Posted 16 Tháng 12, 2012 Từ Ruộng mà Ra Văn minh nhân loại bắt đầu từ văn minh nông nghiệp trồng trọt, khi con người bắt đầu khai thác lớp thổ nhưỡng bề mặt của Trái (Trái=Tròn). Nền văn minh Việt, nền văn minh song Nin, nền văn minh song Hằng đều thế cả. Khi Trái ( là có Trước như Trời Trăng) còn nguyên sơ, gọi cây là Mọc, giống như mặt trời cũng mọc. Mọc=Mộc; gọi thổ nhưỡng là Thó. Thó=Thổ. Khi biết khái thác bề mặt của Trái để Trồng Trọt là lúc con người bắt đầu rat ay. “Ra Tay”=Rấy, “0+0”=1, nhiều Rẩy thì gọi bằng từ lặp Rẩy Rẩy. “Rẩy Rẩy”=Rẫy, đó là thời đốt cỏ, chọc lỗ. trỉa hột. Đến khi biết làm lúa nước thì biết Đắp bờ giữ Đác làm thành “Rẩy Vuông”=Ruống, “1+0=1. Nhiều Ruống thì “Ruống Ruống”=Ruộng, “1+1”=0. (Những từ như Rẩy, Ruống là những từ trong quá trình “gia công dở dang”, trong sản xuất thì gọi là “sản phẩm dở dang”, vì vậy nó không xuất hiện nữa trong ngôn ngữ thường dùng). Ruộng=Vuông.Do phải đắp bờ giữ Đác làm lúa nước trên bề mặt của Trái nên mới gọi Trái là Đất (hàm ý đã có khai thác thành Ruộng Vuông), tác động để giữ được Đác trên Đất là Đào, Đắp. Đất đã có Ruộng Vuông nên ví Đất là Vuông (hình tượng bánh chưng Nền Nếp Vuông, hình tượng Yoni bằng đá Vuông). Từ đó có từ đôi Trái Đất (có xưa mới có nay), cũng giống như có Tổ mới có Tôi, có Họ mới có Tên, viết Họ trước Tên sau theo ngữ pháp Xuôi (Hán ngữ cũng bắt chước vậy viết Họ trước tên sau, trong khi ngữ pháp Hán ngữ là Ngược, như ngôn ngữ phương Tây, đáng lý phải viết Tên trước Họ sau như phương Tây). Từ đôi Đất Thó (có mẹ mới có con), sau từ “đất thó” dùng chỉ tên riêng loại đất nguyên chất mịn màng lớp sâu dưới mặt ruộng không lẫn tí mùn nào, có thể dùng nặn đồ gốm, sâu nữa là lớp đất sét màu trắng có thể nặn đồ sứ. Dân nông nghiệp ham Ruộng nên ví Đất là Vuông. Ba tác nhân trên ruộng là Kẻ, Cây, Con (“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Kẻ cày, kẻ cấy, con trâu đi bừa”). Trồng Cây nên phải Cày, phải Cấy. Cây là Mọc từ Mầm hột nên chữ Mọc=Mộc đại diện cho Cây, người Nhật đọc chữ Mộc này là Ki với nghĩa của Nhật ngữ là “cây”. Kẻ, Cây, Con là ba tác nhân trên Ruộng. Các làng Việt đều có tên với chữ đầu là Kẻ. Tình yêu thiên nhiên là thái độ sòng phẳng của Kẻ Việt đối với Đất, Nước, Cây, Con : có Mua nhiều thì mới được Mùa (“Mua Mua”=Mùa, 0+0=1), Mua bằng đầu tư công sức và tiền bạc mới có được Mùa.Nền nông nghiệp của năm tác nhân Kẻ, Đất, Nước, Cây, Con dưới qui luật “thuận theo Trời” hình thành nên khái niệm Ngũ Hành. Trong văn minh nông nghiệp, Kẻ là chủ tể, rất sòng phẳng với bốn tác nhân kia, chứ không phải là thái độ ăn sẵn như thời nguyên thủy sống bằng hái lượm. Sòng phẳng ấy thể hiện bằng Nuôi bốn tác nhân kia và cả chính than tâm mình: Nuông Cây, Nuôi Con, Nuôi Nuông Đất, Nuôi Nuông Nước, Dưỡng người và than tâm mình (chung nôi khái niệm là: Nuôi=Nấng=Nâng=Niu=Nuông=Nương=Dưỡng). Đối với Đất và Nước thì phải Nuôi Nuông để giữ cho chúng được màu mỡ (Màu Mỡ=Giàu Có) và không bị ô nhiễm. Đối với Con thì phải Nuôi Nấng. Động vật như cá, gà, vịt thường có động tác “Nâng mồi rồi nuốt Xuôi”=Nuối, “0+0”=1. Gia súc gia cầm đều ăn nhiều, nên “Nuối Nuối”=Nuôi, 1+1=0. Thức ăn cho Nuôi gọi là Thức Nuôi (mà không cần phải dài dòng là “thức ăn chăn nuôi”. Đối với Cây thì phải Nuông Nương, vì Cây hấp thụ chậm chạp và đòi hỏi Chìu Chuộng và Nâng Niu (đỡ Cây đổ rạp khi gió lớn), các loại phân bón cho cây gọi chung là Thức Nuông. Đối với người (kể cả thân tâm mình thì phải Dưỡng bằng Thức Ăn. Người=Ngài=Ai=Ăn (“Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”). Người cũng ăn nhiều như động vật, nên “Ăn Ăn”=Ắn, “0+0”=1. Ắn cùng Rỡi với Cắn. Đói thì phải Ắn (ăn nhiều). “Phải Ắn”=Phạn, 1=1+0, chữ Phạn nghĩa là Cơm, vì đói thì cái Phải Ắn nhiều là Cơm. (Người thừa dinh dưỡng thường ăn rất ít cơm). Người ăn còn biết vừa ăn vừa thưởng thức, tức thưởng ngợi các thức ăn, bình phẩm, hàm ơn, nên Ăn=Uống=In=Ẩm=Phẩm=Nhấm=Nhậu=Nhằn=Nhai=Lai Rai. Trong nôi khái niệm này từ In mới là từ gốc đầu tiên. In là đổ đầy cho cái khuôn dạ dày (làm bánh đổ khuôn cũng gọi là bánh In). In dùng chung cho cả ăn và uống. In vốn là của Tày-Thái (dòng Âu Cơ). Chế độ mẫu hệ là có trước nên con biết nói theo mẹ trước, “ăn” nó gọi theo mẹ là In. Năm mươi con theo mẹ lên Rừng, đi về phía Tây tận hết vùng Đoài Miến, lướt “Đoài Miến”=Điện, “1+1”=0, nhiều vùng Điện là “Điện Điện”=Điền, “0+0”=1, tức Vân Nam về sau. (Vân Nam=Việt Nam, từ Việt Nam là có từ thời cổ đại, là tên chỉ địa phương của người Việt phương Nam, QT Tơi-Rỡi diễn biến âm ra vô cùng nhiều địa phương gọi là Việt Nam, song do đã biến âm nên chúng không bị trùng nhau. Ví dụ người Đài Loan gọi Việt Nam là “Oát Lâm”. Oát Lâm=Quát Lâm=Qúi Lâm=Quế Lâm – nơi có cột đồng Mã Viện, vậy Quế Lâm cũng là Việt Nam, căn cứ vào cái biến âm, không căn cứ vào cái chữ đã ghép Ngược là “rừng quế”. Việc lấy từ Việt Nam đặt tên nước là mãi sau này, thời Nguyễn, thay cho Đại Nam, Đại Việt, Đại Cồ Việt… Văn Lang). In là của dòng Âu Cơ, In là từ tổ, vì nó trực tiếp từ cái NÔI tổ mà ra, chữ I là bên Dương (Innegative), chữ N là bên Âm (negative). Nghĩa của In là “ăn uống”, là khái niệm Dương (“Nam thực như Hổ, nữ thực như miu”). Năm mươi con theo Lạc Long xuống biển là dòng Kinh-Mường, từ tổ In của mẹ Âu Cơ đã tách ra từ chi là Ăn riêng, Uống riêng. Đoài Miến vẫn giữ từ tổ là In chung cho “ăn uống”. Người Thái Lan dùng Kin chung cho ăn uống ( giống như Cắn cùng Rỡi với Ăn, Kin cùng Rỡi với In, Rỡi còn mang nghĩa là Ruột Rà, uống nước là “Kin Nam”, ăn cơm là “Kin Khao”, tức ăn Gạo, người Việt gọi là ăn Cơm, người Nhật lại phát âm Cơm là Kô Mê chỉ gạo, nho viết bằng chữ Mễ, người Hán đọc chữ Mễ là “mỉ” chỉ gạo. “In In”= Ỉn, 0+0=1 vẫn nghĩa chung là ăn uống, con lợn nó ăn uống nhiều nên còn gọi nó là con Ỉn, giống lợn Ỉn vùng Quảng Ninh có lịch sử lâu đời hàng vạn năm (người Mỹ mua về Mỹ nuôi trong nhà chung với người sạch sẽ như nuôi chó, vì nó là giống gen quí). Ỉn=Ẩm cũng vẫn là chung ăn uống. Người Việt Đông sau dùng chữ Ẩm 飲 chỉ nghĩa riêng là “uống” (Quan Thoại gọi uống là chữ Hớp 喝 phát âm là “hưa”, vì tộc quan không có âm ngậm). Thức ăn nhiều thì “Thức Thức”=Thực 食, “1+1=0, Thực có nghĩa là rất nhiều thức ăn phong phú. Người Việt Đông sau dùng chữ Thực 食 cho ý riêng là “ăn” (Quan Thoại gọi ăn là chữ Ngật 吃 phát âm là “sư”). Ẩm Thực 飲 食 rất xứng đáng đi kèm với từ văn hóa, là văn hóa ẩm thực, tức “Ăn Uống nhiều Thức”, không thể thay bằng “văn hóa ăn uống” được. Chửi nhau “ăn” nọ ăn kia, không hề có ai chửi “thực” nọ thực kia, vì Thực 食trong tiếng Việt có nghĩa là “nhiều loại thức ăn phong phú”. Ẩm Thực 飲 食 sở dĩ là từ đẹp, lịch sự vì nó là từ gốc của Việt từ thời mẹ Âu Cơ, nó đẹp vì đã qua “gia công” nhiều lớp như đã dẫn ở trên bằng QT của Lãn Miên nêu phù hợp với thuật toán nhị phân (số học nhị phân là do nhà bác học người Đức nêu ra từ thế kỷ 17, sau khi dã đọc Kinh Dịch, ngày nay thì các nhà khoa học nói “ toán nhị phân làm ra tương lai của nhân loại”). “Hầu hết” lại bảo từ Âm Thực 飲 食là “từ Hán- Việt” (Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng Viên ngôn ngữ , NXB KHXH 1991, trang 19 giải thích Ẩm 飲 là uống, trang 402 giải thích Thực 食 là ăn. Nó chỉ đúng với tiếng Việt Đông ( gọi là Việt ngữ 粵 語 chứ không phải là Hán ngữ 漢 語), không đúng với tiếng Việt Nam. Nếu Ẩm là uống , Thực là Ăn thì “du lịch ẩm thực” đổi lại là “du lịch ăn uống” cho nó “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt). Người Việt Đông dùng chữ Ẩm 飲 cho ý riêng “ăn”, và chữ Thực 食 cho ý riêng uống, nhưng vẫn hiểu hàm ý Ẩm Thực 飲 食là ăn uống nhiều thức phong phú. Cho nên ẩm thực Quảng Châu nổi tiếng xưa nay. TQ có câu thành ngữ “Ăn Quảng Châu (ẩm thực phong phú), ở Hàng Châu (phong cảnh đẹp, đất Cối Kê xưa, nổi tiếng gái đẹp), chết Liễu Châu (nhiều gỗ tốt đóng quan tài đẹp). Sài Gòn có câu thành ngữ “Ăn quận năm (có thêm ẩm thực phong phú của người Hoa), nằm quận ba ( kiến trúc Pháp đẹp và qui hoạch Pháp phù hợp mật độ dân cư và hài hòa thiên nhiên). VN có câu thành ngữ “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”. Nhưng muốn ở nhà Tây cho đúng nghĩa sướng thì qui hoach phải hiểu tường tận câu Đất Nước Rừng vàng Biển bạc, tức phải ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 12, 2012 Từ Ruộng mà Ra Văn minh nhân loại bắt đầu từ văn minh nông nghiệp trồng trọt, khi con người bắt đầu khai thác lớp thổ nhưỡng bề mặt của Trái (Trái=Tròn). Nền văn minh Việt, nền văn minh song Nin, nền văn minh song Hằng đều thế cả. Khi Trái ( là có Trước như Trời Trăng) còn nguyên sơ, gọi cây là Mọc, giống như mặt trời cũng mọc. Mọc=Mộc; gọi thổ nhưỡng là Thó. Thó=Thổ. Khi biết khái thác bề mặt của Trái để Trồng Trọt là lúc con người bắt đầu rat ay. “Ra Tay”=Rấy, “0+0”=1, nhiều Rẩy thì gọi bằng từ lặp Rẩy Rẩy. “Rẩy Rẩy”=Rẫy, đó là thời đốt cỏ, chọc lỗ. trỉa hột. Đến khi biết làm lúa nước thì biết Đắp bờ giữ Đác làm thành “Rẩy Vuông”=Ruống, “1+0=1. Nhiều Ruống thì “Ruống Ruống”=Ruộng, “1+1”=0. (Những từ như Rẩy, Ruống là những từ trong quá trình “gia công dở dang”, trong sản xuất thì gọi là “sản phẩm dở dang”, vì vậy nó không xuất hiện nữa trong ngôn ngữ thường dùng). Ruộng=Vuông.Do phải đắp bờ giữ Đác làm lúa nước trên bề mặt của Trái nên mới gọi Trái là Đất (hàm ý đã có khai thác thành Ruộng Vuông), tác động để giữ được Đác trên Đất là Đào, Đắp. Đất đã có Ruộng Vuông nên ví Đất là Vuông (hình tượng bánh chưng Nền Nếp Vuông, hình tượng Yoni bằng đá Vuông). Từ đó có từ đôi Trái Đất (có xưa mới có nay), cũng giống như có Tổ mới có Tôi, có Họ mới có Tên, viết Họ trước Tên sau theo ngữ pháp Xuôi (Hán ngữ cũng bắt chước vậy viết Họ trước tên sau, trong khi ngữ pháp Hán ngữ là Ngược, như ngôn ngữ phương Tây, đáng lý phải viết Tên trước Họ sau như phương Tây). Từ đôi Đất Thó (có mẹ mới có con), sau từ “đất thó” dùng chỉ tên riêng loại đất nguyên chất mịn màng lớp sâu dưới mặt ruộng không lẫn tí mùn nào, có thể dùng nặn đồ gốm, sâu nữa là lớp đất sét màu trắng có thể nặn đồ sứ. Dân nông nghiệp ham Ruộng nên ví Đất là Vuông. Ba tác nhân trên ruộng là Kẻ, Cây, Con (“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Kẻ cày, kẻ cấy, con trâu đi bừa”). Trồng Cây nên phải Cày, phải Cấy. Cây là Mọc từ Mầm hột nên chữ Mọc=Mộc đại diện cho Cây, người Nhật đọc chữ Mộc này là Ki với nghĩa của Nhật ngữ là “cây”. Kẻ, Cây, Con là ba tác nhân trên Ruộng. Các làng Việt đều có tên với chữ đầu là Kẻ. Tình yêu thiên nhiên là thái độ sòng phẳng của Kẻ Việt đối với Đất, Nước, Cây, Con : có Mua nhiều thì mới được Mùa (“Mua Mua”=Mùa, 0+0=1), Mua bằng đầu tư công sức và tiền bạc mới có được Mùa.Nền nông nghiệp của năm tác nhân Kẻ, Đất, Nước, Cây, Con dưới qui luật “thuận theo Trời” hình thành nên khái niệm Ngũ Hành. Trong văn minh nông nghiệp, Kẻ là chủ tể, rất sòng phẳng với bốn tác nhân kia, chứ không phải là thái độ ăn sẵn như thời nguyên thủy sống bằng hái lượm. Sòng phẳng ấy thể hiện bằng Nuôi bốn tác nhân kia và cả chính than tâm mình: Nuông Cây, Nuôi Con, Nuôi Nuông Đất, Nuôi Nuông Nước, Dưỡng người và than tâm mình (chung nôi khái niệm là: Nuôi=Nấng=Nâng=Niu=Nuông=Nương=Dưỡng). Đối với Đất và Nước thì phải Nuôi Nuông để giữ cho chúng được màu mỡ (Màu Mỡ=Giàu Có) và không bị ô nhiễm. Đối với Con thì phải Nuôi Nấng. Động vật như cá, gà, vịt thường có động tác “Nâng mồi rồi nuốt Xuôi”=Nuối, “0+0”=1. Gia súc gia cầm đều ăn nhiều, nên “Nuối Nuối”=Nuôi, 1+1=0. Thức ăn cho Nuôi gọi là Thức Nuôi (mà không cần phải dài dòng là “thức ăn chăn nuôi”. Đối với Cây thì phải Nuông Nương, vì Cây hấp thụ chậm chạp và đòi hỏi Chìu Chuộng và Nâng Niu (đỡ Cây đổ rạp khi gió lớn), các loại phân bón cho cây gọi chung là Thức Nuông. Đối với người (kể cả thân tâm mình thì phải Dưỡng bằng Thức Ăn. Người=Ngài=Ai=Ăn (“Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”). Người cũng ăn nhiều như động vật, nên “Ăn Ăn”=Ắn, “0+0”=1. Ắn cùng Rỡi với Cắn. Đói thì phải Ắn (ăn nhiều). “Phải Ắn”=Phạn, 1=1+0, chữ Phạn nghĩa là Cơm, vì đói thì cái Phải Ắn nhiều là Cơm. (Người thừa dinh dưỡng thường ăn rất ít cơm). Người ăn còn biết vừa ăn vừa thưởng thức, tức thưởng ngợi các thức ăn, bình phẩm, hàm ơn, nên Ăn=Uống=In=Ẩm=Phẩm=Nhấm=Nhậu=Nhằn=Nhai=Lai Rai. Trong nôi khái niệm này từ In mới là từ gốc đầu tiên. In là đổ đầy cho cái khuôn dạ dày (làm bánh đổ khuôn cũng gọi là bánh In). In dùng chung cho cả ăn và uống. In vốn là của Tày-Thái (dòng Âu Cơ). Chế độ mẫu hệ là có trước nên con biết nói theo mẹ trước, “ăn” nó gọi theo mẹ là In. Năm mươi con theo mẹ lên Rừng, đi về phía Tây tận hết vùng Đoài Miến, lướt “Đoài Miến”=Điện, “1+1”=0, nhiều vùng Điện là “Điện Điện”=Điền, “0+0”=1, tức Vân Nam về sau. (Vân Nam=Việt Nam, từ Việt Nam là có từ thời cổ đại, là tên chỉ địa phương của người Việt phương Nam, QT Tơi-Rỡi diễn biến âm ra vô cùng nhiều địa phương gọi là Việt Nam, song do đã biến âm nên chúng không bị trùng nhau. Ví dụ người Đài Loan gọi Việt Nam là “Oát Lâm”. Oát Lâm=Quát Lâm=Qúi Lâm=Quế Lâm – nơi có cột đồng Mã Viện, vậy Quế Lâm cũng là Việt Nam, căn cứ vào cái biến âm, không căn cứ vào cái chữ đã ghép Ngược là “rừng quế”. Việc lấy từ Việt Nam đặt tên nước là mãi sau này, thời Nguyễn, thay cho Đại Nam, Đại Việt, Đại Cồ Việt… Văn Lang). In là của dòng Âu Cơ, In là từ tổ, vì nó trực tiếp từ cái NÔI tổ mà ra, chữ I là bên Dương (Innegative), chữ N là bên Âm (negative). Nghĩa của In là “ăn uống”, là khái niệm Dương (“Nam thực như Hổ, nữ thực như miu”). Năm mươi con theo Lạc Long xuống biển là dòng Kinh-Mường, từ tổ In của mẹ Âu Cơ đã tách ra từ chi là Ăn riêng, Uống riêng. Đoài Miến vẫn giữ từ tổ là In chung cho “ăn uống”. Người Thái Lan dùng Kin chung cho ăn uống ( giống như Cắn cùng Rỡi với Ăn, Kin cùng Rỡi với In, Rỡi còn mang nghĩa là Ruột Rà, uống nước là “Kin Nam”, ăn cơm là “Kin Khao”, tức ăn Gạo, người Việt gọi là ăn Cơm, người Nhật lại phát âm Cơm là Kô Mê chỉ gạo, nho viết bằng chữ Mễ, người Hán đọc chữ Mễ là “mỉ” chỉ gạo. “In In”= Ỉn, 0+0=1 vẫn nghĩa chung là ăn uống, con lợn nó ăn uống nhiều nên còn gọi nó là con Ỉn, giống lợn Ỉn vùng Quảng Ninh có lịch sử lâu đời hàng vạn năm (người Mỹ mua về Mỹ nuôi trong nhà chung với người sạch sẽ như nuôi chó, vì nó là giống gen quí). Ỉn=Ẩm cũng vẫn là chung ăn uống. Người Việt Đông sau dùng chữ Ẩm 飲 chỉ nghĩa riêng là “uống” (Quan Thoại gọi uống là chữ Hớp 喝 phát âm là “hưa”, vì tộc quan không có âm ngậm). Thức ăn nhiều thì “Thức Thức”=Thực 食, “1+1=0, Thực có nghĩa là rất nhiều thức ăn phong phú. Người Việt Đông sau dùng chữ Thực 食 cho ý riêng là “ăn” (Quan Thoại gọi ăn là chữ Ngật 吃 phát âm là “sư”). Ẩm Thực 飲 食 rất xứng đáng đi kèm với từ văn hóa, là văn hóa ẩm thực, tức “Ăn Uống nhiều Thức”, không thể thay bằng “văn hóa ăn uống” được. Chửi nhau “ăn” nọ ăn kia, không hề có ai chửi “thực” nọ thực kia, vì Thực 食trong tiếng Việt có nghĩa là “nhiều loại thức ăn phong phú”. Ẩm Thực 飲 食 sở dĩ là từ đẹp, lịch sự vì nó là từ gốc của Việt từ thời mẹ Âu Cơ, nó đẹp vì đã qua “gia công” nhiều lớp như đã dẫn ở trên bằng QT của Lãn Miên nêu phù hợp với thuật toán nhị phân (số học nhị phân là do nhà bác học người Đức nêu ra từ thế kỷ 17, sau khi dã đọc Kinh Dịch, ngày nay thì các nhà khoa học nói “ toán nhị phân làm ra tương lai của nhân loại”). “Hầu hết” lại bảo từ Âm Thực 飲 食là “từ Hán- Việt” (Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng Viên ngôn ngữ , NXB KHXH 1991, trang 19 giải thích Ẩm 飲 là uống, trang 402 giải thích Thực 食 là ăn. Nó chỉ đúng với tiếng Việt Đông ( gọi là Việt ngữ 粵 語 chứ không phải là Hán ngữ 漢 語), không đúng với tiếng Việt Nam. Nếu Ẩm là uống , Thực là Ăn thì “du lịch ẩm thực” đổi lại là “du lịch ăn uống” cho nó “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt). Người Việt Đông dùng chữ Ẩm 飲 cho ý riêng “ăn”, và chữ Thực 食 cho ý riêng uống, nhưng vẫn hiểu hàm ý Ẩm Thực 飲 食là ăn uống nhiều thức phong phú. Cho nên ẩm thực Quảng Châu nổi tiếng xưa nay. TQ có câu thành ngữ “Ăn Quảng Châu (ẩm thực phong phú), ở Hàng Châu (phong cảnh đẹp, đất Cối Kê xưa, nổi tiếng gái đẹp), chết Liễu Châu (nhiều gỗ tốt đóng quan tài đẹp). Sài Gòn có câu thành ngữ “Ăn quận năm (có thêm ẩm thực phong phú của người Hoa), nằm quận ba ( kiến trúc Pháp đẹp và qui hoạch Pháp phù hợp mật độ dân cư và hài hòa thiên nhiên). VN có câu thành ngữ “Ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật, ở nhà Tây”. Nhưng muốn ở nhà Tây cho đúng nghĩa sướng thì qui hoach phải hiểu tường tận câu Đất Nước Rừng vàng Biển bạc, tức phải ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt. Từ lặp là nhằm mục đích nhấn ý “nhiều” cho nghĩa của từ được lặp, VD “người người” là nhiều người. Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, theo đúng QT Biến thanh điệu phù hợp thuật toán nhị phân (0+0=1, 1+1=0, 0+1=1, 1+0=1. Thanh điệu nhóm 0 là “không”, “ngã”, “nặng”. Thanh điệu nhóm 1 là “sắc”, “hỏi”, “huyền” ) bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bằng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều” = Nhiêu 饒, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài” = Ngoại外, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Từ điển Yếu tố Hán-Việt Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 trong Lời nói đầu có nói: “Quá trình giao lưu ngôn ngữ đã lưu lại trong tiếng Việt một khối lượng lớn từ ngữ gốc Hán, mà các nhà Việt ngữ học thường gọi là từ Hán-Việt. Các tài liệu nghiên cứu cho biết khoảng 60% vốn từ tiếng Việt hiện đại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Ở nhiều lĩnh vực khác như Chính trị, Kinh tế, Luật pháp tỉ lệ này còn cao hơn (70-80%)”. Phân tích: Từ Ngoại Giao , Ngoại là “nhiều ngoài” do lướt từ lặp Ngoài Ngoài” = Ngoại, 1+1=0 , Giao=Trao là sự trao đổi, như nói “trao đổi công hàm”. Kết cấu ngữ pháp Ngược thì dùng từ Ngoại Giao. Kết cấu ngữ pháp Xuôi thì dùng từ Trao Ngoại, tức trao đổi với nhiều ngoài, nếu chỉ với một đối tác cụ thể, có thể dùng Trao Ngoài. Từ Trao Ngoại quả là thật chính xác như đã dẫn (lại còn phù hợp với cụm từ Trao Đổi công hàm), khi đó lướt “Trao Ngoại” =Trái=Phải=Trải=Trời (theo dấu thanh điệu thì tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái minh bạch phải trái trải theo thời gian). Nếu dùng theo ngữ pháp Ngược thì là từ Ngoại Giao, khi đó lướt sẽ cho ra kết quả do lướt là lướt “Ngoại Giao”= Ngáo = Láo = Tráo = Đảo (theo dấu thanh điệu tương ứng là: “0+0”=1=1=1=1, được kết quả hoàn toàn là khẳng định, nhưng khẳng định đây là khẳng định cái dọa dẫm ngáo ộp lắt léo tráo trở thì đổ). Ngôn từ và Qui Tắc tạo từ của tiếng Việt nó thành ra như thế đấy. Từ Luật 律 chẳng qua nó cũng chỉ là “từ Ruộng mà Ra”, gốc của nó là cái Lạt dang để buộc bánh chưng (thành ngữ “Lạt mềm buộc Chặt”=Luật). Lạt ấy qua luộc (tương đương với “luận”, phê bình kiểm điểm nhau người ta còn gọi là “luộc nhau”) Chín rồi thì nó thành Lạt Chín, mềm dẻo hơn; Lạt Chín = Luật Chính, ngữ pháp ngược thì gọi Luật Chính là Chính Luật. Gọi là Chín vì thời cổ đại trong khi nhiều tộc khác còn ăn sống thì đại tộc Việt đã có văn minh biết ăn chín uống sôi, ăn uống đều gọi chung là In ( thành ngữ “nhớ như In”. In = Ẩm, Ẩm Thực, In = Kin, tiếng Thái Lan dùng Kin chung cho ăn uống). “Cho In”= Chín, 0+0=1. Chín đến hoàn hảo gọi là “Chín Kinh”= Chính, 1+0=1. Chín kinh, cũng như ngon kinh là ngon đến mức hoàn hỏa do nêm nếm, chứ không phải là ngon đến “kinh tởm”. Trong từ đôi Nhiều Nhặn (Việt nho viết bằng chữ Nhiêu Nhiên) thì Nhặn nặng ý “nhiều” hơn là Nhiều. Chín Nhặn là chín nhiều, lướt “Chín Nhặn”= Chắn, 1+0=1, Chắn nặng ý “chín” hơn là Chín, ghép thành từ đôi Chín Chắn ( người trưởng thành thì đến độ Chín Chắn). “Cho In”= Chín , 0+0=1, “Chín Kinh”= =Chính,1+0=1 một từ Chính 正 của tiếng Kinh 京 mà phải qua gia công lâu thế, nếu lấy khi đang gia công dở dang thì sẽ được cụm từ “Cho In Chín Kinh”, cái mật mã này là vốn nằm trong hình thức của cái Bánh Chưng, tượng đài “không cần hoành tráng” để người Việt tìm thấy lại đúng cội nguồn. “Cho In Chín Kinh” giải nghĩa là: “Hãy nhớ Cho như In cái Chín Cung của người Kinh có từ thời Kinh Dương Vương”. Thời đó Kinh là tộc đông dân nhất trong đại tộc Bách Việt, gọi là Kinh Chúng (vài nhóm ở cùng nhau gọi là Chung, nhiều cái Chung ấy với nhau thì dùng từ lặp Chung Chung, mà lướt thì “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1, Việt nho viết chữ Chúng 众 bằng ba chữ nhân 人, “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Kinh Chúng mà nói lái lại thì là Cung Chính. Cửu Cung mà lạt chia ra trên cái bánh chưng đã nhắc nhở người Việt rằng: Phải nhớ như in Chín cái Cung ấy là phải Chính, chính xác như tổ tiên người Việt xưa đã xếp vị trí các con số, thì ứng dụng nó mới đúng. Còn bọn Ngược làm sai vị trí số của chín cung, nên mới sinh ra lắm trường phái, cãi nhau ( “tranh minh 爭 鳴” hùng biện) mấy ngàn năm nay mà ứng dụng vẫn sai. Chín cũng là con số 9. Trùng âm nhưng cũng là do có quan hệ ý nghĩa. Gọi là hệ số thập phân có con số 10 là khi số học đã có dùng số 0. Thời cổ đại để đếm thì chỉ đếm từ 1 đến 9 rồi quay vòng lại số 1 (Khơ Me chỉ đếm đến số 5 rồi quay lại số 1, là hệ đếm ngũ phân). Cho nên đếm đến 9 là xong, là hoàn hảo, “gà Chín cựa, ngựa Chín hồng mao” là quí nhất, vàng còn đòi tới bốn số Chín mới coi là vàng Chắn (ngược lại chỉ là vàng Chành tức vàng giả,vàng tây). Kéo quả cân cho đến vạch mà cán cân thăng bằng nhất , tức đã đúng trọng lượng vật cân thì gọi là Chấn Cân . Khi bán hàng mà phải cân thì hai người bán và mua cùng coi cân để xem đã Chấn Cân chưa, hai người cùng chứng giám cái Chấn đó thì là “Chấn Chấn”=Chân 真,1+1=0, đó là sự cân bằng hoàn hảo (rồi dùng ghép thành từ Chân Thật). Khi đã có cái “thành phẩm” từ là từ Chân 真chỉ sự cân bằng hoàn hảo thì người ta chỉ dùng từ Chân mà “qua cầu rút ván” cái “phôi gia công” đang là cái “sản phẩm dở dang” là Chấn Chấn. Chữ Cân 巾của Việt nho để chỉ cái Cân 巾, cũng đại diện cho cái Khăn 巾, vì khăn đội trên đầu của đàn ông, đàn bà người Việt hay người Chăm đều rất cân đối (nhìn cái khăn mỏ quạ của người quan họ thì rõ, đến mái tóc con gái còn rẽ đường ngôi giữa). Hán ngữ dùng chữ Xứng 稱 là chữ sau trong từ đôi Cân Xứng để gọi cái cân, phát âm là “chen”. Hán ngữ không có từ Cân Xứng. Vậy chữ Xứng 稱 cũng là từ Việt, có nghĩa như Cân, để ghép thành từ đôi Cân Xứng. Chữ Xứng 稱 này cũng là chữ Xưng 稱 , hai người đối thoại cùng Xưng thì “Xưng Xưng” = Xứng , 0+0=1, nghĩa đen là bằng nhau , không ai cướp lời ai (thành ngữ “xứng đôi vừa lứa”) , còn nếu một bên lấn át bên kia thì gọi là Xưng Xỉa. Cân 巾Bằng 平 Kinh 京 - Cân = Kinh, (nhìn ba chữ của Việt nho vừa nêu thấy nó vẽ nên sự cân bằng như thế nào). Khen “món ăn này ngon kinh” tức món ăn này ngon đến độ hài hòa cân bằng do nêm nếm chứ không phải là ngon đến mức “kinh tởm”. Hán ngữ dùng chữ Cân 巾 chỉ cái khăn, phát âm là “jin”, còn thì không hiểu cân là cân bằng, ý “cân bằng” Hán ngữ dùng chữ Bình 平, hay Bình Hành 平 衡. Nhưng từ Bình cũng vẫn là từ Việt, “Bằng 平 Kinh 京” = Bình 平, 1+1=0 (chẳng phải là ba chữ này đều vẽ cân bằng đó sao?). Kinh 京 sở dĩ cân bằng vì đường kinh mạch trong cơ thể chia dọc cơ thể là đối xứng cân bằng. Hán ngữ lại dùng chữ Kinh 經 là đường kinh (sợi dọc) trong dệt vải, chúng lấy cái gì làm trục để mà đối xứng ? Kinh 京 và Kinh 經 nguyên thủy đều chỉ là từ cái âm Kinh Lạch chỉ những dòng nước chảy dài trên đồng ruộng lúa nước của người Việt. Kinh Lạch = Kinh Lạc, đã mượn âm, nâng nghĩa khoa học thành để chỉ hệ thống mạch kinh lạc trong cơ thể (GS Nguyễn Tài Thu nói: “Châm cứu đã được người Việt phát minh từ thời Thần Nông, lúc đó kim châm cứu là mài chuốt bằng đá”). Cân để biết trọng lượng một vật mà đến Chấn vạch trên cán cân cho cân bằng là Kịch=Cực, quá nữa thì dư, dư thì bán lỗ. Số 9 đã chỉ rõ vị trí địa lý của nước Tần theo Dịch học của người Việt là ở tận phía Tây, đến đó là Chấn rồi, “Tây Chấn”= Tần, 0+1=1, là cái tên mà người Việt đặt để gọi nước đó. Vì vị trí địa lý của Tần ở số Chín, nên người Việt cũng gọi là nước Chín (Hán ngữ phát âm là “chín”- pinyin “qín”, nhưng âm tiết này trong Hán ngữ không có nghĩa là số 9). Từ Chín này người Ấn Độ phiên âm là China, phương Tây cũng theo đó gọi là China. Xưa đồ sứ Giang Tây của người Việt bán sang phương Tây khi người phương Tây còn chưa biết đến làm men sứ, cho nên phương Tây gọi đồ sứ là “china”. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites