Lãn Miên

Nôi Của Phát Triển

1 bài viết trong chủ đề này

NÔI của phát triển

NÔI khái niệm là cái NÔI của sự phát triển ngôn từ. mà chỉ có trong tiếng Việt viết bằng chữ quốc ngữ mẫu tự Latin mới dễ nhìn thấy. NÔI là cái Ổ tạo ra mọi khái niệm Âm (N-Negative) và mọi khái niệm Dương (I-Innegative). Bất cứ một ngôn từ của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể đưa về đến NÔI khái niệm Việt bằng các Qui Tắc tạo ngôn từ Việt, phải qua “gia công” nhiều hay ít mà thôi. Ví dụ: (1) từ Vois (tiếng Mỹ nghĩa là “tiếng nói”), dùng QT Vo thấy ngay cái lõi “Oi”, lại dùng QT Tơi-Rỡi thì có Oi = Nói = NÔI; (2) từ CTPAHA của tiếng Nga nghĩa là “đất nước”, qua QT Vo thì còn âm “Na” (tiếng Nga phát âm chữ “HA” ở cuối của từ CTPAHA), mà Na = Nước = NÔI; (3) từ Ga là gốc từ tiếng Pháp, ghép thành từ Nhà Ga, nhưng Nhà Ga theo QT Tơi-Rỡi thì là cùng nôi khái niệm, Nhà = Ga, Ga là sắc thái riêng cái nhà của ngành đường sắt, Nhà = Ga = Gối (gối đầu tức tăng-bo)= Nối (nối tuyến đường ray)= NÔI; (4) từ Hobenhof tiếng Đức nghĩa là nhà ga, nếu QT Vo thì được từ “Ho” nếu là vo lệch, “Ho” tiếng Đức phát âm là Hô, qua QT Tơi-Rỡi thì thấy Hô = Đỗ = Đợi = Nơi = Nôi, hoặc được từ “Ben” ở cái lõi giữa nếu là vo đều tay, mà theo QT Tơi-Rỡi thì Ben = Bến = Nền = Nơi = NÔI, đều là những từ thuộc khái niệm “nhà ga” từ NÔI khái niệm Việt; (5) từ Gác là gốc tiếng Pháp, ghép thành từ Canh Gác, nhưng từ ghép này cũng đồng thời là từ đôi trong NÔI khái niệm Việt mà thôi, Canh trong “canh gà Thọ Xương” là chỉ khoảng thời gian trách nhiệm nhất định, như con Gà đến giờ là nó gáy báo hết đêm, là một ca trách nhiệm của nó, cái nôi khái niệm ấy là NÔI = =Cối (tiếng điểm canh bằng gõ cối đồng) = Ca = Canh = Gánh (gánh trách nhiệm trong ca) = Gà (điểm giờ hết ca đêm) = Gáy= = Gọi = Gõ = Gác. (Cối Đồng, viết theo ngữ pháp Hán là Đồng Cổ, do từ Cối Vỗ = Cổ Vũ)...

Người Việt đẻ con ra đặt nằm trong NÔI để trong cái Gióng có bốn tao treo lên để vừa an toàn (tục ngữ “chó treo mèo đậy”), vừa lúc lắc cho con dễ ngủ, vừa hát ru gieo vào tiềm thức con tình yêu con người và yêu đất nước. Hán ngữ gọi cái nôi là cái làn lắc (“yáolán 摇 篮”), cái cụm từ “nôi cách mạng” trong tiếng Việt thì Hán ngữ gọi là cái “làn lắc cách mạng” (“gémìng de yáolán 革 命 的 摇 篮”). NÔI đựng đứa trẻ sơ sinh thì nó chính là NÔI sinh ra ngôn ngữ cho cả đời nó là đúng logic.

NÔI chỉ là vật chứa một cái “đầu tiên, động, mà hơn”, tức là cái So (con So là con đầu tiên), So = Sọ = Đọ (nghĩa là hơn)= Đồ = Đứa = Đầu = Thẩu (đồ gốm để đựng cơm, hình giống cái Sọ, “có thực mới vực được đạo”)= Thủ. Cái Đứa ấy từ NÔI lớn lên, phát triển, có thể trở thành “đồ thông minh” để làm thủ trưởng, cũng có thể trở thành “đồ mất dạy” để tham nhũng. Từ cái NÔI là một sự động, có thể là động vật, có thể là thực vật, do là NÔI=Nuôi=Nuông=Nang=Nàng=Nương=Ương=Ươm, NÔI ấy là mảnh ruộng (Nương), là cái túi như của kanguru đựng con (Nang), là người mẹ (Nàng) để Ương mầm cho sự phát triển. Thời hiện đại người ta dùng cụm từ “Nôi cách mạng” để chỉ “Đất trung ương”. Mọi “từ Hán Việt” đều bắt nguồn từ cái NÔI tre của Việt Nam, NÔI là để cho ra khái niệm, tre là để làm thẻ tre viết chữ, rồi làm giấy viết, Giấy=Gió=Nỏ=NÔI (giấy phải phơi khô mới viết được), từ đôi Khô Nỏ.Khái niệm của ngôn ngữ là từ cái Trứng = T Rưng = “Tưng Từng Tưng”= =Tiếng = Miệng = Mồm = Mở = Nở = NÔI. Ngôn ngữ bắt nguồn từ cái NÔI khái niệm của tiếng Việt, từ cái NÔI tre của Việt Nam:

Để chỉ sự phát triển của tộc người thì NÔI = Nòi = Nọi (tiếng Lào)= Nống (“Nở Rộng” = Nống) = Giống = Dòng = Trong (không có lai tạp) = Trung (là Chỗ Giữa = Giao Chỉ) = Chủng 種.

Để chỉ sự phát triển của tư duy thì NÔI = Nỗi = Niềm = Liêm 廉(sự minh bạch) = Lẽ = Lý 理.

Để chỉ sự phát triển của ngôn ngữ thì NÔI = Na (Nôm Na, ha-Na-xư tiếng Nhật nghĩa là “nói” ) = Nói = Gọi = Gí (tiếng Đài Loan)= Gô (tiếng Nhật)= Vồ-Vập = Van = Và (tiếng Việt Đông)

Để chỉ sự phát triển năng lượng thì NÔI = Năng 能 = Nổ = Nở = Vỡ = Vã = Ra = Nã 拿 = Xạ 射 = Đả 打 = Phá 破 = Phát 發 = =Pháo 炮 = Bạo 爆 = Bục = Bộc 爆 = Bắn = Bung = Bùng = Súng = Tung = Tóe = Tạc 炸 = Tùng = Đùng = Đoàng = Đạn 彈 。 Các từ đôi, láy, ghép như Nở Bung, Nổ Bùng, Nổ Lục Bục ( “Lắm tiếng Bục”= Lục, từ đôi Lục Bục), Bộc Phá 爆 發, Tạc Đạn 炸 彈, Tùng Tùng, Đùng Đoàng, Tung Tóe, Bạo Tạc 爆 炸. Hán ngữ dùng từ Bạo Tạc 爆 炸 chỉ ý Nổ, dùng từ ghép Xạ Kích 射 擊 chỉ ý Bắn.

Nước Văn Lang cổ đại cách nay 5000 năm là một cái NÔI của văn minh nhân loại. NÔI=Nước=Được=Đất=Điền=Biển. Biển Đông là cái NÔI của Việt, cổ Hán thư gọi Biển Đông là “Giao Chỉ Dương 交 址 洋”. Chiến lược phát triển vào trong biển của dân Lạc Việt nước Văn Lang đã có từ thời cổ đại. Truyền thuyết Trăm Trứng có câu “Nàng là giống Tiên, đem 50 con lên Rừng=Rú=Rậm=Lâm 林, ta là giống Rồng, thủy tộc, đem 50 con xuống biển”. Đông=Động. Biển = Bàng-Bái 滂 湃 (nghĩa là nước trào cuồn cuộn)= Hải 海 = Hồ 湖 = Hố = Ổ = Nổ = NÔI. Con Rồng cháu Tiên coi Biển Đông là cái Ổ của Rồng, tức cái ”Lỗ Rồng“ = Long. Hạ Long là đẻ nhiều Rồng. NÔI=Nở=Đỡ=Đẻ=Sẻ=Sạ=Hạ. “Sạ Kinh” = Sinh, “Sạ Đán” = Sản. Do là dân biển, giao lưu rộng, người Việt cổ đại luôn có “đột Phá trong tư duy để Đạt được mục tiêu”, gọi tắt là “Phá Đạt “= Phát 發, 1+0=1, sớm biết “Dò Biển” = Diễn 衍, 1+1=0, để mà phát vào “Trong Biển” = Triển 展, 0+1=1. Nghe chữ Phát Triển 發 展 đã thấy nó còn hàm ý là dựa vào biển mà phất lên giàu mạnh. Tư duy ấy đã có ở người Việt nuớc Văn Lang từ thời cổ đại, nhờ đó mà làm nên nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử. Giao thương hàng hải có sớm nhất là ở người Việt. Xuồng = Thuồng ( con thuồng luồng cổ đại) = Thương = Thuyền. Một=Mua, Hai=Lái, Ba=Buôn, Bốn=Bổn, đó là bốn Ven của cái lỗ Vuông của đồng tiền (tục ngữ “một vốn bốn lời”) của Văn Lang = Vuông Lớn.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites