Posted 29 Tháng 11, 2012 Hai bức tranh Đông Hồ hiếm thấy(TTNC LHDP) Vô tình phát hiện hai bức tranh Đông Hồ với hình tượng xinh động, nhưng ít được thấy trong dòng tranh này. Không biết tranh mang ý nghĩa gì và đủ bộ hay không mà chỉ có hai tấm.Bức tranh đầu thể hiện một trẻ quỳ chân phải, hai tay và cha trái giữ một quả bầu hoặc bí hình tượng to béo tươi tốt.Bức tranh thứ hai, hình trẻ đầu có cột chổm có đuôi và hoa, tay trái cầm hoa sen, tay phải cằm một loại quả mà không biết quả gì.Hai bức tranh đều sáng sủa sống động.Thiên Đồng 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 11, 2012 Chú bé trong bức tranh trên ôm trái Phật thủ , là trái cây trung tâm của mâm ngũ quả Tết ngày xưa Chú bé trong bức tranh dưới tay cầm trái đào, tay kia cầm hoa sen Có vẻ chúng thuộc dong tranh tứ thời Xuân -Hạ-Thu- Đông Trong " Thương nhớ mười hai " - Vũ Bằng có một bài về trái Phật thủ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 11, 2012 Thưa Sư Phụ Bức tranh Đông Hồ dưới đây thể hiện nhân vật có phần "phồn thực", cũng thuộc loại ít phổ biến. Bức dưới đây cũng thuộc loại ít thấy trong dòng tranh. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 12, 2012 TRANH HÀNG TRỐNG Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được làm và bày bán chủ yếu tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình.. Bà Chúa Thượng Ngàn Bạch hổ Bát tiên náo hải Bịt mắt bắt dê Chim công Chợ quê Cô Ba Giảng học đồ Hộ pháp 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 12, 2012 Lưỡng nghi Lý ngư vọng nguyệt Múa sư tử Ngũ hổ Ngư tiều canh độc Phật Bà Quan Âm Rồng rắn lên mây Tam đa - Phúc Lộc Thọ Tam phú 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 12, 2012 Thần chim Thất đồng Thúy Kiều gặp Kim Trọng Tiên dâng hoa Tiến lộc Tiến tài Tranh Tố nữ Triệu Nguyên Súy Tứ quí hoa quả Tử vi Trấn Trạch 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 12, 2012 Vợ chồng Ngâu Xích hổ Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh chính là tranh thờ và tranh Tết. Tranh thờ thì có tranh Phật, Tam hoà Thánh mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quí, ... Hiện không có tài liệu nào chứng minh về thời điểm ra đời của dòng tranh này, nhưng nhìn chung nhiều thông tin cho thấy dòng tranh này ra đời vào khoảng thế kỷ 16. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày. Phát triển trong một thời gian khá dài nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc. Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có mấy tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội dưới ký hiệu I.5484 a.b.c. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa, kèm cả tuổi tranh "Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên", tức là 1823 dương lịch. Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng tranh Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều. Cách in ấn và vẽ Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu. Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ mầu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh. Tranh được in trên giấy dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ khổ to và dài, thường bồi dầy, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị. Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác. Màu sắc và cách tạo màu Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận mắt và ưa nhìn. Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ, màu vàng từ hoa hòe, màu chàm của các loại nguyên liệu từ núi rừng, màu son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những màu sắc đó được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. Đề tài và nội dung tranh Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như: Tố nữ, Bốn mùa (mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng. Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà, Cá chép trông trăng... ****************************** Các tranh "Hổ", "Tố nữ", tranh "Lý ngự vọng nguyệt" - (Cá chép trông trăng) và tranh "Thất đồng" là những tranh nổi tiếng nhất của dòng tranh Hàng Trống - Hà Nội. Nét khắc quý phái, tinh vi uyển chuyển. Nghệ sĩ chỉ khắc một bản nét. In nét trước lên giấy rồi dùng phẩm tô màu. Màu tô có đậm nhạt làm nổi khối nuột nà cho người và cảnh vật. Vốn tranh dân gian nằm trong một mảng lớn của hội hoạ Việt nam cổ vẫn như một tia sáng mảnh mai nhưng không kém phần chói lọi. Tranh dân gian gắn liền với cuộc sống, với lễ giáo người Việt. Và hiện tại, cho dù cuộc sống có thay đổi, xô bồ, nhưng trong dòng tranh ấy vẫn tồn tại những con người, những nghệ nhân có đôi bàn tay vàng, đau đáu với nghề và vẫn luôn hy vọng duy trì được một vốn cổ của dân tộc. Nói tới tranh dân gian của người Việt, ta không thể không nói tới Tranh Hàng Trống. Là một dòng tranh kết hợp từ kỹ thuật tranh khắc gỗ với vờn màu thủ công. Tranh Hàng Trống có từ lâu đời và phát triển cùng nền văn hoá của thành cổ Hà nội xưa. Chủ yếu là tranh thờ như những bức Hương chủ , Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như : Tố nữ, Bốn mùa, (mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng. Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà , Cá chép trông trăng.... Nhưng tựu chung lại, Tranh Hàng Trống vẫn có một bản sắc riêng biệt, mầu sắc chói lọi nhưng không kém phần hài hoà, phong cách diễn tả sâu sắc. Đường nét chuyển động về hình hoạ thật tài tình, nhuần nhị. Kỹ thuật làm tranh Hàng Trống về căn bản cũng giống kỹ thuật tranh khắc gỗ nói chung. Ván bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác. Màu đen làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ, màu vàng của hoa hoè, màu chàm của núi rừng, màu son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những sắc màu bình dị ấy pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. Để tạo ra được một loại màu cổ truyền, các nghệ nhân phải ủ, phải sắc như sắc thuốc bắc, phải cô đặc dần bằng cách đun nhỏ lửa liên tục mấy ngày trời rồi lại lắng cặn, chắt nước. Cầu kỳ là vậy, nên những bức tranh không những có hồn của dân tộc mà còn in lên cả một sự khổ công của người vẽ. Một bức tranh Hàng Trống thường được bồi bằng ba đến bốn lớp giấy vì đặc thù của tranh khắc gỗ chỉ cho những đường nét đẹp trên một nền giấy mỏng (thường là giấy báo xước hay giấy xuyến chỉ, cao cấp hơn là nền lụa). Những chất liệu này sẽ cho một hiệu ứng màu chuẩn mực mang đậm dấu ấn của thiên nhiên. Một bức tranh thông thường như bức "Ông Hoàng Ba", nếu là một nghệ nhân lành nghề thì sẽ phải lao động cật lực khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ liên tục. Ông Hoàng Ba, theo truyền thuyết là con trai của Long vương, dân thuyền chài hay mua để thờ, hy vọng ngài sẽ xua đi những sự không may trong cuộc đời sông nước. Có những bức cầu kỳ hơn như " Tứ phủ công đồng " (khổ rộng 105 cm x 130 cm) sẽ mất của nghệ nhân sáu ngày làm việc liên tục, mỗi ngày từ mười đến mười hai tiếng. Công phu như vậy nên Tranh Hàng Trống cũng dần bị mai một và đến nay chỉ còn duy nhất một nghệ nhân. Ông là Lê Đình Nghiên (sinh năm 1950) con trai cụ Lê Đình Liệu (sinh năm 1912). Gia đình ông đã làm tranh Hàng Trống từ đời cụ tổ từ khoảng cuối thế kỷ XVI. Hiện tại ở gia đình ông còn khoảng 30 mặt ván và ông nói với một chất giọng hơi đau xót: " Nếu khôi phục được tất cả số vốn cổ truyền của ông cha để lại thì cũng phải ngót nghét 100 bản ". Đấy là nỗi đau lòng của ông, nhưng suy cho cùng, mỗi người chúng ta mang trong mình một dòng máu đỏ da vàng của người Việt, nghĩ đến câu nói đó, liệu có khỏi ngậm ngùi? (sưu tầm) 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 7, 2013 Tranh làng Sình xưa và nay Làng Sình nằm đối diện bên kia sông là Thanh Hà – một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở Ðàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh – một trung tâm buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Ðây còn là một trung tâm văn hoá: chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa. Không biết từ bao giờ, làng nghề in tranh dân gian phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.Vị trí: Làng Sình thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – HuếĐặc điểm: Tranh Làng Sình chủ yếu phục vụ cho việc thờ cúng của người dân trong vùng. Thời Trịnh – Nguyễn, cùng đoàn người vào đất Thuật Hoá định cư, ông Kỳ Hữu Hoà mang theo nghề làm tranh giấy mộc bản, tranh làng Sình ra đời từ đó. Ông Hoà được coi là ông tổ nghề tranh ở làng sình. Làng Sình nằm đối diện bên kia sông là Thanh Hà – một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở Ðàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh – một trung tâm buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Ðây còn là một trung tâm văn hoá: chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa. Không biết từ bao giờ, làng nghề in tranh dân gian phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước với những bản mộc 150 năm tuổiHồn của bức tranh nằm ở cái vuốt tay này! Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Có thể phân làm ba loại: 1- Tranh nhân vật chủ yếu là tranh tượng bà, vẽ một người phụ nữ xiêm y rực rỡ với hai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại: tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ quanh năm. 2- Lại còn các loại tranh khác gọi là con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ông đàn bà, và ảnh phền vẽ bé trai bé gái (phải chăng phền do chữ phồn thực của Ðông Hồ). Các loại nhân vật còn lại là tranh ông Ðiệu, ông Ðốc và Tờ bếp (có lẽ tranh vẽ Táo quân). Các loại tranh này sẽ đốt sau khi cúng xong. 3- Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông, áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình… thường là tranh cỡ nhỏ. Tranh súc vật (gia súc, ngoài ra còn có voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người chết. Tranh làng Sình có thể sánh với các dòng tranh miền Bắc (như Ðông Hồ, Kim Hoàng, Hàng Trống), một thời đã lưu hành khắp vùng Thuận Quảng. Sình là tên nôm của làng Lại Ân, cách Huế chừng 7km về phía đông bắc. Sách Ô Châu cận lục ra đời hồi thế kỷ 16 đã nói đến Lại Ân như một địa danh trù phú. Xóm Lại Ân canh gà xào xạc Giục khách thương mua một bán mười… Vào khoảng tháng năm, tháng sáu, khi trời nắng to nước cạn, từng nhóm 57 chàng trai dong thuyền dọc theo đầm phá Tam Giang, đến Cầu Hai, Hà Trung, Lăng Cô để cào điệp, một loại trai sò có vỏ mỏng và phẳng. Có loại điệp chết đã lâu ngày vỏ lắng dưới bùn gọi là “điệp bùn”, khi nhặt chỉ còn là những mảnh màu trắng, mỏng, mềm dễ sử dụng hơn. Loại điệp mới chết gọi là “điệp bầy” nổi trên bùn, có vỏ cứng lẫn nhiều màu đen. Ðiệp đem về loại hết tạp chất, chỉ còn lại lớp vỏ trắng bên trong, được đem giã nhỏ. Mỗi cối giã có từ 26 người thay nhau giã, gần như suốt đêm tới sáng. Những câu hò giã điệp cũng vang lên như lúc giã gạo. Bột điệp lấp lánh trộn với bột nếp khuấy thành hồ, phết lên giấy sẽ cho ra một thứ giấy trắng lấp lánh ánh bạc. Bàn chải quét điệp làm bằng lá thông khô bó lại, gọi là cái “thét”. Khi chiếc thét quét qua mặt giấy sẽ để lại những vệt trắng song song lấp lánh. Ðể kiếm các loại cây cỏ pha chế màu có khi họ phải lên tận rừng già phía tây Thừa Thiên – Huế. Hai thứ cây chỉ có ở đây là cây trâm, phải chặt từng đoạn mang về, sau đó mới chẻ nhỏ để nấu màu; còn cây đung thì hái lá và bẻ cành. Lá đung giã với búp hòe non sẽ cho màu vàng nhẹ. Các màu khác cũng được làm từ cây cỏ trong vườn như hạt mồng tơi cho màu xanh dương, hạt hòe cho màu vàng đỏ, muốn có màu đỏ sẫm thì lấy nước lá bàng. Ngoài ra người làng Sình còn dùng đá son để lấy màu đỏ, bột gạch để có màu đơn. Màu đen được dùng nhiều nhất, lại là màu dễ làm nhất. Người ta lấy rơm gạo nếp đốt cháy thành tro, sau đó hòa tan trong nước rồi lọc sạch để lấy một thứ nước đen, đem cô lại thành một thứ mực đen bóng. Những màu chủ yếu trên tranh làng Sình là các màu xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗi màu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng, khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu bằng da trâu tươi. Tranh Sình có kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó thông dụng. Giấy dó cổ truyền có khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi (25×35), pha ba (25×23) hay pha tư (25×17). In tranh khổ lớn thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in đen chờ cho khô thì đem tô màu. Tuy màu tô không tỉa tót và vờn đậm nhạt như tranh Hàng Trống, nhưng mỗi màu đều có chỗ cố định trên tranh, tạo nên sự hòa sắc phù hợp với ý nghĩa từng tranh. Công việc “điểm nhãn” ở một số tranh cũng do thợ chính làm nhằm tăng thêm vẻ sinh động của tranh. Những mảng màu lớn thì dùng một thứ bút riêng làm bằng tre gọi là thanh kẻ để tô màu. Những chi tiết nhỏ thì dùng bút lông đầu nhọn. Việc tô màu được làm theo dây chuyền, mỗi người phụ trách một hai màu, tô xong lại chuyển cho người khác. Những bàn tay tô màu như múa thoăn thoắt trên tờ tranh, có người kẹp hai, ba cây bút ở đầu ngón tay để tô cùng một lúc hai, ba mảng màu. Ðiểm nỗi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất phác một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo của nó là ở chỗ tô màu. Khi đó nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên. Cố họa sĩ Phạm Ðăng Trí, người họa sĩ tài hoa của đất thần kinh xưa, đã tìm thấy trong tranh Sình bảng màu “ngũ sắc Huế”, hơi khác với bảng “ngũ sắc phương Đông”. Và nếu ta so sánh những gam màu sử dụng trên tranh thờ sẽ thấy nó gần gũi với tranh pháp lam trang trí trên các kiến trúc của kinh thành xưa. Ðó là sự hòa sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hỏa hoàng, phí thủy với hổ phách… Cái khác biệt của tranh làng Sình với các dòng tranh dân gian khác chính ở nét vẽ và bố cục còn rất thô sơ, hồn nhiên đậm chất mộc mạc làng quê. Khi sáng tác một bức tranh, bản mộc chỉ giữ vai trò làm khuôn và in màu chính ( thường là màu tím chàm). Những màu sắc còn lại được người nghệ nhân vẽ bằng tay. Chính vì thế không có bức nào giống bức nào. Mỗi bức đều mang trong mình tâm trạng của nghệ nhân lúc đó. Khi nghiên cứu về tranh làng Sình, nhiều nhà nghiêu cứu cho rằng gam màu sử dụng trên tranh làng Sình gần giống với gam màu được sử dụng trên tranh pháp lam tại các kiến trúc kinh thành Huế: hoà sắc giữa vàng với chàm, đỏ với bích ngọc, xanh với hoả hoàng, phí thuỷ với hổ phách. Bức tranh khi hoàn thành sẽ lấp lánh bởi vỏ điệp, nền nã bởi chất màu thô mộc, quyến rũ và quan trọng hơn cả là khi bức tranh đến tay người sử dụng đã ẩn chứa một cái gì đo thiêng liêng của cõi tâm linh. Chấn hưng bằng phương pháp công nghiệp! Nghề làm tranh giấy truyền thống làng Sình mai một dần từ sau 1945. Chiến tranh loạn lạc chẳng mấy ai để ý đến chuyệ thờ cúng cho đúng với truyền thống, lễ nghi. Tranh giấy làng Sình làm ra bán không ai mua, người dân bỏ giấy, bỏ mực chuyển chuyển sang làm những nghề khác để mưu sinh. Sau năm 1975, cả làng chỉ còn vỏn ven 3 hộ dân bám đuổi với nghề làm tranh truyền thống. Những khuôn bản mộc để in tranh lưu truyền hơn mấy năm cũng bị thất lạc dần theo sự mai một của làng nghề này. Thật hiếm để tìm lại những bản mộc xưa. Ông Kỳ Hữu Phước kể rằng: Để giữ được những bản mộc của ông cha để lại, ông đã phải bọc nilon, chôn thật sâu dưới đất hàng chục năm. Bây giừo ông Kỳ Hữu Phước còn giữ lại vỏn vẹn có hai bộ mộc bản có tuổi trên 150 năm. Năm 1999, trước nhu cầu của thị trường, nghề làm tranh giấy truyền thống Làng Sình đứng trước cơ hội được phục hưng. Những khuôn mộc thất truyền, người làm tranh bỏ công đi tìm lại nhưng số lượng không nhiều. Để có khuôn mộc in tranh truyền thống người làm tranh chỉ còn cách tìm lại những bức tranh được cất giữ rồi tự làm lấy bản mộc. Hiện tại, người làm tranh làng Sình phục hồi 25 bản mộc để in tranh truyền thống. Giấy dó để làm tranh truyền thống được thay bằng loại giấy công nghiệp, màu cũng được thay bằng màu công nghiệp bán trên thị trường. Chính vì thế mà giá thành cho mỗi bức tranh cũng giảm đi đáng kể. Từ việc đứng trước nguy cơ biến mất, đến vài ba hộ dân, tăng lên chục hộ rồi dần tăng lên con số vài chục hộ trở lại với nghề. Đến thời điểm này, làng Sình có 32 hộ làm nghề tranh truyền thống. Tranh dân gian làng Sình thời hiện đại không còn giữ nguyên được bản chất truyền thống, bởi lẽ từ nguyên vật liệu đã được thay bằng những nguyên vật liệu công nghiệp, tiện lợi hơn gấp nhiều lần. Có giấy, có màu công nghiệp, giờ đây người làm tranh truyền thống làng Sình mỗi ngày có thể in trên bản mộc 1.000 bức mỗi ngày. Các công đoạn in ấn, phối màu cũng được giảm thiểu, số lượng tranh cung cấp cho thị trường mỗi năm xấp xỉ 200 ngàn tờ. Làm nhanh, số lượng nhiều, nhưng cái thần sắc của bức tranh làng Sình nổi tiếng một thời cứ mất dần đi. Để bắt kịp với cơ chế thị trường, tăng số lượng tranh cung cấp cho thị trường những nghệ nhân chân đất gắn bó cả cuộc với nghiệp làm tranh truyền thống lại có ý tưởng công ngiệp hoá tranh truyền thống làng Sình! Một dự án khuyến công của xã Phú Mậu, h.Phú Vang, TT-Huế đang được triển khai, theo dự án này, người dân làm tranh truyền thống sẽ được đầu tư mua máy xén, mua Rulô quay. Giấy sẽ không còn xén thủ công nữa, bản mộc được khắc hẳn lên bề mặt rulô, cách làm này không mục đích nào hơn là tăng năng suất làm tranh. Lý giải cho cách làm này, nghệ nhân dân gian Kỳ Hữu Phước cho rằng: “ Với 30 triệu đồng đầu tư mua sắm máy xén, ru lô quay, rồi đây chúng tôi sẽ một mặt tăng năng suất, thu hút lao động để giữ vững làng nghề truyền thống cha ông”(?) In bằng rulô thì nhanh thật, năng suất thật! Nhưng theo một nhà nghiên cứu nghệ thuật dân gian thì cái hồn của tranh làng Sình chính nằm ở cái vuốt tay trên mặt giấy khi in bảm mộc! Vậy thì làm kiểu “ công nghiệp” chắc rằng tranh làng Sinh sẽ mất cái hồn ấy! Cách làm công nghiệp hoá tranh dân gian ở làng Sình, liệu rồi đây những bức tranh giấy được sản xuất tại đây có còn nguyên bản chất truyền thống dân gian?Bảm mộc già tuổi nhất làng - 200 năm. Theo Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam và Việt Báo Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 8, 2013 Bộ tranh dân gian quý của Việt Nam Ngày 26/2/2013 vừa qua, tại Tp. Hồ Chí Minh, Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) phối hợp với Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) và Viện Trao đổi Văn hóa Pháp (IDECAF) đã tổ chức triển lãm với chủ đề “Tranh dân gian Việt Nam - Tranh bộ ba”. Triển lãm nằm trong chương trình văn hóa của Năm hợp tác Pháp - Việt. Triển lãm “Tranh dân gian Việt Nam - Tranh bộ ba” nhằm mục đích góp phần phát huy giá trị văn hóa dân gian Việt Nam và bảo tồn di sản tư liệu thành văn. Triển lãm trưng bày 15 khung ảnh về đề tài tranh dân gian, gồm những hình ảnh được chọn lọc từ hai tác phẩm “Bách khoa toàn thư về kỹ thuật” của Henri Oger, “Tranh dân gian” của Maurice Durand và những bản khắc gỗ chưa từng được công bố của bản thảo tranh màu. Những tư liệu quý hiếm này đều đang được lưu trữ tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Paris (Pháp). Riêng bộ tranh Lục Vân Tiên thì hoàn toàn là một phát hiện mới, chưa từng có một nghiên cứu nào. Bức tranh cô gái thổi sáo. Bức tranh cô gái chơi đàn nguyệt.Bức tranh hoa sen và cua đồng.Bức tranh chú bé và quả phật thủ.Bức tranh cụ già và quả lựu.Bức tranh thần canh cửa ngồi trên lưng hổ.Bức tranh thần bảo hộ cưỡi kỳ lân.Bức tranh cậu quận tứ phủ.Bức tranh tả cảnh Thúc Sinh gặp Kiều.Bức tranh tả cảnh Kiều và Kim Trọng tự tình. Theo GS. Phillippe Papin của Trường Cao học Thực hành Paris, nguyên là chuyên viên của Viện Viễn Đông Bác Cổ, sở dĩ các loại tranh trên đều được gọi là dòng tranh dân gian bởi vì tranh được sáng tác bằng kỹ thuật in bản gỗ thủ công dân gian, sau đó họa sĩ mới tiếp tục tô điểm thêm màu sắc dựa trên bản in gỗ đó. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 8, 2013 Ngoài tranh dân gian của Henri Oger vốn từng công bố rộng rãi, từ tranh dân gian của Maurice Durand đến tranh Lục Vân Tiên đều được xem là lần đầu công bố tại Việt Nam. Ông Maurice Durand, nguyên Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội trước đây, một người có thú vui sưu tầm tranh dân gian của Việt Nam. Năm 1956 khi rời nhiệm sở, ông mang theo cả bộ sưu tập của mình về Pháp, rồi khi ông mất, vợ ông hiến tặng bộ sưu tập cho Viện Viễn Đông Bác Cổ. Năm 1960, bộ sưu tập này của ông Maurice Durand lần đầu xuất bản thành sách tại Pháp. Sau đó, GS. Phillippe Papin đã chỉnh lý lại cho hợp lý hơn bằng các ngôn ngữ Việt - Pháp - Hán - Nôm. Bộ sưu tập “Tranh dân gian” của Maurice Durand trưng bày tại Triển lãm lần này gồm những nội dung như: Cuộc sống hằng ngày và thiên nhiên, Tôn giáo và tín ngưỡng, Văn học Việt Nam (Kiều, Thạch Sanh, Phạm Công - Cúc Hoa...), Văn học Trung Quốc (Tây du ký, Tam quốc chí...). Bức tranh tả cảnh cuộc sống thường nhật của người Việt xưa. Bức tranh tả cảnh "vinh quy bái tổ". Bức tranh thợ cày. Bức tranh tả cảnh trò chơi bịt mắt bắt dê. Bức tranh vẽ vua Đinh Tiên Hoàng. Bức tranh tả cảnh Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên. Bức tranh tả cảnh cày cấy, giần sàng... Bức tranh mô tả nghệ sỹ đường phố và các loại nhạc cụ xưa. Bức tranh mô tả kỹ thuật làm nhà của người Việt xưa. Một góc không gian Triển lãm “Tranh dân gian Việt Nam - Tranh bộ ba”. Riêng bộ bản thảo tranh màu Lục Vân Tiên được thực hiện vào những năm cuối thế kỷ XIX. Bộ bản thảo này được phỏng theo tác phẩm Lục Vân Tiên - truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, từng được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam. Do yêu thích tác phẩm này của Nguyễn Đình Chiểu, một người Pháp tên là Eugene Gilbert đã đặt hàng một họa sĩ người Huế tên Lê Duy Tranh vẽ lại. Năm 1899, ông đã tặng bộ bản thảo Lục Vân Tiên cho Viện Viễn Đông Bác Cổ. Có thể nói, các tác phẩm trưng bày tại Triển lãm “Tranh dân gian Việt Nam - Tranh bộ ba” đã thể hiện sự cống hiến lớn lao của các học giả người Pháp trong việc gìn giữ và bảo tồn các di sản văn hóa dân gian Việt Nam. Triển lãm sẽ mở cửa đón khách tham quan từ nay đến hết ngày 6/4./. Bài: Nguyễn Vũ Thành Đạt - Ảnh: Lê Minh nguồn: http://vietnam.vnanet.vn/vnp/fr-fr/13/35/35/47003/default.aspx 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 20 Tháng 8, 2013 Riêng hình bức tranh dân gian này thuộc về thời hiện đại:Trong tranh mô tả anh bộ đội Cụ Hồ, đang cùng với nông dân làm ruộng. Dưới đây là một thí dụ về tranh dân gian hiện đại: Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 6, 2014 Trăm năm tranh kiếng Nam bộ Ngày 18.8.2013, triển lãm đặc biệt về nghệ thuật Tranh vẽ trên kiếng (gương) vùng Nam bộ sẽ khai mạc tại chùa Xá Lợi (89 Bà Huyện Thanh Quan, Q.3, TP.HCM), với khoảng 100 tác phẩm tiêu biểu.Những tác phẩm trưng bày được chọn lọc từ 1.600 bức tranh sưu tầm được bởi các nhà sưu tập Lý Lược Tam, Nguyễn Anh Kiệt, Nguyễn Đại Phúc, Huỳnh Duy Thiết, Huỳnh Thanh Bình… Đây là loại hình mỹ thuật với đặc điểm vẽ ngược vào mặt sau tấm kiếng (gần với phương pháp khắc tranh mộc bản) bằng bột màu trộn với dầu cây du đồng, khi trở tấm kiếng qua mặt kia tác giả sẽ có được bức tranh với màu sắc như ý và sáng bóng. Loại hình này đã có tại cung điện nhà Nguyễn thời Minh Mạng, Thiệu Trị, song tranh kiếng Nam bộ có một chỗ đứng riêng với dòng tranh kiếng Lái Thiêu (những năm 1920), lan tỏa khắp lục tỉnh (những năm 1940 - 1950) và dậy lên sức sống ở Mỹ Tho, Cai Lậy, Gò Công (Tiền Giang), Chợ Mới (An Giang) rồi tạo nên dòng tranh kiếng Khơ-me Nam bộ (Trà Vinh và Sóc Trăng).Tranh kiếng xà cừ Tử Vi trấn trạch Đến năm 1957, cuộc triển lãm tranh kiếng thu hút được chú ý của giới tạo hình mỹ thuật và công chúng là do họa sĩ Vạn Huê (Trương Cung Vinh) mở tại Phòng Thông tin đô thành Sài Gòn ở góc đường Catinat - Bonard (nay là đường Đồng Khởi - Lê Lợi). Từ đó đến nay chưa có một cuộc triển lãm tranh kiếng nào khác.Tranh Long Phụng trình tường tranh kiếng Thanh Hòa - Chợ MớiVì thế, cuộc triển lãm lần này là lần đầu tiên kể từ hơn 55 năm qua và gồm các bức tranh vẽ trên kiếng tiêu biểu thuộc nhiều chủng loại như tranh thờ tổ tiên, tranh trang trí (dân gian gọi là tranh cửa buồng), tranh phong cảnh vẽ tứ thời, tứ thú, tranh chúc tụng dùng để mừng tân gia, khai trương, tân hôn, tranh các vị Phật, Bồ tát và chư thần. Tất cả nằm trong dòng tranh kiếng đã xuất hiện với khối lượng đồ sộ trong suốt 100 năm qua, trong đó có loại tranh vẽ bằng sơn màu đa sắc với ngân nhũ và kim nhũ. Có bức kết hợp với kỹ thuật tráng thủy, nhưng đặc biệt độc đáo là loại tranh kiếng cẩn ốc xà cừ.Triển lãm được mở ra nhân đại lễ Vu lan năm nay và kéo dài đến 21.8 (nhằm rằm tháng 7 Quý Tỵ 2013).Tranh Trấn Trạch Khơ-me (nghệ nhân Mã Thị Dương) - Ảnh: tư liệu của Huỳnh Thanh Bình http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130815/tram-nam-tranh-kieng-nam-bo.aspx Share this post Link to post Share on other sites