Posted 15 Tháng 12, 2012 Đất Nước Rừng vàng Biển bạc Từ Đất/Nước kết cấu như cặp đối Dương/Âm. Chỉ có người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước, hàm nghĩa là một “Môi trường sinh thái cân bằng”. Anh ngữ chỉ gọi xứ sở là Land, Hán ngữ gọi xứ sở là Quốc Thổ hay Lãnh Thổ. Cặp đối Đất/Nước (Dương/Âm) tương tự cặp đối Trời/Đất. Kết cấu của các cặp từ đối ấy tự nói lên rằng sự sinh ra Vũ Trụ là Dương có trước Âm, Dương sinh ra Âm, như thành ngữ “Trời Tròn Đất Vuông”, “Mẹ Tròn con Vuông”. Ghép Tròn với Vuông theo đúng Dương Âm là Tròn Vuông = =Trọn Vẹn, chỉ sự hoàn hảo, cũng là “Cân bằng sinh thái”. Qui hoạch cái gì, từ qui hoạch một thành phố, qui hoạch một doanh nghiệp , qui hoạch một việc nhỏ đều là: muốn được Trọn Vẹn phải theo đúng Âm Dương Ngũ Hành, tức phải dùng cái nhìn của Phong Thủy Lạc Việt. Khi biểu thị Trái Đất bằng hình Vuông là người Việt ám chỉ Đất ấy là đất đã có loài người khai thác (do Ruộng=Vuông=Văn文=Vành - Vạnh=Mảnh. Chữ文 người Triều Châu đọc là “vuông”, người Quảng Châu đọc là “mảnh”) , tức trái đất đã có văn minh, đời sống xã hội loài người đã có quốc gia, chia nhau mối quốc gia một Mảnh trên trái đất. Từ hai âm tiết Trái Đất (sẽ chứng minh nó là từ đôi, tức Trái=Đất), Trái Đất nếu mà theo ý “cái đầu tiên” thì gọi tắt là Trái, đúng với cặp đối Dương/ Âm nguyên thủy của Trời/Đất là Trời/Trái (cặp đối nguyên thủy là hai từ trong cặp đó phải là cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi). Từ đôi Trái Đất nếu mà theo ý “cái nhiều hơn” thì gọi tắt là Đất, vì loài người sinh ra và nhiều dần lên là ở trên mặt đất, chứ không phải là ở dưới nước như loài đơn bào đầu tiên của sự sống, ý “nhiều” là loài người nhiều lên đồng thời khai thác cũng nhiều lên đối với trái đất. Cặp đối nguyên thủy của Đất/Nước là cặp Đất/Đức. Đất=Thật (thành ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng”). Đức=Thực (người có Đức là người chân thực). Như vậy Đất/Nước = Đất/Đức = Thật Thực, đó chính là cái môi trường sinh thái lý tưởng nhất vì nó còn chân thực, còn Trọn Vẹn (tức là một sinh thái có Đức), chưa bị tàn phá, ô nhiễm để biến thành một sinh thái Đểu. Chữ Đức 德 của Việt nho ( từ Việt nho dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ ở đây có nghĩa là “từ của Tiếng Việt viết bằng chữ nho của ngườiViệt” ) viết có nghĩa là sự đầy đủ, chu đáo đối với thiên hạ, gọi là sống có Đức. Nguyên gốc của nó chỉ có nghĩa là nước , trong nôi khái niệm Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đủ=Đầy=Đác=Nác=Nước. Túc=Đức=Đủ=Đầy=Đầy-Đủ, là bản chất của nước, là Đầy=Đẩy vì bản chất của nước là luôn có xu hướng Nống=Nở Rộng ra mọi phía. Nói Đất Nước Việt Nam có nghĩa là xứ sở tên là Việt Nam, nhưng riêng từ Đất Nước đã bao hàm ý nghĩa là nơi sinh thái cân bằng, là nơi chân thực, nơi đó nhân dân thuần phác và nhân hậu. Các ngôn ngữ khác không thể có được cái “ý tại ngôn ngoại” này vì họ không dùng từ Đất Nước để chỉ xứ sở của mình. Cặp đối Trời/Đất nguyên thủy là Trời/Trái. Ta thường nói “Dương và Âm như haì mặt Phải và Trái”, thì đúng như vậy, vì Trời=Trải=Phải, đương nhiên Đất=Trái, từ Trái Đất là một từ đôi, Trái là nói khi địa cầu đang còn nguyên thủy, Đất là nói địa cầu khi đã được con người khai thác bề mặt để làm Ruộng, từ buổi bình minh của nền nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, là của người Việt cách nay hàng vạn năm, Ruộng=Vuông= Văn=Vành-Vạnh=Mảnh, là nền văn minh lúa nước của dân Việt nước Văn Lang ở nam Dương Tử. Nếu nói về hành tinh Trái thì người Việt biểu diễn nó bằng hình Tròn giống như Trời và Trăng, còn nếu nói về Trái với ý là hành tinh có lẽ là duy nhất có con người đã khai thác thì người Việt biểu diễn nó là Đất bằng một hình vuông, từ đôi Trái Đất đã tự nó nói lên ý xưa (Trái) và nay (Đất) của chính nó, bằng cái “ý tại ngôn ngoại”. Biểu tượng Đất bằng hình Vuông của bánh chưng vuông hay bằng đá vuông như Yoni là nói rằng Đất Nước văn minh, khi đã thừa biết các hành tinh do Vũ Trụ sinh ra như Trời=Trăng=Trái đều là = Tròn=Còn, cái nôi khái niệm nói lên sự tồn tại vĩnh cửu của chúng là Còn=Tròn=Trời=Trăng=Trái=Mãi, tức chúng luôn luôn là Già. Từ nguyên của từ Giời Già (giọng Kinh Đô) là từ Trời Tra (giọng Nghệ). Từ Vũ+Trụ có nghĩa là Không Gian+Thời Gian (giải thích của Từ điển Hán-Việt). Vũ Trụ là một từ gốc Việt cổ xưa nhất. Vì: (1) Vũ là do lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng QT Thanh điệu: 1+1-0 của thuật toán nhị phân); (2) Trụ là do lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng QT Thanh điệu: 1+1=0 của thuật toán nhị phân). Hai từ Vũ và Trụ là cùng nôi khái niệm “thuộc Trời” vì vậy khi nguời Việt bỏ chữ khoa đẩu chuyển sang viết bằng chữ nho thì hai chữ đó đều có chung một cái Tơi là bộ thủ Miên 宀 đặt phía trên (Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên; Trời=Trải=Phải=Mái=Miên). Ủ là một sự chuyển động, cũng giống như sự lên men vậy. Hai chữ Vũ Trụ nho viết bằng ghép chữ biểu ý, đọc chỉ cần lướt các bộ ghép là ra: (1) Do Vỏ=Vòm=Vải=Mái=Miên 宀; Ủ=Ứ=Ư 于 nên Vũ 宇 được ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và Ư 于 thành chữ Vũ 宇, đọc bằng lướt “Vỏ Ủ”=Vũ (đúng dấu 1+1=0); (2) Do Trời=Trải=Phải=Mái=Miên宀; Ủ = Du 游 = Do 由 nên chữ Trụ ghép bằng bộ thủ Miên 宀 và Do 由 thành chữ Trụ 宙 đọc bằng lướt “Trời Ủ”=Trụ (đúng dấu 1+1=0). Bộ thủ là của Việt, từ Bộ Thủ 部 首, nghĩa là “bộ đầu” là cái bộ ở vị trí đầu chữ (tức cái Tơi của lời), ghép theo ngữ pháp Việt ( nếu là của Hán thì đã ghép theo ngữ pháp Hán là Thủ Bộ 首 部). Thủ=Tu (xúc tu là tay của loài côn trùng)=Tay=Tơi. Rõ ràng là xét về dấu thanh điệu (mà chỉ ở tiếng Kinh mới tìm ra được QT Thanh điệu mà Lãn Miên nêu: “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm 0; “sắc”, “hỏi”, “huyền” thuộc nhóm 1) thì Vũ=1+1=0, Trụ=1+1=0. Vậy Vũ Trụ bắt đầu là từ một “Cái Không Vô Định” (giống như Thiên Sứ khẳng định: “Không có hạt của Chúa”). Nhưng “Cái Không Vô Định” ấy lại là cái Có, vì Vũ=0, Trụ=0; Vũ Trụ=0+0=1 (đúng thuật toán nhị phân). Đúng là Sắc Sắc Không Không. “Cái Không Vô Định” đó gọi là Trời (Hán ngữ phải gọi là Thiên Không). Người Việt than vãn“Trời Ơi” là ám chỉ cái Không (không rõ nguyên nhân), còn “Cái của Trời Ơi” là chỉ cái của cải bỗng nhiên mà có, không biết do đâu đem lại. Ủ là thuộc tính của tự nhiên, là một sự chuyển động của tự nhiên, giống như lên men , thì phải có Đủ thời gian mới thành. Ngày nay văn minh công nghiệp (lấn át văn minh nông nghiệp) dùng công nghệ để rút ngắn quá trình Ủ, muối cá là có ngay nước mắm chứ không phải cất nước nhĩ một hai năm; rượu mới nấu xong cho qua máy là có thể thành ngay rượu bằng rượu cất 5 năm hay 15 năm. Tuy nhiên công nghệ ấy cũng chẳng Đọ được với Trời, chỉ cho ra hàng dởm mà thôi, chất lượng không thể nào bằng Ủ tự nhiên được, cũng giống như thịt heo nuôi bằng thuốc tăng trọng hay bằng thuốc tăng nạc. Trà đen Phổ Nhĩ của người Thái ở Vân Nam theo cách Ủ cổ truyền là càng Ủ lâu năm thì cho ra chất lượng trà càng tốt, càng có giá cao. Hệ đếm nhị phân là từ qui tắc Dương/Âm, hệ đếm chỉ có hai con số, số thứ nhất là 1, số thứ hai là 0. Cặp đối 1/0 tương đương cặp đối Trời/Đất. Vì: Trời=Trụ=Chủ=Chúa=Chắc=Chốt=Cột=Một, là con số thứ nhất, tức số 1của hệ nhị phân. Cho nên người Việt mới có tục trồng cột Nêu tế Trời ngày mồng 1 Tết. Đất=Đồng=Hồng=Hai=Trái=Vài=Vuông, là con số thứ hai , tức số 0 của hệ nghị phân, (Đồng là đồng ruộng, Hồng 洪là rộng, “Đất Rộng”=Động 洞 ý chỉ một vùng. Người Việt ví Đất đã có loài người khai thác là hình Vuông (Ví là lời so sánh : Ví=Ví-Von=Van=Vân=Ngân=Ngâm-Nga=Ngữ=Ngôn=Ngợi=Lời). Ruộng=Chuộng=Vuông=Vốn=Bốn=Bổn 本 = Bản 本. Hình vuông chỉ có Vài cạnh, chính xác là Bốn cạnh, chưa đến Dăm cạnh. Ruộng là cái Vốn quí nhất của nhân loại từ buổi bình minh của văn minh nông nghiệp hàng vạn năm trước cho đến ngày nay. Người Việt ham chuộng hình vuông ( áo cổ vuông của thủy thủ, trang trí hình vuông trên ngực áo hay lưng áo của các sắc tộc) vì chuộng Ruộng và chuộng cái lỗ Vuông là đồng tiền, tức ham chuộng cái Tư Bổn từ trong ngôn từ cổ đại, mắc mớ gì mà không theo. Cái Vốn=Bổn=Bốn là gồm: Nhân tài, Tiền tài, Khí tài, Nghệ tài. Có bốn yếu tố cần và đủ ấy để làm sản xuất kinh doanh nên người Việt mới nói câu “Làm ăn thì một vốn bốn lời” (người Hán lại đòi “Nhất bản vạn lợi” ! ). Do chuộng hình vuông nên quốc gia đầu tiên của nguời Việt cách nay 5000 năm ở nam Dương Tử đặt tên là Văn Lang 文 狼 = Vuông Lớn, có cờ cũng là cờ hình vuông (như vẫn còn thấy ngày nay ở các đình chùa). Do ví Đất là Vuông nên người Việt mới chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa, với nghĩa Tròn Vuông=Trọn Vẹn (tức giao dịch phải sòng phẳng), bằng hình ảnh Tròn/ Vuông=Trời /Đất (tức giao dịch có Trời Đất chứng giám), đó là chữ Tín. (Chữ Tín 信 là do chữ Tin, nhấn ý tin thì dùng từ lặp Tin Tin, nhưng lướt thì “Tin Tin”=Tín, đúng dấu thanh điệu 0+0=1 của thuật toán nhị phân của người Việt. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN1991 cho rằng từ Tín 信là “từ Hán-Việt”, trang 415). Đồng tiền cổ nhất của người Hán là hình tròn có lỗ tròn ở giữa. So với lỗ tròn thì lỗ vuông nó ma sát sắc hơn với sợi dây xâu các đồng tiền, dở thế, vậy mà người Việt vẫn chế đồng tiền là hình Tròn có lỗ Vuông ở giữa như hình ảnh Trời/Đất, chứng tỏ người Việt coi trọng cái ý nghĩa hơn cái thực dụng ( thành ngữ Việt “Lễ mọn lòng thành”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Do trọng nghĩa nên có từ ghép Trọng Nghĩa đều dấu thanh điệu nhóm 0 (nhóm 0 là chỉ cái tư duy hướng trong, chưa ra hành động như nhóm 1. Nói “tôi trọng anh lắm” hay “tôi nghĩa với anh lắm”, như nhau, nhưng mới chỉ là suy nghĩ bên trong, chưa thể hiện bằng hành động cụ thể. Vì Âm là nặng hơn Dương, thủa hình thành Vũ Trụ thì “Khí trong nhẹ nổi thành Thiên, khí Trọc nặng lắng thành nên Đất mà”, nên Trọng Nghĩa đều mang dấu nhóm 0). Người Việt coi trọng đồng tiền do đổ mồ hôi mà có. Vốn xưa người Việt chế đồng tiền bằng vỏ Bối 貝 để làm phương tiện trao đổi. Sự đổi của người Việt rất là thật thà ( thành ngữ “Khôn ngoan chẳng đọ thật thà”) kể từ khi còn là hình thức vật đổi vật (những tục như chợ Viềng ở Nam Định hay chợ “ma” họp ban đêm ở các nơi khác còn đến ngày nay), trẻ con thường Đổi những vật chúng kiếm được cho nhau mà không hề so đo giá trị,(bời vì ở cái nôi khái niệm “sự chân thật nguyên thủy” thì: Trời=Trải=Phải=Trái=Trồi=Đổi=Đất=Thật). Cái đổi thật thà ấy mới là Đổi=Bối =Báu = =Bảo . Từ Báu sinh ra là từ khi người Việt biết dùng vỏ Bối làm đại diện giá trị trao đổi, người ta chế tiền bằng cách trau chuốt vỏ Bối cho thật đẹp, lướt “Bối Trau”=Báu, dùng Bối làm phương tiện trao đổi thì lướt “Bối Trao”=Bảo 寶. Từ đôi Bảo Bối hay Báu Bối ám chỉ cái quí của sự chân thật trong trao đổi. (Ngày nay ngành ngoại giao dùng cụm từ “Trao đổi công hàm” cũng hàm ý quí báu như trao đổi trong giao dịch mua bán vậy). Sau, người Việt chế đồng Tiền (như Cam Pu Chia gọi là đồng Riên) bằng đồng, rồi bằng Bạc, gọi là đồng Bạc (như Thái Lan gọi là đồng Bạt), đồng tiền kỷ niệm thì làm bằng Vàng. Bạc và Vàng đều là kim loại quí nên từ ghép Vàng Bạc đại diện cho nghĩa Qúi Báu (nguyên thủy của từ Qúi Báu là từ Qui Bối, vì người Việt cổ đại dùng mai rùa-Qui để viết chữ và dùng vỏ Bối để làm đồng tiền. Giáp cốt văn chính là của người Việt, là chữ khắc trên mai rùa. Rùa là con vật đi chậm chạp, Rùa=Rù Rà=Rù Rì=Rì=Qui. Qui Bối=Qúi Báu. Bản thân từ đôi Qúi Báu đã nói lên cái “ý tại ngôn ngoại “ của nó là Sĩ – kẻ viết chữ và Thương – kẻ đi buôn đều được người Việt cổ đại coi trọng như nhau vì đều là Qúi Báu của xã hội). Cặp đối Rừng/Biển đại diện cho nghĩa Đất/Nước, bởi Đất/Nước hàm ý là “Sinh thái cân bằng” thì nó phải có Rừng và có Biển. Đất và nước là yếu tố đầu tiên cho nền văn minh nông nghiệp trồng trọt mà người Việt có sớm nhất nhân loại. Kỹ thuật canh tác lúa nước là “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống” cho thấy là người Việt cổ đại đã biết làm nền nông nghiệp bền vững, biết nuôi cây đồng thời biết nuôi đất, nên mới hiểu được là Đất=Thật và Đức=Thực. Câu tục ngữ “Hiền như đất, thật như ruộng” đủ thấy người Việt cổ đại hiểu rằng đối xử với đất và nước bằng thái độ như thế nào thì đất và nước cũng sẽ đối xử lại bằng thái độ như vậy. Giao dịch với đất và nước cũng phải như giao dịch mua bán qua đồng tiền Tròn Vuông, nghĩa là phải Trọn Vẹn (sòng phẳng), có Trời/Đất chứng giám, bởi vậy chẳng ai dám làm ô nhiễm môi trường. Năm nghìn năm trôi đi, trên cùng một mảnh “ruộng mật bờ xôi”, hột nếp trồng ra vẫn thơm dẻo như nếp gói bánh chưng thời Vua Hùng. Đất Nước Rừng vàng Biển bạc là câu người Việt chỉ xứ sở mình với nghĩa chính yếu là “Môi trường sinh thái cân bằng còn nguyên rừng , nguyên biển, là cái quí báu nhất sánh ngang bạc, ngang vàng”. Văn minh công nghiệp chắc không cần ý đó nên ngày nay người ta có thể qui hoạch hoành tráng cho dân cả một quận sống trong chỉ một chung cư vĩ đại cao mấy trăm tầng (sống như những robot), toàn bộ nước thải sẽ dùng công nghệ đắt tiền xử lý lại trở thành nước uống.. Những người không hiểu nghĩa chính yếu vừa nêu của câu “Đất Nước Rừng vàng Biển bạc” thì chê bai rằng: Nước ta tài nguyên ít ỏi, khai thác đã gần cạn kiệt, còn đâu mà cứ dạy trẻ con ca tụng mãi câu “Đất nước rừng vàng biển bạc”. Nghĩ như họ là do họ có thói ăn sẵn, họ có thể vô cảm qui hoạch lấy cát san lấp ruộng mật bờ xôi để làm khu công nghiệp hay sân gôn, mà không chọn những nơi sỏi đá vì sợ tốn công san ủi. Tư duy ăn sẵn vốn có xuất xứ từ dân du mục cổ đại phương Bắc, chứ không phải xuất xứ từ dân nông nghiệp trồng trọt cổ đại phương Nam. Hai mươi mấy năm trước tôi có đi chơi Tây Đức một lần, thấy họ giữ gìn được cái tinh túy của văn minh nông nghiệp cổ xưa, tức môi trường sinh thái rất tốt. Vào một nhà máy sản xuất điện tử, được nghe giám đốc nhà mãy kể rằng: Nhà máy là do ông chủ tư bổn người Đức từ Mỹ về đầu tư sau thế chiến hai. Khi đó ông thống đốc bang này chỉ cho ông chủ tư bổn thấy cái gò đất sỏi như ốc đảo hoang giữa cánh đồng trồng khoai tây xanh tốt, nói rằng:”Đó, tôi cho anh thuê cái gò đất không trồng được gì ấy mà đặt nhà máy, cho anh thuê đất ở quãng ngắn nhất từ gò ra đường cái để anh làm một con đường nhựa chỉ để đi lọt một xe contenơ. Nhưng cũng bảo cho anh biết một điều bất di bất dịch là, nếu tôi phát hiện ra dù chỉ một giọt nước ô nhiễm của nhà máy anh ra cánh đồng thì tôi sẽ ra lệnh đóng cửa nhà máy anh ngay lập tức”. Nhà máy sản xuất bảng mạch điện tử, xứ lý nặng nề nhất là nước thải từ hóa chất dùng làm ăn mòn mạch in, giá tiền khu xử lý ngang bằng giá tiền xây nhà máy. Vậy mà mấy chục năm hoạt động chưa hề có một giọt nước ô nhiễm nào ra cánh đồng. Tôi đưa mắt ngắm lại lần nữa cánh đồng, vẫn là trồng khoai tây lên xanh mơn mởn, ngẫm rằng ông chủ tư bổn đúng là giữ lời hứa Thật từ khi bắt đầu dự án, nên nhiều thống đốc bang kế nhiệm chưa ông nào phải ra lệnh đóng cửa nhà máy. Còn nhiều lắm những ví dụ tốt đẹp về đất nước tự do rất có kỷ luật này nhưng không kể ra đây vì lạc đề. Tôi chỉ nghiệm được rằng: cách quản lý đơn giản nhất là hiệu quả nhất. Ví dụ bảng ở chỗ ngồi chờ xe búyt không phải là vẽ các quảng cáo màu sắc đẹp cho các loại hàng hóa (do cho thuê quảng cáo để lấy tiền) mà là tấm bản đồ các tuyến xe buýt, rõ ràng tên phố, tên trạm dừng , kể cả thời gian hao từ mỗi trạm đến trạm tiếp theo. Biển tên phố thấy rõ ở ngã tư đường, hình chữ nhật nhưng có viền trong màu trắng nổi bật, ở một đầu ngang , đường viền ấy vẽ thành góc nhọn như mũi tên, rõ là đường ấy là đường một chiều, dưới tên phố còn ghi số nhà từ ngã tư này tới ngã tư tới là từ số mấy đến số mấy; một cái biển đơn giản mà hiệu quả cho nhiều việc của nhiều ngành, hơn là nhiều biển chỉ dẫn. Cổ xưa từ tiếng Việt vốn có Đất/ Nước=Đất Đức=Thật Thực. Băn khoăn cái ước vọng là khi nào thì Đất Nước Ta ngang bằng được với Đất Nước Đức, không biết dành ai trả lời. Nôi khái niệm của nước là: Té=Tế=Túc=Tức=Đức=Đế=Đen=Đác=Nác=Nước=Nam=Nậm=Lầm=Thâm=Than=Thủy. Màu ngũ hành của nước là màu đại diện cho nước theo thuyết ÂDNH, không phải là màu thật bản chất của nước. Trong nôi khái niệm trên thì các từ Đen, Lầm, Thâm, Than, Thủy dùng gọi màu ngũ hành của nước. Sau người ta lấy màu ngũ hành gọi tên vật thể có màu như vậy, viết bằng chữ nho, như chữ Thủy 水hiểu là nước, chữ Than 碳 hiểu là Mun (người Việt vẫn nói “lấy bớt tro, mun trong bếp ra”), Lầm, Thâm hiểu là tên riêng chỉ mấy loại vải có màu sẫm đậm. Chữ Đức 德 vốn là nước (là “tức” trong tiếng Khơ Me). Đức=Đủ=Đầy=Đẩy (là bản chất cái Năng của nước). Cái Tế Vi , lướt “Tế Vi”=Tí . Cái Tí của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Dương/Âm là Tá/Té=Hỏa/Thủy, tức cái Năng của Vũ Trụ đã QT Nở mà thành cặp đối Nắng/Nước (Nắng=Nướng=Dương; Nước=Nậm=Âm). Con người là một tiểu Vũ Trụ, nên cái Năng trong cơ thể cũng là một năng lượng vô hình như cái Năng của Vũ Trụ, nó vô hình vì Năng= Chăng = Khăng = Không. Trong cơ thể thì cái Năng này có phải là cái Khí như đông y gọi ? Khăng=Không nên Khăng+Khăng=0+0=1 theo thuật toán nhị phân, đúng như lướt từ lặp “Khăng Khăng”=Khẳng, đúng dấu theo thuật toán nhị phân 0+0=1, là khẳng định . (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 giải thích Khẳng 肯là có, nhưng coi là “từ Hán-Việt, trang 201). Kiểu lướt từ lặp là phổ biến như một Qui Tắc trong Tiếng Việt, bất kể từ đó có viết bằng chữ nho hay không có viết bẳng chữ nho, chứng tỏ tất cả những từ người Việt dùng đều là từ gốc Việt. Ví dụ từ lặp Nhiều Nhiều mà lướt thì “Nhiều Nhiều” = Nhiêu 饒, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. Ngoài Ngoài mà lướt thì “Ngoài Ngoài” = Ngoại外, đúng 1+1=0 theo thuật toán nhị phân. “Hầu hết” đều cho rằng từ Ngoại Giao 外 交 là từ Hán-Việt. Thực ra nó chỉ là từ Việt đã bị Hán hóa theo ngữ pháp của Quan Bắc Thoại, không còn giữ theo ngữ pháp Tiếng Việt. Nguyên gốc của từ Ngoại Giao là từ Trao Ngoài, mà Trao Ngoài tức giao tiếp với người khác thì phải như lướt “Trao Ngoài”=Trái=Phải=Trải=Trời, tức phải minh bạch phải trái như Trời. Trao Ngoài = Giao Ngoại, ngược theo ngữ pháp Hán thì Giao Ngoại=Ngoại Giao. (Vậy Ngoại Giao là phải minh bạch phải trái như từ gốc Trao Ngoài, hay Ngoại Giao là lươn lẹo nói một đàng làm một nẻo?). Từ Ơi nghĩa là cái tín hiệu gọi đối tượng đến với mình. Hán ngữ không có từ Ơi tín hiệu này, nhưng ở các ngôn ngữ của Việt Nam, Cam Pu Chia, Lào , Thái Lan thì từ Ơi dùng hàng ngày. Nguyên thủy nó là từ Ời của Tiếng Việt, lặp thì là Ời Ời (như câu ca dao cổ: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa van cha ời ời. Cha thì cắt cỏ trên trời. Mẹ thì cưỡi ngựa đi mời quan lang), lướt thì “Ời Ời”=Ơi, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Ơi là muốn đưa về mình, nôi khái niệm đó là Mời=Ơi=Ăn=Uống=Ẩm=In=Ấn=Nhấn=Nhận=Nhồi=Nhét=Nhịn = Kin (là ăn, uống của tiếng Tày Thái)=Nín=Xin=Thín=Thỉnh 請 của cái nôi khái niệm chung là “đưa vào mình”. (Nhặn là nhiều, cặp đối Nhặn/Nhẵn, Nhẵn là không còn gì, Nhẵn Thín là “không còn gì đưa vào mình” nữa, “ăn hết nhẵn thín rồi”). Hán ngữ dùng từ Thỉnh 請 với nghĩa là đưa về mình, tức là Mời=Ơi. Nói lịch sự thì dùng từ đôi để nhấn mạnh ý là từ Xin Mời, hoặc dùng từ lặp Mời Mời, lướt thì “Mời Mời”= Mơi, đúng dấu 1+1=0 của thuật toán nhị phân. Người Thái đã mượn cái từ Mơi lịch sự này nên người Việt nhường hẳn từ đó cho người Thái, tiếng Thái nói Mơi nghĩa là Mời. Người Việt hay Mời, có ăn thì “Mời khắp Sóc” = “Mời…Sóc” = Mọc, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân. Thành từ đôi Mời Mọc nghĩa là hay mời, đó là cái quan hệ tình làng nghĩa xóm của dân ăn trầu, “ăn ở với nhau như đọi nước đầy”. Sóc là một từ Việt cổ dùng chỉ cụm dân cư nhỏ ở rải rác (vẫn còn dùng trong tiếng Khơ Me). Sóc=Hóc=Ngóc=Chóc=Chòm=Xóm=Thom=Thôn 村=(= “xun 村” như Hán ngữ gọi lơ lớ từ Xóm). Ở thành cụm dân cư hẻo lánh thì gọi là ở Chóc Ngóc, hay ở Hóc Bò Tó. Dân ở “Thành Xóm”=Thom, dấu 1+1=0 đúng thuật nhị phân . Ở thành Xóm Thom tức rất rải rác nên Sóc=Sưa=Sót=Lọt=Lạc落. Chữ Thôn Lạc 村 落 của người Việt là chữ mà Hán ngữ mượn dùng, phát âm lơ lớ là “xun lua 村 落” để chỉ Xóm Sóc. Lớn hơn đơn vị Xóm Sóc thì người Việt gọi là Làng. Làng=Hạng 巷 (con hẻm)=Hương 郷. Đơn vị dân cư cấp cơ sở mà Hán ngữ dùng đều là của Tiếng Việt. Dân thì thường gọi từ cấp nhỏ lên cấp to hơn là: Xóm, Làng, Xã, Tổng. Quan thì hay gọi từ cấp trên xuống theo lộ trình đi kinh lý của quan là : Làng Xóm, nho viết bằng chữ Hương Thôn 鄉 村. Muốn gọi lại với mình, tức Muốn Ơi, mà lướt thì “Muốn Ơi”=Mời, dấu 1+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Muốn có của cải tức Muốn Của thì lướt “Muốn Của” = Mua, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, (Muốn Của=Mua , đẳng thức này nói lên rằng từ trong tư duy, người Việt rất sòng phẳng); và lướt cả câu “Muốn có của Cải”=”Muốn… Cải” = Mãi買. Từ Mãi買này Hán ngữ dùng với nghĩa là mua, phát âm là “mải 買”, nhưng nó là một từ gốc Việt. Mua nhiều thì dùng từ lặp là Mua Mua, lướt thì “Mua Mua” = Múa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Hoạt động mua nhiều của thương nhân là lướt cả câu “Múa đi bán Lái”= ”Múa…Lái” = Mại 賣, dấu 1+1=0 đúng thuật toán nhị phân, Lái đây là Lái Buôn, là Thương Lái. Thương Lái là gọi tắt cụm từ “Thương hồ lái buôn”, người Việt cổ đại là đi buôn bằng phương tiện thuyền bè, “thương hồ” chỉ xuồng đi sông biển (Xuồng=Thuồng=Thương=Thuyền, nó giống như con Thuồng Luồng đi trên nước), phải lái xuồng đi nên gọi là “lái buôn”. Thương Mại là từ Việt, có nghĩa là cái hoạt động “Thương hồ mua nhiều (múa) rồi đi bán cho lái buôn khác”. (Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 253, từ Mãi 買là mua, từ Mại 賣 là bán, là “từ Hán-Việt”). Hán ngữ mượn từ Mãi Mại 買 賣 để nói ý Mua Bán, làm sao đủ ý như từ Mại 賣 vốn là của Tiếng Việt được. Lùi về “cổ Hán ngữ” thì mới còn từ Bán của Tiếng Việt, viết bằng chữ nho Phán 販 ; Hán hóa ngữ pháp thì có từ ghép Tiểu Phán chỉ người bán nhỏ小販; còn Buôn thì vì Hánngữ không có vần “uôn” nênphải ghép hai chữ là chữ Bán 販 và chữ Mại 賣 để chỉ ý Buôn, đó là chữ “Pán Mại 販 賣”. Trong kinh doanh,Tiếng Việt đã chỉ rõ: Thằng Một là thằng Mua (Một=Mua) tức người tiêu dùng là ưu tiên số Một, là thượng đế. Thằng Lái buôn là thằng hai (Hai=Lái); thằng ba là thằng tư Bổn (Ba=Bổn). Tức là muốn kinh doanh thì thứ Một là nắm nhu cầu người tiêu dùng, thứ Hai là hình dung mạng lưới phân phối bằng đuờng sông hay đường bộ, thứ Ba mới là dồn vốn để sản xuất cái gì. Đến chữ Thỉnh 請 nghĩa là mời mà Hán ngữ còn phải mượn của tiếng Việt (phát âm lơ lớ là “xỉng”), trong khi người Kinh (dòng Lạc Long) và người Thái (dòng Âu Cơ) đã chia sẻ nhau từ Mời hàng vạn năm trước, như tiếng đầu lưỡi của dân ăn trầu (“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, nôi khái niệm cho cái hồn của câu này là: Tiếng=Miệng=Miếng=Mời, người Việt khi ăn cơm đều nói “Mời” hoặc “Xin Mời” với người cùng mâm). Mua nhiều tức lặp Mua Mua khi lướt còn có một đáp số nữa là lướt “Mua Mua”=Mùa, dấu 0+0=1 đúng thuật toán nhị phân. Cái đẳng thức lướt này cho thấy rõ ràng người Việt có thái độ sòng phẳng cả với đất và nước chứ không phải thái độ cướp bóc, có đổ mồ hôi và phân bón cho cây và đất mới có thu hoạch kết quả của cây trồng đại trà là Mùa, đó là Mùa lúa, Mùa bưởi, Mùa cam v.v. Sự thu hoạch (củ và quả) của nông nghiệp trồng trọt là Mùa=Vua=Vụ=Củ=Quả=Của=Của-Cải=Quýb貴, chữ Qúy đây là quí báu, Mùa là một sự quí báu, con người phải biết quí của cải do mình đổ công sức làm ra. Nhưng Mùa Vụ cũng chiếm thời gian, thường là ba tháng cho một vụ hoa màu nên Mùa=Của=Qúi 季 , chữ Qúi này là một quí thời gian bằng ba tháng, nhưng nó cũng mang nghĩa là phải quí thời gian đã cho một Mùa thu hoạch. Hán ngữ mượn cả hai chữ này nhưng lại không hiểu ý tứ Việt trong liên hệ của hai chữ Qúi 貴 và Qúi 季, nên chữ Qúy 貴, (quí báu của cải do một Mùa làm ra) thì phát âm là “quây貴”, còn chữ Qúi 季( quí báu cái thời gian ba tháng dành cho một Mùa hoa màu) thì phát âm là “Chì 季”, khái niệm “Mùa của hoa màu” và khái niệm ba tháng thời gian” đều chỉ dùng có một chữ “Chì 季” là quí ba tháng, ví dụ mùa lê thì gọi là “lê quí” . Các nhà Quốc ngữ của VN rất hiểu hai chữ nho Qúy báu và Qúi thời gian của Việt nho nên đã qui định viết Qúy báu bằng y dài, còn Qúi thời gian bằng i ngắn, vì muốn có của cải thì phải làm lâu nên dùng y dài, còn thời gian thì luôn là ngắn nên dùng I ngắn. Sau, gần đây “cải cách chữ viết” qui định dùng i ngắn tất cho nó tiện dụng chứ không cần Trọng Nghĩa như người xưa, cho nên chữ Lý Luận có thể viết là ní nuận, không cần cái thâm ý là muốn có Lý phải tìm rất lâu mới có được, nên phải dùng y dài. Mùa=Vua=Vụ nên còn có từ đôi Mùa Vụ, gọi là Mùa thu hoạch hay gọi là Vụ thu hoạch đều được. (Diễn biến âm này cũng giống như Mần=Vận=Vụ 務 là làm nhiệm vụ, người Nhật đọc chữ Vụ 務 này là “Màn”). Từ cái nôi Mùa=Của=Qúi 季 thấy rõ rằng hoạt động nông nghiệp trồng trọt của người Việt cổ đại đã đẻ ra lịch thời gian, mùa thu hoạch đã cho ra từ Qúi 季 để chỉ 3 tháng một, một năm chia thành 4 quí. Hán ngữ mượn chữ Qúi 季 này để chỉ 4 quí trong năm, cũng dùng luôn chữ Qúi 季 này để chỉ Mùa của cây trồng, ví dụ mùa thu hoạch lê thì Hán ngữ gọi là “lê 梨 quí 季”, chứng tỏ cái nông nghiệp trồng trọt của họ có sau của người Việt mấy ngàn năm. Quả Bí Đỏ còn gọi là Bí Ngô. Nước Ngô xưa ám chỉ là Nước Đỏ của dân Kẻ Lửa=Quẻ Ly là người phương Nam, theo Dịch học. Người Hán gọi quả bí đỏ là “nam 南 qua 瓜” tức loại dưa của người Nam. Cổ đại , tộc Việt là dân Lửa, ở nhà sàn. Kẻ Lửa=Quẻ Ly. Nhìn quẻ Ly cũng giống hình tượng trưng cái nhà sàn: dưới là một kẻ kín như cái nền nhà, trên là một kẻ kín như cái mái nhà, giữa là kẻ hở tượng trưng sàn nhà (vì ghép bằng nứa hay gỗ nên không thể kín đến độ nước không rò được. Đồng bào Tày gọi kiểu nhà sàn có bếp lửa đặt giữa sàn là “nhà quẻ Ly”. Ly=Lý=Lê=Lò=Lô=Lữ=Lâm v.v. vốn là dân Kẻ Lửa của phương Nam. Tộc phả của TQ ghi họ Lê có gốc thủy tổ là ở ấp Kinh Triệu (Thiểm Tây, đất gốc của nhà Tần). Nhưng người họ Lê ở TQ tập trung đông nhất lại là ở vùng Lĩnh Nam. Nhiều bạn mạng TQ cãi lại rằng: Họ Lê là đặc trưng nhất cho người phương Nam từ vóc dáng, da dẻ đến khuôn mặt, là đặc trưng của dân lúa nước nên không thể thủy tổ ở Thiểm Tây được, có thể cổ đại có ông họ Lê nào đó làm quan to cho nhà Tần ở Thiểm Tây (cũng giống như Lý Ông Trọng là người Việt làm tướng cho nhà Tần). Gia phả các họ thường qui về một danh nhân nào đó tôn làm thủy tổ cho có danh giá, nên gia phả cũng không đáng tin, vì không tìm rõ đến tận cội nguồn. Phả của tộc Trung Hoa lại viết thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là ông Hoàng Đế, ông Hoàng Đế đẻ ra ông Đế Thần Nông, ông Đế Thần Nông đẻ ra ông Thiếu Hạo… cứ thế liên tục một mạch sinh ra bách tính của dân tộc Trung Hoa liên tục 5000 năm. Đọc nghe thấy quá “pha học”. Nếu tôi dịch bài trên mạng internet tổng hợp các bài văn tế Hoàng Đế tại lăng Hoàng Đế ở Thiểm Tây của các lãnh tụ và lương dân TQ từ cổ chí kim thì sẽ được một cuốn sách hay, những bài thơ, phú tuyệt đẹp về văn học. Nhưng “ông” Hoàng Đế là “ông” Đế Hoàng=”ông” Đế Vàng=”ông” Nước Vàng của người Việt, mà màu Vàng là ở Trong Cung=trung quốc = “Trong của Nước”, theo dịch học, đó là đất Giữa, là Chỗ Giữa=Chỗ Giao, mà Hán ngữ viết ngược là Giao Chỉ. Tóm lại để cho tiện thì ngắn gọn gọi ngữ pháp Hán là Ngược, ngữ pháp Việt là Xuôi. Quan Bắc Thoại đã dùng cái Ngược áp đặt vào Tiếng Việt , nên “hầu hết” mới gọi là “từ Hán Việt” . Nhưng Xuôi=Chuôi=Chắc, vì vậy dựa vào Tiếng Việt mà tìm được từ nguyên của ngôn từ Hán là trong “cổ Hán ngữ”, mà từ nguyên của “cổ Hán ngữ “ lại là trong Tiếng Việt. Ví dụ Trăng là chỉ hành tinh, Nguyệt là chỉ cái sáng của hành tinh đó, vì ánh sáng thì như nhau: Trăng=Trời=Ngời=Nguyệt. Hán ngữ mượn chữ nguyệt để chỉ trăng, viết ngược Trăng Sáng là Minh Nguyệt, còn khẩu ngữ dân gian gốc Việt trên đất TQ vẫn nói theo xuôi là Nguyệt Lượng = Nguyệt Láng = Nguyệt Sáng. Trăng là còn mãi mãi như “Hồn người gởi ở cung Trăng= “Hồn…Trăng”= Hằng, nên người Việt gọi Trăng là chị Hằng. Chị Hằng đẹp như “Người con gái nết Na”= “Người… Na”= Nga, nên còn gọi Trăng là chị Hằng Nga. Người Hán bắt chước gọi là Nguyệt Nga, và chỉ hiểu Nga là “người con gái đẹp”, như chữ nho của “cổ Hán ngữ” viết. Muốn biết tại sao Tiếng Việt lại là cái Xuôi=Chuôi=Chắc thì hãy nắm các QT Tạo từ Việt, để thấy Lời của Việt phong phú như thế nào: Lời = Lái = Láy = Lặp = Lưỡng (từ đôi)= Lóng = Lắp (từ ghép)= Lộn (từ đối)= =Lồng (từ ghép xen đảo ngược), đều chỉ là từ cái Lưỡi mà ra, nhiều dân tộc trên thế giới đều gọi ngôn ngữ là “Lưỡi”, kể cả Hán ngữ dùng Thuyết ( nói) là do cái Thiệt (lưỡi). Share this post Link to post Share on other sites