, người này có nhiệm vụ chỉ cho những linh hồn thiện, tốt đi vào Cõi Trời và ngăn chặn, tống các linh hồn ác ra khỏi Cõi Trời. Phần dưới thuyền gầm cầu là Cõi Dưới, Cõi Nước, có con chó Ngao đứng canh giữ, linh hồn bắt buộc phải đi qua gầm cầu trước để được phán xét. Trống Hoàng Hạ, ở thuyền số một, có một linh hồn đang đi vào cổng để vượt qua thử thách cuối cùng để lên Cõi Trời. Tất cả những người chèo thuyền đều cầm tay chèo có đầu chèo hình đầu chim cho thấy những con thuyền này biểu tượng cho Cõi Trời của dòng nước và đều có thể bay trong không gian được, bằng chứng là dưới thuyền không có một dấu vết sóng nước nào cả. Cõi Nước ở trên cũng là cõi linh hồn, không hàm nghĩa là ở dưới nước, hình tượng “nước” chỉ mang ý nghĩa biểu tượng mà thôi. Đầu tay chèo hình đầu chim Người phụ tá thuyền trưởng, người này ở ngay phía sau người thuyền trưởng Linh hồn người chết như một đứa trẻ trần truồng ngồi trên sàn thuyền đang bị canh giữ và phán xét. Trên thuyền này có “hai linh hồn”. Vũ trụ quan của Việt cổ tin là lúc nào linh hồn con người cũng trẻ thơ như một đứa trẻ, tự nhiên, thiên nhiên, trần truồng không quần áo, không trang sức, với năm tháng thân xác con người già đi nhưng linh hồn người mãi mãi vẫn là trẻ thơ, khi chết những linh hồn trẻ thơ này vẫn thế và được về miền vĩnh cửu hay tái sinh. Người phán xét linh hồn: người này một tay để lên đầu linh hồn, một tay gõ vào trống Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng tử sinh trong quá trình phán xét linh hồn. Người này tay trái gõ vào trống Thái cực, Cây Vũ Trụ, Cây Đời để khơi động vòng sinh tử, để phán xét linh hồn. Những người này đang tham dự những cảnh phán xét lLinh hồn. Những thuyền này là những thuyền phán xét linh hồn, ở những trống diễn tả Tam Thế trọn vẹn, chính thống như trống Ngọc Lũ, Cõi Âm thường được diễn tả qua hình ảnh những con thuyền phán xét linh hồn ở trên vùng mặt nước thế gian ở tang trống. Sáu con thuyền hoàn toàn là biểu tượng cho thuyết phán xét linh hồn qua học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Như đã biết, tổng quát các mũi thuyền đều biểu hiện dương chim bồ cắt và tại đuôi luôn mang tính âm dương hòa hợp tức bồ cắt đực và cái, đuôi thuyền biểu tượng cho âm, chim bồ nông tương ứng, còn thân con thuyền mang hình ảnh con giao long. Như vậy, chúng diễn tả linh hồn cưỡi trên chiếc thuyền rồng chim, vượt khỏi Cõi Âm để tới Cõi Trời, và vượt khỏi Cõi Trời để hợp nhất với Cõi Thái Cực, Nhất Thể. Một chiếc muôi đồng Đông Sơn dùng trong tế lễ, có cán muôi được trang trí giống như đuôi thuyền trên trống đồng Đông Sơn. Muôi đồng Đông Sơn Cổ vật tham khảo Internet Thuyền trên trống Ngọc Lũ là thuyền phán xét linh hồn, chúng mang trọn ý nghĩa vũ trụ luận, trong 6 chiếc thuyền, 2 thuyền biểu tượng Lưỡng Nghi, 4 chiếc còn lại biểu tượng Tứ Tượng. Bây giờ ta so sánh thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ với các thuyền trên các trống và đồ đồng Đông Sơn khác để xác thực qua thạp đồng Đông Sơn thấy trong mộ Nam Việt Vương Triệu Mộ, Quảng Đông, Trung Quốc. Thạp đồng Đông SơnMộ Nam Việt Vương Triệu Mộ, Quảng Đông, Trung Quốc Đầu thuyền diễn tả linh thú giao long đã thể điệu hóa không có con mắt, có hình cây đinh ba biểu tượng Cõi Trời, quẻ Càn, phương Đông. Phía trước thuyền có con chim trông giống họ nhà gà trống, gà biểu tượng cung Tốn hành Kim, Cõi Chết, Cõi Nước, phương Tây. Đuôi thuyền có ba con chim thứ tự đứng lên trên lưng của nhau, con trên cùng là bồ cắt hướng bay vọt lên thẳng đứng, con kế tiếp là con chim bồ nông, con cuối giống con rái cá là loài sống trên cạn, nhưng kiếm ăn dưới nước, mang lưỡng tính; con rái cá đứng trên một thân cây và thân cây dựa lại trên sống lưng một con cá đang quay về phía lái thuyền. Phía mũi thuyền, phía dưới mạn là con chim đứng dưới nước có chân cao, có lẽ là con chim quốc. Dưới cổng là một siêu nước, điều này chỉ ra đây là con thuyền thái âm, đang vượt ra khỏi Cõi Nước hay Cõi Chết, về miền Thái Cực, thể hiện ý nghĩa tái sinh và hằng cửu. Toàn bộ cảnh các con chim đứng trên lưng nhau từ sống lưng cho cá thể hiện một Trục Vũ Trụ, nối liền các cõi. Thạp đồng diễn tả cảnh thuyền phán xét linh hồn liên hệ tới quá trình sống, chết, tái sinh và hằng cửu nên được đặt trong mộ Nam Việt Vương Triệu Mộ. Thuyền mang ý nghĩ biểu tượng từ nguyên thủy diễn tả bằng hình tượng hợp nhất giữa chim và giao long, về sau thần thoại hóa thành các linh thú như thuyền rồng Văn Lang, thuyền tang rắn nước chim cắt Nam Dương, naga Ấn giáo, thuyền trời Ai Cập cổ đầu dê ibex... Trống đồng Đông Sơn giúp ta hiểu rõ đích thực ý nghĩa nguyên thủy của những con thuyền biểu tượng từ nguyên sơ cho tới hiện nay như thuyền tang, thuyền rồng, thuyền chim. Thuyền trên trống đồng cũng ghi lại quá trình tạo ra một linh thú như long, lân, qui, phượng, nghê… Nguyên thủy của linh thú là một con thú chủ rồi về sau trên người con thú này có ghép các phần thân thể của các con thú khác và trở thành một đa thú, một linh thú, một con thú thần thoại, mang biểu tượng cho các hình tượng của tín ngưỡng. Như vậy, con rồng Việt có cốt là linh thú thân giao long, vảy cá chép, đầu sư tử, đuôi giao long. TRỐNG HOÀNG HẠ Trống đồng âm dương Hoàng Hạ tìm thấy ở làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông, Hà Sơn Bình, hiện được lưu giữ ở Bảo Tàng Viện Lịch Sử Việt Nam. Trống đồng Hoàng Hạ với vị trí các nhà thuyền và nhà chuông tương ứng với trống đồng Ngọc Lũ, do vậy nó vẫn thể hiện nền tảng cấu trúc hình học theo Hậu Thiên Bát quái phối Hà đồ. Trung tâm trống đồng Hoàng Hạ có mặt trời 16 tia sáng thể hiện độ số 6 của cung Tốn của Tiên Thiên Bát quái, còn 14 tia sáng trên trống đồng Ngọc Lũ thể hiện cung Tốn trong Hậu Thiên Bát quái. Trống Hoàng Hạ là sự kết hợp với trống đồng Ngọc Lũ I về cách diễn đạt vũ trụ quan và nhân sinh qua học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, vì thế chỉ cần nhấn mạnh vào những điểm đặc biệt của trống đồng Hoàng Hạ so với trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng Hoàng Hạ thể hiện Tiên Thiên Bát quái qua biểu tượng mô tả Hậu Thiên Bát cho nên nó mang tính dương so với trống đồng Ngọc Lũ mang tính Âm, cả hai tạo thành cặp trống âm dương phối hợp. Trống thể hiện âm dương kế hợp gọi là là trống âm dương là trống bịt hai đầu như trống da con trâu, trâu là tượng Thổ nên cuộc chọi trâu diễn ra vào ngày mồng 5 tháng Năm âm lịch và tế Thần Nông vào ngày 10 tháng Mười âm lịch, khi chúng kết hợp sẽ tạo thành nhất thể, Thái cực hay ánh sáng, tương ứng trục Càn - Khôn trong Tiên Thiên Bát quái hay Ly - Khảm của Hậu Thiên bát quái. Nếu trống đồng hai mặt sẽ đánh không kêu, điều này nói lên phát khí mất tác dụng do vậy trống đồng hai mặt không được dùng, vậy thì hợp nhất hai trống đồng được giả quyết như thế nào? Chúng ta cũng biết trục Càn - Khôn đi qua ngôi hai nhà chuông, biểu tượng của các ngôi nhà chuông chính là chuông đồng Đông Sơn, với hình ảnh người Việt biểu hiện ngay trên thân chuông, do vậy việc lý giải ý nghĩa của chuông đồng Đông Sơn là không thể tách rời với trống đồng Đông Sơn. Mặt trống đồng Hoàng HạPhạm Huy Thông và các cộng tác viên Mặt trống Hoàng Hạ được định vị qua nhà thuyền và nhà chuông, đặc biệt nhà chuông nơi có hai con chim quay vào nhau ứng với độ số 2 cung Khôn trong Hậu Thiên Bát quái, sẽ nằm phía trên ứng với ý nghĩa thể hiện Tiên thiên Bát quái (theo hướng Bắc nằm phía trên theo quy tắc của bản đồ hiện đại), còn ngôi nhà chuông kia nằm ở phía dưới. Hai ngôi nhà thuyền còn lại vẫn nằm trên trục Tây Bắc - Đông Nam. Trống đồng Hoàng Hạ thể hiện biểu tượng qua Hậu Thiên Bát quái nhưng cái lý thì mang ý nghĩ Tiên Thiên Bát quái, ví dụ một biểu tượng nhà thuyền dương so với nhà thuyền âm trên trống đồng Ngọc Lũ nằm trong lý Hậu Thiên Bát quái, thì chính nó cũng được so sánh tới nhà thuyền tương ứng vị trí trên trống đồng Hoàng Hạ nhưng ở vai trò âm, thể hiện cái lý Tiên thiên Bát quái. Một trống đồng Điền, Vân Nam, Trung Quốc thể hiện một cảnh hiến tế người, quang cảnh có hai cái trống cực lớn đối xứng qua trụ hiến tế, đây chính là chiếc trống Thái Dương (thể hiện lý Tiên Thiên Bát quái) và Thái Âm (thể hiện lý Hậu Thiên Bát quái). Tương ứng với trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Hoàng Hạ cũng có vành sinh họat nhân gian, cho biết trống là trống thế gian, vành sinh hoạt nhân sinh cũng có các yếu tố giống như ở trống đồng Ngọc Lũ nhóm người nhảy múa, nhà thuyền, nhà chuông… duy chỉ khác các chi tiết tương ứng với tính âm dương giữa hai loại trống. Mỗi nửa mặt trống theo thứ tự có hai nhóm người 6 người nhảy múa, nhà gian, cảnh giã chày cối và dàn trống, khác với trống đồng Ngọc Lũ có hai nhóm 7 người và 6 người nhảy múa: Trong trống đồng Ngọc Lũ, một nhóm 7 người thể hiện hoàn toàn đầy đủ thuyết Âm Dương Ngũ Hành khởi thủy từ Thái cực - Lưỡng nghi - Tứ tượng mang tính dương là chủ chốt, nhóm đối diện so với nó sẽ là âm, số 6 không còn Thái cực, và nhóm 7 người này so với trống Hoàng Hạ sẽ là âm, cho nên nhóm tương ứng sẽ là dương và là 6 tên trống Hoàng Hạ, như vậy trống đồng Hoàng Hạ sẽ có hai nhóm 6 người nhảy múa. Hình chi tiết nhóm 6 người nhảy múa Điểm âm này được xác thực rất rõ là ở trên đầu của người cuối cùng mỗi nhóm có con chim nông bay còn ở trống đồng Ngọc Lũ không có, chim nông là chim cõi trời, cõi trên thể hiện tính đối ứng với trống đồng Ngọc Lũ. Bốn người đi sau trong nhóm cầm các nhạc cụ, đặc biệt người sau cùng cầm ở tay trái một nhạc cụ như cái chuông. Những người nhảy múa hướng về căn nhà chuông không gian có mái hình vòm không gian, vòm trời. Nhà nòng ở bán viên âm Ta cũng thấy rất rõ trên nóc nhà chuông có hình hai con chim quay vào nhau trong khi ở căn nhà chuông kia không có chim. Con nhỏ con mang nhiều dương tính, trên người có hình vòng tròn chấm có một nghĩa là mặt trời. Con lớn mang ít dương tính hơn, mỏ nhỏ, ngắn mang ít dương tính. Hai con chim cho biết nhà thể hiện tính dương Càn trong Tiên Thái Bát quái nên đặt ở phía trên. Bên trái căn nhà có 5 hình vòng tròn có chấm, hình cái cồng biểu tượng cho phái âm, nữ, bên phải có 6 cái cồng, một cách tương ứng với trống đồng Ngọc Lũ. Dưới gầm nhà là cái chậu âm tính. Nhà âm ở bán viên dương Nhà chuông đối diện qua tâm trên nóc nhà không có hình chim. Bên trái cửa có 6 hình vòng tròn có chấm, bên phải có hình sóng nước có ba hình vòng tròn có chấm mang nghĩa cung Ly của Hậu thiên Bát quái đối ứng nhà chuông trên trống đồng Ngọc Lũ, nay lại trở thành cung Càn với lý của Tiên thiên Bát quái. Dưới gầm nhà có bình nước tương ứng cái chậu với nhà kia và là lửa nhà chuông trên trống đồng Ngọc Lũ. Cảnh giã chày cối có hai con chim bay trong khi đối diện qua tâm trống chỉ có một chim. Hai con chim này ứng đối với trống đồng Ngọc Lũ chỉ có một con chim. Trên nóc mỗi căn nhà thuyền chỉ có một con chim trĩ đuôi rất dài, khác với trống Ngọc Lũ trên nóc có một con, còn trên nóc căn nhà đối diện qua tâm trống có hai con. Nhà dương ở bán viên âm Ở góc phải dưới nhà thuyền có một người ngồi đánh trống hình lục giác bịt da để trên một trụ cây mang hình ảnh trống âm dương, hư không. Lò lửa ở dưới gầm nhà ở đây thấy rõ với ống dẫn hơi lên nhà. Dàn Trống Dàn trống ở bán viên âm Đặc điểm thấy rõ nhất ở đây là trên đầu người ngồi đánh trống không có hình chim bay ở phía đối diện có một hình chim bay, trước dàn trống cũng có cây phướn hình túi mang nghĩa âm.Vành tiếp theo là chứa hình xoắn chữ S kép, vành nay thế thế vành chim nai trên trống đồng Ngọc Lũ. Sau đây là hình 4, trang 100 trong The Kettle Drums of Southeast Asian Bronze Drums của A.J Bernet Kemps cho thấy 6 loại “hình xoắn hai chữ S”. Vành sóng xoắn chữ S kép Hình thái này thể hiện tương tác hợp nhất khí âm và khí dương trên Cõi Thượng Ngàn, hệ quả của sự hợp nhất âm dương được thể hiện trên vành trống tiếp theo, vành trống này chỉ có 14 con chim đang bay ở Cõi Thượng Thiên. Hình cò bay trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ Vành tiếp theo, Cõi Thượng Thiên có 14 con cò bay đối ứng với 18 cặp cò của trống đồng Ngọc Lũ. Số 14 thể hiện cung Chấn trong Tiên thiên Bát quái đối ứng sô 18 thể hiện cung Cấn trong Hậu Thiên Bát quái. Như vậy, trống đồng Ngọc Lũ thể hiện tương hợp hai cung đối xứng qua tâm trống là Tốn - Cấn trong Hậu Thiên Bát quái và và Tốn - Chấn trong Tiên Thiên Bát quái. Cấn là Dương Mộc và Chấn là Âm Mộc, khi chuyển từ Cõi nhân gian về cõi Thượng Thiên tức là từ Cõi Chết Âm Tốn trở về cõi trường sinh bất tử là hành Mộc, hành Mộc chính là tình yêu, tình thương, lòng từ bi, đề cao chữ nhân. Nhưng vì không có loại trống đồng hai mặt âm dương nên chuông đồng Đông Sơn thay thế vị trí này, do đó tiếng chuông mới là âm thanh của tình thương, tiếng trống thể hiện sức mạnh, dũng khí của chiến binh, sự hợp nhất chuông trống là biểu tượng của ánh sáng, trí tuệ siêu việt, do vậy pháp khí chuông và trống là một bộ không thể tách rời. Thời nhà Lý, ngày 4 tháng Bốn âm lịch, là ngày tổ chức “hội thề Trống Đồng” tại đền Đồng Cổ, độ số 4 chính là cung Tốn trong Hậu Thiên Bát quái. Trống đồng thờ đặt tại đây phải đầy đủ cả hai loại, chính là trống thái âm như trống đồng Ngọc Lũ và trống thái dương như trống đồng Hoàng Hạ thể hiện dũng khí, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng một quốc gia hùng mạnh. Vùng Nước Tang Trống Cấu trúc và trang trí giống như trống đồng Ngọc Lũ, gồm 6 chiếc thuyền phán xét linh hồn, hai con thuyền 1 và 2 dẫn đầu biểu tượng cho âm dương, bốn thuyền còn lại biểu tượng cho Tứ tượng, giống như ở trống đồng Ngọc Lũ trong 6 thuyền có hai thuyền có cảnh phán xét “2 linh hồn” còn lại 4 thuyền chỉ có một linh hồn. Quy tắc sắp xếp thứ tự như đã trình bày trong trên trống đồng Ngọc Lũ, thuyền chứa trống là dương nhất, cục dương; thuyền cực âm là thuyền mà linh hồn đã đi qua được cầu gian nguy và tới được vị trí của người thuyền trưởng ở đầu mũi thuyền, thể hiện chuẩn bị vào Cõi Trời. Thuyền chứa trống lật ngửa mang tính dương là thuyền Ly và con thuyền mà linh hồn tới người kế cận thuyền trưởng mang tính dương là thuyền Khảm. Con thuyền mà linh hồn ở dưới cầu gian nguy là con thuyền Đoài và con thuyền còn lại là thuyền Chấn. Tòan bộ các con thuyền được sắp xếp thứ tự như sau: Thuyền số 1 biểu tượng DƯƠNGThuyền số 2 biểu tượng ÂM Thuyền số 3 biểu tượng cho CHẤNThuyền số 4 biểu tượng cho ĐOÀI Thuyền số 5 biểu tượng cho LYThuyền số 6 biểu tượng cho KHẢM Thuyền số 1 biểu tượng cho Dương Mũi thuyền tức đầu dương có con chim họ nhà cò đang mổ con cá, cò là loài chim lội nước là chim dương của nước âm, chim có con mắt âm cho biết. Hai con cá dưới thuyền với một con quay về phía âm một con quay về phía dương. Con chim có bờm túi gió. Người gác cổng trời quay mặt về phía lái thuyền âm. Thành cầu phán xét có hình đầu chim cong có bờm gió tạt. Dưới gầm đài có một vật gì hay chiếc trống. Thuyền số 5 biểu tượng cho Khảm Sau đuôi thuyền tức đầu âm có một con chim có mỏ hình túi nang cường điệu nhất trong tất cả các con chim có nghĩa là mang. Chim cũng quay mặt về phía mũi thuyền dương. Người gác cổng quay mặt về phía mũi thuyền dương tay cầm cung và tên. Trên người có vòng tròn chấm dương. Thuyền số 4 biểu tượng cho Đoài Thuyền này cũng có hai cảnh phát xét “2 linh hồn” dưới cầu phán xét, Dân gian thường nói “3 hồn 7 vía” chính là thể hiện Linh hồn và Tâm của nó, hàm ý nói rằng linh hồn vẫn còn đặc trưng của cõi sắc giới. Tâm đi trước và Linh hồn đi sau - tương tự như cảnh phán xử trong phòng phán xét tôn giáo Ai Cập (quả tim đại diện cho Tâm và con chim cú mặt người biểu tượng cho Linh hồn), Linh hồn đã được phán xét xong hầu có thể về được Cõi Trời. Phía đuôi thuyền âm, có hai con chim nông đang đạp mái mang ý nghĩa linh hồn đã chia tay với Cõi Dục giới và một cuộc hành trình mới bắt đầu. Người trên cầu thử thách đang cầm cung tên bắn vào Cõi Dục giới. Thuyền số 5 biểu tượng cho Ly Ở đuôi thuyền tức đầu âm có con chim nông quay mặt về phía âm tức con nông mang âm tính. Chim có con mắt âm cho biết thuộc âm. Người gác cổng trời quay mặt về phía âm đuôi thuyền, tay chỉ cầm cung. Dưới gầm cầu thử thách có chiếc trống lật ngửa. Thuyền số 2 biểu tượng ÂM Đặc biệt không giống với tất cả các thuyền khác, linh hồn đã tới người thuyền trưởng, mang ý nghĩa đã tới Cõi Vô sắc giới hay Cõi Trời, linh hồn đã đoạn tuyệt với Dục giới và Sắc giới, Sắc giới tức cảnh tưởng của Dục giới vẫn còn trong tâm tưởng. Người gác cổng trời quay mặt về phía âm đuôi thuyền, tay chỉ cầm cung. Cây cầu bây giờ có 2 sàn biểu thị linh hồn vượt qua 2 cổng để vào Cõi Trời. Đặc biệt khác với ở trống đồng Ngọc Lũ, gầm đài ở đây, cổng vào Trục Thế Giới có khung rất rõ, xác thực cầu đài là đài Tam thế có cổng về Cõi Trời. Thuyền số 3 biểu tượng cho Chấn Đuôi thuyền có con chim mang dương tính bay lên trời diễn tả dương Cõi trời. Đầu thuyền có con chim nông quay mặt về phía dương. Chim có con mắt âm nhưng phía chân có “tấm biển” có chữ viết vòng tròn có chấm có một nghĩa là mặt trời, dương. Trên đài có hai người gác cổng trời. Một người ngồi âm tính quay mặt về phía mũi thuyền dương, tóc dài mang vóc dáng phái nữ, người này mang hình ảnh của một linh hồn chuẩn bị thoát ra khỏi thể xác qua hình ảnh con chim sau lái thuyền. Người phía sau có một người đứng mang dương tính, quay mặt về phía đuôi thuyền âm, cầm cung. Trục Chấn - Đoài là trục Sinh -Tử cho nên thuyền Đoài người đứng trên cổng trời sẽ lắp tên vào cung và bắn ngược phái sau tức chia tay Cõi Trần, Cõi Nhân gian. Toàn bộ 6 chiếc thuyền thể hiện quá trình linh hồn thoát ra khỏi thể xác - chia tay Cõi trần, Cõi Dục giới và đi trên cung đường mới trong Cõi sắc giới và Cõi Trời. Trong Cõi sắc giới, linh hồn vẫn còn mang “tính dục” qua tâm tưởng, chỉ khi nào vào Cõi Vô Sắc giới mới hoàn toàn bình an tức Niết bàn. Như đã biết thân hay lưng trống là trục thế giới, trục vũ trụ là phần trục kết nối, liên lạc giữa Tam Thế. Bố cục và trang trí giống trống Ngọc Lũ, cũng có 6 ô, trong mỗi ô có 2 người. Mỗi nhóm hai người cùng với rìu cầm tay ở tư thế khác nhau, thể hiện tính âm dương đối ngẫu. Nhóm hai người Sáu người này cũng tạo nên Lưỡng nghi và Tứ tượng, chúng ta không phân tích sâu hơn nhưng chỉ tìm hiểu những người này đang giữ vai trò và thực hiện công việc gì khi đứng trên trục thế giới. Như đã biết, trống đồng thể hiện các lễ hội của quốc gia và tôn giáo, nhưng quan trọng nhất trong một buổi lễ hội đó là trình tấu sớ lên “Thánh thần” ở các cõi trên, đây chính là những người trình tấu sớ, tay trái cầm tấu sớ và tay phải cầm chiếc rìu, trong chữ Hán Việt thì “Rìu” còn có nghĩa là “Việt”. Đây chính là hình ảnh của người Việt, “người ánh sáng” ứng với ngôi sao hợp nhất âm dương từ tâm trống tức Thái cực phát ra, sáng nhất trong vũ trụ, cũng là “người chim” tức người vũ trụ. Qua một cổ vật đồng Điền, Vân Nam, Trung Quốc, chúng ta thấy một người đàn ông đứng trên mặt trống đang giang đôi cánh tay chim, phía trên là một cái trục vũ trụ thẳng đứng. Cái trục vũ trụ này đang được 6 người đứng hai bên dùng một thanh ngang quay cái trục này, hàm ý họ đang kích hoạt toàn bộ vũ trụ vận động quanh trục. Xung quanh trống là những người đang nhảy múa, thấy rõ nhất là hình người đang giơ tay cao lên đánh một cái chiêng. Người chim Cổ vật đồng Điền, Trung Quốc Hình ảnh người cầm rìu Việt và tấu sớ thể hiện chữ “Việt” cổ đã được phát triển theo thời gian , sẽ được phân tích ở các chương sau. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, bộ tranh nhị bình Đấu Mộc và Đánh Vật thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc ta, các đô vật trong hình dáng giống như độ vật Sumo của Nhật Bản, còn các võ sĩ đang sử dụng đoản đao và khiên trong một cuộc thi đấu hào hứng. Bức tranh Đấu Mộc với hai đôi giao đấu thể hiện được hai mặt Âm Dương, còn bức tranh Đấu Vật với ba đôi võ sĩ thể hiện thêm tương tác giữa Âm và Dương đó chính là Khí trong lý học Đông Phương, cả ba khái niệm trên ứng với nguyên nhân sinh thành nên vạn vật trong một vũ trụ vô biên này. Đấu Vật và Đấu Mộc Tranh sân gian Đông Hồ, Việt Nam Sau khi phân tích ý nghĩa biểu tượng trên trống đồng Hoàng hạ và Ngọc Lũ, chúng ta thấy hai trống này tạo thành một cặp trống âm, dương hay cặp trống Lưỡng Nghi, mặt khác không có trống đồng nào đại diện cho Thái Cực, hợp nhất âm dương mà chỉ có trống tròn bịt da trâu là loại trống này. Mặt khác, trên mối trống đều có hai nhóm trống gồm 4 cái, thể hiện chúng được phân chia dùng trong lễ hội vào Xuân - Hạ hay Thu - Đông, điều này chỉ ra sau trống Lưỡng Nghi gồm 8 trống khác nữa - đại diện cho 8 phương của Hậu Thiên Bát quái. Chỉ vào ngày Tết Nguyên Đán - ngày sinh nhật vũ trụ mới dùng 10 cái trống một lúc. Trống đồng Điền Tỉnh Vân Nam, Trung Quốc Ngoài hai trống cái Âm Dương, còn có dàn trống con gồm 18 cái dưới đặt thành dãy mái nhà, được chia thành hai nhóm: mỗi nhóm 7 cái và 2 cái, đây là độ số của phương Nam trên Hà Đồ, hành Hỏa. Trống đồng có chức năng đa dạng, như ta biết, nhưng công dụng chủ yếu của nó trước hết là một nhạc khí dùng trong các lễ hội, cầu đảo hoặc “tế Trời”, có liên quan đến nông nghiệp, mùa màng. Ngạn ngữ dân gian có câu “Đánh trống qua cửa nhà Sấm”, gợi ý về mối liên hệ giữa tiếng trống và tiếng sấm qua âm thanh trầm hùng mà vang động của chúng. Hơn nữa mối liên hệ giữa trống và sấm còn được thể hiện bằng hình tượng hội họa, và ghi trong sách Luận hành như sau: “Thợ vẽ vẽ hình trạng thần sấm, chồng nhau như hình trống liền. Lại vẽ người như lực sĩ gọi là Lôi Công, tay trái giữ chiếc trống liền, tay phải cầm dùi đánh. Người đời không ai không bảo thế”.Ngũ Lôi Trích tranh thờ Đạo giáo Đám Rước, miền Bắc, Việt Nam Chính do sự liên tưởng này mà bộ “5 trống” được gọi là “Ngũ Lôi”, Kết hợp với bộ 10 trống đồng Đông Sơn ở trên, điều này cho thấy có hai bộ “Ngũ Lôi” âm dương, bộ “Ngũ Lôi Dương” bao gồm kiểu trống Hoàng Hạ và bốn trống đại diện Càn, Khảm, Cấn, Chấn được sử dụng vào lễ hội Xuân - Hạ của quốc gia và tôn giáo và bộ “Ngũ Lôi Âm” bao gồm kiểu trống Ngọc Lũ và 4 trống đồng Khôn, Ly, Tốn, Đoài được sử dụng vào lễ hội Thu - Đông của quốc gia và tôn giáo theo định kỳ. Lôi Công là Thần làm ra sấm sét, mây mưa cũng gọi là Thiên Lôi, Lôi Thần. Chưởng quản Lôi Bộ là 5 vị Thiên Thần gọi là Ngũ Lôi Thần, mà vị cầm đầu có phẩm tước là "Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn" tức Thần Sấm, bốn vị còn lại là Thần Điện coi việc làm chớp, Thần Mây coi việc kéo mây, Thần Gió coi việc làm gió và và Thần Mưa coi việc làm mưa. Miệng nhọn như mỏ chim phượng, răng bạc, Tranh thờ thường viết thêm bốn chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật” ở phía trên, tranh này cũng được gọi là tượng Năm Ông. Lôi Công Tranh thờ Đạo giáo các dân tộc miền Bắc, Việt Nam Theo nghiên cứu, các trống đồng có tượng cóc hoặc ếch là trống muộn và số lượng và cách thức bố trí trên mặt trống có rất nhiều kiểu khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào nội dung phân tích ở trên thì trống có 4 tượng là hợp lý nhất. Kết hợp với bộ trống đầy đủ 10 cái gồm Lưỡng Nghi và Tứ Tượng, mỗi 5 cái gọi là “Ngũ Lôi” được dùng tùy theo mùa trong năm thì tượng Cóc này còn biểu tượng cho sự “tái sinh”. Hình ảnh “Ngũ Lôi” là 5 con khỉ, con ở giữa nâng bổng cái trống tròn Thái Cực, mà con khỉ là biểu tượng cho mặt trăng, thái âm là hình tượng của sự tái sinh, là biểu tượng của vua Lạc Long Quân, vua Cõi Nước, Cõi Âm, Cõi Chết. Trong tôn giáo cổ Ai Cập, con khỉ là biểu tượng của mặt trăng - thần chết Osiris, vị thần sẽ tái sinh trở lại cõi nhân gian. Trong Cõi Nhân gian, sự tái sinh biểu hiện qua con cái của một gia đình qua hình ảnh thần chết Osiris linh hợp với nữ thần Isis qua hình dáng con chim để sinh ra nam thần đầu chim ó Horus: Linh hợp Osiris và Isis Tranh tường cổ Ai CậpKhỉ đầu chó Tượng cổ Ai Cập Quan sát bức tranh dưới đây có thể thấy hình ảnh con cóc phía trước chiếc thuyền, thể hiện là vị thần hướng đạo cho việc tái sinh, dẫn đường về miền hằng cửu. Con chim phía trước chính là biểu tượng linh hồn của người chết. Lệ tục khi chết là nghi lễ cuối cùng trong các nghi lễ của đời người, nếu hình dùng đời người là bốn mùa thì cái chết sẽ tương đương thời điểm cuối mùa Đông tức cuối năm, và như vậy nghi lễ khi chết cũng là nghi lễ long trọng nhất của đời người. Cho nên, có thể nói, ngày chết cũng chính là ngày Tết lớn nhất của đời người, trước khi trở về miền hằng cửu (Kiêng kỵ trong văn hóa cổ Phương Đông, tác gỉa Triều Sơn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010). Cóc dẫn linh hồn Trích Kiêng kỵ trong văn hóa cổ Phương Đông, tác gỉa Triều Sơn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010 Một cách hợp lý thì hình tượng con cóc là hình ảnh của vua Lạc Long Quân, giống như thần chết Osiris của tôn giáo cổ Ai Cập. Như vậy tượng cóc hay ếch trên trống đồng biểu thị cho một người hay năm người trong một nhóm trống “Ngũ Lôi”? Căn cứ vào Cổ Lôi Ngọc Phả truyền thư, vua Kinh Dương Vương có 5 người con trai: 1 Nguyễn Nghiêm, tự Phúc Nghiêm, hiệu Pháp Phong tức Thần Gió. Kỵ 16/10 2 Nguyễn Quyền, tự Phúc Quyền, hiệu Pháp Vân tức Thần Mây. Kỵ 7/1 Ngày lễ 5 vị từ 1-5/4 hàng năm 3 Nguyễn Khoản, Hùng Hiền, húy Sùng Lãm tự Phúc Thọ tức Thần Sấm (Lạc Long Quân). Kỵ 18/2 4 Nguyễn Huề, Hùng Quyền, tự Phúc Quang, hiệu Pháp Điện tức Thần Chớp. Kỵ 15/5 5 Nguyễn Bé, Hùng Tiến, tự Vũ Thiên hiệu Pháp Vũ, tức Thần Mưa. Chết trẻ. Kỵ 4/4 Chúng ta có thể nhận định “Ngũ Lôi” chính là biểu tượng của 5 anh em trai vua Lạc Long Quân, chúng ta hãy cùng xem lại truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương. Truyền thuyết Phật Mẫu Man Nương là người con gái rất sùng đạo, năm 12 tuổi đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và được thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng Ấn Độ đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo,hình thành ngôi chùa Dâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc có 4 ngôi chủa Pháp Vân, Pháp vũ, Pháp điện, Pháp lôi và không thấy đề cập đến Thạch Quang Phật. Vào kỳ đại hạn, cư dân quanh vùng thường đến các chùa này làm lễ cầu đảo, linh ứng rõ rệt. Khâu Đà La nghĩa là Surya tức Thần mặt trời (Từ hoa văn trống đồng nghĩ về văn nghệ dân gian, tác giả Đặng Văn Lung, Nxb Khoa học và Xã hội, 1997). Chúng ta cũng biết, Kinh Dương Vương là mặt trời, kết hợp với sử liệu và truyền thuyết, thì hai bộ trống “Ngũ Lôi“ chính là năm vợ chồng anh em vua Lạc Long Quân, con của hai vợ chồng vua Kinh Dương Vương. Phật Mẫu Man Nương chính là Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Thạch Quang Phật ẩn mặt chính là mẫu Âu Cơ, hành Thổ ở vị thế ở trung tâm của bộ trống “Ngũ Lôi” dương, tương ứng là trống đồng Hoàng Hạ, và Âu Cơ ở vị thế ở trung tâm của bộ trống “Ngũ Lôi” âm, tương ứng với trống đồng Ngọc Lũ. Như vậy, hệ thống trống đồng con cái sau này cũng được gọi là trống Hùng Vương, mang hình ảnh tái sinh từ trống cha mẹ qua hình tượng con cóc. Trong dân gian, đánh trống thì có thể làm cho rồng hiện ra phun mưa là hoàn toàn phù hợp với biểu tượng con rồng của người Việt cổ, Cóc và Rồng cùng ở phương Đông, độ số 3 của Hà Đồ, biểu tượng của quẻ Chấn trong Bát Quái Hậu Thiên, Cóc kêu Rồng ứng đem lại mưa thuận, gió hòa cho nhân gian, chính là nhờ đến công đức vua Lạc Long Quân và Âu Cơ vậy. Ta thấy trống đồng nhất với sấm, người đánh trống biểu trưng cho Thần Sấm. Như vậy người xưa cho rằng giữa “Sấm” và “Trống” có cảm ứng qua lại với nhau, mỗi khi “Trống” đánh lên thì “Sấm” sẽ động lòng cảm ứng, liền cho mưa xuống. Chính vì mối tương quan này, “Con Cóc” trong truyện thần thoại được xem là Thần Sấm, mỗi khi Cóc nghiến răng thì sau đó trời sẽ mưa “Nghiến răng chuyển bốn phương - Ai ai là chẳng rụng rời sợ kinh”. Trong các trò chơi trẻ em thời xưa, có trò chơi cóc đánh trống ếch thổi kèn, che mưa bằng những lá sen đều mang ý nghĩa này. Dĩ nhiên, kiểu đánh trống đồng không phải là cách đánh Trống Quân hay các loại trống khác, “Quân” nghĩa là vua, vậy trống Quân mang ý nghĩa Vua Trống, đều phù hợp là biểu tượng của vua Lạc Long Quân. Mưa đến sau sấm cho thấy mưa đối với cóc, là khuôn mặt đứng sau sấm. Trong khi đó ngược lại con ếch có khuôn mặt chính liên hệ với nước, mưa. Ca dao có câu: Sấm chớp đàng Đông,Mưa dông sắp tới. Ếch kêu uôm uôm,Ao chuôm đầy nước. Như thế, cóc có khuôn mặt chính biểu tượng cho sấm và khuôn mặt phụ biểu tượng cho mưa, ngược lại ếch có khuôn mặt chính biểu tượng cho nước, cho mưa. Một cách tương tự, trống đồng đại diện cho vùng cao, miền rừng núi mang tượng ếch, còn trống vùng đồng bằng mang tượng cóc, thể hiện tính âm dương đối ngẫu, tức Âu Việt và Lạc Việt trong quốc gia Văn Lang. Hai khu vực có trống đồng được khai quật nhiều nhất là tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc và Bắc Việt Nam, trong đó Việt Nam là chủ chốt với số lượng trống đồng Đông Sơn loại H.I là nhiều nhất.Trên mặt trống đồng, ngoài khung cảnh đánh trống chúng ta còn thấy hình ảnh một người đang đánh một dàn cồng treo, sự phối hợp âm nhạc giữa cồng, chiêng hoặc chuông và trống là không thể tách rời trong bất kỳ một cuộc tế lễ quan trọng nào của quốc gia hay tôn giáo, nó biểu hiện cho sự hòa hợp âm trong nhạc lý. Do vậy, ngoài trống đồng nước Văn Lang còn có những thần khí khác như chuông đồng Đông Sơn, và còn những thần khí nào khác nữa chăng? Qua sự phân tích cặp trống đồng Lưỡng nghi Hậu thiên Bát quái Ngọc Lũ và Tiên thiên Bát quái Hoàng Hạ, sự kết hợp giữa chúng thành một trống duy nhất Thái cực chỉ có thể biểu hiện quan trống tròn bịt da mà thôi, không có loại trống đồng nào bịt hai mặt bởi trống đồng có chủ đích là làm mặt đáy để hở. Trống da được sử dụng làm nhạc khí chính trong các lễ hội, luôn nhà nhạc khí khai mạc lễ hội “3 hồi 9 tiếng”, tuy nhiên không phải là duy nhất, trống và cồng, chiêng hoặc chuông luôn là một cặp nhạc khí đối ngẫu không thể thiếu. Vậy chuông hoặc chiêng được nhìn nhận ở vai trò như thế nào trong mối qua hệ với trống đồng? Trong các nhà chuông, có hình ảnh một bộ chiêng gồm 7 cái, kết hợp với vai trò của trống trong các lệ hội thì chuông như là lời hoàn thành cuối cùng của lệ hội, số 3 cung Chấn hành Mộc thể hiện chuông và số 9 cung Đoài hành Kim thể hiện trong, cả hai đại diện cho trục Đông - Tây hay là trục Sinh - Tử của vạn vật. Đây là lý do nhà Lý lấy ngày 4 tháng Bốn âm lịch làm ngày tế Thần Trống đồng và đây chính là ngày tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh của dân tộc. Trống đồng mang ý nghĩa là Thần Chết đối với những kẻ xâm lược, là Thần Sinh đối với những con người bảo vệ độc lập quốc gia. CHUÔNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN Cùng thời với trống đồng Đông Sơn, chuông Đông Sơn cũng đã được khai quật, hoa văn trên chuông hết sức đơn giản thông thường để trống, khắc hoa văn hình chữ S, các vòng xoáy… và hình người, miệng chuông là hình ô van, âm tính so với trống đồng. Chuông và trống chính là những thần khí quan trọng nhất - tương ứng với hai kiểu nhà hình thuyền và nhà hình chuông trên mặt trống đồng, như vậy, sự hợp nhất chuông trống để hợp nhất thành Thái Cực, Cây Đời. Chuông đồng Đông Sơn Tổng hợp trên mạng Internet Trong Phật giáo, tiếng trống là sự tinh tấn, trí tuệ giác ngộ, tiếng chuông là để trị phiền não, hô trống thì có câu: ... Đại chúng phải siêng tinh tấn, cứu lửa cháy đầu, chỉ nhớ vô thường, chớ có buông lung”; hô chuông thì có câu: “... phiền não nhẹ, trí tuệ lớn, bồ đề sinh, nguyện thành Phật, độ chúng sinh”; cuối cùng thì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương đang độ chúng sinh ở dưới Cõi địa ngục. Kinh Tăng Kỳ Luận của Phật giáo có đoạn: “Trời Đế Thích có ba cái trống, nếu thuyết pháp tại Thiện Pháp Đường thì đánh cái thứ ba”: đây chính là hình tượng chồng ba cái trống đồng lên để “tế trời” được mô tả trên mặt trống đống trong văn hóa Điền, Vân Nam, Trung Quốc như đã nói ở trên. Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim (Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh), Phẩm 4: Âm thanh trống vàng nói về Bồ Tát Diệu Tràng, sau khi nghe diệu pháp đức Thế Tôn nói, thì hoan hỷ, phấn chấn và trong đêm hôm ấy, Bồ Tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, Bồ Tát thấy được chư vị Thế Tôn khắp mười phương, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ Tát lại thấy một vị Bà La Môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn, âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối sau đây: Đêm hôm vừa rồi trong mộng con thấy cái trống bằng vàng rất lớn và đẹp, khắp cả thân trống có ánh sáng vàngNhư vầng thái dương, ánh sáng như vậy chiếu rực khắp cả mười phương thế giới, làm ai cũng thấy chư vị Thế Tôn.Dưới những cây ngọc, các Ngài cùng ngồi pháp tòa lưu ly, có hàng ngàn người rất mực cung kính bao quanh các Ngài.Một Bà La Môn cầm dùi mà đánh trống vàng Hoàng Kim phát âm thanh lớn, và chính âm thanh phát từ trống ấy nói những chỉnh cú nhiệm màu sau đây.Trống vàng sáng rực phát ra tiếng màu vang khắp tất cảđại thiên thế giới, diệt tội cực nặng trong ba đường ác cùng bao khổ ách của trong nhân loại.Uy lực âm thanh của trống vàng này diệt hẳn hết thảy phiền não chướng ngại loại trừ sợ hãi làm cho yên vui, in như chính Đấng Mâu Ni tự tại.Chính trong cái nơi biển cả sống chết, Thế Tôn tu hành thành trí toàn giác, làm cho chúng sinh đủ các giác phần, cứu cánh qui về biển cả công đức.Trống vàng xuất ra âm thanh màu nhiệm người nghe cùng được Phạn âm thâm thúy, và rồi chứng được Vô thượng bồ đề, thường Chuyển Pháp Luân trong sáng nhiệm màu… Như vậy, trống đồng Đông Sơn loại H.I trình bày vũ trụ quan và nhân sinh quan của người Việt cổ, thể hiện toàn diện về học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, liên quan đến các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Việc nhận định vai trò của trống đồng tương tự như cổ thư đã viết nhưng đặc biệt hơn, nó là biểu trưng của các vua Hùng, khẳng định ý nghĩa dân tộc Việt là “người mặt trời”, “người vũ trụ”. Tuy nhiên, việc nhận định ý nghĩa của trống đồng cũng không thể tách rời với các thần khí liên quan khác như là chuông đồng Đông Sơn, chưa kể các thần khí khác nữa như vạc, lư, đỉnh đồng… được sử dụng trong các lễ hội quốc gia và tôn giáo của nước Văn Lang cổ như Đạo Mẫu ghi nhận trên mặt trống đồng, thậm chí vai trò chuông trống được ghi nhận rất rõ trong kinh sách Phật giáo. Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, tác giả Nhóm nghiên cứu thời tiền sử, thì Phật A Di Đà là vua Phục Hy - vậy dữ liệu lịch sử tôn giáo ghi nhận trong gia phả này có đúng hay không? Chúng ta sẽ hãy cùng tiếp tục phân tích và nhận định thêm trong Chương III: NHỊ ĐỘ MAI (HOA MAI NỠ HAI LẦN). *** Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 1, 2013 Chương III NHỊ ĐỘ MAI (HOA MAI NỞ HAI LẦN) Ba tiếng sấm xuân chào trời đất, Lan truyền Thánh đức muôn năm. Trung Phương Thiên Tôn. Từ xưa đến nay vai trò của người mẹ trong mỗi gia đình, cộng đồng người Việt luôn được ca ngợi và tôn vinh. Người mẹ chính là chỗ dựa vật chất và tinh thần, tình cảm của con cái, gia đình, bởi lẽ đó mà hình tượng người mẹ được gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và xã hội như Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Chúa Mẫu Thoải, Mẹ Hoa,… mang lại cho con người nguồn sống để sinh tồn. Tín ngưỡng thờ Mẫu rất phổ biến, dân gian gọi là đạo Mẫu, dân gian thờ Mẫu với một niềm tin mãnh liệt vào quyền lực linh thiêng và khát vọng cầu mong sự sinh sôi và che chở, bình an và hạnh phúc. Thờ mẫu không những phổ biến mà còn phong phú, đa dạng về nội dung và ý nghĩa, thể hiện tính chất thiêng liêng về triết lý nhân sinh. Cùng với tín ngưỡng thờ tổ tiên, thờ thần thánh, thờ Phật thì tín ngưỡng thờ Mẫu có một vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam (trích cuốn Đạo Mẫu Việt Nam, tác giả Ngô Đức Thịnh, Nxb Tôn giáo, 2009). Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫu. Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch xây thẳng ba gian, nhỏ hơn chùa. Tại gian chính giữa, là nơi đặt tượng Mẫu. Trường hợp đặt một tượng Mẫu thì đó là Thánh Mẫu, được hiểu là Mẫu của tất cả. Trường hợp đặt ba tượng Mẫu thì đó là Mẫu Liễu Hạnh ở chính giữa, Mẫu Thượng Ngàn ở bên trái và mẫu Thoải ở bên phải (hướng từ trong ra). Ba pho tượng này đều tạc hình phụ nữ, đẹp và phúc hậu, ngồi ở tư thế thiền, chân xếp bằng và hai tay chắp. Sự khác nhau chỉ là ở những bộ trang phục.Hình ảnh thờ Mẫu thể hiện trong nền văn hóa dân gian qua các bức tranh thờ dân gian Đông Hồ, Hàng Trống và tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, kết hợp với các dữ liệu lịch sử về Đạo Mẫu được thể hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn, chúng mang giá trị hiện thực hết sức to lớn về một thời kỳ dựng nước của các vua Hùng đã trở thành truyền thuyết và huyền thoại.Giới nghiên cứu hiện nay vẫn chưa tổng kết được chính xác một bộ tranh thờ đầy đủ là bao nhiêu bức, trong cuốn sách Tranh thờ Đạo giáo Việt tác giả Phan Ngọc Khuê chỉ dẫn ra những bộ tranh có trong thực tế sưu tập. Cho nên bộ ít bộ nhiều, bộ có bức này, bộ có bức kia, mà không bộ tranh nào được gọi là hoàn thiện cả. Theo cuốn Đạo giáo Thiên tôn Địa tiên cát thần đồ thuyết của Hòa Tam Thiên và Ngô Kiều, cây thần hệ Đạo giáo được chia làm bốn bộ thần vị: Bộ thứ nhất Thiên Tôn 32 loại thần vị, bộ thứ hai Hộ pháp thần tướng 9 loại thần vị, bộ thứ ba Địa tiên 54 loại thần vị, bộ thứ tư Dân gian cát thần 54 loại thần vị. Trên cơ sở này, có thể thấy những tranh thờ miền núi có những gì theo học thuyết và hệ thần Đạo giáo, có những gì là của riêng từng sắc tộc đưa vào tranh thờ. Đại khái thì vẫn chung nhau ở những tranh cơ bản và ít nhất là phải có trong một bộ tranh thờ thường gồm: Tam thanh (Ngọc thanh, Thượng thanh và Thái thanh), Ngọc hoàng thượng đế, Thập điện Diêm vương (mười bức) và Hộ pháp Tứ nguyên sư (bốn bức gồm: Mã, Triệu, Ôn, Quan nguyên sư). Còn lại tùy từng tín ngưỡng của các sắc tộc mà số lượng tranh được thêm bớt, vừa chọn lọc trong hệ thần Đạo giáo, vừa sáng tạo ra những tranh nói về đời sống tâm linh riêng của dân tộc mình, những sự tích, những quan hệ với thần tiên của người Tày hay người Dao. Những bức tranh Dẫn hương đạo là tranh cuốn dài nhưng lại được vẽ theo chiều dọc rất đặc biệt, con người và các vị thần tiên sẽ đi từ thế giới này đến thế giới khác và lên cao nhất tới Cõi thanh hư vô cùng vô tận. Tranh Độ linh mở đầu bằng Long đầu kết thúc ở Hổ vỹ, thực ra chiều đi lại là từ Hổ vỹ đến Long đầu, là diễn biến của các hoạt cảnh con người đi lên với cõi chân nhân, các vì tinh tú rồi cuối cùng cũng đến với Tam Thanh. Nhiều tranh dài khác cũng thể hiện những đám rước kéo dài có tính chất kể chuyện, đặc biệt là tranh dài Hội Lồng tồng (Lễ xuống đồng) xuất phát từ đời sống nông nghiệp (trích một phần từ Lời giới thiệu cuốn sách Tranh thờ Việt Nam, nhà sưu tập Phạm Đức Sĩ, 2009).Chúng ta sẽ từng bước cùng xem xét nội dung và ý nghĩa của các hệ thống tranh thờ dân gian nêu trên, nhằm minh định lại nội dung các câu truyện lịch sử và huyền thoại về thời Hùng Vương huyễn vĩ.Thánh Mẫu Thượng ThiênTheo truyền thuyết dân gian, Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ. Những huyền thoại và huyền tích của Mẫu Thượng Thiên đều có liên quan đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện muộn, theo các nhà nghiên cứu về văn hóa dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, thời Hậu Lê. Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu Hạnh còn có thể hóa thân thành Địa Tiên Thánh Mẫu - Mẹ Đất, cai quản mọi vùng đất đai và đời sống sinh vật. Bà trở thành vị Thần Chủ của Đạo Mẫu được thờ cúng nhiều nhất trong đạo Mẫu Việt Nam. Đền thờ Bà có ở nhiều nơi, nổi tiếng nhất có đền Sòng ở Thanh Hóa và Phủ Giầy ở Nam Định.Thánh Mẫu Thượng ThiênTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgĐể làm rõ các dị biệt giữa các truyền thuyết khác nhau, dựa trên nền tảng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp học thuật cổ Đông phương, căn cứ vào bức tranh dân gian Hàng Trống Thánh Mẫu Thượng Thiên. Bố cục và hình Thánh Mẫu Thượng Thiên thể hiện trong tranh ở vị trí trung tâm, với tỷ lệ to gấp nhiều lần các nhân vật khác, tạo ra cách thể hiện làm nổi bật giá trị của bức tranh, do vậy nó đã trình bày được ý nghĩa thần thánh. Đặc điểm này ta còn thấy biểu hiện ở nhiều tranh thờ khác như Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Chúa Mẫu Thoải, tranh thờ Đạo giáo, tranh thờ Phật…Trong bức tranh này Thánh Mẫu ngồi trên võng treo giữa cội hoa đào và cây tùng già, mặc áo màu thiên thanh, đầu đội mão mẫu nghi thiên hạ, tay phải cầm quạt tay trái buông thõng khoan thai, 10 ngọc nữ đứng hai bên võng đang dâng lễ vật và phía sau có 2 nàng hầu đang quạt mát cho Thánh Mẫu, hình ảnh của 10 ngọc nữ và 2 nàng hầu chính là biểu tượng của Thiên can và Lưỡng nghi trong học thuyết Âm dương Ngũ Hành. Đồng thời cũng nhận thấy hình ảnh cụ Cóc hướng về Thánh Mẫu, đằng sau cụ Cóc ở giữa là năm động vật dưới nước gồm rắn, cua, tôm, cá, rùa; hai bên võng trước cụ cóc có ngựa hồng và bạch tượng chầu hầu, phía trên hai bên võng một con vượn đang chuyền trên cây tùng già và một con chim én đậu trên cội hoa đào. Nội dung bức tranh toát lên ý nghĩa Thánh Mẫu Thượng Thiên là nhân vật cai quản cả ba cõi là Cõi Trời, Cõi Đất (Thế gian) và Cõi Nước (Cõi Chết, Cõi Âm), mỗi Cõi đều mang tính Âm Dương qua hình ảnh các động vật. Các hình tượng con vật trong bức tranh này có mật ngữ gì? Chúng ta tiếp tục xem xét mối tương quan với nội dung của trò chơi dân gian trong các dịp lễ hội là Bầu Cua Tôm Cá qua bài viết Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc của tác giả Nguyễn Xuân Quang với một ít bổ sung và hiệu chỉnh theo ý kiến của cá nhân. Chúng ta thường gọi là Bầu Cua Cá Cọp nhưng trong thứ trò chơi này chỉ có Bầu, Cua, Cá, Hươu, Tôm và Gà, không có con Cọp. Thật sự ra, nguyên thủy, tổ tiên ta gọi là Bầu Cua Cá Cọc, ngày nay nói sai thành Bầu Cua Cá Cọp. Những hình tượng thú vật và quả bầu trên bàn Bầu Cua đều là những khuôn mặt hiền hòa gần gũi với người dân quê ở đồng ruộng trong khi cọp là một loài mãnh thú hại người sống trên rừng núi. Cọp không ăn khớp với các biểu tượng khác trên bàn Bầu Cua. Bàn Bầu Cua chia làm hai phần: phần các con thú Hưu, Gà, Bầu trên cạn và Tôm, Cua, Cá dưới nước.Bàn bầu cua và con xúc xắc Tham khảo file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Con Hưu cọc: Tiếng cổ Việt Cọc có nghĩa chung là nọc, đực, dương, vật nhọn. Những con thú biểu tượng cho nọc, đực, dương, que, vọt, mặt trời gọi chung là con Cọc. Ở đây, ở cõi đất thế gian, con Hươu đực có sừng, loài thú bốn chân đi trên mặt đất là con Hươu Cọc. Sừng là một thứ Cọc nhọn, mang dương tính. Nhìn vào bàn Bầu Cua ta thấy con Cọc chính là con Hươu ở góc trên bên trái. Con Cọc là con hươu đực có sừng biểu tượng cho Núi Cọc, Núi Trụ Chống Trời, Núi Trụ Thế gian, cho phần Đất dương, dương trần của Cõi Giữa Thế Gian và Cọc cũng mang hình ảnh của Cọc Thế Gian tức Trục Thế Giới. Vua Tổ thế gian của chúng ta là Kì Dương Vương tức Vua Hươu Mặt Trời. Vì vậy mà Kì Dương Vương mới có tên mẹ đẻ là Lộc Tục tức Hươu đực có sừng. Con Hươu là thú biểu của vua thế gian đầu tiên của người Việt là Kì Dương Vương. Con Tôm he: Tại sao gọi là con Tôm? Về ngôn ngữ học, theo biến âm t=n như túm = núm, ta có tôm = nôm, nam. Nôm, nam có một nghĩa là nước (cái nơm, người Nam gọi là cái nôm là một dụng cụ đánh cá ruột thịt với nước có gốc nôm là nước). Con tôm là “con nước”, con nang, con nường, con nòng nên Tôm biểu tượng cho Nòng, dòng âm, Khôn, nước, phái nữ, bộ phận sinh dục nữ. Do đó dân gian Việt Nam mới ví con tôm he (tôm đỏ) với bộ phận sinh dục nữ (he là đỏ. He biến âm với hoe là đỏ như tóc hoe, mắt đỏ hoe, he biến âm với hè là mùa đỏ lửa). Con Tôm trên bàn Bầu Cua thuộc dòng mặt trời thái dương tương ứng với Con Hưu là Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Hình ảnh con Tôm He còn xuất hiện trong bộ tranh dân gian Đông Hồ Ngũ Phúc và bức tranh dân gian Hàng Trống Bát Tiên quá hải. Trong trò chơi Tổ Tôm, với hình thể hiện văn hóa Nhật Bản, Tổ Tôm chính là Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Thái Dương Thần Nữ của Nhật Bản và bà cũng là Bà Chúa Tằm trong nền văn hóa Việt, Trugn Quốc, Hàn Quốc và Nhật. Con Cua: Con Cua có hai càng ứng với Lưỡng Nghi và bốn cẳng bên phải biểu tượng cho Tứ Tượng dương và bốn cẳng bên trái biểu tượng cho Tứ Tượng âm và như thế tám cẳng ứng với Bát Quái. Con Cua diễn tả Dịch lý trọn vẹn. Con Cua là hình ảnh thế gian đồng ruộng của các Hùng Vương tức đại diện các dân tộc, đại diện cho toàn bộ các vua Hùng kể từ vua Hùng Vương Thứ ba trở xuống. Quả Bầu: theo truyền thuyết Mường Việt, con người sinh ra từ quả bầu. Người Kinh từ quả Bầu chui ra trước nên có da trắng và người Mường và các sắc dân vùng cao chui ra sau nên có da đen hơn. Truyền thuyết dân gian Trung Quốc cũng xem quả bầu (Tham khảo Bí ẩn các con số). Đối ứng của quả Bầu là con Cua, như vậy quả Bầu là Cô Ba tức hoàng hậu của vua Hùng Vương thứ ba, người đứng đầu 100 con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trong sáu hình biểu tượng trên bàn Bầu Cua Cá Cọc, quả bầu là một thứ thực vật duy nhất khác với năm con vật còn lại là Tôm, Gà, Hươu, Cá và Cua. Quả Bầu là loài thực vật trông “cọc cạch” và cách biệt, không cùng loại với các loài động vật còn lại. Đây là một chủ ý dùng quả Bầu để hàm ý sinh tạo, tạo hóa. Truyền thuyết Mẹ Âu Cơ đẻ ra “cái bọc nở ra một trăm người con trai”, cái bọc mang dương tính đúng với nghĩa của cụm từ đẻ bọc điều. Bức tranh dân gian Hàng trống Vạn đại tử tôn cũng thể hiện điều này, với hình ảnh 4 bé gái cùng với dàn bầu mang ý nghĩa sinh sôi, nảy nở khắp bốn phương trời.Vạn đại tử tôn Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Con gà trống: Gà trống tức con qué, con que, con cọc, dương. Như thế gà mang dương tính biểu tượng cho dương, phái nam, ngành dương cõi thế gian. Theo văn hóa dân gian, Gà trống mang các đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là biểu tượng của Lạc Long Quân, việc chứng minh gà trống là biểu tượng Lạc Long Quân sẽ được phân tích chi tiết hơn ở các chương mục liên quan. Con Cá Chép: Việt ngữ có từ cá cược có nghĩa là đánh cá, đánh cược, đánh cuộc. Ta thấy rất rõ cá (biểu tượng cho nước thế gian) đi đôi với cọc (là con hươu biểu tượng cho lửa thế gian). Đánh cá cọc, cá cược là đánh “nước - lửa”, đen đỏ, xấp ngửa, âm dương để ăn thua. Ở bàn Bầu Cua Cá Cọc, đánh cược, đánh cuộc là đánh con Cọc, con Hươu và đánh cá là đánh con Cá Chép. Con Cá Chép đối ứng với con Gà trống, như vậy Cá Chép là biểu tượng của Âu Cơ, hoàng hậu vua Lạc Long Quân. Chúng ta chú ý Bàn bầu cua cá cọc có hai phần tách rời, vùng nước và trên cạn. Nếu trên cạn biểu tượng con gà trống là vua Lạc Long Quân thì mẫu Âu Cơ cũng sẽ tương ứng là biểu tượng con gà mái, nếu ở dưới nước mẫu Âu Cơ với biểu tượng con cá chép cái thì vua Lạc Long Quân là biểu tượng con cá chép đực, và cũng tương ứng như vậy đối với các biểu tượng khác. Bàn Bầu Cua Cá Cọc bây giờ được chia thành hai nhóm đối ngẫu: Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân – Hùng Vương mang tính dương, trên cạn và và Long Nữ Thánh Mẫu Thượng Ngàn - Chúa Mẫu Thoải - Cô Ba mang tính âm, dưới nước. Như thế, nôm na bàn Bầu Cua Cá Cọc diễn tả trọn vẹn thuyết Âm Dương Ngũ Hành và mang mật ngữ lịch sử Việt Nam. Ta cũng thấy rất rõ Hùng Vương là con của mặt trời lặn Lạc Long Quân là mặt trời mọc hừng rạng trong vòng sinh tạo, là chắt của Đế Minh lại sinh ra cụ mặt trời buổi sáng Đế Minh, Đế Minh lại sinh ra ông mặt trời giữa trưa Kỳ Dương Vương, Kỳ Dương Vương sinh mặt trời lặn Lạc Long Quân. Chúng ta có thể biểu diển qua phương hướng như sau: Kinh Dương Vương – phương Đông; Hùng Quốc Vương - phương Tây; Đế Minh - phương Nam và Lạc Long Quân - phương Bắc. Quy luật vòng tròn Hậu Thiên Bát quái và đối ứng Âm Dương này đã ghi lại rõ ràng trong ca dao tục ngữ:Sinh con rồi mới sinh cha,Sinh cháu giữ nhà, rồi mới sinh ông.Ta thấy bàn Bầu Cua Cá Cọc diễn tả các Tổ Mặt Trời của chúng ta đúng theo chu kỳ ngày đêm: đó là mặt trời buổi sáng Đế Minh (có vợ Vụ Tiên là mặt trời buổi tối) rồi đến mặt trời giữa trưa Kỳ Dương Vương (có vợ Thần Long là mặt trời nửa đêm), kế tiếp là mặt trời lặn Lạc Long Quân (có vợ Âu Cơ là mặt trời mọc rạng ngày) và tiếp theo là mặt trời mọc hừng rạng Hùng Vương (có vợ Cô Ba là mặt trời lặn đĩa tròn chạng vạng).Kết hợp hình ảnh con tôm, cá, cua trên bức tranh dân gian Hàng Trống Thánh Mẫu Thượng Thiên và nội dung bàn Bầu Cua Cá Cọc, thì rất hợp lý bởi Tôm, Cá, Cua là con cháu của Thánh Mẫu Thượng Thiên. Bức tranh thể hiện tứ đại đồng đường với con là Thánh Mẫu Thượng Ngàn, cháu là Âu Cơ và chắt là Cô Ba. Như vậy, bức tranh Thánh Mẫu Thượng Thiên đã dư ra hình con rùa, một số bức tranh khác lại không thấy hình con rùa mà chỉ vẽ bộ ba con rắn, cá, cua mà thôi. Trong bức tranh Thánh Mẫu Thượng Thiên, vị trí Mẫu là trung tâm bức tranh, giữa ba cõi, với Cõi Trời đại diện là chim én và con vượn, Cõi Đất là con voi và con ngựa, Cõi Nước có ba con tôm, cua, cá như trên, điều này chỉ ra tính bất hợp lý ở Cõi Nước là chỉ cần hai con đại diện. Vì con Cua mang đầy đủ ý nghĩa Dịch lý, con Tôm he thể hiện tính cực dương còn Cá chép lại mang tính âm hơn, cho nên Cõi Nước rõ ràng chỉ có hình ảnh của con tôm và con cá. Bức tranh mang ý nghĩa hàm súc là trong cả ba Cõi đều mang tính Âm Dương đối ngẫu. Trong mặt trống đồng Ngọc Lũ, chúng ta thấy có bốn cõi: Thượng Thiên, Cõi Trời, Cõi Đất và Cõi Nước, lúc này Thánh Mẫu Thượng Thiên là người cai quản Cõi Thượng Thiên hoàn toàn tương ứng với bức tranh.Theo nội dung bài thơ giáng bút trong Kinh Đạo Nam, tác giả Đào Duy Anh sưu tập và khảo chứng, thì người đứng vai trò chủ chốt lãnh xướng Thiện đàn là một Thánh nữ Đệ Nhất Thánh Mẫu Vân Hương Liễu Hạnh, như vậy chúng ta có thể nhận định Thánh Mẫu Thượng Thiên chính là Mẫu Liễu Hạnh và cũng chính là Đệ Nhất Thánh Mẫu Hương Vân Cái Bồ Tát tức mẫu của vua Kinh Dương Vương. Theo các nhà nghiên cứu, bà là một trong Tứ Bất Tử của nước ta: Mẫu Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Thánh Gióng. Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vị thần nữ lạ lùng nhất trong các nữ thần Việt Nam vừa hiện thực vừa huyền ảo, cách đây 100 năm, Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1912) đã viết: “Bà là Phật, là Nho, là Tiên, là Thánh. Bà là tất cả!”.Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, tác giả Nhóm nghiên cứu thời tiền sử, thì tượng Hương Vân cái Bồ Tát tại chùa Vân La ở Hà Đông, Hà Tây có thêm đứa bé đứng bên cạnh đấy chính là vua Kinh Dương Vương.Tượng Hương Vân cái Bồ TátChùa Vân La ở Hà Đông, Hà Tây, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgTheo Cổ lôi ngọc phả truyền thư, ngày đản sinh của Hương Vân Cái Bồ Tát là ngày 8 tháng Tư âm lịch, trùng với ngày Phật Đản. Theo gia phả ghi nhận trong cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nguyễn Minh Khiết, Minh Công, Khương Thái Công, lấy Bà Đỗ Quý Thị, húy Ngoan, hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát, sinh 1 con trai Kinh Dương Vương (húy Lộc Tục). Bà hai Vũ Thị Huề sinh 5 con trai, tổng cộng có 6 con trai, như vậy khả năng Hương Vân Cái Bồ Tát là hình ảnh của nàng Man Nương trong câu truyện Nàng Man Nương là rất khó xảy ra. Trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, Thánh Mẫu Thượng Ngàn chính là Phật Man Nương, đối chiếu với nhận định trên thì hoàn toàn chính xác.Hương Vân Cái Bồ Tát là pháp hiệu của Cụ bà Đỗ Quý Thị, Cụ tu theo đạo Sa Bà (Sa Môn giáo) đắc đạo và Đạo Tiên tôn bà là Đệ Nhất Thiên Tiên Thánh Mẫu. Đạo Tiên còn gọi là Đạo Nội thờ “Tam tòa Thánh Mẫu”. Dân tộc Mường còn gọi tên Cụ thân mật là Bà Chúa Xứ Mường, hay Bà Chúa Sơn Trang, hay Mẫu Đầm Đa. Thủy tổ Đỗ Quý Thị tức bà Vụ Tiên Nương (trích từ Ngọc phả truyền thư của Từ đường họ Nguyễn - quyển 1, trang 83, cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ), sinh ở Ngõ Hồ, hóa ở Phong Châu, mộ ở Nội Vũ, chùa Đại bi, làng Ỷ La. Như vậy nhận định trên trùng khớp hoàn toàn với truyền thuyết dân gian Con Rồng cháu Tiên. Theo kết quả nghiên cứu trong tập sách nêu trên, đền Bạch Mã, nơi thờ thần Long Đỗ, trấn phương Đông của thành Thăng Long, thần Long Đỗ hay Long Đỗ Đại Vương chính là cha ruột của Thánh Mẫu Thượng Thiên tức Hương Vân Cái Bồ Tát cũng là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Vua cha Bát Hải Động ĐìnhĐền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bìnhfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgLiễu Hạnh Công chúa được thờ ở rất nhiều nơi như phủ Giầy, Nam Định, phủ Tây Hồ và đền Sòng Sơn Vọng Từ, phố Tôn Đức Thắng, Hà Nội, đền Dâu Tam Điệp, Ninh Bình, đền Sòng và đền Phố Cát, Thanh Hóa,... trong đó, đền Phủ Giầy ở Vụ Bản, Nam Định là nơi quan trọng nhất. Hàng năm, đến ngày húy của bà, dân chúng đi trẩy hội rất đông, đặc biệt là ở hội Phủ Giầy vào ngày 3 tháng Ba âm lịch. Vua cha Bát Hải Động Đình tức Long Đỗ Đại Vương là cha của bà Chúa Liễu tức Thánh Mẫu Thượng Thiên.Đền Động ĐìnhHồ Nam, Trung Quốc, ảnh tác giả Nguyễn Xuân Quangfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgTại đảo Quân Sơn trong hồ Động Đình có một ngôi đền gọi Đền Động Đình, thờ vị Thần ở hồ Động Đình. Đền bị phá hủy vào thời chiến tranh Nhật - Trung và được xây cất lại vào năm 1997. Đền thờ một vị thần mặt sắt đen. Truyện thần hồ Động Đình là câu chuyện dân gian của Li Zhaowei viết từ một truyền thuyết của hồ Động Đình và đã được phổ biến rộng dãi trong dân gian, trở thành một trong những câu chuyện dân gian nổi tiếng của Trung Quốc.Thánh Mẫu Liễu HạnhTượng đồng (1871) ở Phủ Quảng Cung, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Tương truyền Mẫu Liễu Hạnh có 3 lần giáng sinh xuống cõi trần. Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp, Phủ Quảng Nạp), một nơi mà theo thánh tích chính là nơi giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh thì lại ít người biết đến. Mặc dù câu đối ở Phủ Dày có nhắc đến Phủ Quảng Cung, thôn Vỉ Nhuế, huyện Ý Yên, Nam Định, rằng: “Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn, vu Sòng - Lạng - Tây Hồ, ngũ bách dư niên quang thực lục. Lịch triều ba cổn, vi Đế nữ, vi Đại vương, vi chúng mẫu, vi Thánh - Thần - Tiên Phật, ức niên vạn cổ điện danh bang (Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, Sòng (Sơn) - Lạng (Sơn) - Tây Hồ, hơn năm trăm năm ngời sử sách. Các triều phong tặng, là Đế Nữ, là Đại Vương, là Thánh Mẫu, là Thánh - Thần - Tiên - Phật, ngàn năm vạn thuở rạng non song (Những phát hiện mới về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tác giả Nguyễn Xuân Diện).Lễ hội Mẫu Liễu hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng Ba âm lịch, đó là ngày giỗ của Bà để cầu cho quốc thái, dân an, mọi gia đình an khang thịnh vượng. Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ, riêng lễ hội Phủ Dày, còn gắn liền với Hội chợ Viềng họp vào ngày 7 tháng Giêng, rất đông vui. Ngày hội này mang ý nghĩa hoàn toàn tương tự “Ngày Phụ nữ thế giới” hôm nay. Bà đã được các triều đại phong kiến thời Lê đến thời Nguyễn cấp nhiều bằng sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ”, “Mẹ của muôn dân”. Hầu hết các làng xã và các đô thị ở nước ta đều có đền thờ Mẫu Liễu rất tôn nghiêm.Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ, tập III, trang 145: khắp đất nước, các chùa chiền đều đặt trước Tam Bảo một tòa tượng Cửu Long. Đó là 9 con rồng tượng trưng cho 9 con suối và 9 ngôi mộ của các vua Hùng đã có công sinh ra 9 họ Hùng Vương thường gọi là Thủy tổ Cửu tộc. Còn tượng bà Hương Vân Cái Bồ Tát đứng trong vòng Càn Khôn của tòa tượng này. Trong vòng càn không không phải là Thích Ca sơ sinh (vì ở Việt Nam thờ tiền Thánh hậu Phật vì từ Tổ xưa Thần, Phật gắn bó với nhau, thường là một người. Ở các làng thường một bên đền, một bên chùa, đền chùa gần với nhau. Tòa tượng Cửu LongĐứng giữa là tượng Hương Vân Cái Bồ TátTượng Phật sơ sinhChùa Duệ Khánh, Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc NinhTượng Thích Ca sơ sinh gỗ sơn son thếp vàng Thời Nguyễn, thế kỷ XIXfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Pho tượng Đức Phật đản sinh Chùa Duệ Khánh tức Cổ Châu Tự, thôn Duệ Khánh, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Cổ Châu Tự cách chùa Tiêu không xa, và cùng nằm bên bờ sông Tiêu Tương thuở xưa, vết tích sông Tương còn sót lại ngày nay là một chiếc ao nhỏ trong chùa. Tượng tạc cởi trần, mặc váy và có giải thắt nút trước bụng. Hai tai rất lớn, mắt mở to, miệng cười tủm tỉm với má lúm đồng tiền rất rõ ở hai bên, trông rất ngộ nghĩnh. Tay phải giơ lên, khuỷu tay gập lại, hai ngón tay trỏ và giữa duỗi thẳng, còn các ngón khác quặp lại. Tay trái duỗi thẳng và chỉ xuống đất, các ngón tay cũng trong tư thế giống bàn tay phải. Chân thẳng song song với hai vai… Pho tượng đứng trên một bông sen. Trên mặt bông sen có 12 hạt sen nhú lên, có 9 cánh hoa ở lớp trên cùng, lớp giữa cũng có 9 cánh, lớp dưới cùng 8 cánh. Pho tượng bên trong là sắt, bên ngoài bọc một lớp đồng, được mạ vàng. Sau lưng có một lỗ yểm hình vuông mỗi chiều 2.3cm. Khi mới tìm được pho tượng thì bông sen được gắn vào một cái cuống khá dài, nhưng vì không thể đặt đứng được, nên sau đó nhà chùa đã gắn pho tượng vào một đế vuông bằng xi măng. Pho tượng mang hình dáng không giống với bất kỳ pho tượng Phật nào trên đất nước Việt Nam này (“Chùa Duệ Khánh và Pho Tượng Phật Thích Ca Sơ Sinh Bằng Đồng”, bài của tác giả Chu Minh Khôi). Tượng tòa Cửu Long với tượng Hương Vân cái Bồ Tát hình một vị sư sơ sinh trọc đầu mặc váy, đứng trong vòng Càn Khôn với tay trái, biểu tượng dương chỉ lên trời và tay phải, biểu tượng âm trỏ xuống đất, kèm câu nói bất hủ theo truyền thuyết tương truyền là của Đức Phật thích Ca: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Trong đó, Thiên Thượng chỉ trên trời, tức cõi trời. Thiên hạ chỉ cộng đồng nhân sinh hữu tình từ trên cõi trời hạ cánh xuống cõi đất. Duy ngã độc tôn tức chỉ có “bản ngã” là duy nhất, như vậy câu trên được dịch là “Trên trời, dưới đất, chỉ có bản ngã là duy nhất”. Tượng của Người đứng trong tòa tượng Cửu Long đặt ở các chùa còn có ý nói rằng ở trên trời và ở dưới đất, chỉ có bà là của trăm họ. Đạo Nho tôn Người làm Thánh Mẫu Tiên Thiên, thờ ở Tam Bảo. Tam Bảo chỉ thờ các liệt tổ liệt tông nước Nam được tôn làm Phật, Thánh.Ở đây, Ngã không phải là cái Ta tầm thường thấp kém, mà là cái Bản Ngã của mỗi người, là sự Chấp Ngã (cố chấp cái Bản Ngã). Cái Bản Ngã ấy, sự Chấp Ngã ấy nó to lớn lắm, vĩ đại lắm, cho nên hễ có ai khác đụng chạm đến cái Bản Ngã này thì nó vùng lên phản ứng quyết liệt, cho rằng chỉ có nó là quan trọng nhất, đáng tôn kính nhất. Con người vì chấp Ngã nên coi thường mọi người mọi vật, coi thường cả Trời Phật, nên si mê ám muội, không học hỏi được điều gì nên không tiến hóa được bước nào, lại gây ra nhiều ác nghiệt tội tình, nên cứ lẩn quẩn trong vòng lục đạo. Cho nên, câu ấy là để Phá Chấp, Phá Mê, thố lộ Tâm pháp thượng thừa. Vì chấp cái Ta Phàm ngã hữu hình nên không thấy được cái Ta Chân ngã vô hình. Chính cái Chân ngã này mới thật là Ta, vĩnh viễn là Ta, chớ cái Phàm ngã chỉ là cái Ta giả tạm, vì nó là hữu hình nên hữu hoại, nhiều lắm là trăm năm cũng phải tan rã. Cái Ta Chân ngã ấy là gì? Đó là linh hồn, chân linh, là Atma, là thần thức... tùy theo tên gọi của mỗi tôn giáo và mỗi dân tộc. Khi biết được cái Chân Ngã quý báu ấy thì ta mới lo trau giồi cho nó tinh anh, đặng thấy rõ đạo pháp cao siêu mầu nhiệm, để trở về với chân lý thâm uyên huyền diệu. Ta sẽ tìm được ta trong cái bản lai diện mục của ta, trong ánh sáng nhiệm mầu của chân lý hằng hữu bất biến (trích từ cuốn Cao Đài từ điển).Theo lệ truyền thống của Phật giáo từ xưa đến nay, mỗi khi khai kinh kệ, đầu tiên phải thỉnh cầu: “Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát, nghĩa là: chúng con xin quy y theo mẹ Hương Vân Đại Thánh Bồ Tát”. Trong một số sách, cụ thể là trong sách kinh về lễ Vu Lan (Lễ nhớ ơn mẹ) do Hội Phật giáo Việt Nam xuất bản, phát hành còn ghi rõ câu này (3 lần) khi tán hương, tiếp theo đó mới thỉnh câu: “Nam Mô thích Ca Mâu Ni Phật”. Ngày hóa của bà là ngày 15 tháng Bảy âm lịch, ngày này được lấy làm ngày xá tội vong nhân hay còn gọi là ngày “Trung Nguyên xá tội”. Miếu thờ cụ Đỗ Quý ThịBa La, Văn Khê, Hà Đông, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgLễ hội Phật Đản đã được tổ chức rất trọng thể, một nghi thức quan trọng của ngày hội này là tắm Phật. Tới ngày, người ta "Mài trầm hương, hòa hương với nước đem tắm tượng Phật. Dùng bánh tròn tinh khiết để dâng cúng". Ngày nay, người ta thường dùng nước ngũ vị hương nước nấu bằng các hoa cỏ thơm tắm lên tượng Phật. Cái khăn lau tượng bằng vải đỏ cũng được xé ra chia cho mỗi người một mảnh để cầu phúc. Lễ tắm Phật ở Việt Nam còn gắn liền với tín ngưỡng cầu mưa của người nông dân, người ta tin rằng, trong ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch, trời thế nào cũng mưa để lấy nước tắm Phật. Và ngược lại, người nông dân Việt Nam tin rằng, ngày 8 tháng Tư mà không mưa thì mùa màng sẽ mất, ca dao có câu:Mồng tám tháng Tư không mưa,Vứt cả cày bừa mà lấp ruộng đi.Gia phả họ Nguyễn ở Vân Nội trong cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Nhóm nghiên cứu thời tiền sử: Bà Ngoan tu hành ở động Tiên, Hòa Bình, có 8 người em giúp đỡ, được xưng tụng là Sa Bà Giáo chủ, gia thần, đệ tử rất đông. Khi Đế Minh mất, Kinh Dương Vương cho xây Đại Bi Tự ở Ba La, rồi lại xây dựng Bảo Sái Lôi Âm để đón mẹ về ở, thuyết pháp giáo lý kinh Đại Thừa ở đây. Ngày nay vẫn còn hai cột đá khắc đôi câu đối rằng:Tây Vực giáng thần y đạo bát,Nam châu hiển giáo giác mê tân.Từ phía Tây giáng thần đến mở đạo thống truyền,Cõi Nam hiển giáo giác ngộ con người ở bến mê.Sa Bà giáo chủ là mẹ của vua Kinh Dương Vương cho nên còn gọi là Thánh Mẫu Tổ, Phật hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát, Đại bi tự Ba La, cho nên gọi nơi bà tu hành là Bà La Môn, ba chữ ấy đến nay vẫn còn. Trích Thiệu Tổ Bách Việt từ đường họ Nguyễn làng Vân Nội, Thanh Oai: Bách Việt từ xưa lập quốc chủ, văn hóa tự phát nhưng có quốc đạo là Sa Môn Phật giáo, phụng sự tổ tiên, tôn hiệu là Trời - Đất - Phật - Thánh - Thần - Tiên - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Vương Mẫu. Từ vạn cổ Bách Việt đã có đạo, sau 3000 năm, Thái tử người Ấn Độ Tất Đạt Đa mới đến Lại Giã đất Việt tu hành đắc đạo, về nước sáng lập, theo Sa Môn Phật giáo thờ phụng thiên địa sơn thủy bách thần; thỉnh Lôi âm chân kinh ở bảo sái Tây Phương Cực Lạc nước Văn Lang thờ phụng từ Bách Việt Thiệu Tổ về trước, đến đời vua Hùng Duệ Vương gọi là Bách danh chân kinh. Trang 43 tập I. Trời đất, Phật, Thánh, Thần, Tiên đều do con người sáng tạo ra, từ nhân Thần lấy công đức tuyên dương tạo ra từ trước, đời sau cứ thế tuân theo thờ phụng, không phải Phật, Thánh, Thần, Tiên từ trên trời đã có sẵn vậy. Người trong dân gian gọi cha là trời, mẹ là đất, muôn đời xưa và muôn đời sau cũng thế “Cao cao tổ khảo vi Thiên, Cao cao tỷ vi Địa”. Con người ai ai cũng chết, mà chết là đại từ đại bi. Trời đất, Phật, Thánh, Thần, Tiên thờ ở Tam bảo. Vua thì gọi là Thánh - Thượng đẳng thần. Quan thì gọi là Thần - Trung đẳng thần, tùy theo công đức mà nhà nước hay địa phương thờ. Trạng nguyên, tiến sĩ thờ ở Văn chỉ, tại đình, đền, miếu làng xóm. Ngoại quốc duy nhất chỉ có một người là Thái tử Tất Đạt Đa tức Phật Thích Ca Mâu Ni được thở chung với các vị tổ sư người Việt vì ông theo đạo Sa Môn, đầu tiên tu hành tại Bảo Sái Lôi Âm ở Phong Châu. Theo phả cũ còn nói rõ: “Đây là trung tâm giáo chủ của 37 vương quốc theo đạo Sa Bà. Về sau, Thái tử Tất Đạt Đa đã sang đây ở chùa Sùng Nghiêm, xã Phú Lương ngày nay và đã tu thành chính quả, trở về truyền bá Phật Pháp”. Tại thư viện tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, bác sĩ Trần Đại Sỹ tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Ðầu đề ghi: Thiên đài di sự lục Trinh Quán tiến sĩ Chu Minh Văn soạn. Trinh Quán là niên hiệu của vua Ðường Thái Tông, từ năm Ðinh-Hợi (627) đến Ðinh-Mùi (647). Tuy sách do Chu Minh Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào ðời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh Văn, của một sư ni tên Ðàm Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang Hy (1662-1772). Tài liệu Chu Minh Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên đài núi cũng mang tên Thiên đài sơn, Minh Văn còn kể thêm : “Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh Dương. Đến thời Đông Hán, một tướng của vua Bà Trưng Trắc tên Đào Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa. Khi rút tới Quế Dương ông cùng nghìn quân lên Thiên đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Ðường để xóa vết tích Việt - Trung cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh Nam mới cho xây chùa tại đây”. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối: Rời khỏi Nam thành xưng Sư Tổ, Thọ pháp Tây Thiên diễn Phật kinh.Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái tử Tất Đạt Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây Thiên, đi giảng kinh. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng: trong nội dung câu đối đề cập đến Nam thành và Tây Thiên, vậy thì Nam thành có phải là kinh thành của vua cha Thái tử hay không và Tây Thiên là nơi đâu mà Thái tử đã thọ pháp? Kết hợp với nội dung của các gia phả trình bày ở trên, ta có thể hình dung Nam thành chính là kinh thành nước Văn Lang và Tây Thiên hàm ý Tây Phương Cực Lạc tức mảnh đất của Phật A Di Đà tức thọ pháp đạo của Phật A Di Đà, hoặc cũng là một nơi mà Thái tử đã từng tu hành và đắc đạo, đấy có thể là chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Tây Phương ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội ngày nay. Gia phả nói rằng Thái tử Đạt Đa đã ở chùa Sùng Nghiêm, dĩ nhiên Thái tử vẫn có thể tu học tại chùa Tây Thiên. Trích dịch: NGỌC PHẢ TRUYỀN THƯ CỦA TỪ ĐƯỜNG HỌ NGUYỄN (quyển thứ 2), CÁC ĐỜI TỔ SƯ, XỨ CỬU LIÊN HOA (2) Tổ ta từ núi Tản Viên xuống dựng nghiệp, làm các nghề: Thầy thuốc, làm ruộng, trồng dâu, nung gạch ngói, rèn kim khí ở miền Tây. Giáo hoá chúng sinh ở Tây Phương Cực Lạc, mở nhà truyền kinh, có công mở nước, có đức che chở cho dân, cho nên đời sau tôn làm Tiên Phật để cúng thờ. Cả thế giới chịu ơn lớn, cùng tôn sư trọng đạo, xin làm đệ tử đều nhớ về Tổ ta, chiêm ngưỡng ở các đền (thờ Thần), các chùa (thờ Phật). Từ núi Tản Viên đến Tây Phương Cực Lạc, Sài Sơn, Thổ Ngoã, Phụng Châu, Tiên Lữ đến tướng địa Phong Châu tạo thành đất tứ linh: Long, Ly, Quy, Phụng; tam đầu (Tam Đảo, Ba Vì); cửu vĩ (9 miếu ở Phong Châu, đó là Cửu Long) truyền đời mãi mãi. Dáng Tứ Linh, Cửu Long tượng trưng cho địa thế. Tổ ta định đô từ Lôi Bằng đến Lôi Phong, Lôi Đỉnh. (Lôi Bằng, đời sơ khai định đô, Lôi Phong đời Kinh Dương Vương; Lôi Đỉnh thời Triệu Vũ Đế). Buổi sơ khai, tên nước là Cực Lạc. Phật hiệu là Di Đà, sinh ra ở Hoà Bình, nơi ở là núi Tản Viên, hóa ở Tây Phương Cực Lạc, mộ ở chân núi. Kỵ ngày mồng 1 tháng Tư. Đế Thiên (Phục Hy) mộ ở Chợ Giời, Sài Sơn (Quốc Oai, Sơn Tây). Kỵ ngày mồng Bốn tháng Tư(3). Địa Mẫu (Mẹ Đất) mộ ở Cực Lạc, bên cạnh chân núi. Kỵ ngày mồng 1 tháng Tư. Mẹ Đất dạy dân chuyên nghề làm ruộng, trồng dâu và chăm lo cứu khổ chúng sinh. Đời sau truy tôn là Địa Mẫu Chân Tiên.Đế Viêm là người mở ra con đường văn minh sớm nhất: đã biết dùng lửa luyện kim, nung gạch ngói, biết se sợi, bện dây may mặc, biết phân định âm dương, ngũ hành, vạch quẻ bát quái. Đế Viêm bị một học trò tên là Hiên Viên làm phản, đuổi Đế Viêm ra ngoài. Vì tuổi già sức yếu, ngài mất ở trên đường sang Phương Bắc. Bà vợ mất ở núi Thổ Ngõa. Đế Khôi, hiệu là Thần Nông mất ở Phụng Châu, sau cải táng đưa về Tỉnh Trung, Đình Sở, huyện Quốc Oai (núi Tiên Lữ, đất Cổ Pháp). Mộ cụ Ông, cụ Bà đều ở khu này. Ngày kỵ mồng 6 tháng Sáu, trong các đền thờ Thần gọi là lễ Hạ điền. (Trên toàn cõi Đông Nam Á, các ngày lễ đầu năm, cuối vụ thượng điền, hạ điền, cơm mới) đều dâng hương làm lễ để nhớ ơn. Hữu Sào, Toại Nhân là bạn thân của Đế Viêm. Khi Hiên Viên mưu phản làm loạn, hai ông cất quân đánh đuổi Hiên Viên ra khỏi bờ cõi. Từ đó, Hiên Viên tự lập bên Bắc Quốc, xưng là Hoàng Đế, đóng đô ở Trường An, khởi nghiệp, giáo hoá dân sinh. Hiên Viên đã học nghề làm ruộng, trồng dâu, học văn tự, luyện kim, nung gạch ngói bên nước Nam của Phục Hy. Hữu Sào, Toại Nhân nhiếp chính giúp Thần Nông giữ nước, yên dân. Khi Thần Nông trưởng thành lên ngôi Thiên Tử, đóng đô ở Phụng Châu, Long Môn, Trầm Sơn (núi Trầm). Hai vị cáo tuổi già về quê ở Sào Vực, chợ Thổ Long, huyện Chương Mỹ, nuôi Quốc Mẫu Diệu Trinh Nương và 3 vương tử văn võ toàn tài cùng giúp Thần Nông giữ yên muôn dân. Hai ông hoá ở nơi này. Thánh Mẫu Liễu Hạnh cũng hay giáng thơ tâm linh ở các đàn cơ của đạo Cao Đài và ở những đền khác, trong tập thơ Tập Khôn - Kinh Đạo Nam, Đào Duy Anh khảo chứng, Nguyễn Thị Thanh Xuân phiên âm và chú thích, Nxb Lao động, 2007, Thánh Mẫu có nhắc nhở bảo tồn và phát triển nền văn hiến ngàn xưa của cha ông:Gieo ngọn đào tiên xuống cõi trần,Âu đành gió bụi tiếc gì xuân.Phá tung giấc mộng năm canh nguyệt,Gọi tỉnh hồn mê một nước dân.Phong hóa nền xưa xây đắp lại.Văn minh vẻ mới điểm tô dần.Thực là cơ hội ngàn năm đó,Trong cõi người ta dễ mấy lần.Mẫu Thượng Thiên được còn được gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ, nữ thần nắm giữ vị trí quan trọng nhất trong Đạo giáo, cuốn Thủy Hử, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không, tại Hồi 41: “Hoàn Đạo đồ, nhận ba quyển thiên thư - Tống Công minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ” có ghi nhận chuyện này. Theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc Hoàng Đế chiến Xuy Vưu thì Cửu Thiên Huyền Nữ đã giúp Hoàng Đế đánh bại Xuy Vưu và trao cho cho các cuốn sách Hoàng Đế Âm phù kinh, Tam cung bí lược, Ngũ âm quyền mưu. Truyền thuyết này sẽ được xem xét và phân tích lại trong các bối cảnh lịch sử. Các nội dung gia phả, những câu truyện cổ tích liên quan đến Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn giáo chính là những dấu vết cao quý đời xưa còn để lại, mang tính nửa hư, nửa thực về nguồn gốc lịch sử của nước nhà.Cửu Thiên Huyền NữTrích Thước Lỗ Ban, tác giả Ngọ Vinh, Nxb Hà Nội, 2009file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Trong những bức tranh thờ các dân tộc miền Bắc Việt Nam dưới đây, Thánh Mẫu Thượng Thiên ở phía trên cùng và tiếp theo sau là 7 vị vua Hùng, bắt đầu từ vua Kinh Dương Vương - Hùng Vương I cho tới Thái tử Lang Liêu - Hùng Vương VII. Cung nghênh Thánh Đế (2 bộ)Tranh thờ Đạo giáo miền Bắc, Việt Nam (trích cuốn Tranh thờ Việt Nam, tác giả Đặng Đức Sĩ, 2009)file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgThánh Mẫu Thượng NgànThánh Mẫu Thượng Ngàn là thánh mẫu toàn năng trông coi các miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Đền thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn có hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ chính gắn với hai truyền thuyết ít nhiều có khác biệt đó là Suối Mỡ, Bắc Giang và Bắc Lệ, Lạng Sơn. Theo truyền thuyết liên quan đền Bắc Lệ, Thánh Mẫu Thượng Ngàn là công chúa La Bình, con gái của Sơn Tinh và Mỵ Nương, cháu ngoại Vua Hùng, thường theo cha chu du khắp núi rừng, bảo ban giúp đỡ dân làng, hay tin đó Ngọc Hoàng Thượng Đế khen ngợi và sắc phong cho nàng là Bà chúa Thượng Ngàn . Ở Tây Nguyên, tục thờ Mẫu do người Việt mang vào lại đồng nhất với Âu Cơ - mẹ Tiên, sau khi từ biệt bố Rồng - Lạc Long Quân, đã mang 50 người con trai lên núi sinh sống, phát triển thành các dân tộc thiểu số ngày nay và mẹ Âu Cơ trở thành vị Thánh Mẫu Thượng Ngàn cai quản vùng rừng núi. Bởi thế, các động sơn trang, ở các đền ở Tây Nguyên thường tái hiện sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ.Thánh Mẫu Thượng NgànTranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc việt và nền văn minh cổ của Nhóm nghiên cứu thời tiền sử tại Mục III. Ốc tổ Bách Việt Triều Thánh Tổ - Đệ nhất Quảng giáo Kinh Dương Vương (trang 146): “Thánh Mẫu Thượng Ngàn chính là vợ Ốc Tổ Kinh Dương Vương, con gái Động Đình Quân. Bà dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, có nơi gọi bà là Bà Chúa Tằm. Bà mất vào ngày 3 tháng Ba âm lịch, cho nên từ đó về sau lấy ngày đó là ngày cúng giỗ những bà mẹ, trên dưới lần lượt hết ngày 15 tháng Ba âm lịch. Mộ bà an táng tại cửa làng Văn La, tổng Phú Lãm, đặt tên là Xích Hậu, nghĩa là Hoàng hậu nước Xích Quỷ, hiện mộ vẫn còn. Cả nước xưa lấy ngày này làm quốc lễ, coi nơi ấy là quê hương của vị Quốc Mẫu”. Theo Bách Việt tộc phả Tổ Kinh Dương Vương, húy Quảng, Quốc sử gọi là Lộc Tục, tên chữ là Phúc Lộc, con của Thánh tổ Nguyễn Minh Khiết và Vụ Tiên. Khi nhỏ ở động Tiên Phi tỉnh Hoà Bình, sau ngày đánh thắng Ma Mạc ở Tử Di Sơn, được Phụ Vương phong làm Kinh Dương Vương, cho cai trị đất Kinh Châu, Dương Việt, có chú là Long Cảnh cùng Bát Bộ Kim Cương phù trợ. Khi Đế Minh băng hà, 15 bộ đồng lòng tôn Ốc tổ làm Thiên tử, sau tôn hiệu là Nam Triều Thánh tổ Ngọc hoàng Thượng Đế, hoá ở Phong Châu. Mộ ở núi Hoa Cái. Kỵ ngày 25 tháng Chạp. Ốc tổ lấy con gái Động Đình Quân, tên bà là Đăng Ngàn, về ở núi Nghĩa Lĩnh, hoá ngày 3 tháng Ba âm lịch, an táng ở nơi gọi là Xích Hậu, thôn Văn La, trước cửa đình. Đời sau tôn hiệu là Đệ Nhị Thượng Ngàn Thánh Mẫu. Ốc tổ Kinh Dương Vương và Thánh Mẫu Thượng Ngàn sinh được năm người con, một bị mất sớm, tên gọi năm người con như sau: - Con trưởng là Nguyễn Nghiêm húy là Hùng Nghiêm, đời sau tôn là Phong Thần. Kỵ ngày 16 tháng Mười. Mộ ở sau đình Văn Nội. - Con thứ là Nguyễn Quyền húy là Hùng quyền, tên chữ là Pháp Vân thần mây. Kỵ ngày 7 tháng Chạp. Mộ ở sau đình Văn Nội. - Con thứ ba là Nguyễn Đô, huý là Vũ Thiên Hầu, tên chữ là Pháp Vũ, thần mưa. Kỵ ngày 4 tháng Tư. Mộ ở sau đình Văn Nội. Sau chiêu hồn nhập mộ. - Con thứ tư là Nguyễn Khoản (sử ký là Sùng Lãm) là Lạc Long Quân, tự là Pháp Lôi, thần sấm. Mộ để ở Ba Đống đồng Thượng Bảo Đà. Kỵ ngày 28 tháng Hai. - Con thứ năm là Nguyễn Hoạch, húy là Quang Anh tự là Pháp Điện, thần chớp. Táng tại miếu Công Minh, châu Bảo Hà. Kỵ ngày 15 tháng Năm. Nội dung trích từ Bách Việt tộc phả trên phù hợp với nội dung câu chuyện Nàng Man Nương có vẻ không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên khi về Phật Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Điện và Thạch Quang Phật trong câu chuyện truyền thuyết về Nàng Man Nương chép trong Lĩnh Nam Chích Quái. Ngày đản sinh của Nàng Man Nương là ngày 8 tháng Tư âm lịch cũng trùng vào ngày Phật đản và ngày sinh của Hương Vân Cái Bồ Tát, và các con của bà đều có pháp hiệu giống như Tứ Pháp, bài văn kệ hạnh Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh tại Chùa Dâu nói rõ:Hạ thiên mồng 8 tháng Tư,Ngọ thời mãn nguyệt được giờ xuất sinh.Được một nhi nữ tốt lành,Tường vân ngũ sắc bao quanh lấy mình…Chuyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái 12 tuổi Man Nương đến chùa Phúc Nghiêm học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ tên là Khâu-đà-la. Một hôm, nhà sư tình cờ bước qua người Man Nương lúc nàng nằm ngủ, và nàng thụ thai một cách thần kỳ. Sau 14 tháng, nàng Man Nương sinh hạ một bé gái, đứa bé được nhà sư Khâu-đà-la dùng phép chú đưa vào cây Dung Thụ già. Sau đó, nhà sư trao cho Man Nương một cây gậy thần có thể làm mưa cứu hạn hán cho dân làng. Khi Man Nương 80 tuổi, cây đổ trôi về bến sông Dâu thì không trôi nữa. Thái thú Sĩ Nhiếp nằm mộng phải tạc tượng Phật từ cây Dung Thụ đó nhưng bằng cách nào cũng không kéo được cây lên bờ, chỉ khi có dải yếm của Man Nương kéo vào bờ thì mới kéo cây lên được. Cây Dung Thụ được tạc thành 4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện mang vào chùa thờ tự. Trong thân cây, con của Man Nương đã hóa thành đá và được gọi là “Thạch Quang Phật”, hiện được thờ tại chùa Dâu. Man Nương mất vào ngày mồng 8 tháng Tư, cũng chính là ngày đản sinh của Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi mất, bà được người đời xưng tụng là Phật Mẫu Man Nương. Dân gian có thơ rằng: Dù ai đi đâu về đâu,Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.Dù ai buôn bán trăm nghề,Tháng Tư, ngày tám nhớ về hội Dâu. Tượng bà Pháp Vân Pháp VũChùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninhfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg* Tượng Pháp Vân chùa Dâu, chùa Cả phía trước là hộp đặt Thạch Quang Phật Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.Như vậy có thể sơ bộ hình dung rằng Thạch Quang Phật chính là Âu Cơ, hoàng hậu của vua Lạc Long Quân, còn các Phật Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Điện là Phật hiệu của mỗi đôi vợ chồng con vua Kinh Dương Vương như đã phân tích trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM. Trong câu chuyện Nàng Man Nương có nói đến Thái Thú Sĩ Nhiếp, nhưng nghi ngờ đây là chi tiết người đời sau thêm vào để nâng cao uy thế. Khả năng các sự kiện trong câu chuyện khó xảy ra.Truyền thuyết nhà sư Khâu Đà La truyền đạo cho nàng Man Nương nói lên đạo Bà La Môn đã tồn tại trong giai đoạn này rồi, và mẹ của vua Kinh Dương Vương cũng đã đi tu và lấy hiệu Hương Vân Cái Bồ Tát, tại thời gian này, Đạo tại nước ta đã truyền tới 37 nước trên thế giới rồi. Theo sử sách thì Đạo Bà La Môn tại Ấn Độ xuất hiện sớm nhất khoảng vào năm 1500 tr.CN và thực sự là quá muộn so với năm mà vua Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 tr.CN. Thời gian chênh lệch nhau hơn 1300 năm, thật là một con số quá lớn.Hình tượng cây gậy thần của nàng Man Nương được Kinh Dương Vương trao cho là hình tượng tương đồng với truyền thuyết về cây gậy thần của Chử Đồng Tử và Tản Viên Sơn Thánh, khi dùng gậy thần chống hạn hán, tạo mưa cho nhân gian.Tượng thờ Tứ Pháp rất linh thiêng, đến nỗi vua Minh Đế Đông Tấn (322-325) Trung Quốc cho người sang cướp tượng: Đông Tấn Minh Đế văn chi, Khiến người Đào Khản đương thì Kiến Khang. Sai nghìn quân mạnh trảy sang, Kiệu hòa chẳng nổi, nặng bằng Thái sơn. Ngày sau lại sai ba nghìn, Kiệu Bụt lên ngàn, giữa cõi Long Chi. Quân Tấn ngã xô tứ bề, Đào Khản mất vía đương khi khấu đầu. Một dân tộc Man di lại sinh ra được một vị Phật, vị Phật đó không phải ngẫu tượng mà linh thiêng khôn lường, đem lại mưa thuận gió hòa, hạnh phúc, an lạc cho muôn dân, đến nỗi đấng Thiên tử của Thiên quốc phải cho người sang cướp Phật của Nam Man. Vào thời đại mình, Mâu Tử (165-170) khẳng định: “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất.”. Không có nước nào là trung tâm của trời đất, của vũ trụ cả. Chỉ có đất nước, dân tộc biết lễ nghĩa, biết yêu người thương mình, biết tôn trọng lẽ phải, tôn trọng tự do, công lý mới xứng đáng là trung tâm của trời đất (tham khảo internet).Hằng năm, cứ vào ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội linh đình được gọi là Lễ hội chùa Dâu. Kèn loa chiêng trống vui thay, Trượng kỳ, ống pháo vang tai đùng đùng.Ngất trời mây phủ hư không, Pháp Vân, Pháp Vũ thần thông uy cường.Pháp Lôi, Pháp Điện tiếng vang, Lễ liền nghiêm sẵn, dọn đường hư kinh. Tinh kỳ chiêng trống rành rành, áo vàng tán tía, tượng hình uy nghi. Mồng tám tháng Tư hội lề, Bà ả, bà dì, bà út làm dâu. Qua những lễ hội như thế, người dân có cơ hội ngồi lại với nhau để ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, đề ra kế sách bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc qua việc kể Hạnh của các cụ già: “Trong những ngày hội chùa, các bà vãi thường tới chùa kể Hạnh, nghĩa là tụng những bộ kinh nhắc lại sự tích đức Phật và chư vị Bồ tát với đức hạnh của các người. Các bộ kinh được kể bằng thể Hạnh không phải là những bản kinh được dịch từ tiếng Phạn hay tiếng Hán sang tiếng Việt mà là những bản kinh được viết bởi người Việt để gởi gắm tâm tư, tình cảm của dân tộc Việt Nam trong công cuộc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, đó là Lục Độ Tập Kinh, Cổ Châu Phật Bản Hạnh...”. Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, ngày 3 tháng Ba âm lịch là ngày mất của Cụ Bà Thanh Minh, Động Đình Tiên Nữ, vợ vua Kinh Dương Vương và ngày này được lấy làm quốc lễ, ngày giỗ chung cho các bà mẹ. Ngày giỗ của các bà mẹ được tổ chức trước ngày giỗ các vua Hùng 10 tháng Ba âm lịch đúng trọn một tuần. Thanh minh thượng hà đồ Tranh đời Tống, Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgHàng năm cứ đến ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch là ngày Tết Thanh minh, dân gian thường làm bánh trôi bánh chay để cúng mẫu Thượng Ngàn, bà chúa nghề trồng dâu nuôi tằm, được dân gian tôn sùng là Nam phương Thánh mẫu. Nhân dân Văn Lang biết ơn Nam Phương Thánh Mẫu nên khi bà qua đời, suy tôn là Bà Chúa Tằm, bà Chúa Lĩnh Nam. Dân gian làm bánh trôi bánh chay dâng lên Thánh Mẫu với tất cả lòng thành kính. Bánh trôi làm bằng bột nếp nhào nặn với nước bọc nhân đường phèn bên trong. Sau khi nặn xong, bánh được thả vào nồi nước sôi. Bánh chìm xuống rồi nổi lên, năm lần bảy lượt đến chừng nào nổi hẳn lên mặt nước thì được vớt ra bày vào đĩa. Bánh chay cũng làm bằng bột nếp nhào nặn với nước nhưng nhân bằng đậu xanh bỏ vỏ, giã nhuyễn rồi cho vào nồi nấu chín. Bánh chay làm xong cũng thả vào nồi nước sôi như bánh trôi, đợi khi nào bánh nổi lên thì vớt ra cho vào bát nước đường đợi khi thật nguội ăn mới ngon.Thanh minh trong tiết tháng Ba,Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. (Trích Truyện Kiều, Nguyễn Du).Tết Thanh Minh là cái tết quan trọng hằng năm của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng…, mỗi năm chỉ có một ngày, dù ai đi đâu, ở đâu đến ngày mùng 3 tháng Ba cũng về với gia đình để được đi tảo mộ, để cùng nhau ngồi bên mâm cơm sum họp gia đình. Những khu nghĩa trang hoặc ở nơi có mộ, hôm nay nghi ngút khói hương, các mâm cỗ đa dạng đồ lễ để cúng tổ tiên. Những ngôi mộ được người nhà dọn dẹp sạch sẽ, vun đắp thêm đất mới, đó là những tâm đức của người đang sống đối với người đã khuất. Ngày này gia đình nào cũng làm một mâm cơm đầy đủ xôi cẩm đỏ, đen các loại, thịt gà, bánh, kẹo, hoa quả để làm lễ cúng. Ngày nay mặc dù mọi người đều bận rộn với công việc, lo toan cuộc sống, nhưng họ đều dành chút thời gian để làm những món bánh truyền thống của ngày mùng 3 tháng Ba. Họ thường làm nhiều loại như: bánh củ chuối, bánh chứng kiến, bánh gai, bánh mật…để treo trên gác bếp của nhà sàn trông thật hấp dẫn. Ngày mùng 3 tháng 3 đã được nhiều người Bắc Kạn coi như ngày Tết thứ hai trong năm, truyền thống đó vẫn được giữ gìn và tổ chức. Trong Đạo giáo, Thánh Mẫu Thượng Thiên là Cửu Thiên Huyền Nữ còn Thánh Mẫu Thượng Ngàn chính là Tây Vương Mẫu, hoàng hậu của vua Kinh Dương Vương tức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Tây Vương Mẫu còn gọi là Vương Mẫu nương nương, Diêu Trì Kim Mẫu, là vị nữ thần trong truyền thuyết, có diện mạo là một bà già hiền lành. Tương truyền Vương Mẫu sống ở cung Dao Trì (Diêu Trì) núi Côn Lôn, trong vườn của bà có trồng cây đào tiên, 3.000 năm cây mới ra quả, 3.000 năm sau nữa quả mới chín, tương truyền ăn vào trẻ mãi không già.Tây Vương Mẫu cùng các vị thần rong ruổi trên cõi trời trên chiếc xe do hạc kéoTranh vẽ động Đôn Hoàng, khoảng 535-556, Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgTây Vương Mẫu chủ quản cung Diêu trì trên thiên đình, là thần Thái âm, cùng với Đông Vương Công tạo thành khí âm dương nuôi dưỡng trời đất, uốn nắn vạn vật. Mỗi con người trong nhân gian khi đắc đạo thành tiên đều đến lạy tạ Đông Vương Công thì cũng lạy tạ Tây Vương Mẫu. Tương truyền này 3 tháng Ba âm lịch, chúng tiên trên thế giới đều tập trung tại cung Diêu trì chúc thọ Tây Vương Mẫu. Bức tranh Nhà trời trong bộ tranh thờ dân tộc Tày, Mẫu Thượng Ngàn là người ở hàng thứ hai từ trên xuống, hình ảnh 5 đức bé bá vai nhau đi chung quanh hồ nước chính là 5 người con trai của bà.Nhà TrờiTranh thờ dân tộc Tày, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Phả còn chép vợ Kinh Dương Vương là bà Xích hậu (hoàng hậu nước Xích Quỉ), có tên húy là Động Đình Tiên Nữ (Hồng Đăng Ngàn). Bà là con gái Động Đình Quân, được dân gian tôn làm Quốc mẫu - Ngọc Tỉnh Thần Nữ - nàng cả Đại Vương, còn gọi là Mẫu Đệ nhị Thượng Ngàn, được thờ ở đền Tiên Cát, Việt Trì Phú Thọ. Như vậy truyền thuyết dân gian về Mẫu Thượng Ngàn dạy dân trồng dâu, nuôi tằm là hoàn toàn chính xác, khi mà ngôi chùa này mang tên là chùa Dâu, nơi phát tích ý nghĩa tôn thờ Tứ Pháp. Có bài thơ rằng:Một dãy giang sơn dệt gấm hoa,Ngàn năm văn hiến tổ tiên ta.Nền xưa vun đắp nhờ con cháu,Cho rạng năm châu rỡ đạo nhà.Chúa Mẫu ThoảiLà vị nữ thần trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi long vương, liên quan trực tiếp với thủy tổ dân tộc Việt buổi đầu dựng nước. Huyền thoại và thần tích có nhiều dị bản, một trong những dị bản bà là vợ của Kinh Dương Vương, con gái của Long Vương ở Động Đình Hồ, dị bản khác Mẫu Thoải là nhiều Bà, vốn là con gái Lạc Long Quân, trong đó ba người được trông coi song biển nước Nam, đó là Thủy Tinh Động Đình Ngọc Nữ Công Chúa, Hoàng Bà Đan Khiết Phu Nhân và Tam Giang Công Chúa. Các Mẫu Thoải trông coi việc song biển, làm mưa, chống lũ lụt, khi có hạn cũng phải cầu đảo các bà, các bà còn giúp các vị tướng lĩnh hay nhà vua đi chinh chiến dẹp giặc. Chúa Mẫu ThoảiTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgChồng bà nghe lời Thảo Mai, đưa bà đi đày vào nơi rừng sâu, núi thẳm. Vì là người ngay thẳng, nhân hậu, nên bà được muông thú đem đồ ăn, thức uống dâng nạp. Về sau, có người sĩ tử là Liễu Nghi đi ngao du sơn thủy gặp được bà. Bà nhờ Liễu Nghi gửi thư đến cha là Lạc Long Quân, bày tỏ nỗi oan ức. Nhận được thư, Đức Lạc Long Quân nổi giận, cho bắt Kình Xuyên và trị tội Thảo Mai. Trong dân gian cho tới những năm 60 của thế kỷ trước, người viết vẫn còn nghe thấy những người phụ nữ hay dối trá bị gọi là “Thảo Mai”, cũng giống như nam giới phụ tình bị gọi là “Sở Khanh” vậy. Điều này chứng tỏ câu truyện về bà chúa Mẫu Thoải phổ biến khá sâu rộng trong dân chúng.Như vậy, bức tranh mang tính minh họa cho một truyền thuyết, có quan hệ tới truyền thuyết về thời lập quốc của dân tộc Việt. Hiện tượng Đức Lạc Long Quân có con gái đã khẳng định truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên với nội dung ghi nhận Tổ phụ Lạc Long Quân lấy Tổ mẫu Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai chỉ là một biểu tượng mang tính mật ngữ về cội nguồn lịch sử và văn hóa của người Lạc Việt. Truyền thuyết về Đức Mẫu Thoải khẳng định cội nguồn xuất xứ của dân tộc Việt từ hàng ngàn năm, như truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên đã ghi nhận: Nước Văn Lang Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải.Bách tử (Trăm con)Tranh dân gian Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Mẫu Thoải là “Bà Mẹ Nước” nguyên ngữ là Mẫu Thủy, dân gian tôn kính nên đã đọc trại âm là Mẫu Thoải. Chúng ta cũng đã biết Lạc Long Quân là vua Cõi Nước, Cõi Âm, Cõi Chết và trong đạo Mẫu, Mẫu Thoải có vị trí thứ ba sau Thánh Mẫu Thượng Thiên và Thánh Mẫu Thượng Ngàn, như vậy không còn nghi ngờ gì nữa, Mẫu Thoải chính là Âu Cơ, là “Bà Mẹ Nước”, Đệ Tam Thánh Mẫu. Trong những bài chầu văn cúng Mẫu Thoải ở đền Đồng Bằng, Thái Bình có đoạn:Trạnh Giang Biên dòng dòng lai láng,Nguyệt lầu lầu soi nắng Nam Ninh.Ngài con vua thủy Động Đình,Cổ tiên thần nữ giáng sinh đền rồng.Tài gồm đủ công, dung, ngôn, hạnh,Nét ôn hòa ưa tính thiên nhiên...Từ các dị bản trên cùng nội dung bài chầu văn, vua thủy Động Đình Hồ chính là vua Kinh Dương Vương được kế thừa vùng đất của ông ngoại Bát Hải Động Đình. Một điều đáng chú ý là trong các giá đồng Thánh Mẫu Thượng Thiên bao giờ cũng mặc trang phục màu đỏ, Chúa Mẫu Thoải mặc trang phục màu trắng, Thánh Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh lá cây. Tượng Mẫu Âu CơSùng Quang Tự, Bình Đà, Hà Tây, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgTruyền thuyết Con Rồng cháu Tiên là truyền thuyết lịch sử đầu tiên trong cụm truyền thuyết lịch sử thời Hùng Vương. Ngoài ý nghĩa trực tiếp nhắc đến lịch sử giai đoạn đầu lập quốc của dân tộc Việt, thì trong truyền thuyết này còn hàm chứa những mật ngữ ghi nhận cội nguồn và lý giải sự huyền bí của nền văn hoá Đông phương. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên đã ghi nhận:Kinh Dương Vương đi tuần thú ở Động Đình Hồ, gặp và lấy nàng Long Nữ, sinh Lạc Long quân, Tổ phụ Lạc Long Quân thuộc giống Rồng lấy Tổ mẫu Âu Cơ thuộc giống Tiên, sinh được một bọc chứa 100 trứng, nở thành 100 người con trai. Tổ phụ đưa 50 người con xuống biển. Tổ mẫu đưa 50 người con lên núi, lập nước Văn Lang và người con cả lên ngôi vua là Hùng Vương Thứ nhất. Nước Văn Lang chia làm 15 bộ…Đây là hình ảnh biểu tượng được thần thoại hóa, trong đó gửi gắm những ý tưởng của cha ông truyền lại cho đời sau về nguồn gốc Lạc thư - Hà đồ và thuyết Âm Dương Ngũ hành, khẳng định sự kỳ vĩ của nền văn minh Văn Lang, niềm tự hào của người Lạc Việt. Hình ảnh biểu tượng này được lý giải và trình bày như sau:- Cái bọc trứng là sự thể hiện tính bao trùm của vũ trụ với sức mạnh kỳ vĩ trong đó chứa đựng tri thức của một nền văn minh mà sự phát xuất nguyên thủy của nó chính là Thái cực. Tượng của Thái cực là hình tròn, là Dương khi phân biệt Âm Dương.- Một trăm quả trứng (tức là 100 vòng tròn): Đó là tổng độ số của Lạc thư - Hà đồ, gồm: Độ số của Lạc thư là 45; độ số của Hà đồ là 55; tổng độ số của Lạc thư - Hà đồ đúng 100 vòng tròn. Trong đó có 50 vòng tròn đen thuộc Âm, tương ứng với 50 người con trai theo Tổ mẫu Âu Cơ và 50 vòng tròn trắng thuộc Dương, tương ứng với 50 người con theo Tổ phụ Lạc Long Quân.- Lạc thư thuộc Dương (cái có trước) với độ số Dương 25 so với độ số Âm là 20; nhưng thể hiện lý tương khắc thuộc Âm. Hà đồ thuộc Âm (cái có sau) với độ số Âm là 30 so với độ số Dương là 25. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm là nguyên lý bản căn của lý học Đông phương; tương ứng với 50 người con theo Mẹ (Âm) lên núi (Dương). Và 50 người con theo Cha (Dương) xuống biển (Âm).- Âm thuộc hình thể nên những người con theo Mẹ lên lãnh đạo đất nước Văn Lang.- Trong truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên thì:* Rồng là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ.* Tiên là biểu tượng của sự thông thái, sáng suốt thuộc về tri thức của con người.* Sự kết hợp Rồng Tiên là biểu tượng của sự kết hợp giữa tri thức con người và sức mạnh vũ trụ; bắt nguồn từ sự nhận thức của con người với sự vận động của vũ trụ, mà tiền đề của nó là thuyết Âm Dương Ngũ hành và Lạc thư Hà đồ.Sở dĩ 100 trứng không nở ra 50 con trai (Dương) và 50 con gái (Âm), vì Lạc thư Hà đồ thuộc giá trị tinh thần nên được hình tượng bằng con trai (Dương). Con số 15 bộ hành chính của nước Văn Lang, chính là tổng độ số của ma phương Lạc thư khi cộng ngang, dọc, chéo. Đây là sự vận dụng những qui luật vũ trụ trong việc điều hành đất nước. Trong Lạc thư Hà đồ đã bao gồm lý của Âm Dương Ngũ hành như đã trình bày ở trên. Xin xem hình sau đây:Độ số Lạc thư = 45 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgĐộ số Hà đồ = 55 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgTổng độ số của Lạc thư và Hà đồ đúng bằng 100Biểu tượng Lạc Thư45 vòng tròn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgBiểu tượng Hà đồ55 vòng tròn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgTổng số vòng tròn trong Lạc thư và Hà đồ bằng 100Trong đó: 50 vòng tròn đen (Âm) và 50 vòng tròn trắng (Dương)Mẫu Thoải là Mẫu Âu Cơ, có tên húy là Mỹ. Bà là con gái của Đế Lai và là vợ Lạc Long Quân. Bà là người hiền đức, kế nghiệp mẹ chồng dạy dân chăn tằm dệt lụa. Đời chúa Trịnh tặng cho Bà họ Ngô và mỹ tự “Thục đức đoan trang công chúa”, thụy là Căn Kỷ Công chúa. Bà được thờ nhiều nơi. Ở chùa Sùng Quang Tự ở Bình Đà, Hà Tây có tượng thờ Bà và tượng thờ Lạc Long Quân. Kỵ ngày 5 tháng Năm âm lịch mà dân gian hay gọi là ngày Tết Đoan Ngọ.Ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch hàng năm là một ngày lễ hội truyền thống không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước Đông Á khác là Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc. Tết Đoan Ngọ tồn tại từ lâu trong văn hóa dân gian Đông phương và có một ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt văn hóa. Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết Đoan Dương, Tết Hàn thực vì trong ngày này theo tục lệ kiêng ăn món đồ nóng. Ngày này cũng còn gọi là ngày giết sâu bọ. Vì người ta tin rằng: khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Truyền thuyết về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm thì lưu truyền rằng: vào thời Xuân Thu, có ông Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công (Công tử Trùng Nhĩ) bôn ba phục quốc trên 30 năm. Lúc gian khổ; ông cắt thịt đùi dâng vua ăn. Khi việc phục quốc thành công, ông vì khinh bỉ đám cận thần của vua, nên không nhận quan tước, mà bỏ về ở ẩn. Tấn Văn Công thân chinh mời ông ra. Ông cõng mẹ bỏ trốn vào rừng. Nhà vua ra lệnh đốt rừng; hy vọng ông sẽ ra. Nhưng ông cùng bà mẹ trọng nghĩa đã chịu chết cháy trong rừng. Theo truyền thuyết ngày đó là ngày mùng 5 tháng Năm. Bởi vậy, nhà vua chọn ngày này làm ngày kỷ niệm Giới Tử Thôi và ra lệnh cấm đốt lửa trong ngày này. Đó là nguyên nhân để ngày này dân chúng chỉ ăn đồ nguội. Một truyền thuyết thứ hai nữa là: Khuất Nguyên là một vị trung thần nước Sở, ông còn là một nhà văn hoá nổi tiếng với bài Ly Tao và Sở Từ, thể hiện tâm trạng buồn về sự suy vong với hoạ mất nước. Can vua không được, ông tự tử trên dòng sông Mịch La. Dân chúng trọng nghĩa ra sông tưởng nhớ anh linh của ông, cúng rất nhiều sản vật. Ngày đó, theo truyền thuyết là ngày mùng 5 tháng Năm. Như vậy, theo hai truyền thuyết trên thì ngày 5 tháng Năm có nguồn gốc từ văn hoá Trung Quốc. Nhưng điều đáng lưu ý Hàn Quốc cũng coi ngày 5 tháng Năm là ngày lễ theo truyền thống văn hóa của họ. Nhưng trong văn hóa Việt thì ngày mùng 5 tháng Năm lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Trong dân gian đã lưu truyền câu ca dao: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương,Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.Như vậy, đây là một ngày tết có nguồn gốc từ văn hóa Việt. Nhưng tại sao ngày mùng 5 tháng Năm lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ? Trung tâm Hà Đồ là ngôi Hoàng Cực biểu tượng của sự thống trị tối cao, tức quyền uy của nhà vua. Trung tâm Hà Đồ có độ số 5 thuộc Dương và 10 thuộc Âm. Phần trung tâm Hà Đồ được miêu tả như sau: Đồ hình Hà Đồ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgChúng ta cũng biết rằng: Trong nguyên lý Âm Dương thì Dương có trước và Âm có sau. Dương là giá trị trừu tượng, Âm là giá trị hiện hữu. Như vậy, tháng có trước thuộc Dương và ngày có sau thuộc Âm (ngày là con của tháng).Trung cung Hà Đồ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgCũng trên nguyên lý độ số Âm của Hà Đồ là sự hiện hữu, nên chọn là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Ngày mùng 5 tháng Năm chính là biểu tượng của hai dãy mỗi dãy 5 vòng tròn đen ở trung tâm Hà Đồ. Ngày cực Âm, tháng cực Âm nên thuận theo tự nhiên, dân chúng ăn đồ nguội (Nguội thuộc Âm, nóng thuộc Dương). Chúng ta cũng lưu ý rằng: Ngày mùng 5 tháng Năm là ngày rất gần tiết Hạ chí, tức là ngày nóng nhất trong năm theo thực tế thời tiết hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành là ngày cực Dương thuộc Hoả khí (Trong Hậu Thiên Lạc Việt, Ly Hỏa thay thế vị trí Càn trong Tiên Thiên). Bởi vậy, lấy số ngày và tháng cực Âm về biểu tượng là mùng 5 tháng Năm (cân bằng Âm Dương). Vì là ngày cực Âm nên biểu tượng bằng ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ (Cha thuộc Dương, Mẹ thuộc Âm).Như vậy, nền văn hiến Lạc Việt qua ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ, đã giải thích nguyên uỷ ngày này bằng chính nền tảng của nguyên lý học thuật cổ Đông phương, chứ không phải bằng những truyền thuyết mơ hồ nói trên. Đây là một yếu tố sắc sảo nữa chứng minh rằng nguồn gốc của văn minh Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt một thời huy hoàng kỳ vĩ từ hàng ngàn năm trước ở miền nam sông Dương Tử. Nền văn minh này đã sụp đổ từ thế kỷ thứ III tr.CN, nhưng dấu ấn của nó vẫn còn lưu giữ trong những giá trị văn hóa truyền thống ở nhiều quốc gia liên quan đến nền văn minh này. Cổ Việt Hùng thị ngọc phả cổ truyền do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố soạn vào năm Nhâm Thìn 1472 niên hiệu Hồng Đức thứ ba, đây là bản thời Hậu Lê ghi chép tỉ mỉ, có đoạn miêu tả khá đầy đủ như đoạn mở bọc trăm trứng.Âu Cơ có mang đến 3 năm 3 tháng mười ngày. Thời đó ở đồi Nghĩa Lĩnh thường có sắc mây sáng chói. Năm Giáp Tý, tháp Chạp, ngày rằm giờ Ngọ thì chuyển dạ sinh cho đến giờ Ngọ ngày 28 tháng Chạp cùng năm. Sinh một bọc trứng, cũng gọi là một bọc trăm hòn ngọc giữa một vùng ánh nắng chói chang, hương hoa sực nức.Ngay giờ ngọ hôm đó, nhà vua truyền nổi hiệu lệnh, triệu tập văn võ bá quan đến điện để chứng kiến sự lạ. Trước đó, các quan đã được lệnh chay tịnh sạch sẽ, chuẩn bị quần áo chỉnh tề, để lễ tế tạ ơn trời đất đã trao cho bọc trăm hòn ngọc vô cùng quý giá.Hôm đó trời đang tạnh ráo bỗng có mưa, nhà vua cho rằng đó là điềm tốt. Chờ các quan đến đông đủ, vua truyền làm lễ tế trời đất. Khoảng xế chiều, bỗng thấy có một đám mây từ phía Tây kéo lại phủ kín cung điện nhà vua. Từ trong đám mây, xuất hiện bốn vị tướng nhà trời, đầu đội mũ hoa, mình mặc áo gấm lưng thắt đai ngọc, chân đi hài thêu, tay cầm long bài của vua Trời vứt xuống, đại ý nói rằng: Nhà trời đã ban cho bọc rồng trăm trứng, nở thành trăm con trai đội mũ vua hiền để cai quản đất nước. Lệnh này từ nhà trời ban xuống, sẽ được nhà Trời bảo vệ. Y theo sắc chỉ thi hành.Tiếp đó, Lạc Long Quân nhắc lại ý nhà Trời trong sắc chỉ cho mọi người cùng nghe. Nhà vua liền chọn một số quan văn, võ trai giới chỉnh tề, hương đèn túc trực nơi để bọc rổng trăm trứng, và tất cả chuẩn bị làm lễ mở bọc. Hôm đó, đúng giờ ngọ (không nói năm), lễ mở bọc bắt đầu. Nhà vua liền nhấc bổng bọc rồng giơ lên, bỗng nhiên bọc kỳ diệu đó tự mở ra, trăm trứng nở thành trăm bé trai lúc nhúc. Đô thành Phong Châu (Vân Lôi) có mây năm sắc phủ ở trên, song núi tỏa hương thơm ngào ngạt. Mọi người hân hoan vái tạ đất trời.Một tháng trôi qua, trăm em bé trai không bú mà tự lớn dần lên và mặt mũi em nào cũng oai hùng, sắc sảo. Nhà vua truyền cung phi may áo cho các em mặc. Trước cung điện các em ở có hồ sen trải rộng, ban ngày thường có bươm bướm lượn trên không. Đã gần ba tháng mười ngày mà các em bé vẫn chưa biết bập bẹ, chưa biết mỉm cười, kể cả em nở đầu tiên, được coi như em trưởng.Lại đến giờ thin ngày hai mươi tháng bảy, tức một trăm ngày nữa, thì bỗng nhiên, cả trăm em trai đều cười to và tất cả nói rằng: Trời trogn xanh sinh thánh, nước lặng phắt sinh vua. Bốn biển đã thanh bình, thiên hạ ắt yên vui.Chẳng bao lâu, trăm cậu bé đã lớn thành trăm hoàng tử. Khi các hoàng tử lên điện rồng chầu vua cha, thì nhà vua bỗng thấy có tám vị tướng nhà trời sai xuống bảo vệ các hoàng tử. Tám vị tướng này có thể ví tám vị kim cương trong đạo Bà La Môn, đó là tám vị thần sấm sét nhà Trời. Chẳng bao lâu trăm chàng hoàng tử đã cao lớn, cha con gặp nhau xiết bao vui vẻ.Nhà vua liền truyền vời trăm quan đến hội đồng tại điện vua, để chứng kiến lẽ ban danh hiệu cao quý cho cả trăm hoàng tử, mà không cần chia thứ bậc trên dưới, để các hoàng tử cùng phấn khởi. Sau đó, nhà vua truyền tổ chức lễ cầu phúc cho các hoàng tử. Bỗng có một cụ già, tự xưng là nhà tu hành ở chùa đạo Bà La Môn Hoa Long, tại Ao Việt (Việt trì). Cụ được quan trấn thủ địa phương Phong đô triệu vào chầu vua – Nhà vua ân cần tiếp cụ già và xin cụ giúp nhà vua xử lý việc định ngôi thứ.Nay trời cho ta trăm con trai trưởng thành, ta xét sức lực và tài cán các con thì như nhau, người này là anh, người kia là em. Vậy xin lão nhân giúp ta.Cụ già kính cẩn thưa rằng: Tâu thánh thượng, kẻ già sinh ra từ thời tiên đế (Kinh Dương Vương), vốn theo đạo Bà La Môn, đã từng đi khắp nơi để hiểu tình hình… Kẻ già này vốn không có tài cán gì, may có được quyển sách Thần tời thời Tổ Phục Hy, dựa vào đó mà bói để biết mọi chuyện trên đời. Nhà vua truyền: Vậy mong lão nhân giúp ta cử đích trưởng nối ngôi và thứ tự anh em đồng bào đồng bọc.Cụ già liền tâu vua:Nếu thánh thượng muốn gieo quẻ thì cũng được. Có điều là dung bói toán kể cả bói dịch sẽ gây ra lệ tiền định không hay. Theo thiển ý của kẻ già này, xin Thánh thượng cho phép triệu tất cả trăm hoàng tử tại điện vua, để các hoàng tử và toàn thể triều đình đọc và suy nghĩ. Hạ thần xin theo dõi ít lâu, xem mọi hoàng tử, mọi người có ý kiến gì không. Khoảng một thời gian sau, xin Thánh thượng triệu tập tất cả hoàng tử đến điện vua, để đồng thanh cử Thái tử nối ngôi.Một khi các hoàng tử đã đồng thanh cử người đứng đầu bảng là chành Lân, còn lại 99 hoàng tử thì đã có thứ tự trong bảng vàng niêm yết, có điều chỉnh, torng ý nghĩa là 99 hoàng tử đều nganh nhau về phúc lộc từ vua ban xuống, tuy rằng thứ tự thì có anh và có em, để dễ bề hòa hợp và sắp đặt.Lạc Long Quân theo đúng kế hoạch của cụ già và mọi sắp đặt đều ổn thỏa. Cụ già liền cáo từ về lại chùa Long Hoa hay về trời vẫn không ai biết được (Việt Nam và cội nguồn trăm họ, tác giả Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, 2001, trang 92-93). Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh nhị bình về công chúa Quế Hoa và Quỳnh Hoa.Quế Hoa và Quỳnh HoaTranh dân gian Đông Hồ, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgTục truyền rằng Quỳnh Hoa - con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu. Dựa trên cuốn Cổ vật Việt Nam, Ván in sách gỗ chạm có hình Thánh mẫu và tên sách Đệ nhị thánh mẫu, bên phải khắc chữ Tín Văn Quế Hoa công chúa, như vậy chu1ngta có thể nhận định Quỳnh Hoa chính là Đệ Nhị Thánh Mẫu hay Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Bố cục bức tranh Quỳnh Hoa ở bên trái, dương như vậy, bức tranh Quế Hoa bên phải, âm sẽ là Thánh Mẫu có địa vị thấp hơn Quỳnh Hoa, đó chính là Chúa Mẫu Thoải. Chữ “Quế” hàm ý câu chuyện “cây quế” trên cung trăng, cung trăng là biểu tượng của bà với con thú cưng giã thuốc tiên thỏ ngọc.Ván in sách gỗ chạmCổ vật Việt Nam, Bộ Văn hóa Thông tin, 2003file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgNhư vậy, cùng với ngày Tết Thanh minh mồng 3 tháng Ba âm lịch được nhận định là ngày Tết Phụ nữ, và ngày Tết Đoan Dương chính là ngày Tết Người mẹ trong nền văn hóa Văn Lang.Thánh Cô hay Cô Ba Bức tranh thờ dân gian Hàng Trống Cô Ba ngồi trên sập, phía sau có chiếc võng đào, tương tự như bức tranh Thánh Mẫu Thượng Thiên, Chúa Mẫu Thoải và với trang phục màu thiên thanh, chỉ riêng bức tranh Mẫu Thượng Ngàn không có hình ảnh chiếc võng mà là chiếc ngai của hoàng hậu. Từ nội dung phân tích ở trên, hệ trống tranh thờ tương ứng với thứ tự của các Thánh Mẫu phù hợp với lịch sử các vua Hùng nước ta, bức tranh Cô Ba ngồi trên sập chính là hoàng hậu vua Hùng Quốc Vương (Hùng Vương thứ III), người đặt tên nước Văn Lang và đóng đô ở Phong Châu.Cô BaTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgNhư vậy, Thánh Cô chính là hoàng hậu vua Hùng Vương Thứ ba, cai quản Địa Phủ, cõi nhân gian, tương ứng câu truyện truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con, các người con cùng suy tôn người con cả lên làm vua, lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, như sự giải thích trên về Hà Đồ và Lạc Thư.Chúng ta ai cũng đã biết truyền thuyết Trầu Cau nói về thời vua Hùng Vương thứ III, đã có tập tục ăn trầu và trầu cau chính một món quà hết sức ý nghĩa trong nghi lễ cưới hỏi và giao tiếp xã hội của người Việt trong lãnh thổ Văn Lang xưa, và nó cũng mang ý nghĩa “tính Không” trong Phật giáo qua tiếng gọi “Trầu Không”. Từ việc sử dụng trầu cau như một nghi lễ trong quan hệ xã hội đến thói quen ăn trầu của cả một dân tộc, thì phải được định hình qua hàng thiên niên kỷ (Việt sử lược ghi nhận việc bỏ thuế trầu cau vào thời Lý, đã chứng tỏ việc sử dụng trầu cau rất phổ biến). Thói quen ăn trầu này còn phổ biến ở miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là ở Đài Loan hiện nay mà vị trí vĩ tuyến ở gần Động Đình Hồ. Sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi người đầu đời Tống soạn vào thế kỷ XII chép rằng:Từ Phúc Kiến, miền dưới Tứ Xuyên, miền Tây tỉnh Quảng Đông, đều có tục ăn trầu... (theo Cau trầu đầu truyện, Phạm Côn Sơn. Nxb Đồng Tháp 1994).“Phúc Kiến” tức là miền dưới Triết Giang của nước Việt cũ, “miền dưới Tứ Xuyên” tức Quý Châu cũ; “Quảng Đông” tức là miền Giao Châu cũ, tất cả đều thuộc lãnh thổ Văn Lang ngày xưa theo sử sách. Hiện tượng này chỉ có sự giải thích hợp lý là: lãnh thổ Văn Lang đã bao trùm phần miền Nam Trung Quốc ngày nay như truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên đã nói tới: “Bắc giáp Động Đình Hồ, Tây giáp Ba Thục, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải”. Do đó, khi lãnh thổ bị thu hẹp thì những người dân ở vùng đất thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ được thói quen ăn trầu trải đã hàng ngàn năm, mặc dù phần nghi lễ dựa trên miếng trầu quả cau đã bị xóa bỏ vì Hán hóa. Như vậy, đây là một trong những nét minh họa sắc sảo nhất cho biên giới Văn Lang theo truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên (trích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002). Truyện Trầu Cau kể rằng: vào thời xa xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân, một người tên Lang (tân lang có nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua đời, hai anh em đến trọ học nhà ông thầy họ Lưu. Thấy Tân và Lang vừa học giỏi, vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái của thầy cũng đem lòng quyến luyến, muốn chọn người anh làm chồng. Hai anh em Tân và Lang sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái không sao đoán được ai là anh, ai là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ đưa tới một bát cháo với một đôi đũa rồi rình xem, thấy Lang cung kính mời Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa cùng chàng. Vợ chồng Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống rất hạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày anh có vợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa, trong khi ấy người anh vô tình không hề hay biết. Ðã thế lại xẩy ra chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng về muộn, Lang về trước, nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội lên tiếng, cả hai đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về,biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ đó tỏ ra lạnh nhạt với em hơn. Lang buồn tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức, chết đi hóa thân thành cây cau bên bờ suối vắng. Thấy em không về, Tân ân hận, xót xa. Chàng lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờ suối nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đá vôi, nằm sát bên gốc cau. Nàng Lưu chờ chồng mãi chẳng thấy trở về, quá nhớ thương nên lại đi tìm. Một chiều kia nàng cũng tới được bờ suối định mệnh. Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết... đến khi hồn lìa khỏi xác thì hóa thân thành cây trầu không, leo bám trên thân đá. Gia đình họ Lưu đi tìm con, được biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kích trước tình anh em khắng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ chồng họ Cao nên thường đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng. Một hôm vua Hùng Thứ ba nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại kể cho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về trồng, xa gần bắt chước làm theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết dùng trầu cau trong các dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở nước ta có từ đó.Câu truyện Trầu Cau đề cập tập tục ăn trầu đã có từ thời vua Hùng Vương thứ ba có chính xác hay không? Hiện tượng “khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra “sắc đỏ tươi như máu” mang ý nghĩa hành hỏa với biểu tượng phương Nam, nước Văn Lang thì rõ ràng đây là một dẫn chứng sắc sảo chỉ ra nơi xuất xứ tập tục này.Bình vôi Sản phẩm gốm tráng men, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgThông qua việc lý giải tục ăn trầu của người Việt, câu chuyện muốn ca ngợi tình cảm thắm thiết thủy chung gắn bó keo sơn giữa vợ chồng, anh em trong một gia đình và đó cũng là lối sống tình nghĩa của người Việt. Dù có trải qua sự đổi thay mô hình xã hội thì mối quan hệ cốt lõi vợ chồng, anh em vẫn mặn nồng, trong sáng, thủy chung. Từ câu truyện, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã sáng tác bài hát cùng tên “Trầu cau” đầu tay rất hay: Ngày xưa có hai anh em nhà kia Cùng yêu thương ở cùng nhau bỗng đâu chia lìa. Vì hai người cùng yêu mến một cô gái làng bên, Nhưng người anh được kết duyên cùng nàng. Vì như thế nên người em lòng buồn rầu bỏ ra đi khỏi làng... …Tình tính tình tính tang tính tình tang tính tình Bên sông sâu, niềm tương tư nàng chốc biến thành ra dây trầu xanh. Lưu luyến tình xưa âu yếm trầu leo quanh thân cau Qua bao năm tình thiêng liêng kia thắm cùng mưa nắng...Đặc biệt, ý nghĩa cốt lõi của câu chuyện chính là triết lý ở đời, người ta chỉ có một vợ một chồng, hay mang ý nghĩa là nền tảng của đạo đức, của hạnh phúc “Nhất âm nhất dương chi vi Đạo” và “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, nội dung “đạo đức” cũng được khắc ghi qua hình ảnh văn hóa dân tộc chiếc “bình phong” cổ kính của mỗi ngôi đình làng được thể hiện trên bộ tranh nhị bình dân gian Đông Hồ Đánh ghen và Hái dừa.Đánh ghen và Hái dừaTranh dân gian Đông Hồ, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Tranh Hái dừa có thơ Nôm ở góc trên bên trái: Khen ai khéo nặn nên dừa,Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi. Hình tượng tung hứng trái dừa - vốn không có trên thực tế - cho thấy tính mâu thuẫn và khó khăn trong đời, trong mối quan hệ giữa con người với con người. Nhưng nếu chính con người biết điều hòa cuộc sống của mình, của môi trường thì sẽ mang lại hạnh phúc cho chính mình và cho cuộc đời. Phải chăng đây chính là tính minh triết và nhân bản trong nội dung của bức tranh này. Tranh Đánh ghen với lời chú “Thôi thôi nuốt giận làm lành. Chi điều sinh sự nhục mình, nhục ta”, bên cạnh hình tượng các nhân vật và không gian ước lệ bằng các mảng tường hoa, bình phong. Lời chú trên tranh thật là một lối chơi chữ tuyệt vời với nhiều hàm nghĩa sâu xa. Hình tượng trên tranh khiến cho người xem khó có thể hiểu được trong hai người đàn bà ai là kẻ thách đố? Anh chồng đang cản vợ lớn hay đang bênh vợ bé? Nếu bức tranh chỉ dừng lại ở chủ đề này, thì nội dung của nó chỉ giới hạn ở sự phản ảnh một hiện tượng xã hội trải hàng vạn năm luyến ái của con người. Nhưng nội dung của nó không chỉ dừng lại ở đây. Tính nhân bản của bức tranh này chính là hình tượng chú bé chắp tay lạy cha mẹ. Đứa trẻ con ngây thơ vô tội ấy chỉ muốn một cuộc sống bình yên trong sự đùm bọc của một gia đình hạnh phúc. Phải chăng, đây chính là thông điệp của bức tranh: Sự thỏa mãn dục vọng và tranh giành quyền lợi trước mắt của con người sẽ vô tình gây ra cho thế hệ sau sự đau khổ (Trích Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh).Theo phả cũ ghi lại bà là con gái Lạc Tướng huyện Chu Diên, xã Hồng Dương ngày nay. Bà mất, an táng tại Thiên Trúc, sau gọi là Đồng Trúc, Thanh Oai.Công chúa Mỵ NươngTrong hệ thống tranh dân gian Hàng Trống, có bức tranh Ông Hoàng cưỡi lốt, trong bức tranh vẽ con lốt 3 đầu 9 đuôi, và đây chính là mật ngữ quan trọng. Chúng ta ai cũng biết câu truyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, trong cuộc thi, Sơn Tinh đã dâng cho vua Hùng Vương thứ III lễ vật: “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chính hồng mao” và đã giành được chiến thắng, cưới công chúa Mỵ Nương làm vợ. Thủy Tinh nổi giận, hàng năm dâng nước đánh phá và Sơn Tinh luôn là người chiến thắng trong các trận lũ lụt này. Vùng núi Ba Vì, Hà Tây được cho chính là nơi ở của Sơn Tinh.Ông Hoàng cưỡi lốtTranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg“Tam đầu đầu cửu vĩ” phù hợp mật ngữ “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chính hồng mao”, và chúng ta có thể nhận định ông “Hoàng cưỡi lốt” chính là Sơn Tinh, con rể truyền ngôi của Vua Hùng Vương thứ III. Từ nhận định này, chắc chắn sẽ phải có một bức tranh dân gian nói về công chúa Mỵ Nương để kết hợp với bức tranh Ông Hoàng cưỡi lốt thành bộ tranh nhị bình, và đó chính là bức tranh dân gian Hàng Trống Bà Ba cưỡi ngựa. Bà Ba cưỡi ngựaTranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgBức tranh dân gian Hàng Trống Bà Ba cưỡi ngựa mang dáng vẽ của một cuộc rước dâu về nhà chồng với ngựa xe, người hầu, lọng che, trông thật là hoành tráng, người hầu đi trước tay cầm một cái trống da nhỏ dùng làm hiệu lệnh dẫn đường. Qua câu truyện, chúng ta có thể nhận định rằng, Sơn Tinh là vị vua bắt đầu một đời vua Hùng mới bởi vị vua kế cận không có con trai, cho nên truyền cho con rể của mình. Nền văn hóa Việt hết sức nhân bản, bởi người phụ nữ được tôn vinh trong xã hội, các câu truyện truyền thuyết và huyền thoại chỉ thấy hình bóng người mẹ chứ ít khi thấy người cha.Theo các nhà nghiên cứu, Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên, có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn, giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc. Truyện kể về xung đột mang màu sắc “tình ái” giữa hai vị thần tượng trưng cho hai thế lực đối chọi nhau: Thủy Tinh (Thần Nước), là sức mạnh tự nhiên, biểu hiện của thiên tai lũ lụt, bão tố, mà hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng. Còn Sơn Tinh (Thần Núi), còn gọi là Thánh Tản Viên, đại diện cho sức mạnh vật chất, ý chí, sự thông minh, lòng quả cảm và sự đoàn kết toàn dân, đã chống chọi kiên cường và chống chọi thành công với sức huỷ diệt tàn phá của mọi thiên tai địch hoạ. Trong khi đó các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực sống vào thời Hùng Vương thứ XVIII, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng. Chàng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tài “hô phong hoán vũ”, dũng cảm, được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận. Tản Viên Sơn Thánh là người gợi lý cho vua Hùng truyền ngôi cho Thục Phán, lập lời thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ. Tản Viên Sơn Thánh cùng với vua Hùng Vương hóa thành tiên bay về trời.Sự kiện Sơn Tinh cưới công chúa Mỵ Nương và được truyền ngôi vua thời Hùng Vương thứ III và Tản Viên Sơn Thánh là bộ tướng của vua Hùng Vương thứ XVIII hoàn toàn mang hai đặc trưng khác nhau, điều này có nghĩa họ là hai người khác nhau. Gia phả Hùng Vương ghi nhận Hùng Vương thứ IV là Hùng Hoa Vương, chữ lót mang tên Hoa, biểu tượng của người nữ, cho phép chúng ta nhận định mật ngữ “Sơn Tinh” chính là vua Hùng Vương thứ IV, vị vua chủ đầu tiên của đời Hùng Vương này. Trong câu truyện truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh vào thời vua Hùng Vương thứ III, điều kiện vua Hùng Vương đưa ra để có thể cưới được công chúa (tức trao Vương quyền) là sính lễ phải gồm: “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Đây chính là những biểu tượng cô đọng nhất cho những giá trị của nền văn hiến Văn Lang - kết quả của nền văn minh Văn Lang được tạo lập qua hàng thiên niên kỷ mà vua Hùng yêu cầu người kế vị có trách nhiệm gìn giữ. Đó là:Voi chín ngà: là hình tượng của 5 dạng tồn tại ban đầu của Vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ và 4 trạng thái tương tác của nó (Tứ tượng) là: Tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. tổng cộng 9. Đây là sự cấu thành căn bản của hệ tư tưởng vũ trụ quan thời Hùng, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tất cả mọi giá trị tinh thần trong xã hội Văn Lang.Gà chín cựa: Kê nghi - đã được nhắc tới trong Hồng phạm cửu trù. Đây là những thành tựu của nền văn minh Văn Lang đã tạo dựng với một thời gian bằng nửa lịch sử nhân loại, kể từ khi quốc gia đầu tiên của loài người được thành lập - được thể hiện trong việc quan sát vũ trụ, tìm ra qui luật những hiệu ứng vũ trụ và sự ứng dụng trong cuộc sống, xã hội và con người được bắt đầu bằng Lạc thư - Hà đồ cửu cung. Ngựa chín hồng mao: ngựa là phương tiện chinh chiến, hình tượng của sự thống trị, lãnh đạo. Ngựa chín hồng mao là hình tượng của Hồng phạm Cửu trù: những giá trị của một nền chính trị nhân bản trong thế giới cổ đại mà những con người ở thời ấy phải mơ ước, đã được nhắc tới rất nhiều trong các trước tác của Nho giáo. Trong câu chuyện, vua Hùng đã gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh là hình ảnh thể hiện sự chọn giải pháp trao quyền cho người kế vị, để tiếp tục gìn giữ những giá trị tinh thần của tổ tiên mà dòng họ Hồng Bàng đã dày công tạo dựng.Hồng phạm cửu trùTrích Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg * Bản Hồng phạm cửu trù cũng sẽ phải được bố trí vào Hà Đồ đã đổi chỗ cung Tốn Khôn.Giải mã truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh đã góp phần chứng tỏ trên thực tế lịch sử, vua Hùng truyền ngôi cho Thục Phán như truyền thuyết đã nói đến. Ông đã có công cùng các tộc Việt chống lại sự xâm lược của quân Tần. Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh chỉ là một hình tượng không liên quan đến Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn, cũng là con rể của vua Hùng Vương thứ XVIII, người đã dàn xếp cuộc chiến giữa Thục Phán - Hùng Vương. Việc làm của ngài nhằm bảo vệ những thành tựu văn hóa của người Lạc Việt trải gần 3000 năm văn hiến, điều này sẽ giải thích vì sao ngài là một trong bốn vị thần hộ quốc của người Lạc Việt. Đồng thời, cũng làm rõ thêm về thời Hùng Vương thứ III đã xây dựng nên một bộ hiến pháp chế chặt chẽ, phù hợp với quy luật tự nhân, xã hội và con người.Để chứng minh Hồng phạm Cửu trù là sản phẩm của nước Văn Lang, chúng ta cùng tiếp tục xem xét những bức tranh nổi tiếng của làng tranh dân gian Đông Hồ: hình ảnh trong tranh là những chú bé ôm rùa, ôm cóc, ôm cá… là những hình tượng rất đặc thù trong văn hóa Việt Nam. Nội dung của những bức tranh Lạc Việt này, ngoài việc thể hiện những giá trị đạo lý và mơ ước của con người, còn thể hiện sự hoà nhập giữa con người và thiên nhiên qua hình ảnh những đứa trẻ bụ bẫm, thể hiện sự phú túc và tính thơ ngây thiên thần với những sinh vật gần gũi trong cuộc sống. Đó là những ý niệm gần gũi dễ cảm nhận của bộ tranh, nhưng trong nội dung sâu xa của bộ tranh này, chúng ta còn nhận thấy một tư duy tiếp nối và là hệ quả của một thuyết vũ trụ quan cổ.Để giải quyết ý nghĩa của từng bức tranh này chúng ta phải dựa trên nội dung trò chơi Bầu Cua Cá Cọc, các nhân vật trong bức tranh Bát Tiên quá hải… từ đấy mới điều chỉnh lại ý nghĩa gốc của các bức tranh:Ngũ Thường (trí, nghĩa, tín, nhân, lễ)Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgNgũ phúc (sống lâu, giàu sang, chết êm ái, yêu nhân đức, khỏe mạnh)Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgNhững bức tranh còn thiếu sẽ bao gồm bức tranh Bé gái ôm ốc mang ý nghĩa Nhân và Bé trai bế cua xanh mang ý nghĩa Lễ. Tổng cộng bộ ngũ bình gồm 5 bức tranh tạo một cấu trúc ngũ hành, mang ý nghĩa Ngũ Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín chính là hình ảnh một con người quân tử và là nền tảng của Nho giáo; Ngũ Phúc là năm mong ước lớn của đời người:. Ngũ thường và Ngũ phúc là bộ phận của Hồng Phạm Cửu trù. Như vậy bộ các bức tranh Đông Hồ Tứ Quý sẽ phải mang các tiêu đề nguyên thủy là bộ tranh năm bức Ngũ Phúc và Ngũ Thường. Ngũ Thường là nền tảng của Nho giáo, mà đó cũng là năm phương tiện tu hành của các tôn giáo về luân lý thông thường, là thành quả mà tổ tiên đã mất hàng ngàn năm đúc kết.Hình tượng con rùa, phương tiện chuyển tải tri thức dưới thời Hùng Vương vào thời kỳ đầu lập quốc, chính là biểu tượng của sách học. Hình tượng con cóc chính là biểu tượng của người thầy của chú bé, vì chỉ có Cóc mới có chữ Khoa đẩu để dạy cho đời. Nhân, nghĩa chính là hai đức tính đầu tiên trong đạo lý cổ Đông phương, những ý niệm về “Tôn sư trọng đạo”, “Tiên học lễ, hậu học văn” của Nho giáo, chính là những quy tắc giáo dục đã có từ lâu trong thời Hùng Vương.Xuyên suốt các bức tranh là hình ảnh Mẫu luôn được sắp xếp ở vị trí cao nhất của bức tranh, điều này thể hiện hình ảnh của người mẹ kể từ khai thiên lập địa có mẹ vũ trụ đến khi hình thành sự sống trên trái đất. Người mẹ là hình ảnh thiêng liêng trong mỗi dân tộc chứ không riêng gì trong nền văn hóa Việt Nam. Qua đó, đã cứng tỏ có một “nguyên lý Mẹ” trong nền văn hiến của dân tộc Việt, ca dao viết rằng: Gió Động Đình mẹ ru con ngủ,Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh. Bống bồng bông, bống bồng bông,Võng đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.Đây là tuyệt phẩm thơ ca ngợi tả cảnh người mẹ nằm võng bế và ru con ngủ trong đêm trăng thanh gió mát, tình mẹ thương con như trời như bể tràn lấp trong khung cảnh thiên nhiên êm ả đầy hương thơm ngọt ngào, cả hai đã kết quyện với nhau tạo thành cái nôi hạnh phúc tuyệt vời cho buổi đầu đời của trẻ thơ Việt. Hình ảnh chiếc võng xuất hiện không phải tình cờ xuất hiện trong các bức tranh dân gian Hàng Trống Thánh Mẫu Thượng Thiên, Chúa Mẫu Thoải và Bà Ba, chỉ riêng bức tranh Thánh Mẫu Thượng Ngàn ngồi trên sập là vị bà là hoàng hậu vua Kinh Dương Vương (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Tổ Mẫu nước Việt nên được trình bày khác biệt để nhấn mạnh. Mẹ ở đây Thánh Mẫu Thượng Thiên chính là Tổ Mẫu dòng giống Việt. Cái võng mẹ nằm ru con là cùng hình tượng với chiếc nôi mà ngày nay hay dùng để chỉ quê hương.Trong bài thơ có nói con sông Tiền Đường, là con sông chảy qua ranh giới hai tỉnh An huy và Giang Tây rồi vào tỉnh Triết Giang, Trung Quốc ngày nay, Chiết Giang cũng là tên gọi khác của sông Tiền Đường. Tiền Đường là tên con sông mà Hàng Châu nằm trên bờ Bắc của con sông này, cạnh biển Đông, là một trong bảy cố đô lớn có lịch sử lâu đời của Trung Quốc. Từ thời nhà Hạ đến thời Xuân Thu, Hàng Châu là đất cũ của nước Việt cổ. Đến thời Tần đặt Hàng Châu là huyện Tiền Đường, thời Tùy mới lấy tên là Hàng Châu, đến thời Đường đổi huyện Tiền Đường thành Hàng Châu trị, thời Ngũ Đại Hàng Châu là thủ đô của nước Ngô. Sau khi nhà Nam Tống dời đô về Lâm An, Hàng Châu đã trở thành kinh đô của các vương triều trong 153 năm (Cội nguồn Văn hóa Trung Hoa, Chủ biên Đường Đắc Dương, Phó Chủ biên Tạ Duy Hòa, Người dịch Nguyễn Thị Thu Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2003). Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn mà cuốn sách đề cập thuộc vùng đất Văn Lang cũ.Hồ Động Đình nhìn từ Nhạc Dương lâu Ảnh Vĩnh Quyền (bài viết Du xuân Hồ Động Đình)file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Trong kho tàng tranh dân gian quý báu của dân tộc còn lưu giữ cho tới tận ngày nay, mang nhiều trang sử Việt, tham khảo bộ các bức tranh 4 bức ở nhà thày Tào Ôn Thái Sơn, dân tộc Sán Dìu thôn Bức Lệnh, xã Đạo Trù, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang bao gồm Thiên Đế - vua Cõi Trời; Địa Đế - vua Cõi Đất; Thủy Đế - vua Cõi Nước và Nhạc đế - vua Cõi Núi rừng. Trên các trang phục của các vị vua đều có thêu ba con rồng, chỉ riêng trang phục của Thủy Đế không có hình ảnh con rồng thứ 3, trong văn hóa dân gian thật hiếm khi thấy biểu tượng 3 con rồng, thông thường chỉ có 2 con như “Lưỡng long chầu Nhật”, do vậy vấn đề này cũng làm cần phải xem xét ý nghĩa mà người vẽ gửi gắm vào đó. Đại công đồng trong tranh thờ đạo Mẫu và Đạo giáoTheo Nguồn gốc dân tộc Việt và nến văn minh cổ của nhóm nghiên cứu do Giáo sư Đỗ Tòng làm chủ nhiệm, thì Thủy tổ Nguyễn Minh Khiết (Thái Khương Công, Khương Thái Công) là con đầu của Đế Quý Công hay là Đế Thừa Sở Minh công là cháu của vua Thần Nông. Cụ đứng đầu 9 bộ lạc (gọi là Cửu Long hay Cửu Chân Chính. Tòa tượng Cửu Long ở chùa Việt Nam là biểu tượng 9 ông tổ của dòng người Việt. Mộ cụ ở Gò Ruối, Quang Lãm. Cùng với Bà cả là Đại Nương, hiệu Diệu Diên, sinh ra Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Nguyễn Minh Khiết hay còn gọi là Đế Minh là Đế Phương Nam, hai người em trai còn lại là Nguyễn Nghi Nhân hiệu Đế Nghi làm Đế Phương Bắc và Nguyễn Long Cảnh còn gọi là Lý Lang Công (tên khác là Ba Công, Long Đại Vương). Ba anh em được giới phật tử tôn thờ gọi là Tam Tòa Đức Chúa Ông hay “Tam giới Thiên chúa”, ba bà chính thất của ba ông gọi là Tam phủ Công đồng. Trong đó, Đế Minh và Đế Nghi là 2 anh em sinh đôi, còn người em út là Nguyễn Long Cảnh.Tam phủ Công đồngTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgTrong bức tranh Tam Phủ Công Đồng thể hiện Tam tòa đức chúa ông dưới Thánh Mẫu chủ, như vậy chúng ta có thể định hàng phía dưới là các phu nhân, trong hệ thống tranh âm dương đối ngẫu luôn là một yếu tố quan trọng nhất. Trong hệ thống tranh thờ Đạo giáo miền Bắc Việt Nam của dân tộc Tày, Nùng có bộ tranh ba bức Tam Từ, Chân dung các vị thần linh vẽ theo khuynh hướng phi cá tính, chủ yếu là biểu trưng và giống nhau, các thầy Tào đặt tên cho từng tranh theo đặc điểm con vật mà thần linh ngự cho dễ gọi, dễ nhớ: ông cưỡi rồng tức Cứu U phả Độ Thiên Tôn, ông cưỡi sư tử xanh tức Thái Ất cứu khổ thiên Tôn và ông cưỡi phượng tức Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn.Tranh Tam Từ hay Phả độ chúng sinh (5 bức)Dân tộc Nùng xóm Lũng Vải, xã Thể Dục, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằngfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgỞ bức tranh này xuất hiện các vị thần linh (vẽ ở nửa tranh phía dưới): ngoài tiên đồng, ngọc nữ còn có Công Tào Đại Súy Quan thống lĩnh các vị Công Tào ở thập phương, bát hướng (thiên tào, nhân tào và âm tào) coi về các địa ngục, âm ty có quỷ vô thường - đầu trâu mặt ngựa có nhiệm vụ tra khảo tội nhân, có cảnh qua cầu Nại Hà và Mục Kiều Liên Bồ Tát (bên trái ngoài cùng của tranh Chu Lăng) xuống địa ngục để giáo hóa, cứu độ chúng sinh. Hổ tiếu (hổ gầm sinh ra gió), Long ngâm (rồng múa sinh mưa) - hình tượng diễn tả cảnh thiên nhiên trước cơn mưa. Ở hai bức tranh này, ý nghĩa tôn giáo thể hiện: Thần chòm sao Bạch Hổ ở hướng Tây và thần chòm sao Thanh Long ở phía Đông, phụ thần cho ba vị Tam Từ.Tam Từ (3 bức)Dân tộc Tày, Nùng, Bắc Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgCác bức tranh hoàn toàn giống nhau chỉ khác con vật cưỡi, với quy tắc thần chủ của tranh nằm ở trục giữa của bức tranh, cho nên chúng ta có thể nhận định, vị thần ở giữa là Đế Minh tức Thái Ất cứu khổ thiên Tôn, vị thần bên trái thần chủ là Đế Nghi tức Cứu U phả Độ Thiên Tôn và vị thần bên phải thần chủ là Nguyễn Long Cảnh tức Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn. Một cách tương ứng trong bức tranh Tam phủ Công đồng, ở hàng phía dưới thì nữ thần chủ là Thánh Mẫu Thượng Thiên, chính thất của Đế Minh và hai bên chính là chính thất của hai vị thần trên.Các sự thống nhất giữa các bức tranh, quan sát bức tranh Đại Công đồng, chúng ta thấy Tứ vị tôn ông ở hàng trên cùng rồi tiếp theo tới Tam vị chầu bà… như vậy, bức tranh Tứ phủ Công đồng sẽ có vị trí thần linh cao hơn so với Tam phủ Công đồng.Tứ Phủ Công đồngTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgCăn cứ vào sự thống nhất giữa các bức tranh dân gian Đông Hồ Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Công Đồng và Đại Công Đồng, cùng với danh sách tóm tắt chư liệt tổ tiên của dân tộc Việt ghi nhận trong___, thì có thể nhận định rằng: bức tranh Tứ Phủ Công Đồng chỉ ra Tứ Đế chính là Phục Hy, Thần Nông, Đế Tiết và Đế Thừa, cùng với Đế Minh được gọi là Ngũ Đế hay Ngũ Hành, Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Hùng Quốc Vương được gọi là Tam Hoàng hay Tam Tài, Các vị vua Hùng kế tiếp tương ứng Vạn vật, riêng hình tượng Thánh Mẫu chủ ở vị trí cao nhất của bức tranh Đại Công Đồng - người mẹ sinh ra vị “Đế” cao nhất là vua Phục Hy, cùng với phu quân Hòa Hy được xem là “người khai thiên lập địa” tương đương Âm Dương. Như vậy chúng ta có cấu trúc tổ tiên được mã hóa: Thái Cực (Thủy tổ Hồng Bàng) - Âm Dương - Ngũ Hành - Tam Tài - Vạn vật.Tam Hoàng tương ứng Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan và Hạ Nguyên Thủy Quan được thể hiện qua bộ tranh Tam nguyên quan:Tam Nguyên QuanDân tộc Dao thanh Y, Quảng Ninh, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgTam nguyên quan có một bộ ba bức riêng, cũng như một bức vẽ chung, còn có một bức khác vẽ tương ứng ba nhân vật trong bức Tứ trực Công tào, vị còn lại không xuất hiện trong bức Tứ trực Công tào là có vị trí cao nhất, cưỡi chim phượng. Thượng nguyên quan - cầu cúng vào ngày 15 tháng Giêng, ban hạnh phúc. Trung nguyên quan - cầu cúng vào ngày 15 tháng Bảy, xá tội vong nhân. Hạ nguyên quan - cầu cúng vào ngày 15 tháng Mười, gạt bỏ bất hạnh. Đạo giáo cho rằng mỗi độ số của trời có 180 năm, gồm 3 Giáp Tý (năm Giáp Tý đầu tiên của mỗi Lục thập hoa giáp 60 năm). Giáp Tý đầu tiên gọi là Thượng nguyên do Thiên quan cai quản. Giáp Tý thứ hai gọi là Trung nguyên do Địa Quan cai quản. Giáp Tý thứ ba là Hạ nguyên do Thủy quan cai quản.Chúng ta tiếp tục xem xét bộ 4 bức tranh Đạo giáo Tầu Khảng của dân tộc Giao Lô Gang, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với nhận định trên:Tầu Khảng Bộ tranh dân tộc Giao Lô Gang, tỉnh Lạng Sơn, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgHai bức tranh Cưỡi cá và Thuyền Quan nói về sự tích Bàn Vương, tổ tiên của người Dao đã phù hộ cho con cháu vượt sông Dương Tử và vượt biển phía Đông và Nam Trung Hoa trong nhiều đợt di cư về hướng Nam trong quá trình lịch sử lâu dài của người Dao, hay cũng là chứng tích cuộc di dân của dân tộc Việt, tham khảo nội dung trích dẫn trong cuốn Việt Nam cội nguồn trăm họ, tác giả giáo sư Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 2001: “ … Như trên đã nói, không phải ngẫu nhiên mà Tổ tiên chúng ta từ thời trước Đế Phục Hy, đã được sống yên ổn dưới mái nhà thế giới, mà không phải chịu đựng những cơn đại hồng thuỷ như trận nước dâng thời gia đình Nô-ê, theo kinh Cựu ước của đạo Cơ Đốc, đã dẫn ở trên. Quả nhiên gia đình vua Phục Hy cũng phải chạy lũ lụt từ cao nguyên Thanh Hải, cao nguyên Tây Tạng, tiến ra phía Đông, phía mặt trời mọc ở vùng hồ Động Đình, rồi tiến xuống phía Nam, đến dãy núi Ba Vì, tức núi Tản Viên có sông Đà chảy qua.”. Chúng ta tiếp tục xem các bức tranh Ngũ kỳ binh mã hay còn gọi là Thuyền Quan của dân tộc Dao Đỏ:Ngũ kỳ binh mã (Thuyền Quan)Dân tộc Dao Đỏ, miền Bắc Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Trong các bức tranh Ngũ kỳ binh mã và Thuyền Quan, dưới hình tượng Bàn Vương hiện lên chỉ đường cho con cháu vượt sông vượt biển, ta thấy vẽ hình một con chó tức Long khuyển, trong sự tích Bàn Vương của người Dao. Hình chiếc thuyền cách điệu cá chép - Lý ngư theo lệnh của Bàn Vương đã nổi lên cứu vớt con cháu đang bị đắm thuyền trong bão tố ở Biển Đông, vào bến bờ an toàn. Trong bức tranh chúng ta thấy Long Khuyển ngồi chễm chệ trên cây 3 nhánh bên trái vị quan có ý nghĩa gì chăng? Theo trích đoạn sách Việt Nam cội nguồn trăm họ, tác giả giáo sư Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 2001: “Cái tên Phục Hy đã nói rõ trình độ tổ tiên chúng ta thời đó: chữ “Phục” bên trái là “Nhân đứng”, bên phải là chữ “khuyển” (con chó), tức “Người” đứng cạnh con “chó” (tức "Phục" là che chở cho mọi người, kể cả con chó nuôi trong nhà. Chữ “Phục” này cũng thông nghĩa với chữ Phục là giúp việc, giúp đỡ. Còn chữ “Hy” trong tự điển gốc là chính tên của ông ấy, ông Phục Hy, bởi có ông Phục Hy mới có chữ Hy (viết hoa), chứ không phải cha mẹ ông đẻ ra ông mới mượn chữ Hán mãi mấy hàng ngàn năm về sau để đặt tên cho ông”.Rõ ràng hình ảnh Long Khuyển bên cạnh vị Quan đang đứng ẩn nghĩa tên của vị quan chính là Phục Hy. Tiếp tục chú ý hình ảnh 3 người phụ nữ đang đứng, trong đó 2 người chắp tay hướng người thứ ba ở giữa, ngoài ra có một người phụ nữ khác đứng ở gốc cây, khả năng 4 người phụ nữ gợi ý chính là hình ảnh liên quan tới bức tranh Tứ Phủ Công Đồng. Trong các bức tranh, người phụ nữ ngồi trên hoa sen nhận định là Nữ Oa và người ngồi trên cây có con chó bên cạnh là Phục Hy.Tứ Phủ công độngTranh dân gian Hàng Trống, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgVua Phục Hy lịch sử đã được nhân dân ta tôn thờ và suy tôn là Đế Thiên. Hình ảnh vua Phục Hy và bà Nữ Oa ngồi trên tòa sen vững vàng, trên một cái cột mang hình ảnh Trục Vũ trụ như trình bày trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM. Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, vua Phục Hy có một người con tên là Thần Nông, ông còn có tên là Đế Khôi, được dân kính phục và suy tôn là Đế Thần. Lúc thiếu niên, Thần Nông được cha đẻ là Phục Hy gửi Long Cát (thường gọi là Lão Long Cát) dạy dỗ và bà Trinh Nương nuôi dưỡng. Khi Phục Hy mất, Thần Nông vẫn còn ít tuổi, cho nên giúp việc điều hành do hai vị phụ tá của cha là Lão Long Cát tức Toại Nhân và Hữu Sào. Khi Đế Khôi khôn lớn, trở về làng Sở, mời hội đồng các "vua núi" (Sơn Quân) đem quân đánh đuổi gian nô Hiên Viên, thừa kế sự nghiệp của các cụ tổ tiên, "lên ngôi vua sáng, thi hành chính nhân, dân chúng một mực kính yêu". Đất đai từ vùng Tây Phương trở xuống, lấy ngọn Phương Lĩnh, Trầm Đỉnh làm chính, sau đến núi Linh Sơn, Tiên Lữ cùng dãy với ngọn Phong Châu làm thành một dải. Viêm Đế đem đất đó chia cho dân nghèo, cả thảy gồm 70 dặm, 65 ấp. Thần Nông tiếp tục sự nghiệp của cha, phát triển việc trồng lúa nước, chọn cây làm thuốc và dạy dân chăn nuôi, đào giếng lấy nước, ở vùng làng Sở (Tiên Phương) hiện ở đây vẫn còn một số giếng nước cổ, theo truyền lại là có từ thời Thần Nông, trồng dâu nuôi tằm, dệt the lụa, làm chủ vùng đất Sở (gọi là Sở Oai) tức là vùng Tiên Lữ, Tiên Phương mà tên nôm xưa kia gọi là làng Sở (thuộc Quốc Oai và Chương Mỹ hiện nay). Thần Nông - Địa TrạchTranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgThân Nông tiếng Cao Lan - Sán Chỉ gọi là Sằn Nông, vị thần cổ đại trong huyền sử của Việt Nam và Trung Quốc, dạy dân cày cấy, mở mang nông nghiệp, có tính Dương. Thần chủ việc chăn nuôi, mở mang nông nghiệp, có tính Âm.Thần Nông còn có công về mặt văn hóa: bổ sung phát triển sách Dịch của tổ Phục Hy, làm rõ quan niệm về âm dương; cải cách chữ viết theo hình thắt gút kiểu con nòng nọc (khoa đẩu) do Thương Hiệt sáng tạo trước đây; phát triển lịch phục vụ nghề nông được sáng lập từ thời Phục Hy; trồng rộng rãi các loại cây làm thuốc. Trước đây, ở nước ta đã lưu truyền cuốn sách Thần Nông bản thảo sau bị giặc nước tiêu hủy (trích đoạn chương I sách Việt Nam và cội nguồn trăm họ, viết khá kỹ về Phục Hy và Thần Nông).Phục Hy - Nữ Oa và Phục Hy-Thần Nông-Hoàng Đế Tranh dân gian Trung Quốcfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Bàn Vương, tổ của người Dao lúc này tương ứng với vị trí của vua Phục Hy. Bàn Vương cũng mang nghĩa Bàn Cổ, do vậy Phục Hy và Nữ Oa tương ứng Bàn Cổ và Nữ Oa, họ được xem là thủy tổ của loài người, đại diện cho hai yếu tố Dương và Âm trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Như vậy, truyền thuyết và huyền thoại của người Dao, Mường… đều phù hợp với các truyền thuyết và huyền thoại của người Việt Nam và Trung Quốc. Ở Trung Quốc, tín ngưỡng “Ngũ Nhạc” gắn liền với Lão giáo và học thuyết Ngũ Hành trong nền văn hóa cổ của Trung Quốc cổ đại: - Hướng Bắc: Hằng sơn thuộc tỉnh Sơn Tây; - Hướng Nam: Hành sơn thuộc tỉnh Hồ Nam; - Hướng Đông: Thái sơn thuộc tỉnh Sơn Đông; - Hướng Tây: Hoa sơn thuộc tỉnh Thiểm Tây; - Trung tâm: Tung sơn thuộc tỉnh Hà Nam. Các vị đế vương thời cổ đại của Trung Quốc đều đến đây tế trời đất. Theo thần thoại Trung Quốc, Ngũ Nhạc có nguồn gốc từ thân thể và đầu của Bàn Cổ, vị thần đầu tiên sáng tạo ra thế giới. Do vị trí ở phía Đông của mình nên Thái sơn được gắn liền với mặt trời mọc, là biểu tượng cho sự ra đời và sự hồi sinh. Cũng vì cách diễn giải này, nó thông thường được nhắc đến như là ngọn núi linh thiêng nhất trong số Ngũ Nhạc danh sơn. Với vị trí đặc biệt của nó, Thái sơn được cho là được tạo thành từ phần đầu của ông Bàn Cổ. Bản đồ các núi linh thiêng của Trung Quốc Hình tròn màu đỏ: Lão giáo, ngôi sao màu tím hồng: Phật giáo file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg So sánh và kết hợp cùng với các kết quả phân tích ở trên, chúng ta hiểu rằng Ngũ Nhạc chính là biểu tượng của Ngũ Đế: Phục Hy, Thần Nông, Đế Tiết, Đế Thừa và Đế Minh. Từ đây, nội dung bài ca dao nổi tiếng đã tạc vào sử xanh trở nên rõ ràng, ngọn núi Thái Sơn chính là biểu tượng của Thanh Đế Phục Hy và bà Nữ Oa: Công cha như núi Thái Sơn,Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,Một lòng thờ mẹ kính cha,Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Các bức tranh Mẫu Thánh Mẫu Thượng Thiên, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, chúa Mẫu Thoải, Cô Ba còn có mối liên quan với bộ tranh Tứ Đế của dân tộc Sán Dìu, làng Bức Lệnh, xã Đạo Trù, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, được gọi là “Tứ phủ thần linh”: Thiên phủ còn gọi là Đệ nhất phủ: Đế Minh và Thánh Mẫu Thượng Thiên; Nhạc phủ - Đệ nhị phủ: Kinh Dương Vương và vợ là Mẫu thượng ngàn; Thủy phủ - Đệ tam phủ: Lạc Long Quân và Âu Cơ và Địa phủ - Đệ tứ phủ: Hùng Quốc Vương và Thánh Cô (gọi là đệ tứ khâm sai). Thủy Đế - Địa Đế - Nhạc Đế - Thiên Đế Dân tộc Sán Dìu, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Từ phân tích bức tranh Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Công Đồng và các bức tranh Tầu Khảng, Cưỡi Cá, Thuyền quan, Tứ Đế của các dân tộc thiểu số Miền Bắc Việt Nam, thì chúng ta có thể xác định chính xác được nội dung của bức tranh thờ Đại Công đồng. Đại Công Đồng Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Hàng trên cùng là Phục Hy, Thần Nông, Đế Tiết, Đế Thừa; hàng dưới là Đế Minh, Đế Nghi và Nguyễn Long Cảnh; hàng kế dưới là 5 anh em của vua Kinh Dương Vương, Vua Đế Minh có 6 người con trai với con cả là Kinh Dương Vương và 5 em cùng cha khác mẹ. Như vậy, ở hàng này vua Kinh Dương Vương ẩn, không xuất hiện trên bức tranh; do đó, hàng kế tiếp chính là 4 anh em của vua Lạc Long Quân và hình ảnh vua Lạc Long Quân ẩn, không xuất hiện trên bức tranh; hàng cuối cùng, một cách hợp lý chính là 8 em dâu của vua Hùng Quốc Vương, ở hàng này vua Hùng Quốc Vương ẩn, không xuất hiện trên bức tranh, như vậy, chúng ta có thể nhận định rằng vua Lạc Long Quân có 9 người con trai, vấn đề này sẽ được khẳng định trong các bức tranh dân gian khác và phù hợp với truyền thuyết Chín con của Rồng, mà người đời gọi đó là “Long sinh cửu tử”, hay “Cửu long”. Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau. Hình ảnh Cửu Tửfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image030.jpg Bị hí (tên khác là bá hạ, bát phúc, thạch long qui) là con trưởng của rồng: linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá... Li vẫn (còn gọi là si vẫn) là con thứ hai của rồng: linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Tương truyền li vẫn thích ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài... ngụ ý cầu trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình. Bồ lao là con thứ ba của rồng: linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn. Bệ ngạn (còn gọi là bệ lao, hiến chương) là con thứ tư của rồng: có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện. Thao thiết là con thứ năm của rồng: linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự. Công phúc là con thứ sáu của rồng: linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân. Nhai xế là con thứ bảy của rồng: linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc. Toan nghê (còn gọi là kim nghê) là con thứ tám của rồng: linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát. Tiêu đồ (còn gọi là phô thủ) là con thứ chín của rồng: linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà (Tham khảo bài viết Chín con của Rồng, tác giả Nguyễn Ngọc Thơ (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn).Trong bộ tranh thờ Nam Hoa và Nam Đường, thể hiện hình ảnh 6 con trai vua Đế Minh và 5 con trai vua Kinh Dương Vương. Trong tranh Nam Hoa con rùa vàng chở trên thuyền chính là biểu tượng phương Bắc, vua Lạc Long Quân, ba nữ thần trên cùng chính Phật Bảo - Tăng Bảo - Pháp Bảo, còn hai người phụ nữ kế tiếp phía dưới là Thánh mẫu Thượng Ngàn và Chúa Mẫu Thoải.Nam Đường - Nam Hoa - Nam Cung - Tổ tiên I - Tổ tiên II Tranh thờ Đạo giáo các dân tộc miền Bắc, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Trong hệ thống thanh thờ Đạo giáo miền Bắc Việt Nam còn có các bức tranh như Bức tranh Tam Thanh phối Tam Từ của dân tộc Dao Thanh Y ở tỉnh Quảng Ninh. Chúng ta dễ dàng nhận thấy phía dưới các bậc trong Tam Thanh Cung là toàn bộ bức tranh của các thần trong tranh Tam Từ, từ trái qua phải: Đạo Đức Thiên Tôn phối hợp với Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn; Nguyên Thủy Thiên Tôn phối hợp với Thái Ất cứu khổ thiên Tôn; Linh Bảo Thiên Tôn phối hợp với Cứu U phả Độ Thiên Tôn. Đó là các bước phối hợp thần linh Đạo Giáo với thần linh Phật giáo, tiến rõ thêm một bước là bức tranh Tam Thanh phối hợp Tam Từ, Tam Bảo. Tam Thanh phối hợp Tam Từ Dân tộc Dao Thanh Y ở tỉnh Quảng Ninh, Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Trong các bức tranh đề cập đến Công tào đại súy quan coi việc ở địa ngục, âm ty và hình ảnh Mục Kiều Liên Bồ Tát đang hóa độ chúng sinh. Nhận định tiếp theo ở bức tranh Tam Thanh phối Tam Từ và Tam Bảo. Bức tranh Tam Thanh phối hợp Tam Từ và Tam Bảo Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang vẽ năm 1921file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Các vị thần linh Đạo giáo tuy vẫn ở vị trí tối thượng nhưng được dồn lên trên, vị trí trung tâm cho thấy hình tượng của Phật là: Pháp Bảo, Phật Bảo, Tăng Bảo là nổi trội. Từ trái qua phải, ta thấy từng tranh có các thần vị, từ trên xuống dưới như sau: Đạo Đức Thiên Tôn, Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn, Tăng Bảo, ở bên tay trái của Tăng Bảo là hình vẽ vể Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi bạch tượng; Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Ất cứu khổ thiên Tôn, Phật bảo, Công Tào Đại Súy Quan; Linh Bảo Thiên Tôn, Cứu U phả Độ Thiên Tôn, Pháp Bảo phía bên tay trái của vị này là hình vẽ Văn Thù Bồ Tát cưỡi thanh sư và Mục Kiền Liên cầm cây tích trượng đi thăm địa ngục để giáo hóa chúng sinh. Bắc cầu hoa Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Từ sự phân tích trên, dễ dàng thấy nội dung bức tranh Bắc Cầu Hoa của dân tộc Tày thì Mẹ Hoa là chủ cây hoa (sinh ra người - người vốn là hoa của đất), trên cây có hoa vàng, hoa bạc. Những gia đình hiếm muộn con cái làm lễ cầu xin tới Mẹ Hoa, mong mẹ hoa ban phát cho hoa vàng (sinh con trai), hoa bạc (sinh con gái). Ngoài việc cầu cúng bằng lễ nghi, gia đình hiếm con còn làm những việc phúc đức, từ thiện đối với cộng đồng và xã hội như sửa đường, bắc cầu… cho người qua lại để cầu phúc, Họ tin rằng mỗi người qua đường, qua cầu được thuận lợi sẽ có lời khen. Lời khen về công quả phúc đức, từ hiện của họ sẽ thấu đến Mẹ Hoa và Mẹ sẽ ban thưởng con cái cho họ. So sánh ý nghĩa tương đồng giữa các bức tranh thì Mẹ Hoa chính là Bích Hà Nguyên Quân. Tiếp tục quan sát bức tranh Nam Cung của dân tộc Tày, Cao Bằng Nam Hoa Dân tộc Tày, Cao Bằng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpg Bức tranh cũng thể hiện vị thần chính là Bích Hà Nguyên Quân và các bà giúp việc chủ yếu. Phía trên cùng bức tranh vẽ Đông Nhạc Đại Đế và tả hữu chư thần. Bích Hà Nguyên Quân được xem là con gái của Ông. Hàng dưới thể hiện 5 đứa trẻ nhỏ đang nhảy múa hoàn toàn với biểu tượng là một bông hoa lớn phù hợp với nội dung phân tích. Đặc biệt chú ý hình ảnh một con chim phượng nổi bật cuối bức tranh thể hiện hình ảnh của Bích Hà Nguyên Quân. Tiếp tục quan sát bức tranh Tam Nãi Phu Nhân của dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tam Nãi Phu Nhân Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpg Từ trên xuống dưới Lý Bát Đại Nương, Lâm Đại Bát Nương - tức thiên Phi hay Thiên Hậu tên húy là Lâm Mặc hay Lâm Hiếu, Sài Đại Bát Nương đang cưỡi ngựa thần với hào quang tỏa sang trên đầu. Bức tranh này hợp tôn thần vị của ba thầy trò Thiên Phi Lâm Mặc. Một vị có thể nhìn xa ngàn dặm (Thiên lý nhãn) và một vị có thể nghe tiếng kêu cứu ngoài ngàn dặm trong dông tố (Thuận Phong Nhĩ); Hai người này giúp cho Thiên Phi Lâm Mặc ở giữa có thể cứu vớt được người bị nạn trong bão tố ngoài biển khơi. Ý nghĩa trên rất tương đồng với quyền năng của Quan Âm Bồ Tát (Quan Âm Nam Hải).Tam Thanh Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Bức Ngọc Thanh cung trong bức tranh có hình một đức bé ở hàng thứ 2 tay trái chỉ lên, tay phải chỉ xuống hoàn toàn giống với dữ liệu lịch sử đề cập ở Chương II: NHỊ ĐỘ MAI, đấy chính là Hương Vân Cái Bồ Tát với câu nói nổi tiếng: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn” nghĩa là “Trên trời dưới đất, chân lý là duy nhất”. Như vậy, hình ảnh Phật Bảo chính là Hương Vân Cái Bồ Tát và ngày sinh 8 tháng Tư âm lịch chính là ngày đản sinh của bà. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với bức tranh Phật Bảo. Quán xét bức Thái Thanh Cung với hình ảnh Thanh Sư ở hàng thứ hai, chính là biểu tượng của Văn Thù Bồ Tát - Tăng Bảo, đại diện Tăng và ta có nhận định đó chính là chính thất của vua Đế Nghi. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với bức tranh Tăng Bảo. Bức Thượng Thanh Cung: với hình ảnh Bạch tượng ở hàng thứ hai, chính là biểu tượng của Phổ Hiền và đó chính là chính thất của Nguyễn Long Cảnh. Hành say Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Theo bức tranh Hành Say, cảnh 1,2 và 9 là các cảnh không thay đổi trong tất cà các bức tranh, và cảnh 8: là hình ảnh của vị Thổ Địa thần. Như vậy ngay sau cảnh 1: Tam Thanh và cảnh 2: Ngọc Hoàng Thượng Đế. Chúng ta cũng đã nhận định các bức tranh phối Tam Thanh - Tam Từ - Tam Bảo thì Tam Từ chính là ba anh em Đế Minh. Đế Nghi và Nguyễn Long Cảnh, trong đó Đế Nghi và Đế Minh là hai anh em sinh đôi. Như vậy trong bức tranh Hành Say mất đi hình ảnh của Tam Từ. Tuy nhiên cũng căn cứ bức tranh này, ta thấy 7 động vật rùa, rắn, ngựa, lân, long, hổ, trâu đang chạy tới ngôi đền mà Thổ Địa Thần đang ngự, nếu nhận định Thổ Địa Thần chính là Tam Từ thì bố cục bức tranh hoàn toàn liên tục giữa Tam Thanh - Tam Từ - Ngọc Hoàng Thượng Đế. Mặt khác, theo Đạo giáo thì Thổ địa thần có nguồn gốc từ xã Thần thời cổ đại, nắm giữ sự sinh trưởng của vạn vật, khiến cho con người sinh tồn. Hình tượng thần Thổ địa là một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo bào, đội mũ. Thông thường, trong miếu thổ địa, ngoài thần Thổ địa ra còn có người phối ngẫu mà dân tục gọi là bà Thổ địa. Bà Thổ địa cùng thần Thổ địa hưởng hương hỏa cung phụng. Thời Nhà Chu thần Thổ địa được phân cấp, vua lập gọi là Đại xã, chư hầu lập là Hầu xã, bậc Đại phu lập gọi là Thư xã. Thời Tần Hán về sau, tổng các xã thần trong thiên hạ được gọi là Hậu Thổ Hoàng Kỳ, do quốc gia chuyên lễ tự, còn ở các địa phương các xã thần được chuyển thành Thổ địa. Như vậy Thổ Địa thần chính là Hậu Thổ Hoàng Kỳ và hình ảnh tượng trưng là bao gồm hai người là bà Thổ địa cùng thần Thổ Địa. Dễ dàng nhận ra Hậu Thổ Hoàng Kỳ chính là hình ảnh của vua Đế Minh và Hương Vân Cái Bồ Tát. Tam Thanh là các vị thần chủ có chức vị cao nhất trong Đạo giáo bao gồm Nguyên Thủy Thiên Tôn ở trung tâm, Linh Bảo Thiên Tôn ở bên tay trái và Đạo Đức kinh Thiên Tôn ở bên tay phải, hai bên là Hữu Lý Thiên Sư cưỡi lân và Tả Trương Thiên Sư cưỡi hổ vùng với bức tranh Tứ trực Công Tào. Tam Thanh cùng Tứ trực công tào Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Căn cứ nội dung phân tích các lớp nhân vật trong bức tranh Đại Công đồng, thì chúng ta hiểu rằng bức tranh Tứ Trực Công Tào thể hiện Tứ Đế ở trên hay bốn vị thần linh cai quản Cõi Thượng Thiên, Cõi Thượng Ngàn, Cõi Đất và Cõi Nước, bốn cõi này còn được gọi là Công Tào Thiên Phủ, Dương phủ, Địa phủ và Thủy phủ. Bốn con vật cưỡi ứng với bốn phương trời là rồng xanh, cá chép, kỳ lân và phượng hoàng (trên trống đồng Ngọc Lũ cũng thể hiện bốn Cõi này như đã phân tích).Tứ Trực Công Tào Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg * Tứ trực công tào: Biểu tượng cho 4 khu vực của các chòm sao chính trên bầu trời, bao gồm: Thanh Long (phía Đông); Bạch Hổ (phía Tây); Huyền Vũ (Phía Bắc) và Chu Tước (phía Nam) và cũng tượng trưng cho không thời gian Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Như vậy, bộ tranh Tam Thanh chỉ thể hiện tới ngôi vị thần linh từ vua Đế Minh trở lên, bao gồm: Đế Khiết, Đế Thừa và Thần Nông. Trong bức tranh không xuất hiện Phục Hy. Trong nền mỹ thuật dân gian, hình ảnh vua Phục Hy đi cùng với Nữ Oa, vị nữ thần tối cao của dân tộc Trung Quốc. Chúng ta cũng biết Phục Hy hay Thanh Đế đại diện phương Đông hành Mộc, Thần Nông hay Xích Đế đại diện phương Nam hành Hỏa, Đế Tiết hay Hoàng Đế đại diện Trung ương hành Thổ, Đế Khiết hay Bạch Đế đại diện phương Tây, hành Kim và tới Đế Minh hay Hắc Đế hoặc Huyền Đế đại diện phương Bắc, hành Thủy, đấy là lý do bức tranh Tam Từ thể hiện màu xanh mực ứng với phương Bắc, đây là lý tương sinh của Hậu thiên Bát quái phối Hà Đồ. Trong bức tranh Tam Thanh thì theo trục thần đạo ở giữa, thì vua Thần Nông ở vị trí trung tâm tương ứng Nguyên Thủy Thiên Tôn, bên tay trái là Đế Tiết tương ứng Linh Bảo Thiên Tôn và bên tay phải là Đế Khiết tương ứng Đạo Đức Thiên Tôn. Tứ Ngự hay còn gọi là Tứ Trực Công Tào là tên thần trong Đạo giáo, đó là 4 vị Thiên Đế phò tá Tam Thanh trong thiên giới của Đạo giáo. Tên đầy đủ của 4 vị đó là: Hạo Thiên Kim Khuyết chí tôn Ngọc Hoàng Đại Đế - Kinh Dương Vương, Trung Thiên tử vi bắc cực Thái Hoàng Đại Đế - Hùng Quốc Vương, Câu Trần thượng cung Nam Cực Thiên Hoàng Đại Đế - Lạc Long Quân và Thừa Thiên hiệu pháp Hậu Thổ Hoàng Kỳ - Đế Minh. Trong bức tranh Tam Thanh còn có Hữu Lý Thiên Sư cưỡi lân theo chú thích là Lý Tịnh (Lý Võ), Tả Trương Thiên Sư cưỡi hổ theo chú thích là Trương Đạo Lăng, tổ sư của Đạo giáo, chúng tôi nhận định là Hữu Sào và Toại nhân tức Lão Long Cát. Hai vị nguyên soái này xuất hiện trong bức tranh dân tộc Nùng Tam Thanh và cũng phù hợp hoàn toàn với nội dung Nguyễn tộc từ đường phả lục chính bản: Thần Nông tức Đế Khôi lúc nhỏ có Hữu Sào và Toại Nhân tức Lão Long Cát cùng trợ giúp nhiếp chính, đánh đuổi gia nô Hiên Viên do dấy binh làm phản, thừa kế lại sự nghiệp của tổ tiên, tiếp nối của cha Đế Thiên - Phục Hy, lên ngôi vua sáng, thi hành chính nhân, dân chúng một mực kính yêu. Trước đây, ở nước ta có lưu truyền cuốn sách y dược Thần Nông bản thảo sau bị giặc nước tiêu hủy. Trong bộ tranh Tam Thanh phối hợp Tam Từ và Tam Bảo, chúng ta thấy phía dưới Tam Từ ở trung tâm là Phật Bảo, hai bên là Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi bạch tượng và Văn Thù Bồ Tát cưỡi thanh sư, mà Tam Từ là Đế Minh, Đế Nghi và Nguyễn Long Cảnh, điều này có vẽ chưa hợp lý? Trong bức tranh Thái Ất Thiên Tôn và Phật Bảo, Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn và Tăng Bảo, Cứu U Phả Độ Thiên Tôn và Pháp Bảo và bộ tranh Thái Thanh Cung - Thượng Thanh cung - Ngọc Thanh Cung: Thái Thanh Cung - Thượng Thanh cung - Ngọc Thanh Cung Dân tộc Tày - Nùng, miền Bắc Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Ngay phía dưới Tam Thanh là Phật Bảo, Tăng Bảo, Pháp Bảo tương đương vị trí của Tam Từ, như vậy chúng ta thấy rằng Tam Từ và Tam Bảo tương ứng âm dương đối ngẫu, lúc này vợ vua Đế Minh tức Thánh Mẫu Thượng Thiên là Phật Bảo, chính thất của vua Đế Nghi là Văn Thù Bồ Tát và chính thất của Nguyễn Long Cảnh là Phổ Hiền Bồ Tát. Phật Bảo là ai? Chúng ta hãy cùng xem lại bức tranh dân gian Hàng Trống: Bà Chúa Ba Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh Rồng dâng hương - Hạc tiến quả với tên chùa Hương Tích trên bức tranh, đồng thời bộ tranh nhị bình dân gian Hàng Trống Bà Chúa Ba - Quan Âm Bồ Tát, liên quan đến câu chuyện Phật Bà Chùa Hương, chính là nơi thờ phụng Mẫu như nhận định trong việc phân tích mật ngữ trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ. Vậy chùa Hương Tích ẩn dấu những điều gì? Chúng ta hãy xem lại nội dung câu truyện Phật Bà Chùa Hương hay Truyện Bà Chúa Ba. Truyện Phật Bà Chùa Hương hay truyện Bà Chúa Ba được cho là ra đời vào thế kỷ XVIII, là truyện Nôm khuyết danh, viết bằng thể thơ lục bát cổ truyền của dân tộc. Về sau, các vở chèo, tuồng, cải lương… đều dựa và cốt truyện này, nội dung như sau: Đời xưa, vua Diệu Trang Vương, nước Hưng Lâm, không có con trai. Vua và hoàng hậu cầu tự ở đền Tây Nhạc. Vua Diệu Trang Vương vốn không phải là vị vua hiền, nhưng do một lòng chí thành cầu tự nên lòng thành thấu đến Phật trời. Vua sinh được ba công chúa là Diệu Thanh, Diệu Am, và Diệu Thiện. Duy chỉ có Diệu Thiện là người mộ đạo Phật, xem nhẹ gác tía lầu hồng, chẳng mong quyền quý, “ăn chay, niệm Phật, nói lời từ bi”. Vua Diệu Trang gả công chúa Diệu Thanh cho Trạng nguyên họ Triệu, gả công chúa Diệu Am cho quan võ họ Hà. Vì hai phò mã chẳng phải người hiền, không thể nối ngôi nên vua Diệu Trang muốn kén rể cho công chúa thứ Ba bằng được. Công chúa Diệu Thiện một mực từ chối, chỉ một lòng xuất gia hướng Phật, chẳng thiết đến chuyện dựng vợ gả chồng. Nhưng nếu phải vì chữ hiếu, phải vâng lệnh cha thì nàng sẽ lấy một thầy thuốc để cứu nhân độ thế. Vua cha tức giận, bắt nhốt ở vườn sau, nhưng Bà Chúa Ba vẫn không nản lòng, đêm ngày hướng Phật. Vua nghe tỳ nữ bày kế đưa Chúa Ba ra chùa Bạch Tước, các sư bày rất nhiều việc cho bà, mong làm bà nản lòng. Nhưng Bà Chúa Ba vẫn vui vẻ chấp nhận, vì cho rằng “hữu thân hữu khổ”. Vua tức giận sai đốt chùa, Bà Chúa Ba khấn nguyện chí thành, cắt tay vẩy máu lên không trung. Lòng thành động đến Thiên Đình, máu biến thành mưa dập tắt lửa. Vua đem công chúa Diệu Thiện ra pháp trường thì Ngọc Hoàng sai thần linh hóa mãnh hổ đưa về rừng. Hồn Bà Chúa Ba được sứ giả của Diêm Vương mời xuống âm ty, thăm 18 cửa ngục. Thấy chúng sinh đau đớn, khổ sở trong các ngục, bà xót xa, cảm thương liền chuyển chú, niệm kinh. Các tội nhân nhờ đó mà được “đại xá siêu sinh từ rày”. Sau khi về cõi dương trần, Bà được Đức Thế Thế Tôn thử thách, cho quả đào tiên rồi chỉ cho về núi Hương Tích, gần bể Nam Việt tu hành. Sau 9 năm tu hành ở Hương Tích, Bà đắc thành Chính quả. Vua Diệu Trang đốt chùa, giết hại Tăng ni, nên bị Ngọc Hoàng giáng bệnh nặng, “thân hình chốc lở, chiếu giường tanh hôi”. Phật Bà dùng huệ nhãn, biết cha lâm bệnh nặng, hiện hình thành Hòa thượng vào cung chữa bệnh. Lão tăng bảo phải có tay, mắt của Tiên nhân tu ở núi Hương Tích làm thuốc thì bệnh mới khỏi. Đức Phật Bà cũng phá tan mưu sâu kế độc của hai phò mã. Vua sai Triệu Chấn, Lưu Khâm dến núi Hương Tích lấy tay, mắt của Tiên nhân về làm thuốc. Hoàng hậu nhận ra đó chính là của công chúa Diệu Thiện nên rất đau lòng. Vua khỏi bệnh, nhường ngôi cho lão tăng nhưng ngài từ chối, khuyên vua “ở lòng nhân đức, cho hay lấy mình”. Vua và hoàng hậu lên núi Hương Tích để cảm tạ Tiên nhân, thì nhận ra đó là công chúa Diệu Thiện. Vua biết chuyện nên rất đau xót và hối hận. Công chúa Diệu Thiện bảo vua cha dốc lòng tu đức, sám hối thì nàng sẽ trở lại như xưa. Vua Diệu Trang thương con, hối hận một lòng sám hối, thì lạ thay, “hai tay, hai mắt vẹn người”. Bà Chúa Ba được trở lại như xưa. Vua, hoàng hậu, hai công chúa Diệu Thanh, Diệu Am dốc dòng quy y Phật. Chẳng bao lâu, vua cha, hoàng hậu, hai chị đều thành chính quả, “cả nhà vinh hiển thơm tho”. Vua Diệu Trang được sắc phong là Thiện Thắng Bồ Tát, hoàng hậu là Khuyến Thiện Bồ Tát, công chúa Diệu Thanh là đại thiện Văn Thù Bồ Tát, cưỡi con sư tử xanh, công chúa Diệu Am là đại thiện Phổ Hiền Bồ Tát, cưỡi con voi trắng, vĩnh viễn làm chủ đạo tràng núi Thanh Lương.Phật Bà chùa Hương là truyện Nôm khuyết danh, viết bằng thể thơ lục bát cổ truyền của dân tộc, ca ngợi công đức của Bà Chúa Ba vượt qua mọi sự ngăn cấm của vua cha, một lòng tu hành và chứng quả Bồ Đề. Có thể thấy, văn phong của tác phẩm rất bình dân, mộc mạc dễ đi vào lòng người, “Nôm na xin diễn tích Ngài, cho người ít chữ nhớ lời kính tin”. Trong chúng ta, ai cũng có Phật tính, nếu biết “quay đầu là bờ”, giải trừ tam độc tham, sân, si, giữ lòng trong sạch, niệm kinh giữ giới, làm điều thiện để có được nhân lành. Ấy là triết lý đầy tính nhân văn của nhà Phật mà người xưa đã đúc kết và truyền lại cho hậu thế qua tích truyện Phật Bà Chùa Hương:… Thưa rằng sắc vẫn là không,Thử suy giấc mộng, ngắm trong đời người.Đua danh, đua lợi tơi bời,Như đem trò rối, làm chơi là thường.Dù ba mươi sáu tàn vàng,Tuổi ngoài ba vạn sáu ngàn ngày thôi…… Nghĩ ra nên cũng buồn rầu,Sao bằng mượn cảnh mà tu lấy mình.May ra siêu thoát tử sinh,Yên thân nước Phật ,vui hình cõi Tiên…(Trích và tham thảo bài Đầu xuân kể chuyện Phật Bà chùa Hương, tác giả Minh Ngọc). Vậy thì, Bà Chúa Ba hay Phật Bà chùa Hương chính là Phật Bảo trong các bức tranh thờ của các dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, trong dân gian thượng hay gọi là Phật Bà Quan Âm, hai em dâu của bà là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát là chính thất của vua Đế Nghi và Nguyễn Long Cảnh. Cả ba vị đều tương hợp vị trí trên các bức tranh và tương ứng với Tam Từ. Trong bức tranh có các con thú như chim, hổ, nai phía trước chùa, các con thú trong hình ảnh là biểu tượng của các nhân vật như đã phân tích. Đặc biệt, hình ảnh chuông và trống treo cùng nhau chứ không tách ra hai bên như thường lệ, điều này nói lên sự hợp nhất âm dương hội tụ vào ngôi chùa, hay ngôi chùa chính là trung tâm tôn giáo của quốc gia thời các vua Hùng.Tranh cổ Nhật Bản file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Bức tranh dân Hàng Trống Bà Chúa Ba với hình ảnh Phật Bà Quan Âm ở giữa nổi bật và thị giả là hai Bồ Tát phù hợp với truyền thuyết về công chúa Diệu Thiện, tuy nhiên cũng từ bức tranh thờ thì Phật Bà Quan Âm chính là Hương Vân Cái Bồ Tát với hình ảnh là đứa bé sơ sinh, tay trái chỉ lên trời và tay phải trỏ xuống đất, nói Thiên hạ, địa hạ duy ngã độc tôn. Căn cứ vào sự phân bố vị trí các Phật và Bồ Tát thì truyền thuyết về công chúa Diệu Thiện nói về Hương Vân Cái Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát, trong khi đó Phật Bà Quán Âm là Long Nữ, mẹ của vua kinh Dương Vương như đã phân tích. Trở về dòng tranh dân gian Hàng Trống, chúng ta thấy có bức tranh Quan Âm Bồ Tát ngự trên tòa sen với bên phải là cây tùng, bên trái là lư hương, đồng thời phía trước là hình ảnh con “Cóc ba chân” và hai ngọc nữ với trang phục trắng và xanh hầu cận hai bên. Quan Âm Bồ Tát trong trang phục màu đỏ nổi bật, tay trái cầm bình nước cam lồ (tịnh thủy) và tay phải cầm nhành dương liễu đang phổ độ chúng sinh. Quan Âm Bồ TátTranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Qua hình ảnh chiếc lư hương còn sự gợi ý về những sợi khói của hương trầm bay lên trong khung cảnh trang nghiêm. Do vậy lư hương này ẩn nghĩa về tên chùa “Hương Tích” vậy, và vì vậy ý nghĩa tên chùa Hương Tích chính là hương xưa, tích cũ ẩn dấu những điều huyền diệu từ một thời xa vắng. Cây tùng là cây thông xanh, loài cây này dù giá rét đến mấy cũng vẫn xanh tươi, ám chỉ người có bản lĩnh vững vàng. Trong hội họa, cây tùng tượng trưng cho người quân tử. Cây Tùng là biểu tượng của với Đạo giáo, của sự đắc đạo thành Tiên, hình ảnh cây tùng cũng giống như cây Bồ Đề, tượng trưng cho sự thành đạo, đạt quả vị Phật. Cùng với hình ảnh cây tùng bên phải của Quan Âm Bồ Tát, ta thấy hình ảnh đối xứng là chiếc lư hương bên trái, một trong những pháp khí của điện thờ. Trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM thì trống đồng, chuông đồng là những thần khí quốc gia và Đạo Mẫu, nay trong bức tranh lại xuất hiện lư đồng, vậy thì tương ứng với bốn phương trời các thần khí tương ứng chuông, trống, vạc, lư, đỉnh của một ngôi chùa, đình, đền, đạo quán,… tạo thành một bộ thần khí đầy đủ. Để xác định Quan Âm Bồ Tát là vị nào trong hệ thống tranh thờ Đạo giáo, chúng ta cùng xem xét bộ tranh Hành Say: Hành Say Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg So sánh cùng tranh Tử Vi Cung với tranh Hành Say từ trên xuống dưới không ăn khớp với nhau do trải qua hàng thiên niên kỷ, nội dung đã bị sai lạc nhiều: Tam Thanh - Tam Thanh 3 người(Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh) Ngọc Hoàng Thượng Đế - Quan Âm Bồ Tát(Kinh Dương Vương - Vua Hùng Vương I) Đại Phạm Thiên Vương - Quan Âm Bồ Tát Hổ(…) Tây Vương Mẫu - - Long Phượng Tam Nương Rồng(…) Natra Thái Tử - Hải Bá (…) Lân Án Chủ - Thái Úy(…) Voi Hỏa Lao - Bắc Âm Đại Vương(…) Rùa Ngũ Đẩu Tinh Quân - Natra Thái Tử(…) Rắn Thổ địa thần - Thổ địa thần(Thần Thổ địa - Thần Thổ địa tức Hoàng kỳ Thổ địa) Trong miếu Long thần Hải Bá Cầm kiếm và tù và, cưỡi con dải xanh Sơn thần Thái Vĩ Cầm kiếm và ấn tín, cưỡi ngựa trắng Cùng với các phân tích và nhận định các sự kiện lịch sử liên quan Phật giáo, Đạo giáo, đạo Mẫu, phả hệ Hùng Vương ở trên trong mối tương quan hợp lý, chúng ta có thể sắp xếp lại cấu trúc bộ tranh Hành Say và Tử Vi Cung như sau: Tam Thanh 3 người(Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh) Ngọc Hoàng Thượng Đế - Tây Vương Mẫu, Phật Mẫu Hổ(Kinh Dương Vương - vua Hùng Vương I) Đại Phạm Thiên Vương - Quan Âm Bồ Tát Rồng(Lạc Long Quân - Bắc Đẩu - vua Hùng Vương II) Nam Tào - Tam Nương hay Tam Nãi Phu Nhân, Cô Ba, Thánh Cô Lân(Hùng Quốc Vương - vua Hùng Vương III) Án Chủ (Sơn Tinh - Vua Hùng Vương IV - truyện Sơn Tinh Thủy Tinh) Voi Bắc Âm Đại Vương (Vua Hùng Vương V) Rùa Natra Thái Tử(Vua Hùng Vương VI - truyện Thánh gióng) Rắn Ngũ Đẩu tinh quân(Lang Liêu - Vua Hùng Vương VII - chuyện Bánh chưng bánh dày) Trâu Thổ địa thần (Đế Minh - Phật Bà Quan Âm, tức Hoàng kỳ Thổ địa) Trong miếu Long thần Hải Bá Toại Nhân (Hữu lý đệ sư) Cầm kiếm và tù và, cưỡi con giải xanh Sơn thần Thái Vĩ Hữu Sào (Tả trương thiên sư) Cầm kiếm và ấn tín, cưỡi ngựa trắng * Cấu trúc được xem xét theo Hậu Thiên Bát quái và phù hợp với thất tinh, bảy luân xa cột sống (sẽ được dẫn chứng và minh xác trong các chương sau).* Natra thái tử có 6 loại binh khí hàng yêu (truyện Phong thần, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không).* Án chủ: vị thần xem xét hai cung sinh tử.* Hỏa lao: ngục lửa để trị tội nhân.* Cửu trùng đài: thể hiện 9 tầng thần thánh trong 9 cõi trời. Vậy, vị trí Quan Âm Bồ Tát trong tranh Hành Say tương ứng vị trí của Lạc Long Quân, với biểu tượng là mặt trăng, vậy thì Quan Âm Bồ Tát chính là Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát, một trong “Đông Phương Tam Thánh” bao gồm: Đông Phương Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát và Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. Trong đó, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát chính là Quan Thế Âm Bồ Tát; Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát chính là Tây Vương Mẫu và Đông Phương Dược Sư Lưu Ly Quang Phật chính là Hương Vân Cái Bồ Tát hay Bà Chúa Ba. Đặc, biệt còn có “Cóc ba chân” đối diện với Quan Âm Bồ Tát, mà “Cóc ba chân” là biểu tượng của mặt trăng, thể hiện sự tái sinh. Để kiểm tra và hiệu chỉnh, chúng ta quán xét các bức tranh Tổ Tông và Đại Đường Kiều trước khi quay trở lại bức tranh Thánh Đại hưng Long số 6. Đại Đường Kiều Tranh thờ Đạo giáo, miền Bắc Việt Namfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Tổ Tông Dân tộc Dao Đỏ, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgTên các vị thần theo số thứ tự sau:- Âm thiên đại vương: vị vua trời của cõi âm.- Ngọc Đế Đại Vương:- Hoàng Sào Đại Vương: lãnh tụ khởi nghĩa năm 881 chống lại triều đình nhà Đường, ở Trung Quốc, xưng đại vương.- Âm La đại vương: chữ âm la dịch từ chữ Yama là thần chết của Ấn Độ, Iran, còn gọi là Sâm La hay Diêm La: các vua cai quản địa ngục.- Minh chiêu đại vương: vị vua ánh sáng.- Hồng Mẫu đại vương: vị thánh mẫu tôn phong là đại vương.- Phúc Sào đại vương: vị vua biệt hiệu là nhà có phúc.- Thanh y đại vương: vị vua áo xanh, còn có ý nghĩa là gia đình đỗ đạt làm quan.- Xá tội vương: vị vua chuyên việc xá tội, Đạo giáo Trung Quốc cho rằng Trung Nguyên Địa Quan (còn gọi là Trung Nguyên Đại Đế) trông coi địa ngục, chuyên việc xá tội cho các vong linh, nên hay cầu cúng để cầu ngài xá tội vào tiết Trung nguyên, 15 tháng 7 âm lịch, còn gọi đó là ngày xá tội vong nhân.- Bốn vị nữ thần: tượng trưng cho bốm mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn vị được vẽ trong trang phục của ngưởi Dao.- Mười hai cô tiên tương trụng cho 12 năm trong 1 giáp (thập nhị niên giáp), nên mổi chiếc quạt cầm tay của mỗi cô tiên, có ghi 2 chữ, có ý chúc tụng cho mọi việc tốt đẹp. Theo thứ tự từ trái quá phải (trừ những chữ bị mờ) như sau:… khang… (cầu mong mạnh khỏe), chân phúc (hạnh phúc được vững bền), công mãn (công việc, sự nghiệp được mãn nguyện), hậu phi (hậu vận phi thường), sương mãn (của cải đầy kho), ninh tài (yên vui giàu có), đăng phong (phong đăng hòa cốc), hợp ngũ *hòa hợp với ngũ hành), an (trường?) (yên lành lâu dài), dương tử (sinh được con cái)…, … hưu (… tốt đẹp). Có các vị thần không thấy đề tên. Căn cứ hình tượng trong các tranh khác để đối chiếu, có thể có một số thần linh sau đây:- Thái Vĩ- Thượng nguyên quan hay Thượng Nguyên Đại Đế trông coi cõi trời, có thể ban phúc. Hạ nguyên thủy quan hay Hạ nguyên Đại Đế, trông coi miền sông nước, có thể giải trừ tai ách hoạn nạn. Ta thấy trong bức tranh này đã có thêm vào nhiều vị thần sau này như Hoàng Sào Đại Vương, chứng tỏ rằng bức tranh ra đời muộn, tuy nhiên cấu trúc có vẻ giống với bộ tranh Hành Say theo thứ tự trên xuống, chúng tôi tạm nhận định nhưng chưa định vị các thần linh, chỉ sau khi xác định được chính xác thần linh và đã hệ thống hóa lại toàn bộ tranh thờ các dân tộc thiểu số miền Bắc, Việt Nam:- Âm thiên đại vương - vị vua trời của cõi âm, trên cả Ngọc Hoàng Thượng Đế chính là Tam Thanh, tuy nhiên chỉ có một vị, do vậy nhận định chính là Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (chứ không phải là Nguyên Thủy Thiên Tôn trong Tam Thanh).- Tiếp theo Ngọc Hoàng Thượng Đế - hiệu Phúc Lộc.- Hoàng Sào Đại Vương không tồn tại trong bức tranh này.- Âm La đại vương hay Bắc Đẩu Đại Đế - Lạc Long Quân - hiệu Phúc Thọ.- Hồng Mẫu đại vương: vị thánh mẫu tôn phong là đại vương hay chính là vợ của Hùng Quốc Vương - hiệu Khang Ninh.- Phúc Sào đại vương: vị vua biệt hiệu là nhà có phúc hay chính là Sơn Tinh - Hùng Vương thứ IV - hiệu Phúc Nguyên.- Thanh Y đại vương: vị vua áo xanh, còn có ý nghĩa là gia đình đỗ đạt làm quan hay chính là Hùng Vương V - hiệu thánh Ánh Sáng. - Xá tội vương (Trung Nguyên Đại Đế): Hùng Quốc Vương - Địa Tạng Bồ Tát.- Mười hai cô tiên tương trưng cho 12 năm trong 1 giáp (thập nhị niên giáp). Căn cứ hình tượng trong các tranh khác để đối chiếu, có một số thần linh cưỡi vật linh sau đây: Thái Vĩ; Thượng nguyên quan hay Thượng Nguyên Đại Đế trông coi cõi trời, có thể ban phúc. Hạ nguyên thủy quan hay Hạ nguyên Đại Đế, trông coi miền sông nước, có thể giải trừ tai ách hoạn nạn. Với nhận định này thì vị trí tương ứng vua Lạc Long Quân trên các bức tranh Hành Say tương ứng vị trí Quan Âm Bồ Tát - Mẫu Âu Cơ hoàn toàn ăn khớp. Mặt khác, theo lịch sử Phật giáo, thì hình tượng Quan Âm Bồ Tát có rất nhiều hình tượng, cùng với nhận định về Phật Bà Quan Âm, Phật Mẫu Diêu Trì, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát… rõ ràng các hình ảnh thể hiện những vị Phật, Bồ Tát khác nhau? Vấn đề này sẽ giải quyết trong Chương III: TAM DƯƠNG KHAI THÁI. Hình ảnh Quan Âm Bồ Tát hay Mẫu Âu Cơ, cũng là Mẹ Tiên hay Mẹ Hoa sẽ là một mối giềng mật ngữ. Từ đó ta thấy sự thờ cúng Phật Bà Quan Âm, Thánh Mẫu Thượng Thiên “Xuất thế vi Tiên, giáng thế vi Phật” phản ảnh đúng ý nghĩa đã được giải mã. Trong bức tranh Thánh đạo hưng long, Tử Cung được cai quản bởi Bắc cực Tử Vi Đại Đế, tuy nhiên theo nhận định chủ quan Bắc đẩu nằm trung tâm hay Thái Âm quản lý. Qua phân tích thì Bắc Đẩu là Lạc Long Quân, còn Nam Tào hay Thái Dương chính là Hùng Quốc Vương đứng hai bên Ngọc Hoàng Thượng Đế, vua Kinh Dương Vương. Như vậy,Phong Đô Đại Đế chính là Bắc cực Tử Vi Đại Đế và cũng là Lạc Long Quân, vua Cõi Nước, Cõi Âm, Cõi Chết. Nam Tào coi sổ sinh tức Địa Tạng Vương Bồ Tát, là người có khả năng cứu vớt các linh hồn dưới Cõi Chết (chúng ta chú ý trên bầu trời là phương Bắc thì dưới đất là phương Nam, định hình thep Tiên Thiên Bát quái và Hậu Thiên Bát quái, khi dùng kim chỉ Nam dưới đất có nghĩa trên bầu trời là phương Bắc).Theo Đạo giáo, Phong Đô Đại Đế là cấp trên của U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát. U Minh Giáo Chủ lại là cấp trên cai quản Thập điện Diêm Vương. Quỷ Môn quan chính là hình tượng của địa ngục.Hai băng chữ trên bức tranh có đại ý: “Phá vỡ địa ngục và cứu vớt vong hồn”. Tranh Phong Đô Đại Đế và Địa Tạng Bồ Tát Dân tộc Tày Nùng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Chúng ta cũng chú ý, hình ảnh Huyền Thiên Trấn Vũ chống kiếm trên mai rùa, trong khi đó con rắn quấn quanh thanh kiếm thể hiện rùa rắn hợp hình, Huyền Thiên Trấn Vũ trấn phía Bắc chính là vua Cõi Nước, Cõi Chết, Cõi Âm hay Phong Đô Đại Đế Lạc Long Quân. Tranh Tử Vi Cung còn gọi là trung Phủ (phủ ở giữa) cai quản sinh tử, tội lục (các sổ sống và chết). Phong đao (gió sắc như kiếm) chủ đạo trong cung, gọi một cách hình ảnh là “cung điện của gió”. Chúng ta biết rằng kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang cũng có nghĩa là “kinh đô của Gió”, ý nghĩa hoàn toàn tương tự. Tranh Thánh Đạo Hưng Long số 1 (3 bức) Dân tộc Sán Dìu, xã Đạo Trù, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Qua bộ tranh sưu tập từ dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ và Sán Dìu này cho thấy một đặc điểm về bố cục tranh thờ của Đạo giáo dù là bộ tranh ba bức hay 13 bức thì bao giờ cũng có một bức tranh trung tâm - thường là có ngôi vị thần chủ trung ương, làm trục chính giữa: chân dung các thần chủ chính, trung ương được vẽ chính diện, các thần tả hữu đều được vẽ chân dung và tư thế hướng chầu về trung tâm. Từ đặc điểm đó ta sẽ thấy sự sắp xếp về tranh bên phải và tranh bên trái so với trung tâm. Thần linh của Đạo giáo rất nhiều, vẽ dày đặc trên tranh, nhưng do cách bố cục như vậy cũng giúp ta phân biệt các tính chất, ngôi vị… của các thần. Theo Tam Nguyên Phẩm giới, các bộ tranh Thánh Đạo Hưng Long 1 có thứ tự sắp xếp theo sơ đồ đã nêu ở trên. 1. Bức tranh ở giữa là Tử Vi Cung: có tên chữ Hán đọc là Huyền Đô Nguyên Dương Thất Bảo Tử Vi Cung có Thượng Chân Tự Nhiên Ngọc Lô Cao Hoàng Thượng Đế, cai quản tất cả các hoàng đế, thiên vương, tôn thần, tôn thánh.Cung này còn gọi là Trung Phủ (phủ ở giữa) cai quản sinh tử, tội lục (các sổ sống và chết). Phong đao (gió sắc như kiếm) chủ đạo trong cung, gọi một cách hình ảnh là cung điện của gió. Ở cung này cho phép Diên mệnh (kéo dài tuổi thọ), tức là số mệnh con người tuy được định trong sổ Tử (do Bắc Đẩu - Tử Cung), nhưng nếu có duyên may được Tử Vi Cung xem xét, có thể kéo dài sự sống: có nghĩa là từ đoạn thọ sang trường thọ. Và ta cũng nên hiểu thêm rằng: Vì tội lỗi mà đoản thọ, được trường thọ là hạnh phúc (cho nên các bức tranh chính, ở giữa, gọi là Trung Phủ dù đã được gọi là Tổng Đàn (như trong các bộ tranh Hành Say) thường có mang dòng chữ tiêu đề là Phúc - Lộc - Thọ như bộ tranh số 8 làm ví dụ). Ngoài các thần giúp việc, ta thấy tranh Tử Vi Cung của bộ Thánh Đạo Hưng Long này có các thần tự nhiên tối cao, như sau: Nguyên Thủy Thiên Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đại Phạm Thiên Vương (tức Brahma) và Tây Vương Mẫu, đến là các bậc sáng tạo thế giới tự nhiên được vẽ ở ngôi thần chủ chính của tranh. Để minh họa thêm cho có ý nghĩa đó người ta còn vẽ Thượng Thiên Vương cầm mặt Trăng và Khai Thiên Vương cầm mặt Trời, (đồng thời nhất mạnh thêm trong hình tượng Đại Phạn Thiên Vương - vốn là đáng sáng tạo tối cao của Bà La Môn giáo - Ấn Độ đã được Việt Nam hóa, trong hình tượng thần 3 mặt hai tay giơ cao hình mặt trời và mặt trăng. Hàng ngày, các vị thần trong Tử Vi Cung trong cõi tự nhiên này (Thượng Chân Tự Nhiên) ở tranh Tử Vi Cung, xem xét sổ sinh do Nam Tào quản lý, và sổ tử do Bắc Đẩu quản lý, mà minh định mệnh của người đời. 2. Bức tranh bên trái tranh Tử Vi Cung Được gọi tên chữ Hán là Thái Huyền Đô Nguyên Hoàng Thái Cực Tả Cung, hay còn gọi là tả Phủ, cai quản mọi công việc thuộc sự sống, nên còn gọi là Sinh Cung, Hỏa quan (quan lửa), thuộc dương khí, có Thái Dương chủ trì.Cung này do Linh Bảo Thiên Tôn là chủ. Dưới quyền của ông, giúp việc cho ông là các vị thần bảo hộ sự sống. Xem chi tiết từng vị thần trên tranh, ta thấy các vị thần ấy bảo hộ cho từng giai đoạn sinh thành cho tới khi trưởng thành của người đời. Từ sự sống của thai nhi trong bụng mẹ (Đạo giáo gọi sự hô hấp của thai nhi là thai tức). Thai nhi nằm trong bụng mẹ co quắp như người nằm trong võng (vì vậy trong lễ cấp sắc trọng thể của người Dao ở yên Bái, Lào Cai có một thể thức là nhảy từ đàn lễ xuống một chiếc võng, thể hiện tượng trưng sự tái sinh của một “kiếp người thần thánh” mới).Cho tới lúc khai hoa mãn nguyệt có hơi thở nhẹ như cánh hoa rung, đứa trẻ thực sự đã có linh hồn trong thân xác. Bởi vậy Đạo giáo cho rằng cung này có phép gọi hồn (Chiêu linh chi phù). Cung giữ sổ sống con người, đó là chức năng do Nam Đẩu tức Nam Tào, Nam Cực cai quản. 3. Bức tranh bên phải của Tử Vi CungĐược gọi tên chữ Hán là Thái Cực Huyền Đô Động Bạch Thái Cực Hữu Cung, hay còn gọi là Hữu Phủ, cai quản mọi công việc thuộc sự chết, nên gọi là Tử Cung, Quan Nước, lãnh đạo nó là Bắc Đẩu, hay Bắc Cực Tinh Quân. Tử Cung coi việc của sự chết, thuộc âm khí, có Thái âm chủ trì. Đạo Đức Thiên Tôn làm chủ. Xem kỹ tranh này ta thấy các vị thần có dính dáng đến cái chết manh nha như là ốm đau, có các thần bảo hộ (trị bệnh công tào, hoặc các pháp sư, đạo sĩ giết quỷ, trừ ma). Cho tới lúc chết cũng có các thần bảo hộ (như phóng cáo bài - phán quan đưa trát đòi hồn vào địa ngục) các cảnh hồn ma ở địa ngục cũng được tóm tắt minh họa. Tùy tội lỗi lúc sống ra sao, “con người đã chết” sẽ chịu hình phạt xứng đánh rồi sẽ được tái sinh.Muốn an tâm chịu hình phạt xứng đáng, nên người ta - Đạo Giáo cho rằng: ở cung này có phép làm sang tỏ sự thật (Minh chân chi phù): công tội do mình, được soi rọi tại Nghiệt kính đài, như các tranh Thập điện Diêm Vương. Do có phép đó, nên cung này còn thực hiện một chức năng lý tưởng của người đời nói chung và Đạo giáo nói riêng: linh hồn được cứu vớt lên cõi Tiên, trở thành Tiên trong cõi Trường sinh bất tử. Bởi vậy cung Tử còn gọi là Cung Trường Sinh, mang lại ý nghĩa lên cõi Tiên. Phù hợp với lý tưởng của Đạo giáo là: đắc Đạo thành Tiên, trường sinh bất tử. Chúng ta rút ra một ý nghĩa khi xem xét các tranh Đạo giáo như Thánh Đạo Hưng Long, Hành Say là: có một tiến trình của kiếp người từ sinh đến tử, dài hay ngắn là do mệnh số ở Tử Vi Cung quản lý. Người Dao có bộ tranh mang ý nghĩa chính như vậy, tuy hình tượng vẽ có khác ở hai tranh bên (cung Sinh và cung Tử). Họ gọi bộ tranh này là Hành Say có tên như sau: Tranh Tử Vi Cung, trung phủ, ở giữa, có tên là Tổng Đàn. Người Dao đọc là Chông Tàn. Tranh Sinh Cung, tả phủ - bên trái, có tên là Thái Vũ còn có tên là Thái Vĩ, người Dao đọc là Thày Vạy. Tranh Tử Cung, hữu phủ, bên phải, có tên là Hải Bá, người Dao đọc là Hỏi Phan.Kết hợp xem xét các bức tranh, chúng ta nhận thấy ăn khớp với nhau về vị trí các vị thần và vai trò, trách nhiệm chung:- Tranh Sinh Cung, tả phủ - bên trái của Tử Vi Cung, do Nam Tào Quản lý, dưới quyền Linh Bảo Thiên Tôn là chủ.- Tranh Tử Cung, hữu phủ - bên phải của Tử Vi Cung, do Bắc Đẩu quản lý, dưới quyền của Đạo Đức Thiên Tôn là chủ.- Tranh Tử Vi Cung, trung phủ - ở giữa, do Ngọc Hoàng Thượng Đế Quản lý, dưới quyền của Nguyên Thủy Thiên Tôn là chủ. Trong tranh Tử Vi Cung, trung phủ - ở giữa, có phân tầng các lớp thần linh trong Đạo Giáo, Bà La Môn giáo, rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà tác giả vẽ phối hợp, mà ta cũng đã biết rằng: mẹ vua Kinh Dương Vương theo đạo Bà La Môn và có Phật hiệu là Hương Vân Cái Bồ Tát. Trong tranh Tử Vi Cung, từ trên xuống dưới: Nguyên Thủy Thiên Tôn - Ngọc Hoàng Thượng Đế - Đại Phạm Thiên Vương (tức Brahma), và Tây Vương Mẫu, đến là các bậc sáng tạo thế giới tự nhiên được vẽ ở ngôi thần chủ chính của tranh. Để minh họa thêm cho có ý nghĩa đó người ta còn vẽ Thượng Thiên Vương cầm mặt Trăng và Khai Thiên Vương cầm mặt Trời, (đồng thời nhất mạnh thêm trong hình tượng Đại Phạm Thiên Vương, vốn là đáng sáng tạo tối cao của Bà La Môn giáo, Ấn Độ, trong hình tượng vị thần có 4 mặt, hai tay giơ cao hình mặt trời và mặt trăng).Để làm rõ các vị này là ai, chúng ta cầm phải phối hợp xem cùng với các bức tranh Đại Đường Kiều: Tranh Đại Đường Kiều 1 Dân tộc Dao Lô Gang, thôn Nà Mìu, xã Mẫu Sơn và Ái Quốc, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg* Chi tiết tham khảo thêm trong cuốn Tranh đạo giáo ở Bắc Việt Nam, tác giả Phan Ngọc Khuê, Nxb Mỹ thuật, 2008.Tranh Đại Đường 2 Dân tộc Dao Đỏ, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, vẽ 1891, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Từ trái qua phải có: - Đặng Nguyên Sư. - Dương khố - Thủy Khố (hay Dương Phủ - Thủy Phủ). - Ngọc Hoàng Thượng Đế. - Nguyên Thủy thiên Tôn ở Ngọc Thanh Cung (ngôi trung tâm). - Linh Bảo Thiên Tôn ở Thượng Thanh Cung. - Thánh Chúa (tức Thượng Thanh Chân Nhân, Tổng Tiên Đại Tư Mã, Trường Sinh Pháp Sư Chủ Tam Thiên Quân). - Thiên Khố - Địa Khố (hay Thiên Phủ - Địa Phủ). - Trương Thiên Sư. Bộ tranh lớn nay con có các bức tranh khác bao gồm: - Tổ Tông. - Đại Đường - Hải Phan. - Thuyền Quan. - Táo Quân. - Ngoài ra còn một số tranh như: - Thập Điện Diêm Vương. - Đạo Đức Thiên Tôn ở Thái Thanh Cung. - Lý Thiên Sư. - Triệu Nguyên Sư. Người Dao gọi toàn bộ bộ tranh lớn này là Tồm Toòng hay Đại Đường có ý nghĩa bao gồm toàn bộ bức tranh thần linh để trang hoàng trong Đại lễ đường. Toàn bộ hệ thống tranh thờ của các dân tộc miền Bắc Việt Nam, kết hợp với các dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống chứa đựng lịch sử cổ đại của nước Việt Nam và cả một phần lịch sử các tôn giáo như Đạo Mẫu, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và Bà La Môn giáo. Đặc biệt, liên quan đến số lượng các đời vua của các chi vua Hùng còn thiếu trong gia phả của các dòng họ.Mười tám đời Hùng Vương Trong các bức tranh Hành Say, chúng tôi nhận định các vị thần trong 9 tầng sẽ bao gồm vua Hùng Vương V, VI và VII, bởi vì khả năng, hệ thống tranh thờ được tổ chức vào thời Hùng Vương thứ VI cùng với cuộc thi bánh chưng bánh dầy sau chiến thắng giặc Ân, chính là một cuộc tổng kiết tập và mật mã lại toàn bộ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và lịch sử nước nhà. Điều này dẫn đến phù hợp với việc tìm ra số lượng đời vua trong các “chi” còn thiếu này (từ vua Hùng Vương thứ I là Kinh Dương Vương đến vua Hùng Vương thứ VII là Hùng Chiêu Vương tức Lang Liêu) trong bức thờ Đám rước, trong khi đó số lượng nhân vật trong bức tranh cuộn Đại Đường Kiều đã thay đổi, không còn chính xác. Đặc biệt số lượng đời vua trong các chi còn thiếu trùng khớp với gia phả ghi nhận và một phần của nội dung bài thơ tâm linh Về 18 chi Hùng Vương, của ông Ma Văn Cát (1931-2008), quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, ghi xong lúc 22 giờ ngày 7/1/1999. Tiêu đề tranh Tử vi Cung thường có mang dòng chữ là Phúc - Lộc - Thọ như phân tích ở các phần trước là hoàn toàn phù hợp. Phúc - Lộc - Thọ là Đế Minh (hiệu Phúc Đình) - Kinh Dương Vương (hiệu Phúc Lộc) - Lạc Long Quân (hiệu Phúc Thọ), cả ba tương ứng “Tam Dương” đối ngẫu “Tam Âm” là các chính thất của các vị. Trong bức tranh Dẫn Hương Lộ có nêu Tứ đại nguyên soái và Lý Thiên Sư cùng Trương Thiên Sư là những vị khác nhau. Tứ đại Nguyên soái: Quan, Triệu, Đặng, Mã trong thần thoại Trung Quốc là bốn vị thần tướng canh giữ trên thiên đình, bao gồm: - Mã nguyên soái, còn gọi là Mã Nguyên Quân, Hoa Quang thiên vương, Hoa Quang đại đế. - Triệu nguyên soái, tức là Vũ Tài thần Triệu Công Minh, Triệu Huyền Đàn. - Ôn nguyên soái, tức là Ôn Quỳnh, Đông nhạc đế bộ tướng. - Quan nguyên soái, tức là Quan Vũ, Quan thánh Đế quân sống vào thời Tam Quốc. Dễ dàng thấy, Tứ đại Nguyên soái theo văn hóa Hán đã được cải biên, thay đổi theo thời gian, không còn ý nghĩa nguyên bản ban đầu trong tranh Đạo giáo Việt Nam nữa. Thiên Phủ - Địa phủ Tranh thờ dân tộc, miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trong bức tranh dân gian Tày, Nùng Thiên Phủ có hình ảnh “Ngũ Lôi” ở hàng thứ 3, tức ngay sau Ngọc Hoàng Thượng Đế, như vậy phù hợp với nhận định 5 anh em vua Lạc Long Quân chính là “Ngũ Lôi” trong Chương xxx: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM. Trong các bức tranh này, chúng ta còn nhận thấy Cửu đầu sư tử tọa liên đài: nơi ngự trị của Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn tức U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát, được bố trí phía sau so với Thập Cực Chân Nhân, và trước Thập Chân Chân Nhân. Vị trí U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát tương ứng vào vị trí Thập Vương Chân Nhân (Thập Điện Diêm Vương), chi Cấn, vua Hùng Vương thứ III - Hùng Quốc Vương, theo gia phả chi này không biết truyền mấy đời vua, và ta thấy Thập Vương Chân Nhân chính là mang ẩn ý 10 đời vua Hùng Vương thứ III, còn Hùng Quốc Vương gọi là “Vua Chủ”. Nếu chúng ta chấp nhận nội dung bài thơ tâm linh Về 18 chi Hùng Vương là một dữ liệu, thì vua Hùng Vương thứ XVIII sẽ truyền được 6 đời thay vì 3 đời như gia phả đã ghi nhận. Lúc này, tổng cộng số lượng đời các vua Hùng của 18 chi là 90 đời. Số lượng các “đời” vua còn thiếu của “chi” Hùng Vương I, II, III và IV được thể hiện qua số lượng các vị thần linh trong bức tranh thờ Độ Linh, của dân tộc, miền Bắc Việt Nam: Độ Linh Tranh thờ dân tộc tày, Cao Bằng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg * Các ghi chú: Chi tiết bức tranh tham khảo thêm cuốn sách Tranh Đạo giáo miền Bắc Việt Nam, tác giả Phan Ngọc Khuê, Nxb Mỹ thuật, 2008. Câu chuyện vua An Dương Vương, vị vua cuối cùng triều đại các Vua Hùng, đi xuống biển đem theo bí ẩn của một thời kỳ lịch sử vàng son của dân tộc, chúng tôi nhận định 108 đời vua Hùng bao gồm cả vua An Dương Vương (?-258 tr.CN) sau này. Hiện tại, sự kiện vua Am Dương Vương là vị vua Hùng thứ 108 này được khắc họa trên trống đồng Đông Sơn Cổ Loa, chúng tôi sẽ chứng minh ở Chương xxx: VIẾT LÊN TRỜI XANH. Như vậy, nước Văn Lang tồn tại 2622 năm từ 2879 tr.CN-258, trải qua 18 đời (chi) với 108 vị vua kế tiếp nhau, vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương và cuối cùng là vua An Dương Vương. Thập Cực Chân Nhân Tranh thờ dân tộc Tày Nùng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Các vị Thập Cực Chân Nhân này giúp việc cho Ngũ Phương Yết Đế, trông coi mười phương trong vũ trụ. Ngũ Phương Yết Đế là 5 anh em của vua Kinh Dương Phương, cùng vua Kinh Dương Vương và vua cha Đế Minh là biểu tượng ngôi sao thuộc chòm sao Bắc Đẩu (Đại Hùng Tinh). Ngũ Phương Yết Đế Tranh thờ dân tộc Tày Nùng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Hiện nay Tại hậu cung đền Nội thuộc làng cổ Bình Đà, Quốc Oai, Hà tây thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân còn lưu giữ được một bức giá thánh quý, sơn son, thếp vàng từ xa xưa còn nguyên vẹn nhưng đã bạc màu, miêu tả vua Lạc Long Quân (hình lớn nhất ở trung tâm) và chỉ duy nhất ở đền Bình Đà có bức giá thánh cổ này. Ngoài ra, trong đền còn lưu giữ các bức hoành phi, câu đối ca tụng tài năng, trí đức của Quốc Tổ Lạc Long Quân, được chạm khắc tinh vi theo mẫu điêu khắc của hoa văn truyền thống, như: “Tứ phương hội tụ ngưỡng chi ân Quốc Tổ - Vạn lý hành hương mộ cổ địa Bảo Đà” hay câu đối treo ở cửa hậu cung “Đức hóa uông hàm quang đỗ chửng - Ninh thanh hách chạp tự phong châu” (Mở nước sáng soi từ bến đỗ - Tiếng thiêng hiển hách tự Phong Châu). Cửa đền là bức đại tự “Vi bách Việt tổ” (Tổ của trăm họ Việt). Vua Lạc Long Quân Đình Bình Đà, Thanh Oai, Hà Tây, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Bách Việt Ngọc phả truyền thư: 1. Chi Càn: Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr.CN) lên ngôi năm 41 tuổi, truyền được 1 đời vua, ở ngôi tất cả 86 năm (chúng ta hiểu là ông làm vua 27 năm sau đó truyền ngôi cho vua Lạc Long Quân, còn ở ngôi 86 năm hiểu là ông thọ 86 tuổi), từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.CN) đến Đinh Hợi (2794 tr.CN). 2. Chi Khảm: Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn 2873 tr.CN, lên ngôi 33 tuổi, truyền 10 đời vua (tương ứng với Thập Cực chân nhân) . Chi này ở ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 tr.CN) đến năm Bính Thìn (2525 tr.CN). 3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr.CN) lên ngôi khi 18 tuổi, truyền được 10 đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương (tương ứng với Thập Vương chân nhân), 272 năm, từ năm Đinh Tỵ 2524 tr.CN đến 2253 tr.CN. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu. 4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr.CN), truyền được 10 đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương (tương ứng với Thập Chân chân nhân), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr.CN) đến năm Mậu Thìn (1913 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ. 5. Chi Khôn: Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi(2030 tr.CN), lên ngôi khi năm 59 tuổi, truyền được 9 đời vua (tương ứng với Cửu Lão Tiên đô), đều xưng là Hùng Hy Vương ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr.CN) đến Mậu Tý (1713 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Quý (Kiệt) nhà Hạ. 6. Chi Ly: Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr.CN), lên ngôi khi 29 tuổi, truyền 2 đời vua, ở ngôi tất cả 81 năm đều xưng là Hùng Hồn Vương, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr.CN) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Ốc Đinh nhà Thương. 7. Chi Tốn: Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr.CN), lên ngôi khi 18 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr.CN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương. 8. Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr.CN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr.CN) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương. 9. Chi Giáp: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr.CN), lên ngôi khi 45 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân. 10. Chi Ất - Hùng Uy Vương, huý Hoàng Long Lang, truyền 3 đời vua, 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr.CN) 11. Chi Bính: Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr.CN), lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua, đều xưng là Hùng Trinh Vương, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr.CN) đến năm Bính Tuất (1055 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu. 12. Chi Đinh: Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr.CN), lên ngôi khi năm 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr.CN) đến năm Nhâm Tuất (969 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu. 13. Chi Mậu: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr.CN) lên ngôi khi 23 tuổi, truyền 5 đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr.CN) đến Đinh Mùi (854 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu. 14. Chi Kỷ: Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr.CN) lên ngôi khi 42 tuổI, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 trCN. Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu. 15. Chi Canh: Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr.CN), lên ngôi khi 35 tuổi truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr.CN) đến năm Canh Thân (661 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu 16. Chi Tân: Hùng Tạo Vương (Thần phả xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, ghi đời thứ 16 là Hùng Tạo Vương, đóng ở Việt Trì, có Thạc tướng quân đánh tan giặc Man, Vua phong là Chuyển Thạch Tướng Đại Vương - Người anh hùng làng Dóng, Cao Xuân Đỉnh (Nxb KHXH 1969 trang 126-130), húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr.CN), truyền 3 đời vua, lên ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr.CN) đến năm Nhâm Thìn (569 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu 17. Chi Nhâm: Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr.CN) lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr.CN) đến năm Nhâm Thân (409 tr.CN). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu 18. Chi Quý: Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr.CN), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ 3 đời) vì ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì - Hà Nội có bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr.CN) đến năm Quý Mão (258 tr.CN). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc. Theo bài thơ tâm linh Về 18 chi vua Hùng có 5 đời và vua An Dương Vương là vị vua cuối cùng, tổng cộng 6 đời. (* Ghi chú: chữ in đậm là nội dung bổ sung thêm sau khi giải mã. Năm sinh Bính Thìn và lên ngôi lúc 33 tuổi của vua Lạc Long Quân được kết hợp tính toán với bài thơ tâm linh Về 18 chi Hùng Vương, người nhận thông tin linh cảm Ông Ma Văn Cát (1931-2008), quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, ghi xong lúc 22h00’ ngày 7/1/1999). Trong dòng tranh dân gian Đông hồ có bộ tranh nhị bình Lợn Lộc và Lợn Đàn, ngoài ý nghĩa “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi” còn ẩn ý cung Càn độ số 1 ứng vua Kinh Dương Vương, và cung Khảm độ số 6 ứng vua Lạc Long Quân trong gia phả. Hình ảnh cái cây ba lá mọc lên ở phía dưới, nỏi bật trong bức tranh thể hiện sự tái sinh, phục sinh trở lại của vua Lạc Long Quân.Lợn lộc và Lợn đànTranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Ở các ngôi chùa Việt Nam cũng như các chùa trên đất Trung Quốc, đều có tục đánh chuông, hơn nữa quy định về số lượng cũng rất nghiêm ngặt, mỗi lần đánh phải đủ 108 lượt không thừa không thiếu. Đã từ ngàn năm nay, ngôi chùa Hàn Sơn cổ kính trên thành phố Tô Châu, với một lịch sử lâu đời nằm ở hạ lưu sông Dương Tử và trên bờ Thái Hồ thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc luôn duy trì tục lệ đánh đủ 108 hồi chuông vào mỗi đêm giao thừa, bắt đầu lúc 11h42’ thỉnh chuông, đến hồi 108 là vừa vặn tới khắc giao thừa, một năm mới đã đến. Chiếc cầu đá thành phố Tô Châu (Suzhou Online) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgPhong Kiều dạ bạc Trăng tà tiếng quạ kêu sương,Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ.Thuyền ai đậu bến Cô Tô,Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.Bài thơ Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều - Trương Kế (Zhang Jì), tác giả sống vào khoảng trước sau năm 756, đời vua Đường Túc Tông, Trung Quốc, dịch giả Nguyễn Hàm Ninh. Các chùa chiền ở Nhật Bản cũng duy trì tục lệ này, đánh 108 tiếng chuông vào đêm giao thừa. Tại sao người ta chỉ đánh đúng 108 hồi chuông mà không phải là một số khác, không lẽ chỉ đơn thuần cho phù hợp với âm luật thôi sao? Rất nhiều học giả băn khoăn và trăn trở về con số bí ẩn này và không ngừng nỗ lực nghiên cứu, đã có những lý giải nhưng cho tới nay vẫn chưa xác nhận được nguyên nhân. Nguồn gốc 108 tiếng chuông chính là biểu tượng của 108 đời vua Hùng, 12 phút cuối của năm tương ứng kết thúc một chu kỳ 12 con giáp. Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào… có chung một số đặc diểm văn hóa, mà ngày nay còn giữ lại nhiều phong tục giống nhau và đấy chính là những dấu hiệu tìm về nguồn cội văn hóa Việt Nam. Chúng ta tiếp tục cùng xem bộ tranh Thánh Đạo Hưng Long hay Đạo Thánh hưng vượng của các dân tộc miền Bắc Việt Nam.Tranh Thánh Đạo Hưng Long số 2 (3 bức) Dân tộc Cao Lan, Sán Chỉ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Bức tranh bên phải do Thượng Thanh Cung làm chủ gọi là Sinh Cung:1. Thánh Đạo Hưng Long (Đạo Thánh hưng vượng)2. Thượng Thanh tức Linh Bảo Thiên Tôn, nguyên lý dương.3. Thái Thượng Lão Quân - Giáo chủ Đạo giáo, cưỡi voi trắng.4. Thiên Đế, một trong Tứ Ngự, cai quản Thiên phủ.5. Thủy Đế, một trong Tứ Ngự, cai quản Thủy phủ.6. Vương mụ, bà mụ, hay Hoa Vương Thánh Mẫu, vị thần bảo trợ thai nhi, thai phụ, sức khỏa, sắc đẹp, và hạnh phúc cho phụ nữ. Giúp cho vương mụ có 12 cô tiên tượng trưng thập nhi nguyên giáp (12 năm), mỗi vị chủ trì một năm. Có nhiệm vụ trông coi đứa trẻ sinh trong năm của mình.7. Nữ Đồng tuyển, theo tục lệ Trung Quốc: người ta để các đồ vật nhỏ, tượng trưng cho nghề nghiệp của nam giới và nữ giới trước mặt đứa trẻ mới biết lẫy, biết bò, để xem đứa trẻ chọn cầm thứ đồ nào mà đoán hậu vận của đứa trẻ đó. Nữ Đồng Tuyển: là đứa trẻ gái chọn thứ đồ vật gì. Trong tranh này ngoài ý nghĩa đó, còn ý nghĩa tôn giáo: con người là Hoa của Đất - Bà Mụ (Vương Mụ) là người có cây hoa này. Ai cầu con, Bà Mụ cho hoa vàng sẽ sinh con trai, ai được ban hoa bạc sẽ sinh con gái.8. Ba hình vẽ thân chó đầu trẻ con - là tượng trưng cho sao Thiên Cẩu (chó trời) là sao xấu: sát tinh. Đầu thai làm người sẽ có hại cho hạnh phúc gia đình.9. Lý Quảng - người đời gọi Lý Quảng là “Thần tiễn” thần bắn cung. Cầu cho vị thần này bắn những mũi tên thần xua đuổi các sao xấu như sao Thiên Cẩu ở trển trên để bảo vệ thai phụ, thai nhi. Lý quảng là tướng tài đời vua Hán Nguyên Đế 48-33 TCN, nổi tiếng về tài bắn tên trăm phát trăm trúng khiến cho quỷ khóc thần sầu.10. La Vi La Võng Tướng Quân: hai vị tướng quân cai quản sự xuất nhập, bảo vệ những đứa trẻ trong phạm vi của Hoa Tào, cung cấp cho người đời. Tượng trưng cho sự sinh sản, thụ thai. Trong bụng mẹ, thai nhi nằm cho quắp như người nằm trong võng.11. Hoa Mẫu - tức Hoa Vương Thánh Mẫu, tức Mẹ Hoa.12. Hoa công - tức đức ông chồng của Mẹ Hoa (nam tính). Hoa Mẫu và Hoa Công được coi là hai vợ chồng ở Hoa Cung - nơi ở của Hoa Mẫu, được vẽ tượng trưng là một cây hoa (giữa số 11 và 12).13. Mẹ Hoa (Bà Mụ) cai quản cây hoa này, Ai xin con trai bà cho hoa vàng, xin con gái cho hoa bạc.14. Hấp vi Hoa Bà. Bà đỡ có chức năng đón đứa trẻ sơ sinh từ lúc mới ra đời, hơi thở nhẹ như cánh hoa rung: cho trẻ sự sống.15. Triu kỳ đáo phúc - có ý là: lúc sinh đẻ là điều phúc đức đã đến với sản phụ, thai nhi và gia đình.16. Giám Chủ Thiên Vương - vị vua giám sát công việc của Sinh Cung hay còn gọi là Hoa Cung.17. Vương Hậu - Mũ thần, vợ Hoàng Đế, bảo trợ cho sự sống.18. Bảo Sinh Hoàng Đế - vị vua, nam thần, bảo trợ sự sống.19. Bình Đạo Tiên Cô - hình tượng vẽ vị tiên cô này biểu hiện sự mong ước của người đời: Phúc (có con cái), lộc (có tiền tài), cả hai điều trên phải song song, toàn vẹn.20. Trương Triệu huynh đệ: anh em hai vị thần Trương và Triệu.21. Đạo Hồn Trương, Triệu - Trương, Triệu dẫn đường cho linh hồn.22. Trương, Triệu hành - Trương, Triệu thực hiện việc dẫn đường linh hồn.23. Tây đầu lục tạo - Sáu vị thần linh trong chòm sao ở phía Tây.24. Long Thụ - tức Ngarjuna, vị tổ thứ 14 của Phật giáo.25. Hợp nhân – hòa hợp giữa con người… để phát triển tự nhiên.26. 25??? Không đọc được.27. Lý Thiết Quài, một trong tám vị tiên.28. Đặng Nguyên Soái tức Lôi thần (Thần sấm sét).29. Lư tướng quân???30. Quái Mã Tam - ba ông tướng kỵ binh.31. Truyền lôi đồng tử - người truyền lệnh của Lôi đỉnh đô ty.32. Cát thiên tiên - Vị thiên tiên họ Cát, tức Cát Hồng, nổi tiếng về sự nghiệp y học thời cổ đại.33. Kim Đà phu nhân - Thầy thuốc hoa đà, thời cổ đại.34. Bí thị - Người đàn bà từ bi, tức Phật Bà Quan Âm.35. (?)36. Bức tranh ở giữa do Ngọc Thanh Cung làm chủ, gọi là Tử Vi Cung:37. (?)38. Ngọc Thanh tức Nguyên Thủy Thiên Tôn (bao hàm Thái Cực).39. Thượng Thiên Vương.40. Khai Thiên Vương - hai vị - Thiên Vương này bao gồm thời kỳ hỗn mang của vũ trụ: khi trời đất còn chưa phân âm dương.41. Ngọc Đế: Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản thiên giới.42. Bát Đại Kim Cương: chữ đề là vậy, theo tác giả hình tượng này là Đại Phạn Thiên Vương tức Brahmâ, ở đây phù hợp với ý nghĩa “Sáng thế” của các thần trong tranh Tử Vi Cung.43. Tây Vương Mẫu.44. Na Tra Thái Tử.45. Án chủ: vị thần xem xét việc hai cung sinh tử.46. Hoa lao: ngục lửa để trị tội nhân.47. Trương Hách Ngũ Lang: căn cứ hình tượng vị thần này đang sai khiến “Ngũ Lôi man phương sứ giả”. Tác giả cho rằng đó là hình tượng thể hiện: ngũ đẩu tinh quân.48. Ngũ Lôi Man Phương sứ giả: năm ông thiên lôi ở năm phương.49. Trương Thiên Sư tức trương Đạo Lăng, tổ sư Đạo giáo.50. Lý Thiên Sư Lý Tịnh.51. Tam mục tiên: tức vương linh quan, tức Hỏa Tinh, thần bảo vệ thiên đình.52. Tứ mục tiên: tức Thương Hiệt, người làm ra chữ Hán.53. Phổ Long: vị thần ở Long cung.54. Quán Long: vị thần ở long cung.55. đều là Hán đế: vua nhà Hán (thời Hán, đạo giáo được tôn là quốc giáo, từ thế kỷ II trước công nguyên): bảo vệ đạo.56. như trên.57. Như trên.58. Thiên đồng: đồng tử ở thiên đình.59. Đế Sơn Công.60. Phú Sơn Công.61. Thông Mộc đồng tử: đồng tử dẫn đường.62. Nê Mộc Đồng tử: Đồng tử dẫn đường.63. Bắc Đế: thần coi giữ phương Bắc.64. Sài Hầu.65. Thập Cực Cao: các vị thần trông coi mười phương vũ trụ.66. Bát bảo linh.67. Tổ sư.68. Bổn sư.69. Tróc tướng: tướng đi truy nã.70. Trói (tróc tướng).71. Đóng gông, đóng cùm (tróc tướng).72. Như trên.73. Sát mãnh tướng.74. Đại lượng - tha tội cho tội nhân.75. … Lang Tam Súy?76. Tứ Lang Súy? Bức tranh bên trái do Thái Thanh Cung làm chủ, gọi là Tử Cung (Cung của sự chết): 77. Thái Thanh tức Đạo Đức Thiên Tôn - nguyên lý âm.78. Địa Đế - một trong Tứ Ngự, cai quản địa phủ.79. Ngục Đế: chủ quản việc coi sóc địa ngục.80. Thái Sơn thất sư: bảy vị nguyên sư ở núi Thái Sơn.81. Phóng cáo bài: các vị phán quan ở địa ngục đưa trát đi bắt linh hồn người vừa chết về âm ty địa ngục để xét công tội.104. Bố kinh sở: nơi giam giữ các đạo sĩ, nhà sư ở địa ngục vì tội của họ khi sống đã tụng kinh giả dối.Trong khu vực từ 76-77-104 (3 số) được chia thành các ô hình chữ nhật, hình vuống: đó là các thể hiện cảnh địa ngục của Phật giáo. Phật giáo cho rằng: Địa ngục chia ra làm nhiều phòng, giam giữ các linh hồn riêng biệt ở đó, để họ sám hối, ăn năn các tội lỗi đã gây nên trong kiếp sống ở trấn gian. Sau đó họ sẽ được ra khỏi địa ngục, trút bỏ tội lỗi của họ gây ra, để đầu thai kiếp khác: chuyển kiếp luân hồi. Đến khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, thì các Đạo giáo thu nhập thuyết luân hồi của Đạo phật. Vào thời kỳ đầu thế kỷ VI người ta cho rằng có 136 địa ngục bao gồm nhiều tầng lớn nhỏ, cho tới đời Đường thế kỷ VII ở Trung Quốc mới an bài con số 10 vị Diêm La Vương (Yama - thần chết của Ấn độ) cai quản như ngày nay. Chỉ có tám địa ngục là trừng phạt tội nhân, còn địa ngục đầu tiên là đầu vào của địa ngục: xem công, xét tội rồi mới phân phối đi các địa ngục chuyên thi hành án. Địa ngục cuối cùng là đầu ra của địa ngục: phân phối đi đầu thai, chuyển kiếp, không trừng phạt ai.82. Lý Võ: tức Lý Thiên Sư.83. Trấn Vũ: vị thần có nhiều pháp lực trừ ma quỷ ổn định sinh mệnh con người, trấn phương Bắc.84. Bạch Hạc Tiên Cô: một dạng thể hiện Tây Vương Mẫu.85. Thoát Diệp Tiên Cô?86. Đại Phạm Thiên Vương tức Brahma - Đấng Sáng tạo tối cao.87. Không có tên.88. Trương Ty tướng quân.89. Mã Nguyên Sư: thần tướng hộ vệ.90. Tân Nguyên Sư: thần tướng hộ vệ.91. Thiết Mã Tứ Lang.92. Thượng Động Vương.93. Hữu Đà yêu: vị võ tăng bảo vệ bên phải chùa Phật. 94. Địa tiên binh: cai quản địa binh. 95. Chuyển hướng đồng tử: Đồng tử dẫn đường. 96. Lư Sơn Động: Nơi tu luyện của của các pháp sư Đạo giáo rất nổi tiếng ở Trung Quốc. 97. Trảm Quỷ tướng quân: thường được pháp sư sai đi giết quỷ. 98. Hoành Sơn Thất Lang: thường được pháp sư sai đi giết quỷ. 99. Tổ Bản Nhị Sư: thày của các pháp sư. 100. Trị bệnh công tào: vị công tào trông coi việc trị bệnh cứu người. 101. Pháp sư: ông ta đang bắt quyết, làm phép bắt ma, trị quỷ để chữa bệnh cho các bệnh nhân. 102. Bệnh nhân. 103. Phục dược bà: vị thần cho uống thuốc. 104. Phát dược tiên: vị tiên pháp thuốc. 105. Sĩ chủ sơn công: vị thần núi. 106. Ngũ Thương: các vị thần trấn trị 5 phương trời đất. 107. Thổ Địa: vị thần quan trọng gần gũi nhất với con người. Nếu mỗi vị thần, tiên, thánh và con người sau khi đắc đạo thành tiên, đều ở trên một vì sao trên bầu trời, thì bộ tranh này gợi cho ta liên tưởng tới bầu trời đầy sao và đấy chính là bộ bản đồ thiên văn Đông Phương cổ đại là Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên. Quy mô trình bày của thần điện Đạo giáo quá ư phức tạp và hoành tráng, bộ tranh này chỉ thích hợp với khung cảnh trang hoàng đàn lễ trong các Đạo cung, Đạo quán. Tổ tiên Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Tuyên Quang, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Hai bức tranh này có cùng một chủ đề thờ cúng tổ tiên. Có khi loại tranh này được đặt tên là Cao Tổ, cũng có nghĩa là tổ tiên. Các dân tộc Tày, Nùng cũng có tranh tương tự. Bộ tranh Tổ tiên (Cao tổ) được phối xem tương ứng với bộ tranh Nam Hoa và Nam Đường, hai vị trên cùng Kinh Dương Vương và Thánh Mẫu Thượng Ngàn quản lý Cõi Trời. Vị kế tiếp là Lạc Long Quân, quản lý Thủy phủ và Hùng Quốc Vương quản lý Địa phủ hay Thổ Phủ. Thổ Phủ và Nam Tào Tranh thờ dân tộc miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Trên cùng là Thổ phủ thuộc Hậu Thổ Hoàng Kỳ cai quản, hình tiếp theo là Hoàng Đế Hiên viên vị thần đội mũ sừng thú, theo truyền thuyết Trung Quốc là tác giả của Hoàng Đế Trạch Kinh, chầu hầu hai bên có thần lục đinh lục giáp, phía dưới có Lôi Phát Đạt - một phong thủy gia nổi tiếng đời Thanh, tay cầm la bàn phong thủy để chọn mộ huyệt: có thanh long, bạch hổ chầu hầu hai bên; gối đầu, dựa lưng vào huyền vũ, mặt hướng về chu tước (được phương hướng bốn phía, tượng trưng bằng bốn con vật dưới cùng). Hoàng đế Hiên Viên là ông tổ của dân tộc Trung Quốc, tuy nhiên để xác định Hoàng Đế là ai? Cũng sẽ được biết trong Chương xxxx: VIẾT LÊN TRỜI XANH. Trong bức tranh Thổ phủ, người cầm la bàn kiểm soát 72 hướng đất chính là Thổ phủ hay Địa phủ, như vậy tính ngược trở lên sẽ là Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, nghĩa là ít nhất vào thời Hùng Quốc Vương la bàn chuẩn mực đã tồn tại rồi. Trong bức tranh Nam Tào có bốn lớp thần linh, trên cùng là chính phi của Tam Từ và tính xuống Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương tức Thổ phủ ở lớp cuối cùng. Nam Tào nghĩa là chòm sao Nam Tào hay Nam Cực đối ngược với chòm sao Bắc Cực hay chòm sao Tiểu Hùng Tinh trên thiên cầu quy ước của bầu trời trong thiên văn Đông Phương. Đàn Chủ Dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Tranh có ba ngôi vị chính, Ngọc Hoàng Thượng Đế phía trên cùng, Vạn thiên tinh chủ Bắc Cực Tử Vi Đại Đế (ở trong vòng tròn), Huyền Thiên Trấn Vũ ở (hàng thứ ba) vẽ theo chân dung của Yên Vương Chu Lệ (sau này là Minh Thành Tổ 1403-1425). Theo các nhận định trên, vị trí thần Huyền Thiên trấn Vũ phải được thay bằng Thổ phủ tức Nam Tào, ngay dưới Bắc Cực Tử Vi Đại Đế. Đại Tinh Đàn Dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), thôn Thạch Khẩu, Tổng Gia Cát, xã Phú Nhiêu, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, do nghệ nhân Việt Nam họ Nguyễn, tên tự là Pháp Viễn, người xã Bạch Lựu? vẽ bộ tranh 16 bức, năm 1921 (6-1 Tân Dậu, Khải Định thứ 20). file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Tranh còn có tên là Bản Tinh, hay Tinh Chủ hay Đàn Chủ tùy nơi, tùy người gọi. Ý nghĩa chính là bản mệnh con người được tốt xấu là do vị tinh quân được vẽ trên tranh Bắc Cực Tử Vi Đại Đế năm trong Trung Huy Thiên - điểm giữa bầu trời quyết định. Ở trên cùng có các thần Lục Định Lục Giáp. Các ngôi vị trung tâm có Ngọc Hoàng Thượng Đế phía trên cùng, Vạn thiên tinh chủ Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, Nam Tào ở hàng thứ ba vẽ theo chân dung của Yên Vương Chu Lệ (sau này là Minh Thành Tổ 1403 - 1425). Xung quanh Nam Tào có 4 vị nguyên soái Đặng, Triệu, Mã, Quan chầu hầu bốn bên. Phía dưới có Công Tào đại súy quan cùng các quan Tam Tào (Âm Tào, Nhân Tào và Thiên Tào) và dưới cùng là lũ ngưu đầu mã diện. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 1, 2013 Trích Ngọc Phả truyền thư của Từ đường họ Nguyễn - Các đời tổ sư, Cửu Liên Hoa (9 hoa sen) với các dữ kiện liên quan đến Phật giáo: “Tổ ta từ núi Tản Viên xuống dựng nghiệp, làm các nghề: Thầy thuốc, làm ruộng, trồng dâu, nung gạch ngói, rèn kim khí ở miền Tây. Giáo hóa chúng sinh ở Tây Phương Cực Lạc, mở nhà truyền kinh, có công mở nước, có đức che chở cho dân, cho nên đời sau tôn làm Tiên Phật để cúng thờ. Cả thế giới chịu ơn lớn, cùng tôn sư trọng đạo, xin làm đệ tử đều nhớ về Tổ ta, chiêm ngưỡng ở các đền (thờ thần), các chùa (thờ Phật). Từ núi Tản Viên đến Tây Phương Cực Lạc, Sài Sơn, Thổ Ngõa, Phụng Châu, Tiên Lữ, đến tướng địa Phong Châu tạo thành thế đất Tứ Linh: Long, Ly, Quy, Phượng; tam đầu (Tam Đảo, Ba Vì); cửu vĩ (9 miếu thờ ở Phong Châu, đó là Cửu Long) truyền đời mãi mãi. Dáng Tứ Linh, Cửu Long tượng trưng cho địa thế. Tổ ta định đô từ Lôi Bằng đến Lôi Phong, Lôi Đỉnh (Lôi Bằng đời sơ khai định đô, Lôi Phong đời Kinh Dương Vương, Lôi Đỉnh đời Triệu Vũ Đế). Buổi sơ khai tên nước Cực Lạc. Phật hiệu là Di Đà, sinh ra ở Hòa Bình, nơi ở là núi Tản Viên, hóa ở Tây Phương Cực Lạc, mộ ở chân núi, kỵ ngày 1 tháng 4 âm lịch. Tổ tiên xưa vẫn ở Vân Lôi, Thạch Thất, núi Cảnh Tiên, đã lâu do ông bà không rõ tên thật của các vị, thường người đời gọi là: Bàn Cổ ở làng Vân Lôi. Nữ Oa ở Tây Phương Cực Lạc. Hòa Hy dựng nước, khuyến thiện, bỏ ác, đời sau tôn là Đức thiên Tôn hoặc là Phật A Di Đà. Nước được gọi là nước Phật (Phật quốc) hay nước Cực Lạc (hiểu là Lạc Bang). Bà Nữ Oa lấy đá đắp vào một cái hang thủng ở núi Cực Lạc, gọi là đội đá vá trời. Sau này suy tôn là Địa Mẫu - Thiên Hậu Nương Nương. Dấu tích nay vẫn còn, mộ ở Hy Sơn, gốc đa, chùa Cực Lạc”. Bức tranh Tam Bảo (5 bức) Tranh vẽ của thầy Tào Nông Văn My, bản Khau Khang, xã Đức Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Từ phải qua trái: Lý thiên Sư, Kinh Bảo - thần chủ trông coi cõi đất (Hạ nguyên), Đạo Bảo - thần chủ trông coi cõi trời (Thượng Nguyên), Sư Bảo - thần chủ trông coi cõi nhân gian (Trung Nguyên), Trương Thiên Sư. Tam bảo của Đạo giáo có nguồn gốc xuất xứ từ quan điểm của Phật giáo mà thành, nhưng ý nghĩa lại khác. Theo Phật giáo, để thoát khỏi khổ đau tích dồn lại của một kiếp người thì chỉ còn một con đường là con đường dẫn tới cõi niết bàn (Nirvana). Do đó chỉ có ai tin vào lời của Phật (Bouddha) và thực hành Pháp (Dharma) của ngài, như đã được tăng già (Sangha) truyền thụ, thì mới có thể giải thoát được. Từ đó mà có Tam quy (Triratna) bao gồm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và người ta còn gọi là quy y Tam Bảo - bao hàm tu hành theo Phật giáo. Đạo giáo dịch nghĩa ấy, lấy ý, phục vụ giáo lý của mình gọi là Kinh bảo, Sư bảo, Đạo bảo… tranh vẽ mang hình tượng Phật ngự tòa sen, nhưng thần linh lại vẽ theo kiểu Đạo giáo. Đám rước I, II, III Tranh thờ dân tộc miền Bắc Việt Nam (trích cuốn Đồ họa cổ Việt Nam, tác giả Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung Khắc Lược, Nxb Mỹ Thuật, 2000) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg * Ghi chú: bức tranh cần phải nối lại chính xác. Bức tranh quyển của đồng bào dân tộc thiểu số vùng phía Bắc Việt Nam là một “tập đại thành” về hệ thần trong Đạo giáo. Trong Sử ký có ghi một Man tộc Lý, Lạo sống ở biên giới lưỡng Quảng thời Bắc thuộc, mà theo chú dẫn của Từ Hải, Man tộc Lý, Lạo đến khoảng đời Thanh thì nhập vào tộc người Choang. Cổ xưa, người Lý, Lạo theo tín ngưỡng dân gian bản địa, khi Đạo giáo thành lập, đã kéo theo sự phát triển các tổ chức Đạo giáo dân gian thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể là họ thờ phụng Tiên nhân Lý Bát Bạch. Điều này có nghĩa nảy sinh ra một tín ngưỡng dân gian là sản phẩm của văn hóa Vu thuật phương Nam và Đạo giáo, điều này không có nghĩa quá trình thiên di của Man tộc phương Nam trung Quốc sang địa giới miền Bắc Việt Nam bây giờ, các Man tộc này (người Mèo, tày, Nùng…) đoạn tuyệt hẳn với những tín ngưỡng cổ sơ mà tổ tiên họ đã từng có. Tổ sư là Vạn Ứng Tạo là Lưu Đạo Phương Minh - Trí Cương đã thụ lục cho bọn học trò làm ra bức tranh này (?), vì tri thức và sự đối chứng về nguồn tư liệu có hạn, nên không thể tuyệt đối hóa nghiên cứu về niên đại hoặc nội dung lai lịch của tranh. Qua nội dung biểu đạt, khắc họa các hoạt cảnh theo một chiều (xem từ phải qua trái). Bức tranh như trải ra một thế giới Thần linh trong Đạo giào từ cao xuống thấp, chính đến phụ, gần tới xa… được tái tạo lại qua nét khắc mộc mạc cộng hưởng tới một tư duy đậm tính tôm giáo khiến cho hệ Thần Đạo giáo trong tranh được thăng hoa một cách trực tiếp. Hình thể trong tranh được khắc theo cụm, có hô ứng thừa tiếp Long đầu (đầu rồng) ở phần đầu tranh gắn với Hổ vĩ (đuôi hổ) cuối tranh. Đầu tiên là Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Nguyệt phủ (phủ trăng) Nhật cung (cung trời) cùng Tả sư (Sư trái) và Hữu Thánh (Thánh phải) theo hầu. Tiếp đến là Tam thanh gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh là hệ thần tối cao trong Đạo giáo. Thừa tiếp là Bảo tháp (tháp báu) rồi đến hàng Chân nhân Thập chân chân nhân, Thập vương chân nhân (10 vị vương), Thập cực chân nhân. Nữa là Cữu Lão Tiên Đô (Cửu đầu sư tử - sư tử chin đầu), tuần tự đến Ngũ Bộ Lôi Công (năm vị thần sấm tương ứng với ngũ hành). Sau người cầm cờ lệnh là Thanh sư (sư tử xanh), Bạch tượng (voi trắng). Tiếp đến là bộ tứ gồm Huyền thiên trấn vũ, Vi Đà thần tướng, Trương Thiên Sư, Thái Thượng Lão Quân. Sau Cửu tiên (Thượng tiên, Cao tiên, Đại tiên, Huyền tiên, Thiên tiên, Chân tiên, Thần tiên, Linh tiên, Chí tiên) là Long Vương Thái Tử, Sao Đông Nam đẩu, bọn người hầu nhà vàng và sao Nam Cực. Sau Bát tiên (Hán Chung Ly, Lã Đồng tân, Lý Thiết Quài, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cửu, Lam Thái Hòa, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô) là thuyền vàng, thuyền bạc, bọn chấp sự khênh kiệu che dù. Hai bên kim đồng dẫn đường là thuyền Nam quan, sau kiệu nam kiệu nữ là thập sự. Rồng dưới nước lên không đi đầu, hổ trên cạn nối bước theo đuôi. Thần thánh kiêm thảy ba cõi, tạo thành một cảnh rước hoành tráng có một không hai trong mảnh tranh rước người Việt. Bộ tranh Đám rước này, chính là bộ tranh thể hiện số lượng các vị vua Hùng còn thiếu của các đời Hùng Vương thứ I - Kinh Dương Vương đến Hùng Vương thứ IV - Hùng Hoa Vương. Đồn thời cũng xác định Bát Tiên cũng có thể là các vị vua Hùng, do đó nó cần phải được phối hợp xem xét với toàn bộ các bức tranh dân gian khác, trong quan niệm về sự sống và cái chết của Đạo giáo, cũng như phương pháp tu luyện nhằm đạt đến sự trường sinh bất tử. Nội dung này sẽ được trình bày trong Chương IX: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ. Theo bản thuyết minh của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, đặc sứ như đặc khâm sai của vua Quang Trung năm đầu (1788), thì Minh Khiết và Nghi Nhân vốn là anh em sinh đôi, hình dong cũng như giọng nói rất giống nhau, như một người. Có thể so sánh hai anh em giống nhau như truyện Sự tích ông Táo. Nguyên lúc đó ở Tây Hồ (ở Hồ Nam, Trung Quốc hiện nay, không phải Hồ Tây, Hà Nội mới có từ thời Lê Trịnh, có cô con gái của vua Động Đình tên là Nường Vụ Tiên. Cô Vụ Tiên này vốn quen biết Nghi nhân từ trước, vì Nghi Nhân hay đi lại nơi này. Đến khi Minh Khiết gặp cô đó, cô nhầm lẫn tưởng là Nghi Nhân nên hứa hôn với Minh Khiết rước cô về làm vợ. Từ đó hai anh em lánh mặt nhau. Ít lâu sau, Nường Vụ Tiên có mang và sinh ra Lộc Tục. Minh Khiết đâm ra nghi ngờ, sợ vợ nhầm lẫn em với anh. Minh Khiết liền giáng Nường Vụ Tiên xuống là thứ phi. Minh Khiết lấy người con gái Việt ở vùng làng Định Công, nơi ở của Thái Khương Công làm chính thất. Nường Vụ Tiên liền bỏ chồng đưa Lộc Tục lên một ngôi động nay thuộc tỉnh Hòa Bình, về sau động này được gọi là động Bà Tiên bay (Tiên phi động). Bà đi tu đạo Bà La Môn (Trích từ Việt Nam và cội nguồn trăm họ, tác giả Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, 2001, trang 68). Câu chuyện này sẽ được minh định trong Chương IV: TAM DƯƠNG KHAI THÁI. Như vậy, qua chuỗi các sự kiện lịch sử được hệ thống hóa từ những bức tranh thờ dân gian Hàng Trống, Đông Hồ, tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, cùng phối hợp các truyền thuyết dân gian, sử dụng các phương pháp cổ Đông phương như phong thủy, thiên văn địa lý, được so sánh, đối chiếu cùng với nội dung của các bản gia phả các dòng họ, chúng ta đã xác định được lịch sử của các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần và của các vị Vua Hùng cùng với số lượng đời vua trong mỗi chi, tương ứng lịch sử của các thánh nhân trong những tôn giáo hiện thời như Đạo Mẫu, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn giáo, thờ tự dân gian và của các triều đại xưa. Tuy nhiên, những dữ liệu đã được xác định trên vẫn chưa thực sự đầy đủ, chúng sẽ được bổ sung và chứng minh cụ thể trong những chương sách tiếp theo. Chúng ta hãy cùng xem lại những vần thơ tâm linh do Phật Bà Quan Âm giáng thơ trong cuốn Kinh Đạo Nam, phù hợp với lịch sử và truyền thuyết dân gian: Chùa Hương tu được chín năm trời, Quả phúc vo nên đã vẹn mười. Ngàn mắt ngàn tay thân Quán Thế, Muôn Thiên muôn đạo pháp Như Lai. Nam mô thường niệm kinh nhân quả, Bồ Tát nào ưa giống họa thai. Nước biếc non xanh ghi dấu cũ, Cành dương tẩy sạch bụi trần ai. Như đã trình bày hệ thống biểu tượng tương ứng các cung trong Hậu Thiên Bát quái, chim phượng hoàng - biểu tượng của phương Nam, là hình ảnh của bà Hương Vân Cái Bồ Tát tức Phật Bà Quan Âm, Thánh Mẫu Thượng Thiên, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng: khi chim phượng hoàng xuất hiện thì “Thiên hạ thái bình”, không biết chắc chắn có đúng không nhưng trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, có bức tranh Thiên hạ thái bình với hình ảnh chim phương hoàng đang múa: Thiên hạ thái bình Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Như vậy, trải qua hàng thiên niên kỷ, một phần của lịch sử cổ đại của nước Việt, cũng như của các tôn giáo đã được khám phá thông qua một học thuyết cổ xưa - học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Không còn nghi ngờ gì nữa, những bí ẩn vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu được khai quật, phải chăng nó sẽ phù hợp với những lời tiên tri từ cổ chí kim nổi tiếng thế giới về một Thánh nhân ra đời và học thuyết cổ xưa sẽ quay trở về với nhân loại? Nhưng rõ ràng, một cuộc chuyển thế có lẽ đã bắt đầu đối với nước Việt, một mùa xuân đã tới, con “Rồng Việt” đã thức giấc ngủ đông miên, phá tung đất và bay lên trên bầu trời xanh thẳm. Xuân đất Việt Sơn khắc (1991-1994), tác giả Phi Trọng Tuấn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Khi hồn thiêng sông núi trỗi dậy trong mỗi tâm thức Việt, chính là khi dân khí đã chấn hưng“Bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc dân ta, bao giờ đập tan gông cùm xiềng xích vô hình trói buộc tự do”. Vậy phải đánh thức, phải lay động ý thức kiêu hãnh về truyền thống dân tộc, cho tư duy tự do bừng tỉnh thức. Tư duy đã giác ngộ sẽ chắp cánh cho hành động, tức là tìm về với sức mạnh truyền thống cội nguồn, tiếp nhận nguồn lực “thần thoại”: “Đi nói với anh em, đòi cho quê hương thanh bình, dựng xây tương lai Tiên Rồng, đi cho thấy quê hương” (trích bài viết Trịnh Công Sơn với Quê hương thần thoại, tác giả Nguyễn Hoàn). Ngay sau niềm hạnh phúc to lớn này khi khám phá ra cội nguồn dân tộc Việt, chúng ta hãy cùng tiếp tục phân tích các dữ kiện khác, nhằm làm sáng tỏ lịch sử hơn nữa qua Chương IV: TAM DƯƠNG KHAI THÁI. *** Chương V MA TƯỚC DIỄN NGHĨA Làm trai biết đánh Tổ Tôm, Uống chè Mạn Hảo, xem Nôm Thúy Kiều. Vè dân gian. Lịch sử trò chơi xa xưa nhất được ghi lại trong Sử ký của Tư Mã Thiên: “Lâm tri giàu có, cư dân không ai không thổi kèn, gẩy đàn sắt, gõ phách, chọi gà, đua chó, chơi lục bác, đạp cúc…”. Thuyết văn nói: “trò chơi lục bác gồm sáu thẻ mười hai quân, Ô Tào ngày xưa chế ra lục bác”, Ô Tào là bề tôi của vua Kiệt nhà Hạ, chứng tỏ rằng trò chơi này đã có mặt từ rất sớm, liên quan đến trò chơi Lục bác còn có trò chơi rất lâu đời là cờ vây. Trong Luận ngữ, Dương Hóa viết: “Bão thực chung nhật, vô sở tâm, nan hĩ tai! Bất hữu bác dịch hồ? Vi chi ,tắc hiền hồ dĩ” nghĩa là: “Cơm no suốt ngày, không lo điều gì, khó chịu thay! Không chơi lục bác, cờ vây à? Chơi đi, còn hay hơn”. Hai chữ “bác dịch” trong đoạn này là chỉ lục bác và cờ vây. Luận ngữ viết thời Xuân Thu Chiến Quốc đã gọi chung là bác dịch, chứng tỏ cờ vây cũng đã có nguồn gốc từ rất lâu đời. Bộ cờ Lục bác và xúc sắc 18 mặt Mộ số 3 tại Mawangdui, Tây Hán, Bảo tàng Royal Ontario file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chơi cờ Lục bác (Liubo), đá khắc vách hầm mộ thởi Đông Hán, Sichuan Zhonggui Gudaishi Cankao Tulu: Qian - Han Shiqi (Shanghai, 1990) trang 233 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Trò chơi cờ vây, cờ tướng, mạt chược… đều thuộc hình thức trò chơi trí óc. Hầu hết, các trò chơi đều cần sự náo nhiệt, một số trò còn cần sự kích động nhưng riêng các trò chơi trí óc, ngược lại cần sự yên tĩnh để phát huy cao độ năng lực tư duy, phân tích của người chơi. Bài Mạt chược là trò chơi thích thú nhất, cách đánh đơn giản, dễ quen nhưng sự biến hóa rất đa dạng và phức tạp do số tượng quân bài nhiều, tổ hợp sắp xếp do từng người chơi quyết định. Vì thế, Mạt chược đã trở thành hình thức trò chơi hấp dẫn nhất, bất kể từ hoàng đế tối cao hay các trọng thần nắm đại quyền trong tay đều thích thú Mạt chược, còn tới như người bình dân áo vải, tục tử nông phu thích chơi lại càng không kể hết. Có bài thơ vô danh về thú chơi Mạt chược do tác giả Hương Thủy ghi lại trong báo Văn Nghệ Tiền Phong, số Tết Nguyên Đán, 1983: Buổi xuân nhàn, trà sau rượu trước, Vui anh em, Ma tước lại bày ra. Ai khéo điểm tô trong trắng ngọc ngà, Cho quân tử hết xoa rồi lại mó. Xuân, Hạ, Thu, Đông còn ấp ủ, Mai, Lan, Cúc, Trúc đã kề vai. Ai nhám hơn ai mà ai nhẵn hơn ai, Kìa Bạch bản với Phát sồi nom cho kỹ. Chỉ mó trúng, tôi cười đắc ý, Bị trên tay, mặt xị đồ trâu. Cuộc chưa tàn ai đã chắc đâu, Đến gió Bắc mới lên râu ăn với Phỗng. Mười ba cô như thơ như mộng, Hoa dựng lên, Hoa cắm cửa mình, Chị em Xuyên khéo thành Phình… Ma Tước còn là tên một cỗ bài người Việt thường gọi là Mạt chược nhưng người Trung Hoa thường gọi là Ma tướng bài hý hay Mã tướng bài hý. Trong cỗ bài, hàng thứ ba là hàng Sách, tượng trưng bằng những thanh tre ghi chữ thời cổ đại, duy có quân Nhất Sách lại vẻ hình con chim sẻ. Ngày xưa, vì đánh bài loại này khi xoa bài nó kêu lách cách như tiếng rúc rích của bầy chim sẻ đồng đang ăn thóc và tiếng thẻ tre va chạm vào nhau khi tháo dây và tra đọc sách cổ, cũng như âm thanh lách cách của các đồng xu, cho nên tên của trò chơi gọi Mã Tước là chính xác nhất. Ngoài ra, tác giả Tam Quốc Chí còn kết hợp lấy theo điển cố thời Tam quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một tòa lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (chim sẻ đồng), và dự định hễ đánh thắng Đông Ngô thì sẽ bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều là vợ của Tôn sách và Chu Du, đem về đấy để vui thú lúc tuổi già. Nhà thơ Đỗ Mục đời nhà Đường có bài thơ Xích Bích, rằng: Cát vùi kích gẫy, sắt chửa tiêu, Mài giũa tìm ra dấu cựu triều. Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn, Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều. Ngày nay, người ta vẫn không biết rõ cỗ bài Mạt chược có nguồn gốc từ đâu, xuất hiện khi nào và được cấu trúc ra sao, có giả thiết cho rằng Mạt Chược do một nhà quý tộc ở Thượng Hải sáng tác khoảng những năm 1850, có người nói rằng khoảng từ 1870-1875 và khởi đầu nó là những con bài làm bằng giấy, không hiểu từ khi nào nó đã trở thành những con bài bằng chất liệu cứng như ngày nay. Trước khi thẩm định các giả thiết lịch sử nêu trên, chúng ta cũng cần nên xem lại sự đầy đủ của cấu trúc cỗ bài và về cách chơi Mạt chược. Bàn chơi là một cái bàn đặc dụng, hình vuông, mỗi cạnh dài hơn 90cm có gờ cao khoảng 3cm, được bọc da; mặt bàn cũng được lót bằng một loại chất liệu cứng, trơn láng, màu tối thường là màu xanh lam hoặc xanh lục để quân bài màu trắng hoặc ngà nổi bật; dưới mặt bàn có hộc ngăn kéo phía dưới để người chơi có thể cất giữ tiền bạc và tư trang. Như vậy, từ cấu trúc bàn chơi cố định thì số lượng người chơi tiêu chuẩn là bốn người. Bộ Mạt chược Tham khảo trên Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Bộ bài Mạt chược phổ biến hiện nay 144 quân, nghĩa là chỉ có 2 bộ Hoa, trong khi đó người Việt đã chơi cỗ bài có 4 bộ Hoa và 2 bộ Khung, tổng số quân bài lên tới 160. Ở đây chúng ta xem xét sự đầy đủ của hai bộ bài căn bản 144 quân và 160 quân. Bộ bài 144 quân được chia ra như sau: Tài phao gồm các quân đặc biệt danh dự, gồm 7 loại gồm Trung, Phát, Bạch, Đông, Nam, Tây, Bắc, mỗi loại 4 con, tổng cộng 28 con: Trung, Phát, Bạch gọi là Rồng: Hồng Trung (chữ Trung màu đỏ), Lục Phát (chữ Phát màu xanh lá), Bạch Bản (chỉ là một hình chữ nhật rỗng viền xanh dương), mỗi loại Rồng có 4 con, tổng cộng 12 con. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Đông, Nam, Tây, Bắc gọi là Gió. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Bộ Hoa gồm 4 bộ Hoa đỏ và 4 bộ Hoa xanh, tổng cộng 32 con. Bộ Hoa xanh gồm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Bộ Hoa đỏ gồm: Mai, Lan, Cúc, Trúc. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image030.jpg Bộ Nạc gồm 3 loại Văn, Vạn, Sách: Văn (còn gọi là Đồng): biểu thị bằng những vòng tròn đồng xu nhỏ cũng từ 1 tới 9; có 4 Văn tổng cộng 36 con. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Vạn: tất cả con bài này đều màu đỏ, viết số từ 1 tới 9 và thêm một chữ Vạn bên dưới; Có 4 Vạn, tổng cộng 36 con. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Sách: biểu thị bằng những thẻ trúc màu xanh lam, từ 1 tới 9, đặc biệt quân nhất sách biểu thị bằng con chim sẻ (Mạc tước); có 4 Sách, tổng cộng 36 con. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Người chơi tinh ý sẽ nhận thấy hai bộ Hoa xanh và Hoa đỏ không giúp gì vào chuyện Ù, hay Tới, ngoài chuyện thêm được một Phán khi gặp cây Hoa đúng cửa, hay hai Phán khi có nguyên bộ Hoa. Do đó nếu bỏ hai bộ Hoa này ra ngoài, chúng ta vẫn đánh Mạt chược được như thường, và đây chính là lối đánh cổ điển chỉ gồm có 136 quân gồm ba hàng Vạn, Văn, Sách và hàng Danh dự với Gió và Rồng. Sách: biểu thị bằng những thẻ trúc màu xanh lam, từ 1 tới 9, đặc biệt quân nhất sách biểu thị bằng con chim sẻ (Mạc tước); có 4 Sách, tổng cộng 36 con. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg [ Người chơi tinh ý sẽ nhận thấy hai bộ Hoa xanh và Hoa đỏ không giúp gì vào chuyện Ù, hay Tới, ngoài chuyện thêm được một Phán khi gặp cây Hoa đúng cửa, hay hai Phán khi có nguyên bộ Hoa. Do đó nếu bỏ hai bộ Hoa này ra ngoài, chúng ta vẫn đánh Mạt chược được như thường, và đây chính là lối đánh cổ điển chỉ gồm có 136 quân gồm ba hàng Vạn, Văn, Sách và hàng Danh dự với Gió và Rồng. Đối với Quân Văn, chữ đọc âm Hán Việt là Đồng, còn đọc phiên âm Quảng Đông là Thùng, quân bài biểu thị bằng những vòng tròn nhỏ tượng trưng cho các tiền đồng cổ. Ngoài ra, bộ Tài phao gồm 7 quân danh dự nếu dịch là nghĩa tiếng Việt thì không hiểu nghĩa gì cả, nếu kết hợp với bộ Nạc (Thịt) và bộ Khung (Xương) thì ta thấy Tài phao sẽ tương ứng là bộ Đầu, trong đó bộ Khung chỉ có trong Mạt chược Việt Nam. Tham khảo sơ đồ từ Internet: file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Chơi Mạt chược tiêu chuẩn bốn người thành một sòng, luân phiên làm Cái. Nhà Cái gieo 3 con xúc sắc để có số đếm xác định người rút bài đầu tiên, sau đó mọi người bắt đầu rút và đánh bài. Quy tắc chủ yếu của Mạt chược là nhanh chóng tổ hợp bài trong tay mình theo kiểu quy định để có thể Ù. Trong đó cách tổ hợp bài cơ bản nhất có hai loại, một loại gọi là Khảm, gồm ba con bài cùng màu cùng số tạo thành, một loại khác gọi là Thành gồm ba con bài cùng màu liền số tạo thành. Chỉ cần tổ hợp bài trong tay mình thành Khảm hoặc Thành thì có thể rải bài ra gọi là Ù như vậy là thắng. Ngoài tổ hợp bài cơ bản nhất ra, trong bài Mạt chược còn có một số tổ hợp kiểu bài lớn, loại bài lớn này sau khi Ù phải tăng gấp đôi, gọi là Phiên. Cấp tổ hợp kiểu bài càng cao thì bài càng lớn, Phiên cũng càng nhiều. Nếu một tay bài toàn là một Môn, gọi là Xanh một màu, một tay bài toàn là Khảm gọi là Đối đới hoa, ba loại Trung, Phát, Bạch trong tay bài toàn bộ thành Khảm gọi là Tam nguyên hội, mỗi tổ hợp bài đều có Yêu (một hoặc chín) thì gọi là Toàn yêu. Các kiểu bài lớn này sau khi thắng đều được tăng mấy lần, cũng tức là lật mấy lần Phiên. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Chiều đánh bài là chiều ngược kim đồng hồ theo thứ tự Đông, Nam, Tây, Bắc ngược với chiều lấy bài hay đổi bài khi dựng Hoa, hay Khung, hay Coong. Chiều ngược kim đồng hồ là chiều trở về nguồn cội nguyên thủy của vạn vật hay còn gọi “sinh ký tử quy” giống như mặt trống đồng Đông Sơn, còn chiều kim đồng hồ là chiều vận động phát triển của vạn vật theo nguyên lý Hà Đồ phối Hậu Thiên Bát quái của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Một Hội chơi gồm bốn gió Đông, Nam, Tây, Bắc và hết một vòng là hết một Gió. Chiều lấy bài Chiều chơi bài Mặt trống đồng Ngọc Lũ Đông Sơn, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Nếu người làm Cái ù thì lại tiếp tục làm Cái nữa gọi Thượng trương, nếu không thì người kế tiếp làm Cái. Theo thứ tự, người làm Cái cửa Đông hay cửa 1, rồi đến cửa Nam (cửa 2), rồi đến cửa Tây (cửa 3), rồi đến cửa Bắc (cửa 4), trong một Gió mà không ai Thượng trương thì chỉ có 4 ván. Như vậy, một Hội trong ván bài Mạt chược có ít nhất là 16 bàn, thông thường nhiều hơn và người chơi nào cũng có cơ hội làm Cái trong mỗi Gió. Mọi người xoa quân bài đã úp sấp cho quân được trải đều, rồi mỗi người xếp 160/4=40 quân thành 20 đôi, bày ngang trước mặt. Nhà Cái bao giờ cũng tính là cửa Đông, gieo súc sắc để biết lấy bài từ chỗ nào, rồi lấy theo thứ tự từ nhà Cái tới nhà Con mỗi người 2 đôi, rồi 2 đôi, rồi lại 2 đôi,… rồi 1 quân, tất cả là 13 quân. Nhà Cái phải lấy dư 1 quân để đánh ra trước, nên thay vì lấy 1 quân cuối cùng thì lấy luôn 2 quân liền nên gọi là nhảy cóc. Sau khi lấy bài rồi thì chồng bài còn lại sẽ có hai đầu, đầu bên tay mặt để bốc bài trường hợp bình thường, đầu phía bên kia hay tay trái để bốc bài khi có Hoa hay Khung dựng lên. Lấy bài hay bắt bài mỗi người 13 quân, cửa Cái 14 quân và sẽ đánh ra 1 quân đầu tiên. Khi Tới hay Ù thì sẽ có 14 quân. 14 quân bài khi Tới được chia ra là 4 phu, mỗi Phu 3 quân và 1 cặp Mắt; có 2 loại phu là Phu ngang và Phu dọc, dù ngang hay dọc tất cả các Phu đều phải cùng một loại, một hàng. Thí dụ Sách ăn theo Sách, Đồng theo Đồng, Vạn theo Vạn, Tài phao theo Tài phao. Phu ngang là 3 con giống nhau, nếu có 2 con mà người khác đánh ra bất kỳ từ cửa nào cũng có quyền ăn, khi đó phải xướng lên Phỗng hoặc Đôi, Phu dọc là theo thứ tự, thí dụ 234, 345… và chỉ được ăn khi người trên đánh xuống, khi tới thì bất kỳ cửa nào đánh cũng được. Tất cả Tài phao đều là Phu ngang. Cửa Cái, sau khi bắt bài nếu có Hoa hoặc Khung thì Dựng, trường hợp chỉ có 1 Hoa có quyền đánh hoặc Dựng, nhưng từ 2 Hoa bắt buộc phải Dựng. Hoa đúng cửa thì được tính Phán và không được đánh Khung nữa, còn nếu không có Hoa cửa vẫn được quyền đánh Khung (nhiều nơi không cho). Dựng xuống bao nhiêu Hoa hoặc Khung thì được bắt lại bấy nhiêu quân bài ở chồng ngược lại gọi là Đầu Coong (Chiếu); nếu đủ 14 con bài mà tròn, nhà cái sẽ Ù gọi là Thiên ù. Sau khi cả làng đã lấy Hoa xong thì nhà cái sẽ đánh ra 1 con bài rác, người kế tiếp nếu ăn không được và không bị ai Phỗng (lấy vào hay ăn bài) thì sẽ được bắt 1 con vào bài từ chồng bài thuận, và sau đó sẽ phải đánh đi 1 con. Cứ đánh và bắt bài như vậy cho tới khi bài tròn, nghĩa là khi đủ 4 Phu và 1 Mắt thì được Ù. Nếu bắt lấy mà Ù thì gọi là Ù cái và cả làng phải chung Cái, còn nếu người khác đánh cho Ù thì ai đánh phải chung Cái, 2 người kia sẽ chung Con. Thông thường chung Cái sẽ gấp đôi chung Con (không kể điểm thưởng), vì thế tránh chung Cái cũng là một cách đánh để đỡ phải thua nhiều, và đây là một nghệ thuật cũng như chiến thuật căn bản của người chơi Mạt chược. Mạt chược hấp dẫn người chơi hơn các môn bài khác vì nó có tính toán, sắp đặt. Cũng là một ván bài đó, người chơi giỏi sẽ tạo nên ván bài lớn, nghĩa là tới nhiều điểm, ở đây gọi là Phán. Mốc quan trọng khi chơi là làm sao để “tới Mủn” nghĩa là tới 6 Phán và cứ mỗi bội số của 6 Phán là thêm 1 Mủn. Mỗi ván bài khi tới sẽ có một tên gọi tuỳ theo kết cục của 4 Phu, và cũng từ đó người ta sẽ tính điểm cho ván bài tới và còn nhiều cách tính bài khác nữa. Trong nền văn hóa Việt còn lưu giữ cách chơi bộ bài Mạt chược 160 quân, nhiều hơn bộ bài Mạt chược Trung Quốc 16 quân, làm tăng khả năng sắp xếp các tổ hợp quân bài, cho nên cuộc chơi sẽ Ù nhanh và nhiều Phán hơn bộ bài Trung Quốc 144 quân. Trong bộ bài Việt 160 quân, trước đây người ta đã thêm vào 16 quân nữa bao gồm hai bộ Hoa Vua, Hoa Hậu và 8 quân đặc biệt khác gọi là Khung. Bộ Hoa và Khung bổ sung Mạt chược 160 quân Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Như trong hình trên, 16 quân thêm vào gồm: Bộ Tứ Hoàng (vua) đánh số từ 1 tới 4 và bên dưới là chữ Hoàng, cũng có tác dụng như hai bộ Hoa xanh và Hoa đỏ; Bộ Tứ Hậu (hoàng hậu) đánh số từ 1 tới 4 và bên dưới là chữ Hậu, cũng có tác dụng như hai bộ Hoa xanh và Hoa đỏ. Bộ Khung xanh gồm 4 quân: Quân Tổng, có thể thay thế tất cả các quân thuộc hàng Vạn, Văn, Sách, Gió, Rồng và các loại Hoa; Quân Thùng thay thế bất kỳ quân Văn; Quân Sọt thay thế bất kỳ quân Sách; Quân Màn thay thế bất kỳ quân Vạn. Bộ Khung đỏ gồm 4 quân: Quân Hợp có thể thay thế các quân thuộc các hàng Sách, Vạn, Văn. Quân Hỷ thay thế bất kỳ quân Gió Đông, Nam, Tây, Bắc. Quân Nguyên thay thế bất kỳ quân Rồng Trung, Phát, Bạch; Quân Đại thay thế cho Tài phao. Khi thêm 2 bộ Hoa và 2 bộ Khung kể trên, việc tạo một ván bài lớn rất dễ dàng so với bộ bài 144 quân, do đó, quy tắc tính Phán và điểm thường được sắp xếp lại với sự đồng thuận của người chơi về quy định cho từng cách Ù. Mặc dù vậy, chúng ta có thể thấy việc thêm 16 quân bài gồm 2 bộ Hoa Vua và Hoa Hoàng Hậu và 2 bộ Khung là không hợp lý về mặt tên gọi và cấu trúc của nó. Từ nhận định bí mật các quân bài nằm trong nền mỹ thuật cổ truyền Việt Nam do hình vẽ các quân bài Hoa xanh và Hoa đỏ là các bộ tranh tứ bình trong dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống. Bộ tranh Tứ bình gồm bốn loại hoa đào, hồng, cúc, vạn thọ được lấy làm biểu tượng bốn mùa, được trưng bày với những kiểu bình sành trang trí mỹ thuật dân gian đặt nơi thư phòng hay chỗ tiếp đón bạn bè. Mùa xuân với màu hoa đào đỏ thắm đầy sức sống; mùa hè với những búp sen thanh cao, trong trắng; mùa thu với màu vàng của hoa cúc nở, đua sắc cùng với bướm ong, “Cúc nguyện hàn sương” nghĩa là người cao sĩ giữ tiết tháo không ngại phong sương hàn thử; mùa đông sẽ cùng với những bông hoa vạn thọ nở tròn viên mãn, tượng trưng cho sự trường tồn, bất diệt, mang cả ý niệm thành kính thiêng liêng dâng cúng tổ tiên. Trời xuân mai nở sắc vàng sắc trắng, diễn tả ý nghĩa của một cuộc sống thanh bạch, trong sáng. Hoa mai tượng trưng cho cái “cũ” nhưng lại trở thành “mới”, biểu tượng sự tái sinh, dân gian thường nói “hoa mai nở hai lần” qua câu chuyện thơ Nôm Nhị độ mai đề cập trong truyện Tùy Đường diễn nghĩa. Hoa mai ngày tết là hình ảnh của những cộng đồng dân tộc miền xuôi, còn hoa đào ngày tết là hình ảnh xuân sang của những cộng đồng dân tộc miền ngược, tương ứng dòng dõi Âu Lạc của nước Văn Lang cổ đại. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một nhành mai. (Mãn Giác Thiền sư, tức sư Lý Trường (1052-1090), trong bài Xuân bằng cáo bệnh). Đĩa Mai - Hạc Đồ sứ ký kiểu, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Nghêu ngao vui thú yên hà, Mai là bạn cũ, hạc là người quen. Nguyễn Du. Hoa đào là hình ảnh lộng lẫy nhất mùa xuân, cánh đào nay trong gió như những con mưa hồng từ cõi bồng lai tiên cảnh, có lẽ chỉ hai chàng thi sĩ Đào Nguyên ngơ ngác đi lạc vào chốn này. Hình ảnh hoa đào như rực rỡ hơn cùng hình ảnh hoài niệm khó phai của nàng thiếu nữ diễm lệ đứng e ấp bên cánh cổng sơn trang: Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu xuân phong. Đề đô thành nam trang Thôi Hộ (618-907, triều Đường, Trung Quốc) Tích Đào Nguyên Tranh màu Tô Thức tại Di Hòa Viên, Bắc Kinh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Mùa hạ nóng nực, lúc này hoa sen, hoa súng nở rộ, những bông vươn cao lên khõi mặt nước một cách uy nghi, như làm cho không gian thoáng đãng và mát mẻ hơn, hoa sen hồng là biểu tượng của Phật Bà Quan Âm. Về màu sắc, hoa sen có nhiều loại: sen hồng, sen trắng, sen vàng; hồng thì phơn phớt, trắng thì tinh khôi còn vàng rực rỡ, và dù cho là loại hoa sen nào thì hương sen lúc nào tỏa ra thơm ngát. Trong một mùa hè rực lửa, người con trai con gái tỏ bày tình yêu nồng cháy, không thể thiếu hình ảnh hoa sen đang nở dười hồ nước trong xanh, tươi mát: Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen, Em được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà. Mùa hạ hoa hồng đua khoe vẻ đẹp kiêu sa, nhưng cũng đầy gai nhọn như những thử thách của tình yêu, hoa hồng phô bày vẻ rực rỡ tượng trưng cho tình yêu nồng thắm của tuổi trẻ: Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch, Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ, Cúc ngạo thu tình hương vạn hộc, Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi. Mùa thu là mùa hoa cúc vàng, hương thơm hoa cúc được ví như một tâm hồn tự do, phóng khoáng của người ẩn sĩ sống ẩn dật, xa lánh danh lợi bon chen. Hoa cúc là hình ảnh của Tết Trùng Dương - Tết người già, lên núi ngắm cảnh thiên nhiên, đánh cờ, uống rượu hoa cúc, thật là tao nhã: Sầu thu ý cúc man man, Hoàng hoa pha sắc cho vàng lá bay. Thơ không túy nguyệt mà say, Giữa đêm Nguyên Lượng* cúc ngầy ngật hương. Hồn xưa tỉnh giấc hoàng lương, Lặng nhìn sương khói phủ vườn tâm giao. Gió đong đưa lá xạc xào, Tiếng thu đồng vọng cúc xao xuyến tình... Cúc Đảm Ngạo Hàn Sương, Hải Đà, *Nguyên Lượng: tên tự của thi sĩ Đào Tiềm. Mùa Đông với những bông hoa mẫu đơn quý phái, hoa mẫu đơn luôn đi cùng với chim công xòe múa, cả hai như cùng nhau bộc lỗ nét đẹp kiêu sa nhất của tự nhiên. Lễ hội xem “hoa mẫu đơn” ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh đã trở nên hấp dẫn và lý thú cho tất cả mọi người đến thưởng thức và lễ Phật. Cao quý đồ quan Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam<br clear="all"> file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Núi Phật Tích còn gọi là núi Lạn Kha, “Lạn” có nghĩa là mục, “Kha” có nghĩa là cái rìu, Lạn Kha là cái rìu mục. Sự tích kể rằng: ngày xưa, vào đời Tấn (265-420), một tiều phu tên Vương Chất, lên núi Phật Tích chặt củi. Đến đỉnh núi, Chất thấy có hai vị tiên đang đánh cờ, bèn đứng tựa vào cán rìu để xem. Đến khi xem xong ván cờ, quay đầu nhìn lại, thì ôi thôi, cán rìu đã mục từ khi nào rồi. Vì vậy, núi Phật Tích còn được gọi là núi Lạn Kha. Ngày nay, trên đỉnh núi Phật Tích có một tảng đá phẳng, tương truyền đó là bàn cờ tiên. Linh thú đá chùa Phật tích Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đại danh lam chùa Phật Tích còn nổi tiếng trong dân gian với lễ hội “Khán hoa mẫu đơn” tức “Hội xem hoa mẫu đơn” với thiên tình sử Từ Thức gặp tiên. Huyền thoại kể rằng: xưa kia, vùng núi và vườn chùa Phật Tích trồng bạt ngàn hoa mẫu đơn, cứ mỗi năm xuân về hoa mẫu đơn nở rộ đỏ rực cả một góc trời. Chùa Phật Tích mở hội đầu năm vào mồng 4 tháng Giêng để đón năm mới và lễ Phật. Từ khắp mọi nơi, người người đổ về đây trảy hội xuân, ngắm hoa và vãn cảnh chùa. Có một năm, ở trên trời, nàng tiên Giáng Hương nhìn xuống thấy cảnh trần gian tuyệt đẹp, đã xin giáng trần dự hội chùa, nhưng vô tình nàng Giáng Hương đánh gãy một cành hoa mẫu đơn giữa cửa chùa nên bị chú tiểu giữ lại. Chàng Từ Thức bèn cởi áo khoác xin chuộc tội cho nàng, cảm động với nghĩa cử cao đẹp của chàng trai hào hoa phong nhã, Giáng Hương đã ngỏ lời hò hẹn và mời chàng về chốn “bồng lai” xin kết duyên vợ chồng. Từ đó câu chuyện tình thơ mộng Từ Thức gặp tiên đã sống mãi với lễ hội “Khán hoa mẫu đơn”. Theo thư tịch cổ và truyền thuyết, chùa Phật Tích tên chữ là “Vạn Phúc Tự” là nơi Phật giáo từ Ấn Độ đặt bước chân đầu tiên truyền giáo vào nước ta ngay từ buổi đầu Công nguyên. Thư tịch cổ còn cho biết: Vào thời nhà Đường, vua Đường đã cho người mang ba hòm xá lỵ của Phật đến đất Giao Châu để xây bảo tháp, trong đó có một hòm ở chùa Phật Tích. Đến thời vua Lý Thánh Tông, chùa Phật Tích được xây dựng thành đại danh lam, còn cho xây một cây tháp cao 10 trượng, trong chứa tượng Phật mình vàng cao 6 xích, đứng từ kinh thành Thăng Long nhìn thấy được. Dấu tích chân cây tháp cổ còn để lại có kích thước rất lớn 9.20m x 9.20m, với những viên gạch vồ ghi rõ niên đại xây dựng “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” tức vào đời vua thứ 3 nhà Lý niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 4 (1057). Mùa đông với những bông hoa vạn thọ màu vàng cam rực lên sức sống tràn đầy, viên mãn, mang mùi hương thanh tao đến lạ kỳ, hoa vạn thọ rất lâu tàn, là biểu tượng cho sự hoàn thành một vòng quay bốn mùa của đất trời. Hoa vạn thọ gắn chặt với câu chuyện lòng hiếu thảo của một chú bé với người cha già, khi dùng trí thông minh của mình giúp ông tăng thêm tuổi thọ. Hoa vạn thọ cùng với hoa sen là loại hoa dùng để cúng dường lên chư Phật, Bồ Tát, biểu đạt cho sự trường tồn của Phật pháp. Trong các nền văn hóa phương Đông, khi chúc thọ, người ta thường dùng thành ngữ “Vạn thọ vô cương” cũng mang ý nghĩa trên. Mùa đông còn là hình ảnh của cây tùng, biểu tượng của Đạo giáo và luôn đi cùng với con chim hạc trắng, hình ảnh phiêu bồng của cõi tiên. Mùa đông tuyết phủ khắp nơi, rơi đọng trên cành tùng như những cánh tay ngọc ngà, tùng tượng trưng cho bậc trượng phu, ngạo nghễ coi khinh giá rét. Tuyết đông làm cho dáng tùng càng như vươn cao, kiêu hãnh: Kiếp sau xin chẳng làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Nguyễn Công Trứ. Tranh Tứ quý có nhiều dị bản khác nhau, mỗi tác giả lại thay đổi về biểu tượng cho bốn mùa, tuy nhiên, tranh dân gian Đông Hồ và hàng Trống phải thống nhất về mặt cấu trúc, thông thường sẽ không có những bài thơ trên tranh bởi hình ảnh đã biểu đạt được ý tưởng, và chúng phải được xem xét trong bối cảnh chung với các biểu tượng khác như hoa vạn thọ, cây trúc, cây tre, hoa hồng… của nền văn hóa phương Nam. Tứ bình Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Bộ tranh Tứ quý nói về các loài chim với bốn loại cây đang nở hoa, ra quả khác nhau. Mùa xuân với những quả đào chín mọng cùng những cánh yến chao lượn. Quả đào được ví như những quả đào tiên, là thần dược của sự trường sinh bất tử. Ngọc Hoàng, vị thần cai quản thiên đình, có vợ tên là Tây Vương Mẫu, bà đã tổ chức thết đãi các vị tiên một bữa tiệc nổi tiếng gọi là “hội bàn đào”. Các vị tiên phải chờ đợi 6.000 năm để có được bữa tiệc sang trọng này, cây đào tiên cần tới 3.000 năm để ra quả chín. Các bức tượng bằng ngà voi họa lại những người tham dự bữa tiệc của Tây Vương Mẫu thường có trên tay ba quả đào. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Mùa hè với những quả mơ dịu ngọt cùng những chú chim trĩ khoe sắc lông. Mơ hay mộng có liên hệ đến một điển tích nổi tiếng trong văn chương Giấc mộng Nam Kha hay “giấc hòe”, để ám chỉ cuộc đời như là mộng ảo, công danh phú quý như giấc chiêm bao. Mùa thu với những quả mận tím rịm lủng lẳng trên cành vui cùng tiếng chim oanh rộn rã, Mùa đông vào lúc những quả bưởi mọng nước bên cạnh chú đại bàng hùng dũng tung cánh. Đại bàng và Tùng Tranh Từ Bi Hồng (1895-1953), Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trên bức tranh Tứ quý, dưới gốc cây còn có những cụm hoa từng mùa, nhưng bộ tranh Tứ bình đã thể hiện rồi, do vậy, về họa pháp không cần thể hiện thêm mà chỉ cần phối cỏ xanh, đá tảng… nhằm thể hiện sự dơn giản, mộc mạc. Tên của các loại quả tứ thời trong bức tranh Tứ quý đã được lấy tên cho các ngôi chợ Phiên ở bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc trong kinh thành Thăng Long, chợ Phiên họp một tháng sáu phiên ứng với độ số của Hà Đồ phối Hậu Thiên Bát quái Lạc Việt. Tứ Quý Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Hai bộ Hoa còn thiếu trong bộ bài Mạt chược sẽ phải là bộ tranh Tứ dân biểu tượng của bốn thú vui non xanh, nước biếc của lữ khách giang hồ “kìa Ngư, nọ Mục, ấy Tiều, này Canh”. Tứ Thú Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Ngư tiều canh mục là 4 thú vui của người ẩn sĩ, gọi là “Tứ thú”: Câu cá, đốn củi rừng, cày ruộng, chăn trâu. Ngư: như ông Khương Thượng - Khương Tử Nha ngồi câu cá ở Bàn thạch, thủy phủ, âm phủ. Tiều: như ông Chung Tử Kỳ đi đốn củi rừng hằng ngày. Canh: như ông Ngu Thuấn đi cày ruộng ở Lịch Sơn: nhân gian, địa. Mục: như ông Sào Phủ chăn trâu ở sông Dịch thủy (Trích Từ Điển Cao Đài, Việt Nam). Hãy cùng thưởng thức ngẫu hứng đối đáp thơ phú, văn chương giữa một tiều phu tên Lý Định và một ngư ông tên Trương Tiên sống bên bờ sông Kinh Hà (ẩn nghĩa là sông Nhị Hà hay sông Hồng) thành Trường An, Thiểm Tây, Trung Quốc (ẩn nghĩa tức Thăng Long thành) trong tiểu thuyết nổi tiếng Tây du ký. Lý Định nói: Nước biếc của anh không bằng non xanh của tôi được. Trương Tiên nói: Non xanh của anh không bằng nước biếc của tôi thì có! Có bài từ “Điệp luyến hoa” làm chứng đây: Thuyền con một lá giữa dòng, Giọng Tây Thi vút bổng trầm vang xa. Lợi danh rửa sạch lòng ta, Cỏ thơm tìm hái, quên lo quên phiền. Vui nhìn cò cốc dập dềnh, Càng vui có vợ con mình kề bên. Đánh giấc ngủ khi sóng êm, Chẳng vinh chẳng nhục chẳng phiền chẳng lo. Lý Định nói: Nước biếc của anh làm sao bằng non xanh của tôi được! Cũng có bài từ “Điệp luyến hoa” làm chứng đây: Hoa thông rải khắp đường ngàn, Tiếng oanh ríu rít như đàn như ca. Xuân về hoa thắm, lá tơ, Kìa kè lại đến, ngày giờ trôi mau. Và nay thu lại bắt đầu, Cúc thơm vàng rực một màu lòng ta. Ơ kìa, đông đến rồi à? Bốn mùa vui thú tự do thanh bình. Người đánh cá nói: Non xanh của anh sao bằng nước biếc của tôi. Nơi đây có bao của ngon vật lạ. Có bài từ “Giá cô thiên” làm chứng đây: Vui miền sông nước kiếm ăn, Thung dung gác mái ta nằm thảnh thơi. Ba ba, cua tía ăn hoài, Tôm hùm, cá chép ta ngồi say sưa. Lúc củ niễng, lúc măng lô. Còn thêm củ ấu sớm trưa thỏa lòng. Nào sen ngó, nào rau cần, Còn bao thứ lạ muốn dùng có ngay. Người kiếm củi nói: Nước biếc của anh không bằng non xanh của tôi được. Ở đây cũng có bao của ngon vật lạ. Có bài từ “Giá cô thiên” làm chứng đây: Sườn non đỉnh núi chênh vênh, Túp lều thấp thoáng nhà mình là đây. Ba ba đâu sánh cáo cầy, Cua tôm sao sánh thịt nai thịt gà. Nay măng trúc, mai thanh trà, Mận, đào, mai, hạnh thật là thơm ngon. Nào lê, nào táo ngát hương, Hoa thơm cỏ lạ núi non thiếu gì. Người đánh cá nói: Non xanh của anh thực sự không thể bằng nước biếc của tôi được. Có một bài từ “Thiên tiên tử” đây: Núp trong một lá thuyền con, Giữa miền khói sóng chẳng phiền chẳng lo. Buông câu thả lưới sớm trưa, Đời đạm bạc vẫn đậm đà tình sâu. Vợ chồng khuya sớm bên nhau, Cùng đàn con nhỏ lau nhau mui thuyền. Được cá đem bán Trường An, Mua luôn cút rựu nhắm trần say sưa. Áo tơi đắp ngắm sông thu, Khò khò đánh giấc chẳng lo chẳng phiền. Vinh hoa phú quý nhân gian, Mặc đời giành giật chẳng thèm bận tâm. Người kiếm củi nói: Nước biếc của anh vẫn không thể bằng non xanh của tôi được. Cũng có bài từ “Thiên tiên tử” đây: Chân non một túp lều tranh, Cúc, mai, tùng, trúc bạn gần bạn xa. Trèo non tìm kiếm củi già, Ai người cần đến thì ta bán chừ. Đem tiền uống rựu say sưa, Be vành bát vại sớm trưa khề khà. Say rồi nằm gốc thông già, Vô tâm ngủ tít sá gì nhục vinh. Người đánh cá nói: Anh Lý ơi, trong núi của anh đâu có thú vị như trên mặt nước của tôi được. Có bài từ “Tây giang nguyệt” làm chứng đây: Hoa liêu rọi ánh trăng tà, Lá lau gió thổi đung đưa xạc xào. Trời xanh, sông nước xanh theo, Muôn sao nhấp nháy trời cao chuyển vần. Cá to sa lưới hàng đàn, Cắn câu cá diếc cả đàn tranh nhau. Mang về nấu rán ngậy sao! Giang hồ cười ngạo ai nào bằng ta? Người kiếm củi nói: Anh Trương ơi, trên mặt nước của anh không thể nào khoan khoái, thú vị như trong núi của tôi được. Cũng có một bài từ “Tây giang nguyệt” làm chứng đây: Đường đầy lá rụng cành khô, Núi đây trúc héo xác xơ úa vàng. Dây leo chằng chịt dọc ngang, Cắt về làm chão, làm quang hơn thừng. Củi du, củi liễu đầy rừng, Cành thông, cành trắc khô cong bạt ngàn. Gánh về phòng tiết đông hàn, Đổi rựu, chuốc thịt uống tràn say sưa. Người đánh cá nói: Trong núi của anh tuy cũng khá đấy, nhưng không thể u nhã bằng nước biếc của tôi được. Có bài từ “Lâm giang tiên” làm chứng đây: Thuyền con đủng đỉnh chiều tà, Đêm khuya gác mái vang xa câu hò. Áo tơi đêm nguyệt thanh kỳ, Chim âu lặng lẽ bay đi bay về. Thanh nhàn vắng vẻ hả hê, Mặt trời đứng bóng “giấc hòe” chưa tan. Tự do tùy ý, tùy tâm, Quan trong triều cũng chẳng bằng được ta. Người kiếm củi nói: Nước biếc của anh tuy u nhã, nhưng non xanh của tôi còn u nhã hơn kia. Cũng có một bài từ “Lâm giang tiên” làm chứng đây: Rừng thu xanh ngắt bốn bề, Dắt rìu gánh củi, chiều về thảnh thơi. Hoa rừng cài tóc hương bay, Vén mây tìm lối, cửa sài trăng lên. Vợ con tíu tít quanh bên, Giường tre gối gỗ, giấc yên tuyệt trần. Táo lê thơm ngát đầy mâm, Rựu vừa nấu thú trần gian nào bằng. Người đánh cá nói: Những điều đó đều thú vị, đều là kế sinh nhai của hai chúng ta, nhưng anh không có được những lúc thanh nhàn khoái trá như tôi được, có bài thơ làm chứng đây: Khi nhàn nhắm hạc bay cao, Cắm thuyền ven bãi, gác chèo nghỉ ngơi. Vợ chồng mang lưới ra phơi, Bảo con xe lại cho dài dây câu. Lòng êm sóng cũng êm theo, Thanh nhàn gió cũng vui reo thanh nhàn. Áo tơi nón lá xênh xang, Còn hơn áo tía đai vàng nhà quan. Người kiếm củi nói: Lúc thanh nhàn của anh không thể khoái trá bằng lúc thanh nhàn của tôi được, cũng có bài thơ làm chứng đây: Ngước trông mây trắng lang thang, Một mình khép cửa thanh nhàn nghỉ ngơi. Dạy cho mấy chữ xong rồi, Khách vào ta lại ngồi chơi ván cờ. Khi vui chống gậy ngâm thơ, Hứng lên đàn dạo tiếng tơ bổng trầm. Áo gai dép cỏ nhẹ thân, Thung dung non nước ai bằng được ta. Trương Tiên nói: Anh Lý Định ạ, hai chúng ta thật là: Tâm đầu ý hợp ngâm nga, Lọ cầu chén ngọc khay ngà làm chi. Có điều từ chương mà ai nấy tự làm thì cũng chẳng hiếm. Chi bằng hai chúng ta thử cùng làm mấy câu thơ liên hoàn xen kẽ nhau nêu cái thứ câu cá, kiếm củi xem sao! Lý Định nói: Lời anh nói chí lý lắm! Mời anh ngâm trước đi nào. Thế rồi Trương Tiên ngâm, và hai người nối tiếp nhau ngâm nga: Thuyền cắm giữa bao la khói sóng, Nhà dựng nơi thăm thẳm rừng sâu. Thú sao nước ngập chân câu, Đẹp sao mây sớm trắng màu sườn non. Cửu Long môn cá tôm tùy rán, Củi núi rừng tùy bán tùy mua. Tuổi già quăng lưới độ thân, Củi kia cũng đủ nuôi mình sống vui. Nằm cửa thuyền ngắm đôi nhạn lượn, Tựa cây rừng nghe tiếng gà gô. Tranh giành chẳng phải phận ta, Thị phi danh lợi dành cho mọi người. Bên bãi vắng lưới phơi như gấm, Hòn đá mài rìu trắng như gương. Một mình câu dưới ánh trăng, Một mình kiếm củi giữa rừng vắng tanh. Cá đổi rựu, vợ chồng chuếnh choáng, Củi bán đi, cạn chén cùng con. Nghêu ngao giữa khoảng mênh mông, Tiếng ca bay vút giữa rừng âm u. Quay quần tán bạn bè chài lưới, Xúm xít vui bằng hữu núi non. Ngày vui cua luộc, tôm rang, Tháng vui vịt rán, gà hầm phong lưu. Rót chén nước vợ mời tình tứ, Gọi ăn cơm tiếng vợ ngọt ngào. Sáng ra khua đẩy mái chèo, Chiều về gánh củi bán rao phố phường. Mưa rơi khoác tơi chùng bắt cá, Gió thổi vung rìu phá cây khô. Trốn đời giả tiếng ngu si, Mai danh ẩn tích mũ ni bịt đầu. Trương Tiên nói: Anh Lý ạ, tôi vừa mạn phép ngâm trước rồi. Bây giờ đến lượt anh ngâm trước đi, để tôi ngâm nối theo nào. Thế rối Lý Định ngâm, và hai người nối tiếp nhau ngâm nga: Kẻ sơn dã ngạo cười trăng gió, Lão ngư ông đây đó giang hồ. Thanh nhàn tùy phận tự do, Thị phi mặc tiếng, âu ca thái bình. Đêm trăng sáng nhà tranh ngon giấc, Trời về chiều nhẹ khoác áo tơi. Quên đời bạn với tùng, mai, Vui lòng bạn với mấy loài cò, giang. Danh với lợi chẳng màng trong dạ, Thị với phi mặc bỏ ngoài tai. Sớm chiều một chén rựu say, Qua ngày ba bữa cơm thời rau dưa. Hai bó củi kiếm thừa tiền gạo, Một cần câu rau cháo cũng xong. Mài rìu dặn trẻ lúc nhàn, Lứa kia vá lại khuyên con cần cù. Mùa xuân đến liễu tơ mừng thấy, Lúc việc nhà lau sậy ngắm xem. Hè về tránh nắng dựng đàn, Tháng sáu tránh nắng lên ngàn vui chơi. Tiết sương giáng, gà lôi đem luộc, Ngày trùng dương, cua béo nấu canh. Đông về đánh giấc ngon lành, Mặt trời đứng bóng thỏa tình say sưa. Chốn rừng núi ngao du tùy ý, Miền sông hồ vui thú tùy tâm. Hái củi là thú nhà tiên, Buông câu cao khiết, thế gian ai bằng. Đường vào ngõ hoa rừng thơm ngát, Nẻo mui thuyền dào dạt sóng xanh. Yên thân đừng mộng tam công, Lòng yên vững quá tòa thành quy mô. Thành mười dặm còn lo then khóa, Chức tam công nhớp nhúa lời tâu. Vui non vui nước thanh cao, Thần minh, trời đất lòng nào quên ơn. Hai người ngâm nga thơ phú, rồi lại cùng nhau làm thơ liên cú xong, đi tới đoạn đường rẽ, vái chào từ biệt nhau. Bộ Khung thứ hai đó là bộ tranh Tố nữ thể hiện vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo của người nghệ sĩ xưa, mỗi cô mỗi vẻ, cô nào cũng xinh đẹp với áo dài, quần lĩnh hoa chanh, vấn tóc đuôi gà, đang trình diễn một bản nhạc dân tộc đằm thắm với cảnh người đánh đàn múa quạt, kẻ thổi sáo đánh xên, trông hết sức nhẹ nhàng, thanh thoát. Tố Nữ Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Bức tranh gợi lại dáng các cô gái vùng quê quan họ Bắc Ninh vào hội xuân, duyên dáng với trang phục áo dài năm than, váy lĩnh đen, tóc rẽ ngôi giữa vấn lên, bỏ đuôi gà sang một bên, chân đi dép cong: Xuống cõi trần gian mấy Tố Nga, Chiều thanh vẻ lịch dễ đôi ba, … Xuân xanh còn mãi nghìn năm nữa, Cốt cách như in nghìn nét hoa. Bộ Khung là những con bài đại diện, có quyền năng thay thế cho những con bài khác, một bộ Khung nhận biết được trong tranh tứ bình thuộc dòng tranh Đông Hồ là Tứ Linh gồm Long, Ly, Quy, Phượng đại diện các chòm sao Nhị thập bát tú vận động trên bầu trời trong thiên văn Đông Phương, còn một bộ Khung nữa chưa thấy thể hiện trong các dòng tranh dân gian này. Tứ Linh Tranh dân gian Đông Hồ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Khung đỏ Long, Lân, Quy, Phượng, thường xuất hiện trong trò chơi múa rối nước “Tứ Linh tụ hội” và Khung xanh là Tổng, Màn, Thùng, Sọt tương ứng với bộ tranh Tứ Khí còn thiếu, chúng ta hãy cùng xem xét lại các mối liên quan với các sự kiện diễn ra trong lịch sử. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 1, 2013 Thời nhà Lý, Trần đã chế tạo Tứ đại pháp khí làm bảo vật của quốc gia đó là chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên và tượng Phật Di Lạc chùa Quỳnh Lâm. An Nam Tứ đại pháp khí là bốn khí vật bằng đồng cực lớn tương truyền được đúc ở thời Lý, là tháp Báo Thiên và chuông Quy Điền ở kinh đô Thăng Long, vạc chùa Phổ Minh ở Nam Định và tượng Phật Di Lạc chùa Quỳnh Lâm ở Quảng Ninh. Dân gian còn nhớ vạc Phổ Minh còn có thể chạy được trên miệng, còn bia chùa Quỳnh Lâm kể rằng pho tượng Phật Di Lạc ở đây cao những 6 trượng (3.1m) đầu tượng chạm nóc điện cao 7 trượng, đứng ở bến đò Triều Đông xa mười dặm (chừng 5km) còn trông thấy rõ. Tòa tháp do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1057 giữa kinh đô Thăng Long, tên tháp là Đại Thắng Tư Thiên, nhưng vì là bộ phận của ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên cho nên người đời quen gọi là Tháp Báo Thiên. Tháp cao 12 tầng với ngọn tháp đúc bằng đồng, trên ngọn tháp khắc ba chữ Đao Lỵ Thiên thể hiện ý chí vươn lên tận trời cao, cho nên tháp luôn được xem là cây cột chống trời “Kình Thiên Trụ” của kinh đô Thăng Long. Chùa Báo Ân Ảnh tham khảo file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Phạm Sư Mạnh, người Hải Dương, tiến sĩ đời vua Trần Minh Tông (1314-1329), có làm bài thơ Đề Báo Thiên tháp: Trấn áp Đông Tây giữ đế kỳ, Một mình cao ngất tháp uy nghi. Chống trời cột trụ non sông vững, Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy. Chuông khánh gió đưa vang đối đáp, Đèn sao đêm đến rực quang huy. Đến đây những muốn lưu danh tính, Mài mực sông xuân viết ngẫu thi. Ba mươi ba năm sau, sau khi xây tháp Báo Thiên ngoài cửa Nam hoàng thành Thăng Long, đến lượt một trong “Tứ đại pháp khí” được tạo tác, đó là quả chuông đồng khổng lồ mang tên Quy Điền do vua Lý Nhân Tông cho đúc vào mùa xuân năm 1080 để treo ở ngôi chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột), hình hoa sen nở trên mặt nước cuống hoa là cây cột đá kỳ vĩ, bên trong thờ tượng Quan Âm Bồ Tát bằng vàng, biểu thị sự trường tồn của Phật pháp. Chùa do vua Lý Thái Tông xây dựng từ năm 1049. Năm 1958, chùa Một Cột còn được trồng cây bồ đề chiết từ cây mẹ nơi đức Thích Ca thành Đạo, do Tổng thống nước Ấn Độ Prasat tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa Một Cột Ảnh dựng lại theo văn bia cổ, họa sĩ Trịnh Quang Vũ phác thảo, Hà Nội, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Chùa được hình thành từ đời Tiền Lý khoảng thế kỷ V-VI và được tu sửa qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê. Chùa được tôn tạo và hoàn chỉnh vào thời Lý, Trần. Thời Lý, nhà sư Không Lộ đã cho đúc một pho tượng Di Lạc bằng đồng cao sáu trượng (khoảng 20m) và một tấm bia đá lớn với hoa văn hình rồng uốn lượn. Chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ XIV với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương, vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ, tháng 12 năm 1317, Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với các kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh, trở thành đệ nhất danh lam cổ tích của nước Nam. Đây là trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi, nhiều hội lớn nổi tiếng được tổ chức tại đây như “hội Thiên Phật” trong bảy ngày bảy đêm” (1325). Năm 1319, tôn giả Pháp Loa đã kêu gọi tăng nhân, phật tử chích máu in hơn 5.000 quyển kinh Địa Tạng lưu giữ ở Quỳnh Lâm viện. Năm 1328, ông tâu xin nhà vua cho được kéo tượng Phật Di Lạc bị chìm dười nền điện lên bảo tọa để dát vàng. Năm 1329, Pháp Loa đưa một phần tro hài cốt của Phật hoàng Trần Nhân Tông về an trí trong tòa tháp đá ở chùa Quỳnh Lâm. Thời giặc Minh (1407-1427) xâm lược nước ta, chùa bị phá hủy và pho tượng Di Lạc bị cướp mang đi. <br clear="all"> Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông về chơi Tức Mặc, nay thuộc về tỉnh Nam Định. Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng, các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở, lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thái Thượng hoàng thì ngự ở đó. Phía Tây cung Trùng Quang, dựng chùa Phổ Minh, tại đây cho đúc một chiếc vạc đồng lớn và cho khắc bài minh vào vạc. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Có bài Thi vịnh về Tứ đại pháp khí: Bách xích sai nga trĩ đế thành, An Nam tứ khí cổ kim danh. Hoàn khu cộng hiệp cam lâm trạch, Phát tượng thiên thu trạc quyết linh. Trong Tam quốc chí, Hồi 65: “Cam Ninh trăm kỵ cướp Ngụy doanh - Tả Từ quăng chén đùa Tào Tháo”: nói về gỏi phải có cá Lư ở sông Tùng Giang mới ngon, ẩn ý nói về pháp khí là cái Lư hương trên vẽ “Song long triều nguyệt”, “Tùng Giang” mang ý nghĩa là cái Trống. Như vậy, có thể nhận định bộ Khung là các bức tranh này vẽ “Tứ đại pháp khí” bao gồm vạc, lư, chuông, trống. Quản Lộ cũng là tên hiệu của Bồ Tát Nguyễn Minh Không, ông sống dưới thời nhà Lý và đây là một trong những mắt xích quan trọng xác định tác giả của bộ bài Mạt chược. Chúng ta có thể thấy, ít nhất là một trong “Tứ đại pháp khí” này luôn xuất hiện tại bất kỳ một không gian thờ tự của các tôn giáo hoặc trong các lễ hội dân gian của các quốc gia trên thế giới. Mặc dù, vạc Phổ Minh được tạo tác thời Trần nhưng hình ảnh cái vạc đồng là thần khí đã có từ thời nhà Hạ, Thương, Chu. Chuông Trống Vạc Lư file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chuông voi, Đông Sơn, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Mao công đỉnh, thời Tây Chu, Trung Hoa file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Lư hương gốm Bát Tràng, Việt Nam Vậy thì, những chữ Nho in trên các lá bài của bộ Khung xanh là Tổng, Màn, Thùng, Sọt sẽ tương ứng với bộ tranh Tứ Khí chính là Chuông, Trống, Vạc, Lư. Tổng hợp lại hai bộ Hoa và hai bộ Khung bổ sung, trở thành bộ bài Mạt chược nguyên thủy, chúng ta có thể hiểu kết hợp các bộ tổ hợp tạo thành câu thư pháp: “Đại Nguyên Hợp Hỷ” có nghĩa là một chu kỳ nguyên vận quay trở lại thì “Thiên hạ thái bình”. - Bộ Đầu (tài phao) gọi là Rồng - Nguyên: Trung, Phát, Bạch. - Bộ Khung (khí) gọi là Gió - Hỷ: Long, Lân, Quy Phụng - Gió Đông, Gió Tây, Gió Nam, Gió Bắc - Trống, Chuông, Vạc, Lư. - Bộ Hoa (xương) gọi là Hoa - Đại: Ngư, Tiều, Canh, Mục - Xướng, Sáo, Nhị, Phách - Xuân, Hạ, Thu, Đông - Mai, Lan, Cúc, Trúc. - Bộ Nạc (thịt) - Hợp: Văn, Vạn, Sách. Một trong những trò chơi dân gian đặc biệt nhất đó là múa rối nước, nó đã có từ nghìn năm trước, vô cùng lý thú và độc đáo về mặt kỹ thuật và sáng tạo hơn những loại hình nghệ thuật đã được biết đến và được xếp vào hành thể loại quan trọng nhất của sân khấu múa rối. Chỉ một cái ao làng là đủ trở thành sân diễn, tại chùa Thầy, Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Tây còn lưu giữ lại một cái thủy đình diễn múa rối nước từ thời nhà Lý, bài viết của Nguyễn Công Bật được ghi trên bia đá vào năm Tân Sửu (năm trị vì thứ hai của Thiên Phù Duệ Vũ - 1121) để ca ngợi công đức của vua Lý Nhân Tông. Thủy đình chùa Thầy và tranh múa rối nước Ảnh, Phùng Anh Tuấn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Tích diễn thường là các điển cố lịch sử hoặc các trò dân gian truyền thống như đốt pháo mở cờ, mời trầu, kéo quân, kéo tứ linh, múa Tễu, chọi trâu, múa lân, đấu vật, múa tiên, ngư-tiều-canh-độc, Trưng Trắc Trưng Nhị, Hưng Đạo bình Nguyên, Lam Sơn khởi nghĩa, đua thuyền, rồng phun mưa, chăn trâu thả diều, quay tơ dệt cửi… cùng với dàn nhạc biểu diễn, trong đó không thể thiếu trống cái báo hiệu buỗi diễn bắt đầu. Với mỗi tiết mục, thường có đoạn giới thiệu bằng thơ hay văn biền ngẫu có nhịp điệu, tiếp theo là phần ngâm và hát, cũng khi có bài xướng, như bài minh họa cho tiết mục múa Tứ Linh: Rồng thiêng xuất hiện, Phượng hoàng múa ca, Lân Rùa hòa quyện, Tứ Linh tụ hội. Hào cửu ngũ quẻ Càn, Rồng bay lên trời, Thời thái bình, Rồng hiện ra trên cánh đồng, Rồng đâu phải là loài vật luôn sống trong chốn ao tù. Trong múa rối nước, một nhân vật quan trọng không thể thiếu là chú Tễu, vai trò như là một chú hề trên các sân khấu khác. Tễu thường là một thanh niên có da thịt, mặc áo cộc để lộ cái bụng phệ, mặt lúc nào cũng tươi cười, ánh mắt thì như giễu cợt, hai tay ve vẩy còn người lúc nào cũng ngọ nguậy. Tễu thường xuất hiện vào đầu buổi diễn để hát mở đầu, vừa dẫn chương trình lại vừa bình phẩm thói tư tật xấu bằng giọng châm biếm. Tễu có nét của một thanh niên đẹp trai, thông minh, sang trọng và dí dỏm. Chú là nhân vật được yêu thích nhất trong những con rối nước, thễ hiện tính hài hước, lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt. Từ hình ảnh chú Tễu, chúng ta thấy có sự giống nhau đến lạ lùng với quân bài Joker (chú Hề) bổ sung trong bộ bài Mạt chược. Rồng phun mưa và Chú Tễu Ảnh tác giả Hoài Nguyên file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Khi chú Tễu xuất hiện từ màn trúc, ngay sau màn giáo trống với nhịp trống ngày càng dồn dập, một giọng cất lên: Ớ này anh em ơi! Sao ooo? Tiếng đế đáp… Ai ai cũng gọi là Vông. Đến sau này Thủy Hỏa tương thông, Đoàn mới đặt tên tôi là Tễu. Chú tự giới thiệu, đùa giỡn, chọc ghẹo khán giả, chú hát: Ta tắm ao ta (thời) ta tắm ao ta! Ấy! Ta về ta tắm áo ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn. Rồi chú tiến lại bánh pháo hồng treo trên một cây sào cắm giữa ao và châm lửa, Tiếng pháo nổ ran trong khi tiếng hát báo hiệu cờ xí sắp được kéo lên. Thế rồi, những những lá cờ từ dưới nước vọt lên, được kéo lên đỉnh cột cờ, mà vẫn khô nguyên và bay phần phật, lá cờ to nhất tung bay ngạo nghễ trước gió là lá cờ Thần, có thêu chòm sao Bắc Đẩu ở giữa. Tiếng trống dồn dập hơn, một con Rồng vàng lướt trên mặt nước, hai con Kỳ Lân tranh nhau một quả cầu lụa theo nhịp trống do một con rối đánh, một con chim Phượng hoàng xòe hai cánh, mổ đôm đốp lên mai một con Rùa đang vừa rẽ nước vừa lắc lư cái đầu. Sau điệu múa Tứ Linh, một ông câu xuất hiện, ông giật cần câu lên, ở đầu dây một con cá chép đang giẫy dụa, một người khác lại ụp nhiều con cá đang bơi tứ phía vào trong một cái lờ (Tham khảo Múa rối nước của Việt Nam, tác giả GS. TS Trần Văn Khê, Nxb Thời đại, 2012). Hoa vông vang Ảnh tham khảo trên Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Chú Tễu tên Vông: Cây vông vang dạng thân gỗ cổ thụ, hoa có màu đỏ rực như hoa gạo, lá dùng để nấu canh, vị hơi chát nhưng có tác dụng an thần và tốt cho giấc ngủ, lá vông vang còn dùng gói nem nên còn được gọi là vông nem. Gỗ vông vang được dùng làm guốc mộc vì rất nhẹ và êm, vỏ cây phơi khô làm thuốc chữa đau lưng, lở ngứa. Hoa vông vang chứa rất nhiều mật ngọt nên thường thu hút các loài chim bay về hút mật. Cùng với trò múa rối nước, trong các trò chơi dân gian Việt Nam còn có bộ bài Tổ Tôm, mà phần lớn cách chơi và các thuật ngữ giống với bài Mạt chược như Văn, Vạn, Sách, Ù, Phỗng, Thiên khai…, chúng ta hãy cùng xem qua hình ảnh của bộ bài: Bài Tổ Tôm Trò chơi dân gian Việt file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Tổ Tôm thể hiện nền văn hóa Nhật Bản nhưng người dân Nhật Bản hoàn toàn không biết tới bộ bài này. Tổ tôm chỉ có 120 quân ít quân hơn bộ bài Mạt chược, cách chơi Tổ Tôm phần lớn giống như Mạt chược với các quân Văn, Vạn, Sách và 3 quân danh dự như quân Rồng của Mạt chược, cách gọi tên bài cũng tương tự. Sự kiên kết giữa hai bộ bài Mạt chược và Tổ Tôm trong việc bổ sung cho nhau, bài Tổ Tôm có hình con cá chép là quân Bát Vạn mang ý nghĩa quan trọng cũng sẽ được giải thích ở các chương sau. Thời nhà Lý, triều đình đã chôn 80.000 cây tháp đất nung ở núi Bát Vạn, phía Đông Nam huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh để hộ quốc, ngăn chặn sự trấn yểm phong thủy khốc liệt của các pháp sư người Trung Quốc tại các long mạch núi sông nước Việt, đặc biệt là của tên tướng pháp sư khét tiếng Cao Biền, thời triều Đường như lịch sử nước ta đã từng ghi nhận. Một số ngọn tháp đất nung thấy ghi: “Khai thiên thống vận hoàng đế”, Khai thiên thống vận hoàng đế là tôn hiệu của vua Lý Thái Tông. Sử cũ còn ghi rằng: “Năm Kỷ Dậu 1129, vua Lý Thái Tông mở hội khánh thành 84.000 bảo tháp ở gác Thiên Phù”.Tháp nặn bằng đất nung thành màu gạch đỏ, hình vuông, một tầng đáy và 5 tầng thân, có một cái chóp đỉnh cũng nhiều tầng, toàn bộ tháp cao chừng 50cm, cạnh đáy khoảng 15-17cm. Tìm kiếm dưới âm phủ, tác giả Đỗ Văn Ninh, Nxb Thanh niên, 2004. Nhân sinh quí thích chí, Cuộc ăn chơi chi hơn thú Tổ Tôm. Tài kinh luân xoay dọc chuyển ngang, Cơ điều đạc quân ăn đang đánh. Gọi một tiếng, người đều khởi kính, Dạy ba quân, ai dám chẳng nhường? Cất nếp lên, bốn mặt khôn đương, Hạ bài xuống, Tam Khôi chiếm cả. Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ, Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay, Gồm hai văn võ trong tay. Bài thơ Thú Tổ Tôm, tác giả Nguyễn Công Trứ. Một trong những dấu ấn lạ kỳ trong văn hóa Việt có lẽ là ông Phỗng hay chú Phỗng, trên bài của bạn có hai lá giống nhau cả hàng lẫn số, nếu ai đó đánh ra một lá giống như thế thì được lấy về làm Lưng và được gọi là Phỗng, dù nó ở bất kỳ cửa nào và được đánh ra 1 quân tại bên phải của mình. Dân gian có câu “Phỗng tay trên” là vậy, trường hợp ta quên không Phỗng lần thứ nhất thì lẫn thứ hai không được phép Phỗng lại. Nước bài Phỗng là con dao hai lưỡi, phân biệt người đánh cao, người đánh thấp, lại còn phân biệt cả phép lịch duyệt của người chơi (Tham khảo cuốn Việt Nam đặc sản bài lá, tác giả Trần Gia Anh, Nxb Thanh Hóa, 2010). Tượng Phỗng Tranh vẽ dân gian file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chân đèn hình người chất liệu đồng, văn hóa Đông Sơn (thế kỷ VII tr.CN - thế kỷ II), phát hiện tại Lạch Trường, Thanh Hóa Phỗng là tượng người bằng đất, đá, gỗ đặt ở miếu mạo, được coi là người đứng hầu nơi thờ tự, Phỗng còn là tượng dân gian bằng đất, bằng sành sứ cỡ nhỏ, dáng to béo, vui vẻ, thường để bày chơi trong các gia đình. Nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài thơ Phỗng đá, mà rằng: Ông đứng làm chi đó hỡi ông, Trơ trơ như đá, vững như đồng. Đêm ngày gìn giữ cho ai đó, Non nước đầy vơi có biết không. Trên hai bức tranh dân gian có chữ Nôm, một bức vẽ ông Phỗng bưng nến và bức kia vẽ chú Phỗng đội nến, chữ Phỗng được viết bằng Nôm, được viết bằng bộ Nhân và chữ Phụng, bộ Nhân chỉ người, Phụng nghĩa là hầu hạ, vâng lời, dâng biếu, nghĩa này thích hợp với nhân vật Phỗng nơi thờ tự, giữ việc dâng nến. Thành ngữ “Ngồi im như Phỗng” và “Đứng im như Phỗng đực”, có nghĩa là ngồi và đứng không động đậy giống tượng đồ chơi của trẻ con hoặc giống ông Phỗng nơi thờ tự (Tham khảo bài viết của Thằng bù nhìn, thằng Phỗng của tác giả Nguyễn Dư). Phỗng đứng Đình Đình Bảng, Bắc Ninh, ảnh trong Bulletin des Amis du Vieux Hue Số 1 Janv - Mars 1941 Phỗng ngồi Nội Duệ, Bắc Ninh, ảnh trong Bulletin des Amis du Vieux Hue Số 1 Janv - Mars 1941) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Nhằm tăng tính năng động của bộ bài Mạt chược, các hiệp hội Mạt chược đã thống nhất bổ sung thêm quân Joker (gọi là chú Hề hay chú Tễu của văn hóa dân gian Việt Nam) có thể thay thế bất kỳ quân nào, khi mà vòng quay của trò chơi theo chiều ngược chiều kim đồng hồ giống như hình ảnh của vạn vật trên mặt trống đồng Ngọc Lũ một cách tương ứng. Jokers Tham khảo các loại bài Tarots, Châu Âu file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Khi bổ sung quân chú Hề Joker vào bộ bài 144 quân, một số quy tắc mới được thiếp lập, một số cách thắng đang được áp dụng: file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Quân chú Hề Joker bổ sung (4 quân) được thay thể bằng hình ảnh tương ứng trong trò chơi dân gian Việt Nam là chú Tễu. Qua diễn xướng dân gian múa rối nước, hình ảnh chú Tễu với giáo đầu bằng tiếng trống cũng cần tham khảo trong việc phối hợp tranh vẽ về chú Tễu. Do đó, tổng số quân bài bổ sung cùng với chú Tễu là 20 quân, nâng tổng số quân bài trong bộ bài Mạt chược Việt Nam nguyên thủy là 164 quân. Chú hề ca hát và đánh trống và tượng đồng Điền Đời Đông Hán, Thiên Hồi Sơn, Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Quân bài Joker hay chú Tễu tạo thành một bộ mới, liên kết tất cả các bộ bài còn lại thành một cơ thể người hoàn chỉnh hay một cấu trúc vũ trụ duy nhất, gọi là Bộ Não (Ngọc) và nó đại diện cho chữ Hòa nghĩa là Thủy Hỏa tương hợp mới tạo ra sự phát triển tốt đẹp cho sự sống của muôn loài. Rồng ngậm ngọc (ngọc chạm khắc) Mộ Triệu Văn Đế, Quảng Đông, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Triệu Văn Đế Triệu Muội là con của Trọng Thủy - Mỵ Châu, là cháu của Triệu Đà, vua nước Nam Việt. Người thắng sẽ là người cắm ngọn cờ trên đỉnh tháp, nội dung giống như một trò chơi rối nước nổi tiếng là múa “Tứ Linh” như đã mô tả ở trên. Thời nhà Lý, phần thưởng cho người thắng cuộc thi không biết phải là “cúp vàng” giống như ngày nay hay không? Chúng ta hãy quan sát trò chơi Tổ Tôm điếm trong một không gian lễ hội, cuộc chơi được được điều khiển chính bằng một cái trống bỏi với các quy tắc thống nhất như: Trống hỏi: tung, cắc; Trống ăn: cắc; Trống Phỗng: tung, tung, Trống dậy Khàn: tung, tung, tung; Trống dậy Thiên khai: tung, tung, tung, tung, Trống dục chơi nhanh: gõ cắc cắc liên hồi, Trống ù: gõ một hồi;… Tổ Tôm điếm Tư liệu trong sách Conaisance du Viet Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Hội Lim ai thấy chả thèm, Tổ Tôm, bài điếm, giò nem thiếu gì. Đồn rằng lại dệt cửi thi, Cao lâu trăm thức, thiếu gì món ngon. Phương ngôn xứ Bắc. Trong cuộc thi Mạt chược toàn quốc gia, kết thúc cuộc chơi chính là lúc gió Đông nổi lên “Muôn việc đủ cả, chỉ cần gió Đông”, Rồng vàng xuất hiện bay lượn trên bầu trời. Mật ngữ chỉ ra Tứ đại pháp khí trong đời Lý có cây tháp Báo Thiên chùa Báo Ân nghĩa là đài chiến thắng báo công lớn với Trời, hay giống như cờ Tướng, ông Trời mới là người điều khiển cuộc cờ người này. Do vậy, chúng ta có thể tạm nhận định: “cúp vàng” cho cuộc chơi Mạt chược với hình dáng có vẻ giống như một cái “Tháp vàng” mang ý nghĩa người thắng đã cắm cờ trên đỉnh ngọn tháp. Chiều cao tháp gồm 5 tầng với đỉnh chóp hình quả bầu, giống như những cây tháp đất nung dùng trấn giữ tú khí non sông mà Bồ Tát Nguyễn Minh Không đã cho chôn 80.000 cái ở núi Bát Vạn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Số 5 chính là độ số của hành Thổ trung hòa 4 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa còn lại, nó thể hiện chữ “Hòa” trong nền minh triết Đông Phương. Rồng ngậm ngọc Lá đề hình rồng và đầu rồng thời nhà Lý, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Quay trở lại Hồi 80 trong Tây du ký: “Gái đẹp tìm chồng, mong được sánh đôi - Ngộ Không bảo vệ thầy biết ngay yêu quái” có đoạn mô tả cảnh Đường Tăng lững thững ngắm cảnh núi, nghe tiếng chim hót líu lo, bất giác lại chạnh lòng nhớ tới quê hương: Từ thuở Thiên bài truyền chiếu chỉ, Nơi Bình phong gấm nhận quan Văn, Đền treo mười dặm rời Đông thổ, Cùng với vua Đường cách núi sông. Chỉ ước Gió mây Rồng Hổ hội, Nào hay sư đệ giữa non cùng, Vu Sơn mười hai ngọn đi hết, Biết đến bao giờ lại cố hương. Trong bài thơ này, tác giả dùng những thuật ngữ chơi Mạt chược, như: Thiên bài, Cẩm bình phong, Quan đăng thập ngũ, Thiên địa phân, Long hổ phong vân hội, Ao mã quân, Vu Sơn phong thập nhị đối tử…, dịch giả cuốn Tây du ký đã theo ý nhằm dịch nghĩa bài thơ để được dễ hiểu hơn. Như vậy, theo Tây du ký các thuật ngữ trên là những bộ tổ hợp lớn trong ván bài Mạt chược thời cổ. Như vậy, thời vua Trần Nhân Tông thì trò chơi Mạt chược đã thịnh hành trong giới quý tộc, quan lại triều đình rồi. Lại xem Hồi 49 trong Tam Quốc Chí: “Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa - Đàn Thất tinh, Gia Cát cầu phong”, tác giả Bồ Tát Nguyễn Minh Không: Khổng Minh nói:Tôi tuy rằng bất tài, nhưng có gặp được một dị nhân truyền cho quyển Kỳ môn độn giáp Thiên thư có thể gọi được gió, bảo được mưa. Đô đốc muốn cần đến gió Đông Nam, thì phải lập đàn tại núi Nam Bình, gọi là đàn Thất Tinh, bề cao 9 thước, chia làm 3 tầng, dùng 120 người cầm cờ đứng xung quanh, tôi xin lên đàn, dùng phép, mượn gió Đông Nam thật to 3 ngày 3 đêm để đô đốc dùng binh, Đô đốc nghĩ thế nào?. Du nói: Chẳng cần đến 3 ngày 3 đêm, chỉ một đêm gió to là xong việc, nhưng xin tiên sinh phải làm ngay cho, chớ để chậm chạp. Khổng Minh nói: Ngày 20 tháng 11 là ngày Giáp Tý, bắt đầu tế gió, đến ngày 22 là ngày Bính Dần thì gió im, có được không? Du nghe nói mừng lắm, đứng choàng dậy, lập tức sai quân đến núi Nam Bình đắp đàn, và điều một 120 tên lính cầm cờ giữ đàn, sẵn sàng nghe lệnh. Khổng Minh từ biệt Chu Du, cùng với Lỗ Túc lên ngựa đến núi Nam Bình, xem xét địa thế. Rồi sai quân sĩ lấy đất đỏ ở phương Đông Nam đắp đàn hình vuông, chu vi rộng 24 trượng mỗi tầng cao 3 thước, cả thảy là 9 thước. Tầng dưới cùng cắm 28 lá cờ sao bao gồm: Phương đông 7 lá cờ xanh có hình chòm sao Thanh Long là: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Phương bắc 7 lá cờ đen có hình chòm sao Huyền Vũ là: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư Nguy, Thất, Bích. Phương tây 7 lá cờ trắng có hình chòm sao Bạch Hổ là: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Thuỷ, Sâm. Phương nam 7 lá cờ đỏ có hình chòm sao Chu Tước là: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tính, Trương, Dực, Chẩn. Tầng giữa 64 lá cờ cắm xung quanh theo phương vị 64 quẻ Dịch, đứng dàn ra 8 hướng. Tầng trên cùng dùng 4 người; người nào cũng phải đội mũ bịt tóc, mặc áo the thâm, áo dài đai rộng, giày đỏ quần vuông. Mé trước, 1 người đứng bên tả, cầm cái cần dài, trên đầu cầm cắm lông gà, để chiêu gió; 1 người đứng bên hữu cũng cầm cái cần dài, trên đầu cần buộc cờ hiệu Thất tinh, để khiến chiều gió. Mé sau, 1 người bên tả cắp thanh bảo kiếm, 1 người bên hữu bưng cái lư hương; ở dưới chân đàn lại có 24 người vác cờ xí và khí giới đứng quanh 4 phía. Ẩn dụ dùng đất đỏ phía Đông Nam để đắp đàn ý nói cung Khôn phải ở phương vị này trong Hậu Thiên Bát quái, như vậy, tác giả nắm rõ sai lệch độ số phương vị của hai cung Tốn, Khôn rồi sau đó mới cầu gió Đông tức Phật pháp. Mặt khác, qua nội dung đối đáp của Không Minh với Chu Du về “Nhốt hai nàng Kiều bên Đông Nam“, nhận thấy ẩn ý rằng: cung Khôn, Âm Hỏa phải nằm ở phương vị Đông Nam chứ không phải Tây Nam trong độ số Hậu thiên Bát quái, do vậy cần phải đổi chỗ Tốn, Khôn mới đúng theo Hà đồ nguyên thủy. Đàn tràng do Khổng minh đắp lấy từ hình ảnh của đàn Nam Giao kinh thành Thăng Long mà các vị vua thường đến tế lễ Trời cầu mong cho một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Toàn cảnh đàn Nam Giao và buổi lễ Ảnh cổ, Phường Trường An, thành phố Huế, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Lễ tế Nam Giao đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thời Nghiêu, Thuấn, cách đây hơn 4.000 năm. Theo Lý Dịch, Trời thì tròn, Đất thì vuông, cho nên trong năm, nhà vua làm chủ tế 2 lần khác nhau: một lần vào tiết Đông chí, tế trời ở nơi viên khâu (gò tròn), một lần vào tiết Hạ chí, tế đất ở Phương Khâu (gò vuông). Gò tròn nằm ở phía Nam Quốc đô nên gọi là Nam giao, gò vuông nằm ở phía Bắc Quốc đô nên gọi là Bắc giao. Về sau, 2 lễ tế Trời, Đất gom lại làm một và đàn tế gọi chung là đàn Nam Giao. Ở nước ta, tục Tế Giao có lẽ bắt đầu lại vào thời vua Lý Anh Tông (1138-1175). Nhà vua cho lập đàn Viên Khâu ở thành Thăng Long, cứ ba năm một lễ lớn, hai năm một lễ trung, một năm một lễ nhỏ. Nhà Trần kế tục nhà Lý bỏ hẳn lệ Tế Giao trong gần 200 năm (1225-1400). Khi họ Hồ soán ngôi nhà Trần, Hồ Hán Thương lập đàn tế Trời ở núi Đốn Sơn (Thanh Hóa). Tương truyền, trong một buổi tế, Hán Thương run tay làm đổ chén rượu nên truyền bãi tế. Người đương thời cho đó là điềm gở của nhà Hồ. Năm 1428, Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, định lệ Tế Giao vào mùa Xuân, trong 3 ngày Xuân đán, chọn một ngày tốt để làm lễ. Đây là đàn tế trời duy nhất ở Việt Nam còn khá nguyên vẹn, đàn gồm 3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho “Tam tài“ Thiên, Địa, Nhân, đàn quay mặt về phương Nam. Tầng trên cùng hình tròn tên là Viên Đàn, tượng trưng cho Trời, xung quanh có lan can màu xanh; nền Viên Đàn lát những phiến đá được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc. Tầng tiếp theo hình vuông tên Phương Đàn, tượng trưng cho Đất, lan can màu vàng. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc. Tầng dưới cùng cũng có hình vuông, lan can màu đỏ, tượng trung cho con Người. Ba tầng đều có cửa và bậc cấp ở bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc. Tại đây, khi tế có 128 văn sinh và vũ sinh đứng múa Xung quanh đàn còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới một ngày trước buổi lễ), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác. Những con vật được đem ra cúng trong dịp này gọi là các con sinh với tam sinh là trâu, heo, dê được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Trước đấy, vào ngày lành tháng tốt, nhà vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng sát hại trâu bò trước tế lễ 3 ngày, tri ân những người có công với nước, không tra khảo tù nhân trước đó và cho phép giảm án cho các tù nhân có chuyển biến tốt. Trời và Đất là hai ý niệm quan trọng chi phối đời sống văn hóa và tư tưởng của người Phương Đông. Các vua chúa ngày xưa thường tự xưng là "con Trời" (Thiên tử), thay Trời để chăm lo đời sống nhân dân. Vì thế, vua chúa thường phải làm lễ tế cáo với Trời, Đất như một bổn phận của con cái đối với cha mẹ, đồng thời cũng để cầu xin sự an lành, hạnh phúc cho dân. Vua và các quan lại phải trai giới ba ngày trước khi tế. Lễ Tế Nam Giao được tổ chức vào mùa xuân hàng năm. Cuộc lễ chính thức bắt đầu vào giờ Dần, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia đầy đủ của các quan lại cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ, sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc. Tham khảo bài viết ____, tác giả Huỳnh Thị Anh Vân. Việc đổi chỗ Tốn Khôn cũng được vua Trần Nhân Tông nhắc lại trong Tùy Đường diễn nghĩa qua hình ảnh ẩn dụ của con xúc xắc có mặt Nhất và mặt Tứ in màu đỏ dùng chơi Mạt chược tại hồi 87: “Chim anh vũ tụng kinh thành Phật - An Lộc Sơn quyên chúa hại dân”. Huyền Tông chơi xúc sắc hòa hai ván đầu với Dương Quý Phi, gieo lần ba được hai mặt Tứ và thắng, Huyền Tông kêu Cao Lực Sĩ thoa son lên hai mặt Tứ vì thế về sau mặt Tứ của xúc sắc đều có màu đỏ. Như vậy, hai mặt Tứ đỏ và hai mặt Nhất đỏ thể hiện cung Khôn độ số 2 và cung Tốn độ số 4 cần hoán chuyển vị trí trong Hậu Thiên Bát quái. Con xúc sắc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Con xúc sắc vua ban chấm đỏ, Nghĩa vuông tròn chẳng bỏ xương khô. Tấm son gửi gắm từ giờ, Ơn vua ghi nhớ nghìn thu không nhòa. Trong phương pháp tiên tri Tây tạng “MO” cho hai xúc sắc, khi xuất hiện hai mặt Tứ được gọi là “Nơi ngọn núi châu báu mọc trên nền vàng thật đáng kinh ngạc”, kết quả mọi mặt đều tốt đẹp (MO phương pháp tiên tri Tây Tạng, Jamgon Mipham, dịch giả Thanh Liên, Nxb Tôn giáo, 2011). Cũng Tùy Đường diễn nghĩa, Hồi 87: “Chim anh vũ tụng kinh thành Phật - An Lộc Sơn quyên chúa hại dân”, nói về con chim anh vũ tụng kinh thành Phật. Dương Quý Phi có con chim Anh Vũ tên là Tuyết Y, do viên nội thị thả con chim cắt xanh ra, nó định bắt chim anh vũ, chim anh vũ vội bay vào trong lầu, có một thị nữ cầm chổi lông tiện tay quật mạnh trúng mắt chim anh vũ, làm cho nó bất tỉnh một hồi sau mới dậy được. Chim Anh Vũ nói với Quý Phi rằng quả việc tụng kinh có phúc thật, rồi nó tiếp tục tụng kinh Phật. Ba ngày sau, mở mắt nói với Quý Phi: Tuyết Y này toàn nhờ vào việc tụng kinh mà may được thoát được kiếp cầm thú và về nước Phật, xin nương nương hãy tự giữ mình. Rồi nó chết, Quý Phi rất thương xót, liệm nó trong một cái hộp bằng bạc và an táng ở vườn sau gọi là “mồ Anh Vũ”. Sau đó, Huyền Tông biết chuyện bèn ra lệnh thả hết 10 con chim anh vũ khác đang nhốt trong cung trở về với núi rừng Quảng Nam. Câu chuyện nói về chim Anh Vũ dựa trên cốt truyện cổ Phật giáo Lòng hiếu thảo của chim Anh Vũ, nhưng không ăn nhập vào mạch chuyện lịch sử, nó mang ẩn ý nói về công chúa Huyền Trân, hoàng hậu vua Chế Mân nước Chiêm Thành, hai người có chung một người con trai. Sau khi Chế Mân chết, theo tục lệ Chiêm Thành là hoàng hậu sẽ được đưa lên giàn hỏa thiêu cùng với thân xác nhà vua, nhà Trần biết được bèn lệnh cho Trần Khắc Chung đem chiến thuyền đi giải cứu, đưa Huyền Trân trở về Đại Việt. Hình ảnh 10 con chim anh vũ được giải thoát chính là độ số 10 của Hà Đồ, có nghĩa kết thúc, kết chung một chu kỳ vận động của Âm Dương Ngũ Hành theo Hậu Thiên Bát Quái với hình ảnh tướng Trần Khắc Chung. Vùng rừng núi Quảng Nam đề cập ở trên chính là vùng đất mở rộng phía Nam của nước Việt với hai châu Ô, Ý thời nhà Trần. Sau khi về Thăng Long, công chúa Huyền Trân quy y cửa Phật và vì vậy, có lẽ pháp danh Tuyết Y chính là do vua trần Nhân Tông đặt cho. Trong bộ bài Tổ Tôm, quân Thang Thang với hình một phụ nữ cho đứa con trai bú chính là hình ảnh của công chúa Huyền Trân. Thang Thang - Chi Chi - Ông Cụ Bài Tổ Tôm, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang, Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng. Cờ đương dở cuộc không còn nước, Bạc chửa thâu canh đã chạy làng. Mở miệng nói ra gàn Bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung Thang. Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ, Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng. Bài thơ Tự trào, Nguyễn Khuyến. Phiên là lượt chơi, cũng là tên buổi họp chợ Phiên diễn ra vào những ngày nhất định hàng tháng, không chỉ là nơi buôn bán, chợ phiên cũng giống như một lễ hội văn hóa có thi hát, thi nữ công gia chánh... chợ phiên Hà Nội là một nét duyên thầm của đất kinh kỳ. Lịch triều Hiến cương loại chí, Phan Chú viết: “Thăng Long thế kỷ XVIII có tám chợ lớn đó là chở Cửa Đông, Cửa Nam, Đình Ngang, Chợ Huyện, chợ Bà Đá, chợ Văn Cử, chợ Bác Cử và chợ Ông Nước”. Thực tế, có rất nhiều chợ Phiên khác như chợ Bưởi, chợ Mơ, chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Khâm Thiên…, hãy cùng xem qua một số chợ Phiên. Chợ Bưởi thuộc phía Tây kinh thành, gần Hồ Tây, xưa kia là nơi giao lưu hàng hóa nông sản thực phẩm từ ngoại thành và các vùng phụ cận như huyện Từ Liêm, Hà Tây, Vĩnh Phúc vào nội thành rồi đổi hàng hóa thủ công mỹ nghệ, xa xỉ phẩm từ nội thành, nét nổi bật của chợ Bưởi là nơi cung cấp giống cây, con giống, sản vật làng nghề và họp chợ theo độ số phương Tây của Hà Đồ là 4, 9, 14, 19, 24 ,29: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên, Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bòng. Chợ Đồng Xuân đã có từ rất xa xưa, ngay từ thời vua thời vua Lý Thái Tổ mới về kinh đô Thăng Long được năm năm, đã thấy Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên, viết: “Ất Mão, năm thứ 6 (1015) xuống chiếu cho Dực Thánh Vương và Đông KInh Vương đi đánh các châu Đỗ Kim, Vị Long, Trường Tân, Bình Nguyên (vùng Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay) bắt được thủ lĩnh là Hà Trắc Tuấn đem về kinh sư, chéo bêu đầu bên chợ Đông”. Sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên vào thời Trần cũng viết: “Vua Lý Thái Tông cho mở chợ về phái cửa Đông, hàng quán chen chúc tới sát đền (Bạch Mã) rất là huyên náo”. Chợ Đồng Xuân cũng là chợ Phiên, họp một tháng sáu phiên vào các ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 ưng với phương Đông của Hà Đồ, chợ Đồng Xuân ngôi chợ sầm uất nhất kinh thành Thăng Long. Ô Quan Chưởng Ảnh thành cổ Hà Nội file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Chợ Mơ nằm phía Nam kinh thành Thăng Long, vùng đất Kẻ Mai (tục gọi Kẻ Mơ) được hình thành từ rất lâu đời, chợ Mơ họp một tháng sáu phiên vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 ứng với phương Nam độ số 2, 7 trên Hà Đồ. Người vùng Hoàng Mai kế tiếp nhiều đời làm nghề nấu rựu đã có câu hát: Khéo tài em cất rựu mơ, Kính mời thầy mẹ, dâng thờ tổ tiên, Tỏ lòng con thảo, dâu hiền, Lò em nồi tiếng khắp miền Đoài, Đông. Chợ Mơ vốn là một chợ thuộc vùng Kẻ Mơ xưa. Trải qua quá trình phát triển đô thị, chợ thuộc về địa phận phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chợ họp theo phiên vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 âm lịch hàng tháng. Cùng với chợ Bưởi chuyên bán những cây giống vào ngày phiên, chợ Mơ còn bán chủ yếu là những động vật nuôi trong nhà như chó, mèo, thỏ, chim, cá cảnh. Chợ quê và Canh nông chi đồ Trang dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Ngoài ra, Chợ Cống thuộc làng Cống, làng Đỗ Xã, xã Minh Cường, huyện Thường Tín, Hà Tây họp phiên ngày 5, 10, 15, 20, 25, 30 theo đúng độ số 5, 10 ở trung tâm Hà Đồ. Hầu hết các ngôi chợ khác, bao gồm cả ngoài thành đều hoạt động một tháng sáu phiên ngay cả chợ bán tranh Đông Hồ, qua đó, có thể thấy rằng: các chợ nằm ở phía Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long xưa có những ngày họp chợ tương ứng với độ số của phương vị trên Hà Đồ. Chỉ có trung tâm kinh thành Thăng Long, là nơi vua ngự, theo Hồng phạm Cửu trù gọi là Hoàng Cực, cho nên không có hoạt động chợ tại khu vực này. Trong cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, Hồi 76: “Dựng lầu gấm, cung tần bình thơ - Dạo phố phường, Đế Hậu hành lạc” đã mô tả Tết Thượng nguyên của kinh thành Thăng Long như sau: Phong tục kinh thành mỗi Tết thượng nguyên, khắp 36 phố phường, ba chợ đêm đến đều treo đèn hoa, lầu lớn nhà nhỏ đều kết lụa giăng gấm, người đi lại như mắc cửi, chuông trống rộn ràng, thâu đêm suốt sáng, chẳng hề cấm đoán gì. Có bài “Niệm nô kiều” sau đây làm chứng: Đèn đuốc tựa cây cao sáng rực, Đêm kim ngô thả mặc rong chơi. Băm sáu phố phường, Ấy kiến hay người. Ngựa xe chen chúc, ngược xuôi ồn ào, Kết mấy ả áo đào quần tía. Dáng như tiên hồn vía ngẩn ngơ, Trâm rơi, tóc xổ bơ phờ. Dưới đèn lánh mặt, thân sơ biết gì, Quay đầu nghe tiếng gọi xa xa. Tết Thượng nguyên này mấy thuở mà. Nói nói cười cười khôn cất bước. Một đoàn sau trước rộn sênh ca, Trăng là là, Cán sao Đẩu tà tà. Giục ngựa dong xe, Hát hết khúc thái hòa. Đêm sắp qua, Mệt mỏi trẻ già. Màn thơm đệm gấm, về nhà nghỉ thôi. Đặc biệt, trong môn thiên văn Đông Phương, khu vực chòm sao khu vực Đông Bắc bầu trời có tên là “Thiên Thị viên” cũng có nghĩa là cái Chợ Trời, còn các phiên chợ dưới trần gian chính là những phiên chợ theo những ngày quy định đã ứng dụng theo nguyên lý theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Thiên Thị Viên Tranh hang động Đôn Hoàng, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Giá trị nghệ thuật sâu sắc trên những bức tranh dân gian đã được nhà thơ Hoàng Cầm cảm nhận, đó chính là hồn của nước, là hình ảnh của quê hương: Bên kia sông Đuống, Quê hương ta lúa nếp thơm nồng. Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp... (Bài thơ Bên kia sông Đuống, tác giả Hoàng Cầm). Toàn bộ mỹ thuật trang trí, kiến trúc, điêu khắc, pháp khí, cờ phướn, tháp bảo, giếng mắt rồng, tàng kinh các,… của mỗi ngôi chùa đều tổng hợp đủ cả các hình ảnh vạn vật từ Tứ Linh, Tứ Quý, Tứ Dân, Tố Nữ, Tứ Bình, Tứ Khí, Văn,Vạn, Sách và tổ hợp Trung, Phát, Bạch trở thành trung tâm bàn thờ của điện Đại Hùng trong mặt bằng nội Công ngoại Quốc của ngôi chùa, biểu hiện như một đàn tràng Mandala Mật Tông Tây Tạng với tâm kim cương là Đại Nhật Phật, Đế Thích, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đấng Chí Tôn, thần Ra, thần Apollo, thần Vishnu, thần Surya, Chúa Trời, Thánh Alla… hay dân gian Việt Nam thường gọi là ông Trời, đúng là: Phấn son tô điểm sơn hà, Muôn hồng nghìn tía đều là tự tay. Từ đây, chúng ta nhận thấy toàn bộ mật ngữ để xác định xuất xứ của bộ bài Mạt chược nguyên thủy nằm trong nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, nền tảng thiết kế nên bộ bài Mạt chược hoàn toàn dựa trên nền tảng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đối với thiên nhiên, xã hội và con người. Việc thống nhất lại các nguyên tắc, tên gọi của trò chơi Mạt chược là rất cần thiết nhằm xác nhận lại chính thức xuất xứ nguyên thủy và tác giả là Bồ Tát Nguyễn Minh Không, cũng như mong muốn giới thiệu một nền văn hóa cổ truyền Việt Nam minh triết và nhân bản tới toàn thế giới. Cùng với trò chơi Mạt chược, thì bộ môn cờ tướng cho tới nay cũng là một ẩn số thú vị, hầu như không thể xác định được tác giả là ai? Vậy thì xác suất xác định được tác giả chẳng nhẽ là 0%? Mời theo dõi những sự kiện tiếp theo trong Chương VI: BÍ ẨN CỜ TƯỚNG. *** 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 1, 2013 Chương VI BÍ ẨN CỜ TƯỚNG Lạc nước hai Xe đành bỏ phí, Gặp thời một Tốt cũng thành công. Hồ Chí Minh. Cờ tướng là một thú tiêu khiển lành mạnh được liệt vào trong bốn loại hình nghệ thuật ưa thích của các tao nhân mặc khách thường gọi là tứ thú phong lưu “cầm, kỳ, thi, họa”, chơi cờ là một thú thanh cao tao nhã, đòi hỏi sự suy nghĩ có tính chiến thuật của người chơi. Qua những cuộc đấu trí, truyền thuyết và sách vở còn lưu giữ lại nhiều nước cờ tuyệt diệu của các đại kỳ thủ khắp nơi trên thế giới, cũng như những dấu ấn liên quan trong suốt quá trình lịch sử phát triển của nó.Bàn cờ tướngẢnh tư liệu trang web Ancient Chess Người Trung Hoa gọi tên trò chơi này là Tượng kỳ (象棋), còn tại Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là Cờ Tướng, đặc biệt Cờ Tướng còn được chuyển qua dạng bài lá Tam cúc với hình vẽ các quân cờ ở dạng lập thể phổ biến trong dân gian.Cầm, kỳ, thi, họaTranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Trải hạ, thu, đông gặp tiết xuân về càng phấn chấn,So cầm, thi, họa thêm bàn cờ nữa mới thanh cao. Ván cờ được tiến hành giữa hai người, mục đích của mỗi người là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng quy tắc để chiếu bí hay bắt Tướng của đối phương để giành thắng lợi. Một cách phổ biến, bàn cờ gồm quân đỏ và quân xanh (lá cây) hoặc đen, với 32 quân chia đều cho mỗi bên 16 quân, gồm 7 loại quân cờ khác nhau. Tên mỗi loại quân cờ của mỗi bên có cách viết chữ Hán khác nhau nhưng giá trị và cách đi tương ứng của chúng giống nhau Tướng (Soái), Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt (Binh). Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Khoảng trống theo phương ngang gọi là sông (hà) có tên Sở hà - Hán giới, sông chia bàn cờ thành hai phần đối xứng, mỗi bên có một hình vuông nằm trên trục giữa bàn cờ gọi là cửu cung, cửu cung do 4 ô hợp thành với hai đường chéo xuyên tâm, nó là tử cấm thành của vị Tướng. Chúng ta có thể thấy nhận bàn cờ tướng thật sự là một trận địa sinh động, với đầy đủ các binh chủng, các quân chủng được bố trí thành các lớp hài hòa, lại còn có cả sông ranh và cung cấm, tướng ở nhà quân ra trận, cuộc chiến giữa đôi bên có thể diễn ra trên bộ cũng như ở dưới nước. Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn khai cuộc, trung cuộc và tàn cuộc. Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên, khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng trong một ván cờ, có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, thường là đi Pháo. Ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản. Tàn cuộc là giai đoạn số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công như Xe, Pháo, Mã, Tốt của cả hai bên còn rất ít.Soái - Tướng Bàn Cờ Tướng khác bàn cờ Saturanga là không có quân Vua mà chỉ có quân Tướng, Tướng là vị chỉ huy quan trọng nhất. Tướng ở trong cung có 2 Sỹ hộ giá và 2 Tượng canh gác hai bên. Như thế, muốn thắng một ván cờ cũng rất khó khăn, khả năng hòa cờ là rất lớn, từ một thực tế như vậy, luật "lộ mặt Tướng" được hình thành. Đây chỉ là một quy định đơn thuần mang tính kỹ thuật nhằm giải tỏa sự tù túng của Cửu Cung. Tướng chỉ được đi ngang hay đi dọc từng bước trong Cửu Cung và là quân yếu nhất, tuy nhiên, trong nhiều tình huống, đặc biệt khi ở thế cờ tàn, đòn "lộ mặt Tướng" lại tỏ ra là một trong những tuyệt chiêu hiểm hóc.Sĩ bộ Nhân - Sĩ Quân Sỹ đứng ngay sát cạnh Tướng và có vai trò như những vị quân sư trợ giúp cho Tướng về sách lược chiến lược, nó thêm yếu tố “văn” vào tố chất “võ” của ván cờ. Sĩ chỉ đi từng bước một và đi theo đường chéo trong Cửu Cung, mất Sỹ được cho là rất nguy hiểm trong mỗi ván cờ. Tương - Tượng Quân Tượng đứng bên cạnh quân Sỹ, đi theo đường chéo của hình vuông gồm hai ô cờ, chúng có nhiệm vụ ở lại bên này sông để bảo vệ Tướng. Tượng sẽ không di chuyển được nếu đã có một quân đặt tại vị trí giữa của hình vuông hai ô, khi đó Tượng bị cản nước đi và vị trí cản được gọi là "mắt Tượng". Xe bộ Nhân - Xe Quân Xe chính là các chiến xa trên chiến trường, đi và ăn theo đường thẳng đứng hoặc ngang, chúng bắt đầu nước đi từ phía góc của bàn cờ và được coi là quân cờ mạnh nhất trên bàn cờ Tướng. Pháo bộ Hỏa - Pháo bộ Thạch Quân Pháo đi giống quân Xe nhưng ăn quân bằng cách nhảy qua một quân cờ khác. Hãy tưởng tượng Cửu cung với lực lượng bảo vệ ngày đêm, Tướng không ra khỏi cung lại được Sĩ, Tượng hộ vệ, do vậy rất khó đột phá vào trong cung, Xe tuy mạnh nhưng nếu bị chặn đường thì cũng phải dừng lại, nhưng với Pháo thì bất chấp tầm xa hay gần, nó có thể kéo tới tận góc mà nã đạn cầu vồng vào trong cung hoặc có thể về cung của mình lấy Sỹ làm ngòi nổ để công thủ liên hoàn hoặc chiếu Tướng đối phương. Trên thực tế, khi khai cuộc thường dùng Pháo, thô lỗ nhất là nã ngay Pháo tiêu diệt Mã đối phương, người chơi như thế gọi là hiếu sát.Các loại cờ cổ đại không có quân Pháo, đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ, vũ khí pháo được sử dụng trong chiến tranh cổ đại với hình thức như là máy bắn đá, cho tới triều Tống, Nguyên Trung Quốc thì loại pháo mang thuốc nổ cũng đã được dùng phổ biến trong chiến tranh. Trong bàn cờ Tướng, quân Pháo trong chữ Hán được viết với bộ "thạch” cho quân xanh và bộ "hỏa" cho quân đỏ. Máy bắn đáTài liệu lịch sử Trung Quốc Kể từ khi xuất hiện Pháo, bàn Cờ Tướng trở nên cực kỳ sôi động từ đầu tới cuối trận với biết bao nhiêu đòn thế vô cùng hiểm hóc, chính cặp Pháo này đã nâng tư duy chiến lược lên một tầm cao mới, khiến cho Cờ Tướng trở nên cực kỳ độc đáo. Ấn Độ có cờ Saturanga, Ba Tư có cờ Shatranj, Châu Âu có Cờ Vua, Thái Lan có cờ Makruk, Nhật Bản có cờ Shogi, các loại cờ này đều không có quân Pháo, chỉ có bàn cờ Janggi của Hàn quốc là cũng có quân Pháo. Mã bộ Nhân - Mã Mã là quân cờ rất biến hóa do tốc độ đi nhanh và có nhiều đường để tung hoành, sự thái quá của Mã như thế làm cho nó rất khó bị tiêu diệt, công mạnh hơn thủ, và nhất là Tướng sẽ bị uy hiếp nặng nề nếu Mã đối phương sang được trận địa bên này, rõ ràng quân Mã đã tạo ra tình trạng mất cân đối bàn cờ. Do vậy, luật “cản Mã” ra đời, tổng thể ván cờ trở nên cân bằng hơn, các nước đi cần sâu sắc và mưu trí hơn để giành chiến thắng. Quân Mã đại diện cho kỵ binh di chuyển như gió cuốn, khả năng sát thương cao trên chiến trường cho nên để hạn chế thì luật cản Mã như trên thật hợp lý. Tốt - Binh Tốt (hoặc Binh) Sát với sông, có 5 quân Tốt đứng cách đều nhau giữ vị trí tuyến đầu. Cách bố trí 5 quân Tốt xem kẽ này là phương án tối ưu cho không gian của bàn cờ, tránh được chuyện "bịt đường" như ở các loại cờ khác. Chúng đi thẳng và có thể ăn quân từng bước một, còn khi vượt qua được sông, chúng có thể đi và ăn theo chiều ngang. Cờ Tướng không có luật phong chức như trong cờ Vua, khi đi đến cuối bàn cờ, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt.Trước khi tìm hiểu nguồn gốc của cờ Tướng, chúng ta hãy cùng xem qua bàn cờ Saturanga của Ấn Độ. Saturanga là một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ trong khoảng từ thế kỷ V tới thế kỷ VI thời kỳ Gupta. Bàn cờ Saturanga hình vuông với mỗi cạnh gồm 8 ô vuông hai màu xen kẽ, các quân cờ hình lập thể di chuyển trong các ô. Bộ cờ Saturanga gồm có quân Vua, Tướng, Tượng, Mã, Thuyền và Tốt mà không có quân Sĩ và Pháo như trong cờ Tướng. Cách đi cờ Saturanga thì Tốt mỗi lần di chuyển chỉ tấn 1 ô về phía trước, đi thẳng nhưng ăn chéo như cờ Vua, không có phong cấp; Vua, Xe và Mã có cách di chuyển hoàn toàn giống như cờ Vua; Tượng đi và ăn theo ô chéo góc liền kề; Tướng đi từng bước và ăn theo sự tổng hợp của Tượng và Xe. Rõ ràng cờ Saturanga có một số điểm giống Cờ Vua và một số điểm giống Cờ Tướng. Bàn cờ SaturangaTham khảo Internet Tương truyền rằng một nhà thông thái Ấn Độ phát minh ra trò chơi Saturanga, được nhà vua khen ngợi và có ý muốn ban thưởng cho ông, vua để cho nhà thông thái tự chọn loại phần thưởng yêu thích và đảm bảo sẽ đáp ứng nguyện vọng của ông. Nhà thông thái bèn tâu nhà vua xin thưởng cho mình một số thóc được tính như sau: trên 64 ô cờ thì ô thứ nhất sẽ đặt 1 hạt thóc, ô thứ hai sẽ đặt số thóc gấp đôi ô thứ nhất, tức là 2 hạt, ở ô thứ 3 sẽ đặt gấp đôi ô thứ hai tức 4 hạt và cứ ô sau đặt gấp đôi ô trước cho tới khi đủ hết 64 ô. Khanh chỉ cần có thế thôi ư? Nhà vua vui vẻ chuẩn y ngay ý nguyện của nhà thông thái. Vị quan phụ trách kho tàng sau khi tính toán đã trình báo lên nhà vua số thóc thưởng lớn gấp hàng nhiều lần số thóc hiện có trong kho của nhà vua. Nhà vua lo sợ, không biết làm sao để giữ được lời hứa của mình?. Vừa lúc ấy có một nhà thông thái đến, nghe xong chuyện bèn khuyên vua: bệ hạ đã hứa thì phải giữ lời, thưởng cho ông ta số thóc đó. Vua hỏi: Nhưng trẫm lấy đâu ra số thóc đó để thưởng bây giờ. Nhà thông thái nói: điều đó hoàn toàn không quan trọng, cái chính là ông ta có đủ thời giờ để đếm số thóc mà bệ hạ ban thưởng cho ông ta hay không. Theo tính toán của hạ thần thì không những đến hết đời ông ta mà cả đời con, cháu ông ta cũng không thể đếm hết được.Tranh Thần Krishna chơi cờ với vợ Radha Thế kỷ XVIII, Bảo tàng quốc gia, New Delhi Ngoài ra, còn có bộ cờ cổ Shatranj của Ba Tư, những quân cờ sớm nhất được tìm thấy tại Afrasaib, gần Samarkand ở Uzbekistan, gồm 7 quân Vua, Tướng, Xe, Mã, Tượng, và 2 quân Tốt được làm bằng ngà voi, chúng có niên đại khoảng 760, một đồng xu ghi năm 761 được tìm thấy chung với các quân cờ trên. Chơi cờ Shatranj Tranh Ba Tư của Bayasanghori Shahname, 1430 CE, Bảo tàng Mỹ thuật, New York Còn môn Cờ Vua là một chơi rất phổ biến ở châu Âu và ngày nay đã trở thành trò chơi phổ thông nhất trên thế giới, bàn Cờ Vua tương tự như cờ Saturanga nhưng thay cho quân Thuyền là quân Xe.Hiệp sĩ đánh cờLibro de los juegos, 1283Vua và HậuBảo tàng quốc gia, London, Anh quốcCác nhà nghiên cứu đã xây dựng bản đồ phân bố các lọai trò chơi cờ trên thế giới, mọi người có thể tham khảo.Bản đồ phân bố khu vực các loại cờ Ảnh dùng tham khảoMột trong những hình thức trò chơi truyền thống ở Trung Hoa thời cổ là Tượng hý, cũng được phát triển vào đời Đường Tống. Thực sự có thể gọi ông tổ của Tượng kỳ trung Hoa phải là Bảo Ứng Tượng kỳ (cờ tượng Bảo Ứng) thời Đường. Tướng quốc Ngưu Tăng Nhụ thời Đường có biên soạn Huyền quái lục, trong nói vào năm Bảo Ứng thứ nhất nhà Đường khai quật được mộ cổ, trong mộ có một bộ cờ làm bằng kim loại, gồm các loại hình thức khác nhau như vua, thượng tướng, quân sư, chiến xa có mui, ngựa, lục giáp.Cung nữ chơi cờ Song lục (Nội nhân song lục đồ)Chu Phưởng [周昉] (~730 - 800, đời Đường), mực nho, màu trên lụa, Freer Gallery of Art, Washington * Tham khảo Lịch sử trò chơi, tác giả Thái Phong Minh, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2004. Theo dòng thời gian, có thể nói bài thơ Tượng dịch của Lưu Khắc trang thời Nam Tống là một trong những tài liệu đầu tiên chỉ dẫn cách chơi cờ. Theo Lý Tùng Phúc, một học giả Trung Hoa viết trong Tượng kỳ sở thoại thì Lưu Khắc Trang tự là Tiềm Phu, sinh năm 1187 và mất năm 1269, ông là một nhà thơ nổi tiếng thuộc trường phái giang hồ vào cuối Nam Tống. Ông là rất nhiều thi, từ và tản văn, đồng thời cũng là người cao cờ nhất thời đó. Bài tượng dịch được ông làm ra để tặng cho một người bạn thân, cũng vừa là nhà thơ và danh thủ cờ như ông. Đó là Diệp Tiềm Trọng, cháu nội của thừa tướng Diệp Hoành. Theo các nhà nghiên cứu thì bài thơ này có tựa đề là Tượng dịch nhất thủ trình Diệp Tiềm Trọng, xin tạm dịch ý tứ bài thơ:Mở đầu bài thơ, ông viết: “Cờ là một nghệ thuật nhỏ nhưng rất khó tinh tường, cho dù là người trí cao cũng như có chỗ chưa giải được. Ai đã từng chơi cờ mới thấy được những điều kỳ diệu trong ván cờ. Cuộc chiến diễn ra giữa hai nước khác nhau, ngăn cách bởi một con sông. Tất cả các quan liên kết gắn bó với nhau và đều tuân theo quyền điểu khiển của Tướng, Soái hình thành bốn bên vũng chắc cùng quân binh kiên cố. Với 32 quân, nhưng mỗi nước đi, mỗi quân cờ đều đem lại bao nhiêu sự biến hóa. Trước tiên nhằm khiêu khích địch, các quân phải bố trí có đội ngũ, cố phát huy hết sức mạnh và khai thác hết mũi nhọn của quân ta, phải nắm giữ khâu trọng yếu, thừa cơ đối lương biếng nhác mà tấn công. Khi tấn công có thể chơi chậm rãi theo kiểu bao vây nước Cử hoặc thần tốc kéo vào nước Thái (nhưng cuộc chiến thời Đông Chu liệt quốc), Pháo xa chớ đánh vào chỗ trống, Tốt quèn cũng cần đi thận trọng, thua chẳng phải do ít quân, thắng há phải chỉ liên quan đến số đông!”.Quyển cờ cổ nhất được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận là Sự lân quảng ký của trần Nguyên Tịnh, ông là một học giả thời Nam Tống, đồng thời với Lưu Khắc trang hoặc sau một ít. Sách của ông biên soạn có tên đầy đủ là Tân biên toàn đồ tăng loại quần thư loại yếu sự lâm quảng ký, nó không phải là một quyển sách cờ thuần túy, vì nó bao gồm 4 tập chia thành 42 quyển nhỏ. Quyển 5 là Nghệ văn loại có đề cập đến cờ Vây và cờ Tướng. Các nhà nghiên cứu cho rằng sách được in vào cuối thời Nam Tống tức là trước năm 1276, nhưng bản in cổ này hiện chưa ai tìm thấy. Năm 1325 sách được tái bản, tức là vào thời Nguyên - Thái Định đệ nhị niên, hiện vẫn còn được nhiều nhà nghiên cứu lưu giữ, phần nói về cờ tướng bao gồm các chương trình bày: Cách đi quân (Tượng kỳ tử pháp), Bàn cờ (Kỳ cửu thập phân), Mười bí quyết chơi cờ (Tượng kỳ thập quyết), Mười ván cờ tàn nổi tiếng (Thập bàn cục diện). Sau khi tái bản, người ta bổ sung vào 2 ván đối cục đều thuộc loại đấu Pháo, không ghi rõ tên của những kỳ thủ nào, cuối cùng có thêm một ván cờ tàn nổi tiếng có tên là “Song long xuất hải”.Sau quyển Sự lâm quảng ký, một số nhà nghiên cứu phát hiện quyển Du hý đại toàn của Sơn Dã cư sĩ biên soạn và bạn là đạo sĩ Nhất Tùng bổ sung, đem in lại khỏang năm 1383. Sách này có 8 quyển chia ra: 1 quyển nói về Xe, có 42 ván cờ; 2 quyển nói về Pháo với 120 ván; 1 quyển nói về Mã có 75 ván; 4 quyển nói về Tốt có 200 thế cờ; cộng chung tất cả có 437 thế. Sách được phát hiện từ bản chép tay do cố danh kỳ Vương Hạo Nhiên lưu giữ. Nếu Du hý đại toàn xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV như một số người nêu ra thì đây là quyển sách cờ Tướng đầu tiên đúng nghĩa kỳ phổ của nó và là một tài liệu tổng kết trận Thuận Pháo rất đáng trân trọng. Thế nhưng vấn đề thật, giả cho tới nay vẫn chưa thật rõ ràng.Quyển Mộng nhập thần cơ in trước đời Minh Gia Tĩnh tức là trước năm 1522, có thể đã xuất hiện vào thế kỷ XV nhưng một vài nhà nghiên cứu khác lại cho rằng nó xuất hiện từ giữa hoặc cuối thế kỷ XIV. Đó là họ căn cứ vào Nội các tàng thư mục lục đời Thanh để suy đoán chứ chưa có gì chắc chắn, ngay cả tên tác giả hiện nay cũng chưa tìm ra. Quyển này vốn gồm 12 tập, nay chỉ tìm thấy 4 tập, chủ yếu là cờ tàn và thế cờ nên rất khó thẩm định đầy đủ giá trị của nó. Quất trung bí được in vào năm 1632 gồm 4 quyển, trong đó 2 quyển đầu dạy đánh cờ bàn, chủ yếu là trận đấu Pháo (thuận và nghịch Pháo) với nhiều nước biến rất là thú vị. Kế đó là trận Pháo đầu phá Đơn đề mã, Pháo đầu phá Triền Giác Mã, Bình phong Mã chấp 1 Mã và cách chấp 2 Mã. Hai quyển sau là những ván cờ tàn và cờ thế gồm 140 ván, phân ra từng loại: thắng hoặc hòa, được phân tích khá kỹ. Vì sao Chu Tấn trinh đặt tên sách là Quất Trung bí? Quất trung bí có nghĩa là bí quyết trong quả quýt, dựa theo điển tích được ghi trong quyển Huyền quái lục của thừa tướng Lưu Tăng Nhu đời Đường. Sách có kể câu chuyện kỳ quái như sau: Có người ở đất Ba Cung, không rõ tên gì, nhà có một vườn quýt. Một hôm có một cây quýt sinh ra hai quả rất to, người chủ thấy lạ hái cả hai bổ ra xem, thì thấy trong mỗi quả đều có hai ông già râu dài, gầy nhom, ngồi quay mặt vào nhau đánh cờ. Người ta nói đó là hai ông tiên cao cờ! Do điển tích này mà người ta gọi đánh cờ là Quất trung lạc. Câu chuyện trên trong Huyền quái lục là chuyện thần thoại được lưu truyền trong dân gian và được thêm thắt nhiều đều ly kỳ và Chu Tấn Trinh đặt tên sách như vậy phải chăng hàm ý đây là những bí quyết của cờ tiên!.Bên Xanh con Tướng viết chữ Tướng 將, bên Đỏ con ấy lại viết bằng chữ Soái 帥; bên Xanh con Tượng viết bằng chữ Tượng 象, bên Đỏ con ấy lại viết bằng chữ Tương 相 (là chữ cùng đồng âm “xieng” như Hán gọi, nhưng nơi Hán không có Voi, đương nhiên là đánh trận không có “quân chủng” Voi, nên thay bằng chữ Tương 相 đồng âm với Tượng, chứ không phải là Voi, để làm con tương đương, cũng mang nghĩa Tương 相 là tương đương). Bên Xanh con Sĩ viết bằng chữ Sĩ 士, nhưng bên Đỏ chữ Sĩ 仕có thêm bộ nhân亻 đứng (các chữ Mã傌, Xa 俥 cũng vậy, có thêm nhân đứng). Bên Xanh chữ Pháo 砲là bộ thạch 石, bên Đỏ chữ Pháo 炮 lại là bộ hỏa 火. Bên Xanh là con Tốt 卒, còn bên Đỏ là con Binh 兵. Con Tốt mang ý nghĩa quân thí, bị ép buộc còn Binh là quân đã được rèn luyện qua binh pháp chiến đấu. Con Binh, Tốt là đông nhất nhưng cấp thấp nhất, và là quân giáp chiến trước tiên nên rất biết tự chủ và độc lập sáng tạo.Tượng là thuật ngữ thường gặp trong học thuyết Bát quái, “Tượng” vốn là tên một con thú, mượn mang ý nghĩa tượng trưng hiện tượng, hình tượng, sách Bí ẩn của Bát quái, tác giả Vương Ngọc Đức - Diêu Vĩ Quân - Tăng Lôi Quang, Nxb VHTT - 1996, dịch giả Trần Đình Hiến, trang 61. Từ hiện tượng này, liên hệ đến chữ “Tượng” trong “Tứ tượng” của kinh Dịch, cho chúng ta thấy một yếu tố về ngôn ngữ chứng tỏ rằng: ngay từ nguyên lý khởi nguyên của hệ thống của vũ trụ quan Đông phương đã gắn liền với nền văn minh Lạc Việt khi chữ “Tượng” trong “Tứ tượng” được vay mượn từ “Tượng“ với nghĩa Việt là “con voi”. Trong bàn cờ tướng có tổng cộng là bốn con Tượng nhưng con Tượng đỏ mang tên chữ Hán lại là Tương, chúng ta có thể hiểu theo Lý Dịch là thể hiện trên trên bàn cờ tướng do người chơi tư duy cũng giống như vô vàn sự vật, hiện tượng đang diễn ra, được nhận biết cụ thể nhưng đứng đằng sau nó còn có những động lực thúc đẩy, theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử đó là Đạo.Tượng hay Tịnh là tư duy tĩnh tại, hướng nội, là để nhấn từ cái ý chuyển sang hành động quyết đoán của người chỉ huy để giành thắng lợi của cuộc cờ. Người xưa viết bằng hai chữ Tượng Kỳ 象棋 là nhấn mạnh ý nước đi luôn được tư duy trừu tượng, cũng có thể gọi là cái mưu trí để giành chiến thắng trên chiến trường. Truyện Nhạc Phi diễn nghĩa, hồi 1: Xích tu long hạ giới - Kim sí điểu giáng phàm. Thuở ấy tại núi Tây Nhạc Hoạ có ông Trần Đoàn tức Hi Di tiên sinh ở ẩn trong núi, công phu tu luyện trở nên một vị tiên đạo cao, đức dày. Tôi còn nhớ năm ấy có Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn đi Quảng Tây, băng ngang qua đường này, sư phụ ta thấy thế vội hô phong nổi lên một trận gió rước người lên núi đánh cờ, thắng cờ, người được hai trăm lượng bạc rồi ép Thái Tổ làm giấy bán đứt núi Hoạ Sơn này. Trong lúc ấy có Tiểu Thanh Long là Sài Vinh và Ngoạ Hồ Tinh là Trịnh Ân cùng đứng ra làm chứng. Về sau Triệu Khuông Dẫn lên ngôi báu, sư phụ ta mang văn khổ ấy xuống kinh đô chúc mừng và yêu cầu cho dãy núi này từ nay về sau không phải đóng thuế, cho nên bàn cờ tàn này đến nay vẫn còn.Núi Hoa Sơn, Thiểm TâyẢnh tham khảo, Du lịch Trung Quốc Hoa Sơn là cái nôi của Đạo giáo, nơi đây cũng còn là quê hương của võ hiệp và thi ca, trong gió ngàn mây thấp thoáng trên con dốc cao ngất dẫn lên đỉnh Trung phong, đây đó là bóng dáng của những đạo sĩ Đạo giáo râu tóc như người xưa.Truyền thuyết diễn biến ván cờ theo sách chép lại Triệu Khuông Dẫn nắm cờ đỏ thua do “nước Pháo”, giai thoại này thường được người đời đem ra làm bài học về đức tính kiên nhẫn, trầm tĩnh khi đối địch cũng như trong đối nhân xử thế. Bàn cờ có 32 quân có thể xem là 32 cặp quẻ Dịch phân Âm Dương, mỗi bên 16 quân, 64 ô trên bàn cờ chính là tượng của 64 quẻ Dịch. 8 ô ẩn ngăn cách tạo nên con sông “Sở giang - Hán giới” giữa hai bên chính là tượng của Bát quái Hậu thiên, bàn cờ nhân thế mà Lý Dịch thể hiện cho dòng sinh tử miễn viễn của cuộc cờ Người, trong Tùy Đường diễn nghĩa có bài thơ thể hiện:Mười vạn tinh binh giữ cõi ngoài, Ấn vàng treo Đẩu ánh trăng soi.Lá cờ sông Dịch mây tung ngất,Mũi giáo đài Yên sương chói ngời.Quân cờ động thuộc Âm, nên có hình tượng là Dương tròn, bàn cờ tĩnh thuộc Dương nên có hình tượng Âm chữ nhật (vuông), theo nguyên lý trong Dương có Âm và ngược lại. Mỗi quân cờ tại mắt giao đường ngang và dọc tượng trưng mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa vạn vật trong không thời gian vô tận, còn sự thiên biến vạn hóa trên bàn cờ chính là sự thể hiện tương tác Âm Dương.Bộ cờ Rajasthan, cuối thế kỷ XVIII Tham khảo Internet Điển cố Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn thua cờ Hi Di Trần Đoàn tiên sinh mất núi Hoa Sơn mang mật ngữ: Hoa sơn được xem là cội nguồn của Đạo giáo nhưng Đạo giáo có nguồn gốc không phải từ vùng phía Bắc sông Dương Tử mà từ phương Nam. Trong thời Tống, Nguyên cũng đã sử dụng pháo trong các cuộc chiến tranh, bức tranh cổ của Nhật Bản mô tả một quả pháo đang phát nổ trên không trong một trận giao tranh với quân Nguyên.Súng đồng đời Nguyên và xe lửa hỏa côngTrích Lịch sử văn minh & các triều đại Trung Quốc, tác giả Dương Ngọc Hùng và Lê Anh Minh, 2004Bàn cờ với Tướng xanh và Soái đỏ mang ẩn nghĩa nước Nam luôn là chủ soái trên chiến trường trước các cuộc chiến xâm lăng từ bên ngoài, luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa lấy nhân nghĩa làm lý tưởng, đỉnh cao là ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông oanh liệt, hãy cùng xem xét đoạn tóm tắt trích từ Tùy Đường diễn nghĩa:Hồi thứ 95: “Lý nhạc công thổi sáo gặp tiên ông - Vương cung phụng nghe cờ học thần nữ”. Tích Tân vô tình lọt vào một thôn vắng gần khe núi, trời đã gần tối, cả thôn chỉ có mỗi một căn nhà ba gian tranh nứa của hai mẹ con nàng dâu, Tích Tân xin ngủ trọ ngoài thềm. Nửa đêm, Tích Tân trằn trọc không nhắm mắt được, qua vách nứa nghe được câu chuyện mẹ chồng và nàng dâu đánh cờ vây bằng miệng cho khuây khỏa. Bà mẹ cất tiếng: Mẹ cho con đi trước! Nàng dâu đáp: Con đi con Đông 5 tới Nam 9. Im lặng một lát, bà già lên tiếng: Mẹ đi con Đông 5 tới Nam 12. Lại yên lặng, rồi nàng dâu nói: Con đi con Tây 8 tới Nam 10. Lại im lặng, rồi bà già tiếp: Mẹ đi con Tây 9 đến Nam 14. Cứ mỗi lần đi lại yên lặng nghĩ ngợi một hồi, đêm đã sang canh tư, mới đi được cả thảy 36 nước. Tích Tân gắng nhớ kỹ từng bước, bỗng nghe tiếng bà già cười vui vẻ: Con dâu lão thua rồi, thế là mẹ thắng 9 ván nhé. Nàng dâu thưa: Con tính nhầm một nước, thua là phải rồi, sau đó thấy im lặng. Cờ tiên cao nhã thần thông,Bổ vây, cứu ứng Có Không nhiệm mầu,Trợ tài công thủ thấp cao,Mới ra tay đã đứng đầu nhân gian. Theo điệu “Nguyệt trung hành”.Sáng ra, Tích Tân chào hỏi hai mẹ con và nài nỉ xin học, bà mẹ có phong thái khuê các dạy cho Tích Tân đủ cách công thủ, sát, đoạt, ứng cứu phòng ngự, ý thì đại lược nhưng đều là những điều xưa nay chưa từng nghe, chưa từng nghĩ tới bao giờ, đúng là: Huyền vi cờ Dịch lẽ âm dương,Bí quyết xem ra chẳng phải thường, Vô địch cõi trần, cười nghĩ lại, Mục rồi cán búa, nợ duyên vương.Tích Tân cứ theo nước cờ của hai mẹ con bà tiên đem bày ra xem xét, tính toán mãi, cạn lòng nát óc mà vẫn không hiểu ra câu: "Thế là mẹ thắng 9 ván nhé là nghĩa ra làm sao? Nhưng cứ ghi nhớ lấy, đợi có lúc gặp người tài giỏi hơn sẽ rõ được cũng nên!. Tích Tân gặp tiên bà dạy cờ nhưng chẳng rõ loại tiên nào, tác giả nói rằng: nếu có Trương Quả, Diệp Pháp Thiện, La Công Viễn, thì chỉ cần một trong ba người mà có ở đây, ắt biết rõ lai lịch các vị tiên ngay. Câu "Thế là mẹ thắng 9 ván nhé” trong đoạn văn trên là mật ngữ nói về lịch sử các cuộc chiến tranh giành thắng lợi của nước Việt cho tới thời của tác giả: Thánh Gióng đánh tan giặc Ân xâm lược, An Dương Vương đánh Tần giết chủ tướng Đồ Thư, Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định thu lại giang sơn, Lý Nam Đế đánh đuổi quân Lương, Đinh Bộ Lĩnh đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Lê Hoàn thắng Tống và 3 cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông vang dội thế giới lúc bấy giờ. Bàn cờ tướng không dùng quân Vua như cờ Vua, bởi vì theo quan niệm dân gian thì chỉ có ông Trời là cao nhất, vua được cho là do ông Trời sắp đặt, cho nên các vị vua phương Đông thường xưng mình là Thiên tử tức con Trời. Ở đây, ông Trời chính là vua Đế Thích, người sắp đặt cuộc cờ Người mà trong văn học dân gian còn lưu truyền những câu truyện hầu hết người Việt Nam đều biết, đó là truyện Tây Du Ký, tác giả Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết: Kinh Lạn Kha nói đạo đánh cờ quý ở chỗ nghiêm túc, cẩn thận. Người cao cờ, đánh ở trung tâm. Người thấp cờ, đánh ở bên cạnh. Người trung bình, đánh ở các góc. Đó là phép thường trong đạo đánh cờ vậy. Phép đánh cờ có nói: Thà thua một quân chứ không để mất thế chủ động. Đánh bên trái, phải nhìn bên phải. Đánh phía trước phải nhìn phía sau. Có khi đánh trước mà lại sau, có khi đánh sau mà lại trước, hai bên liên lạc, không được tách rời. Thế rộng nhưng không nên quá thưa, thế dày không nên quá chặt. Cố giữ quân để cầu sống, không bằng thí quân để thắng cờ. Cầu vô sự mà đi nước rời, không bằng bổ sung bền thế trận. Người nhiều ta ít, trước phải bảo tồn. Người ít ta nhiều, cần căng thế trận. Người khéo thắng không tranh, người khéo trận không đánh, người khéo đánh không thua, người khéo thua không loạn. Phàm đánh cờ, trước hết phải đàng hoàng, cuối cùng dùng mẹo lạ mà thắng. Phàm bên địch vô sự mà giữ thế là có ý tấn công, bỏ quân nhỏ mà không cứu, tất có chí lớn. Những kẻ thò tay đi ngay là đồ vô mưu, ứng phó không nghĩ suy là tìm thất bại. Kinh Thi nói: “Nơm nớp sợ hãi, như xuống vực sâu, là như vậy đó”. Bàn cờ là đất, Quân là Trời,Tạo hóa Âm Dương thật tuyệt vời,Đến chỗ huyền vi thông biến ấy,Lạn Kha kinh ấy cũng trò chơi.Đại Nam Nhất thống chí, tỉnh Hải Dương viết: đền Đế Thích ở xã Liêu Hạ, huyện Đường Hào. Tương truyền đời Lý năm Long thụy, Thái Bình thứ 2 (1055), Trương Ba người Liêu Hạ (có thuyết người hương Cổ Liêu), ba đời làm việc thiện rất cao cờ, cùng với một người bạn về Liêu Hương dựng một cái am để ở. Một hôm nói chuyện với nhau rằng: “Nghe nói ở thượng giới có Đế Thích là vua cờ, nếu có duyên được gặp được sẽ đấu trí với nhau mấy ngày!”. Một hôm, chợt thấy một ông già, áo rách, nón nan, chống gậy đến xin vào dự cuộc, rồi cùng Trương Ba đấu cờ, mới đi được năm ba nước đều thắng cả. Trương Ba sợ hãi hỏi tên, ông già nói: “Tôi là Đế Thích ở tầng trời thứ 33 trên thượng giới”. Hai người bèn xuống thềm sụp lạy, rồi dâng mía và chuối. Đế Thích bèn lấy 3 nén trầm hương, đàn hương và giáng hương ở tay áo trao cho, mà rằng: “Sau này, nếu có hoạn nạn thì đốt hương thì ta sẽ đến cứu”. Nói xong liền bay lên không. Hai người đêm hương cất vào một chỗ, lâu ngày quên bẵng đi. Sau khi chết, người nhà quét dọn thấy mấy nén hương còn sót lại bèn đem đốt, thần liền giáng hạ, thì thấy hai người đã chết rồi, thần liền triệu Tam phủ Công đồng đến để hoàn hồn, hai người được sống lại lập miếu thờ Đế Thích. Tượng Đế ThíchChùa Vua, Hà Nội, Việt NamVề sau đển Đế Thích được đưa ra Thăng Long thành chùa Vua, nay thuộc làng Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng. Hàng năm có ba ngày lễ hội truyền thống vào ngày mồng 6, 7, 8 tháng Giêng và ngày mồng 9 tháng Giêng là ngày vía Đế Thích cũng ngày các kỳ thủ tranh ngôi quán quân. Trong Đạo giáo, mồng 9 tháng Giêng cũng là ngày vía Ngọc Hoàng Thượng Đế, như vậy hai vị này hoàn toàn là một. Ngày này, người ta tới đền, chùa dâng hương lễ bái và cầu mong cuộc sống dài lâu, “Muốn sống lâu cầu vua Đế Thích” là câu nói truyền miệng phổ biến trong dân gian Việt Nam. Thi Cờ Người Thi cờ người ở chùa Vua, Hà Nội, Việt NamTrong thờ tự dân gian, Ngọc Hoàng Thượng Đế được thờ độc lập trên một bàn thờ ngoài trời thường gọi là bàn Thiên. Bàn Thiên chỉ có lư hương và bình hoa, một số nơi thờ trong nhà thì có thêm bài vị, trên ghi “Thiên Quan Tứ Phúc” nghĩa là Thiên quan ban phúc. Ngọc Hoàng Thượng Đế Tranh dân gian Trung Hoa Dòng tranh thờ Đạo giáo của các dân tộc miền Bắc Việt Nam cũng thể hiện Ngọc Hòang Thượng Đế cũng chính là Đế Thích, vua cõi Trời, còn Phạm Thiên là nhân vật ở vị trí kế tiếp, Phạm Thiên có bốn mặt hai tay cầm nhật, nguyệt. Ngoài ra, trong các ngôi chùa miền Bắc, tại bàn thờ chính điện Đại Hùng thì tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế đặt ở giữa, hai bên là tượng của hai vị thần Nam Tào và Bắc Đẩu, bộ ba tượng này được đặt ngay sau tòa tượng Cửu Long. Trong bức tranh Tử Vi Cung của bộ ba bức tranh Thánh Đạo hưng long, dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ, Đế Thích là vị ngay dưới vị trí Tam Thanh.Tử Vi Cung Tranh thờ Đạo giáo dân tộc Sán Dìu, Việt NamTrong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền dị bản khác, truyện kể rằng: ngày xưa, có anh Trương Ba rất giỏi đánh cờ tướng, có một lần anh dồn đối phương vào thế bí rồi hãnh diện nói rằng: “Thế cờ này, đến Đế Thích cũng không gỡ nổi”. Không ngờ Đế Thích hiện ra thật, và chỉ vài nước cờ là Trương Ba đang thắng hóa thua, từ đó anh thờ Đế Thích làm thầy dạy cờ. Đế Thích cho anh mấy nén hương để khi cần thắp lên gọi ngài. Trương Ba chết đột ngột, vợ anh thắp hương thờ chồng, trong đó có mấy nén hương của Đế Thích cho. Đế Thích hiện lên, vợ Trương Ba cầu xin Đế Thích làm cho chồng sống lại, nhưng Trương Ba chết đã lâu, xác đã nát nên Đế Thích mượn xác ông hàng thịt mới chết để nhập hồn Trương Ba vào. Như vậy, xác của anh hàng thịt còn hồn của anh Trương Ba. Vợ anh hàng thịt và vợ anh Trương Ba kiện nhau ra cửa quan để giành chồng. Quan bắt một con lợn cho người sống lại làm thử, thì người này tỏ ra lúng túng nhưng khi Quan cho chơi cờ, thì người này tỏ ra cao thủ. Cuối cùng, Quan xử người sống lại chính là Trương Ba. Từ Đạo Hạnh, Trần Nhân Tông, những trái chiều lịch sử, tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Đinh Việt Lực, Nguyễn Đức Dũng, nxb Văn Hóa - Thông tin & Viện Văn hóa, 2011).Quân phương Nam cầm vũ khí hình chữ Nhân tức lấy nhân nghĩa làm đầu, áp dụng lý luận chiến tranh “Quân chính nghĩa thì sức chiến đấu rất mạnh, quân phi nghĩa thì sức chiến đấu rệu rã” rút ra từ điển cố trong cuốn Hán Sở tranh hùng, Trương Lương du ngoạn trên Cầu Di, được tiên ông Hoàng Thạch Công trao cho 3 cuốn bí thư có Thái Công Binh pháp. Cổ xưa nhất là cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên (145-86 tr.CN), cũng có đề cập đến điển cố này.Khương Thái công binh pháp, biên soạn Ứng Hàm, dịch giả Phạm Kỳ Nam, Phan Quốc Bảo, Đào Trọng Tùng, nxb Lao động, 2004 và Thái Công binh pháp, Hoàng Thạch Công, dịch giả Mã Nguyên Lương và Lê Xuân Mai, 1996, Nxb Thanh Hóa.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Điển tích nổi tiếng ghi nhận lại trong Hán Sở Tranh Hùng từ Sử Ký của Tư Mã Thiên, một hôm Trương Lương đi chơi trên cầu Hạ Bì gặp tiên ông Hoàng Thạch Công, 3 lần lượm giày rơi dưới nước cho tiên ông và 3 lần không lỗi hẹn gặp mặt vào canh năm đã được tiên ông tặng cho 3 quyển bí thư, trong có đủ kỳ mưu, thần toán, dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Trương Lương trở về nhà mở sách ra xem thấy đó là bộ Thái Công binh pháp, ngày đêm cố gắng học tập trước vì nước Hàn báo thù, sau vì thiên hạ giúp Hán vương đem lại thái bình để khỏi phụ tình tri ngộ của tiên ông đã tặng sách. Sau khi triều Hán thống nhất, Trương Lương treo ấn từ quan, ngao du sơn thủy, học theo ông Xích Tùng Tử tu luyện, nghiên cứu các phép tịch cốc làm kế trường sinh, để sống một cuộc đời an nhàn cho thỏa thích. Ba năm sau, Trương Lương qua chơi phía Ðông dưới chân thành Ðại Cốc phía Bắc sông Tế thấy có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng (hoàng thạch) sực nhớ đó là lời dặn nơi ở của tiên ông.Màu quân xanh đỏ được xác nhận trong truyện khuyết danh Hán Sở tranh hùng khi Tần Thủy Hoàng mơ đứa bé mặc áo xanh vật ngã đứa bé áo đỏ 72 lần nhưng bất ngờ bị đứa bé mặc áo đỏ đá chết, bé mặc áo đỏ ôm lấy mặt trời chạy về phương Nam, cho nên tác giả truyện này chính là người sáng tác bàn cờ tướng. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, Triều Tần lấy “Thủy đức” làm chủ đạo, áo quần, cờ tiết (làm bằng lông chim), cờ mao (làm bằng lông thú) đều dùng màu đen. Sử ký Tư Mã Thiên, dịch giả Phan Ngọc, Nxb thời đại, 2010. Lưu Bang thắng Hạng Võ lập ra nhà Hán, nghĩa là tiếp nối hành Thủy của triều Tần là hành Mộc xem như thuộc Sở, tiếp hành Mộc là hành Hỏa thuộc Hán.Hán Sở tranh hùng, Hồi 1: Thâu sáu nước, Thủy Hoàng dựng nhà Tần - Oán trăm họ, dân gian hờn bạo chúa: “… Thủy Hoàng dạo gót khắp nơi, mãi cho tới lúc ánh nắng bắt đầu gay gắt, Thủy Hoàng thấy mình rồng mỏi mệt, liền lên Hiển Thánh điện để nghỉ. Đang trong giấc điệp mơ màng, Thủy Hoàng chợt nghe bên tai một tiếng nỗ long trời lở đất, rồi một vầng thái dương đỏ ửng từ trên trời rơi xuống. Bỗng thấy một đứa bé áo xanh, mặt đen chạy đến ôm vầng thái dương toan chạy. Liền lúc đó, lại có một đứa bé khác, mặc áo đỏ, đôi mắt sáng quắc từ phương Nam chạy đến hét lớn: Tên áo xanh kia! Hãy để vầng thái dương đấy. Ta vâng lệnh Ngọc hoàng đến lấy vầng thái dương đây. Ðứa bé áo xanh không chịu, cả hai ôm nhau vật lộn. Ðứa bé áo xanh vật ngã đứa bé áo đỏ 72 lần, nhưng bất thình lình đứa bé áo đỏ đá một đá thật mạnh, đứa bé áo xanh ngã lăn xuống đất chết tươi. Thủy Hoàng thấy vậy kêu lên: Hỡi hài đồng kia! Đừng vội đoạt vầng thái dương, hãy bảo cho ta biết chúng bây là ai?. Ðứa bé đáp: Ta là dòng dõi Thuấn Nghiêu, quê ở Phong Bài vì dân dấy nghĩa. Thượng đế đã cho ta hưởng lịch bốn trăm năm. Nói xong, đứa bé áo đỏ ôm vầng thái dương chạy biến về phương Nam. Thủy Hoàng đưa mắt nhìn theo bóng đứa bé mờ dần rồi khuất sau vầng hào quang giống như vầng vân khí nơi núi Kê Ðầu. Thủy Hoàng bừng mắt tỉnh dậy, mới biết đó là chiêm bao, lòng bâng khuâng tự nghĩ: Giấc mộng này lành ít dữ nhiều. Nhà Tần ta có lẽ vận mạng đã hết, thiên hạ ắt về tay kẻ khác.” Theo cuốn sách khuyết danh Hán Sở tranh hùng thì khởi nghiệp nhà Hán là Lưu Bang có cuộc chiến liên miên với Sở Vương là Hạng Vũ. Cuộc chiến giữa hai bên làm trăm họ lầm than, mãi đến khi thấy không còn đủ sức để tiêu diệt lẫn nhau, hai bên mới chịu giao ước chia đôi thiên hạ: lấy Hồng Câu làm giới hạn, từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, còn từ Hồng Câu về Đông thuộc Sở. Chung Vô Diệm đấu cờ trong truyền kỳ phương Đông, một cuộc cờ có thể được xem là giữ kỷ lục thế giới về quy mô giá trị ở Hội kỳ bàn tại Vọng giang lầu, giữa vương hậu nước Tề là Chung Vô Diệm, vốn là tiên con của bà Tây Vương Mẫu, và thừa tướng Hạ Hầu Anh nước Sở, mang lốt một con khỉ nổi tiếng cao cờ trong tiểu thuyết khuyết danh Chung Vô Diệm. Hồi 46: Chung hậu đánh cờ, chém Hầu thừa tướng - Ngũ Anh cướp trận, trúng kế Liêm Pha, phần thưởng được đem ra cá cược của mỗi bên là toàn bộ giang sơn đất nước. Nhờ dùng mẹo bỏ quả đào tiên của bà Tây Vương Mẫu trong tay áo, làm cho thừa tướng nhà khỉ trông thấy thèm rỏ dãi, chểnh mảng nước cờ và do vậy, Chung Hậu đã thắng liên tiếp hai ván bằng nước chiếu của quân Pháo. Nhưng vua quan nước Sở lật lọng cam kết lại còn bày kế mai phục định hãm hại vợ chồng Tề Tuyên Vương. Chung Vô Diệm nổi giận đã chém kỳ thủ nhà khỉ đứt làm đôi, rồi vừa cõng chồng vừa vung gươm mở đường thoát thân. Hai bên tiếp tục giải quyết thắng thua bằng một trận hỗn chiến với hàng vạn binh tướng thây phơi đầy nội, máu chảy thành sông, trong trận chiến có nói đến Chung Hậu đấu với tám nữ tướng nước Sở và hẹn cùng quân tướng chạy tới sông Trường giang để nghỉ ngơi. Kết cục, nước Sở đại bại phải dâng biểu xin làm cống thần và coi nước Tề ở địa vị thượng quốc. Câu chuyện trên mô tả một trận cờ tướng hết sức kỳ lạ, nhưng rõ ràng vào thời Chiến Quốc (III-V tr.CN) chưa hề có môn cờ này, cổ nhất có lẽ là cờ Vây và sau đó là cờ Lục bác (Liubo). Trung bình hội kỳ đồ (tranh đánh cờ vây trước bình phong)Đời Ngũ Đại, Trung Quốc, Châu Văn Cự “Chung Vô Diệm” nghĩa là diệt hết ngọn lửa tham, sân, si trong lòng như lúc nào chúng cũng chực bùng phát, bằng pháp môn Thiền quán nhằm kiềm chế “mã ý tâm viên”, nội dung này tương ứng với một phần nội dung Hỏa diệm sơn của truyện Tây Du Ký cũng của tác giả, phải dùng quạt ba tiêu của công chúa Thiết Phiến mới thổi tắt được. Trong câu truyện, ẩn ngữ Chung Hậu đấu với tám nữ tướng nước Sở và hẹn cùng quân tướng chạy tới sông Trường giang để nghỉ ngơi chỉ ra tám ô ẩn của con sông “Sở hà - Hán giới” chính là con sông Trường giang (Dương Tử) là ranh giới phân chia cương vực Kinh Dương Vương làm vua phương Nam tức nước Văn Lang, và Đế Nghi làm vua phương Bắc, do vua Đế Minh phân chia và trao cho, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông (Lĩnh Nam chích quái, tác giả Trần Thế Pháp, khoảng thể kỷ XIV).Sông Dương TửBức tranh xưa Trung Quốc Qua điển cố Chung Vô Diệm chém Hạ Hầu Anh do Hạ Hầu Anh vì thèm trái đào tiên của bà Tây Vương mẫu mà lơ là để thua ván cờ, nước Sở phải thần phục nước Tề như một cuộc chiến giữa các quốc gia được mô phỏng trên bàn cờ tướng nhưng ý chính vẫn là cuộc chiến sinh tử của mỗi con người trong dòng chảy vô thường của thời gian, cũng được xem như một ván cờ người.Hình ảnh đứa bé mặc áo xanh và đỏ xuất hiện trong mơ của Tần Thủy Hoàng ở Hán Sở tranh hùng thì rõ ràng, màu quân cờ là màu xanh và đỏ. Màu xanh lá cây tượng trưng cho sinh, màu đỏ tượng trưng cho sự hóa chứ không phải tử, xanh đỏ là sự sinh hóa liên tục, miên miễn do tương tác âm dương qua hình hình ảnh hai vị tiên ông Nam Tào và Bắc Đẩu đánh cờ trong các câu chuyện truyền thuyết dân gian Việt Nam. Lúc này, con sông Trường giang trên bàn cờ, chia đôi Bắc Nam, như màu đỏ và đen, tượng trưng cho phân cách Âm Dương.Trong cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, trang 425, tập II, tác giả Chử Nhân Hoạch, có đề cập đến cờ Song lục là loại cờ có nguồn gốc từ Ấn Độ, đánh hai người, có bàn gồm 6 cửa, nên gọi là “Song lục”, chia thành nhiều ô, mỗi bên 20 quân, ai vào cửa trước là thắng. Nội dung hồi này tác giả có ẩn ý rằng bàn cờ tướng cũng được tham khảo qua từ bàn cờ Song lục. Tác giả Chử Nhân Hoạch chính là Phật Hoàng Trần Nhân Tông bởi nhiều mắt xích nội dung liên kết với nhau, đặc biệt sự kiện hồn vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân xuống cõi Phong Đô, tại tòa thành “U Minh địa phủ quỷ môn quan” gặp Thập điện Diêm vương để giải thích về việc hứa cứu Long Vương sông Kinh Hà nhưng lại bị tào quan Ngụy Trưng được lệnh xuất hồn trong khi ngủ, nhằm lúc đánh cờ với Thái Tông chém chết, toàn bộ sự kiện này hoàn toàn tương ứng nội dung của truyện Tây Du Ký tác giả Trần Nhân Tông. Hồi sách này cũng đề cập sơ qua về việc pháp sư Tam Tạng được rước về kinh, lập Thủy lục đạo tràng siêu độ cho các u hồn theo thỉnh nguyện của Đường Thái Tông.Trong cuốn Nhạc Phi diễn nghĩa, khuyết danh đã mô tả cuộc chiến giữa quân Tống dưới sự điều động của Lương Phu nhân sử dụng pháo binh và thiết hỏa xa ra tấn công quân Phiên, có một số khẩu pháo toác miệng làm đôi sau những tiếng nổ long trời, lở đất, khói bốc lên chín tầng mây, loang ra mấy dặm. Cho nên, thiên hạ truyền câu ca dao “Lôi Chấn tam sơn khẩu - Pháo toác Lưỡng Lang quan”, nghĩa là trời đất đã giúp binh Phiên phá súng thần công mở đường cho Ngột Truật xua quân theo đại lộ chạy vào ải. Nhạc PhiMiếu thờ Nhạc Phi ở Hàng Châu, Trung Hoa Nhạc Phi (1103-1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân đội của ông đã đánh nhau với quân Kim 126 trận và toàn thắng. Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, chức tước của ông là Đại Nguyên soái. Người Trung Hoa luôn lấy Nhạc Phi làm tấm gương noi theo, đời đời kính nhớ người con chí hiếu, cũng là một người anh hùng dân tộc.Bốn chữ đại tự trên bức hoành phi: "Hoàn ngã hà sơn" nghĩa là “Hoàn lại núi sông" kiểu chữ rất cổ. Chữ Nhân cũng là hình vũ khí qua đồng, là loại binh khí đặc biệt dùng độc lập hoặc liên kết nhiều lưỡi để tấn công kỵ binh, dùng chặt, khóa chân ngựa để phá thế trận liên hoàn mã mạnh mẽ của phương Bắc. Vũ khí này được mô tả trong Nhạc Phi diễn nghĩa: Hồi 57: Dùng câu liêm thương phá Liên hoàn mã - Nhờ thư tiễn thoát khỏi Thiết phù đà. Hai bên đánh nhau được vài mươi hiệp, Phiên tướng giả thua quay ngựa chạy thẳng vào dinh, bốn tướng không ngần ngại gì cả cứ việc đuổi theo, bỗng nghe tiểu Phiên rúc còi gióng trống hô lên một lượt. Ba ngàn quân "Liên hoàn giáp mã" tràn ra vây kín, Trương Lập thấy thế truyền quân lấy đăng bài ra che khắp bốn phía, cung tên bắn vào không ăn thua gì cả còn Mạnh Bang Kiệt và Trương Hiến thì đốc thúc quân sĩ lấy câu liêm thương ra móc chân ngựa giật lia lịa. Vì ngựa đối phương cột chùm với nhau nên khi giật ngã được vài ba con thì kéo nhau ngã không cựa quậy được, quân Phiên thất kinh hồn vía, đạp bừa lên nhau chết vô số. Bỗng nghe bên dinh Tống phát lên một tiếng pháo nổ vang, Nhạc Vân, Trương Hiến ở bên phải đánh thốc vào, Nghiêm Thành Phương cùng Hà Nguyên Khánh cũng từ bên trái đánh tới, hai mặt giáp công đánh thôi tối trời mịt đất, Phiên tướng không còn đủ sức ngăn đỡ nữa.Ngoài cuốn Nhạc Phi diễn nghĩa thì trong Tùy Đường diễn nghĩa, tác giả cũng biểu lộ mối cảm hoài của mình đối với sự nghiệp tận trung báo quốc của Nhạc Phi:Trung nghĩa đem bàn thuật dễ thông, Khó chăng khi gặp bước đường cùng,Lê Viên tuẫn tiết bao nhiêu kẻ,Xin chớ coi thường chí Nhạc Công,Nhạc Công tuẫn tiết,Ai cô thần bi thiết hỏi trời xanh,Thơ ngâm gửi gắm chút tình,Hàng Châu, hàng chữ quên mình vì ai. Cuốn Nhạc Phi diễn nghĩa, trang 10 có đoạn: “Chắc ai cũng thừa hiểu bên Tây phương là nơi cực lạc. Hôm ấy, tại Lôi Âm Tự, Phật Tổ Như Lai ngự tại cửu phầm liên đài, hai bên có 4 vị Bồ Tát, 8 vị Đại Kim Cương, 500 vị La Hán, 3.000 vị Yết Đế cùng chư vị Hộ Pháp, thánh thần chầu chực để nghe Phật Tổ giảng dụ diệu pháp chân kinh”. Lôi Âm Tự đây chính là nơi đến cuối cùng để nhận kinh Phật của pháp sư Huyền Trang đi Tây phương, như đã được mô tả trong cuốn Tây Du Ký. Lôi Âm Tự không phải là tự viện Nalanda ở Ấn Độ mà là một ngôi chùa ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam, vua Trần Nhân Tông đã lấy tên đưa vào cốt truyện của mình, nơi ông đã cùng các tôn giả Pháp Loa, Huyền Quang thường đến đó giảng đạo. Trong văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông, lá thư tháng Ba năm Chí Nguyên 23 (1286): “Thế tử nước An Nam là thần Trần Nhật Huyên kính gửi: “…; Bàn cờ bằng xương voi cái, có màu gỗ vằn sáng, góc vàng phủ bạc, một chiếc ba lạng; Hộp phủ vàng có phủ xen vàng đỏ liền với múi, một chiếc 25 lạng; Bộ quân cờ bằng ngà voi, một bộ 32 con; ...” (trích Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb Phương Đông, tác giả Lê Mạnh Thát, 2010, trang 393). Như vậy, nội dung lá thư ngoại giao trên đã khẳng định một trong những vật phẩm gửi tặng chính là bàn cờ tướng làm bằng ngà voi.Chơi cờ trên thuyềnĐền Preah Khan, Campuchia Đền Preah Khan của Campuchia được xây dựng dưới triều vua King Jayavarman VII (1181-1201). Trong tác phẩm Macopolo du ký, dịch giả Nguyễn Thành Thống, Nxb Văn hóa Thông tin, 2008, tác giả cũng có đề cập đến trò chơi cờ tại Campuchia nhưng không nói là loại cờ gì, trong đó các con cờ được làm bằng gỗ mun đen.Vua Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi năm 1278 và nhường ngôi cho con vào nǎm 1293 lúc ông mới 35 tuổi, lên làm Thượng hoàng ông đã dành toàn quyền điều hành cho nhà vua trẻ. Ông ít khi trở về kinh, còn dành toàn bộ thời gian vào việc riêng của mình, đi chu du khắp nước và sang thăm viếng nước Chiêm Thành. Như vậy, nếu so với với năm 1286 ở trên thì cờ Tướng đã được ông sáng tác trước 28 tuổi, trong khi năm 1285 là bắt đầu cuộc chiến chống Nguyên Mông lần thứ II.Trong Tùy Đường diễn nghĩa, Hồi 100: “Đưa sang cung Nam Nội, ly gián tình phụ tử - Sai phù thủy Hồng Đô, kết thúc truyện Tùy Đường”: Hồng Đô liền cứ trong mây lành mà bay về phía Đông, gặp một tòa núi cao, tả sao hết cảnh sắc của núi, từ xa đã nhìn thấy từng hàng tùng bách xanh ngắt dưới chân núi, ngay dưới một cây tùng già, có ba vị tiên ông ngồi, hai vị đang đánh cờ vây và một vị ngồi cạnh xem. Hồng Đô tới bên lạy chào, các vị tiên tạm dừng cuộc cờ mà cả cười, Hồng Đô xin được biết họ tên, vị tiên ngồi ở chính giữa cất tiếng: Ta là Trương Quả, hai vị này chính là Diệp Pháp Thiện và La Công Viễn. Chúng ta đều có duyên nợ với thái thượng hoàng, vì vậy thường bày vẽ cho ít nhiều, chỉ vì thượng hoàng duyên trần còn nặng, lòng trí còn tối tăm, quên cả bản tính của chân thân, đành phải bỏ mà đi vậy. Thượng hoàng nay tuổi đã cao, chuyện yêu đương nghiêng ngả đâu còn, cũng nên giác ngộ đi còn gì, thuở trước giá có theo ta mà tu tiên học đạo, thì đâu đến nỗi đắm chìm trong bể họa như thế.Như trong câu chuyện đánh cờ vây giữa hai mẹ chồng nàng dâu đã đề cập ở trên, thì các vị tiên Trương Quả, hai vị này chính là Diệp Pháp Thiện và La Công Viễn trong cuộc chơi cờ vây kỳ thú vẫn chưa rõ là ai, chúng ta hãy cùng xem tóm tắt một câu chuyện trong tiểu thuyết Tam quốc chí, tương truyền là sáng tác của La Quán Trung.Quản Lộ tự Công Minh, người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264), diện mạo xấu xí, thích uống rượu, nhưng làu thông kinh Dịch, hiểu hết nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số và giỏi cả xem tướng. Có lần, Lộ đã cứu sống một thanh niên tên Triệu Nhan 19 tuổi vượt qua ngày chết, bằng cách xui anh đem một vò rượu ngon với thịt nai nướng thơm ngon dâng cho hai vị tiên đang đánh cờ ở núi Nam Sơn. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, còn một ông quay về hướng Bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp, ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào ghi sổ sinh, ông áo trlắng là ngôi Bắc Đẩu ghi sổ tử. Cuộc nói chuyện tiếp theo giữa Quản Lộ và Triệu Nhan cho biết các vấn đề liên quan là thiên văn, Nhan hỏi: Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông? Lộ giải thích: Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành 1. Như vậy, hai vị tiên đang đánh cờ là Nam Tào và Bắc Đẩu và vị chính giữa ngồi xem rõ ràng chính là vua cở Đế Thích hay Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trong câu chuyện trên, chỉ xác định được hai vị mà thôi bởi tác giả tiểu thuyết Tam quốc chí là một người khác. Đặc biệt, tác giả của cuốn tiểu thuyết này cũng đã lấy các sự kiện trong sự tích núi Lạn Kha và lễ hội hoa mẫu đơn đưa vào nội dung Tam quốc chí qua việc mô tả sự kiện Tào tháo rất thích hoa mẫu đơn. Đánh cờ, chạm gỗ, 1763 Đền Tam Lang, Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh (trích Bản rập họa tiết mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, 2000)Dạng quân cờ lập thể cổ xưa nhất cho tới nay mà các nhà khảo cổ học khám phá ra là bàn cờ Senet của Ai cập cổ đại, được vẽ trên tượng hầm mộ nữ hoàng Nefertiti, ước tính niên đại khoảng từ 2700-2185 tr.CN.Nữ hoàng chơi cờ SenetMộ nữ hoàng Nefertiti, Ai CậpBàn cờ SenetMộ Tutakhamon, Bảo tàng Brooklyn, New York* Sách của người chết Ai Cập mô tả việc chơi cờ Senet giống là công việc nhàn rỗi của những linh hồn sống trong Cõi Âm.Trong trò chơi dân gian Việt Nam, môn cờ Tướng đã được chuyển đổi thành một phương pháp chơi mới bằng bài lá, trong bộ bài này, các quân cờ Tướng đã được vẽ hình cụ thể.Chơi bài Tam CúcTranh của Henry OrgerGiữa cờ Tướng và các loại cờ khác như cờ Vua, cờ Saturanga, có những đặc trưng khác nhau nhưng tính ưu việt và hợp lý về mặt triết lý tổ chức quốc gia và chiến tranh nghiêng về cờ Tướng nhiều hơn. Trên bàn cờ Tướng, sự di chuyển quân trên đường tạo nên tính thuận tiện quan sát mà không cần làm dấu ô xem kẽ như cờ Vua, số vị trí quân cờ cũng tăng lên từ 64 điểm thành 90 điểm tạo điều kiện xây dựng thế trận toàn diện hơn, sông ranh cũng đã tạo nên sự phân biệt giữa đôi bên và lúc này trận chiến có thể diễn ra trên bộ cũng như dưới nước, toàn bộ cấu trúc bàn giống như một triều đình thu nhỏ, trong đó tướng ở nhà quân ra trận. Tướng phải ở vị trí trung tâm bàn cờ, quân Pháo với luật “ngòi nổ” là một sự bổ sung tuyệt diệu nhất, quân Mã không thể tự tung tự tác mà vẫn bị ngăn cản qua luật “cản chân Mã”, bàn cờ cũng không có quá nhiều Tốt trở nên thông thoáng hơn, Tướng giờ đây đã có thể ở ngay trục giữa và rất dễ dàng nhận thấy, Sĩ thêm vào hai bên Tướng rất hợp lý ở vai trò quân sư, có vậy mới đảm bảo sự cân đối ý nghĩa giữa văn võ bá quan của một triều đình.Toàn bộ học thuyết Âm Dương Ngũ Hành nằm trong bàn cờ Tướng, hai người chơi thể hiện Âm Dương là Nam Tào và Bắc Đẩu, một người xem nhưng là điều động toàn bộ cuộc cờ là Thượng Đế, ông Trời, Đế Thích; sự tương tác Âm Dương hình thành nên Tứ Tượng trong bàn cờ, từ đó thiên biến vạn hóa nước đi như vạn vật được hình thành từ 32 quân cờ; Lý Dịch Đông Phương có thể tiên tri ứng với 64 quẻ Dịch… và cũng nói về lịch sử cổ đại của cương vực nước Văn Lang thể hiện qua con sông Dương Tử ngăn cách trên bàn cờ tướng. Mặc dầu vậy, ý tứ sâu xa hơn của tác giả về việc tóm tắt Lý Dịch vào trong bàn cờ đó là chính là cuộc chiến nội tại của mỗi con người trong dòng chảy sinh tử của một kiếp nhân sinh, cần phải quán chiếu thực tại như bài kệ cuối Kinh Kim Cương, lấy làm kết thúc cuốn tiểu thuyết Nhạc Phi diễn nghĩa: Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn, bào ảnh, Như lỗ diệc như điển, Ưng tác như tị quang. Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn, bọt nước. Như sương cũng như điện, Nên quán đúng như thế. Khi một người từ mới biết chơi cờ cho đến đại kỳ thủ đều tưởng rằng mình được tự do lựa chọn nước cờ trong hàng vạn nước có thể và tưởng rằng chính mình đã quyết định cho hành vi của mình… ít nhất là trên bàn cờ người, nhưng nó đã được lập trình để đối phó với tư duy tưởng chừng bất định và hỗn độn ấy và kết thúc một bàn cờ theo chương trình đã lập sẵn với con người. Như vậy, suy luận rộng ra, thì chính tư duy của con người là một phương trình vĩ đại nhất có thể quy nạp, mang tính quy luật trên bàn cờ nhân thế. Đó là lý do mà những phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương, về mặt lý thuyết có thể tiên tri được mọi hành vi của con người trong cuộc đời. Bởi vậy, khi nói về phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương thì đấy chính là công thức mô tả qui luật vận động của vũ trụ và bàn cờ nhân thế này không nằm ngoài quy luật trên, vì vậy, có thể tiên tri (Tham khảo bài viết Quân tượng trên bàn cờ tướng của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Bàn cờ tướng thì quân hai bên giống nhau, chỉ có mỗi tên quân là khác nhau nhưng lại được viết bằng chữ Hán, đây có lẽ là lý do khiến cho cờ tướng không được phổ biến bằng cờ vua. Do vậy, sau khi đã xác định được tác giả và nguồn gốc cờ tướng, chúng ta hoàn toàn có thể chế tạo lại quân cờ dạng lập thể, các chi tiết điêu khắc, mỹ thuật mang dấu ấn của nền văn hóa phương Đông cốt đem lại sự niềm vui trong cuộc sống, cũng như trong việc tìm hiểu thêm nền văn hóa Việt đậm đà bản sắc tới toàn thế giới, như Nguyên sứ Trương Hiển Khanh, sau khi tiếp xúc với vua Trần Nhân Tông trong công tác ngoại giao, Trương Hiển Khanh đã có một cách nhìn, cách nghĩ khác về nước Việt và khẳng định nước Nam có một nền văn hóa riêng cần phải tôn trọng, không ai được xem thường:An Nam tuy tiểu văn chương tại, Vị khả khinh đàm tỉnh để oa. An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh, “Ếch giếng” khuyên đừng chế giễu ngoa. Vua Trần Nhân Tông kết thúc sách Tùy Đường diễn nghĩa nhắc nhở ngoài xem chính sử do nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn, hoặc được chính thức công nhận thì phải nghiên cứu cả những trang dã sử nữa, đó là những sách do một hay nhiều người biên soạn, mang tính chất cá nhân, do đó mang nhiều dấu ấn riêng biệt như các tiểu thuyết diễn chí, diễn nghĩa, truyện cổ dân gian, truyết thuyết và huyền thoại. Thậm chí, chúng ta có thế thấy dấu ấn của lịch sử và văn hóa được khắc ghi trong các trò chơi dân gian như là cờ Tướng, Tam Cúc, Tổ Tôm, Mạt Chược… Dở xem sử cũ nghĩ cho rành, Tướng gỗ một bầy múa rối tinh. vay trả nợ nần, chính sử đó,Vẫn cần dã sử mới phân minh.Ngoài chính sử phải thêm diễn nghĩa, Chiến Quốc, Xuân Thu, Hán cùng Sở.Vương Mãng, Lưu Tú, Ngụy Thục Ngô, Nam Bắc Lục Triều, vẫn chưa đủ. Ta nay diễn nghĩa thêm Tùy Đường, Sách dài, dài trọn một trăm chương.Dẫu vậy, vẫn chưa được tường tận, Kỹ càng mới chỉ chữ hưng vong. Sau có gắng rõ lẽ vô thường,Luân hồi, nam trung với nữ tiết.Quả báo, đức độ sánh xương cuồng,Rành rành sách đó, xem thì biết.Phật, tiên, ma, quỷ, kể rõ ràng,Có, Không vốn ở Tâm ra cả.Cũng câu phúc họa, điều nhân quả, Sáng soi Dượng Đế đến Minh Hoàng. Theo điệu "Nhất tùng hoa" Trong các chương sách, chúng ta thấy nói về các cuốn sách của vua Trần Nhân Tông và các tác phẩm của Bồ Tát Nguyễn Minh Không, do vậy chúng tôi ghi chú ra đây để quý vị có thêm dữ liệu tham khảo: - Tây Du Ký: dựa trên lịch sử kháng Nguyên Mông và học thuyết Tam giáo cùng với thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Tây Du Ký cũng liên kết với các cuốn sách của Bồ Tát Nguyễn Minh Không qua các nhân vật cùng tên nhưng đặc điểm để phân biệt là Tây Du Ký bổ sung thêm người em gái của thái tử Natra. Một vài sự kiện kiên quan lịch sử mang ẩn nghĩa như Hồng Hài Nhi (tên tướng Ô Mã Nhi) bị Phật Bà cho lên ngồi tòa sen và bị khóa chặt bởi các ngọn dao - đây là hình ảnh những chiếc cọc nhọn trong trận thắng Bạch Đằng; ba lần đánh Bạch cốt tinh là ba lần những tên sứ Nguyên hống hách tới Đại Việt; Tôn Ngộ Không đấu phép với ba pháp sư chính là sự kiện thử đầu tên pháp sư Phạm Nhan có mọc được hay không, xử tử tên tướng Ô Mã Nhi và chém đầu Toa Đô tại trận chiến; sự kiện công chúa Hoa Tư có hai người con trai với Thoát Hoan, sau 13 năm mới trở về lại Đại Việt; Tổ sư Bồ Đề dạy Tôn Ngộ Không chính là Phật A Di Đà lấy từ hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đắc dưới gốc cây Bồ Đề… Tây Du Ký thực sự là một tác phẩm tuyệt thế vô song, cho nên chúng tôi sẽ phân tích riêng và sẽ bổ sung. - Tùy Đường diễn nghĩa: liên kết tới Tây Du ký qua sự kiện vua Đường sống lại và các phân tích ở các chương sách. - Nhạc Phi diễn nghĩa: liên kết tới môn cờ tướng và chức nguyên soái trong quân đội, cùng các truyền thuyết do ngài tự xây dựng. - Chung Vô Diệm, Tiết Nhơn Quý chinh Đông và Tiết Đinh San chinh Tây, Hán Sở tranh hùng, Xuân Thu chiến quốc: tương tự như trên.Các tác phẩm của Bồ Tát Nguyễn Minh Không: - Phong Thần: lấy hình ảnh các vị Phật, Thánh, Thần, Tiên của Phật giáo, Đạo giáo, tôn giáo dân gian trong lịch sử nước Việt, cùng với biểu tượng linh thú mà các ngài cưỡi, kết hợp với lịch sử thời đại Hùng Vương. Đặc biệt, hình ảnh thái tử Natra dùng Càn Khôn cung và Chấn Thiên Tiễn bắn về hướng Tây Nam gây ra tiếng sấm kinh thiên động địa, hào quang chói mắt hàm ý phá tan sai lệch độ số cung Tốn Khôn trong Hậu Thiên Bát Quái. Tương tự như vậy, trong Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không lẩn trốn ở cung Tốn trong lò Bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Sau này, Bồ Tát Nguyễn Minh Không đã tổ chức xây dựng nên các dòng tranh dân gian Kim Hoàng, Hàng Trống và Đông Hồ để lưu trữ mật ngữ về lịch sử Hùng Vương và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Ông cũng bổ sung thêm các nhân vật như Bát Tiên… vào các bộ tranh thờ Đạo giáo các dân tộc miền Bắc Việt Nam. Ông cũng hệ thống hóa lại cấu trúc thờ tự trong các đình, đền, chùa… qua các pháp khí thờ tự như lỗ bộ, bát bửu… sau này, ông được tôn suy là ông tổ nghề đúc đồng là vậy. Ông chính là người đã xác định mối lên kết giữa Phật giáo, Bà La Môn giáo, Đạo giáo, Nho giáo và lịch sử các vua Hùng, cho nên người đời sau tôn xưng ông “Thiên Nhân Sư” tương đương một vị Phật. Phong Thần của Bồ Tát Nguyễn Minh Không cùng Tây Du Ký của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã tạo nên cặp tiểu thuyết “song kiếm hợp bích”. - Tam Quốc Chí: liên kết đến bộ bài Ma tước, thờ vị tiên Lữ Đồng Tân, Quan Vũ tại đền Ngọc Sơn, tượng thờ ông với cái tên Khổng Minh Không cũng hàm nghĩa câu truyện này, mặt khác hiệu của ông cũng là Quản Lộ trùng tên những nhân vật lịch sử nổi tiếng có tên trong câu truyện; đề cập đến hội hoa mẫu đơn chùa Phật Tích với hình ảnh Tào Tháo thích hoa mẫu đơn; có nói một cách ẩn ý về Hai Bà Trưng đánh hạ 65 thành; ẩn ý về lời thề chém vào đá của Thục vương An Dương Vương và vua Hùng Duệ Vương…- Thủy Hử: tương ứng với 108 vua Hùng, liên kết với Phong Thần qua hình ảnh Thái tử Natra.Chúng ta hãy xem lại nội dung khổ thơ Dự ngôn Tàng đầu thi của Lý Thuần Phong:Thần thiên thuộc ý tại Trung Hoa, Cạnh phóng ngũ thiên tận dị ba. Đại hí nhất đài chung lạc mạc, Cự ngôn chứng nghiệm thế khả tra. Trời đang chăm chú nhìn mảnh đất Trung Hoa,Biết bao sự kiện xảy ra trong 5.000 năm ấy. Sân khấu của vở kịch lớn một khi hạ màn rồi, Lịch sử sẽ chứng nghiệm được lời tiên tri này. Đúng là một phần sân khấu của vở kịch lớn đã sắp hạ màn, lời tiên tri cũng sẽ được xác định chính xác hơn nữa qua việc phân tích nội dung lịch sử, văn hóa trong 5.000 năm ở các chương sau. Các tác phẩm của Bồ Tát Nguyễn Minh Không và Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở trên, chúng tôi sẽ phân tích và bổ sung. Bây giờ, hãy cùng tiếp tục với Chương VII: TẢ THANH THIÊN (VIẾT LÊN TRỜI XANH). *** Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 1, 2013 Chúng tôi đã quên đưa lên Chương IV: xin bổ sung. Chương IV TAM DƯƠNG KHAI THÁI (KHÍ LÀNH MỞ VẬN ĐẸP) Phúc, Lộc, Thọ tam tinh cùng chiếu, Thiên, Địa, Nhân nhất thể đồng xuân. Thơ cổ. Trong Chương III: NHỊ ĐỘ MAI, chúng ta biết rằng vua Phục Hy đại diện cho yếu tố Dương, còn bà nữ Oa đại diện cho yếu tố Âm, Âm Dương hòa hợp thúc đẩy sự phát triển vạn trong vũ trụ. Trong bức tranh Phục Hy - Nữ Oa với thân rắn mình người, Phục Hy cầm “Qui” (thước tròn), Nữ Oa cầm “Củ” (thước vuông). “Qui” để vẽ vòng tròn, “Củ” để vẽ hai đường thẳng góc trong vòng tròn, xác định tâm điểm. Vì thế người xưa gọi tâm điểm là Thập tự nhai (tham khảo Hướng tinh thần, tác giả Nguyễn Văn Thọ). “Củ” cũng dùng để vẽ hình vuông, như vậy bức tranh Phục Hy - Nữ Oa mang ý nghĩa “trời tròn, đất vuông”. Thân mình hình rắn quyện lấy nhau, thể hiện sự vận động và tương tác của khí âm và khí dương, từ đó vạn vật ra đời với đại diện là hình con khỉ hai tay nắm giữ ống tay áo của bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Phục Hi và Nữ Oa Tranh trên đá cổ Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Dưới đây là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, Trung Quốc có niên đại trên 2.000 năm. Phục Hy tay trái nâng mặt trăng có hình con cóc, Nữ Oa tay phải nâng mặt trời có hình con quạ. Đặc biệt, vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa giống như trang phục của người Việt cổ trên tranh dân gian Đông Hồ, đây là một đặc điểm của văn hóa phương Nam. Phục Hy và Nữ Oa Tranh cổ Trung Hoa file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán. Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ trong nền văn hiến Việt. Hình ảnh Phục Hy và bà Nữ Oa trong câu chuyện Bà Nữ Oa vá trời và Thần Bàn Cổ, từ trước đến nay vốn được coi là những truyền thuyết xưa nhất của nền văn hóa dân gian Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng truyền thuyết này lại ẩn chứa những giá trị có tính hướng dẫn về một tiền đề căn bản nhất của Kinh Dịch và các phương pháp học thuật cổ phương Đông như phong thủy, tử vi, độn giáp… đó là Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái. Nội dung của những truyền thuyết này căn cứ theo tư liệu trong sách Thần thoại Trung Quốc của giáo sư Đinh Gia Khánh, Nxb Khoa học xã hội - 1998 và vài dị bản khác được sưu tầm. Chống màn trời, Bàn Cổ làm trụ, Hóa thân thành sông núi, cỏ cây. Xưa kia, vũ trụ vốn là một khối hỗn độn, đen ngòm, hình giống quả trứng. Thần Bàn Cổ sinh ra từ trong quả trứng vũ trụ ấy. Thần Bàn Cổ ngủ 18000 năm thì tỉnh dậy. Ông thấy trời tối đen rất khó chịu. Thần Bàn Cổ rất bực tức. Không biết thần vớ đâu ra một chiếc rìu lớn và thần nhằm thẳng phía trước mặt mà bổ vào cái khoảng mù mờ đen tối ấy. Thần vung rìu lên bổ về phía trước như thế một nhát. Quả trứng ấy vỡ toang ra. Có chất gì trong suốt và nhè nhẹ bốc dần lên cao, trở thành bầu trời, lại có chất gì đó đùng đục và nằng nặng lắng dần xuống thấp, trở thành mặt đất. Thế là nhờ có nhát rìu của thần Bàn Cổ mà vũ trụ phân khai thành trời và đất. Tiếp theo là tóm lược và trích dẫn truyền thuyết Bà Nữ Oa vá trời: Nữ Oa khéo nặn con người khôn, Chọn đá quí vá màn trời rách. Bà Nữ Oa là vợ thần Phục Hy, được sinh ra ngay sau khi thần Bàn Cổ tạo ra thế giới. Bà lấy đất sét vàng nặn ra con người. Loài người lấy nhau và sinh sôi nảy nở trên thế gian ngày càng đông vui. Mọi người tôn bà làm nữ thần hôn nhân (thần Cao Môi). Nhưng, đến một ngày kia tai họa đã xảy ra. Bỗng nhiên, chẳng hiểu vì sao một ngày kia xảy ra một biến cố lớn. Đó là việc thần nước Cộng Công và thần lửa Chúc Dung choảng nhau. Cuộc chiến tranh rất khốc liệt, cuối cùng thần nước Cộng Công bị thần lửa Chúc Dung đánh thua. Phẫn chí, thần Cộng Công bèn lao đầu vào núi Bất Chu ở phương Tây. Lao đầu húc núi như vậy, mà Cộng Công vẫn không bị chết. Nhưng một cái húc đầu ấy đã làm cho trời đất biến đổi hẳn, làm cho nhân gian gặp tai họa lớn. Núi Bất Chu vốn là một trong những cây trụ chống trời. Cây gậy Bất Chu ấy bị Cộng Công húc bèn bị gãy. Thế là một nửa bầu trời ở phía Tây bị sụp xuống, bị rách nát và có nhiều lỗ thủng. Trời đổ xuống lại làm cho mặt đất nhiều chỗ sụt xuống thành hang sâu. Trong khoảng trời long đất lở ấy, lửa bốc lên rần rật, thiêu đốt núi rừng, nước sông sóng sánh dâng lên cao, hầu như đến lưng trời, làm cho mặt đất khắp nơi bị ngập nước. Bà Nữ Oa thấy loài người, đám con cháu do bà tạo dựng nên, gặp cảnh khốn khổ như vậy thì vô cùng đau đớn. Bà đành lại phải đi tu bổ lại trời đất. Công việc này thực là vất vả, nhưng bà Nữ Oa không hề quản ngại. Bà chọn thứ đá ngũ sắc lấy từ các sông lớn, dùng lửa nung nấu thành một thứ keo đặc biệt. Bà đem thứ keo ấy dán vá lại lỗ thủng trên bầu trời. Để chống bầu trời lên, bà chọn một con rùa lớn, chặt bốn chân của nó làm trụ. Bốn cái chân của nó dựng lên ở bốn góc trời, là bốn cái trụ vững chắc để chống đỡ bầu trời. Bà xua đuổi các loài ác thú, mãnh điểu để cho loài người khỏi bị chúng làm hại. Bà lại đốt cỏ lau thành tro, chất tro thành đống lớn để làm vật liệu xây đắp đê đập chống nạn lũ lụt. Cuối cùng tai họa lớn của loài người đã qua khỏi. Đó đều là nhờ công lao của bà Nữ Oa. Trời và đất đã được bà Nữ Oa sửa chữa, vá víu và chống dựng lại. Tuy nhiên, trời và đất không giữ lại được nguyên vẹn hình thể trước kia. Bầu trời vẫn cứ hơi nghiêng về phía Tây. Vì vậy mà mặt trời, mặt trăng và các tinh tú cứ theo chiều hướng nghiêng ấy mà chạy từ đông sang tây. Mặt đất tuy có được tu bổ, nhưng lại vẫn còn vực sâu ở phía đông nam. Vì vậy nước các sông ngòi đều chảy từ tây sang đông và dần dần các sông ngòi ấy đều chảy xuống vực sâu, tích tụ dần thành biển lớn. Cùng với nội dung trên, trong cuốn Kinh Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (sách đã dẫn trang 583) chép như sau: Ngày xa xưa, bốn trụ chống trời bị hư hoại, Cửu Châu (tức là Trung Quốc) bị đổ lở, không đâu mà không bị lật úp, đất không được che kín, lửa cháy hừng hực liên miên không tắt, nước ngập lụt mênh mông không ngưng, thú dữ ăn thịt dân lành, chim ưng hung ác quắp lấy người già cả ốm yếu. Cho nên bà Nữ Oa mới luyện đá năm màu để vá trời xanh, chặt chân rùa lớn làm bốn cột chống đỡ bầu trời, giết rồng đen cứu Ký Châu, chèn tro cỏ lư để ngăn nước lụt. Bầu trời xanh được vá lại, bốn trụ chống đỡ ngay ngắn, nước lụt rút khô đi, Ký Châu yên bình, thuồng luồng chết, dân lành sống, dựa lưng vào đất vuông ôm lấy bầu trời tròn. Như vậy, qua truyền thuyết Thần Bàn Cổ và Bà Nữ Oa vá trời, so sánh với cấu hình của Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái sẽ có một sự tương hợp gần như hoàn toàn sau đây: Chuyện Thần Bàn Cổ và phần đầu của truyền thuyết Bà Nữ Oa vá trời hoàn toàn trùng khớp với cấu hình của Tiên thiên Bát quái được minh họa trong đồ hình: Đồ hình minh họa truyền thuyết Thần Bàn Cổ và cấu hình Tiên thiên bát quái file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Qua đồ hình, nửa phần trên của Tiên thiên Bát quái: số hào Dương trội hơn hào Âm, mà cao nhất là quẻ Càn - tượng trời, ứng với câu“Âm dương chia biệt, khí nhẹ và trong bay lên thành trời”. Nửa phần dưới số hào Âm nhiều hơn số hào Dương, ở vị trí thấp nhất là quẻ Khôn - tượng đất, ứng với câu“Khí nặng và đục tụ xuống thành đất”. Trong nội dung của truyền thuyết Bà Nữ Oa vá trời và đoạn sau lời đối thoại của Tần Bật, hoàn toàn trùng khớp với cấu hình của Hậu thiên Bát quái được minh họa: Đồ hình minh họa truyền thuyết Bà Nữ Oa vá trời và cấu hình Hậu thiên bát quái file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Qua đồ hình trên bạn đọc cũng nhận thấy rằng: Về cấu hình phương vị Hậu thiên Bát quái và về nội dung liên hệ Bát quái với thuyết Âm dương - Ngũ hành: - Trục Càn - Khôn ở Tiên Thiên là trục thẳng đứng, hình tượng cây cột chống trời Bất Chu (chống trên đất Khôn, đỡ trời Càn) chính là trục Càn Khôn trong Tiên thiên Bát quái. Nhưng trong Hậu thiên được thay thế bằng trục Khảm (Thủy) - Ly (Hỏa). Thủy - Hỏa xung khắc được hình tượng bằng cuộc chiến giữa thần nước Cộng Công và thần lửa Chúc Dung. - Quẻ Càn (Trời) trong Hậu Thiên lệch về phía Tây Bắc, ứng với câu “Trời nghiêng về phía Tây Bắc”. Quẻ Khảm (Thủy) ở Hậu Thiên, được thay thế cho vị trí quẻ Càn ở Tiên Tthiên ứng với câu “Nước từ trên trời đổ xuống gây ngập lụt ở trần gian”. - Sự khác nhau duy nhất giữa truyền thuyết và cấu hình của Hậu thiên Bát quái là “Đất đổ về phía Đông Nam”, nhưng ở Hậu Thiên Bát quái quẻ Khôn - tượng đất - lại ở về phía Tây Nam. Nếu ta theo truyền thuyết, đưa quẻ Khôn - tượng đất về phía Đông Nam và quẻ Tốn về phía Tây Nam thì hoàn toàn bảo đảm được tính cân đối của đồ hình Bát quái Hậu thiên như trong Bát quái Tiên thiên. - Cột trời có tên Bất Chu - hiểu theo một nghĩa khác thì đây là sự phủ định: Chu Dịch không phải do Chu Văn Vương (Nhà Chu) làm ra. Liên hệ với quả trứng vũ trụ trong truyền thuyết Thần Bàn Cổ cho thấy chữ Chu phải hiểu là một vòng tròn (quả trứng). - Hình ảnh bà Nữ Oa sử dụng đá ngũ sắc làm vật liệu để vá trời cho thấy: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là nền tảng của Tiên Thiên và Hậu thiên Bát quái. - Hình ảnh bà Nữ Oa đốt cỏ lấy tro ngăn nước còn có một ý nghĩa liên hệ: Hỏa (đốt cỏ) - sinh Thổ (thành tro, còn có nghĩa là Âm Hỏa) - khắc Thủy (ngăn nước). Hiện tượng này còn chứng tỏ sự liên quan giữa Hậu Thiên Bát quái và Hà đồ. Tính cân đối sau khi đổi vị trí quái Tốn - Khôn sẽ hoàn toàn vô nghĩa, nếu chỉ dừng lại ở đây. Sự hướng dẫn mang tính mật ngữ ẩn chứa trong các truyền thuyết dân gian được coi là của Trung Quốc, nhưng không loại trừ khả năng có nguồn gốc Lạc Việt, còn tồn tại ở Nam sông Dương Tử - sẽ không hơn một ý tưởng về tính cân đối của Hậu Thiên Bát quái trong các cuộc tranh luận về vấn đề này. Nhưng tính cân đối rất quan yếu - trong việc đổi chỗ hai quái Tốn Khôn của cấu hình Hậu thiên Bát quái - lại thể hiện sự tương quan hợp lý trong sự liên hệ với thứ tự của 64 quẻ kép thuộc hệ thống Hậu Thiên và một số vấn đề liên quan được trình bày dưới đây. Thuyết quái truyện vốn được không ít các học giả cho rằng mang tính dị đoan. Điều này được thể hiện ở nhiều cuốn Kinh Dịch Việt ngữ đã bỏ không dịch Thuyết quái. Tuy nhiên, Tiết 5 của Thuyết quái lại được coi là sự bảo chứng cho cấu hình Hậu Thiên Bát quái, vì tính trùng khớp với thứ tự thuận chiều của nó: Tiết 5 - Thuyết Quái viết: “Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Chí dịch hồ Khôn. Duyệt ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Kiền. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn”. Sự trùng khớp theo thứ tự thuận chiều với đồ hình Hậu thiên Bát quái theo cổ thư chữ Hán bắt đầu từ quái Chấn như sau: file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Nhưng với sự diễn đạt ở trên thì nội dung Thuyết quái không trực tiếp thể hiện cấu trúc phương vị Hậu thiên Bát quái. Nghĩa đen của Tiết 5 - Thuyết quái chỉ có thể hiểu là: Đế xuất hồ Chấn = Vua ra cửa Chấn. Đế xuất hồ Chấn Vua ra cửa Chấn Tề hồ Tốn Làm bằng cửa Tốn Tương kiến hồ Ly Gặp gỡ cửa Ly Trí dịch hồ Khôn Suy nghĩ chuyển cửa Khôn Thuyết ngôn hồ Đoài Vui vẻ cửa Đoài Chiến hồ Càn Tranh chấp cửa Càn Lao hồ Khảm Mệt nhọc ở cửa Khảm Thành ngôn hồ Cấn Nói xong ở cửa Cấn Tề (*) hồ Tốn = Làm bằng cửa Tốn * Tề - Động từ; tiếng cổ có nghĩa là: làm bằng, cào bằng, làm cho cùn, tà . Hiện ở đồng bằng Nam Bộ, người ta vẫn còn dùng với nghĩa trên. Hậu thiên Văn Vương đổi chỗ Tốn Khôn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Như vậy, rõ ràng ý nghĩa trực tiếp của câu 2 và 4 trong tiết 5 là: san bằng cửa Tốn, suy nghĩ để chuyển cửa Khôn (Trích từ Tìm về cội nguồn Kinh dịch, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002). Từ việc đổi chỗ Tốn Khôn trong Hậu Thiên Bát quái, hệ quả dẫn đến sự thay đổi hoàng loại các vấn đề có liên quan trong các phương pháp học thuật Đông Phương, như việc đổi chỗ hai hành Thủy, Hỏa trong bảng Lục thập hoa giáp. Qua Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, chúng ta cũng đã thấy việc thay đổi Tốn Khôn cũng là chìa khóa để giải thích các biểu tượng trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ. Về mặt lịch sử, chúng ta cũng đã biết rằng Tam Hoàng Ngũ Đế là các vị vua trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, trong đó Phục Hy là Thanh đế, hành Mộc, phương Đông, đồng thời Phục Hy và Nữ Oa là biểu tượng của Âm Dương nhưng qua câu chuyện Thần Bàn Cổ và Bà Nữ Oa vá trời tương ứng Tiên Thiên và Hậu thiên Bát quái thì xảy ra nghi vấn Bàn Cổ chính là Phục Hy? Mặt khác, theo bức tranh Tứ Công đồng thì có một Thánh mẫu ở vị trí cao hơn cả Phục Hy, vấn đề này cần được làm rõ. Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, thì cha của Phục Hy là Hy Hòa, mẹ là bà Nữ Hoàng Anh, đây là hai vị tiên liệt có lịch sử lâu đời nhất của nước Việt, và được xem là thủy tổ của dòng tộc Việt. Kinh Thư ghi nhận sự kiện vua Nghiêu sai hai đại thần của mình là họ Hy và họ Hòa làm ra, phải chăng chính lá Phục Hy và Hy Hòa, nếu đúng thì vua Nghiêu lại đi sai ông tổ của mình là Phục Hy làm lịch? Tuy nhiên chúng ta hiểu rằng đây là dữ liệu mang dấu ấn của lịch sử. Lời mở đầu Kinh Thư “ Viết nhược kê cổ” rất khó hiểu và vô nghĩa, và nếu dịch “người Việt kể lại tích xưa” là hoàn toàn hợp lý với cuốn sách. Sách Thông Chí của Trịnh Tiều viết: “Đời Đào Đường (vua Nghiêu - năm 2253 tr.CN) phương Nam có bộ Việt Thường cử sứ bộ qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ đã sống trên 1000 năm, mình dài hơn 3 thước, trên lưng có khắc văn tự khoa đẩu ghi việc trời đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch. (Bàn về Vạn niên lịch, tác giả Tân Việt Thiều Phong, Nxb Văn hóa Dân tộc 1995)”. Thời vua Nghiêu được ước tính có niên đại 2253 tr.CN, tức là sau thời Hùng Vương lập quốc khoảng 600 năm. Căn cứ vào nội dung của Hậu Thiên Bát quái và Hà đồ và việc tặng lịch của người Việt Thường cho vua Nghiêu; cùng với việc phát hiện ra các chòm sao Thiên Cực Bắc như Vũ Tiên, Thiên Long đã chứng tỏ: Người Việt đã phát minh ra Âm Dương lịch sớm nhất thế giới, bởi vì nội dung của Âm Dương lịch không phải chỉ căn cứ đơn thuần vào sự vận động của mặt Trời và mặt Trăng mà còn có sự tương ứng với vị trí của những chòm sao định vị trên Thiên hà gần Thái Dương Hệ. Trong dân gian Việt Nam còn truyền tụng một câu ca dao độc đáo: Ai về nhắn họ Hy Hòa, Nhuận năm sao chẳng nhuận vài trống canh? “Vài trống canh” chính là sự điều chỉnh lịch năm theo chu kỳ tuế sai 25.920 năm của trục trái đất tiến động xung quanh các chòm sao Thiên Cực Bắc. Theo Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, đình làng Văn Lôi, tên Nôm xưa là Kẻ Mỹ, sau gọi là làng yên Mỹ, nay thuộc xã Bình Yên, Thạch Thất, ở đây thờ liệt vị đầu tiên người Việt cổ định cư. Trong chính giữa nơi thờ có một bức đại tự: “Lịch Đại Đế Vương” duy nhất thờ ở đây, chưa từng thấy nơi nào có đại tự này. Đình bị giặc Pháp phá, sau được xây lại. Đây chính là nơi thờ cụ Hòa Hy, cha của vua Phục Hy, Thanh Đế. Lịch đại đế vương Mỹ Thuật Tùy Đường (581-907) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Với các dữ kiện lịch sử, chứng tỏ rằng thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã có từ thời Hòa Hy với truyền thuyết ghi nhận qua câu chuyện Thần Bàn Cổ và Bà Nữ Oa vá trời, bởi vì rằng nếu Phục Hy phát minh ra Tiên Thiên Bát quái và Nữ Oa với Hậu Thiên Bát quái thì phải kế thừa lịch sử trước đó. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành còn ghi nhiều dấu ấn rất rõ nét trong nền văn hóa Việt tới tận ngày nay. Truyền thuyết bánh Chưng bánh Dầy và thuyết Âm Dương ngũ hành Bánh Chưng bánh Dầy là một biểu tượng văn hóa đặc trưng độc đáo của người Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại, biểu tượng văn hoá này có nguồn gốc từ thời Hùng Vương thứ VI lưu truyền đến tận bây giờ. Hầu hết mọi người quan tâm đến Truyền thuyết bánh Chưng, bánh Dầy đều thống nhất nhận thấy ở trong đó thể hiện vũ trụ quan của dân tộc Việt. Nhưng hầu hết những ý kiến đều cho đó là quan niệm thô sơ của người xưa: “Trời tròn, đất vuông”. Trời như cái vung úp xuống đất, đất bằng phẳng và chung quanh là biển. Hoặc cũng có người cho rằng bánh chưng, bánh dầy là thể hiện những giá trị đạo lý của người xưa đối với cha mẹ: “Trời sinh là cha, đất dưỡng là mẹ”. Bánh Chưng tượng đất, chứa đựng những hình tượng về sự phú túc của đất mẹ nuôi dưỡng con người (trong bài tựa Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, thời Hồng Đức cũng nói đến ý này)... Do đó, nếu chỉ với ý nghĩa và hình tượng đơn giản được gán cho bánh chưng, bánh dầy thì sẽ khó bền vững qua thời gian hơn 2000 năm, chỉ tính với thời gian ít nhất là từ khi Nam Việt của Triệu Đà bị tiêu diệt. Trên thực tế hiện nay, vì chiếc bánh chưng bánh dầy đã mất ý nghĩa nguyên thủy đích thực, nên sự tồn tại của nó chỉ là một phong tục truyền thống và sự cảm nhận thiêng liêng đối với tổ tiên, hơn là một sự tiếp nối những giá trị tư tưởng mà bánh chưng, bánh dầy thể hiện. Vậy ý nghĩa đích thực của bánh chưng, bánh dầy là gì? Trước hết, chúng ta đặt vấn đề bắt đầu từ hình tượng bánh chưng vuông và bánh dầy tròn. Hình tượng vuông tròn này đã được sử dụng một cách phổ biến trong ngôn ngữ dân gian, đó là câu: “Mẹ tròn, con vuông”. Từ trước đến nay, câu “Mẹ tròn, con vuông” thường sử dụng sai lầm như là một thành ngữ để chúc lành cho sản phụ sinh nở. Để tìm hiểu về vấn đề này, phải bắt đầu với những ý niệm của vũ trụ quan cổ Đông phương. Câu nói của người Việt được lưu truyền: “Mẹ tròn, con vuông” thường là để chúc lành cho sản phụ sắp sinh nở sẽ rất khó hiểu về ý nghĩa thực tế, nhưng nếu coi đó là câu tục ngữ mà ông cha lưu truyền cho đời sau sự nhận thức về vũ trụ, thì hoàn toàn có thể hiểu được: tính hiếu sinh của vũ trụ - Thái Cực sinh Lưỡng Nghi và Âm Dương hài hòa là nguồn gốc của mọi sự phát triển tốt đẹp. Theo thuyết Âm Dương thì phạm trù của Âm Dương rất rộng: bao trùm từ sự khởi nguyên cho đến mọi sự vận động, phát sinh, phát triển của vũ trụ. Dương bao gồm: Trời, cha, đàn ông... Âm bao gồm: Đất, mẹ, đàn bà... Như vậy, hình tượng vuông tròn và tính chất của bánh chưng, bánh dầy hoàn toàn đầy đủ điều kiện để biểu tượng cho Âm Dương: Bánh dầy có màu trắng, không vị của nếp giã thể hiện sự thuần khiết; tính dẻo thể hiện sự thông biến; hình tròn của bánh dầy thể hiện sự viên mãn của Dương. Bánh chưng hình vuông là tượng của Âm. Nhưng những vật liệu cấu tạo nên bánh chưng là một vấn đề đáng chú ý khi hình tượng vuông tròn của bánh chưng, bánh dầy thể hiện Âm Dương trong vũ trụ quan cổ Đông phương. Thuyết Âm Dương và Ngũ hành được chính thức chấp nhận từ thời Hán trong lịch sử Trung Quốc về sau có nói đến: sự chuyển hóa Âm Dương sinh ra 5 dạng vật chất căn bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi chung là Ngũ hành. Năm dạng vật chất này tương tác lẫn nhau trong sự chi phối của Âm Dương tạo nên vạn vật. Sự tương tác, vận động của Ngũ hành trong thuyết Âm Dương Ngũ hành rất phức tạp, nhưng khởi thủy từ hai dạng vận động chính là tương sinh và tương khắc được thể hiện ở hình vẽ sau. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Nhìn chung Ngũ hành tương sinh là nguồn gốc của mọi sự phát sinh và phát triển trong sự chi phối hài hòa của Âm Dương. Ngũ Hành tương khắc là nguồn gốc của mọi sự ngưng trệ. Tượng của Ngũ Hành khi thể hiện ở màu sắc là: Hỏa màu đỏ; Thổ màu vàng; Kim màu trắng; Thủy màu đen; Mộc màu xanh lá cây. Xét cấu tạo của chiếc bánh chưng gồm bốn vật liệu chính và phải luộc bánh (dụng Thủy) thì có thể khẳng định đó là biểu tượng của Ngũ hành được sắp xếp theo lý tương sinh từ trong ra ngoài: thịt lợn (heo) sắc hồng thuộc Hỏa sinh Thổ - sắc vàng của đậu xanh; Thổ sinh Kim - sắc trắng của gạo nếp; Kim sinh Thủy - dịch chất của gạo nếp và diệp lục tố của lá dong tạo nên màu xanh trên mặt bánh khi luộc; Thủy dưỡng Mộc - lá dong bọc bên ngoài bánh. Cách buộc dây lạc ( lạt) của bánh chưng lễ gồm 4 sợi dây lạc nhuộm đỏ, buộc từng cặp song song và vuông góc với nhau chia bánh chưng thành 9 hình vuông, còn liên quan đến một đồ hình bí ẩn trong văn hoá đông phương cổ đó là cửu cung Hà đồ. Bánh chưng Biểu tượng của Ngũ hành tương sinh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Bánh Chưng bánh Dầy đã được chấm giải nhất trong cuộc thi, không phải là ngon hơn các món ăn khác mà là tính biểu tượng cao của nó. Vì vậy, chiếc bánh chưng, bánh dầy không chỉ thể hiện quan niệm vũ trụ quan một cách đơn giản theo cách hiểu của đời sau, khi truyền thuyết này phải xuyên qua thời gian, không gian lịch sử được tính bằng thiên niên kỷ. Bởi vì, nếu bánh chưng, bánh dầy chỉ thể hiện những ý niệm đơn giản như người đời sau quan niệm, thì không chỉ có bánh chưng, bánh dầy mới thể hiện được sự đơn giản đó. Chỉ có sự thể hiện cho thuyết Âm Dương Ngũ hành mới chứng tỏ được tính biểu tượng độc đáo của nó. Bánh chưng, bánh dầy được vua Hùng Vương VI chấm giải nhất, vì tính biểu tượng độc đáo, thể hiện thuyết Âm Dương Ngũ hành hệ tư tưởng vũ trụ quan chính thống trong nền văn minh Văn Lang. Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, có bộ tranh nhị bình bức tranh Ngũ hổ, thể hiện tín ngưỡng của người Lạc Việt về một sức mạnh thiên nhiên huyền bí, đồng thời cũng giải thích rõ hơn: Tranh thờ Ngũ Hổ Tranh dân gian Hàng Trống và Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Loài vật được thờ phụng dân gian là Hổ hay Ông Ba mươi, tượng trưng cho các vị thần tướng trấn ngự các phương Đông, Tây, Nam, Bắc và trung ương. Hổ là con vật chúa tể của rừng xanh, dân gian đã thần thánh hóa nó, tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng, có thể diệt trừ được ma quỷ, nên “ngài” được tôn thờ và vì vậy hình tượng con Hổ trở thành một đề tài phổ biến của nghệ thuật dân gian các nước châu Á. Trong nhà Hắc hổ trấn phù, Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng.(trích truyện thơ Nôm Trinh Thử) Những gia đình có thờ “Ông Ba mươi” thường đặt bức tranh này dưới tranh tượng thờ thần thánh hoặc thờ Phật. Tại các đình, đền, miếu tượng ngài thường được trang trí tại các bình phong trước chính môn. Trong các môn phong thủy hình ảnh ngài được dùng làm bùa trấn trạch. Bùa trấn trạch Tham khảo cuốn Đồ họa cổ Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Thực ra bức tranh thờ Ngũ hổ có xuất xứ từ một nền minh triết có nền tảng là học thuyết vũ trụ quan cổ là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hổ là một biểu tượng được lựa chọn thể hiện cho sự vận động của Ngũ hành, chứ không phải là nguyên nhân của tục thờ Ngũ hổ. Theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì: Ngũ hành chính là một dạng tồn tại, và là sự vận động vật chất từ bản nguyên của vũ trụ sau Âm Dương. Chính sự tương tác vận động của Ngũ hành trong sự chi phối của Âm Dương tạo nên sự hiện hữu của vũ trụ hiện nay. Mỗi hành có một màu đặc trưng: hành Hỏa màu đỏ; hành Thủy màu đen; hành Thổ màu Vàng; hành Kim màu trắng; hành Mộc màu xanh lá cây. Cũng theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì hành Thổ là sự qui tàng của bốn hành kia trong chu kỳ vận động của Ngũ hành. Đó là nguyên nhân để tạo màu trong tranh thờ Ngũ hổ và là nguyên nhân để Hổ vàng đứng giữa và lớn hơn cả. Nhưng hình tượng trong tranh thờ Ngũ hổ cũng không chỉ dừng tại đây, mà nó chính là sự thể hiện cho nội dung của hai đồ hình bí ẩn nhất trong văn hóa Đông phương cổ. Đó là đồ hình Lạc thư & Hà đồ. Trong những bản văn cổ nhất mà nhân loại biết được viết bằng chữ Hán lưu truyền hàng ngàn năm nay viết về hai đồ hình này như sau: Vào thời vua Phục Hy, có một con Long mã xuất hiện ở sông Hoàng hà, trên lưng nó có những vòng xoáy. Nhà vua bèn chép lại những vòng xoáy đó và tạo ra Hà đồ. Nghĩa chữ Hà đồ theo cách hiểu trong bản văn cổ chữ Hán có nghĩa là đồ hình trên sông Hoàng Hà. Căn cứ trên đồ hình Hà đồ, vua Phục Hy đã sáng tạo ra đồ hình Tiên thiên Bát quái. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đồ hình Hà đồ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Hình Hà đồ cửu cung Còn Lạc thư - cũng theo bản văn cổ chữ Hán thì xuất hiện trên lưng con rùa thần ở sông Lạc thủy vào thời vua Đại Vũ (vị vua huyền thoại được coi là của Trung Quốc có niên đại 2205 năm tr.CN). Căn cứ vào những vòng tròn trên mình rùa vua Đại Vũ vẽ lại thành một đồ hình gọi là Lạc thư. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Đồ hình Lạc thư file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Lạc thư cửu cung Trên cơ sở đồ hình Lạc thư, vua Đại Vũ đã làm ra Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng phạm cửu trù thì trù thứ nhất nói về Ngũ hành. Như vậy, theo bản văn cổ chữ Hán thì thuyết Ngũ hành xuất hiện sớm nhất vào thời vua Đại Vũ. Nhưng chính bức tranh Ngũ Hổ dân dã của người Lạc Việt lại mang một nội dung hoàn chỉnh và hướng tới ý nghĩa đích thực của Hà đồ Lạc thư - đồ hình căn bản của nền lý học cổ Đông phương. Nếu chúng ta chồng đồ hình cửu cung lên hai bức tranh Ngũ hổ của làng Đông Hồ và Hàng Trống thì chúng ta sẽ nhận thấy một sự trùng khớp như sau: Tranh Ngũ hổ làng Đông Hồ có chiều Ngũ hành tương khắc như trong đồ hình của Lạc thư. Tranh Ngũ hổ Hàng Trống có chiều Ngũ hành tương sinh như trong đồ hình của Hà đồ. Trong tranh Ngũ hổ Đông Hồ thì Hổ vàng ở giữa, chân trước đặt lên hòm ấn có khắc sáu vạch. Nếu chúng ta lật ngược lại 90o thì đây chính là ký hiệu của quẻ Bát thuần Càn trong Kinh Dịch. Quẻ Bát thuần Càn là biểu tượng của cực Dương. Ý nghĩa ký hiệu này cho thấy những vấn đề sau đây: - Lạc thư thuộc Dương (tổng độ số chấm trắng thuộc Dương trong Lạc thư là 25 trội hơn tổng độ số chấm đen trong Lạc thư là 20). - Vì Lạc thư thuộc Dương qua ký hiệu quẻ Bát thuần Càn, cho nên phải có trước Hà đồ. Điều này phủ nhận những bản văn cổ chữ Hán cho rằng Hà đồ có trước, Lạc thư có sau. Qua ký hiệu quẻ Bát thuần Càn trong Lạc thư cho thấy: * Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là nền tảng căn bản của Kinh Dịch. * Ký hiệu Dịch đặt trên hòm ấn đóng kín được bảo vệ bằng một sức mạnh siêu nhiên qua hình tượng Ngũ hổ cho thấy: những bí ẩn của Kinh Dịch chỉ có thể tìm được trong sự vận động của vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tranh Ngũ Hổ Đông Hồ và Lạc thư cửu cung (Chiều Ngũ hành tương khắc ngược kim đồng hồ) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống có chiều Ngũ hành tương sinh như trong cửu cung Hà đồ. Trong tranh này thì Hổ vàng không chặn lên hòm ấn mà ôm lấy miếng phù ghi dòng chữ: “Pháp đại uy nỗ”. Dịch theo ngôn ngữ hiện đại có thể hiểu là qui luật chủ yếu bao trùm. Điều này cho thấy chính Hà đồ là đồ hình căn bản trong sự vận động tương tác của những hiệu ứng vũ trụ lên Trái đất. Bởi vì, sự vận động của bốn mùa trên Trái đất chính là sự vận động của Ngũ hành tương sinh, phù hợp với nguyên lý Ngũ hành tương sinh của tranh Ngũ hổ Hàng Trống. Với tranh Ngũ hổ Đông Hồ thuộc Dương là cái có trước đương nhiên Hà đồ phải là cái có sau thuộc Âm. Điều này phù hợp với độ số vòng tròn đen thuộc Âm là 30 nhiều hơn độ số vòng tròn trắng thuộc Dương là 25 trên Hà đồ. Hà đồ là cái có sau và Hậu thiên Bát quái cũng là cái có sau Tiên thiên Bát quái. Do đó, Hà đồ phải là nền tảng của Hậu thiên Bát quái. Đặc biệt bảy chấm tròn trên đầu Hổ vàng chính là yếu tố quyết định để tìm về cội nguồn đích thực và bản chất của Hà đồ. Đây chính là chòm sao Tiểu Hùng tinh, là chòm sao Thiên cực Bắc trên bầu trời hiện tại. Hay nói một cách khác đây là chòm sao định vị chuẩn cho việc quan sát sự vận động của vũ trụ nhìn từ Trái đất. Hình Ngũ Hổ hàng trống và cửu cung Hà đồ (Chiều Ngũ hành tương sinh thuận kim đồng hồ) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Cả hai tranh Ngũ Hổ đều có những hình tượng: Mặt trời đỏ, năm lá cờ ngũ sắc và năm thanh kiếm. Những hình tượng này lần lượt thể hiện những ý nghĩa sau đây: - Mặt trời đỏ là biểu tượng của Thái cực và xuất xứ phương Nam của nền văn hóa Đông phương. Hay nói một cách khác, chính nền văn minh Lạc Việt là cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành và những ký hiệu của Dịch học chính là một siêu công thức của học thuyết này. - Hình ảnh của cờ lệnh và kiếm trong hai tranh Ngũ hổ thể hiện sức mạnh của tự nhiên trong qui luật vận động của Âm Dương Ngũ hành, chi phối sự vận động của vũ trụ và sự tương tác với Trái đất. Trong Kinh Dịch - Thuyết quái truyện đã sử dụng từ “lệnh” khi nói đến sự vận động của bốn mùa. Đương nhiên muốn ra lệnh phải có quyền lực thể hiện bằng ấn kiếm và cờ tiết. Cả hai bức tranh Ngũ hổ Hàng Trống và Đông Hồ với hình tượng ngũ hổ bảo vệ hòm ấn gắn phù hiệu “Pháp đại uy nỗ” khẳng định quy luật vận động của vũ trụ, cùng với hình tượng bảo kiếm, cờ lệnh và hình ảnh mặt trời mọc chính là nói đến sự vận động của bốn mùa trên trái đất theo nguyên lý tương sinh của ngũ hành cũng nằm trong quy luật chung của vũ trụ, trong đó mặt trời là nguồn sống của mọi sinh vật trên trái đất này, đồng thời chỉ ra chòm sao Tiểu Hùng tinh là chòm sao định vị chuẩn cho việc quan sát sự vận động thiên tượng của vũ trụ nhìn từ Trái đất trong sự phối hợp với quan sát địa thế đất đai và sinh hoạt của con người. Sự phổ biến của bức tranh dân gian Hàng Trống khi du nhập vào trong nền văn hóa dân gian Trung Quốc, đã thay đổi ý nghĩa nguyên thủy của nó, chỉ còn ý nghĩa cát tường dân gian và trở thành bức tranh Ngũ hổ chiêu tài. Ngũ hổ chiêu tài Tranh dân gian Trung Hoa (tỉnh Phúc Kiến) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Miền Bắc Việt Nam có nhiều đền thờ Thánh Mẫu, mà nơi bàn thờ thứ ba thường thờ Hổ gọi là “Hạ ban” vì thờ dưới đất. Trong một buổi “Lên Đồng” thì xác Ðồng lên vai hổ là một màn khó khăn, căng thẳng. Ðộng tác lên vai hổ:“Trùm khăn đỏ (phủ diện) lên đầu, rồi tập trung, lấy tay che mắt, bỗng nhiên thấy hai vai trĩu nặng; con Đồng lấy tay xoa mặt, xong chống tay xuống đất trong tư thế hổ ngồi, rồi gầm thét. Người tham dự biết rằng Thần Hổ đã giáng. Lập tức họ rót rượu vào bát rồi đốt. Con đồng nhúng tay vào, xoa mặt với rượu nóng. Nhìn lên điện thờ, Đồng lại gầm thét. Người dự mang đến bó hương, đồng đốt hương và cắm vào ngọn lửa đang cháy. Sau đó có người mang đến đĩa dầu lửa và đốt lên. Con Đồng cắn vỡ đĩa sành, mồm miệng đầy dầu lửa, và cứ thế lặp lại nhiều lần. Cho đến khi cử tọa yêu cầu ngưng, để biểu diễn việc trừ tà và cho thuốc. Cuối cùng Thần Hổ thăng.”Tạo không khí cho vai Thần Hổ, có nhạc đệm sênh phách, đờn ca bài hát chầu văn đặc biệt Ngũ Hổ luyện văn, có đoạn: Trên Thượng Thiên có năm tướng hổ, Luyện người về để độ vạn dân. Người thời đại độ khoan nhân, Thanh nhàn tự tại sạch không làu làu. Thấy Phật ngự khấu đầu vọng bái, Phật ban cho phép đại uy linh. Có phen hống động thiên đình, Giương nanh ra vuốt quỷ tinh bạt hồn. Có phen tướng xuống Diêm môn, Tà ma khiếp sợ, Phạm Nhan thu hình. Xuống Thủy Tinh các tòa cũng phục, Năm ông đều lại tót lên non. (...) Khi thời biến ra hổ thần, Hiện ra hổ tướng nhãn tinh sáng lòe. Trích Cọp trong Đạo Mẫu và tín ngưỡng dân gian, tác giả Đặng Tiến. Cùng với hai bức tranh Ngũ hổ Hàng Trống và Đông Hồ, các dòng tranh còn lưu trữ những bức tranh khác thể hiện thuyết Âm Dương Ngũ Hành khẳng định nội dung triết học về sự khởi nguyên của vũ trụ, ghi nhận trong Hệ từ của Kinh Dịch: “Thị cố Dịch hữu Thái Cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”. Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ trượng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Lưỡng nghi sinh tứ trượng (Tranh dân gian Hàng Trống) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Hình Thái Cực trong tranh dân gian Việt Nam Đây là biểu tượng của Thái cực sinh Lưỡng nghi. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự giải mã câu “Mẹ tròn, con vuông” trong tục ngữ Việt Nam. Mẹ tròn - cái có trước - biểu tượng của Thái cực, của sự chí tịnh, sinh con vuông - cái có sau - thuộc Âm động. Khi Âm sinh thì mới có sự phân biệt Âm Dương; còn bản thể khởi nguyên của vũ trụ chỉ là Thái cực. Biểu tượng của “Tứ tượng” trong tranh dân gian Việt Nam, khác hẳn ý niệm này trong các cổ thư chữ Hán là nó được thể hiện tách rời đồ hình Thái cực - Âm Dương và Bát quái. Điều này chứng tỏ trong nhận thức vũ trụ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Lạc Việt đã coi “Tứ tượng” là một chủ thể tương tác trong quá trình vận động của Âm Dương & Bát quái và không phải Âm Dương & Bát quái. Hai chú bé này có 4 thân hình biểu tượng của “Tứ tượng”.Bốn thân hình của đứa bé kết thành hình vuông là biểu tượng của Âm. Có nghĩa “Tứ tượng” là thuộc tính của Âm, tức là thuộc tính của sự vận động. Dương tịnh, Âm động và tứ tượng chính là 4 trạng thái tương tác có ngay từ sự khởi nguyên của vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành, gồm tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ. Vì sự vận động và trạng thái tương tác không ngừng nghỉ, nên không thể có trạng thái phân biệt rõ rệt như không thể phân biệt giữa “chiều tím” và “hoàng hôn”. Điều này được thể hiện bằng 4 thân hình gắn kết với nhau trong bức tranh trên. Nhưng Âm Dương về nguyên tắc vẫn là trạng thái phân biệt, như ban ngày với ban đêm. Do đó, hình ảnh hai đứa bé cho thấy Âm Dương chi phối “Tứ tượng”. Bức tranh trên còn một hình tượng quan trọng, đó là con rùa. Con rùa là biểu tượng một nền văn minh có chữ viết của người Lạc Việt. Bản văn cổ chữ Hán ghi nhận “Vào đời Đào Nghiêu, có sứ Việt Thường dâng con rùa lớn, trên mai có văn Khoa Đẩu, ghi việc trời đất mở mang”. Như vậy, con rùa chính là phương tiện ghi nhận nền văn minh có chữ viết của người Lạc Việt từ thời cổ xưa. Chú bé “Tứ Tượng” dẫm trên mai con rùa là hình tượng sắc sảo chứng tỏ nó thuộc về văn minh Lạc Việt và đã được ghi nhận từ thời tối cổ; khi mà tổ tiên người Lạc Việt dùng mai rùa để ghi lại những tri thức của mình. Đây cũng là một biểu tượng có nội dung sâu sắc của bức tranh này. Hình ảnh chiếc mai con rùa với những ô nhỏ, sẽ được viết lên các độ số của Hậu thiên Bát quái từ 1-10, và đồ hình trên tay chú bé “Tứ Tượng” chính là đồ hình Hậu thiên Bát quái phối Hà Đồ đã được đổi chỗ Tốn Khôn, những chi tiết này tạo thành một bức tranh hoàn thiện từ nguyên bản ban đầu. Cùng với các biểu tượng Việt dưới đây, chúng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau khẳng định nội dung triết học về sự vận động có quy luật của vũ trụ và gửi gắm niềm mong ước của Người xưa về một thế giới hòa bình và an lạc thông qua các quẻ Dịch. Tam Dương khai thái Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Đây là một trong những bức tranh đẹp vì tính cân đối với đường nét sinh động và màu sắc hài hòa. Hình tượng trong tranh này vừa có tính ước lệ, tính hiện thực và tính biểu tượng được cách điệu. Sự cách điệu và biểu tượng rõ nét nhất là hình mặt trời ở phía sau hai con gà. Gà gáy khi mặt trời mọc, lý đương nhiên là như vậy. Nhưng tựa của bức tranh lại là Tam Dương khai thái. Với tựa đề này, tự nó đã thể hiện tính minh triết Đông phương trong chủ đề của bức tranh. Nhưng nếu chỉ dừng ở đây, thì bức tranh này cũng chỉ có thể coi là sự diễn tả đơn giản rằng: với độ số Dương 3 là tượng quẻ Chấn - phương Đông – nơi mặt trời mọc; có ý nghĩa chúc lành cho một ngày mới, hoặc một vận hội mới. Hoặc có thể hiểu rằng: Tam Dương là tượng quái Càn (file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg), đây là quái đứng đầu trong bát quái có ý nghĩa thể hiện cho sự hanh thông, tiến triển. Nhưng nếu như vậy, người vẽ chỉ cần thể hiện một trong hai con gà cũng đủ nghĩa. Vì con gà trong trường hợp này chỉ là sự minh họa cho chủ đề trên. Ở đây lại có 2 con giống nhau. Chứng tỏ người vẽ phải gửi gắm một ý tưởng trong hình tượng này. Trước khi giải mã bức tranh, xin được trình bày một hiện tượng trong Kinh Dịch như sau: Trong 64 quẻ dịch thuộc Hậu thiên Bát quái chỉ có một quẻ có tên là Địa Thiên Thái có ký hiệu như sau: file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Trong quẻ này có 3 vạch liền ( file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image011.jpg), đó là 3 hào thuộc Dương gọi là quái Càn và 3 vạch đứt (file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image013.jpg) là ba hào thuộc Âm gọi là quái Khôn. Tên bức tranh Tam dương khai thái đã nói đến ba hào Dương này, còn 3 hào Âm ở đâu? Chúng ta bắt đầu từ biểu tượng mặt trời. Biểu tượng mặt trời cho thấy toàn bộ bức tranh này thuộc về hành Hỏa. Trong Kinh Dịch cũng nói quẻ Ly thuộc phương Nam, hành Hỏa và là biểu tượng của mặt trời. Thuyết quái viết: “Ly vi Hỏa, vi Nhật…”. Bây giờ chúng ta trở lại với đồ hình Hậu Thiên Bát quái. Hậu thiên Bát Quái liên hệ với Lạc thư theo cổ thư chữ Hán file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image015.jpg Về vấn đề này, tính không hợp lý của đồ hình Hậu thiên Bát quái trong bản văn cổ chữ Hán và phải đổi vị trí của hai quẻ Tốn và Khôn. Đồng thời, sau khi đã đổi chỗ hai quẻ Tốn và Khôn, đồ hình Hà đồ chính là căn nguyên của Hậu thiên bát quái. Đồ hình Hà đồ và Hậu thiên Bát quái nguyên thủy file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image017.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Qua đồ hình trên, bạn đọc sẽ nhận thấy rằng: Quẻ Ly nằm ở vị trí Dương Hỏa phù hợp với vị trí của nó mà Thuyết quái đề cập đến. Đồng thời quẻ Khôn nằm ở vị trí Âm Hỏa, độ số là 2. Nếu đặt vấn đề là: Trong trường hợp Hậu thiên Bát quái liên hệ với Lạc thư, như cổ thư chữ Hán nói đến, thì quái Khôn vẫn nằm ở vị trí Âm Hỏa độ số 2. Điều này đúng như vậy; và đây cũng chính là sợi tóc cản trở góp phần tạo nên sự bí ẩn trải hàng thiên niên kỷ cho cuốn kỳ thư Đông phương này - khi nó đã thiếu khuyết hẳn một hệ thống lý thuyết cho nó - khiến rất khó phát hiện ra sự sai lệch của nó qua phương pháp ứng dụng. Do độ số (2) và tính chất (Âm Hỏa) không đổi, nó chỉ sai lệch khi ứng dụng trong sự vận động liên quan đến phương vị của quái Khôn. Sự thay đổi phương vị của quái Tốn & Khôn là một trong những sự thay đổi có tính căn để trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái. Đó cũng là sự thay đổi hợp lý nhất có khả năng lý giải mọi hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Trong trường hợp này là sự hợp lý với hình tượng được thể hiện trong bức tranh dân gian Lạc Việt nói trên: Mặt trời biểu tượng của quái Ly thuộc Hỏa, lại là một bộ phận của chính con gà được cách điệu thành hình mặt trời. Do đó, nó phải liên quan và cùng hành Hỏa của quái Ly. Trong khi đó, nếu theo cổ thư chữ Hán thì mặc dù số của quái Khôn (file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg) cũng có độ số 2 và thuộc Âm Hỏa; nhưng lại liên quan và đồng hành với quái Đoài thuộc Kim (trong hành Hỏa trên Lạc thư). Như vậy, bức tranh này chính là biểu tượng của quẻ Địa Thiên Thái và cho biết quái Khôn phải cùng hành với quái Ly thuộc Hỏa, được biểu tượng bằng 2 con gà quay mặt vào nhau (đối xứng âm dương) có mặt trời phía sau. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Hậu thiên Bát quái đổi chỗ hai quái Tốn & Khôn và liên hệ với Hà đồ. Trong trường hợp này, câu “Tam Dương khai thái” có thể giải thích là: bắt đầu từ ba hào dương (file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg) hãy tìm vị trí của quái Khôn (file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg) trở thành quẻ Địa Thiên Thái là một quẻ cho vận hạn tốt của vũ trụ. Tam dương khai thái tùng tư thỉ, Tứ quý hưng long tự thử sơ. Ba hào dương mở hội, hanh thông kể từ nay, Bốn mùa hưng thịnh, từ đây khởi đầu. Trong Chương III: NHỊ ĐỘ MAI, chúng ta biết rằng quái Khôn là biểu tượng của Thánh Mẫu Thượng Thiên, Phật Bà Quan Âm và cũng là biểu tượng của “Trái đất”. Trong bức tranh Tam dương khai thái, giữa chân hai con gà là hình ảnh của một cây hoa mọc lên từ dưới đất, thể hiện câu nói phổ biến trong dân gian: “Mẹ ta hoa Phật” chính là nguồn gốc này. Trong bộ tranh thờ Đạo giáo Hành Say, tiêu đề tranh bức tranh trung tâm mang dòng chữ là Phúc - Lộc - Thọ. Phúc là mong được đông con, nhất là con trai để nối dõi, trông coi tài sản, và khi về già cha mẹ được yên tâm vì có con cái chăm sóc. Lộc là bổng lộc, quan tước của triều đình, hưởng lộc vua ban. Thọ là mong ước có được cuộc sống lâu như loài rùa, như cây tùng, cây bách để vui cùng con cháu. Phúc - Lộc - Thọ trong dân gian gọi là Tam Đa, Tam Đa có nghĩa là ba cái nhiều, nhiều phúc, nhiều lộc, nhiều thọ. Dân gian quan niệm rằng: thờ Phúc Lộc Thọ là thờ Cửu Huyền Thất Tổ chung của mọi người, tức mang ý nghĩa thờ ông bà chung. Trong sách Sử Ký Sách Ẩn chú giải: Thọ Tinh tức là Nam Cực Lão Nhân, xây dựng miếu thờ cầu cho được bình an, hưởng phước và sống lâu. Tam Đa Tranh dân gianHàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Liên quan đến Tam Đa, đạo nhân Đào Hoằng Cảnh thời Tề Lương, trong sách Chân Linh Vị Nghiệp Đồ đã xếp Nam Cực Lão Nhân vào “Thái cực tả vị” - bên trái Thái cực. Ngoài ra thông thường còn có sự xắp xếp: Phúc Tinh là chỉ Thiên Quan, Lộc Tinh chỉ Văn Xương, Thọ Tinh vẫn là Nam Cực Lão Nhân. Trong sách Trung Thiên Tử Vi Tinh Chân Bảo Sám lúc triều lễ các vị Tinh Quân, đã có phần lễ bái ba vị “Phúc Tinh Thiên Đức Tinh Quân, Lộc Tinh Thiên Hựu Tinh Quân, Thọ Tinh Lão Nhân Tinh Quân”. Trong sách Kim Lục Trai Huyền Linh Chuyển Kinh Tảo Triều Hành Đạo Nghi của Thành Nghi đời Minh có đề cập đến việc hoàng gia lúc tụng kinh Thái Thượng Huyền Linh Bắc Đẩu Bổn Mệnh Diên Sinh Chân Kinh, trong nghi thức thỉnh thần, ngoài việc thỉnh Tam Thanh, Ngọc Đế, Bắc Đẩu Cửu Tinh Quân, còn phải thỉnh: “Nam Cực Lão Nhân Thọ Đức Tinh Quân, Thượng Thanh Phúc Đức Tinh Quân, và Thượng Thanh Lộc Đức Tinh Quân”. Từ bức tranh dân gian Hàng Trống Tam Đa chúng ta có thể nhận thấy ông Phúc, trông giống một vị đại quan triều đình, tay phải bế đứa bé trai, ông Lộc trông như một vị quan triều đình, tay cầm ngọc như ý, ông Thọ với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm gậy trúc đầu rồng. Xung quanh là 3 đôi tiên đồng ngọc nữ, phía trước có một con kỳ lân đang đứng. Theo cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ, Đế Minh hiệu Phúc Đình, Kinh Dương Vương hiệu Phúc Lộc, Lạc Long Quân hiệu Phúc Thọ tức Phật sống lâu không lường được, các vua Hùng nối tiếp hiệu Khang Ninh. Kinh Dương Vương tự Lộc Tục, hiệu Phúc Lộc. Lộc là tài lộc, con hưu, như vậy hình ảnh của ông Lộc chính là Kinh Dương Vương. Hình ảnh của ông Thọ chính là hình ảnh của Lạc Long Quân và hình ảnh của ông Phúc chính là hình ảnh của vua Đế Minh, con lân biểu tượng vua Hùng Quốc Vương và ba đôi tiên đồng ngọc nữ “tam dương tam âm” thể hiện quẻ Thiên Địa Thái. Tiến Tài - Tiến Lộc Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg “Lộc” mang ý nghĩa lộc con hươu, biểu tượng vua Kinh Dương Vương, và “Tài” biểu tượng cho vua Lạc Long Quân, bộ tranh hàm nghĩa tài lộc là do trời ban. Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, cũng có bộ tranh nhị bình treo ngày Tết tương đương nhưng vẽ hai đứa bé cùng với hoa quả, màu sắc rực rỡ. Tiến tài và Tiến Lộc Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Theo một bản gia phả của họ Nguyễn còn lưu giữ ở Vân Nội, Thanh Oai, Hà tây, có ghi: “… Nguyễn Minh Khiết và Hương Vân Cái Bồ Tát sinh ra Ốc tổ Kinh Dương Vương, húy Nguyễn Quảng, sử ký chép là Lộc tục (Tục hái lộc). Con cháu đặt tên tự là Phúc Lộc, giỗ ngày 25 tháng Chạp: Hai ba là Tết ông Công, Hai tư tắm gội, hai nhăm về chầu. Ngày đó gọi là ngày “hội Thiên đình”, các vị thần khắp nơi về đền Kinh Dương Vương ở Phong Châu chầu tổ phải làm lễ tắm gội từ ngày 24. Kể từ ngày 24, rước mã về thờ thì nhân dân ba làng không được vui hát, không được nói to, không được trống phách, đàn sáo, đêm không ra đường, sợ gặp vía các thần thánh, chờ đến lúc giao thừa mới được trống phách, đàn sáo như thường, đó là lễ động thổ”. Từ hình ảnh của Tam Đa, người Việt xưa đã sáng tác vũ khúc Tam Tinh chúc thọ, dùng trong dịp lễ “Vạn Thọ” múa chúc thọ nhà vua: Phơi phới muôn dặm cưỡi mây lành, Bước bước duổi đi mau chóng nhẹ nhàng. Chập chờn nay trên mây rút đất ngắn lại, Chỗ chơi gió lộng tung qua trời. Từ nay soi mãi trên dải non sông, Xua đuổi yêu ma về núi Thái họa. Lúc đến lặng lẽ, lúc đi phơi phới, Sa bà thế giới cười cợt tiêu dao. Hoa thường đẹp, trăng thường tỏ, Người ở tầng thứ nhất trong trời đất. Kỳ lân là một loài linh thú, tương truyền khi kỳ lân xuất hiện sẽ có điềm lành lớn xảy ra. Theo truyền thuyết, kỳ lân có liên quan đến Khổng Tử, ông là một nhà giáo vĩ đại, nhà đạo đức và là nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc, được suy tôn là Thánh tổ của Nho gia. Sách xưa đã chép không ít chuyện li kỳ về ngày tạ thế của Khổng Tử, đại để trước đó hai năm, người của nước Lỗ đi săn được con kì lân bị què mất một chân trước ở bên trái. Mọi người thấy thể đều cho là điểm không lành, bèn đem con kì lân ấy ra thả ngoài đồng. Khổng Tử trông thấy, liền buồn bã hỏi rằng: Kì lân ra làm gì thế? Hỏi xong liền bưng mặt khóc. Về nhà Khổng Tử than: Ngô đạo hùng hĩ (nghĩa là đạo của ta đã đến lúc cùng rồi hay sao)?. Chúng ta cũng đã biết rằng, Nho giáo nguồn gốc thời vua Hùng Vương, ghi nhận qua Hồng phạm cửu trù qua cuộc thi Sơn Tinh Thủy Tinh, và cuối cùng Sơn Tinh chiến thắng, cưới công chúa Mỵ Châu và lên ngôi vua. Ông chính là Hùng Vương thứ IV - Hùng Hoa Vương. Như vậy, hình ảnh linh thú kỳ lân được mật ngữ chính là biểu tượng của vua Hùng Quốc Vương, người đặt ra tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh nhị bình Đại Cát - Nghi xuân, trong đó bức tranh Đại cát thể hiện nội dung của một quẻ bói tốt nhất cho công việc hoặc tương lai của con người thay cho lời chúc lành. Đại Cát - Nghinh Xuân Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Có lẽ không ít người trong chúng ta đã biết đến một số phương pháp dự báo tương lai, mà ngôn ngữ dân gian gọi nôm là xem bói. Một trong những phương pháp bói cổ xưa và khá phổ biến là bói bằng mai rùa, bằng chân gà. Nhưng bản văn cổ nhất của nền văn minh Đông phương nói đến bói toán lại liên quan đến hình ảnh con gà. Đó chính là trù thứ 7 trong Hồng phạm cửu trù. Trù này có tên là Kê Nghi, có nghĩa là hỏi gà. Trong các nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại còn di sản lưu truyền đến ngày hôm nay, như Ai cập, Ấn Độ, Hy Lạp và phương Đông… đều tồn tại những phương pháp bói toán. Nhưng chỉ có nền văn hóa phương Đông có hẳn một phương pháp luận cho các phương pháp bói toán này. Đó là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nếu nói theo ngôn ngữ khoa học hiện đại thì từ “bói” gọi nôm na dân dã ấy, có thể gọi là “khả năng dự báo”, “dự đoán”. Trong quá trình phát triển của nền khoa học hiện đại, bắt đầu từ nhận thức thực chứng, thực nghiệm ngày nay trở thành khoa học lý thuyết. Một thí dụ cho vấn đề này là lý thuyết tuần hoàn hóa học của Mendeleev. Trong tự nhiên, không thể kiếm đâu ra những nguyên tố hoá học được sắp xếp theo bảng tuần hoàn của nhà bác học vĩ đại này. Lý thuyết này đã giải thích được hầu hết những hiện tượng liên quan đến các nguyên tố hóa học. Đặc biệt là nó có khả năng dự báo những nguyên tố sẽ xuất hiện hoặc có khả năng xuất hiện. Hoặc như thuyết lục địa trôi, thuyết tiến hóa của Dacuyn... Chính những lý thuyết này đã chứng tỏ được sự nhận thức của con người, trong việc khám phá những qui luật của tự nhiên. Nền khoa học hiện đại - bao gồm tất cả mọi ngành khoa học đã thừa nhận một tiêu chí khoa học là: “Một lý thuyết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó có khả năng lý giải hầu hết những vấn đề liên quan đến nó”. Và tất nhiên lý thuyết đó phải có khả năng dự báo. Như vậy, xuất phát từ cái nhìn của nền khoa học hiện đại, thì khả năng dự báo chỉ có thể có được sau khi hình thành một lý thuyết. Điều này đã chứng tỏ rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành đã hoàn chỉnh và tồn tại từ rất lâu trong nền văn minh cổ Đông phương và tất nhiên, nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Không thể có một sự chứng minh nào hợp lý hơn là: nền văn minh Lạc Việt chính là chủ nhân đích thực của học thuyết này. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, hình ảnh con gà có một vị trí quan trọng. Thậm chí trong tín ngưỡng dân gian với tục thờ Thánh Mẫu, ở những nơi này biểu tượng con gà được đứng ở vị trí trang trọng trước điện thờ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam có một hiện tượng rất đáng chú ý. Đó là giá chầu “Cô Chín”, theo truyền thuyết đây là vị thần chuyên phụ trách bói toán. Như vậy, hình tượng con gà trong tranh dân gian Việt Nam và con gà trong tín ngưỡng thờ Thánh, cùng có chung một cội nguồn văn hóa Lạc Việt và gắn liền với việc “bói toán”. Như đã trình bày ở phần trên, hình tượng con gà dùng vào việc bói toán xưa nhất theo bản văn cổ chữ Hán là Hồng phạm cửu trù. Nhưng sử dụng hình ảnh con gà như là một biểu tượng của sự bói toán lại phổ biến trong tín ngưỡng dân gian và trong di sản văn hóa truyền thống Việt Nam. Điều này là một sự minh chứng rõ nét, bổ sung cho quan niệm rằng: Hồng Phạm cửu trù được nhắc tới trong Kinh Thư, chính là một di sản văn hóa của người Lạc Việt và là bản hiến pháp cổ nhất của nước Văn Lang, cội nguồn của nền văn hiến trải gần 5.000 năm của nước Việt Nam hiện nay. Mỗi bức tranh chia làm hai phần, phần dưới vẽ một con gà trống đang chân co chân ruỗi, giương cách vỗ, nét lông đuôi như múa, toàn thân như reo hát chúc tụng. Dân gian quan niệm gà trống là biểu tượng của ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đó là những đức tính của một bậc quân tử. Gà trống trong 12 con giáp, hành Kim, như đã phân tích trong Chương III: NHỊ ĐỘ MAI, chính là biểu tượng của vua Lạc Long Quân. Trong tranh dân gian Kim Hoàng Gà trống có hai bức, mỗi bức đề một bài thơ tứ tuyệt nói rõ con gà có năm đức, hình dáng oai nghiêm, hùng dũng, khi gáy lên thì vang động tới rừng núi, khiến cho quỷ khốc thần kinh, tà chạy tán loạn, gìn giữ cho các gia đình khỏa mạnh sống lâu: Thần kê ngũ đức thái phượng hình, Cảnh thượng Côn Lôn đẩu hoán thanh. Quỷ khóc thần kinh tà tẩu tán, Trấn chi môn hộ thọ trường sinh. Và ở vế kia, tiếng gà gáy đồng nghĩa với vừng đông mọc, ánh sáng của mặt trời xóa tan đi bóng đêm tăm tối. Bằng cựa vàng, mào hoa và năm móng sắc, con gà phù hộ cho các gia đình, khiến cho bầy quỷ phải tránh xa, cảnh nhà có nhiều may mắn tốt tươi vui vẻ: Đông phương di hiệu thực tà thần, Kim cự hoa khôi ngũ thái văn. Bộ hộ khả linh quần quỷ tị, Môn môn trùng khánh vạn niên thanh. Gà gáy báo hiệu một ngày mới, một năm mới, một vận hội mới mà nhân gian đang chờ đón đó là thời đại “Hoàng Kim”, đã được đặt tên cho dòng tranh này. Kim kê Tranh dân gian Kim Hoàng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Kết hợp với bộ tranh dân gian Kim Hoàng, bộ tranh “Đại cát - Nginh xuân” như một lời tiên tri của những mùa xuân nước Việt, mà sau này Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm cũng dự đã ngôn: Hồng lam ngũ bách nghinh thiên hạ, Hưng tổ diên trường ức vạn xuân. Sự mơ ước của con người về trường thọ không chỉ cho cuộc sống hiện tại, mà còn mong ước cuộc sống vĩnh cửu như các vị tiên, những người đã đắc đạo trường sinh. Huyền thoại Lão giáo kể rằng có 8 vị tiên nổi tiếng thường được gọi là Bát Tiên, gồm 6 tiên ông và 2 tiên bà ở 8 động đá trên đảo Bồng Lai, cõi thần tiên. Trong tranh dân gian Hàng Trống gọi là Bát Tiên náo hải, cùng với bức tranh Tam Đa ở trên tạo thành bộ tranh nhị bình. Bát Tiên náo hải Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam Bát tiên náo hải Tranh tường kinh thành Huế, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Câu chuyện Bát Tiên có từ thời Tống Nguyên. Chuyện kể về 8 vị tiên lên thiên đình dự tiệc bàn đào và chúc thọ Tây Vương Mẫu, sau đó vượt biển trở về. Tương truyền, vào ngày Tết Thanh minh mồng 3 tháng Ba âm lịch của một năm, sau khi ăn uống no say, 8 vị tiên trở về nhà, hành trình của họ phải vượt qua biển Đông. Lữ Đồng Tân đề nghị không vượt biển cưỡi mây mà bằng bảo bối của mình. Thế là mỗi vị tiên đều trổ tài vượt biển bằng bảo bối với phép thuật riêng: Lý Thiết Quài thả quả hồ lô, Hán Chung Ly thả quạt, Trương Quả Lão thả trống như cổ, Lữ Đồng Tân thả thanh kiếm, Lam Thái Hòa thả giỏ hoa lam, Hàn Tương Tử thả cây sáo, Tào Quốc Cữu thả ngọc bản và Hà Tiên Cô thả hoa sen. Trên mặt biển họ thi thố phép thuật, làm mưa làm gió, vì thế đã kinh động đến vị thái tử của Đông Hải Long Vương. Thái tử đã nhấn chìm ngọc bản của Tào Quốc Cữu, rồi Hà Tiên Cô lại rơi vào long cung, cuộc chiến diễn ra ác liệt. Bát tiên làm náo loạn biển Đông để giành lại ngọc bản. Long Vương cũng không chịu thua liền mời thiên binh tới giúp, cuối cùng phải nhờ Phật Tổ Như Lai đứng ra giải quyết sự việc mới dừng lại. Về sau, câu chuyện này được soạn lại thành rất nhiều vở kịch và thường được biểu diễn tại các buổi chúc thọ trong dân gian. Trương Quả Lão là vị tiên già nhất trong 8 vị tiên, tên thật là Trương Quả, tại sao gọi là Trương Quả Lão? Nghe nói ông sống tới 8000 năm nên mọi người gọi tên ông như vậy. Trong lịch sử Trung Hoa thì Trương Quả Lão là người có thật, là một thuật sỹ nổi tiếng, trong Đường Thi xưa và nay đều kể rất nhiều chuyện liên quan tới ông. Ông thường ẩn cư trong núi, sau đó lại tới Hằng Sơn tu luyện. Ngày nay, ở núi Hằng Sơn vẫn còn lưu lại dấu tích của ông. (Dân gian sinh tử toàn thư, Nxb. Thời đại, 2011, trang 272 - 273). <a name="battien_truongqualao">Trương Quả Lão tương truyền là Trương Quả: Ông đã ẩn cư lâu dài trong núi Trung Điền, sống đến mấy trăm tuổi. Nữ Hoàng Võ Tắc Thiên nhà Đường (690-705) đã từng tuyên triệu vào triều, nhưng ông giả chết không đến. Ông có bảo bối là một cái ống tre, ở trong ống tre có một con lừa trắng bằng giấy. Khi dùng đến lừa thì đổ ống tre ra, con lừa bé tí tẹo lớn lên trong phút chốc, ngày có thể đi hàng mấy vạn dặm đường. Ông thường cưỡi ngược lừa, mà lừa vẫn đi tới nơi ông định tới. Khi nghỉ thì ông gấp lừa bỏ lại vào trong ống tre đeo bên mình. Người ta nói ông có sự khôn ngoan của tuổi già và khả năng tàng hình. Vị tiên này được xem là một vị thánh, hình ảnh của ông mang lại trí tuệ và sự khôn ngoan cho người cha của gia đình. Biểu tượng của ông là ngư cổ, là một cái trống tre hình ống với hai dùi trống bằng sắt mà ông mang theo bên mình, hoặc mang theo một chiếc lông phượng hoàng hay một quả đào, tượng trưng cho sự bất tử. Lam Thái Hòa: Lam Thái Hòa là Xích Cước Ðại Tiên đầu thai xuống trần, nên thường mặc áo màu đỏ, buộc dây lưng đen, một chân đi đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh. Bà thường mang theo một rổ hoa và được xem là hình tượng của người mẹ. Lam Thái Hòa là vị tiên thích uống rượu đến mức say sưa và khi đó rời bỏ thế giới này để bay lên trời bằng cách cưỡi thiên nga hay hạc. Một số nguồn minh họa Lam Thái Hòa mặc áo dài cũ màu xanh lam có 6 cúc bằng gỗ. Lữ Ðồng Tân: Tương truyền là Lữ Thuần Dương, người Trung Phủ (nay là huyện Vĩnh Tế huyện Sơn Tây) thời Đường. Nhân đi thi tiến sĩ hai lần không đậu bèn vân du bốn phương. Gặp Chung Ly Quyền cho đan quyết mà đắc đạo thành tiên. Ông là một trong 5 ông tổ của phái Bắc - Toàn - chân đạo (Năm người đó là Chung Ly Quyền thành tiên đời Hán, Lữ Thuần Dương thành tiên đời Đường, Lưu Hải Thiềm thành tiên đời Tống, Vương Trùng Dương và Vương Thiếu Dương thành tiên đời Nguyên). Ông có bảo bối là một cây kiếm tiên: chỉ sông sông cạn, chỉ núi núi mòn. Khi bà mẹ mới sinh ông thì trong phòng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào phòng rồi biến mất. Lữ Ðồng Tân lớn lên, mắt phụng mày ngài, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương gò má cao, chơn mày bên tả có nốt ruồi, dưới bàn chân có chỉ như lưng qui, mình cao 8 thước 2, tánh ưa bịt khăn huê dương (bao đảnh xanh), mặc áo đạo sĩ. Lữ Ðồng Tân được xem là bùa hộ mệnh của người bệnh, trên lưng ông là thanh kiếm dùng diệt trừ ma quỷ và chặt đứt nỗi khổ. Tay phải ông cầm một cây phất trần để chữa bệnh. Hà Tiên Cô: Tương tuyền là một phụ nữ ở Tăng Thành thuộc Quảng Châu thời Đường, năm 14-15 tuổi nhân khi ăn thiên mẫu phấn mà thành tiên, có phép thuật đi như bay. Hàng ngày xách giỏ cánh sen vào núi hái quả nuôi mẹ. Hà Tiên Cô có pháp lực vô biên. Khi còn bé, Hà Tố Nữ có sáu cái xoáy trên đầu, ai cũng cho là kỳ. Biểu tượng của bà là hoa sen. Sự hiện hữu của bà mang lại lợi ích cho người mẹ của gia đình. Lý Thiết Quài tương truyền tên là Lý Huyền: Nhân gặp Thái Thượng Lão Quân mà đắc đạo thành tiên thời Chiến Quốc. Hình dáng xấu xí, tóc tai bờm xờm, mặt bần, bụng phẳng, chân què, tay chống gậy, lưng đeo bầu rựu bảo bối. Từ quả bầu tiên này rót ra những chén rựu tiên tỏa hơi như một đám mây bao phủ một viên thuốc trường sinh bất tử (đó là tiên tửu - mộ thái cực về công năng của rựu). Quả bầu tiên bảo bối chỉ là tượng trưng - một thái cực khác về công năng của rựu). Quả bầu tiên bảo bối chỉ tượng choc ho cái lợi và cái hại của rựu cùng tồn tại trong các thú vui uống rựu của người đời. Lý Thiết Quài Tranh cuộn đời Nguyên (1270-1320), chùa Chion - Kyoto,Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Ông đi lại với sự hỗ trợ của một chiếc thiết trượng và thường đeo một quả bầu trên vai. Người ta cũng nói rằng ông từ bỏ mọi cám dỗ vật chất và sống cuộc đời tự hành xác để ngộ đạo trong 40 năm, thường không cần ăn uống hay nghỉ ngơi. Ngoài ra, còn có thuyết nói rằng ông do Tây Vương Mẫu hóa sinh, phong làm Đông Hoa giáo chủ và trao cho thiết trượng. Hàn Tương Tử: tương truyền là cháu họ của đại văn hào àn Dữ thời Đường. Sauk hi đắc đạo thành tiên thường cầm ống tiêu trên tay, pháp thuật cao cường. Người có thể dung sáo thổi lên những âm thanh kỳ diệu, thu hút sự may mắn. Khả năng đặc biệt của Ông là làm cho cây nở hoa ngay lập tức. Hán Chung Ly hay Chung Ly Quyền: Nhân được Lý Thiết Quài hướng dẫn, lên núi học đạo thành tiên. Ông có cái quạt bảo bối và chuyên dùng giả kim thuật (biến kim loại thành vàng, và nấu kim loại thành thuốc trường sinh) để cứu tế mọi người. Thường được mô tả là mập, bụng phệ, tay cầm quạt có khả năng giúp người bệnh hồi phục nhanh chóng. Ông được cho là biểu tưởng của sức khỏe và khả năng chữa bệnh. Ngài thường cỡi hạc lên Trời. Theo truyền thuyết, căn phòng nơi ông sinh tràn ngập ánh sáng khi ông chào đời. Sau khi sinh ông không ngừng khóc cho tới khi đủ 7 ngày. Những người theo Đạo giáo sau này kỷ niệm sinh nhật của ông vào ngày 15 tháng 4 âm lịch hàng năm. Trong Đạo giáo ông thường được gọi là "Chính Dương tổ sư". Hán Chung Li được Toàn Chân giáo tôn là Bắc Ngũ Tổ, đạo hiệu Chính Dương chân nhân. Nguyên Thế Tổ sắc phong là Chính Dương khai ngộ truyện đạo chân quân, Nguyên Vũ Tông phong thêm là Chính Dương khai ngộ truyền đạo trùng giáo đế quân. Tào Quốc Cựu: tương truyền là Tào Hữu, quốc Cữu thời Tống. Vì có người em ỷ thế (em vợ vua) làm điều ác, ông sợ liên lụy bèn đem gia sản phân phát cho người nghèo, vào núi tu đạo. Gặp Chung Ly Quyền, rồi gặp Lữ Đồng Tân, đắc đạo thành tiên. Ông có bảo bối là đôi phách cầm trên tay, có nhiều pháp lực cao siêu. Biểu tượng của ông là cây song loan được ông giơ cao lên bằng tay trái. Người ta nói Ông mang đến thanh danh và quan lộc cho người cha trong gia đình. Long Vương: Cùng với hình ảnh của Long Vương đang ngồi trên ngai vàng và xung quanh là quân tướng của long cung. Để giải mật ngữ bức tranh này, chúng ta chú ý một vị đang ngồi trên ngai dưới biển, đấy chính là Bát Hải Long Vương, vua Động Đình Hồ, cùng với 7 thần tướng động vật biển của mình. Chúng ta cũng biết con của vua Bát Hải Động Đình chính là Đế Minh theo truyền thuyết. Như vậy suy luận tiếp theo là vua Đế Minh sẽ thừa hưởng vùng đất của Long Vương, hình ảnh trên chính là vua Đế Minh. Nhận định này sẽ được xác nhận một lần nữa qua các bộ tranh thờ Đạo giáo Hành say. Hành say Tranh thờ Đạo giáo dân tộc miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Căn cứ trên những bộ tranh Hành say, vị trí Quan Âm Bồ Tát được minh họa trên hai hàng thần linh, nơi vị trí của Ngọc Hoàng Thượng Đế và Bắc Cực Tử Vi Đại Đế. Hai vị Quan Âm Bồ Tát này đã được phân tích trong các chương trước là Phật Mẫu - Tây Vương Mẫu và Quan Âm Bồ Tát. Hai vị tương ứng hai vị tiên nữ trong Bát Tiên, đồng thời vị trí của 6 tiên ông còn lại không ai có vị trí cao hơn Ngọc Hoàng Thượng Đế, bởi theo truyền thuyết Đạo giáo, tiên ông mới thành thì ra mắt Ðông Vương Công tức Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn tiên nữ mới thành thì ra mắt Tây Vương Mẫu. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 1, 2013 Việc sắp xếp vị trí các vị tiên dựa trên bảo bối và cấu trúc âm dương ngũ hành của các động vật biển tương ứng các cung của Hậu thiên Bát quái sẽ không hợp lý, còn theo Tiên thiên Bát quái thì đảm bảo sự tương hợp. Hùng Vương Biều tượng Tên gọi các vị Tiên Kinh Dương Vương - HV I Ốc Trương Quả Lão áo xanh tay cầm ngư cổ Mẫu Thượng Ngàn - Long Nữ Tôm Lam Thái Hòa ầm giỏ hoa lam Lạc Long Quân - HV II Chép Lữ Đồng Tân tay cầm kiếm và tay cầm phất trần Chúa Mẫu Thoải - Âu Cơ Ngao Hà Tiên Cô cầm hoa sen Hùng Quốc Vương - HV III Cua Lý Thiết Quải mang gậy sắt và quả bầu Hùng Hoa Vương - HC IV lừa Hàn Tương Tử thổi sáo Hùng Hy Vương - HV V Sấu Chung Ly Quyền cầm quạt ba tiêu Hùng Hồn Vương - HV VI Rùa Tào Quốc Cữu tay cầm phách Long Vương Ngai vàng vua Đế Minh, lấy Vụ Tiên và kế thừa vua cha Bát Hải Động Đình Nguyên lý sắp các biểu tượng này, còn phải phối hợp xem xét toàn bộ các dòng tranh dân gian và các quy ước âm dương ngũ hành của động vật, thực vật… phân bố vào Hà đồ. Theo kinh sách của đạo Cao Đài, Việt Nam trong Bát Tiên có bốn vị cỡi thú bay và bốn vị cỡi thú chạy. Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, ở cấp thứ tám của Cửu Trùng Đài, hai bên có đặt hai giàn “bát bửu” song song và đối xứng nhau, trên đó có 8 bửu bối của Bát Tiên đặt xen kẽ với 3 cây lọng. Giàn bát bửu với tám bửu bối của Bát Tiên đặt thành hai hàng dài song song trước nơi thờ phượng, để làm tăng thêm vẻ uy nghi trang trọng và trấn giữ ngôi thờ Ðức Chí Tôn, không cho tà quái xâm nhập vào. Tàn vàng - Lọng báu - Bát bửu Tòa Thánh Tây Ninh, đạo Cao Đài, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Bố cục vị trí Lọng báu và Bát bửu file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg (1) Hồ lô và gậy (nai chở): bảo pháp của Lý Thiết Quải. (2) Quạt và Phất trần (chim chở): Hán Chung Ly. (3) Gươm và Phất trần (chim chở): Lữ Ðồng Tân. (4) Hai cây gậy trong cái ống (nai chở): bửu pháp. (5) Giỏ hoa lam (phụng chở): Lam Thái Hòa. (6) Hoa sen (công chở): Hà Tiên Cô. (7) Ống sáo bằng ngọc (cá chở): Hàn Tương Tử. (8) Cặp Ngọc bản (rùa chở): Tào Quốc Cựu. O là cây lọng, có 3 cây lọng cắm xen kẽ trên giàn Bát bửu. Trong cung đình Việt Nam xưa, có bài múa Bát Tiên hiến thọ có nghĩa là tám vị tiên dâng các trái cây và vị thuốc có tác dụng làm cho sống lâu: Năm trăm năm hội vui mừng, bệ ngọc xem như cỏ minh giáp tươi tốt mãi, Ba thu phong cảnh tốt đẹp, cung Thiềm chào đón mùi quế hương ngào ngạt bay. Đất mở cõi Viêm Bang, sông núi thuộc phận sao Dực, Chẩn thêm phần bền vững, Trời đặt ngôi Hoàng đế, cây cỏ tựa như nơi Bồng đảo đầy vẻ sáng tươi. Theo truyền thuyết Đạo giáo: quả bầu xưa kia là bầu rựu và túi thơ, hai món biểu hiện cho sự phong lưu; cây bút biểu hiện văn nhân trí thức; cây quạt, đàn tỳ bà là nhạc khí của người tài tử; giỏ hoa biểu hiện cho tính phong lưu; cây kiếm tượng trưng cho dũng khí; cái khánh và phất trần là những vật của người có đạo đức. Ngoài Bát bửu, thì còn có Lỗ bộ (hay còn gọi Tọa kích hay Chấp kích) gồm 8 binh khí chính dùng để rước hoặc cắm vào giá để trần, cùng với bảng có chữ "tĩnh túc" và "hồi tị" và cờ tiết mao đặt ở cung vua, phủ quan hay các đền, đình, miếu. Lỗ bộ được bày đối xứng với Bát bửu. Bát bửu được đặt bên trái và Lỗ bộ bên phải. Lỗ bộ nơi thờ tự mang ý nghĩa về sức mạnh quyền lực, tượng trưng cho pháp quyền, tạo nên một không gian nghiêm trang, mang tính răn đe đối với những kẻ có ý đồ phá hoại. Phủ Chúa Tranh tham khảo file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Lỗ bộ gồm tám món binh khí khác nhau, có nhiều thay đổi về loại binh khí nhưng chúng tôi chọn ra tám loại tương ứng với cấu trúc Hậu thiên Bát quái: biển hiệu, tiết mao, búa (phủ), đinh ba (xoa), đại đao (long đao), phương thiên kích, (xà mâu), giáo (thương), đại chùy, qua đồng. Cờ tiết mao là hai lá cờ tượng trưng chức sắc của vị Tôn Thần. Tiết là cờ của vua trao cho làm tin, mao là cờ kết bằng lông mao, biểu hiện ân điển của vua. Những xã thờ Thần có sắc phong của các triều đại, trong đồ Lỗ bộ, dùng hai lá cơ tiết mao để nêu lên uy đức của vị Thần ở xã mình. Biển Tĩnh túc và Hồi tị, Tĩnh túc là yên lặng cung kính, Hồi tị là tránh ra xa. Bát bửu và Lỗ bộ Bái đường đình Đồng Kỵ, file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Bát bửu được chọn lựa từ các loại vũ khí chiến đấu sử dụng trong các cuộc chiến tranh. Theo cuốn Ngũ tạp trở của Tạ Triệu thời Minh và cuốn Kiên hồ tập của Chư Nhân Địch thời Thanh: 18 ban binh khí bao gồm cung, nỏ, thương, đao, kiếm, mâu, thuẫn (khiên, mộc che), phủ, việt, kích, hoàng, giản, qua, thù, xoa, ba đầu, cẩm thẳng sách sáo (xích sắt), và bạch đả (tay không). Ở Việt Nam trong nền võ cổ truyền Bình Định, thập bát ban võ nghệ được lý giải gồm 18 môn loại: siêu đao, thương, giáo (một loại binh khí dài hơn thương), mác, kiếm, xà mâu, khiên, phủ hay phủ việt (búa), kích, roi, giản, chùy, đinh ba, cào, côn, dây vải hay dải lụa có buộc vật nặng ở đầu, tô, thủ cước (tay, chân, quyền). Chúng ta thấy rằng Lỗ Bộ và Bát Bửu là những đồ tế khí trình bày trước bàn thờ của mỗi ngôi đình, đền của nước ta, trong dòng tranh dân gian Hàng Trống và Đông Hồ còn có những bức tranh liên quan chặt chẽ, đó là bộ tranh Hương chủ trình bày ban thờ của một ngôi đình làng miền Bắc Việt Nam: Hương chủ Tranh dân gian Hàng Trống, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Ngôi vị ở bàn thờ ở trung tâm của ngôi đình được gọi là Hoàng Cực, và cũng như của một ngôi chùa, đền, miếu, đạo quán, ngôi nhà… xung quanh bốn phương là tứ linh Long - Lân - Quy - Phượng chầu hầu. Cấu trúc không gian thờ tự, thường chia làm ba lớp tính từ ngoài vào: Án thờ (hương án) nằm ngoài cùng, phía trước bàn thờ và sập thờ, nơi đặt đồ dâng cúng. không đặt bát nhang mà chỉ thiết lư trầm, cặp chân đèn, hai bình hoa. Hai bàn bên gọi là tả vu và hữu vu, nơi an vị một số đồ thờ khác như bộ đồ trà, rượu, chén nước cúng. Nhóm đồ bài trí trên hương án: nhóm đồ bài trí trên bàn thờ, thường là một bộ tam sự (một lư hương và hai cây nến), ngũ sự (một lư hương, hai cây nến và hai mâm bồng) hay thất sự hoàn chỉnh (một lư hương, hai cây nến, hai mâm bồng và hai cây đèn dầu lạc đốt bấc), kèm theo một ống hương và một hộp đựng trầm. Ngoài ra còn bộ bát quả cũng được bài trí chung. Lư hương luôn được vẽ hình “Lưỡng long triều nguyệt“, còn bài vị thường được trang trí “Minh phượng triều dương”. Trong bức tranh Hương chủ thì ngai thờ được trang trí hai “Kim kê triều nhật” giống như bức tranh dân gian Tam Dương khai thái. Ngoài ra còn có kỷ tam sơn (cái tam sơn), biểu thị của tam tài: thiên, địa, nhân với phần giữa nhô cao, hai bên thấp. Kỷ tam sơn đặt giữa bàn thờ, phần giữa để đôn cao lư hương có vẻ tôn kính, hai bên hai đài nhỏ đựng chén nước cúng. Loại kỷ tam sơn này hiện được sử dụng khá nhiều trên các bàn thờ người Việt để đặt cau trầu, rượu, nước cúng. Trên bàn thờ có hai độc bình cắm hoa, thường xuyên được cắm hoa tươi của bốn mùa. Hai bên hương án cũng thường đặt đôi lục bình hoặc đôi thống lớn. Đôi lục bình men lam được trang trí các truyện cũ tích xưa, mang những nội dung giáo dục. Chén thờ Cổ vật khai quật Tam Tinh Đôi, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Lớp bàn thờ bên trong được ngăn với lớp bên ngoài bằng một bức y môn, tức là một chiếc màn thờ màu đỏ bằng the, nhiễu hay vải tùy theo gia cảnh. Chiếc y môn treo cao thõng xuống che kín toàn bộ bàn thờ lớp bên trong. Sập thờ (sập tôn) nơi thiết cơi đựng đồ cúng, khay đài đựng rượu, cặp mâm xà đựng cỗ cúng mặn và ngọt và đặt các vật phẩm khi dâng cúng. Kiểu sập cao hai tầng, 4 chân quỳ thao thiết. Thần vị (bài vị, thần chủ) làm bằng gỗ có hương thơm, được viết chữ rõ ràng thiết trên long ngai đặt trong khám để thờ. Bài vị được tranh hoàng hình ảnh “Minh phượng triều dương”. Khám thờ là nơi thiết thần vị, tức nơi ở của linh hồn người đã khuất. Khám được chế tạo gần giống như ngôi nhà có mái, trong đặt ngai thờ (cỗ ỷ), trên ngai thiết thần vị. Theo phong tục thờ cúng của người Việt xưa, gian thờ tổ tiên thường có cỗ ỷ để trong cùng vì ỷ là cái ghế ngồi là ý tượng trưng cho sự hiển hiện của người đã khuất.Cỗ ỷ trong dân gian được nâng lên thành ngai thờ tức long ngai (ngai rồng) cho phù hợp với ngôi vị của các bậc đế vương đã khuất. Trong không gian thờ tự, còn bộ hoành phi và câu đối sơn son thếp vàng lộng lẫy hoặc cẩn xà cừ tinh tế. Hoành phi treo phía trên, các câu đối sóng đôi treo ở hai hàng cột trước gian thờ. Nội dung hoành phi câu đối liên quan đến ý nghĩa chung của ban thờ. Trên bức diềm trước ban thờ, dưới bức hoành phi, được trang trí mặt rồng nhằm trấn giữ trung tâm ban thờ. Hoành phi và câu đối Cổ vật Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Trước hương án, còn có bài trí cặp rùa hạc ngậm hoa hồng, tại nhụy hoa có chỗ cắm nến, tượng trưng sự thanh cao và trường tồn, đặt phía trước ban thờ. Biểu tượng rùa hạc được cho là biểu tượng của Đạo giáo lại xuất hiện trong các ban thờ, đây cũng là một bí ẩn cần được lý giải. Người ta thường treo trước y môn một chiếc lồng đèn hình tròn, dân gian gọi là tự đăng. Vào dịp giỗ tết, chiếc đèn này được thắp suốt ngày đêm. Bởi người xưa cho rằng trong những ngày này, hương hồn những người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ và ngọn đèn tượng trưng cho sự hiện diện của họ. Đèn treo ngày xưa thường là một đĩa dầu lạc hay dầu vừng… được đặt trong một chiếc đèn lồng. Trước Bát bửu và Lỗ bộ tượng trưng văn võ, là giá treo chuông và trống. Chính môn gồm cửa chính là hai cửa phụ, cửa chính là loại hai cánh. Các cánh cửa được trang trí các họat cảnh bốn mùa như tranh tứ quý, tứ bình. Phía ngoài chính môn là một cái vạc đồng lớn, thường đổ đầy nước, để thả hoa tươi hoặc trồng thủy sinh. Những nơi phong thủy hữu tình, thường phía trước có đào ao sen thả cá, hai bên trồng bồ đề đối với các ngôi chùa; trồng cây đa đối với các ngôi đình, đền, miếu; cây sung, cây si, cây phượng đối với phủ Mẫu và cây tùng, cây thông, cây bách đối với đạo quán, cung quán. Đối với đình, phía trước chính môn bắt buộc phải trang trí bình phong với hình “Thần Hổ” trấn giữ. Đối với chùa, bên tay phải chính điện còn bố trí thêm tháp Phật chín tầng gọi là “cửu phẩm liên hoa”, cũng như một cái “giếng mắt rồng” bên tay trái để sử dụng. Ngoài cùng là cổng tam quan, nếu ở những nơi đồi, núi thì thường bố trí thêm sơn môn ngay từ đầu con đường để dẫn hướng. Kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc của toàn bộ công trình một ngôi chùa, đình, đền, miếu thường được chạm khắc mỹ thuật, chẳng hạn theo mẫu “Chín con của rồng”, đặc biệt đỉnh mái ngôi chùa bắt buộc trang trí “Lưỡng long tranh châu”, hai đỉnh trụ tường hông của chính môn luôn luôn có tượng con Nghê. Những ngôi đình thờ thần Thành hoàng làng và đền thờ thánh thường có những cỗ kiệu và long đình, ít nhất là có một đôi kiệu một kiệu long và một kiệu phượng. Chúng sẽ được khiêng đi trong các hội lễ rước thần. Đôi khi người ta chế biến các cỗ kiệu thành xe có bánh gọi là long xa và phượng liễn. Long đình là một hộp thờ và mái cong như mái đình, có thể đặt lễ vật vào đó rước đi, nhưng nhiều khi kiệu và đặc biệt là long đình dùng tham gia trò kiệu bay và đình quay. Bên cạnh những cỗ kiệu, trong đình, đền, chùa còn có bài trí voi ngựa thờ, chầu hầu ở hai bên phía trước. Rước Thần Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ XX file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Trên bàn thờ tổ của một dòng họ bao giờ cúng có riêng một thần chủ, thần chủ này được thờ phụng mãi mãi. Lập thần chủ để thờ thì phải có đủ thần chủ của cụ kỵ, ông cha, tức là cao, tằng, tổ khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táu (gỗ của loại cây sống ngàn năm), dài khoảng hai phân rưỡi, ở giữa đề tên họ, chức tước, còn hai bên ghi ngày giờ sinh, tử của tổ tiên. Thần chủ thường được để trong long khám, khi nào cúng giỗ thì mới mở ra. Thần chủ chỉ để thờ tư đời trở xuống, sang đời thứ năm thần chủ của cao tổ được mai đi và nâng bậc tằng này gọi là Ngũ, đại mai thần chủ, nghĩa là thần chủ sang đời thứ năm được chôn đi. Bất cứ nhà thờ nào trước đây đều cất giữ cuốn sổ ghi chép thế thứ trước sau của tổ tiên, và các thế hệ nối tiếp từ đời này qua đời khác. Cuốn sổ đó được gọi là cuốc gia phả. Ý nghĩa của đại tự viết trên hoành phi mang nội dung ca tụng công đức của tổ tiên hoặc tỏ lòng kính trọng của con cháu đối với tổ tiên như: Phúc mãn đường: Có nghĩa là gia đình đầy đủ phúc, bức hoành phi, nội dung công đức của tổ tiên hoặc ca tụng công đức của tổ tiên: Tổ tông công đức thiên nhiên thịnh, Tử hiếu tôn hiền vạn đại xưng. Công đức tổ tông nghìn năm thịnh, Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay. Tam sơn tượng trưng cho tam tài, cái lư hương tròn tượng trưng cho Thái cực, các cây hương được thắp lên tượng trưng cho các vì tinh tú, đội đèn tượng trưng nhật nguyệt… Bình hoa thường tượng trưng cho cái “Tâm Không”, tức lục căn thanh tịnh. Theo cổ thư viết về thuật phong thủy thì thành ngữ “Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ” biểu tượng cho khu vực các chòm sao trên bầu trời, ông cha ta dựa trên nguyên lý này sáng tạo ra kiến trúc điện thờ với long ngai, bài vị, câu đối, hoành phi, cùng toàn bộ các bộ đồ thờ lư hương, đỉnh trầm, hạc rùa, đôi mâm bồng, ống hương, hũ đựng trầm, đôi bình hoa, trống chiêng, bát bửu và lỗ bộ, vạc đồng, tam bửu hoa trà rựu,… kết hợp với kiến trúc điêu khắc của đình, đền thờ, bàn thờ, hương án, đèn lồng treo đỉnh… tạo thế đắc phong thủy và huyệt tụ khí chính là nơi tọa vị của bài vị trên chiếc long ngai, đây chính là ý nghĩa thiên địa nhân hợp nhất trong bài trí cấu trúc điện thờ của người Việt xưa. Lôi sơn sau trước vút tầng mây, Nghiên bút dành cho vận hội này. Cờ trống dàn chào văn vũ nhóm, Soái sư định phận thủy long vây. Anh tài đắc dụng nơi kim khuyết, Thục nữ hòa duyên chốn điện tây. Cuộc đất bởi đâu mà tuyệt hảo, Nhập đường con nước mặc vơi đầy. (Trích Hồng Vũ Cấm Thư, san định Dương Quân Tùng). Những lời chúc tụng như Vạn Thọ có trong ngôn ngữ Trung Quốc từ đòi nhà Thương nhà Chu, cả mười thế kỷ trước Công nguyên, mà giới khảo cổ thường thấy khắc trên những đỉnh vạc đời nhà Chu.Ngũ phúc thọ vi tiên mang ý nghĩa Thọ hay sức khỏe là nền tảng bắt đầu tiên, cái cần phải có trước khi phấn đấu đạt được những mong ước của đời người Ngũ Phúc.Câu đối Tết dán nhà cửa ngày xuân thường có: Ngũ phúc lâm môn / Tam dương khai thái. Câu đối này được Nguyễn Công Trứ (1778-1858) nhắc trong bài hát nói với giọng tự trào: Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức Tam dương khai thái, Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ Ngũ phúc lâm môn. Đế Minh Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh, nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Kinh Dương Vương cố nhường cho Đế Nghi, nhưng không dám không vâng mệnh. Đế Minh lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho Kinh Dương Vương, làm vua cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Trên cơ sở câu truyện huyền thoại này, nhà nghiên cứu Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ đã tới tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc để kiểm chứng và tìm kiếm các dữ liệu lịch sử, ông đã có bài viết nổi tiếng Biên cương nước Việt Cổ: “Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế Dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh Bắc tức Trung Quốc, Lĩnh Nam tức Đại Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên Đài. Nhưng dãy núi Quế Dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên Đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau ông hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho núi Thiên Đài nằm gần bên bờ Tương Giang. Thiên Đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằng đá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối, chữ còn, chữ mất. Tại thư viện Hồ Nam ông tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Ðầu đề ghi: Thiên Đài di sự lục, Trinh quán tiến sĩ Chu Minh Vãn sọan. Trinh quán là niên hiệu của vua Ðường Thái Tông, từ nãm Ðinh Hợi (627) đến Ðinh Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến sĩ nãm nào? Tuy sách do Chu Minh Vãn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh Vãn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh Vãn, của một sư ni tên Ðàm Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang Hy (1662-1772). Chu Minh Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ thư, Ngũ kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học lọai văn đó vào hồi 6, 7 tuổi thì ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên Đài núi cũng mang tên Thiên Đài sơn, Minh Vãn còn kể thêm: “Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên Đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Đương. Đến thời Đông Hán, một tướng của vua Bà (Trưng Trắc và Trưng Nhị) tên Đào Hiển Hiệu được lệnh rút khỏi Trường Sa. Khi rút tới Quế Dương ông cùng nghìn quân lên Thiên Đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Ðường để xóa vết tích Việt - Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh Nam mới cho xây chùa tại đây”. Nơi có dấu vết Thiên Đài, còn đôi câu đối khắc vào đá:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Thiên Đài đại đại phân Nam Bắc, Lĩnh địa niên niên dữ Việt Thường.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Nghĩa là: Từ sau vụ tế cáo ở đây, đài thành Thiên Đài, biết bao thời, phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ Lĩnh năm này qua năm khác với dòng giống Việt Thường. Chỗ miếu thờ Đào Hiển Hiệu có đôi câu đối: Nhất kiếm Nam hồ, kinh Vũ Đế, Thiên đao Bắc lĩnh, trấn Lưu Long. Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động Đình làm kinh tâm vua Quang Vũ nhà Hán, một nghìn tay đao ở Bắc núi Ngũ Lĩnh trấn áp Lưu Long. Như vậy, việc vua Đế Minh tế cáo trời đất là có thực, vì có Thiên Đài, nên thời Lĩnh Nam mới có trận đánh hồ Động Đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh địa Văn Lang xưa quả tới núi Ngũ Lĩnh, hồ Động Đình. Quay lại hệ thống tranh thờ Đạo giáo các dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, bộ tranh Tứ Ngự tương ứng với Hương Vân Cái Bồ Tát cưỡi phượng, Kinh Dương Vương cưỡi rồng, Lạc Long Quân cưỡi cá và Hùng Quốc Vương cưỡi lân. Truyền thuyết Tứ Ngự triều Thiên vào ngày cuối năm giống câu truyện Táo Quân của dân tộc Kinh, miền xuôi. Vậy thì, Táo Quân là ai? Chúng ta hãy cùng xem lại bộ tranh Ông Công - Ông Táo và truyền thuyết Táo Quân trong dân gian. Ông Công - Ông Táo Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Tranh Thổ Công có hoành phi “Thổ Công Vị”, câu đối “Thổ phần phù trợ - Trạch thượng bình an” nghĩa là Thần Đất giúp thì nhà ở trên được bình yên. Tranh Ông Táo có hoành phi “Táo Quân Vị”, câu đối “Niên tăng phú quý - Nhật hưởng vinh hoa” nghĩ là mỗi năm tăng thêm phú quý, ngày hưởng thêm vinh hoa. Tranh Táo Quân vẽ ba vị Táo quân gồm hai ông một bà, ngồi chắp tay xếp bằng, dưới ba vị là mâm thờ. Mâm bên phải bày 3 chén nước, rựu, trà, mâm bồng bày một con cá chép to, mâm bên trái bày ngũ quả. Hai bên có ngọc nữ bưng khay trầu, tiên đồng bưng ấm nước. Phía dưới bức tranh vẽ những đồ dùng, gia súc của một gia đình nông dân gồm: trâu, bò, gà, lợn, cối xay thóc, bếp nấu ba chân, nồi và một vật dụng giống cái tù và (tất cả các vật dụng này đều đảo ngược lại khi so sánh với bức tranh Ông Công). Tục ngữ dân tộc Việt có câu: "đất có Thổ Công, sông có Hà Bá" nghĩa là Thổ Công quản đất, ông Táo quản gia. Bởi vậy, trong truyền thuyết dân gian mới có sự tích ông Táo lên trời với sớ Táo Quân báo việc quản gia. Theo phong tục người Việt, hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, nhân dân có tục cúng ông Công, ông Táo, họ tin rằng đến ngày đó ông Công, ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên chầu trời, báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng Đế về những việc tốt và xấu trong năm qua của từng người trong gia đình ông giám sát. Do đó, nhân dân hy vọng sau khi làm lễ cúng tiễn, ông lên trời sẽ báo cáo tốt lành cho gia đình. Sau đó, đến đêm Giao thừa, cũng làm một mâm cúng tương tự như vậy để cúng rước Ông Táo trở về nhà. Sau khi cúng, họ đem đốt tờ tranh cũ đi, thay thế vào đó tờ tranh mới. Chúng ta hãy xem lại truyền thuyết có dấu ấn cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền, tóm lược như sau: Ngày xưa có hai vợ chồng nhà kia, chồng tên là Trọng Cao, vợ tên là Thị Nhi. Hai vợ chồng ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sanh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ, Thị Nhi quá ức lòng, liền bỏ nhà ra đi. Sau đó, Thị Nhi gặp một chàng trai tên là Phạm Lang, khéo dùng lời dịu ngọt dỗ dành, nên Thị Nhi bằng lòng về làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi, mà vợ thì đã bỏ đi mất rồi, thương nhớ vợ, liền khăn gói lên đường đi tìm vợ, tìm khắp nơi mà không gặp, lần lần tiền bạc đem theo đều tiêu xài hết sạch, Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Ngày kia, Trọng Cao đến ăn xin một nhà nọ, bà chủ đem cơm ra cho ăn. Trọng Cao nhìn ra chính là Thị Nhi, vợ của chàng trước đây mà chàng đã khổ công đi tìm kiếm lâu nay mới ra nông nỗi ăn xin thế nầy. Thị Nhi cũng nhận ra Trọng Cao, người chồng cũ, nay phải lam lũ đi ăn mày. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, kể lể từ buổi giận hờn bỏ chồng ra đi, đến lúc gặp Phạm Lang và lấy Phạm Lang làm chồng. Còn Trọng Cao cũng kể lại những ngày tháng ân hận, rồi quyết tâm đi tìm vợ để mong nàng tha lỗi và trở về chung sống như xưa. Thị Nhi cũng tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Bỗng Thị Nhi nghe tiếng Phạm Lang trở về nhà. Thị Nhi nghĩ nếu Phạm Lang bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì thật khó giải quyết, nên bảo Trọng Cao tạm ẩn trong đống rơm ngoài vườn để nàng thu xếp lo liệu sao cho được vẹn toàn. Phạm Lang trở về nhà là vì nhớ ngày mai tới kỳ bón ruộng mà chưa có tro, nên liền ra đốt đống rơm để lấy tro. Trọng Cao trốn trong đống rơm, không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết, bởi sự sắp đặt của mình, nên bi thảm quá, liền nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết thảm, cũng không biết tính sao, liền nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Thế là ba người đều bị chết cháy nơi đống rơm.Linh hồn của ba vị được đưa lên trước Thượng Đế. Đấng Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc: Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Vậy, Táo Quân gồm ba vị Thần: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ. Ba Thần Táo này gọi chung là Định Phúc Táo Quân (Ba vị Thần Táo định đoạt phúc đức cho gia đình, phúc đức nầy do việc làm đúng đạo lý). Danh hiệu của 3 vị Táo Quân là: Thổ Công: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân. Thổ Địa: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần. Thổ Kỳ: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần. Bài vị thờ Táo Quân, viết bằng chữ Hán: trên hết là hai chữ Bản Gia, kế dưới là danh hiệu của ba vị Táo Quân. 本家 東廚司命 灶府神君 土地龍 脈尊神 五方五土 福德正神 Hai bên bài vị thờ Táo Quân thường có đôi liễn chữ Hán:<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> 有德能司火. 無思可達天 <br style="mso-special-character: line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Hữu đức năng tư hỏa, Vô tư khả đạt Thiên. Có đức trông coi việc lửa, Vô tư có thể lên Trời. Đạo Cao Đài, Việt Nam điều chỉnh tục lệ này bằng cách gọi là “Lễ đưa Chư Thánh triều Thiên”, thiết lễ cúng Tiểu đàn tại thánh thất và điện thờ Phật Mẫu vào lúc 12h00’ đêm 23 rạng 24 tháng Chạp hằng năm. Sau đó đến giờ Giao thừa, tức là lúc 0h00’ ngày mồng 1 đầu năm, thiết lễ cúng Tiểu đàn: rước Chư Thánh. Lễ đưa Chư Thánh triều Thiên là lễ cúng đưa tất cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật có nhiệm vụ điều độ nhân sinh nơi các cõi phàm trần, sau một năm làm việc nơi cõi trần, nay trở về Ngọc Hư Cung cõi thiêng liêng để trình tấu với Đức Chí Tôn tất cả các việc, và định chương trình cho năm sắp tới. Lễ có dâng sớ lên Đức Chí Tôn, với nội dung như sau: Nay vì lễ hết năm ...(Giáp Tý)..., các Đấng Phật Tiên Thánh Thần trở về chầu Đức Chí Tôn tại Ngọc Hư Cung. Các Chức sắc Thiên phong hiệp với các tín đồ, nghiêm trang lập đàn cúng tế gồm: nhang đèn bông trà trái cây, rượu tinh khiết, lập nên nghi thức, lòng thành dâng lễ. Ngưỡng vọng các Đấng thiêng liêng, từ bi tâu rõ lên Đức Chí Tôn ban bố hồng ân, đổi họa làm phước, gom điều tốt, đón điều lành, xoay cuộc chiến tranh thế giới, sớm được hòa bình, cứu giúp tất cả chúng sinh, giải thoát khỏi các tai nạn đau khổ do chiến tranh gây ra, phục hưng nền Quốc Đạo Cao Đài, tiến hóa thịnh hành, phổ độ nhơn sinh, nhập môn vào làm môn đệ, vĩnh viễn sùng bái chánh giáo, muôn loài hoà bình, an cư lạc nghiệp, lập thành đời Minh đức Tân dân, cùng hưởng trời Nghiêu ngày Thuấn. Chư đệ tử đồng thành tâm cúi lạy kính cẩn dâng sớ tâu lên. Kính trình. Theo Thái Thượng Lão Quân Thiết Ngư An Táo Diệu Kinh: Táo Quân là “mẹ sinh ra lửa”, trên thông cõi trời, dưới thạo âm dương ngũ hành, là bậc thánh minh, xem xét mọi điều trong dân gian và 12 thời khắc, coi sóc, an định việc phú quý, nghèo hèn của gia chủ, và thế gian… vì vậy cần thờ cúng Táo Quân. Tranh Táo Quân Dân tộc Dao Đỏ ở Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Bức tranh mô tả một số hình ảnh công việc bếp núc của người Dao. Có lẽ do tranh này, nên có tên bộ tranh là Tàu Khảng (Vua Bếp). Qua truyền thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng hình ảnh hai ông một bà - tức một Âm hai Dương hoàn toàn trùng khớp với quẻ Ly trong Kinh Dịch. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Trong bức tranh dân gian Việt ở trên táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà. Tại sao Ông Táo lại về trời lại là ngày 23 tháng Chạp mà không phải là ngày 30? Theo lý học Đông phương đó là ngày Nguyệt kỵ, vậy Táo quân chọn đúng ngày này lên trời có sai không? Sách cổ chữ Hán chỉ ghi nhận mùng 5, 14, 23 là ngày Nguyệt kỵ và không một lời giải thích. Trong truyền thuyết dân gian Việt thì cho rằng "đó là những ngày vua đi, nên kiêng ra đường". Đây chính là phép du niên phiên tinh ngày, tính theo tháng. Ngày của sao Ngũ Hoàng nhập trung cung theo chu kỳ cửu cung. "Vạn vật qui ư Thổ" hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì đây chính là ngày kết thúc chu kỳ của Ngũ Hành vào tháng cuối cùng trong Năm. Kết thúc chu kỳ Ngũ hành vào ngày 23, đồng thời cũng là kết thúc chu kỳ của 64 quẻ Dịch. Hành thổ thuộc trung cung thuộc ngôi Hoàng cực chi phối Ngũ Hành, theo Lý học Đông phương thuộc về hoàng tộc, nên là ngày của Vua Bếp - Táo Quân về trời. Qua sự minh chứng và phân tích ở trên, chúng ta cũng nhận thấy rằng: Đằng sau một phong tục cổ truyền của dân tộc Việt - tục cúng "Ông Táo về trời" là cả một sự minh triết liên quan chặt chẽ đến nền Lý học Đông phương - thuộc về nền văn hiến huyền vĩ Việt, một thời huy hoàng ở miến Nam sông Dương Tử. Có thể nói rằng: Không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng khớp hợp lý gần như toàn bộ những nét chính của phong tục cúng ông Công, ông Táo với những quan niệm có tính nguyên lý của Học thuật cổ Đông phương. Sở dĩ có sự trùng khớp hợp lý đến kỳ lạ này, chính vì nó là hệ quả của nền minh Đông Phương thuộc về nền văn hiến Việt được đưa vào cuộc sống văn hóa Việt qua phong tục cúng đưa "Ông Công, Ông Táo về trời". Trong lễ cúng ông Táo, hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép, tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép, tuy nhiên trong bức tranh Ông Công cũng có hình ảnh cá chép, phải chăng chúng có mối liên quan với nhau, chúng ta cùng xem lại bức tranh Tứ trực công tào: Tứ Trực Công Tào Tranh thờ dân tộc miền Bắc Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Tứ trực công tào: Biểu tượng cho bốn phương, bao gồm: Thanh Long (phía Đông); Bạch Hổ (phía Tây); Huyền Vũ (Phía Bắc) và Chu Tước (phía Nam) và Năm, Tháng, Ngày, Giờ Tứ trực Công tào là bốn vị thần trông coi về thời gian năm, tháng, ngày giờ trên thiên đình theo Đạo giáo. Trong các bức tranh diễn tả Tứ Trực công tào lên trời bằng các linh thú khác nhau. Mặt khác theo Mai Hoa dịch số, san định bởi Thiệu Khang Tiết, cá chép thuộc 2 quẻ Khảm và Tốn. Khác nhau giữa 2 quẻ này, khi cá chép bơi trong nước thì gọi là quẻ Khảm, khi cá chép được dùng vào việc (nấu chín, "phương tiện di chuyển") thì nó lại là quẻ Tốn. Như vậy, lúc này sẽ thành quẻ Đỉnh. Quẻ Đỉnh Ly trên Tốn dưới, quẻ Đỉnh lại là cái vạc, cái nồi nấu ăn hay nói cách khác, chính là hình ảnh cái bếp. Quẻ Đỉnh Kinh dịch, đạo của người quân tử, tác giả Nguyễn Hiến Lê file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.gif Tiếp đó, quẻ Tốn cũng chính là "thần khí". Việc dùng hình ảnh cá chép mang nghĩa ẩn dụ, so sánh. Cũng có thể diễn giải ông Táo cưỡi thần khí (gió) lên trời. Theo Mai Hoa dịch số, cái chính, cái gốc của sự vật là quẻ nội. Ở đây, hình ảnh ông Táo là gốc sự việc, phải là quẻ nội, con cá chép phải là quẻ ngoại, như vậy hình ảnh ông Táo cưỡi cá chép phải là quẻ Thủy Hỏa ký tế. Quẻ Ký tế, nước lửa giúp nhau, tương hỗ, đồng thời là đã xong, đã kết thúc, đứng thứ 63 trong thứ tự quẻ Dịch, phù hợp với ngày 23 tháng Chạp. Thủy Hỏa Ký Tế (“Tế là vượt qua sông, là nên; Ký Tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành" - Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, tác giả Nguyễn Hiến Lê). Quẻ Đỉnh không đơn thuần nói về hình tượng chiếc bếp, mà xét rộng hơn, nó là sự biến chuyển một cách từ từ, còn quẻ Cách là thay đổi đột ngột, là cách mạng. Một sự biến chuyển lấy nhân nghĩa làm gốc để phát quang cho vạn vật bên trên, sự biến chuyển này phảng phất hình ảnh tôn giáo, tư tưởng khi quẻ Tốn tượng là đền chùa. Lại so sánh, nếu quẻ Ly là Lễ trị thì quẻ Đỉnh là Pháp trị lấy nền tảng của lòng nhân và tư tưởng tôn giáo. Từ đây, tục thờ ông Táo còn thể hiện tư tưởng trị nước an dân của người Việt cổ, không dùng Lễ trị làm chủ đạo mà dùng Pháp trị, thượng tôn luật pháp, nhưng được xây dựng trên lòng Nhân và sự khiêm hạ (Tốn - thuận theo) khi nhìn nhận vũ trụ và con người (tham khảo của một cá nhân trên lyhocsongphuong.org.vn). Chúng ta đã biết các chủng loại đồ tế khí trong một không gian thờ tự của người Việt, đặc biệt có năm loại thần khí quan trọng đó là: chuông, trống, vạc, lư và đỉnh. Trong Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, chúng ta biết trống đồng là biểu tượng của Hùng Quốc Vương, phương Tây; chuông đồng biểu tượng Kinh Dương Vương - phương Đông; Vạc đồng biểu tượng của vua Đế Minh - phương Nam và lư đồng biểu tượng của Lạc Long Quân - phương Bắc. Kết hợp nhận định quẻ Đỉnh là các “vạc” hoàn toàn hợp lý, vì chính là biểu tượng của vua Đế Minh - Hương Vân Cái Bồ Tát. “Ông Táo” là hình ảnh “Lửa” hay Ly trong Tiên thiên Bát quái chính là biểu tượng của Hương Vân Cái Bồ Tát, trong bức tranh Ông Táo thì người phụ nữ ở ngôi vị trung tâm. Lúc này bức tranh Ông Công với hình tượng quả bầu treo giữa hai người chính là Hùng Quốc Vương như đã nhận định trong Chương III: NHỊ ĐỘ MAI. Trong một ngôi gia, chúng ta thường thấy bố trí các ban thờ: ban thờ gia tiên, ban thờ ông Thiên, ban thờ ông Công, ban thờ ông Táo, ban thờ Thần Tài thường phối thờ với ông Công (hiện nay được xem là ban thờ Thổ Địa) và ban thờ Tiên sư (ông Tổ nghề). Tiên Sư Vị Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Tranh Tiên sư với bức hoành phi “Tiên sư vị” và đôi câu đối: Tiên sư giáng phúc, Đại Đạo sinh tài. Nghĩa là: Thầy cô tạo phúc đức, Đạo lớn sinh nhân tài. Ngày mồng 9 tháng Giêng âm lịch là ngày lễ cúng các vị tổ của các nghề gọi là lễ cúng Tiên Sư. Tiên sư còn gọi là Thánh sư, Nghệ sư, là ông tổ một nghề nào đó hoặc là người đã khai phá ra nghề và truyền lại cho các thế hệ sau được thờ cúng tại gia, nơi sản xuất, và luôn có một ngôi đền để tôn thờ. Chẳng hạn, người làm nghề mộc và xây dựng có ông tổ nghề là Lỗ Ban Tiên sư, thường gọi là Xảo Thánh Tiên sư. Trước đây những người cùng một nghề hay cùng buôn bán một thứ họp nhau lại thành phường hội “buôn có bạn, bán có phường”. Lễ vật cúng Tiên sư tại nhà thường là hương, hoa, trà, rượu và một con gà trống. Trước đây sau khi cúng Tiên sư xong thì làm lễ khai bút đối với những ngành nghề liên quan đến con chữ hoặc làm mở hàng công việc của mình đối những nghề thủ công. Ngày nay, tục khai bút không còn phổ biến, nhưng những người thợ vẫn duy trì lễ ra mắt Tiên sư. Cúng tiên sư ngành nghề là thể hiện tinh thần "uống nước nhớ nguồn" và "tôn sư trọng đạo" để nhớ ơn các bậc tiền nhân có công truyền dạy nghề và đây cũng là dịp để khuyến khích, hỗ trợ nhau trong công việc làm ăn. Chính vì vậy mà ngày cúng Tiên sư là một nét văn hóa truyền thống cần được giữ gìn và phát huy. Ngôi đền cổ nhất thờ thầy cô giáo thời Hùng Vương còn lại là "Thiên cổ miếu", ngôi đền nằm trên một quả đồi nhỏ ven đường thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, Phú Thọ, ẩn mình dưới hai cây táu cổ thụ, gốc to đến năm sáu người ôm không xuể, ước đoán tuổi đời đã đến nghìn năm, điều thú vị là một cây cho hoa màu vàng, một cây cho hoa màu bạc. Thiên cổ miếu và Bàn thờ thầy cô giáo Vũ Thê Lang Xã Trưng Vương, Việt Trì, Phú Thọ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Bản ngọc phả được viết vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngọc phả này đã ghi chép lại nguồn gốc của Thiên Cổ Miếu: Vào thời Hùng Duệ Vương (đời Vua Hùng thứ XVIII), ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Khi trưởng thành, Vũ Thê Lang được người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn - Kinh Bắc gả con gái của mình là Nguyễn Thị Thục - một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục tạ thế cùng một giờ, một ngày - ngày 2/2 năm Quý Dậu (228 tr.CN) và được chôn cùng nhau. Dân làng Hương Lan lập đền thờ ngay trên ngôi mộ chung đó. Đền và phần mộ của vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang được người dân Hương Lan đã bảo vệ suốt 2.300 năm qua. Trong Thiên cổ miếu, có bức hoành phi nhỏ ghi "Thiên cổ miếu" và hai câu đối bằng bằng gỗ viết chữ Hán: “Hùng Lĩnh Trung chi thắng tích - Nam Thiên chính khí linh từ" dịch là “Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của nước Nam”. Hai bên cửa võng là hai câu đối: "Đạo học nét son ngời Lạc Việt - Văn minh dấu ấn rạng Hùng Vương". Hoành phi và câu đối trong Đền Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn có bộ tranh nhị bình Đấu võ và Học bài, thể hiện ý nghĩa giáo dục trẻ nhỏ luôn bao gồm cả hai mặt kiến thức, văn hóa và sức khỏe, võ thuật, để khi lớn lên sẽ trở thành một con người toàn diện. Đấu võ và Học bài Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Chúng ta cũng biết, Thần Tài mà người Việt thờ chính là “ông Khiết” tức cụ “Cóc ba chân”, đây chính là biểu tượng của vua Lạc Long Quân, phương Bắc, hành thủy biểu tượng cho kim tiền. Liên kết tất cả các dữ kiện trên, thì việc nhận định về ông Công ông Táo là hoàn toàn hợp lý, hệ thống ban thờ gia đình được xác định như sau: - Gia Tiên: Ông bà tổ tiên từ vô thủy tới nay. - Ông (bà) Táo: Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật Bà Quan Âm (Đế Minh và Hương Vân Cái Bồ Tát là Thừa thiên Cứu pháp Hậu Thổ Hoàng địa chi). - Ông Thiên: Kinh Dương Vương - Ngọc Hoàng Thượng Đế, Hạo Thiên kim khuyết Ngọc hoàng đại đế. - Thần Tài “Cụ Khiết”: Lạc Long Quân - Phong Đô Đại Đế, Câu Trần thượng quan nam cực Thiên hoàng đại đế. - Ông (bà) Công: Hùng Quốc Vương - Địa Tạng Bồ Tát, Trung Thiên tử vị bắc cực Thái hoàng đại đế. - Tiên sư: Tổ ngành nghề, thầy cô giáo. Chúng ta cũng chú ý, Thổ Công và Thổ Địa là hai vị khác nhau, Thổ Công là ông Công, biểu tượng cho người quản lý nhân gian còn Thổ Địa là vua Đế Minh, biểu tượng cho trái đất, thể hiện rõ ràng nhất trong bức tranh thờ của các dân tộc phía Bắc Việt Nam Hành say. Nội dung của bài vị của ông Công và ông Táo cũng nói rõ sự khác nhau này. Nguồn gốc dân tộc Việt cổ và nền văn minh Việt cổ, tập III, trang 149: Hùng Quốc Vương - vua Hùng Vương thứ III, hiệu Phúc Tâm, là Táo phủ thần quân. Ông mất ngày 28 tháng 5 âm lịch. Mộ Ông ở đất Kỳ Long Lân, gò thánh hóa hoặc gọi khu đất ấy là khu Mộ Vua, khu mả đế, khu Đông Trù tư mệnh. Căn cứ kết luận trên, thì thông tin này chính là nói về ngày mất của vua Hùng Quốc Vương nhưng rõ ràng, ông không phải là Táo Quân, bời vì ngày mất của Hương Vân Cái Bồ Tát là ngày 15 tháng Bảy âm lịch, ngày này được lấy làm ngày xá tội vong nhân, trong đạo Phật hay còn gọi là ngày “Trung nguyên Địa Quan xá tội”. Căn cứ vào bộ tranh thờ Tam Từ và Tam phủ Công đồng, chúng ta hiểu rằng: trên bức tranh Ông Táo, thì bên trái Táo Bà chính là vua Đế Minh và bên phải chính là vua Đế Nghi. Còn trên bức tranh Ông Công là Hùng Quốc Vương và Thánh Cô. Cùng với các ban thờ của ông ông Táo, ông Thiên, ông Khiết, ông Công như trên, thì ban thờ tổ tiên của một gia đình được xem là quan trọng nhất và được đặt ở trung tâm của một ngôi nhà. Người Việt có niềm tin rằng: chết chỉ là sự tiêu tan của thể xác, linh hồn thì vẫn còn và luôn trở về với gia đình "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Chết chẳng qua chỉ là một cuộc trở về gặp ông bà tổ tiên, linh hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi họ và phù hộ họ trong những trường hợp cấn thiết. Người Việt còn tâm niệm: “Trần sao Âm vậy”, người sống cần gì, sống như thế nào thì người đã khuất cũng như thế. Cho nên việc lập bàn thờ để thờ cúng Tổ tiên là điều không thể thiếu trong đời sống con người. Việc cúng bái trước bàn thờ tổ tiên thường được tổ chức trọng thể, con cháu xum họp, ghi nhớ công ơn của các đấng sinh thành, đây chính là một nét văn hóa vô cùng cao quý của dân tộc. Ban thờ Gia Tiên Ảnh trích Bàn thờ trong nhà cổ Nam Bộ, Ngọc Linh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Bình thường ban thờ gia tiên dùng để thờ cha, mẹ của chủ nhà sau khi mất, nhưng nếu phối thờ thêm ông bà nội, ngoại thì bắt buộc phải thờ thêm "Cửu Huyền Thất Tổ". Điều đặc biệt ở người Việt là biểu tượng của "Cữu Huyền thất Tổ" không phải là một hình ảnh cá nhân cụ thể nào, mà đôi khi chỉ là hình ảnh làng quê sông nước, núi non hay chỉ là bốn chữ "Cửu Huyền Thất Tổ" mà thôi. Thất Tổ cùng với chúng ta, cha mẹ và ông bà trở lên 7 đời tạo trở thành “Cửu Tổ”. Như vậy, Cửu Huyền Thất Tổ trên ban thờ chính là thể hiện con số (9x9) gọi là Trùng Cửu, nó mang ý nghĩa vĩnh cửu, bất diệt. Ban thờ ông bà tổ tiên chính là hướng về nguồn cội cho tới tận vô thủy, hay chúng ta có thể hiểu đây chính là ban thờ toàn bộ nhân loại hay cả cả vũ trụ vô cùng này. Vì lý do trên, mà ban thờ gia tiên luôn được đặt ở vị trí trung tâm ngôi nhà. Cửu Huyền Thất Tổ Trích Tìm hiểu về Cửu Huyền Thất Tổ, theo nghi lễ đạo Cao Đài, chương trình phổ thông giáo lý 2008 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Ban thờ gia tiên của người Việt thông thường, được trang trí những bức hoành phi và câu đối được sơn son thiếp vàng hết sức trang trọng và thành kính, với nội dung ca ngợi công đức của tổ tiên và khuyên răn con cháu noi gương, tiếp bước: Đức Lưu Quang. Đức sáng muôn đời. Tổ tông công đức thiên niên thịnh, Công đức tổ tiên ngàn năm thịnh, Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương. Hiếu hiền con cháu vạn đại vinh. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 1, 2013 Qua ban thờ gia tiên của người Việt, chúng ta thấy có một hệ thống triết lý tín ngưỡng hết sức cao siêu, dựa trên nền tảng học thuyết Âm Dương Ngũ Hành về tự nhiên, xã hội và con người. Không chỉ vậy, hệ thống tín ngưỡng tôn giáo của người Việt cũng không ngoại lệ, đối với một gia đình thì có bàn thờ Gia tiên - ông Táo - ông Thiên - ông Khiết - ông Công - Tổ nghề; đối với một dòng họ thì có nhà thờ Tổ; đối với một dân tộc thì đền thờ Tổ nước hay đền Hùng, đối với Phật giáo thì có ngôi chùa thờ Phật, đối với đạo Mẫu thì có phủ Mẫu, đối với Đạo giáo thì có cung quán, đối với Nho giáo thì có văn miếu, còn đối với các anh hùng, liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc thì có đền, miếu; đối với các tổ nghề, thầy cô giáo thì cũng như vậy. Chúng tôi cấu trúc lại hệ thống tín ngưỡng của người Việt thời Hùng Vương với nền tảng ban thờ gia tiên ở trung tâm, là một đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống tín ngưỡng nhưng trong nó cũng hàm chứa triết lý của sự to lớn đến vô cùng tức vũ trụ thống nhất: Cấu trúc tín ngưỡng thời vua Hùng Phương Bắc - Nho giáo Tôn thờ các anh hùng liệt sỹ, thầy cô giáo, các tổ nghề… (đền, miếu) Thờ Thành Hoàng làng (đình) Phương Tây - Tiên giáo Thờ các chân nhân đắc đạo, các bậc tu tiên đạt chính qủa… (đạo quán, cung quán) Trung cung Thờ Tổ tiên và thần thánh, tổ nghề truyền thống (Ban thờ gia đình) Thờ Dòng Họ (nhà thờ Họ) Thờ Triều đình (Kính Thiên điện) Thờ Quốc gia (Đền Hùng) Phương Đông - Đạo Phật Thờ các vị Phật, các vị Bồ Tát, các vị Tổ… (ngôi chùa) Phương Nam - Đạo Mẫu Thờ các Thánh Mẫu… (phủ Mẫu) Qua phân tích, chúng ta thấy hệ thống ban thờ trong một ngôi nhà Việt, có thể không theo tôn giáo nào nhưng luôn có đầy đủ ông bà tổ tiên, các vị Phật, Thánh, Thần, Tiên, Tổ nghề và minh triết nhất, ban thờ gia tiên chính là ban thờ nhân loại hay toàn thể vũ trụ. Trong truyện Tam Quốc Chí của Bồ Tát Nguyễn Minh Không, có nói đến sự kiện Gia Cát Lượng lập đàn cầu “gió Đông” nổi lên chính là nói đến đạo Phật như cấu trúc tín ngưỡng thời vua Hùng ở trên, ý nghĩa này cũng sẽ được phân tích trong Chương VIII: KIM CƯƠNG BẤT HOẠI. Hình ảnh của “thần khí” xưa nhất được cho là vào thời nhà Hạ là “cửu đỉnh”, trong khi đó chuông, trống đồng Đông Sơn là biểu tượng của nước Văn Lang, tạm xác định niên đại từ thế kỷ VII-II tr.CN. Các thần khí kháccũng được ghi nhận trong cuốn Kinh Lễ, san định bởi Khổng Tử. Cửu đỉnh Trích Tính mệnh khuê chỉ, dịch giả Nguyễn Văn Thọ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Từ thời vua Đại Vũ nhà Hạ, Đỉnh là tượng trưng cho sự bền vững của quốc gia. Vì thế vua Đại Vũ đã đúc chín cái đỉnh gọi là “cửu đỉnh”. Đến đời Thành Vương nhà Chu, để cửu đỉnh ở Giáp Nhạc. Nhà Chu làm vua được 30 đời, và kéo dài 700 năm. Đến năm 23 đời Chu Liệt Vương, Cửu đỉnh tự nhiên giao động, đó là điềm nhà Chu bất an vậy. Đến sau, quả nhiên Tần Thủy Hoàng diệt nhà Chu và đoạt cửu đỉnh (Dịch Kinh Đại Toàn, dịch giả Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê). Ngày nay, biểu tượng Cửu đỉnh duy nhất chỉ còn lại ở cung đình Huế, Việt Nam. Tên của chín cái đỉnh là: Cao Đỉnh, Nhân Đỉnh, Chương đỉnh, Anh Đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần Đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền Đỉnh. Vua Minh Mạng nói :”Đỉnh là để tỏ rõ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tự tại. Thực là đồ quý ở nhà tôn miếu…”, “Đó là để tỏ mong rằng muôn năm bền vững, dõi truyền đời sau” (Đại Nam thực lục chính biên). Cửu Đỉnh Cổ vật cung đình Huế, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image003.jpg Tại viện bảo tàng cố cung Đài Bắc, đang trưng bày Mao Công Đỉnh là quốc bảo của Trung Quốc, đỉnh bằng đồng cuối đời Tây Chu, có khắc 499 chữ, được xem là văn vật hoàn chỉnh cổ xưa nhất còn lưu lại. Ngoài ra còn có Tái Thị Bàn, cũng đời Tây Chu, khắc 357 chữ, Tông Chu Chung, đời Tây Chu, có khắc 123 chữ. Mao Công Đỉnh - Tán Thi Bàn - Tông Chu Chung Ảnh tham khảo file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image005.jpg<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Đỉnh dùng để đựng đồ ăn, trong những dịp tế lễ, yến ẩm, vì thế đỉnh còn gợi lên ý nghĩa dưỡng hiền, với ý nghĩa và hình ảnh trên, quẻ Đỉnh bàn về mấy vấn đề chính yếu: sau cuộc cách mạng, cần phải kiến thiết quốc gia, xây dựng một đời sống mới cho dân.Muốn xây dựng một đời sống mới cho dân, nhà vua cần phải anh minh, phải biết trọng dụng nhân tài. Lý Hồng Chí, người sáng lập ra Pháp Luân Công tại Trung Quốc, có những bài thơ tâm linh liên quan đến “sức mạnh” của các pháp khí trong Phật giáo: Chung Lầu Lầu Chuông Hồng thanh trấn pháp giới, Tiếng chuông vang dội khắp các nơi, Pháp âm truyền thập phương Âm thanh Đại Pháp truyền mọi hướng. Cổ lầu Gác Trống Trọng chùy chi hạ tri tinh tấn, Dưới sức đập mạnh sẽ biết tinh tấn, Pháp cổ xao tỉnh mê trung nhân. Pháp trống gõ tỉnh người trong cơn mê. Phật Pháp vô biên Phật Pháp vô cùng Hương lô tận thâu loạn Pháp quỷ, Lư hương thu hết ma quỷ đã làm loạn Pháp, Bảo đỉnh dung hóa bất Pháp Thần. Bảo đỉnhhóa lỏng các Thần không đồng hóa Pháp. Trích từ tập thơ Hồng Ngâm II, tác gỉa Lý Hồng Chí, ngày 5 tháng 5 năm 2002. Trong hệ thống gia phả, bia đá ghi nhận về vua Đế Minh rất nhiều như trong văn bia tại điện miếu Tổ soạn từ năm Tân Mùi (971) gọi cụ là Tổ Khương Minh; trong Bách Việt Tộc Phả (mật) đã viết: “… Tiên tổ Nguyễn Tướng Công, tên húy là Minh, tự là Phúc Đình, hiệu là Khương Thái Công”; còn bản do trưởng họ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, tước Quảng Oai hầu vâng lệnh sao chụp tại nhà thờ Tổ Bách Việt năm Nguyên niên Quang Trung (1789) viết: “… Tổ đầu tiên Thái Khương Công - Nguyễn Minh Khiết”, “Thánh Đế Minh Vương”; bản sao chép năm Khải Định thứ 9 (1924) gọi cụ là: “… ông họ Vân, tên gọi Minh Khiết, hiệu là Thái Khương Công… Cao Cao tổ khảo là Thái Khương Công, giỗ ngày mồng hai tháng Hai tại Khương Thượng”; Trong bản Cổ Lôi Bách Việt Tộc phả truyền thư cũng viết tên cụ là Nguyễn Minh Khiết (Thái Khương Công, Đế Minh), bài vị thờ ở chùa Kim Liên (Hồ Tây) ghi rõ cụ là Nguyễn Minh Khiết. Qua phân tích, chúng ta thấy các mối quan hệ giữa các dữ kiện lịch sử, văn hóa với nhau hết sức chặt chẽ và chúng ta hãy cùng tiếp tục tìm hiểu về vua Kinh Dương Vương, một trong “Tam Dương” Lạc Long Quân - Đế Minh - Kinh Dương Vương. Share this post Link to post Share on other sites