Posted 3 Tháng 12, 2012 Nhiều Từ Nhiều trong Nôi khái niệm nó theo QT Nở mà nở ra lúc đầu là từ dính Nhen-Nhúm (Nhúm rõ là ít và Nhen thì nhiều hơn, rồi từ dính Nhen-Nhúm đó lớn tiếp thành từ dính Nhen-Nhóm, lúc này Nhen lại là ít hơn so với Nhóm), Nhen-Nhóm không phải chỉ là nói về lửa để đến lúc lửa sẽ bùng lên thành nhiều, khi ấy mới có Nhiều = Nhiệt (mà về sau sẽ thấy Hán ngữ có từ Nhiên Liệu để chỉ chất đốt nói chung, bằng nhiều thứ vật liệu hằm bà lằng); mà cả nói về tập hợp lực lượng (ví dụ cùng nghiên cứu một vấn đề, thì cũng sẽ đến lúc Nhen lại nhiều hơn lên thành Nhen = Chen = Chúng). Cuối cùng thì từ trong cái Nôi khái niệm, Nhiều cũng nở ra được hẳn thành hai từ độc lập đồng nghĩa là Nhiêu và Nhiên, ghép thành từ đôi để nhấn mạnh ý nhiều là từ đôi Nhiêu Nhiên, chữ nho viết Nhiêu Nhiên 饒 然 cũng còn đọc là Nhiều Nhặn. Nhưng từ Nhiều không phải là từ đầu tiên. Tế bào gốc của nó cũng là do trong tiếng Việt mà ra, đó là cái Ô giữa của NÔI khái niệm lớn. Cái NÔI khái niệm trong QT Nở thì lúc đầu nó chỉ là một cái Tí = Tế (tế bào), đó là cái Ô tròn vô cùng nhỏ bé. (nằm giữa chữ NÔI). Cái Ô đó theo QT Nở sẽ sinh sản tách đôi thành hai cái nôi khái niệm là Nôi khái niệm “Ít” và Nôi khái niệm “Nhiều” , tạo thành cặp đối Ít/Nhiều như ta đang dùng ngày nay. Nhưng nguyên thủy của nó phải là cặp đối Ỏi/Ối, là do nở trực tiếp từ cái nhỏ bé là cái Ô (cả ba chúng nó Ô, Ỏi, Ối đều giống nhau và đều cùng có chung cái Tơi tên là “vắng tơi” ) Rồi theo QT Tơi-Rỡi (tức thay Tơi hoặc thay Rỡi thì đều tạo ra được từ mới đồng nghĩa) sẽ có được hai nôi khái niệm là Nôi khái niệm Ít (do từ Ỏi sinh ra) và Nôi khái niệm Nhiều (do từ Ối sinh ra) mà hai từ ấy là ở cặp đối nguyên thủy Ỏi/Ối : 1/ Ỏi = Út = Chút = Chốc = Lốc = Lát = Lúc = Túc 宿 = Tấc = Tá = Tạm 暫 = Tí = Ị = Ít = Ỏi = Thỏi = =Thí = Xí = Xị = =Xíu = Thíu = Thiểu 少. Các từ đôi: Ít Ỏi, Tí Chút, Chút Ít, Út Ít, Chốc Lát, Tá Túc. Các từ ghép: Có Ít, Có Tí, Có Chút, Một Chốc, Một Lát, Một Lúc, Một Tấc, Một Tá, Thỏi Son ( rất nhỏ bé ít ỏi), Gió Lốc (chỉ thoáng qua một ít thời gian). Chữ Ký Túc Xá mà Hán ngữ dùng là chỉ cái nhà ở tạm một ít thời gian, cái sự ở tạm ấy tiếng Việt gọi bằng từ đôi Tá Túc, cũng như Hán ngữ dùng chữ Tưởng Nhất Túc 想 一 宿 nghĩa là Nghĩ Một Lúc. Vậy mấy chữ nho Túc 宿, Tạm 暫, Thiểu 少 hẳng phải là từ cái nôi ngôn ngữ Việt mà ra thì là gì ? 2/ Ối = Khối = Khẳm = Lắm = Dăm = Dư 餘 = Dào = Ráo = Nhào = Nhặn = Nhiên 然 = Nhiều = Nhiêu 饒 = Nhồi = Dôi = Diều = =Dồi = Đỗi = Đa 多 (cái Diều của loài chim cũng giống khúc Dồi là cái chứa nhiều thức ăn vụn trong đó). Các từ ghép: Có Ối, Có Khối, Có Lắm, Có Nhiều, Có Dư, Hết Ráo, Khô Ráo. Các từ đôi: Nhiều Nhặn, Nhiêu Nhiên, Dư Dôi, Dồi Dào, Ối Dào, Khẳm Lắm. Từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 viết bằng chữ nho (Hán ngữ mà đọc thì phát âm là “Ráo Rán”) để nói cái ý là Nhiều Nhặn , thì từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 này chỉ còn gặp trong văn viết của “cổ Hán ngữ” ( “cổ Hán ngữ” là theo cách gọi của các học giả TQ chỉ cái âm Việt Nam đọc chữ nho, và họ cho rằng đó là thứ ngôn ngữ thời Đường ở TQ ). Chữ Nhiên 然 nghĩa là “nhiều” lưu lại trong Hán ngữ hiện đại chỉ còn là ở trong các từ ghép như Thiên Nhiên, Tự Nhiên, nhưng những từ ghép ấy lại là ghép theo cú pháp Việt, Thiên Nhiên 天 然 là “trời sinh ra nhiều”, Tự Nhiên 自 然 là “tạo hóa sinh ra nhiều”. Khi “Nhiều” đứng ở vị trí sau trong một từ ghép, nó có tác dụng khẳng định ý của từ đứng trước nó, từ Nhiều này nho viết bằng chữ Nhiên 然 để đọc từ Nhặn (Nhiều = Nhiêu = Nhiên = Nhặn = Nhăn = Răn = Dăn = Dăm = =Lắm = Lăm = Prăm của số 5 là số nhiều nhất trong một vòng đếm của hệ đếm ngũ phân trong tiếng Khơ Me. Cái Nhăn = =Răn = Dăn là nói ý “nhiều vết cong queo” chứ chỉ đơn độc một vết thì lấy vết nào nữa so sánh với nó để mà biết là cái mặt có “nhăn” hay là không?) . Cái sự khẳng định bằng từ Nhiều (=Lắm) ở vị trí sau của từ ghép là khẳng định ý của từ ở vị trí đầu của từ ghép đó, đã tạo ra hàng loạt từ ghép sau đây (mà từ điển “Yếu tố Hán Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 coi là “từ Hán Việt”): Bỗng Nhiên, Công Nhiên, Cố Nhiên, Dĩ Nhiên, Điềm Nhiên, Đương Nhiên, Hạo Nhiên, Hồn Nhiên, Hiển Nhiên, Mặc Nhiên, Ngạc Nhiên, Ngẫu Nhiên, Nghiễm Nhiên, Quả Nhiên, Siêu Nhiên, Thản Nhiên, Thốt Nhiên, Tuyệt Nhiên (trang 288 Từ điển); mà các từ ghép ấy đều là ghép theo cú pháp Việt: ví dụ Tuyệt Nhiên 絕 然 = =Tuyệt Nhiều = Tuyệt Nhặn = Tuyệt Lắm; Hạo Nhiên 浩 然 = Hồng Nhiên 洪 然 = Hồng Nhiều = Rộng Nhiều = Rộng Nhặn = Rộng Lắm (Nếu ghép theo cú pháp Hán thì Tuyệt Nhiên phải ghép là Đa Tuyệt 多 絕, Hạo Nhiên phải ghép là Đa Hạo 多 浩 hay Đại Hạo 大 浩, cũng giống như Tiếng Việt nói Cảm Ơn Nhiều, Ơn Lắm thì Hán ngữ phải nói theo cú pháp ngược lại là Đa Tạ 多 謝). Chữ nho Nhiêu 饒(Hán ngữ phát âm là “Ráo”) thì Hán ngữ cũng chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa về sau của nó là “giàu có” (theo Từ điển đã dẫn, trang 289). Thực ra từ nguyên của nó là một từ gốc Việt là từ Nhiều. Chữ nho Nhiên 然 (mà Hán ngữ phát âm là “Rán” để đọc từ Nhặn, cũng nghĩa là “nhiều”) nếu trong Hán ngữ hiện đại chỉ đứng riêng một chữ Nhiên 然 thì Hán ngữ không còn hiểu ý “Nhiều” trong cái gốc Việt của nó nữa, mà chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa của nó khi nằm trong từ ghép mà thôi, biến nghĩa đó là “như vậy”(theo Từ điển đã dẫn, trang 288). Ví dụ từ ghép Hiển Nhiên 顯 然, là một từ Việt, ghép theo cú pháp Việt, nghĩa là “hiện tỏ nhiều” (Hiện Tỏ = Hiển = Hiện Rõ), Hiển Nhiên 顯 然 là Hiển Nhiều tức khẳng định cho ý “Hiển”. Hán ngữ hiểu từ ghép Hiển Nhiên 顯 然 là “Hiển như vậy” (cũng là khẳng định ý “Hiển”). Vấn đề là sự thực Hán ngữ đã sử dụng vô vàn từ gốc Việt (còn giữ nguyên cả cú pháp Việt trong từ ghép), nhưng tại sao người ta lại gọi những từ đó là “từ Hán - Việt”? Có nghĩa là người ta đã tự ý gạt đi cho người rất Nhiều thứ của Việt ra khỏi Việt để chỉ còn giữ lại di sản rất Ít cho ta. 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 12, 2012 Quá tuyệt, chú Lãn Miên. Cảm ơn chú nhiều nhiều. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 12, 2012 Nhiều Từ Nhiều trong Nôi khái niệm nó theo QT Nở mà nở ra lúc đầu là từ dính Nhen-Nhúm (Nhúm rõ là ít và Nhen thì nhiều hơn, rồi từ dính Nhen-Nhúm đó lớn tiếp thành từ dính Nhen-Nhóm, lúc này Nhen lại là ít hơn so với Nhóm), Nhen-Nhóm không phải chỉ là nói về lửa để đến lúc lửa sẽ bùng lên thành nhiều, khi ấy mới có Nhiều = Nhiệt (mà về sau sẽ thấy Hán ngữ có từ Nhiên Liệu để chỉ chất đốt nói chung, bằng nhiều thứ vật liệu hằm bà lằng); mà cả nói về tập hợp lực lượng (ví dụ cùng nghiên cứu một vấn đề, thì cũng sẽ đến lúc Nhen lại nhiều hơn lên thành Nhen = Chen = Chúng). Cuối cùng thì từ trong cái Nôi khái niệm, Nhiều cũng nở ra được hẳn thành hai từ độc lập đồng nghĩa là Nhiêu và Nhiên, ghép thành từ đôi để nhấn mạnh ý nhiều là từ đôi Nhiêu Nhiên, chữ nho viết Nhiêu Nhiên 饒 然 cũng còn đọc là Nhiều Nhặn. Nhưng từ Nhiều không phải là từ đầu tiên. Tế bào gốc của nó cũng là do trong tiếng Việt mà ra, đó là cái Ô giữa của NÔI khái niệm lớn. Cái NÔI khái niệm trong QT Nở thì lúc đầu nó chỉ là một cái Tí = Tế (tế bào), đó là cái Ô tròn vô cùng nhỏ bé. (nằm giữa chữ NÔI). Cái Ô đó theo QT Nở sẽ sinh sản tách đôi thành hai cái nôi khái niệm là Nôi khái niệm “Ít” và Nôi khái niệm “Nhiều” , tạo thành cặp đối Ít/Nhiều như ta đang dùng ngày nay. Nhưng nguyên thủy của nó phải là cặp đối Ỏi/Ối, là do nở trực tiếp từ cái nhỏ bé là cái Ô (cả ba chúng nó Ô, Ỏi, Ối đều giống nhau và đều cùng có chung cái Tơi tên là “vắng tơi” ) Rồi theo QT Tơi-Rỡi (tức thay Tơi hoặc thay Rỡi thì đều tạo ra được từ mới đồng nghĩa) sẽ có được hai nôi khái niệm là Nôi khái niệm Ít (do từ Ỏi sinh ra) và Nôi khái niệm Nhiều (do từ Ối sinh ra) mà hai từ ấy là ở cặp đối nguyên thủy Ỏi/Ối : 1/ Ỏi = Út = Chút = Chốc = Lốc = Lát = Lúc = Túc 宿 = Tấc = Tá = Tạm 暫 = Tí = Ị = Ít = Ỏi = Thỏi = =Thí = Xí = Xị = =Xíu = Thíu = Thiểu 少. Các từ đôi: Ít Ỏi, Tí Chút, Chút Ít, Út Ít, Chốc Lát, Tá Túc. Các từ ghép: Có Ít, Có Tí, Có Chút, Một Chốc, Một Lát, Một Lúc, Một Tấc, Một Tá, Thỏi Son ( rất nhỏ bé ít ỏi), Gió Lốc (chỉ thoáng qua một ít thời gian). Chữ Ký Túc Xá mà Hán ngữ dùng là chỉ cái nhà ở tạm một ít thời gian, cái sự ở tạm ấy tiếng Việt gọi bằng từ đôi Tá Túc, cũng như Hán ngữ dùng chữ Tưởng Nhất Túc 想 一 宿 nghĩa là Nghĩ Một Lúc. Vậy mấy chữ nho Túc 宿, Tạm 暫, Thiểu 少 hẳng phải là từ cái nôi ngôn ngữ Việt mà ra thì là gì ? 2/ Ối = Khối = Khẳm = Lắm = Dăm = Dư 餘 = Dào = Ráo = Nhào = Nhặn = Nhiên 然 = Nhiều = Nhiêu 饒 = Nhồi = Dôi = Diều = =Dồi = Đỗi = Đa 多 (cái Diều của loài chim cũng giống khúc Dồi là cái chứa nhiều thức ăn vụn trong đó). Các từ ghép: Có Ối, Có Khối, Có Lắm, Có Nhiều, Có Dư, Hết Ráo, Khô Ráo. Các từ đôi: Nhiều Nhặn, Nhiêu Nhiên, Dư Dôi, Dồi Dào, Ối Dào, Khẳm Lắm. Từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 viết bằng chữ nho (Hán ngữ mà đọc thì phát âm là “Ráo Rán”) để nói cái ý là Nhiều Nhặn , thì từ đôi Nhiêu Nhiên 饒 然 này chỉ còn gặp trong văn viết của “cổ Hán ngữ” ( “cổ Hán ngữ” là theo cách gọi của các học giả TQ chỉ cái âm Việt Nam đọc chữ nho, và họ cho rằng đó là thứ ngôn ngữ thời Đường ở TQ ). Chữ Nhiên 然 nghĩa là “nhiều” lưu lại trong Hán ngữ hiện đại chỉ còn là ở trong các từ ghép như Thiên Nhiên, Tự Nhiên, nhưng những từ ghép ấy lại là ghép theo cú pháp Việt, Thiên Nhiên 天 然 là “trời sinh ra nhiều”, Tự Nhiên 自 然 là “tạo hóa sinh ra nhiều”. Khi “Nhiều” đứng ở vị trí sau trong một từ ghép, nó có tác dụng khẳng định ý của từ đứng trước nó, từ Nhiều này nho viết bằng chữ Nhiên 然 để đọc từ Nhặn (Nhiều = Nhiêu = Nhiên = Nhặn = Nhăn = Răn = Dăn = Dăm = =Lắm = Lăm = Prăm của số 5 là số nhiều nhất trong một vòng đếm của hệ đếm ngũ phân trong tiếng Khơ Me. Cái Nhăn = =Răn = Dăn là nói ý “nhiều vết cong queo” chứ chỉ đơn độc một vết thì lấy vết nào nữa so sánh với nó để mà biết là cái mặt có “nhăn” hay là không?) . Cái sự khẳng định bằng từ Nhiều (=Lắm) ở vị trí sau của từ ghép là khẳng định ý của từ ở vị trí đầu của từ ghép đó, đã tạo ra hàng loạt từ ghép sau đây (mà từ điển “Yếu tố Hán Việt thông dụng NXB KHXH HN 1991 coi là “từ Hán Việt”): Bỗng Nhiên, Công Nhiên, Cố Nhiên, Dĩ Nhiên, Điềm Nhiên, Đương Nhiên, Hạo Nhiên, Hồn Nhiên, Hiển Nhiên, Mặc Nhiên, Ngạc Nhiên, Ngẫu Nhiên, Nghiễm Nhiên, Quả Nhiên, Siêu Nhiên, Thản Nhiên, Thốt Nhiên, Tuyệt Nhiên (trang 288 Từ điển); mà các từ ghép ấy đều là ghép theo cú pháp Việt: ví dụ Tuyệt Nhiên 絕 然 = =Tuyệt Nhiều = Tuyệt Nhặn = Tuyệt Lắm; Hạo Nhiên 浩 然 = Hồng Nhiên 洪 然 = Hồng Nhiều = Rộng Nhiều = Rộng Nhặn = Rộng Lắm (Nếu ghép theo cú pháp Hán thì Tuyệt Nhiên phải ghép là Đa Tuyệt 多 絕, Hạo Nhiên phải ghép là Đa Hạo 多 浩 hay Đại Hạo 大 浩, cũng giống như Tiếng Việt nói Cảm Ơn Nhiều, Ơn Lắm thì Hán ngữ phải nói theo cú pháp ngược lại là Đa Tạ 多 謝). Chữ nho Nhiêu 饒(Hán ngữ phát âm là “Ráo”) thì Hán ngữ cũng chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa về sau của nó là “giàu có” (theo Từ điển đã dẫn, trang 289). Thực ra từ nguyên của nó là một từ gốc Việt là từ Nhiều. Chữ nho Nhiên 然 (mà Hán ngữ phát âm là “Rán” để đọc từ Nhặn, cũng nghĩa là “nhiều”) nếu trong Hán ngữ hiện đại chỉ đứng riêng một chữ Nhiên 然 thì Hán ngữ không còn hiểu ý “Nhiều” trong cái gốc Việt của nó nữa, mà chỉ hiểu theo diễn biến nghĩa của nó khi nằm trong từ ghép mà thôi, biến nghĩa đó là “như vậy”(theo Từ điển đã dẫn, trang 288). Ví dụ từ ghép Hiển Nhiên 顯 然, là một từ Việt, ghép theo cú pháp Việt, nghĩa là “hiện tỏ nhiều” (Hiện Tỏ = Hiển = Hiện Rõ), Hiển Nhiên 顯 然 là Hiển Nhiều tức khẳng định cho ý “Hiển”. Hán ngữ hiểu từ ghép Hiển Nhiên 顯 然 là “Hiển như vậy” (cũng là khẳng định ý “Hiển”). Vấn đề là sự thực Hán ngữ đã sử dụng vô vàn từ gốc Việt (còn giữ nguyên cả cú pháp Việt trong từ ghép), nhưng tại sao người ta lại gọi những từ đó là “từ Hán - Việt”? Có nghĩa là người ta đã tự ý gạt đi cho người rất Nhiều thứ của Việt ra khỏi Việt để chỉ còn giữ lại di sản rất Ít cho ta. Dạo kỷ niệm nghìn năm Thăng Long thấy truyền thông đưa câu “Hà Nội-Thăng Long-thành phố Rồng Bay”, có cả biểu ngữ. viết như vậy. Có lẽ người ta hiểu từ Thăng Long theo kiểu dịch Hán tự chữ Thăng Long, nhưng lại dịch sai chữ Thăng là Bay, vì Rồng Bay nói theo Hán ngữ thì là Phi Long 飛 龍 chứ không phải là Thăng Long, Thăng Long 升 龍 hiểu theo Hán ngữ là Rồng Lên. Nhưng mình người Việt thì cứ theo Việt mà hiểu, Thăng Long 升 龍 nghĩa là Lên Rồng, nghĩa bóng là hóa rồng tức lên phát đạt giàu mạnh và văn minh. Đó chính là ước mơ của Lý Công Uẩn khi ông thấy trong giấc mơ là từ thành Đại La có con rồng đang lên. ( Trời=Trên=Lên=Then=Thiên=Thăng=Thượng) . Cũng do hiểu theo kiểu dịch chữ từ ngữ pháp đã bị Hán hóa nên người ta lại giải thích vịnh Hạ Long下 龍 là vịnh “Rồng Xuống” (nếu nói ý Rồng Xuống thì Hán ngữ gọi là Giáng Long). Thực ra theo cách hiểu xưa của người Việt thì Hạ Long nghĩa là “Đẻ nhiều Rồng” vì từ Hạ nghĩa là Đẻ. Khi người Việt nói Đẻ con hay Sinh con là nói cái việc đẻ một lứa con (lứa là do lướt “Lần Đứa”=Lứa, nghĩa là lần thì một lần ấy nhưng có thể ra một đứa hay hai đứa hoặc nhiều đứa cùng lúc), nhưng hỏi “sinh hạ” được mấy con tức là hỏi về “nhiều” nên đã dùng từ đôi Sinh Hạ, mà nguyên nghĩa của từ đôi thì hai từ đồng nghĩa đó ghép với nhau để nhấn mạnh “nhiều” cho cái ý của chúng, từ đứng sau bao giờ cũng mang ý “nhiều” lại cho nhấn mạnh ý của từ đứng trước. Cho nên Hạ có nghĩa là “đẻ nhiều”. Nhưng Hạ=Rạ=Rớt, nên đứa con đầu gọi là con So, còn những đứa con sau đều gọi là con Rạ (Rạ mang ý là đẻ nhiều nữa sau khi máy đã thành công đẻ được đứa con đầu, tự nhiên thì đẻ hết trứng mới thôi hoặc đẻ đến khi máy không đẻ được nữa thì thôi, đó chính là Rạ=Hạ nghĩa là đẻ nhiều, nhiều đây là nhiều lần đẻ, mà dùng cho gà vịt thì người ta hay dùng từ “Rớt trứng” hoặc “Rớt hột”. Ước mơ Lên Rồng cho đất nước của vua Lý cách nay nghìn năm cũng giống như ước mơ lên rồng của chúng ta ngày nay cho bằng vai với “bốn con Rồng mới nổi ở châu Á” là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapo, mà để Lên được Rồng thì nguyên nhân chính lại không phải là tài nguyên tự nhiên mà là con người. Người Việt từ trong ngôn từ đã hiểu điều đó cách nay vạn năm, đó là từ Con Đỏ = Con So là con đầu tiên, tức yếu tố con người là cái cần qúi trọng đầu tiên để có thể làm nên tất cả. Trong lịch sử, xã hội nào “Vùi Con Đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) thì không Lên Rồng được. (Từ “Con Đỏ” là từ cổ xưa, nay ta dùng là từ “Nhân Dân”, là từ đôi nhưng ghép theo kiểu Hán ngữ, nếu ghép theo kiểu Việt thì là Dân Nhân, tương thuận như Con Đỏ, vì Nhân còn mang ý là “đầu tiên” như Đỏ: Đỏ=So=Nhỏ=Nhân là cái Nhân của hạt cây, nó bé tí nhưng là nhân tố đầu tiên để mọc ra cái cây. Mà thành ngữ xưa nói “Trồng người như trồng cây” và “Dụng nhân như dụng mộc”) Tại sao Đỏ=So=Sơ=Thơ lại mang nghĩa là đầu tiên? Vì mỗi đầu tiên của một ngày , người Việt thấy mặt trời từ từ lên (khi đó nhìn nó hoàn toàn màu đỏ), đó là quá trình Blơi = Ló = Đỏ = Tỏ = Rõ = Rực = Nực = Nhức = Nhật = Nhoáng = Choang = Chang-Chang = Sáng = Náng = Nắng = Nướng = Dương ( vùng Bắc Trung Bộ phát âm từ Nướng là “Náng”), đó là ánh dương sáng choang. [ Ngắn gọn thì so sánh hai nôi khái niệm đối nhau: Nước=Nậm=Âm // Dương=Nướng=Nắng là do cặp đối Nước/Nắng như là Đất/Trời để thấy rằng thuyết Âm/Dương là bản quyền của người Việt; và các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Kinh (dùng từ Nước) với các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái (dùng từ Nậm) là con cùng một mẹ Âu Cơ, vốn là cùng chung một Nước Văn Lang xưa “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn” như sử thư ghi]. Quá trình để có được Ánh Dương Sáng Choang cũng giống như quá trình của Lên Rồng. Yếu tố con người là yếu tố quyết định cho Lên Rồng thì con người đó phải là con người hướng thiện như Đạo dạy (từ Đạo 道 là do lướt “Đầu Gạo” = Đạo là cái đầu nhân gạo của hạt cây để mọc lên mầm mà thành cây, nho viết chữ Đạo 道bằng ghép chữ Đi 辶với chữ Đầu 首, cũng nghĩa như lướt “Đi 辶 Đầu 首” = Đạo 道). Người Việt cổ đại quan niệm con người được sinh ra từ một giọt máu đầu tiên (“Một hòn máu Đỏ nên người”) và một cái Đỏ ấy có thể thành tốt có thể thành xấu tùy theo suy nghĩ, luôn nghĩ tốt tức luôn hướng thiện sẽ thành người tốt, nên người mẹ khi còn mang “hòn máu Đỏ” trong bầu đã luôn nghĩ con mình sẽ khỏe mạnh, thông minh, giỏi giang, để suy nghĩ ấy gieo vào tiềm thức đứa con từ khi còn là bào thai (đó là ý tứ của câu thành ngữ Việt “Dạy con từ thủa còn thơ”). Gieo gì gặt nấy, tức cho gì được nấy, cho thời gian thì được thời gian, cho tiền thì được tiền, cho cái trấn áp suy nghĩ sang người khác thì cũng được Vũ Trụ cho lại chính mình cái trấn ấp suy nghĩ tức là mình sẽ chẳng nghĩ ra được gì là sáng tạo tự do của mình cả, chỉ loay hoay múa gậy trong bị mà thôi (ngẫm câu “Không có gì quí hơn độc lập, tự do” của Bác Hồ, là khuyên mỗi con người phải độc lập tự do trong suy nghĩ của mình để luôn hướng thiện, gieo vào tâm thức mình cái tốt để thành năng lượng của thành công). Do mỗi cá thể đều có thể thành tốt hoặc xấu nên những cặp từ đối nguyên thủy cổ xưa đều là đồng âm, chỉ có chữ nho phải vẽ biểu ý khác nhau để phân biệt chúng mà thôi. Ví dụ một từ “Đỏ” nghĩa là “người”, hay là cái đầu tiên tạo nên tính nết con người, sẽ theo QT Nở mà cho ra cặp từ đối Đạo/Đạo (tương đương cặp Xấu/Tốt dùng về sau) trong đó xấu là Đạo 盜( của “đạo tặc”, chữ Đạo 盜 này nghĩa là ăn cắp; tham nhũng là chỉ ý ăn cắp của công, từ một xu đến trăm ngàn tỷ, như nhau); và tốt là Đạo 道 (của “đạo đức”, chữ Đạo 道 này nghĩa là đi đầu). Hoặc từ Lửa theo QT Nở mà sinh ra cặp từ đối Liệt/Liệt (tương đương cặp Yếu/Mạnh dùng về sau), trong đó yếu là Liệt 劣 (của “bại liệt”, “thân bại danh liệt”, chữ Liệt 劣 này nghĩa là yếu, viết biểu ý bằng ghép chữ Thiếu 少 và chữ Sức 力. Chữ Liệt 劣 này sinh ra từ dính Leo-Lét chỉ ngọn lửa yếu); và mạnh là Liệt (của “oanh liệt”, chữ Liệt 烈 này nghĩa là Mạnh, viết bằng ghép âm “liệt 列” mượn của từ dính La-Liệt nghĩa là nhiều, to (do từ Lớn theo QT Nở mà nở ra từ dính La-Liệt) với chữ Hỏa 灬 nghĩa là Lửa. Chữ Liệt 烈 mang biểu ý “lửa lớn” này sinh ra từ dính Lẫy-Lừng, chỉ ngọn lửa mạnh đang cháy lan rộng ra). Các từ ghép bằng chữ nho như Bại Liệt 敗 劣, Oanh Liệt 轟 烈 mà người ta gọi là “từ Hán Việt” , truy ra nguyên gốc đều là từ Việt cổ. Quay lại Thăng Long là ước mơ Lên Rồng, để lên được thành rồng thì yếu tố chính để tạo nên thành công là con người hướng thiện. Không có cái đó thì sẽ tụt hậu tức đang Rồng xuống Rắn, đang Rắn xuống Dẫn 蚓 (Hán ngữ dùng chỉ con giun), đang Dẫn 蚓 xuống Dĩn (loài ký sinh cắn hút máu động vật), đang Dĩn xuống Giun, đang Giun xuống Trùn, đang Trùn xuống Trùng 蟲 , đang Trùng xuống Sùng (đục khoét củ khoai lang), đang Sùng xuống Sâu (như chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói: “Vài con sâu rồi thành cả bầy sâu thì đến chết cái đất nước này”) Cổ xưa hàng vạn năm trước, người Việt là dân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, nên họ quan niệm một cái cây cũng như một con người, cũng có hồn, cũng có mọi nhu cầu, cũng cần được chăm sóc. Quá trình từ hạt nẩy thành cây là từ cái gạo của hạt nảy ra cái mầm đâm đất mà lên, từ mềm thành cứng, đó là quá trình sinh ra mầm và lên thành cây như sau: Gạo=Đạo=Đủ=Vũ=Võ=Nhỏ=Nhã=Nhú=Mu=Mầm=Mềm=Chêm=Chạc=Chắc=Châm=Đâm=Đứng=Chững=Cứng=Cứng-Cáp=Cường , đến Cường thì rõ ràng là đã trưởng thành Chững Chạc rồi. (Đó là nếu biết chọn giống lấy hạt Chắc. Nếu chọn nhầm phải hạt Lép thì sẽ có hậu quả xấu: Lép=Lỗi=Tội=Ôi=Yếu=Ỏi=Còi=Còi-Cọc. Cặp từ đôi đối Còi Cọc // Cứng Cáp). Những từ như Nho Nhã, Nhã Ngữ (Nhã Ngữ mà Khổng Tử từng nói là của nền văn minh hơn hẳn của phương nam để phương bắc học tập) đều ra từ cái nôi này, đặc trưng cho tính mềm mại của dân nông nghiệp trồng trọt, không phải la hét dữ dội khi dồn đuổi mục súc trên đồng cỏ chăn thả, nên giọng nói Việt được các học giả TQ nhận xét là chất giọng “nhu hòa” tức mềm mại như lời ca mượt mà, không có phụ âm nào phát ra bật mạnh.Từ Mu trong nôi này cũng mang nghĩa “đầu tiên” vì là sự đang phồng lên của cái mầm, nên có thuyết “Lục địa Mu”. Nôi này cũng cho thấy trẻ con cũng giống như cái mầm cây, nó đã tự biết luyện võ và vũ từ khi còn là bào thai. Nôi này cũng cho thấy tại sao người Nhật và người Hàn lại dùng từ Đạo thay vì dùng từ Võ, vì những từ đó là cùng nôi khái niệm “để cho sự lớn lên”. Tê Won Đô tiếng Nhật viết bằng ba Hán tự là Thủ Không Đạo 手 空 道 tức võ tay không, nhưng Tê Won nghĩa là Tay Vắng (tiếng Nhật đọc chữ Thủ 手 là “Tê” theo âm Nhật nghĩa là “Tay”), chữ Vắng là do đọc lướt từ đôi “Vô chăng” = Vắng (thanh điệu đúng qui tắc toán nhị phân là 0+0=1). Tay Vắng Đạo là Võ Tay Không. Dùng chữ Won = =Vắng = Vô Chăng , Vô Chăng là từ đôi, để nói ý phân bua rằng cả hai tay đều không cầm vũ khí gì. Ai Ki Đô thì người Nhật viết bằng ba Hán tự là Hợp Khí Đạo 合 氣 道. Còn Ka Ra Tê Đô thì Hán ngữ dịch là Nhu Đạo Thuật , nhưng Ka Ra = Nhã= =Nhu; Tê=Tay (tiếng Nhật); Đạo = Đô = Đọ = Võ = Vũ; đều từ gốc Việt hết, tiếng Việt có từ ghép Đô Vật, còn từ “Đọ” nghĩa là “so hơn”. Núi Đọ ở Thanh Hóa, giữa đồng bằng ven biển, cái tên gọi của nó đã cho nó cái nghĩa là so hơn tất cả về cái cao của nó, ở giữa đồng bằng bên bờ biển, nó To và Thò lên trời, lên đó tha hồ mà ngắm mặt trời mọc: Đọ=To=Thò=Thái=Chái=Cháy. Khảo cổ học đã chứng minh là nền văn minh lúa nước sớm nhất là từ văn hóa Hòa Bình vạn năm trước. Việt tộc đã men theo bờ biển lên phía bắc vào các cửa sông (hạ du) như Dương Tử, Hoàng Hà, ngược sông về phía tây ( đến trung du như “tây giáp Ba Thục”) khai thác các đồng bằng ven sông để trồng lúa, phía bắc ven biển đến tận Sơn Đông TQ ngày nay, tại Sơn Đông thì núi Đọ khác mới hơn đã được gọi là núi Thái (Thái Sơn), là ngọn núi cao ven biển để lên đó ngắm mặt trời đang mọc tức đang Cháy Đỏ. Chữ Việt 粤 theo Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi giải thích nó gồm chữ Thái 采 nghĩa là “nắng cháy” lồng trong chữ Vuông 口 nghĩa là “mảnh ruộng” (Hồng=Rộng=Ruộng=Vuông=Văn, tiếng Quảng Châu đọc chữ Văn là “mảnh”, còn tiếng Triều Châu đọc chữ Văn là “vuông”, từ đồng nghĩa: văn bằng = mảnh bằng; Văn Lang nghĩa là Rộng Lớn, Hồng Bàng cũng nghĩa là Rộng Lớn, vì Lớn=Lãnh=Lang=Bàng ). Phía dưới chữ Thái trong Vuông là hình cong của cái cày, thành chữ Việt 粤 . Cái âm “thái” của chữ Thái 采, nghĩa là cháy, là ánh nắng, về sau được ghi lại bằng chữ Thái 太 chỉ Thái Dương 太 阳 nghĩa là mặt trời, nhưng cái âm “Thái Dương” nguyên gốc nó là “Cháy Nắng” vì Cháy=Chái=Thái, Nắng=Nướng=Dương. Chữ Thái Sơn cũng có nguyên gốc là Cháy Son, vì Pnom=Non=Hòn=Son=Sơn=San, mà Cháy Son còn có nghĩa là Cháy Đỏ, như nhìn thấy mặt trời khi nhú lên. Câu ca dao Việt “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra” cũng nói lên được Việt tộc đã từng ở những đâu: Cha=Ta=Tía; Sông Nguồn tức Nguyên Giang 沅 江, hạ du của nó cùng với trung hạ du Phong Giang vùng Động Đình Hồ ở Hồ Nam TQ thuộc thủy hệ trung du Trường Giang. [ Ở Việt Nam không có dòng sông nào tên là sông Nguồn, nên chữ Sông Nguồn cổ xưa từ Hồ Nam về sau đã bị nói sai thành “trong nguồn”, tương tự về âm nhưng cũng thấy là sai mẹo, thường người ta nói là “trên nguồn” khi chỉ đầu dòng của con sông. Phục nguyên chữ Sông Nguồn trong câu ca dao trên là của GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN viết trong cuốn “Việt Nam cội nguồn Bách Việt” của ông, sách xuất bản năm 1986, nay tìm các hiệu sách không còn thấy bán và cũng chưa từng thấy được tái bản. Phục nguyên chữ Thái Sơn là Cháy Son thì câu ca dao trên viết lại là “Công cha như núi Cháy Son, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra”. Núi Cháy Son có nghĩa là Núi Đỏ = Núi Đọ, nó cao hơn tất cả (Đọ) nơi đồng bằng ven biển, nó là Đỏ tức là đầu tiên, là vị trí đầu tiên khi người Việt cập thuyền từ biển vào bờ, vì cao và sát biển nên nó là vị trí cho người đầu tiên nhìn thấy mặt trời mọc khi đứng trên đỉnh núi. Phục nguyên bài “Việt nhân ca” , có từ thời nước Sở, của Đỗ Thành còn cho thấy 2800 năm trước ở Triết Giang dân cư nói như nguời Kinh ở Việt Nam ngày nay nói. Còn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận viết cách nay 2000 năm ( nay có sẵn trên mạng internet : 《在线说文解字查询 tại tuyến Thuyết Văn Giải Tự tra tầm》) thì cứ phát âm như tiếng Việt mà “lướt” thì trúng, còn phát âm như Hán ngữ hiện đại mà “thiết” thì trật ] . Tóm lại, nếu muốn “giải tự” cách quê mùa, tức rất Việt, theo kiểu Lãn Miên, thì không cần phải mất công sao lục “tầm chương trích cú” từ các cổ thư của Tàu. Chỉ cần công nhận QT Tơi-Rỡi trong tạo từ Việt (hay là để biểu đạt sự diễn biến của từ Việt mà Lãn Miên phịa ra) là đúng, thì trong bài này quay lại chữ Nhiều ở đầu bài, mà Việt nho viết bằng chữ Nhiêu饒, sẽ giải thích được tại sao chữ Văn 文 thì người Quảng Châu (của đất Văn Lang xưa) lại đọc là “Mảnh”, còn người Triều Châu (của đất Văn Lang xưa, ở bắc Quảng Đông giáp Phúc Kiến) lại đọc là “Vuông”: Vuông /Tròn là hình ảnh của cặp “tượng đài” Bánh Chưng dưới, Bánh Dầy trên (như cặp tượng đài bằng đá Yoni dưới, Linhga trên ở thánh địa Mỹ Sơn), tượng trưng cho Đất/Trời theo cấu trúc Âm/Dương. Vuông mà Vuông Lắm tức Vuông Nhiều, viết là Vuông Nhặn, vì thay tơi “Nh” của Nhặn cho cùng với tơi “V” của Vuông để được từ dính Vuông-Vắn để nhấn mạnh cho ý Vuông là Vuông Lắm, rồi nhấn mạnh nữa bằng từ láy thì Vuông-Vắn = Vuông Vằn-Vặn = Vuông Vành-Vạnh, có nôi khái niệm: Vuông=Văn=Vắn= Vằn-Vặn = Vành-Vạnh = Mảnh ( Mảnh là cách đọc chữ Văn 文 của tiếng Quảng Châu). Trời=Tròn, nhưng Tròn Lắm = Tròn Nhiều = Tròn Nhặn, rồi thay tơi “Nh” của nhặn cho cùng tơi “Tr” của Tròn thì được từ dính Tròn -Trặn nhấn ý cho Tròn. Người Kinh Đô nói giọng chải chuốt nhẹ nhàng hơn nên thường làm mềm các âm cứng, bởi vậy họ phát âm Trăng là Giăng, Trời là Giời, Tròn là Chòn, nên Tròn Trặn phát âm là Chòn Chặn, rồi nhấn ý bằng từ láy là Chòn Chằn-Chặn. Mặt trời, mặt trăng và trái đất đều là Tròn cả, tức luôn Còn mãi mãi ( Tròn=Còn). Nhưng trái đất khi được đại diện bằng chữ Vuông 口, tức là khi loài người đã biết làm Ruộng (Ruộng=Vuông), tức đã bắt đầu khai thác bề mặt trái đất vì nhu cầu của con người. Vuông ám chỉ trái đất chỉ là ám chỉ “trái đất đã có sự khai thác của con người”. Càng ngày sự khai thác trái đất càng quá đi thì trái đất có thể đến lúc sẽ bị hủy diệt tức Mất, khi đó “Vuông Mất” = Vất. Do cặp đối Vuông/ Tròn bao giờ cũng cặp kè với nhau nên người ta nhấn cái ý “cặp kè” (theo lý Âm Dương là “ta với mình tuy hai mà một”) bằng cách nói lồng ngược là “Vuông chằn - chặn, Tròn vành - vạnh”. Cũng do giọng nói cố chải chuốt cho mềm mại của người Kinh Đô nên ở đất Kinh Bắc, quê hương giọng hát quan họ mượt mà, mới có câu ca quan họ chơi chữ tuyệt đẹp là “Giời bao nhiêu tuổi giời già, Giăng bao nhiêu tuổi gọi là giăng non”. Trời và Trăng thì đều là già như nhau vì bao giờ cũng Còn như Càn, nhưng Trời thì ngày nào cũng thấy tròn, nên gọi là Giời Già, còn trăng trong tháng thì khi tròn khi khuyết , trăng khuyết gọi là trăng non, từ Giăng Già đã được nho viết thành từ văn học đẹp đẽ là Hằng Nga 姮 娥, (Giăng Già = Hằng Nga), Nga 娥 là ví trăng như người con gái đẹp, Hằng 恒là liên tục mãi mãi ( do lướt câu cổ “Hồn gửi cung Trăng” = Hằng, nên chữ Hằng 恒 có bộ Tâm 忄 chỉ tâm hồn, hồn là cái người xưa quan niệm nó còn mãi mãi cả sau khi xác đã không còn, để hợp với từ Hằng Nga 姮 娥 chỉ Giăng Già thì nhà nho đã đổi cái tơi là bộ Tâm 忄 thành cái tơi là bộ Nữ 女 cho chữ Hằng 姮 của Hằng Nga 姮 娥, người Việt vẫn gọi cách thi vị Trăng là chị Hằng Nga, thường gọi tắt là chị Hằng. Giăng Già = Hằng Nga 姮 娥 là chữ nho Việt. Hán ngữ gọi Trăng là Nguyệt 月(phát âm là “yue”) và gọi thi vị là nàng Nguyệt Nga 月 娥. Chữ Hằng Nga 姮 娥 là chỉ lúc trăng tròn sáng tỏ, đẹp rạng rỡ như khuôn mặt người con gái dậy thì (còn gọi là tuổi trăng rằm), là lúc trăng “Rõ Lắm” = Rằm (đúng QT Thanh điệu theo toán nhị phân là 0+1=1), ngày lúc ấy gọi là ngày Trăng Rằm hay gọi tắt là ngày Rằm. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 12, 2012 Dạo kỷ niệm nghìn năm Thăng Long thấy truyền thông đưa câu “Hà Nội-Thăng Long-thành phố Rồng Bay”, có cả biểu ngữ. viết như vậy. Có lẽ người ta hiểu từ Thăng Long theo kiểu dịch Hán tự chữ Thăng Long, nhưng lại dịch sai chữ Thăng là Bay, vì Rồng Bay nói theo Hán ngữ thì là Phi Long 飛 龍 chứ không phải là Thăng Long, Thăng Long 升 龍 hiểu theo Hán ngữ là Rồng Lên. Nhưng mình người Việt thì cứ theo Việt mà hiểu, Thăng Long 升 龍 nghĩa là Lên Rồng, nghĩa bóng là hóa rồng tức lên phát đạt giàu mạnh và văn minh. Đó chính là ước mơ của Lý Công Uẩn khi ông thấy trong giấc mơ là từ thành Đại La có con rồng đang lên. ( Trời=Trên=Lên=Then=Thiên=Thăng=Thượng) . Cũng do hiểu theo kiểu dịch chữ từ ngữ pháp đã bị Hán hóa nên người ta lại giải thích vịnh Hạ Long下 龍 là vịnh “Rồng Xuống” (nếu nói ý Rồng Xuống thì Hán ngữ gọi là Giáng Long). Thực ra theo cách hiểu xưa của người Việt thì Hạ Long nghĩa là “Đẻ nhiều Rồng” vì từ Hạ nghĩa là Đẻ. Khi người Việt nói Đẻ con hay Sinh con là nói cái việc đẻ một lứa con (lứa là do lướt “Lần Đứa”=Lứa, nghĩa là lần thì một lần ấy nhưng có thể ra một đứa hay hai đứa hoặc nhiều đứa cùng lúc), nhưng hỏi “sinh hạ” được mấy con tức là hỏi về “nhiều” nên đã dùng từ đôi Sinh Hạ, mà nguyên nghĩa của từ đôi thì hai từ đồng nghĩa đó ghép với nhau để nhấn mạnh “nhiều” cho cái ý của chúng, từ đứng sau bao giờ cũng mang ý “nhiều” lại cho nhấn mạnh ý của từ đứng trước. Cho nên Hạ có nghĩa là “đẻ nhiều”. Nhưng Hạ=Rạ=Rớt, nên đứa con đầu gọi là con So, còn những đứa con sau đều gọi là con Rạ (Rạ mang ý là đẻ nhiều nữa sau khi máy đã thành công đẻ được đứa con đầu, tự nhiên thì đẻ hết trứng mới thôi hoặc đẻ đến khi máy không đẻ được nữa thì thôi, đó chính là Rạ=Hạ nghĩa là đẻ nhiều, nhiều đây là nhiều lần đẻ, mà dùng cho gà vịt thì người ta hay dùng từ “Rớt trứng” hoặc “Rớt hột”. Ước mơ Lên Rồng cho đất nước của vua Lý cách nay nghìn năm cũng giống như ước mơ lên rồng của chúng ta ngày nay cho bằng vai với “bốn con Rồng mới nổi ở châu Á” là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapo, mà để Lên được Rồng thì nguyên nhân chính lại không phải là tài nguyên tự nhiên mà là con người. Người Việt từ trong ngôn từ đã hiểu điều đó cách nay vạn năm, đó là từ Con Đỏ = Con So là con đầu tiên, tức yếu tố con người là cái cần qúi trọng đầu tiên để có thể làm nên tất cả. Trong lịch sử, xã hội nào “Vùi Con Đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) thì không Lên Rồng được. (Từ “Con Đỏ” là từ cổ xưa, nay ta dùng là từ “Nhân Dân”, là từ đôi nhưng ghép theo kiểu Hán ngữ, nếu ghép theo kiểu Việt thì là Dân Nhân, tương thuận như Con Đỏ, vì Nhân còn mang ý là “đầu tiên” như Đỏ: Đỏ=So=Nhỏ=Nhân là cái Nhân của hạt cây, nó bé tí nhưng là nhân tố đầu tiên để mọc ra cái cây. Mà thành ngữ xưa nói “Trồng người như trồng cây” và “Dụng nhân như dụng mộc”) Tại sao Đỏ=So=Sơ=Thơ lại mang nghĩa là đầu tiên? Vì mỗi đầu tiên của một ngày , người Việt thấy mặt trời từ từ lên (khi đó nhìn nó hoàn toàn màu đỏ), đó là quá trình Blơi = Ló = Đỏ = Tỏ = Rõ = Rực = Nực = Nhức = Nhật = Nhoáng = Choang = Chang-Chang = Sáng = Náng = Nắng = Nướng = Dương ( vùng Bắc Trung Bộ phát âm từ Nướng là “Náng”), đó là ánh dương sáng choang. [ Ngắn gọn thì so sánh hai nôi khái niệm đối nhau: Nước=Nậm=Âm // Dương=Nướng=Nắng là do cặp đối Nước/Nắng như là Đất/Trời để thấy rằng thuyết Âm/Dương là bản quyền của người Việt; và các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Kinh (dùng từ Nước) với các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái (dùng từ Nậm) là con cùng một mẹ Âu Cơ, vốn là cùng chung một Nước Văn Lang xưa “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn” như sử thư ghi]. Quá trình để có được Ánh Dương Sáng Choang cũng giống như quá trình của Lên Rồng. Yếu tố con người là yếu tố quyết định cho Lên Rồng thì con người đó phải là con người hướng thiện như Đạo dạy (từ Đạo 道 là do lướt “Đầu Gạo” = Đạo là cái đầu nhân gạo của hạt cây để mọc lên mầm mà thành cây, nho viết chữ Đạo 道bằng ghép chữ Đi 辶với chữ Đầu 首, cũng nghĩa như lướt “Đi 辶 Đầu 首” = Đạo 道). Người Việt cổ đại quan niệm con người được sinh ra từ một giọt máu đầu tiên (“Một hòn máu Đỏ nên người”) và một cái Đỏ ấy có thể thành tốt có thể thành xấu tùy theo suy nghĩ, luôn nghĩ tốt tức luôn hướng thiện sẽ thành người tốt, nên người mẹ khi còn mang “hòn máu Đỏ” trong bầu đã luôn nghĩ con mình sẽ khỏe mạnh, thông minh, giỏi giang, để suy nghĩ ấy gieo vào tiềm thức đứa con từ khi còn là bào thai (đó là ý tứ của câu thành ngữ Việt “Dạy con từ thủa còn thơ”). Gieo gì gặt nấy, tức cho gì được nấy, cho thời gian thì được thời gian, cho tiền thì được tiền, cho cái trấn áp suy nghĩ sang người khác thì cũng được Vũ Trụ cho lại chính mình cái trấn ấp suy nghĩ tức là mình sẽ chẳng nghĩ ra được gì là sáng tạo tự do của mình cả, chỉ loay hoay múa gậy trong bị mà thôi (ngẫm câu “Không có gì quí hơn độc lập, tự do” của Bác Hồ, là khuyên mỗi con người phải độc lập tự do trong suy nghĩ của mình để luôn hướng thiện, gieo vào tâm thức mình cái tốt để thành năng lượng của thành công). Do mỗi cá thể đều có thể thành tốt hoặc xấu nên những cặp từ đối nguyên thủy cổ xưa đều là đồng âm, chỉ có chữ nho phải vẽ biểu ý khác nhau để phân biệt chúng mà thôi. Ví dụ một từ “Đỏ” nghĩa là “người”, hay là cái đầu tiên tạo nên tính nết con người, sẽ theo QT Nở mà cho ra cặp từ đối Đạo/Đạo (tương đương cặp Xấu/Tốt dùng về sau) trong đó xấu là Đạo 盜( của “đạo tặc”, chữ Đạo 盜 này nghĩa là ăn cắp; tham nhũng là chỉ ý ăn cắp của công, từ một xu đến trăm ngàn tỷ, như nhau); và tốt là Đạo 道 (của “đạo đức”, chữ Đạo 道 này nghĩa là đi đầu). Hoặc từ Lửa theo QT Nở mà sinh ra cặp từ đối Liệt/Liệt (tương đương cặp Yếu/Mạnh dùng về sau), trong đó yếu là Liệt 劣 (của “bại liệt”, “thân bại danh liệt”, chữ Liệt 劣 này nghĩa là yếu, viết biểu ý bằng ghép chữ Thiếu 少 và chữ Sức 力. Chữ Liệt 劣 này sinh ra từ dính Leo-Lét chỉ ngọn lửa yếu); và mạnh là Liệt (của “oanh liệt”, chữ Liệt 烈 này nghĩa là Mạnh, viết bằng ghép âm “liệt 列” mượn của từ dính La-Liệt nghĩa là nhiều, to (do từ Lớn theo QT Nở mà nở ra từ dính La-Liệt) với chữ Hỏa 灬 nghĩa là Lửa. Chữ Liệt 烈 mang biểu ý “lửa lớn” này sinh ra từ dính Lẫy-Lừng, chỉ ngọn lửa mạnh đang cháy lan rộng ra). Các từ ghép bằng chữ nho như Bại Liệt 敗 劣, Oanh Liệt 轟 烈 mà người ta gọi là “từ Hán Việt” , truy ra nguyên gốc đều là từ Việt cổ. Quay lại Thăng Long là ước mơ Lên Rồng, để lên được thành rồng thì yếu tố chính để tạo nên thành công là con người hướng thiện. Không có cái đó thì sẽ tụt hậu tức đang Rồng xuống Rắn, đang Rắn xuống Dẫn 蚓 (Hán ngữ dùng chỉ con giun), đang Dẫn 蚓 xuống Dĩn (loài ký sinh cắn hút máu động vật), đang Dĩn xuống Giun, đang Giun xuống Trùn, đang Trùn xuống Trùng 蟲 , đang Trùng xuống Sùng (đục khoét củ khoai lang), đang Sùng xuống Sâu (như chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói: “Vài con sâu rồi thành cả bầy sâu thì đến chết cái đất nước này”) Cổ xưa hàng vạn năm trước, người Việt là dân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại, nên họ quan niệm một cái cây cũng như một con người, cũng có hồn, cũng có mọi nhu cầu, cũng cần được chăm sóc. Quá trình từ hạt nẩy thành cây là từ cái gạo của hạt nảy ra cái mầm đâm đất mà lên, từ mềm thành cứng, đó là quá trình sinh ra mầm và lên thành cây như sau: Gạo=Đạo=Đủ=Vũ=Võ=Nhỏ=Nhã=Nhú=Mu=Mầm=Mềm=Chêm=Chạc=Chắc=Châm=Đâm=Đứng=Chững=Cứng=Cứng-Cáp=Cường , đến Cường thì rõ ràng là đã trưởng thành Chững Chạc rồi. (Đó là nếu biết chọn giống lấy hạt Chắc. Nếu chọn nhầm phải hạt Lép thì sẽ có hậu quả xấu: Lép=Lỗi=Tội=Ôi=Yếu=Ỏi=Còi=Còi-Cọc. Cặp từ đôi đối Còi Cọc // Cứng Cáp). Những từ như Nho Nhã, Nhã Ngữ (Nhã Ngữ mà Khổng Tử từng nói là của nền văn minh hơn hẳn của phương nam để phương bắc học tập) đều ra từ cái nôi này, đặc trưng cho tính mềm mại của dân nông nghiệp trồng trọt, không phải la hét dữ dội khi dồn đuổi mục súc trên đồng cỏ chăn thả, nên giọng nói Việt được các học giả TQ nhận xét là chất giọng “nhu hòa” tức mềm mại như lời ca mượt mà, không có phụ âm nào phát ra bật mạnh.Từ Mu trong nôi này cũng mang nghĩa “đầu tiên” vì là sự đang phồng lên của cái mầm, nên có thuyết “Lục địa Mu”. Nôi này cũng cho thấy trẻ con cũng giống như cái mầm cây, nó đã tự biết luyện võ và vũ từ khi còn là bào thai. Nôi này cũng cho thấy tại sao người Nhật và người Hàn lại dùng từ Đạo thay vì dùng từ Võ, vì những từ đó là cùng nôi khái niệm “để cho sự lớn lên”. Tê Won Đô tiếng Nhật viết bằng ba Hán tự là Thủ Không Đạo 手 空 道 tức võ tay không, nhưng Tê Won nghĩa là Tay Vắng (tiếng Nhật đọc chữ Thủ 手 là “Tê” theo âm Nhật nghĩa là “Tay”), chữ Vắng là do đọc lướt từ đôi “Vô chăng” = Vắng (thanh điệu đúng qui tắc toán nhị phân là 0+0=1). Tay Vắng Đạo là Võ Tay Không. Dùng chữ Won = =Vắng = Vô Chăng , Vô Chăng là từ đôi, để nói ý phân bua rằng cả hai tay đều không cầm vũ khí gì. Ai Ki Đô thì người Nhật viết bằng ba Hán tự là Hợp Khí Đạo 合 氣 道. Còn Ka Ra Tê Đô thì Hán ngữ dịch là Nhu Đạo Thuật , nhưng Ka Ra = Nhã= =Nhu; Tê=Tay (tiếng Nhật); Đạo = Đô = Đọ = Võ = Vũ; đều từ gốc Việt hết, tiếng Việt có từ ghép Đô Vật, còn từ “Đọ” nghĩa là “so hơn”. Núi Đọ ở Thanh Hóa, giữa đồng bằng ven biển, cái tên gọi của nó đã cho nó cái nghĩa là so hơn tất cả về cái cao của nó, ở giữa đồng bằng bên bờ biển, nó To và Thò lên trời, lên đó tha hồ mà ngắm mặt trời mọc: Đọ=To=Thò=Thái=Chái=Cháy. Khảo cổ học đã chứng minh là nền văn minh lúa nước sớm nhất là từ văn hóa Hòa Bình vạn năm trước. Việt tộc đã men theo bờ biển lên phía bắc vào các cửa sông (hạ du) như Dương Tử, Hoàng Hà, ngược sông về phía tây ( đến trung du như “tây giáp Ba Thục”) khai thác các đồng bằng ven sông để trồng lúa, phía bắc ven biển đến tận Sơn Đông TQ ngày nay, tại Sơn Đông thì núi Đọ khác mới hơn đã được gọi là núi Thái (Thái Sơn), là ngọn núi cao ven biển để lên đó ngắm mặt trời đang mọc tức đang Cháy Đỏ. Chữ Việt 粤 theo Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi giải thích nó gồm chữ Thái 采 nghĩa là “nắng cháy” lồng trong chữ Vuông 口 nghĩa là “mảnh ruộng” (Hồng=Rộng=Ruộng=Vuông=Văn, tiếng Quảng Châu đọc chữ Văn là “mảnh”, còn tiếng Triều Châu đọc chữ Văn là “vuông”, từ đồng nghĩa: văn bằng = mảnh bằng; Văn Lang nghĩa là Rộng Lớn, Hồng Bàng cũng nghĩa là Rộng Lớn, vì Lớn=Lãnh=Lang=Bàng ). Phía dưới chữ Thái trong Vuông là hình cong của cái cày, thành chữ Việt 粤 . Cái âm “thái” của chữ Thái 采, nghĩa là cháy, là ánh nắng, về sau được ghi lại bằng chữ Thái 太 chỉ Thái Dương 太 阳 nghĩa là mặt trời, nhưng cái âm “Thái Dương” nguyên gốc nó là “Cháy Nắng” vì Cháy=Chái=Thái, Nắng=Nướng=Dương. Chữ Thái Sơn cũng có nguyên gốc là Cháy Son, vì Pnom=Non=Hòn=Son=Sơn=San, mà Cháy Son còn có nghĩa là Cháy Đỏ, như nhìn thấy mặt trời khi nhú lên. Câu ca dao Việt “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra” cũng nói lên được Việt tộc đã từng ở những đâu: Cha=Ta=Tía; Sông Nguồn tức Nguyên Giang 沅 江, hạ du của nó cùng với trung hạ du Phong Giang vùng Động Đình Hồ ở Hồ Nam TQ thuộc thủy hệ trung du Trường Giang. [ Ở Việt Nam không có dòng sông nào tên là sông Nguồn, nên chữ Sông Nguồn cổ xưa từ Hồ Nam về sau đã bị nói sai thành “trong nguồn”, tương tự về âm nhưng cũng thấy là sai mẹo, thường người ta nói là “trên nguồn” khi chỉ đầu dòng của con sông. Phục nguyên chữ Sông Nguồn trong câu ca dao trên là của GS Bùi Văn Nguyên ĐHSP HN viết trong cuốn “Việt Nam cội nguồn Bách Việt” của ông, sách xuất bản năm 1986, nay tìm các hiệu sách không còn thấy bán và cũng chưa từng thấy được tái bản. Phục nguyên chữ Thái Sơn là Cháy Son thì câu ca dao trên viết lại là “Công cha như núi Cháy Son, nghĩa mẹ như nước Sông Nguồn chảy ra”. Núi Cháy Son có nghĩa là Núi Đỏ = Núi Đọ, nó cao hơn tất cả (Đọ) nơi đồng bằng ven biển, nó là Đỏ tức là đầu tiên, là vị trí đầu tiên khi người Việt cập thuyền từ biển vào bờ, vì cao và sát biển nên nó là vị trí cho người đầu tiên nhìn thấy mặt trời mọc khi đứng trên đỉnh núi. Phục nguyên bài “Việt nhân ca” , có từ thời nước Sở, của Đỗ Thành còn cho thấy 2800 năm trước ở Triết Giang dân cư nói như nguời Kinh ở Việt Nam ngày nay nói. Còn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận viết cách nay 2000 năm ( nay có sẵn trên mạng internet : 《在线说文解字查询 tại tuyến Thuyết Văn Giải Tự tra tầm》) thì cứ phát âm như tiếng Việt mà “lướt” thì trúng, còn phát âm như Hán ngữ hiện đại mà “thiết” thì trật ] . Tóm lại, nếu muốn “giải tự” cách quê mùa, tức rất Việt, theo kiểu Lãn Miên, thì không cần phải mất công sao lục “tầm chương trích cú” từ các cổ thư của Tàu. Chỉ cần công nhận QT Tơi-Rỡi trong tạo từ Việt (hay là để biểu đạt sự diễn biến của từ Việt mà Lãn Miên phịa ra) là đúng, thì trong bài này quay lại chữ Nhiều ở đầu bài, mà Việt nho viết bằng chữ Nhiêu饒, sẽ giải thích được tại sao chữ Văn 文 thì người Quảng Châu (của đất Văn Lang xưa) lại đọc là “Mảnh”, còn người Triều Châu (của đất Văn Lang xưa, ở bắc Quảng Đông giáp Phúc Kiến) lại đọc là “Vuông”: Vuông /Tròn là hình ảnh của cặp “tượng đài” Bánh Chưng dưới, Bánh Dầy trên (như cặp tượng đài bằng đá Yoni dưới, Linhga trên ở thánh địa Mỹ Sơn), tượng trưng cho Đất/Trời theo cấu trúc Âm/Dương. Vuông mà Vuông Lắm tức Vuông Nhiều, viết là Vuông Nhặn, vì thay tơi “Nh” của Nhặn cho cùng với tơi “V” của Vuông để được từ dính Vuông-Vắn để nhấn mạnh cho ý Vuông là Vuông Lắm, rồi nhấn mạnh nữa bằng từ láy thì Vuông-Vắn = Vuông Vằn-Vặn = Vuông Vành-Vạnh, có nôi khái niệm: Vuông=Văn=Vắn= Vằn-Vặn = Vành-Vạnh = Mảnh ( Mảnh là cách đọc chữ Văn 文 của tiếng Quảng Châu). Trời=Tròn, nhưng Tròn Lắm = Tròn Nhiều = Tròn Nhặn, rồi thay tơi “Nh” của nhặn cho cùng tơi “Tr” của Tròn thì được từ dính Tròn -Trặn nhấn ý cho Tròn. Người Kinh Đô nói giọng chải chuốt nhẹ nhàng hơn nên thường làm mềm các âm cứng, bởi vậy họ phát âm Trăng là Giăng, Trời là Giời, Tròn là Chòn, nên Tròn Trặn phát âm là Chòn Chặn, rồi nhấn ý bằng từ láy là Chòn Chằn-Chặn. Mặt trời, mặt trăng và trái đất đều là Tròn cả, tức luôn Còn mãi mãi ( Tròn=Còn). Nhưng trái đất khi được đại diện bằng chữ Vuông 口, tức là khi loài người đã biết làm Ruộng (Ruộng=Vuông), tức đã bắt đầu khai thác bề mặt trái đất vì nhu cầu của con người. Vuông ám chỉ trái đất chỉ là ám chỉ “trái đất đã có sự khai thác của con người”. Càng ngày sự khai thác trái đất càng quá đi thì trái đất có thể đến lúc sẽ bị hủy diệt tức Mất, khi đó “Vuông Mất” = Vất. Do cặp đối Vuông/ Tròn bao giờ cũng cặp kè với nhau nên người ta nhấn cái ý “cặp kè” (theo lý Âm Dương là “ta với mình tuy hai mà một”) bằng cách nói lồng ngược là “Vuông chằn - chặn, Tròn vành - vạnh”. Cũng do giọng nói cố chải chuốt cho mềm mại của người Kinh Đô nên ở đất Kinh Bắc, quê hương giọng hát quan họ mượt mà, mới có câu ca quan họ chơi chữ tuyệt đẹp là “Giời bao nhiêu tuổi giời già, Giăng bao nhiêu tuổi gọi là giăng non”. Trời và Trăng thì đều là già như nhau vì bao giờ cũng Còn như Càn, nhưng Trời thì ngày nào cũng thấy tròn, nên gọi là Giời Già, còn trăng trong tháng thì khi tròn khi khuyết , trăng khuyết gọi là trăng non, từ Giăng Già đã được nho viết thành từ văn học đẹp đẽ là Hằng Nga 姮 娥, (Giăng Già = Hằng Nga), Nga 娥 là ví trăng như người con gái đẹp, Hằng 恒là liên tục mãi mãi ( do lướt câu cổ “Hồn gửi cung Trăng” = Hằng, nên chữ Hằng 恒 có bộ Tâm 忄 chỉ tâm hồn, hồn là cái người xưa quan niệm nó còn mãi mãi cả sau khi xác đã không còn, để hợp với từ Hằng Nga 姮 娥 chỉ Giăng Già thì nhà nho đã đổi cái tơi là bộ Tâm 忄 thành cái tơi là bộ Nữ 女 cho chữ Hằng 姮 của Hằng Nga 姮 娥, người Việt vẫn gọi cách thi vị Trăng là chị Hằng Nga, thường gọi tắt là chị Hằng. Giăng Già = Hằng Nga 姮 娥 là chữ nho Việt. Hán ngữ gọi Trăng là Nguyệt 月(phát âm là “yue”) và gọi thi vị là nàng Nguyệt Nga 月 娥. Chữ Hằng Nga 姮 娥 là chỉ lúc trăng tròn sáng tỏ, đẹp rạng rỡ như khuôn mặt người con gái dậy thì (còn gọi là tuổi trăng rằm), là lúc trăng “Rõ Lắm” = Rằm (đúng QT Thanh điệu theo toán nhị phân là 0+1=1), ngày lúc ấy gọi là ngày Trăng Rằm hay gọi tắt là ngày Rằm. Câu thành ngữ “Đất lề quê thói”. Phục nguyên thì Lề Thói=Lời Nói. Nói=Thói=Thọi(giọng Nam Bộ)=Thưa=Thoại=Thốt=Thuyết. Từ đôi Thưa Thốt ý rằng cả nói lễ phép (Thưa) cả nói bình thường (Thốt), câu thành ngữ “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. “Lời có Lễ”=”Lời Lễ”=Lề (đúng qui luật thanh điệu theo toán nhị phân 1+0=1).Quan Thoại nguyên gốc là Quan Bắc Thoại (theo nghiên cứu Bách Việt của viện nghiên cứu Đại học Hạ Môn TQ). Cú pháp của từ “Quan Bắc Thoại” là cú pháp Việt , vì từ này do người Việt thời Tần Hán đặt ra để chỉ ngôn ngữ của tầng lớp quan cai trị, thường là người Hán: “Quan là người Bắc Nói”=”Quan Bắc Nói”=”Quan Bắc Thoại”, lướt nửa vời thì là thành “Quan Thoại”, nếu lướt hết thì “Quan Thoại”=Quái (thanh điệu đúng qui luật toán nhị phân 0+0=1), tức ngôn ngữ lạ so với ngôn ngữ của dân , dân đa số là người Việt. Cú pháp này giống như cụm từ “Ngôn ngữ Đài Loan”, theo cách nói của người Đài Loan thì gọi là “Tai Lâng Gí” tức “Đài Loan Gọi”, mà Gọi=Thọi=Thoại. Về sau “Đất Lề quê Thói” (là cách nói lồng của nguyên gốc “Đất quê có Lề Thói riêng”) biến nghĩa thành ý chỉ phong tục tập quán riêng của một địa phương. (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam). Phục nguyên của Lề Thói chỉ là Lời Nói, nhưng Lời ở đây là Lời lễ độ, “Lời có Lễ”=Lề; Thói=Thọi=Gọi=Nói=Noái (giọng Huế)=Thoại=Thuyết. Cái Văn Hóa lúc bắt đầu là từ đâu? Là từ Ruộng tức từ nông nghiệp, nông thôn, (Ruộng=Vuông=Văn), tức từ thủa ban đầu của văn minh lúa nước cách nay hàng vạn năm, khi con người bắt đầu biết khai thác bề mặt trái đất vì nhu cầu phát triển của xã hội, biết đắp bờ vuông vắn cho Ruộng để giữ nước trồng lúa nước. Từ xưa, Đại La rồi Thăng Long (Lên Rồng) trở thành văn minh nhất nước là do những người nông dân lên sống quần cư làm thành những phường nông nghiệp chuyên canh (như hoa Ngọc Hà, đào Nhật Tân, húng Láng), những phường thủ công nghiệp (như ba mươi sáu phố họ “hàng”), những phường công nghiệp (như đúc đồng Ngũ Xã). Ngày nay văn minh công nghiệp đang dần dần lấn át văn minh nông nghiệp trên pham vi toàn cầu, nên cái Nền Nếp của văn minh nông nghiệp dần dần bị phá hụt (cái Nền bằng Nếp của cái bánh chưng tượng trưng trái đất, nâng đỡ cho bầu trời trong trắng tượng trưng bằng cái bánh dầy đặt ở trên, thành một cặp Yoni/Linga). Nền Nếp bị phá hụt nên làm hư cả bầu trời (thủng tầng ô dôn). Vì vậy ngày nay nhiều nơi đã thức tỉnh, lo chăm chút bảo vệ những vùng gốc. Như ở Đài Loan chăm chút bảo vệ những vùng của dân bản địa (gọi là người “Đài Loan nguyên trú”. Ở Mỹ, Úc cũng vậy. Ở Trung Quốc cũng rất chú ý đến điều này, điển hình là ở Phúc Kiến trong qui hoạch đô thị. Ở Việt Nam trong “chương trình xây dựng nông thôn mới” chắc cũng rất chú ý đến vấn đề này. Song thời gian qua nhiều hiện tượng đáng tiếc xảy ra khi ngành văn hóa “xây” nhà rông mái tôn (nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “không có hồn”), dỡ chùa xây lại mới (như ở Sơn Tây Hà Nội). Còn ở Trung Quốc thì xây đường cao tốc liên xã liên huyện, phản lại câu thành ngữ Trung Hoa xưa “Hương có chùa, Trấn có miếu”. Câu thành ngữ này cũng tương tự ý như câu thành ngữ Việt “Đất Lề quê Thói”. So sánh hai câu thành ngữ tương tự ý này cũng thấy rõ là tư duy Việt từ cổ đại đến thời cận đại là không có tư duy “tượng đài hoành tráng” (như Thiên Sứ từng nói), mà nó là cái văn hóa trong tâm hồn. “Tâm hồn mới là cái giàu nhất” như lời tiến sĩ người Mỹ Joseph Myrphy trong cuốn sách “Sức mạnh tiềm thức”.Bởi vậy ở Yên Hưng Quảng Ninh bên bờ sông Bạch Đằng và ở Đống Đa Hà Nội đều có cái gò đất lớn di tích chôn tử sĩ trong chiến tranh, những nơi đó hàng năm đến ngày kỷ niệm trận mạc nhân dân đều tổ chức Ngày Giỗ Trận Bạch Đằng và Ngày Giỗ Trận Đống Đa, nhân dân goi là Ngày Giỗ Trận từ thời trung cổ đến giờ, chứ không gọi là ngày “Kỷ niệm chiến thắng” (để tham khảo cho hiểu thêm cách đặt tên kỷ niệm của người Việt xưa từ thời Trần, hãy đọc lại bài “Ý tưởng xây dựng tượng đài trái tim thủy tinh của thủ tướng Võ Văn Kiệt”). Thế gới phải học hiểu chữ Giỗ để thấy tâm hồn Việt. Trong cách đặt tên ngày kỷ niệm này cho thấy từ thời trung cổ (thời Trần), tuy chưa học tiếng Anh, người Việt đã biết chỉ có Win-Win thì mới gọi là “Thắng”, còn thì khi Đọ nhau thì chỉ gọi là Được, Được=Cược=Cả=Cồ=Co (đôi co)=Võ=Đọ=Đô=Đạo (Đạo là chữ người Nhật dùng thay vì từ Võ) nên còn gọi bằng từ đôi là Được Cả như câu thành ngữ “Được ăn Cả, ngã về không”. Nguyên tắc của từ đôi là từ sau bao giờ cũng nặng ý “nhiều” hơn là từ trước nên nó có tác dụng như thiện ý san sẻ bổ sung ý “nhiều” cho từ đứng trước để cho chúng cân bằng nhau theo lý công bằng (biểu ý bằng chữ nho Cân巾, vẽ rất là đối xứng phải trái). Tộc người mẫu hệ tên là tộc “Mi Nang Ca Bau” là người Việt di cư sang Indonexia ngay sau thời Hai Bà Trưng, mà cái tên tộc ấy theo ngôn ngữ của họ có nghĩa là “tộc thắng trâu” tức họ là kẻ “Được” trong một cuộc Đọ trâu (như tục chọi trâu còn ở Đồ Sơn Hải Phòng ngày nay) với tộc bản địa láng giềng. Mi Nang Ca Bau phục nguyên là “Mệ Nàng Cả Trâu”. Họ đã lấy tắt từ Cả trong từ đôi Được Cả, nên tự xưng mình là người “Mi Nang Ca Bau”. Kiểu chọn khi nói tắt từ đôi thì lấy từ đứng sau (vì nó nặng ý “nhiều” hơn) gặp rất phổ biến trong Hán ngữ (vì những từ đôi mà Hán ngữ dùng là từ gốc Việt). Ví dụ từ đôi Ngữ Ngôn, trong cổ văn đều có dùng riêng hoặc Ngôn hoặc Ngữ đều chỉ ý là Nói, nhưng khi chọn tắt từ đôi Ngữ Ngôn để ghép với từ khác thì chọn từ nặng ý “nhiều” hơn tức chọn từ sau là Ngôn, như từ ghép Ngôn Xưng nghĩa là “Nói Rằng”. Từ đôi Thuyết Thoại cũng vậy, chọn từ sau để ghép là Thoại Xưng nghĩa là “Nói Rằng”. Nhưng Rằng là từ nguyên của Xưng: Rằng=Sẵng=Sưng=Xưng=Xướng=Xoan (Xoan là hát Xoan ở Phú Thọ). Tiếng Việt có Sẵng Giọng nghĩa là nói dằn giọng khi cáu kỉnh, chưa đến mức chửi nhau , chửi nhau thì gọi là Sưng Sỉa, còn Sửng Cồ thì là chửi dọa mà lại muốn giành phần hơn. Từ “Xướng Ngôn Viên” là do người Việt đặt ra nhưng theo ngữ pháp Hán hóa, trong khi Hán ngữ hiện đại gọi là “Phát Ngôn Viên”. Ngôn Xưng hay Thoại Xưng nghĩa là Nói Rằng. Rằng lại là do lướt “Rỡi ra Răng”=Rằng (thanh điệu đúng qui luật toán nhị phân 0+0=1). Cốt lõi của Lời là cái Rỡi. Rỡi mà ra khỏi hai hàm răng thì nó thành Rằng (nghĩa là “nói ra” hay “phát ngôn”), còn nếu hai hàm răng mà cắn sít thì chỉ ra tiếng Rít chứ không thành Rằng được. Còn nếu chỉ là Tơi không thôi (kể cả cái “vắng tơi” tức không có phụ âm đầu ) thì dù có phát âm ra tiếng cũng chưa có nghĩa gì. “Rỡi ra Răng”= Rằng nên mới có ý nghi ngờ là Chăng, ý khẳng định là Rằng và ý phủ định là Chẳng. Rằng nghĩa là nói khẳng định. “Tiếng rằng, em gái nhà giàu, khuyên em cũng phải kiếm mau tấm chồng”. Tại sao lại dùng lượng từ “tấm” cho từ Chồng? Cái này phải hỏi người Việt, vì các ngôn ngữ nước ngoài không dùng lượng từ “tấm” cho từ Chồng. Tấm Dưới=tấm Giát=tấm Vạt=tấm Ván=tấm Phản; tấm Trên=tấm Mền; còn tấm Chồng thì…giải thích thật lại bảo là Lãn Miên giải thích xiên xẹo nên khỏi giải thích. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites