Posted 28 Tháng 4, 2008 10 . Hùng triều thứ 10 : Hùng Huy Vua khai sáng – Long Tiên Lang Danh hiệu khác trong sử Việt :Kinh dương vương 2 Danh hiệu khác trong sử Hoa : Thành thang , Vũ vương triều Thương Quốc hiệu : Việt thường 2 Niên đại : Cách nay 3.700 năm Chứng tích bằng vật thể lưu tồn là hiện vật của nền văn hoá Đồng đậu. Bộ tộc của thủ lãnh Thương Thang là con cháu của ông Khiết, có sách viết là ‘Đế Tiết’ tụ cư ở Bắc Tây Giang, nam Trường Giang (phương ngày nay), vì Quảng đông là đất Đào của nhà Hạ, ý nghĩa tên ông Khiết hay thuần khiết chỉ số 1 – tức phương Nam, theo “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” thì Đế Tiết cũng là Tiên Đế cũng là chúa vùng số 1; Đế Tiết, Tiên Đế là bà Vũ Tiên của truyền thuyết Việt … tất cả đều là mã tin của Dịch Lý chỉ phương Nam , sắc dân làm nòng cốt của triều đại là tộc Tam miêu hay Mun , tên ngày nay là người Hmông. Vua khai sáng nhà Thương là Thành Thang, vua họ Từ tên là Lý; thực ra Lý là biến âm củ Lửa chỉ mặt trời và vua chúa như ta đã biết, còn Từ là dịch chữ Thương (yêu) của Việt ngữ, “Từ Lý” nghĩa là vua Thương mà thôi. Thành Thang khôn ngoan đợi chờ cho đến khi các bộ tộc Cửu Di (tức Di Lão) ở phía Tây đất Đào không còn thần phục Hạ Kiệt liền cất quân diệt bạo chúa . Thành Thang hay Thương Thang lên ngôi, xưng là Vũ Vương, tức hoàng đế khai sáng triều Thương. Triều đại Thương sử Việt Nam gọi là Việt Thường Thị là triều đại kế tiếp Hồng Bang Thị tức Thao Quốc hay Đào Quốc. Đất của triều Thương gọi là đất Việt Thường hay đất Đường là đất gốc tổ của Lý uyên đời Đường cũng là đất Nam đường thời Hoa nam thập quốc . Từ vua khai sáng Thành Thang đến Dương Giáp tổng cộng 18 đời đặc biệt các vương triều Thương đều mang danh hiệu theo Thập Can: 1. Thành Thang; 2. Ngoại Bính; 3. Trọng Nhân; 4. Thái Giáp; 5. Ốc Đinh; 6. Thái Khang; 7. Tiểu Giáp; 8. Ung Kỷ; 9. Thái Mậu; 10. Trọng Đinh; 11. Ngoại Nhâm; 12. Hà Đản Giáp; 13. Tổ Ất; 14. Tổ Tân; 15. Ốc Giáp; 16. Tổ Đinh; 17. Nam Khang; 18. Dương Giáp. Từ đế hiệu của các vua nhà Thương dùng phép so sánh ta thấy không có Can Quí là số 9, mà thay vào là Khang như Thái Khang, Thiếu Khang V.v… Thực ra Khang là từ Việt, khăng khăng là không thay đổi, nó cũng là sự biến âm trong cụm từ mã tin Dịch Lý chỉ sự không thay đổi: Căng, Cang, Cương, Cứng, Khăng, Khang, Khương. Thời Hùng Hoa Vương – Hải lang cũng là Lạc Long Quân nghĩa là thủ lãnh đất Lạc và đất Long, triều Hùng Huy - Long Tiên Lang thì Long và Tiên chỉ 2 dòng tộc con cháu Long Nữ tộc Thần long và Vũ Tiên tổ của tộc Mun hay Miêu , Cổ sử Trung Hoa gọi vùng Hồ Nam là Ngũ Lãnh vì trung tâm đất nước thời Thương là vùng Hồ Nam, ngũ lãnh trong dịch học chỉ có nghĩa là trung tâm . Với Hồ Nam là trung tâm ta có 4 hướng: Quảng Đông là Nhiệt hay Bức, Bắc phương; Giang Tây là phương Đông mặt trời mọc, Dương → Giang; Quí Châu là đất Thục, là nơi mặt trời ‘thụt’ xuống hay khuất bóng tức phương Tây; sau cùng đất Hồ Bắc là Kinh Man, hay Kinh Mun tức phương Nam man. Cổ sử Trung Hoa dịch chữ Thương của Việt ngữ sang Hoa ngữ là ‘Từ’ mà Từ cận âm với Tử, Tây, Tà … đưa đến sự lẫn lộn phương Đông và phương Tây đôi khi cười ra nước mắt như danh hiệu Tây Sở Bá Vương chẳng hạn, rõ ràng đất của Hạng Vũ ở phía Đông Trung Hoa mà danh hiệu lại là Tây vương…; Nếu không dùng các mã tin Dịch Lý làm chuẩn ta sẽ rối bời trong các ma trận từ ngữ Từ gốc tiếng Việt ký âm trộn lẫn với từ dịch ý đưa đến dòng sử không lối ra của Trung Hoa hiện nay, nếu không lần mò gỡ rối những dích dắc từ với ngữ … thì không thể nào nhìn ra Trường Giang là Đằng Giang Thường Giang rồi Đường Giang, vùng đất có tên là đất Việt thường nên con sông chảy qua nó gọi là Thường giang nghĩa là con sông ở phía nam .Sử Việt Nam chép Đằng Giang là nơi Ngô Quyền đánh quân Nam Hán tức Hãn quốc ở phía nam ngũ lãnh (Hồ nam) . Đằng giang là nơi mà Hoàng Tháo suýt mất mạng; khi khẳng định được sông Dương Tử là Đằng Giang hay Bạch Đằng Giang thì lịch sử sẽ đổi chiều . Ta có những thông tin rõ ràng :Ngô Quyền cũng là Tôn Quyền , Nam Hán là chỉ đích danh Hãn Quốc ở phía Nam (xưa) Trung nguyên , Hoàng Tháo không ai khác là ông hoàng tên Tháo tức Tào Vương tổ nước Ngụy sau này. Nhìn lịch sử trong động trạng ta thấy nhiều điều: lãnh thổ quốc gia luôn trương nở do đó trung tâm và 4 phương, 8 hướng cũng thay đổi theo đưa đến tình trạng ‘Chữ cũ” nhưng mang nghĩa mới nếu không sáng suốt sẽ nhìn không ra. như trường hợp điển hình: - Chữ ‘giao chỉ ’ nghĩa là ‘giữa’ vì thời mới lập quốc lãnh thổ nhỏ hẹp, gói gọn trên đất Việt , khi bờ cõi mở mang ta có Giao chỉ + Nam Giao (chỉ) ; tiếp tục trương nở thì Giao Chỉ + Nam giao + Quảng Đông thành ra Giao chỉ bộ sau đổi thành Giao Châu; Giao Châu chính là đất Đào, nước Thao của nhà Hạ, sử Việt Nam cũng gọi là Hồng Bang Thị, để phân biệt ta gọi là Hồng bang 2 nếu không tách bạch 2 Hồng bang thì không tài nào thấu đáo được .: Nam giao là đất phía nam Giao chỉ nay là Lĩnh nam , Giang nam là đất phía nam Giao châu hay Giao chỉ bộ xưa gọi là Việt Thường 2, giang nam hiểu theo tiếng Việt là vùng ‘sông phiá nam’ ở đây ý muốn nói đến Đường giang. Nhà Thương sử Việt là triều Hùng Huy vua khai sáng là Long- Tiên Lang; Long: phương Đông, Tiên = phương Nam; sách sử chép thành từ kép: Thành Thang biến âm ra ‘Thường Thương’ có nghĩa theo Dịch Lý là hướng Đông nam ;Thường là phương nam, thương là phương đông. . Sông Thương tên ngày nay là Dương Tử là nơi có loại rùa lớn sinh sống, người nhà Thương đã lấy mai rùa để khắc chữ, cả Dịch Lý cũng được khắc trên mai rùa, nên Dịch nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch nghĩa rất rõ ràng là Dịch Lý khắc trên mai rùa. Do có 2 Việt Thường nên cũng có tới 2 Kinh Dương Vương . Việt Thường Thị 1 → Kinh Dương Vương 1 là tổ của người Kanh-Lạc . Việt Thường thị 2 → Kinh Dương Vương 2 chỉ nhà Thương hay Đường, theo Hùng phả là Hùng Huy – Long Tiên Lang là cha của Sùng Lãm, “Lĩnh Nam Trích Quái” đã lầm lẫn ghép 2 vị thành 1 vị khiến sử Việt sai lạc, lẫn lộn cả ngàn năm. Theo truyền thuyết Việt thì Sùng Lãm nối ngôi Kinh dương vương nhưng những tư liệu lịch sử truyền tụng trong dân gian thì có tới 5 đời chúa họ Sùng được gọi là ‘Ngũ vị tôn ông’ và 4 quốc mẫu được thờ gọi là ‘Tứ vị triều bà’, Ngũ vị là: Sùng Nghiêm , Sùng Quyền,Sùng Tôn, Sùng Hòa sau cùng là Sùng Lãm còn gọi là Cầm . Đã có Sùng chúa tất phải có nước Sùng . Cổ sử Trung hoa chép : Cơ xương chiếm nước Sùng là chư hầu lớn nhất của nhà Thương ở phương tây...và dựng đô đấy gọi là Phong kinh đất ấy gọi là đất Phong ,như vậy Kinh dương vương ở đây là Kinh dương vương 2 tức vua Thành Thang nhà Thương. Lịch sử cả Việt và Hoa đều nói đến nước Sùng ; thực ra Sùng là từ dịch chữ Cao của Việt ngữ chính vì điều này mà người Việt còn có tên là người Keo hay Kẹo . Kinh thư viết khi ông Cơ xương chiếm nước Lê cả triều đình nhà Thương rung rinh trong khi Trụ vương vẫn đắm chìm trong tửu sắc, các công thần đều biết là khí số nhà Thương sắp tận nhưng chỉ biết than vãn thở dài mà thôi. Liên kết tình tiết 2 sự kiện có thể đoán nước Lê và nước Sùng là một; từ Lê hay lửa chỉ nước ta ở phương bắc-bức tức hướng xích đạo so với đất nhà Thương thuộc phương nam xưa , còn chữ Cao có gốc ở can Tân là số 7 chỉ hướng xích đạo trong Hà thư , Tân –Tôn cũng nghĩa là Cao , trên cao và Hoa sử dịch là Sùng . Nhà Thương lãnh thổ chính ở vùng Châu Kinh (Hồ Nam) và Châu Dương (Giang Tây) đúng theo lịch sử –̣địa lý Trung Hoa nên có vua là Kinh dương vương. Truyền thuyết về Dịch Lý của Trung Hoa nói Lạc Thư là đồ hình trên lưng Thần Kim Qui cũng cùng chung 1 ý nói về Qui Tàng Dịch của nhà Thương. Chính Qui tàng Dịch và nơi sinh sống của loài rùa lớn đã tạo ra Giáp Cốt Văn xác định : triều đại Thương khởi nghiệp ở Trường Giang hay Dương Tử chứ không thể ở bờ Hoàng Hà như sách sử Trung Hoa viết. Vì loài rùa có mai lớn dùng vào việc khắc chữ và bói toán chỉ có ở Trường giang như đã nói ở trên. Ngoài chuyện mai rùa triều Thương còn có nhiều điều phải suy nghĩ: - Ở bắc Trung Hoa địa bàn gốc cho tới thời Thương không hề có ‘thiếc’ nguyên liệu chính để có nền văn minh đồng thau, vậy làm sao từ đời Hạ theo sử sách Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng tiêu biểu bằng việc vua Vũ đúc 9 cái đỉnh tượng trưng cho Cửu Châu Trung Hoa , ở Trung hoa và Việt nam hầu như không có thời đồ đồng nguyên chất hoặc nểu có thì cũng rất ngắn rồi bước ngay sang thời hợp kim đồng thiếc hay đồng thau, ở Biệt Đô Triều Ca người ta còn tìm được mấy cái gương bằng đồng thau, có khắc hình mặt người hoàn toàn không có nét nào của chủng mongoloit, tức chủng người Trung Hoa theo sử sách. - Cũng theo sử thì đời Thương, Trung Hoa đã có tượng binh, nhưng ở Hoàng Hà làm gì có voi , voi Châu Á chỉ sống ở miền nhiệt đới và xích đới. Tóm lại còn nhiều điều “nghĩ không ra’ hay “không hiểu nỗi”. Đặc biệt về nhà Ân Thương ta đặc biệt lưu ý: - Thủ đô nhà Ân Thương ở tỉnh Hà Nam , Biệt Đô Triều Ca cũng chỉ ở ngay bờ Bắc Hoàng Hà, khi bị Chu Vũ Vương diệt thì trung tâm của Trung Hoa chuyển về phía Tây Nam. Như vậy lãnh thổ Trung Hoa tới hết đời Chu chưa vượt Hoàng hà chỉ trừ một mảnh đất nhỏ gọi là Hà nội, Nghiên cứu kỹ ta thấy :xương sống của Trung Hoa cổ đại gắn chặt vời chữ Hà – Hồ – Hải. - Khởi nguyên của dòng giống từ đất Hời (Champa) ngày nay với Thần Nông Thái Viêm tiến dần về sông Cả, rồi sông Mã, rồi Hồng Hà – Hạ Long , Đời Hạ thành hình ở vùng Nam Hải, Hải Nam, nhà Thương sang Hồ Nam, nhà Thương Ân ở An Huy rồi Hà Nam, tới đây nhà Chu thay nhà Ân Thương, hướng bắc tiến của dân Trung Hoa ngưng lại ( phương hướng hiện nay) trung tâm chuyển sang Tây Nam ; như thế bờ Hoàng Hà là ranh giới phía bắc của người Hoa , trên nữa là đất của Man hay Mông, chữ Hà trong Hà bắc không dính dáng tới quốc thống Trung Hoa cả, xét như trên chính dân Trung Hoa mới là người Hồ còn Mongoloit là người Man, vậy mà không biết từ bao giờ … bỗng lộn ngược …; người Man═ Mun = đen xưa gọi là Huyền thiên trở thành rợ Ngũ Hồ? còn người Hồ-Hải hay Hoa chính gốc lại biến thành Bách Man (tên khác của Bách Việt). - Triều Hùng Huy –Long tiên lang nổi bật về thành tựu văn hóa . - Thập can và Thập nhị địa chi lần đầu tiên xuất hiện ở đời nhà Thương. - Chữ khắc trên mai rùa bắt đầu có từ thời này. - Quy tàng dịch là dịch học của nhà Thương. - Đặc biệt những điển tích liên quan tới chữ viết đều gắn với từ Thương hay Thường : - Truyền thuyết cho rằng Thương Hiệt là sử quan của Hoàng đế đã chế ra chữ viết. - Vào thời vua Nghiêu xứ Việt Thường đã tiến cống Linh quy trên mai có khắc văn Khoa đẩu chép việc từ thời mở nước của Trung hoa. - Vào thời Chu cũng Việt thường tiến cống chim Trĩ cho vua Chu...với ý nghĩa Trĩ là loài chim tượng trưng cho văn minh... thực ra Trĩ được coi như thế vì Trĩ là đồng âm của ‘Chữ’ tiếng Việt , mà một khi đã có chữ tức là văn minh rồi. - Ở trên có nói đến văn ‘Khoa đẩu’ ;Khoa đẩu cũ là từ gốc Việt chuyển thể sang Hoa ngữ : - Khoa là ký âm hán tự của chữ ‘khoác ‘ trong Việt ngữ; khoác lác, nói khuyếc nói khoác là nói qúa sự thực đồng nghĩa với chữ dùng hiện nay là thổi phồng hay phóng đại tô màu...., ngôn ngữ bình dân dễ hiểu là làm cho to ra , bự ra. - Đẩu chỉ là ký âm tam sao thất bản của từ ‘Đầu’ tiếng Việt ; khoa đẩu nghĩa là làm cho cái đầu to ra , ngắn gọn thì chữ ‘khoa’ đồng nghĩa với chữ ‘to’; văn khoa đẩu là văn dùng lọai chữ ‘đầu to’. - Lịch sử chữ viết cho biết : Trung hoa về cơ bản chỉ có 2 loại chữ viết ; - Từ đời Chu trở về trước dùng loại chữ gọi là ‘Đại triện’ . - Từ đời Tần về sau dùng chữ ‘tiểu triện’ , chữ tiểu triện chính là tiền thân của chứ Hán ngày nay. - Mới nghe tên 2 loại chữ tưởng là xa lạ...nhìn kỹ lại thì ra tiểu triện chính là chữ Nho gọi theo người Việt...; nho là biến âm của nhỏ , chúng cũng kết thành từ Điệp ...Nho- nhỏ, chữ Nho là chữ nhỏ người Tàu chuyển ngữ thành chữ Tiểu triện ., và còn đại triện chính là loại chữ To đầu hay Khoa đẩu mà thôi , khi noí ‘khoa đẩu’ ta không hình dung ra điều gì nhưng khi biết khoa đẩu là con nòng nọc thì ta thấy ngay cái đầu to tướng của nó so với cái đuôi ngo ngoe tí xíu...chính điều này giúp xác định gốc chữ khoa đẩu là Việt ngữ. Thời nhà Thương đất trung tâm hay Ngũ lãnh ở tại Hồ nam ngày nay , phía nam là Hồ bắc lúc ấy gọi là Kinh man hay Canh – mun theo dịch học : ‘canh’ đồng nghĩa với nước ‘mun’ là màu đen cả 2 đều là dịch tượng chỉ phương nam . Với vùng đất phương nam này người nhà Thương bắt đầu tiếp súc trao đổi với cộng đồng dân cư lưu vực Hoàng hà , sự tiếp súc này đã đem lại sự thay đổi to lớn trong văn hóa và sinh hoạt của người họ Hùng : - tiếp thu từ “người Hoàng hà” một số hình vẽ coi như dạng thức tiên khởi của chữ viết . - Biết tới con ngựa.... ban đầu với người họ HÙNG là loài xa lạ nên đặt tên là con ‘ngộ’ tức con vật kỳ cục không giống bất cứ con vật đã biết nào , về sau ‘ngộ’ biến thành ‘ngựa’ như ngày nay . Trên cơ sở số hình vẽ ‘tiền chữ viết’ mới tiếp thu , người nhà Thương đã sáng tạo ra hệ thống chữ tượng hình ‘ Giáp cốt văn’ tiền thân của ‘khoa đẩu văn’ thời nhà Chu , truyện tích Việt thường cống chim trĩ cho nhà Chu xác nhận điều này ; Việt thường chính là nhà Thương , ‘trĩ’ chỉ là biến âm của “chữ” mà thôi . Khoa đẩu văn là chữ viết chính thức của người họ Hùng trước khi bị nhà Tần làm đứt ... “đuôi con nòng nọc” khi thực hiện ‘thư đồng văn’....( khoa đẩu = nòng nọc ) Tới đây ta thấy đã có lối ra cho câu hỏi tại sao một nước gọi là ‘văn hiến thiên niên quốc’ mà tới nay chưa tìm được chữ viết thời cổ....; không có chữ viết thì không thể nào gọi là văn minh được vì bản thân chính từ văn đã cấu tạo nên từ kép ‘văn minh’ . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 4, 2008 11 . Hùng triều thứ 11: Hùng Uy hay Hùng Vỹ Vua khai sáng : – Hoàng Hải Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Danh hiệu khác trong sử Hoa : Bàn canh -Triều đại Ân Thương Niên đại : cách nay 3.500 năm Chứng tích vật thể lưu tồn là các hiện vật thuộc nền văn hoá Đồng đậu. Trước hết ta khẳng định là ‘Ân” trong “Ân Thương” có nghĩa là Thứ 2, số 2, số đếm của người Trung Hoa xưa thì số 2 là ‘nhị’ cũng gọi là ‘ơn’, vậy Ân Thương chỉ có nghĩa là triều Thương thứ hai mà thôi. Vua thứ 19 triều đại Thương hay Việt Thường là vua Bàn Canh quyết định dời đô về phía Nam Dương Tử (phương nam Dịch Lý) nhà Thương đã phải dời đô nhiều lần vì lụt lội do sông Dương Tử gây ra vậy Tại sao mãi tới thời vua Bàn Canh mới quyết định dời đô? Vì dân Miêu thời nhà Hạ mới chỉ sinh sống ở Bắc (Dịch Lý) Trường Giang – tức vùng Ngũ Lĩnh sau này gọi là Giang Nam, sang đời Thương dân Miêu mới vượt Trường Giang sinh sống ở bờ bên kia, vài trăm năm sau đã đông đúc lập nên vùng Kinh Man như thế là đủ để Bàn Canh an tâm dời đô, vậy mà vua cũng không thuyết phục nổi tầng lớp quí tộc, sau cùng hoàng gia phải đi một mình cùng với tầng lớp bình dân, vì vậy ta mới có tên triều Ân Thương, không còn tiếp nối bình thường quốc thống nhà Thương, có sách sử ghi chép như là 1 triều đại mới, và có sách vẫn xếp triều Ân Thương là 1 phần của triều đại Thương. Nhà Ân Thương khi mới vượt Trường Giang đóng đô ở An Huy, dựa vào tên tỉnh An Huy ngày nay ta có thể khẳng định như vậy. Triều Thương sử liệu Việt gọi là Hùng Huy – Long Tiên Lang ; An Huy hay Ân Huy có nghĩa là triều Hùng Huy thứ 2 tương tự như Ân Thương ; từ vùng này sau khoảng 300 năm nhà Ân Thương tiến tới bờ Hoàng Hà làm chủ cả 1 vùng rộng lớn gồm các tỉnh ngày nay là An Huy, Hồ Bắc và Hà Nam của Trung hoa . Tới thời vua Trụ dân Trung Hoa bắt đầu vượt Hoàng Hà ở cực bắc Hà Nam hiện nay, Trụ Vương đã xây dựng Biệt Đô Triều Ca và Lộc Đài , Cự kiều ở đấy, từ ‘ biệt đô’ chỉ rõ cho chúng ta: đó là vùng đất tách biệt hẳn với đất truyền thống của Trung hoa , sau này người ta phát hiện những dấu vết của kinh đô Trung Hoa cổ, cũng như thu được rất nhiều Giáp Cốt Văn trên bờ Bắc sông Hoàng Hà và coi đấy như 1 trong những bằng chứng chính để khẳng định quê hương người Hoa là lưu vực Hoàng Hà. Sự thực ra sao? Giới nghiên cứu khoa học đang đặt câu hỏi, sông Hoàng Hà không hề có loài rùa lớn sinh sống vậy những mai rùa khắc chữ lấy ở đâu ra ? các sử gia Tàu gỉai thích : Từ thời nhà Thương đã có sự giao lưu giữa cư dân ở 2 con sông Hoàng Hà và Trường Giang, số mai rùa khắc chữ được mang từ Trường Giang lên. Theo chính sử Trung Hoa thì đời Thương chưa có liên hệ gì đến Trường Giang, phải đến đời Trụ Vương nhà Ân Thương mới đánh dẹp và mở rộng lãnh thổ về hướng sông Hoài và sông Dương Tử “đem văn minh Trung Hoa trải đến vùng đó”. Việc Trụ Vương trước sức tấn công thần kỳ của ông Cơ Phát đã vội vã tha các “lao công tù binh” bắt ở vùng sông Hoài, phát vũ khí biến họ thành chiến binh, kết quả họ đã quay giáo đánh lại quân Trụ … việc này nói lên rất rõ là: Trụ Vương chưa chinh phục xong miền đông để tiến đến biển, như thế sự phát triển của Trung Hoa từ tây sang đông dọc theo Hoàng Hà mãi tới đời Trụ Vương mới tới gần biển mà thôi. Chúng ta nghĩ xem ở Hoàng Hà không có mai rùa thì làm sao nhà Thương có thể phát minh ra cách khắc chữ lên mai rùa? Phải ở nơi có sẵn mai rùa người ta mới có thể nghĩ ra cách sử dụng chúng , về mặt lý luận không thể nào nghĩ khác được là đời Thương không ở Hoàng Hà mà ở Trường Giang nên khi mở rộng từ sông Dương Tử lên Hoàng Hà người ta vẫn tìm về chốn cũ để lấy mai rùa đem về sử dụng. Sử Trung Hoa cho biết vào thời Thọ Tân Hoàng Đế tức Vua Trụ thì Trung Hoa đã có chư hầu ở 4 phía: - Phía Bắc là nước Thao. - Phía Nam là nước Quang. - Phía Đông là nước Từ. - Phía Tây là nước Chu. Ở đây cổ sử Trung Hoa đã dùng đúng phương của Dịch Lý. Ta đã biết: a. Nước Thao chính là đất Đào là đất của triều Hạ hay Hải Lang, về sau còn gọi là vùng Việt hay Nhiệt. b. Nước Quang là viết sai chữ Quan, Quan là dịch từ chữ Nom của Việt ngữ, Nom hay nhìn ta đã lý giải ở phần trước, nó chính là phương nước, Hành Thủy, Huyền Phương. c. Nước Từ cũng là dịch sang Hán ngữ chữ “Thương” của Việt Nam: Theo Dịch Lý Thương hay Tình Thương là phương Đông đối đẳng với phương Tây là phương của lý lẽ. Chính xác là chư hầu của Trung Hoa gọi là Nước phương Đông … dịch thế nào lại thành nước Từ , sau thời Chiến Quốc trở thành nước Tề là vùng Sơn Đông ngày nay. Chữ Từ này lại cận âm với chữ ‘Tà’ (chiều tà), Tư, Tử, Tây, Tề. Tề là 1 nước ở phía Tây Trung Hoa. Như vậy thời Chiến Quốc có tới 2 nước Tề, 1 nước Tề ở phương Đông và 1 ở phương Tây Trung Hoa. Nước Tề phương Tây là nước của nhà Chu phong cho Thái Khương, 1 đại công thần khai quốc. Thái cũng có nghĩa là đại, chỉ ông lớn hay cả, hay thủ lãnh; Khương là biến âm của Khăng, Cang chỉ phương Tây, nó cũng chính là ký âm bằng Hán tự chữ Khmer ngày nay. d. Nước Chu chính là vùng đất gốc của nhà Chu sau này. Thực ra chữ ‘Chu’ cũng là chữ ‘Chiêu’ bên chiêu, ban chiều chỉ phương Tây mặt trời lặn hay thụt xuống, thụt biến thành Thục nghĩa là đất phía Tây. Trong số 4 nước thì 2 nước phía Nam (Dịch Lý) nước Quan, phía Đông nước Từ là ngoại tộc thuộc chủng Mongoloit là giống người khác hẳn người Hoa – Việt. Lịch sử Trung Hoa gọi họ là người Lu tức mờ tối hay phương Nam – Huyền Thiên, sau Lu → Liêu và ta có 2 nước của người Lu. - Nước Quan trở thành nước Quan Lu, tức Quan Liêu là nước Đông Hán sau này. - Nước Từ trở thành nước Tào Lao hay Từ Lu, sau này là “nòng cốt” làm ra nước Ngụy của Tào Tháo. Trụ là vua sau cùng của triều Ân Thương vô cùng tàn ác bị dân chúng nguyền rủa là ‘Ác Lai’, lai là biến âm của ly, lửa nghĩa đen là mặt trời, nghĩa bóng chỉ hoàng đế; Ác lai là ông vua ác, hay bạo chúa. Thực ra Trụ không phải là tên riêng của Thọ Tân Hoàng Đế. Tiếng Thái Lào vua là ‘Chậu’, tiếng Việt là ‘chủ’ ; chậu-chủ biến âm ra Trụ do ký âm Hán ngữ sai biến“chậu” là danh từ chung thành “Trụ” tên riêng. Triều đại Thương, vua khai sáng là Thành Thang, lập đô ở vùng sông Đường hay sông Thường. sang triều Ân Thương lần đầu tiên dân Trung Hoa tiến đến Hoàng Hà và Hoàng Hà lúc đó là cực Nam (Dịch Lý) của Trung Hoa nên lịch sử gọi là triều Hùng Vỹ , Vỹ là cái đuôi chỉ vùng cực Nam, gọi Hoàng Hải Lang vì kinh đô dời về vùng Hà Nam bên bờ Hoàng Hà đồng âm với Hoàng Hải . Đuôi và Đầu là 1 cặp đối , triều Hạ là nước Đào hay đầu ở phương Bắc (xưa) triều ân thương là Hùng vỹ nghĩa là triều Hùng phương nam . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 4, 2008 12- Hùng thứ 12: Hùng Chiêu - 1* Nước Cao-Ly hay Cao- Lê của Sùng Lãm. - Hoa văn dịch là nước Sùng , Kinh Thư gọi là nước Lê là phần tây bắc ( xưa) của Hồng bang thời nhà Hạ , cũng là đất Giữa thời lập quốc ngày nay là đất Bắc và bắc trung Việt. - 2 * Nước Đào hay nước Thao., là phần phía đông của Hồng bang thời nhà HẠ còn được gọi là đất Đông Hạ nay là Quảng đông Trung quốc. - 3 * Đất phong của Tây bá Xương thường gọi tắt là đất Bá cổ sử Việt gọi là Âu biến âm của ‘ô’ nghĩa là màu đen , ‘phương Ô’ đồng nghĩa với ‘Huyền phương’ trong cửu thiên tức phương Nam (xưa) nay là tây nam Quảng tây. - 4 * Nước Mật tu ký âm sai của Mặt tây nay là Vân nam Trung quốc. - 5 * Nước Thục còn gọi là đất Quý đất gốc tổ của nhà Chu nay là Quý châu Trung quốc. Hoa sử thường ghép nước Thục với đất Bá ông tây bá Xương thành đất Ba- Thục . - 6 * đất trung tâm của nhà Thương hay ‘trung Hoa’ thời Thương , sử Việt gọi là Việt Thường sau là đất Đường-Ngô nay là Hồ nam và Giang tây Trung quốc. - 7 * Nước Việt , đất dành riêng thờ Sơn tinh quốc chúa hay Hạ vũ nay là Phúc kiến- Chiết giang Trung quốc. - 8 * đất trung tâm của nhà Ân- Thương nay là Hà nam Trung quốc , đây là phần đất cực Nam ( xưa) của Trung –Hoa , nơi có đất Hà nội là mảnh đất duy nhất vượt Hoàng hà về phía bắc (phương hiện nay), nơi đây Trụ vương đã xây biệt đô Triều ca. - 9 * Nước Qủy phương là nước đã được nói đến trong kinh Dịch , chính xác là nước Cửu phương , phương số 9 là phương tây của Hà thư , cửu còn biến âm thành ‘cẩu’ nghĩa là con chó vì dân nhà Tần chọn chó Sói làm thần thú tượng trưng cho tộc mình , Quỷ phương còn được gọi là Xuyên Thục nghĩa là đất tây-nam (xưa) , Hoa sử thường gọi tắt là đất Thục gây ra sự lẫn lộn với Ba thục ;việc này ảnh hưởng rất lớn khi tìm hiểu về lịch sử Trung hoa , đất Qủy phươngnay là Tứ xuyên Trung quốc. ********* Vua khai sáng : – Quốc Tiên Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : An dương vương , Thục vương tử. Danh hiệu khác trong sử Hoa : Cơ xương , Chu Văn Vương Quốc hiệu : Văn Lang – Âu Lạc Niên đại : cách đây 3.100 năm Lưu tồn vật chất là những hiện vật khảo cổ thuộc nền văn hóa Đông sơn sớm. Theo truyền thuyết dân gian Quốc tiên lang còn được gọ là : Lang Liêu , Cổ Thục. Văn lang đồng nghĩa với Văn vương ; trong thiên khảo luận này đã nhiều lần ban đến , khi ta nói nước Văn lang tức là nói nước của vua Văn , là danh xưng cổ xưa của nước Việt ngày nay. Quốc tiên lang nghĩa là vua khai quốc. Sử Trung Hoa ghi vua Trụ cực kỳ xa hoa và tàn ác, có những hành động dã man và quái gở. Chú ông ta là Tỉ Can can ngăn cũng bị “thằng cháu trời đánh” mổ bụng moi tim trong khi đó ông Cơ Xương là người có thánh đức rất được lòng dân chúng, theo 1 sử liệu Trung Hoa thì Cơ Xương bị vua Trụ bắt giam vì 1 lời sàm tấu của Sùng Hầu Hổ nghĩa là quí tộc tước hầu đất Sùng tên là Hổ; nơi Cơ Xương bị giam là ngục “Dĩu Lý”, Dĩu Lý không phải là tên riêng mà : ‘Lý’ là luật, lệ; ‘Dĩu’ là tiếng Việt biến âm: Dĩu → giữ, ta có thể hiểu là nơi giam giữ tức nhà tù tương tự ngày nay hay nói là vòng lao lý đúng ra phải là lưu lý , lưu cũng là giữ , sau nhờ sự “chạy chọt” của quí tộc nước Thục dâng rượu ngon, gái đẹp … Trụ mới thả Cơ Xương ra và phong là Tây Bá Hầu cũng gọi là vạn gia bá hay vạn hộ hầu . Được sự phò tá của Thái Công Lã Thượng và sự ủng hộ của dân chúng phía tây, Cơ xương bắt đầu gây dựng đế nghiệp. Đầu tiên ông đánh nước ‘Mật Tu’ vì chúa nước ấy tàn bạo bị dân chúng oán ghét. Mật Tu là nước nào? Mật Tu là từ Việt ký âm bằng Hán ngữ sai đi: Mật Tu = Mặt Tây. Mặt Tây của đất Bá-Thục hay 3 Thục chính là vùng Vân Nam ngày nay. Ở trên ta đã biết thời nhà Thương hay Việt Thường thì Ngũ Lãnh tức trung tâm quốc gia là Hồ nam, phía Tây Hồ Nam là đất Thục phía Đông là đất Dương ;Thục là từ Việt Thụt → Thục , thục cũng nghĩa là chín phản nghĩa với sanh nhưng thục lại là đồng âm với chín -9 là số chỉ phương tây trong Hà thư , tóm lại theo dịch lý thì sanh chỉ phương đông thục chỉ phương tây . Đất Thục chính là Quý châu ngày nay ; Quý là can số 9 trong thập can nên Qúy và Thục là từ đồng nghĩa cùng chỉ đất ở phương tây của thiên hạ . Cha của Văn vương là Vương Qúy , vương Qúy không phải tên mà là tước hiệu của thủ lãnh đất Qúy như vậy cũng đồng nghĩa với Thục vương mà theo truyền thuyết Việt thì Thục Phán – An dương vương là Thục vương tử nghĩa là con của Thục vương suy ra An dương vương cũng chính là Văn vương trong Hoa sử , An dương vương chỉ là biến âm của Âm dương vương hay vua dịch lý điều này hoàn toàn khớp đúng với việc Văn vương tác dịch . Người Việt hay dùng thành ngữ : đen như cổ thục nhưng đoan chắc rất ít người biết Cổ Thục là gì ; Cổ Thục là biến âm của Cả Thục nghĩa là thủ lãnh đất Thục rõ ràng là từ dân gỉa gọi An dương vương hay Văn vương , Kinh Thư cho thông tin : Văn vương người cao và đen cháy... Thông Qua việc tác Dịch ta nối kết được các nhân vật : Cổ Thục , Âm dương vương hay An dương vương , Văn vương và Lang Liêu của Truyền thuyết ‘bánh dầy bánh chưng’ cả bốn chỉ là danh hiệu của một người ; bánh dầy bánh chưng là biến âm của bánh giời bánh giăng hay bánh trời bánh trăng cũng là Âm dương của dịch học , trong truyền thuyết này ta còn thu được thông tin hết sức qúy gía : Lang Liêu đồng nghĩa với Liêu vương hay vua của dân Liêu tên khác của người Di Lão mà ta đã biết , Liêu-Lê-La-Lão... đều là biến âm của từ Lửa ,các tộc này hiện là dân chủ lực vùng tây nam (nay) Trung Hoa và được gọi chung là người Kađai hay tây đồ di. Trung Hoa có 2 đất Thục : - đất Bá Thục gọi sai ra ba Thục là Qúy châu ngày nay; còn Xuyên Thục nghĩa là đất Tây nam (theo Dịch Lý) nay là Tứ Xuyên , Khi phân lập dựa trên mã tin Dịch Lý thì Tứ Xuyên cũng có nghĩa là Tây Nam. Tứ là số 4 phương Tây, Xuyên là sông, chỉ sông nước phương Nam. rất nhiều tư liệu lịch sử chỉ viết có mỗi chữ Thục nên gây ra sự rối bời sau này. Đất Ba Thục là Quí Châu ngày nay, nơi sinh sống chính của người Liêu hay Di Lão còn . Các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện đường thiên di từ phía tây Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh qua tây Bắc Việt Nam lên tới Quí Châu nhưng lại nhận định ngược chiều là từ Quí Châu xuống Việt Nam . Đường thiên cư này chính là con đường của Bá Ích đi ở ẩn và cũng là con đường Cổ Công Đản Phụ dẫn dân di cư sau 5 lần dừng chân, cuối cùng mới ở hẳn Kỳ Sơn. Đất Kỳ Sơn sau là Kỳ Châu . Kỳ Châu → Ký Châu (đất của Tô Hộ cha của Đát Kỷ); Ký Châu → Quí Châu. Quí là Can chỉ số 9 trong Thập Can. Số 9 trong Hà Thư là số chỉ phương tây đồng nghĩa với Thụt – Thục. Tới đây ta có thể xác định: Quí Châu là đất Ký Châu nơi có Kỳ Sơn xưa. Quí Châu cũng là đất Thục trong sử Trung Hoa và Việt Nam, chi tiết quan trọng giúp ta khẳng định điều này la: cha của Văn Vương tên Vương Quí , nghĩa là Vương đất Quí (Châu) như đã nói ở đoạn trên, vương Qúy là cấu trúc Việt ngữ , Hán văn gọi là Quý vương. Một dẫn chứng cho việc xác định đất Bá Thục Nùng trí cao lấy đất phiá nam Đại Việt tự lập làm vua đặt tên nước là Đại Lịch sau đổi là Đại nam , theo chính sử Trung hoa : Trí cao ‘chiếm’ lấy Quảng đông-Quảng tây rồi từ đây tiến đánh Ba thục khiến cả triều đình nhà Tống rung rinh....; thử hỏi nếu Ba thục là Tứ Xuyên thì làm sao Nùng trí cao tiến đánh được ..?. vì Quảng tây ngăn cách với tứ xuyên bởi Quý châu , quân đi ngả nào mà đến đánh Tứ xuyên được .? hay thời ấy Nùng trí cao đã có lính nhảy dù...? mà việc Nùng trí cao đánh Ba thục là việc có thực điều này dẫn đến kết luận : đất Bá thục là Qúy châu ngày nay không thể nào là Tứ xuyên được . Ta cũng khẳng định được người Liêu hay Di Lão chính là nhánh Lửa của Họ Hùng con dân của Đế Nghi trước ở đất Giao –bắc tức đồng bằng Thanh nghệ tĩnh và núi rừng phía tây đã bị Hạ Khải đánh đuổi trở thành tứ di của Hoa sử . Con đường thiên di xuất phát từ phía tây Nghệ An – Hà Tĩnh chính là đường chạy trốn của Hữu Hổ Thị , họ Cơ của Cơ Xương, Cơ Phát cũng cho thấy họ là hậu duệ chính truyền của Hiên Viên, tổ họ Cơ . Hiên Viên, Hiền Vương, Hiền Đức, Hùng Vũ chỉ là 1 vị vua mà cả người Việt và Hoa tôn làm quốc tổ . Ý nghĩa của tên Cơ Xương- Cơ Phát là : Cơ, Cô nghĩa là thủ lãnh ; Xương là từ Việt (Hán ngữ là ‘Cốt’) : ‘Cơ Xương’ là thủ lãnh gây dựng nền tảng. ‘Cơ Phát’ là thủ lãnh mở mang, phát triển. Tất cả là danh hiệu do các sử gia đặt chứ không phải là tên riêng như chúng ta ngày nay. Lạc long quân tức đế Khải hợp nhất dân 2 vùng Lạc và Long lập nên triều Hùng Hoa lấy con rồng làm biểu tượng dân tộc , người Di lão hay hữu Hổ thị trước sống ở vùng sông Cả thuộc hướng xích đạo , quẻ Lửa nên lấy con hổ làm biểu tượng , cuộc đối đầu Hoa –Di trở thành cuộc Long tranh Hổ đấu , long là thần thú hổ cũng không chịu thua và người Di đã thần hóa hổ thành con Ly hay Lân , không hiểu tại sao gọi là con Lân khi tứ linh vẫn là Long-Ly-Quy-Phụng , Lân còn được gọi là Kỳ Lân không hiểu chữ Kỳ nà có liên quan gì với Kỳ sơn hay không ?, long- hổ thường được nói đến trong từ kép Thanh long- Bạch hổ , chính những từ này giúp ta xác định sư thiên di của người Di-lão ; Hổ hay Ly chỉ ra gốc tổ của họ là vùng nóng bức gần xích đạo , bạch là màu trắng sắc của phương tây , từ kép bạch- hổ đã chỉ ra đường thiên di của của người Di lão đi từ phía bắc sang phía tây , phía tây chính là đất Thục , triều Chu của lịch sử. Sử Trung Hoa ghi: 3 năm sau khi chiếm Mật Tu Cơ Xương chiếm nước Sùng, nước lớn nhất miền Tây Trung Hoa, sử không nói đến việc Cơ Xương thành lập quốc gia nhưng lại nói ông xây kinh đô ở đất Sùng và gọi đó là hay đất ‘Phong’. Việc sát nhập vùng đất của Cơ Xương và đất Sùng được truyền thuyết lịch sử Việt Nam gọi là: “Sùng Lãm kết duyên cùng Âu Cơ”. Mẹ Âu Cơ của truyền thuyết Việt Nam chính là Cơ Xương , truyền thuyết Việt Nam có sự lẫn lộn : Lạc Long Quân có trước Sùng Lãm khoảng 1.000 năm, nhưng sử Việt lại ghi đó chỉ là 2 danh hiệu của 1 nhân vật ; ghép thành Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân . Theo Truyền thuyết Hùng vương đóng đô ở Phong châu , đấy cũng chính là đất Phong nơi Chu văn vương lập quốc. Phong Châu là miền Tây Bắc Việt Nam nơi mà nhà Đường sau này đặt Phong Châu Đô Đốc Phủ để trông coi các Châu Ki Mi. Cơ xương đánh chiếm nước Sùng truyền thuyết chép là Sùng lãm kết duyên cùng bà Âu-cơ , chữ Âu là biến âm của Ô là màu đen tên gọi khác của huyền thiên , ngày nay ta gọi là phương nam, đất Ô chính là cõi Nam giao còn có tên khác là đất Lâm hay Lam là Quảng tây –trung quốc ngày nay . Cơ là dòng họ của Hoàng đế hay Hùng Vũ ,cũng là biến âm của ‘Cả’ chỉ người đứng đầu hay thủ lãnh . Âu cơ là danh hiệu của chúa đất Nam hay Lâm với danh hiệu này có thể xác định đất Trụ vương ban cho Tây bá hầu –Cơ xương nằm trong tỉnh quảng tây ngày nay. Theo kết quả nghiên cứu cuả khảo cổ học Việt Nam thì Lào Cai là 1 trung tâm cổ, như thế rất có thể thực ấp của ông Chu Công chúa nước Lỗ. Lào biến âm của từ lửa cũng như Liêu, Lỗ, cai là biến âm của Cô, hay cơ ; Lào Cai nghĩa là chúa đất Lão hay nước Lỗ . Nếu Lào cai là thực ấp của Chu Công do Chu Văn Vương phong khi lập quốc Âu Lạc, thì Chiêu Công Thích cũng có thực ấp là Yên Bái, chính xác là “Yên Bá” vì sau này khi Chu Vũ Vương lên làm thiên tử của Trung Hoa thì ông Chiêu Công Thích được phong là chúa nước Yên với tước bá trong hàng quí tộc gọi tắt là ‘Yên Bá’. ‘Chu công’ đồng nghĩa với ‘Chu lang’ của Việt ngữ , từ Lang người Tàu ký âm cố tình sai thành nam ; Chu lang biến thành Chu nam , tương tự như vậy đất Thiệu nam là thực ấp của Thiệu lang hay Thiệu công Thích , thật bất ngờ khi Chu nam và Thiệu nam hai vùng đất nổi tiếng về phong hoá được chép trong kinh THI lại là đất Lào cai và Yên bái của Việt nam ngày nay. Cơ Xương chính là Thục Vương tử người đã sát nhập đất Thục với đất Sùng lập nên quốc gia Âu Lạc để Sau này Cơ Phát là cháu Thục Vương (sử Việt gọi là Thục Phán) diệt vua Trụ chấm dứt triều Hùng Vỹ – Hoàng Hải Lang, sử Việt Nam gọi là chiếm nước của Hùng Vương . Cơ Xương lên ngôi vương nước Âu Lạc hiệu là An Dương Vương, ở phần Dịch Lý đã nói tới: An Dương vương cũng là Âm Dương vương hay vua Dịch Lý, điều này xác định Cơ Xương và Âm Dương Vương là 1 nhân vật, là Lang Liêu trong cổ tích, cũng chính là Chu Văn Vương. Và 1 điều vô cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam là xác lập được : -Văn Vương cũng là Văn Lang đều có nghĩa là “vua Văn”. Người Việt Nam ai cũng biết Văn Lang là quốc hiệu thời cổ xưa của nước mình, nhưng chỉ biết sự linh thiêng, là nơi hội tụ anh hồn tổ tiên nhưng không biết Văn Lang cũng chính là Văn vương tổ nhà CHU theo sử Trung hoa, khi ta nói nước Văn Lang là có ý nói : Nước của vua Văn. - Chu Văn Vương là tổ triều đại Chu. - Chu Vũ Vương là hoàng đế sáng lập triều Chu. Văn Lang hay Văn Vương là vua nước Âu Lạc, thời Chu Vũ Vương Âu Lạc trở thành “Trung Hoa” của thiên hạ, chính vì thế mà triều Hùng Ninh vua khai sáng có danh hiệu là ‘Thừa Văn Lang’. Gọi nước Văn Lang là gọi theo tên vua khai sáng. Gọi Âu Lạc là gọi theo tên tộc người và mảnh đất đã tạo thành quốc gia , Lạc là con cháu Lộc Tục, Âu cũng là ‘ô’ là đen, mã tin chỉ vùng phương Nam đất trung tâm ( Giao Chỉ.) Văn Lang - Âu Lạc là 2 tên gọi của 1 nước . Cổ sử Việt Nam đã sai lầm khi viết là Thục Vương đánh bại Hùng vương chiếm nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc, và thủ đô quốc gia là Phong Châu . về Cương vực nước Văn lang hay Âu- Lạc truyền thuyết đã chỉ định hoàn toàn chính xác chỉ bị đổi phương hướng mà thôi ; vì chúng ta đã cột chặt mình vào đường biên quốc gia khỏang ngàn năm trở lại đây , tự giam hãm tâm trí mình không dám thóat ra để nhận một tổ quốc rộng lớn hơn dù đã có lời nhắn gửi chỉ dẫn của tiền nhân qua truyền thuyết lịch sử . Theo truyền thuyết thì nước Văn Lang : Bắc giáp Động đình hồ. Nam giáp nước Hồ tôn tức Chiêm thành xưa. Đông giáp nam hải . Tây giáp nước Thục. Động đình hồ không phải là Động đình hồ ở Trung quốc ngày nay , trong những phần trước đã luận bàn nhiều ; Động đình hồ với nghĩa là biển Đông buộc ta phải chỉnh sửa cổ thư : Nước Văn lang : phía đông giáp biển Đông. Phía tây giáp Xuyên thục tức tỉnh Tứ xuyên Trung quốc ngày nay , thục chỉ có nghĩa là hướng tây. Phía bắc giáp nước Hồ tôn sau là Chiêm thành , Hồ là biến âm của hai tức số 2, tôn là can Tân hay tưng, tênh đi cặp với nhị biến âm của nhẹ thành từ kép ‘nhẹ tênh’, nhẹ tênh là tên của cặp số 2- 7 trấn phương Bắc tức hướng xích đạo theo Hà thư. Phía nam giáp Hồ nam 1 tỉnh của Trung quốc., Hồ nam bị sửa thành Hải nam rồi Nam hải như chép trong truyền thuyết. Cụ thể ta có thể xác định lãnh thổ nước Văn lang xưa là : Quý châu-Vân nam- Quảng tây thuộc Trung quốc ngày nay. Miền Bắc và Bắc trung bộ thuộc Việt nam ngày nay. Quý châu và Vân nam là miền tây Văn lang , Qủang tây và phần đất thuộc Việt nam ngày nay hợp thành Đông Văn lang ; 2 miền đông và tây sau trở thành địa giới của 2 triều Đông Chu và Tây Chu . Lãnh thổ nhà nước Văn lang theo truyền thuyết chính người Hoa đã xác nhận trong khi người Việt lại chối bỏ ...? Sách “Nguyên Hòa Quận Chí” chép: “Quí Châu Cố Tây Âu Lạc Việt chi địa”. Sách “Thông Điển” chép: “Quý Châu bản Tây Âu Lạc Việt chi địa” nghĩa là: “ Quí Châu là đất Tây Âu Lạc Việt xưa”; Truyền thuyết Phù đổng thiên vương chép ...” giặc Ân sang đánh nước ta ...” nhiều sử gia Việt nam đã gạt ngay đi ...Lãnh thổ nhà Ân ở tận đâu đâu ...làm sao đánh nước ta được... Tệ hơn nữa là ở những năm 50 thế kỷ này một nhà nghiên cứu Trung quốc đã gửi cho Việt nam bản dập của tấm ’thẻ ngọc An dương’ mà họ tìm được ở gần qủang châu . Căn cứ vào loại chữ khắc trên đó là loại ‘cổ trựu’ sơ bộ xác định An dương vương sống cách nay khoảng 3000 năm ....vật chứng rành rành như thế mà cũng không thèm đếm xỉa gì tới ...không hiểu các vị làm khoa học kiểu gì đây ....thay vào đấy lại tưởng tượng ra những chuyện như Thục vương trong truyền thuyết Việt là con cháu của Thục vương bên Tàu bị Tần thủy hoàng chiếm mất nước nên chạy qua Việt nam....thật hết biết luôn.... May mắn còn có vị khoa bảng thế kỷ thứ 14 là Phạm Sư Mạnh để lại mấy bài thơ nói về tổ quốc xưa của dòng Hùng Chiêu hay Chu. “Văn Lang Nhật Nguyệt Thục Sơn Hà“ Văn Lang Nhật Nguyệt mà dịch là ‘Ngày tháng Văn Lang’ là trật rồi. Ta nghe chữ ‘Kinh Xuân Thu’ mà hiểu là bộ Kinh về mùa xuân và mùa thu thì chẳng có ý nghĩa gì. Thời cổ chưa dùng chữ lịch sử nên dùng 2 mùa xuân và thu tượng trưng cho thời gian là 4 mùa xoay vần nghĩa là những gì đã trải qua của 1 dân tộc, 1 đất nước, hay 1 con người trong 1 thời gian nào đó, tức là lịch sử vậy. Chữ nhật nguyệt ở câu thơ này cũng vậy; nó chỉ yếu tố động trong quốc gai nghĩa là triều đại. ‘Văn Lang Nhật nguyệt’ phải dịch là ‘Triều đại Văn Lang’ mới đúng. (Lang = Vương) và vế đối trong câu thơ là: sự chỉ định yếu tố tĩnh của quốc gia là lãnh thổ mà người xưa gọi là sông núi, sơn hà ; Câu “Thục Sơn Hà” đã chỉ rõ nước Thục hay Quốc Tây hoàn toàn đúng với truyền thuyết. Tóm tắt: Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang cũng là ông Tây Bá; Cơ Xương , Chu Văn Vương cũng là Lang Liêu, An Dương Vương, cổ Thục và bà Âu Cơ trong truyền thuyết Bọc trăm trứng . Chiêu vương và Chu vương là cận âm rất dễ nhận ra , truyền thuyết chỉ thêm chữ Hùng vào để xác định dòng giống mà thôi. Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của 1 quốc gia và chính là ‘Trung Hoa’ của thiên hạ thời nhà Chu. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 4, 2008 -13 . Hùng triều thứ 13 : Hùng Ninh Vua khai sáng : – Thừa Văn Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Thục Phán Danh hiệu khác trong sử Hoa : Ninh vương , Chu Vũ Vương Quốc hiệu : Văn Lang- Âu Lạc Niên đại : cách nay 3.100 – 2770 Lưu tồn vật chất của thời này là những hiện vật của nền văn hoá Đông sơn rực rỡ. Ninh vương là danh tước hiệu của Vũ vương nhà Chu Trung Hoa khi chưa lên ngôi . Thừa Văn lang nghĩa là Vua kế ngôi Văn lang hay Văn vương. Hùng Vương thứ 13 được truyền thuyết Việt Nam nói đến tương đối đầy đủ, rõ ràng. Trong Danh hiệu Hùng Ninh Vương thì chữ ‘Ninh” là mã tin Dịch Lý nghĩa là chắc chắn chỉ phương tây, phương không thay đổi, Việt ngữ có từ kép ‘đinh ninh’ nghĩa là chắc chắn như thế, ninh trong từ kép ‘an ninh’ cũng là nghĩa này, vậy Hùng Ninh Vương là Tây Vương họ Hùng, ‘Ninh Vương’ đồng nghĩa với “Tây Bá” tước hiệu của Cơ Phát . Theo chính sử Trung Hoa thì Chu Vũ Vương trước khi lên ngôi thiên tử có tước hiệu là Ninh Vương, Hùng phả chỉ thêm vào chữ Hùng ...còn Thừa Văn Lang nghĩa là vua kế nghiệp Văn Vương hay Văn Lang ;cơ sự đã qúa rõ;. Cơ Xương sau khi đã chinh phục xong lưu vực Châu Giang hay sông Tứ ngày nay thì qua đời, con là Cơ Phát lên kế nghiệp, sử Việt Nam gọi ông là Thục Phán (truyền thuyết Việt đã lẫn lộn 2 ông Cơ xương và Cơ phát ). Cơ Phát lãnh đạo chư hầu chờ thời cơ chín mùi mới xuất quân phạt Trụ, “Ác Lai” nhanh chóng bị đánh bại chạy về Biệt Đô Triều Ca phóng hỏa Lộc Đài rồi nhảy vào tự thiêu, sử Trung Hoa chép: Vũ Vương tiến chiếm Biệt Đô Triều Ca, chặt đầu Trụ Vương bêu trên cây “Bạch kỳ”, đoạn sử này cho ta thông tin: Nhà Chu lấy màu trắng chỉ phương Tây làm màu chủ tương ứng với đất của “Tây Bá” trên bản đồ Trung Hoa . Trắng là sắc của phương tây theo dịch lý. Cơ Phát lên ngôi hoàng đế Trung Hoa xưng là Chu Vũ Vương, nghĩa là hoàng đế khai sáng triều đại Chu, ông tôn vinh cha là Chu Văn Vương nghĩa là vua tổ triều đại Chu. Từ đấy đất Tây Âu Lạc trở thành “Trung Hoa” của thiên hạ và Thục Phán hay Cơ Phát trở thành Thừa Văn Lang nghĩa là kế nghiệp Văn Vương, Chu Vũ Vương thiên đô về Hạo Kinh hay Cảo Kinh: Hạo là trời Tây tong Cửu Thiên; Cảo, kiểu biến âm của Cửu là số 9 chỉ phương Tây. Theo Hà Thư Cửu Kinh hay Hạo Kinh có nghĩa là thủ đô phía Tây (nằm ở) của đất nước; Hạo Kinh là ở Vân Nam ngày nay, rất có thể là thành phố Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam . Tại sao Vũ Vương lại thiên đô về phương Tây? Vì phía Tây của Văn Lang là đất của NINH VƯƠNG, trước khi lên ngôi cũng là vùng biên cảnh tiếp giáp với cường địch là người Khang Tạng. Các nhà hoạch định chiến lược xưa của Trung Hoa có 1 quyết sách hết sức đúng; thủ đô không ở nơi an toàn trong lãnh thổ mà từ đời Tây Chu trở đi luôn ở nơi xung yếu đối mặt với cường địch – có như thế mới huy động được tối đa sức lực của cả nước vào mục đích giữ vững bờ cõi . Trung Hoa từ đời nhà Chu trở thành chế độ phong kiến; vua Chu phân phong cho quí tộc, công thần đi cai trị các vùng, xây dựng các nước “chư hầu”, đầu tiên Chu Công Đán được phong ở nước Lỗ, Chiêu Công Thích được phong ở đất Yên, Thái Khương Công được phong ở đất Tề. Những người đầu tiên được phong này chắc chắn có công trạng và địa vị rất cao và đất phong liền kề với “Trung Hoa” tức lãnh thổ nhà Chu. Chu Công Đán là vương nước Lỗ, lãnh thổ là phần lớn nước Lào và Bắc Thái Lan ngày nay; dân Đông Bắc Thái Lan vẫn nhận mình là người Lào, Lỗ biến âm thành Lão, Hán ngữ gọi là nước Lão Qua, ở liền kề đất Văn Lang. Chiêu Công Thích là vương nước Yên, nước Yên chính là An Ấp xưa, ấp là Ấp Quốc, An là biến âm từ chữ Ôn là nóng, phương Bức, hướng xích đạo; An Ấp thời Viêm Lang là đất của dân Lửa; Lạc Ấp là đất của Lộc Tục hay Lạc Tộc. Nước Yên sau là nước Chiêm Thành hay Chăm Pa, các vua nhà Trần Việt Nam gọi là An Chiêm . Khương Thái Công nghĩa là Đại Công Thần người Khương, tức tổ tiên người Khmer ngày nay ,được phong ở đất Tề là Nam Thái Lan và Cambodia ngày nay. Theo sử Trung Hoa sau khi nhà Chu phong tước kiến địa thì có tới 70 nước chư hầu. Trong đó các nước lớn: Tống ở Quảng Đông, Sở ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Tần ở Tứ Xuyên, Tấn ở Hà Nam, Ngô ở Giang Tây và Việt ở Phúc Kiến. Nhà Chu tỏ thánh đức của mình khi phong cho con vua Trụ là Vũ Canh tước hầu và tiếp tục lưu lại Ân Đô, lại sai 3 em của mình là Quản Thúc, Thái Thúc, và Hoắc Thúc giám sát Vũ Canh gọi là Tam Giám. Vũ Canh không phải là người họ Vũ tên Canh mà có nghĩa là vua phía Nam ; ý chỉ đất của Ân Hầu hay Thương Ân cũ nay ở về phía Nam Trung Hoa. Còn Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc nghĩa là 3 ông chú của đương kim hoàng đế triều Chu chứ không phải tên riêng. 3 ông chú này ‘giám sát’ thế nào để Vũ Canh cùng các bộ lạc Hoài Di, Từ Nhung khởi loạn; Hoài Di chỉ miền sông Hoài thuộc phía Đông Trung Hoa. Di là mã tin Dịch Lý, biến âm Việt ngữ là dời chỉ phương động; Nhung là biến âm thành Nhâm, can số 8 của Thập Can người Việt có câu “mềm như nhung” xác định Nhâm chỉ phương mềm tức phương Đông. Chữ Từ trong Từ nhung chính là nước của Tào Tháo tức Ngụy thời Tam Quốc. Sau cuộc Đông chinh thắng lợi này Chu Công xây đô thành mới ở Lạc Ấp và đem bọn quí tộc nhà Ân Thương chống đối về ở đấy để giám quản. Đô thành mới ở Lạc Ấp chính là thành Cổ Loa hay Cổ Lũy; biến âm của Cao Lỗ nghĩa là thủ lãnh nước Lỗ chỉ ở đây chỉ Chu Công ,sử Việt Nam gọi là tướng quân Cao Lỗ người đã có công giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa và chế ra nỏ thần . ----*-Thầy Phạm Sư Mạnh thế kỷ 14 viết về thành Cổ Loa: “Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ Lũy. Quốc Tây cự chấn tráng Chân Đăng.” Trong 2 câu thơ này: Kiểu là Kiểu Kinh hay Hạo Kinh ở ngoài vùng đất Bách Man hay Bách Việt tức vùng Lĩnh nam và Giang nam ở Trung Hoa; ‘hoàn Cổ Lũy’ nghĩa là ‘kinh đô lại trở về thành Cổ Lũy, tức Cổ Loa trên đất Việt, do trước đây Văn vương lập quốc đã đặt quốc đô ở Phong Châu trên đất Việt. Chu Vũ Vương dời sang Hạo Kinh ở đất Kiểu hay Cảo tức Vân Nam ngày nay , tới thời nhà Đông Chu lại thiên đô về đất Phong cũ nên mới có chữ ‘hoàn’. Quốc Tây chỉ triều Tây Chu ở phía Tây hay cũng có nghĩa là nước Thục.. ‘Cự chấn tráng Chân Đăng’ nghĩa là chống lại làm rúng động nước Chân Đăng mạnh mẽ. Chân Đăng chính là tên khác của nước Tần, lần đầu tiên thấy ghi trong lịch sử ; Chân chỉ phương Nam. Đăng chính là Đanh, Đinh, theo Dịch Lý là phương Tây vậy Chân Đăng là phương Tây Nam đồng nghĩa với Tứ Xuyên hay Xuyên Thục như đã biết ở phần trên; Đăng hay Đinh cũng là họ của dòng Tần vương như thế ta xác định được Tần Thủy Hoàng của sử Trung Hoa chính là Đinh Tiên Hoàng của sử Việt Nam . Sách ‘Phong thần Diễn nghĩa’ của Hứa Trọng Lâm cũng viết Tổ của nhà Tần họ Đinh . Khi Chu Bình Vương dời đô sang phía Đông thì đất cũ của nhà Tây Chu chia thành 2 chư hầu mới, phần Vân Nam thành nước Triệu đây là nước đã dành tế điền của nhà Đông chu thời chiến Quốc , Phần Bắc Vân Nam là Tây Quí Châu lập lại nước Thục do Thục hầu cai quản , nước Thục bị Tần diệt năm 306 trước Công Nguyên ; đọan sử này không có sách nào nói tới . Có sự trùng hợp không biết là ngẫu nhiên hay có sự đưa đẩy vô hình nào đó mà Hà Nội ngày nay là chỗ định cư của ‘ngoan dân’ xưa … trùng tên với chính mảnh đất Hà nội nơi có kinh đô triều ca của vua Trụ nhà Ân Thương sát bờ Bắc của Hoàng Hà. Tần là âm Hán Việt, tiếng Quảng Đông đọc là ‘Chin’ cận âm với ‘Chưn’, ‘Chân’ và Chân Đinh cũng là Chân Định là Tứ Xuyên ngày nay. Triều Chu là triều tạo nề nếp cho Trung Hoa, nhiều điển chế còn tác động đến tận hôm nay, đặc biệt là Tông Pháp hiện còn len lỏi vào mọi gia đình Việt Nam , tục phân biệt trưởng thứ, phân biệt nam nữ đều bắt nguồn từ Tông Pháp thời Chu; chế độ phong kiến Trung Hoa cũng xuất phát từ thời này. Năm 841 trước Công Nguyên, Chu Lệ Vương rất bạo ngược, Quốc Nhân tức người trong kinh thành không chịu nổi đã tạo loạn khiến vua phải bỏ chạy và lưu vong ở đất Trệ, Trệ là biến âm của “Trại” chỉ người Mường ở Việt Nam , “Trọ trẹ” là từ chỉ sự phát âm của người Nghệ An – Hà Tĩnh, rất có thể đất Hoà bình là kinh đô mới của Chu lệ vương nhưng sách sử cổ đã bỏ qua không nói đến . Vắng vua các đại thần phải lập ra “Cộng hòa hành chính” để thay quyền vua trị nước, chữ cộng hòa ngày nay bắt nguồn từ đấy. Từ năm 841 trước Công Nguyên, Trung Hoa bắt đầu bước vào lịch sử đầy đủ ghi chép từng năm. Thời Chu U Vương, Khuyển Nhung, 1 rợ phương Tây tấn công và chiếm nhiều đất đai của Trung Hoa, khi Chu Bình Vương lên ngôi đành bỏ Hạo Kinh dời đô sang phương Đông tức đến Lạc Ấp và bắt đầu thời Đông Chu, thủ đô là thành Cổ Loa hay Cổ Lũy. Như đã nói ở trên Cổ Loa hay Cổ Lũy chỉ là biến âm của tên vị tướng quân đã xây dựng nó, đó là Cao Lỗ hay chúa nước Lỗ tức Chu Công, sử Trung Hoa ghi rõ … Chu Công xây đô thành mới dựa trên nền thành cũ, thành cũ ở đây phải chăng là phong kinh thời Văn Vương – tức là thủ đô nước Âu Lạc. Hiện nay thành Cổ Loa ở Đông Anh, Hà Nội vẫn còn nhưng không phải là Cổ Loa thành do Chu Công xây dựng, khi Mặt Ngựa (Mã Diện) hoàn tất việc xâm lược Trung Hoa theo lệnh của Khả hãn Lưu Tú, có xây dựng ở Giao Chỉ một kinh thành gọi là “Kiển Thành”, tới nay giới sử học vẫn tranh luận về thành Cổ Loa, đó thực sự là Cổ Loa thành hay là Kiển Thành của Mã Viện? Theo sự suy đoán của bản thân người viết thì đấy là Kiển Thành do Mã diện xây nên trên nền 1 thành cổ của binh lính nhà Chu trấn đóng để canh chừng đám 'ngoan dân'. Cổ loa , Cổ Lũy , Khả lũ , Cổ Lỗ , Cao lỗ và Đại La chỉ là biến âm của một từ là tên của thành đô nhà Đông Chu và trung tâm của thành này nằm ở Phú thọ gần đền Hùng linh thiêng rất có thể là làng Cả một địa điểm khảo cổ quan trọng hiện đang nghiên cứu . ‘Làng cả’ là từ đồng nghĩa với Đô ấp hay Đô thành ngày nay ta goị là thủ đô. Kinh đô . Ở làng cả người ta đã tìm thấy nhiều hiện vật khảo cổ bằng đồng thau kể cả trống đồng mang phong cách Điền ở Vân nam ; phải chăng đấy chính là phong cách chế tạo của người KIỂU kinh tức kinh đô nhà Tây Chu đúng như câu thơ của Pham sư Mạnh : Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 4, 2008 14- Hùng triều thứ 14: Hùng Tạo Vua khởi đầu : – Đức Quân Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Đức Tân Danh hiệu khác trong sử Hoa : Chu bình vương - nhà Đông Chu Quốc hiệu :Văn lang – Âu lạc Niên đại : 770 – 221 trước CN (Bắt đầu dùng năm chính xác) Chứng tích Vật thể lưu tồn : nền văn hóa Đông sơn rực rỡ Nhà Chu khi dời đô về Lạc Ấp đã rất suy yếu, ngược lại các chư hầu mặc sức mở mang lãnh thổ kể cả thôn tính lẫn nhau, dần dần chỉ còn 5 chư hầu lớn thay nhau làm Bá, đó là các nước: Tấn, Tần, Sở, Tề, Tống, lịch sử gọi là Xuân Thu Ngũ Bá. vương quyền chỉ còn là tượng trưng, quyền hành thực sự nằm trong tay các Bá, chữ ‘Vương đạo’, ‘Bá Đạo’ xuất phát từ thời này. Từ năm 475 trước Công Nguyên, Trung Hoa bước sang thời Chiến Quốc. Các nước Lỗ, Yên, Tề, Tống, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, Tần, Ngô, Việt … đánh lẫn nhau, thời Xuân Thu Chiến Quốc chiến loạn triền miên khoảng 500 năm, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Ta nhận thấy việc phân chia thành các “nước” ở thời Xuân Thu Chiến Quốc không qua đi mau chóng theo sự tiêu vong của nhà Chu, mà nó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay qua việc phân chia các tỉnh và thổ âm thổ ngữ Trung Hoa, đối với 1 dân tộc, 1 đất nước đã trưởng thành thì cấu trúc của nó là cấu trúc bền vững, theo thời gian và thời cuộc dĩ nhiên có biến đổi nhưng không thể xóa sạch dấu tích, đối với Việt Nam cũng vậy: 2 làng ở cạnh nhau lâu đến vài trăm năm nhưng vẫn có giọng nói khác nhau, cứ đời con nối đời cha, thời gian đành thua không đồng nhất nổi. Có thể nói từ thời Đông Chu cái nếp Trung Hoa đã hình thành bản sắc dân Việt – Hoa đặt trên nền tảng văn minh nhà Chu, vốn cổ Trung Hoa được “siêu nhân” Khổng Phu Tử tổng kết trong Ngũ Kinh, Thư, Thi, Dịch, Lễ, Nhạc. Chính Khổng Tử cũng đã nói rõ “thuật nhi bất tác”, riêng Kinh Lễ là tâm huyết của Khổng Tử với quốc gia xã hội, hy vọng rằng “Lễ trị” sẽ giúp quốc thái dân an, con người có nếp sống văn minh lịch lãm nhưng khổ cho ông sinh vào buổi nhiễu nhương, xã hội toàn là những “mưu bá đồ vương” và phường “giá áo túi cơm” nên Lễ Trị của ông đành ngậm ngùi theo ông xuống lòng đất, nhưng nay chắc ngài cũng cũng mĩm cười khi hậu thế tôn vinh là “vạn thế sư biểu” thật xứng danh, đối với dân Việt-Hoa thì Khổng Tử là 1 siêu vỹ nhân vì không có Khổng Tử thì chưa chắc nhân loại đã biết là có nền văn minh Trung Hoa, và Kinh Dịch siêu phẩm của trí tuệ loài người chưa chắc đã có ai hiểu nổi. Nền văn minh triều Chu còn lưu tồn dấu vết khá phong phú với nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn. Sơ kỳ văn hóa Đông Sơn khoảng 1.000 năm trước Công Nguyên là thời Văn Lang Âu Lạc và Tây Chu. Thời rực rỡ là thời Đông Chu từ 770 đến 221 trước Công Nguyên. Hiện vật đồng thau, gốm sứ và đá còn đầy dẫy đủ để phác hoạ cảnh sống, sinh hoạt của con người lúc đó. Tỷ lệ giữa đồ trang sức – công cụ sản xuất và vũ khí cũng chỉ rõ mức tàn khốc của chiến tranh thời Xuân Thu Chiến Quốc, đến thời cuối nhà Đông Chu thì hiện vật thu được chỉ toàn là vũ khí. Sự kiện tên các xã quanh Cổ Loa thành, tương truyền xưa là bãi tập bắn, nơi tướng quân Cao Lỗ rèn quân, có tên dựa trên chữ “nỗ” nghĩa Việt là nổ khiến ta không khỏi liên tưởng tới việc thần Kinh Quy ban cho vua Hùng chiếc móng, vua sai tướng quân Cao Lỗ chế thành nỏ thần và ta mãi ray rứt với câu hỏi không lẽ thời Chu ở Lạc Ấp đã có súng “Thần công”? Chữ nỏ chính là chữ nổ, tên các xã là Uy Nổ, Cường Nổ V.v… đều phản ảnh tiếng nổ, tiếng nổ ở bãi tập bắn “nỏ thần” thì ngoài nghĩa “tiếng nổ” của súng thần công đâu còn ý nghĩa nào khác? Bản thân từ súng cũng là tiếng Việt, súng là biến âm của “sấm” cũng chỉ tiếng nổ …, nếu ta kết luận thuốc nổ và súng thần công hay 1 loại nào đó tương tự còn ở dạng sơ khai, ban đầu đã ra đời ở Việt Nam trước Công Nguyên gần ngàn năm thì có vội vã lắm không? Chữ thần công khi phân tách cũng chỉ có nghĩa là: nỏ thần. Thần: chỉ siêu nhân, vô hình vô ảnh nhưng quyền phép đầy mình. Công là biến âm từ chữ cong, âm Hán là Cung viết sai thành chữ Công. Thần Công chính là Thần Cung hay Nỏ Thần. Sử Việt ghi rõ: nỏ thần là bảo khí trấn quốc, uy lực của nó đủ cho kẻ thù không dám mon men đến gần. Điều này cho thấy sức mạnh vượt bậc của nó so với thời đại. Đối chiếu hiện vật khảo cổ và cái nhìn mới về lịch sử Việt Hoa có thể xác quyết: Trống đồng là siêu phẩm văn hóa nhà Chu, trống đồng rõ ràng được chỉ định bằng Quẻ Lôi Địa Dự trong Kinh Chu Dịch với Đại Tượng Truyện của Khổng Tử: “Sấm nổ trên đất, Tiên Vương dĩ tác nhạc, sùng đức ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.” Ở 1 phần trước đã nói rõ ý nghĩa lời Tượng này, ở đây ta bàn về những vấn đề của lịch sử do Thần Trống đồng chỉ ra. Việt Nam có truyền thuyết Thần Trống đồng giúp Hùng Vương đánh giặc và sau đó để tưởng nhớ vua Hùng đã phong la “Đồng Cổ Sơn Thần” và đặt đền thờ ở núi Khả Lao. Các nhà nghiên cứu Việt và Hoa còn đang tranh luận về nơi phát tích trống đồng, Việt Nam hay Vân Nam hay Quảng Tây, 3 trung tâm của văn minh trống đồng. Với cái nhìn mới về lịch sử Việt Hoa thì việc này không quan trọng nữa vì Việt Nam, Vân Nam, Quảng Tây chỉ là 3 miền của nước Tây Âu Lạc hay Văn Lang mà thôi. Vân Nam, Quảng tây, Việt Nam chính là Tây – Âu – Lạc xưa. Bản thân chữ Vân Nam cũng chỉ là chữ viết sai của quốc hiệu Văn Lang mà thôi, tương tự Hải Lang biến thành Hải Nam. Ở Quảng tây có di chỉ khảo cổ học Vạn gia bá nổi tiếng vì tại đây tìm được nhiều trống đồng vào hàng xưa nhất ; phải chăng đấy chính là đất Trụ vương ban cho Tây bá hầu Cơ xương . Về di tích lịch sử dân tộc còn nhiều việc phải làm, nhiều nơi phải nghiên cứu lắm, như Hang Bua ở Nghệ An hay Đền Hùng ở Vĩnh Phú. Nơi Đền Hùng linh thiêng có 1 việc tối quan trọng mà ta có thể làm sáng tỏ: Dân gian truyền tụng nơi Đền Hùng có mộ Hùng Vương thứ 6, đây là mộ thật, sau triều Nguyễn tôn tạo thành đền thờ cho đến hôm nay. Hùng Vương thứ 6 không phải là số thứ tự, 6 là Lục, Lạc là Hùng Lạc, kết hợp với ý nghĩa câu : ‘Triệu tổ Nam bang” có thể luận ra Đó là mộ Hùng thuần vương hay Hùng Lạc vương tức là đế Thuấn của Hoa sử. Khảo cổ Việt Nam đang tìm cách lý giải: văn hoá Đông Sơn có 2 dòng chảy chính mà từ chuyên môn gọi là: loại hình Làng Cả và loại hình Thiệu Dương. Cả 2 đồng tồn tại trên đất Việt nhưng rõ ràng có nét khác biệt nhất định. Các hiện vật thu được kể cả trống đồng của loại hình làng Cả phảng phất phong cách Điền, tức phong cách du nhập từ Vân Nam. Chính sự kiện này đã đóng dấu xác nhận thời lịch sử mà Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh viết là: “Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy”; thời nhà Chu đời đô từ Hạo Kinh hay Kiểu Kinh về Lạc Ấp- Cổ Loa Thành. Thần Đồng Cổ đã soi sáng cho chúng ta nhiều điều: Thứ nhất là: Hệ kỹ thuật đúc đồng từ tỉ lệ pha trộn kim loại, kỹ thuật đúc, V.v… chỉ rõ không gian thống nhất của chủ nhân đã tạo ra nó là người Đông Nam Á. Thứ hai là: các hoa văn, hình khắc trên đó vừa phản ảnh sinh hoạt lễ hội mà từ các hình ảnh sống động đó khoa học có thể tìm ra nguồn gốc dân tộc và anh em họ hàng, vừa khẳng định dấu ấn của Dịch Lý với đạo Tam Tài: chim – người – nai, nhưng trên hết là tín ngưỡng thờ trời, tượng trưng bởi hình mặt trời và các tia nắng luôn luôn ở trung tâm của mặt trống. Thứ ba; Trống đồng và công dụng của trống đồng giúp ta có thể tìm ra anh em, dòng giống một cách dễ dàng dù lớp bụi thời gian có dày tới đâu khi dùng Thần Đồng Cổ làm tiêu chuẩn người Việt vẫn có thể nhìn anh em ruột thịt. Việc đánh trống đồng trong các lễ tế trời và thờ kính tổ tiên cho chúng ta công thức: - Dân nào sử dụng trống đồng thì đó là anh em ta vì cùng thờ 1 tổ tiên. - Đất nào có trống đồng thì đất đó là lãnh thổ Họ Hùng. Từ đặc tính thể hiện quyền uy và tín ngưỡng mà trống đồng thể hiện ta phải “nhìn lại” lịch sử , trống đồng là loại hình ấn kiếm sắc phong thời cổ nên chỗ nào có trống đồng thì đấy là đất của công thần nhà Hùng . Tương lai Đông Nam Á tùy thuộc rất nhiều vào sự nhìn nhận và vị trí của “Đồng Cổ Sơn Thần” trong nền văn hóa, văn minh của mình. Truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa xuất phát từ việc Chu Công xây đô thành ở Lạc Ấp, tướng quân Cao Lỗ chính là Chu Công, vương của nước Lỗ. Thời Chiến Quốc có mấy điều phải lưu ý: Họ Triệu diệt quốc Văn Lang – Âu Lạc là Tần vương chứ không phải Triệu Đà vua Nam Việt . Nhà Tần họ Triệu, Tần Thủy Hoàng là Triệu Chính ,chúng ta sẽ luận bàn kỹ lưỡng hơn trong chương viết về nhà Tần . Theo sách ‘Tam Phần Thư” thì Trung Hoa có 3 loại Dịch Lý, đó là Liên Sơn, Quy tàng, và Chu Dịch, căn cứ theo mạch văn thì nếu Chu Dịch là Dịch Lý nhà Chu thì Liên Sơn Dịch và Quy Tàng Dịch phải là Dịch Lý của nhà Liên Sơn và nhà Quy Tàng, 2 tên này chưa nghe lịch sử nói đến, nhưng dựa trên ngữ nghĩa ta có thể xác định: Quy tàng Dịch là Dịch Lý của nhà Thương vì Việt Thường ở bờ Trường Giang nơi có loài rùa lớn sinh sống, mai của nó đã được dùng để khắc Dịch Lý hay ít nhất cũng là Hà – Lạc và Bát Quái vì thế có tên là Qui tàng Dịch. Còn Liên Sơn Dịch là Dịch Lý của nhà Hạ, bởi 2 lẽ: - Đấy là Dịch được khắc vào đá núi, có thể là triền núi hay hang động. - Đó là Dịch Lý cuả thời dân Trung Hoa do lụt lội phải sống nơi vùng cao, hình tượng là Liên Sơn tức đồi núi chập chùng, cũng là thời của Sơn Tinh hay Tản Viên Quốc Chúa, tên 1 dãy núi ở miền Bắc Việt Nam mô tả xác thực hình ảnh thời đại này đó là dãy Hoàng Liên Sơn. Ở phần trên đã nói là: diệt quốc Văn Lang là họ Triệu, họ của vua Tần chứ không phải là Triệu Đà của Nam Việt, đó là năm 256 trước Công Nguyên khi nhà tần chiếm đất và diệt nhà Đông Chu. Sự kiện này sử Việt lại chép thành: năm 257 trước Công Nguyên, Văn Lang bị Thục Phán diệt và lập nên nước Âu Lạc. Trọng thủy trong vụ án Tráo đổi nổi tiếng của lịch sử là con của Tần vương triệu Tắc chứ không phải con Triệu Đà vua Nam Việt . Ở những phần trên ta đã thấy Văn Lang và Âu Lạc là 2 tên của cùng một nước . sử Việt Nam còn lầm lẫn rất nhiều, có khi sai lạc cả đến 1.000 năm. Nhà Chu là triều đại dài nhất của Trung Hoa và dấu ấn nhà Chu Mãi mãi không hề phai lạt trong sinh hoạt đời thường cũng như tâm linh của người Việt Hoa., tên Văn Lang đã được sử Việt Nam chính thức coi là quốc hiệu thời lập quốc của mình. Nhà Chu trải qua tổng cộng: Tây Chu với 12 đời vua. Đông Chu với 25 đời vua. lãnh đạo quốc gia tới 1.000 năm và là triều đại dài nhất trong lịch sử Trung Hoa. Chỉ 2 câu thơ của thày Phạm sư Mạnh : Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ lũy (loa) Quốc tây cự chấn tráng Chân Đăng . Được đặt đúng vào dòng sử nhà CHU, đối chiếu với 2 phong cách của cổ vật Đông sơn là đã đủ chứng lý để viết lại cổ sử Việt nam và Trung hoa. An Dương vương được thờ ở đền Cuông ,núi Mộ Dạ thuộc Nghệ an ngày nay,tương truyền đó là nơi An dương vương mất sau cuộc truy sát của Triệu Đà . Chữ Dạ ở đây khiến liên tưởng tới nước Dạ lang và quẻ lôi địa DỰ , Dạ lang sử Việt chép thành Dã năng . Sấm nổ trên đất là tượng quẻ Dự đích thị chỉ tiếng trống đồng phải chăng ‘dự’ chỉ là ký âm động từ ‘giã’ trong tiếng Việt ?... từ ‘cổ’ nghĩa là cái trống chỉ là ký âm của từ ‘cối’ , cách đánh trố́ng đồng giúp ta khẳng định điều này . Dạ lang hay Dã năng chỉ là từ chép sai của Dã lang đồng nghĩa với Dã Vương nghĩa là vua CHÀY-CỐI tức vua Dịch học , chày cối chính là biểu tượng vật thể của ÂM-DƯƠNG nên DÃ LANG chỉ là tên khác của AN DƯƠNG hay ÂM DƯƠNG vương . Liên kết những mắt xích này đưa đến kết luận hết sức quang trọng cho Việt sử : Dạ lang chính là đất THỤC của AN DƯƠNG VƯƠNG cũng là đất của tây bá XƯƠNG sau là VĂN VƯƠNG vua Dịch lý . Đền Cuông núi Mộ Dạ ...rất có thể là nơi an táng Chu Văn vương vua tổ của nhà CHU Trung hoa và cũng là tác gỉa của Chu Dịch . Văn vương đồng nghĩa với Văn lang sau trở thành quốc hiệu thiêng liêng của người Việt , nước Văn lang nghĩa là : nước của vua Văn . Truyền thuyết Lịch sử ghi chép vắn tắt ...Vua tuốt gươm chém chết con gaí là Mỵ Châu rồi cầm sừng văn tê 7 tấc theo thần Kim quy đi vào biển ...đây có thể là sự huyền thoại hóa việc vua nhà CHU dong thuyền ra khơi....,có nghĩa là dòng dõi nhà Chu không phải đã tuyệt mà vẫn tồn tại ở góc khuất nào đó của lịch sử mà tới nay chưa được biết đến ...? những nơi có thể đến của đoàn thuyền nhân vong quốc chỉ có thể là Phillipin , Mã lai hay Indonesia ? ta cũng đừng ngạc nhiên ngỡ ngàng nếu đâu đó trong vùng đông nam Á phát hiện được những trống đồng to hơn , đẹp hơn những trống ở Việt nam. Nước Đại Việt văn hiến ngàn năm , điều đó khỏi phải bàn nhưng có điều lạ mãi cho tới nay vẫn chưa trả lời được câu hỏi về chữ viết của người Việt cổ Tiền nhân người Việt không coi Hán tự (nói theo ngày nay) là chữ của Tàu. Tại sao người xưa lại gọi là chữ Nho. ? phải chăng ‘nho’ là biến âm của ‘nhỏ’ như ta vẫn dùng trong từ điệp ‘nho-nhỏ’ và chữ ‘nho nhỏ’ chính là kiểu chữ tiểu triện như các nhà khoa bảng đã nói . Nếu Nho là kiểu chữ tiểu triện thì Khoa đẩu chắc chắn là chữ đại triện . Khoa đẩu thực ra là ký âm hán tự của từ Việt , khoa là ký âm chữ khoác tiếng Việt đồng nghĩa với khuếc như trong khuếc đại nghĩa là làm cho lớn ra . Chữ đẩu là ký âm chữ đầu , như thế Khoa đẩu chỉ có nghĩa là loại chữ Đầu lớn mà thôi . Về hình tượng ta thấy rất rõ sự liên quan giữa Khoa đẩu hay to đầu và con nòng nọc . Trong hán tự không hề có điều này . Văn nòng nọc hay Khoa đẩu là manh mối rất quan trọng trong công việc tìm kiếm chữ Việt cổ vì cổ sử Trung hoa có nói đến tích Việt thường cống Nghiêu đế con rùa trên mai có khắc văn khoa đẩu chép từ thời đựng nước... Và Khi đập vách nhà Khổng tử thì tìm được kinh Dịch ...và nhiều kinh văn khác... tất cả chép bằng văn Khoa đẩu... Tiền nhân còn nhắn gửi cho chúng ta 1 thông điệp chỉ dẫn về văn tự xưa đó là bức tranh Đông hồ :Lão oa độc giảng ., tôi không biết chắc chữ độc ở đây nghĩa là duy nhất hay là đọc nhưng điều đó không quan trọng , điểm nhấn là ở chỗ tại sao cổ nhân lại dùng hình ảnh con cóc tượng trưng cho việc truyền đạt văn hóa , chữ nghĩa ...? Cóc đẻ ra Nòng nọc Chữ đẻ ra Văn . Lão Oa đẻ ra Khoa đẩu Oa là con cóc đồng âm với Oa là chứa trữ . Trong tiếng Việt thì : chứa – trữ và giữ chỉ là một và là đồng âm của từ ‘Chữ’, 1 vật thể hay 1 hình ảnh dùng chứa hay mang thông tin thì gọi là CHỮ. -Vật thể hay hình ảnh là phần dương của chữ. - Thông tin chứa ở trong là phần âm của chữ . Đoạn : Oa đẻ ra Khoa đẩu trong ngôn ngữ Việt có thể hiểu là : -Chữ đẻ ra văn Đầu to. Mà ‘Chữ’ là từ Thuần Việt như vậy con của nó là văn Đầu to hay Khoa đẩu phải là của người Việt . Trước đây do bó hẹp lãnh thổ Văn lang trên phần đất bắc và bắc trung Việt nên việc truy tìm chữ cổ của người Việt qúa khó khăn tới nay chưa thu được kết quả cụ thể nào , nay với Sử thuyết họ HÙNG ta có thể mở rộng địa bàn tìm kiếm bao gồm cả : Vân nam –Quý châu và Quảng tây và tây Quảng đông, như thế công việc trở nên khả dĩ ... hơn nhiều -Một hướng truy tìm rất đáng lưu ý là : Dân tộc Bạch ở cực tây tỉnh Vân nam trung quốc vẫn lưu giữ một loại văn tự tượng hình cổ tới nay vẫn chưa đọc được ., các nhà ngôn ngữ học Việt nam sao không thử tìm hiểu và dùng tiếng Việt làm chìa khóa để giải mã... biết đâu sự việc này lại trở thành 1 khám phá chấn động trong thời đại chúng ta ? vì đã khám phá ra văn tự tượng hình cổ đó chính là chữ khoa đẩu hay đầu to của người Văn lang xưa . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 15 . Hùng Triều thứ 15 : Hùng Định Vua khai sáng : – Chân Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Đinh tiên Hoàng Danh hiệu khác trong sử Hoa : Tần Thủy Hoàng Quốc hiệu :Đại cồ Việt . Niên đại : năm 221 – 206 trước CN Chứng tích : hiện vật khảo cổ nền văn hóa Đông sơn muộn. Các nhà sử học Trung Hoa cố tình chọn năm 221 trước Công nguyên là năm Triệu Chính lên ngôi hoàng đế, với 1 lãnh thổ là đất đai nhà Chu và 8 chư hầu xưa: Tần – Triệu – Ngụy – Hàn - Sở – Tống – Yên – Tề ;không hiểu sao lại gọi là Tần diệt lục quốc, ta thấy khối Đại Tần vắng bóng 3 nước lớn: Lỗ, Ngô, Việt. Thời Tần Thủy Hoàng, từ ‘đế’ bắt đầu xuất hiện trở lại trong sử sách Trung Hoa, rất có thể đây là sự khởi đầu của ‘đế quốc’ chứ không phải là ‘quốc’ như trước nữa. Nếu gọi là nhà Tần thì phải khởi đầu từ năm 316 trước CN khi Chiêu Tương Vương chiếm đất Thục của nhà Chu. Nhà Tần xưng vương thực sự từ năm này trải qua 2 đời vương nữa mới tới Triệu Chính tức Thần Thủy Hoàng, và năm 256 trước CN, họ Triệu đã diệt quốc Văn Lang tức nhà Đông Chu như thế họ Triệu đã nắm 9 cái đỉnh tượng trưng cho vương quyền Trung Hoa với khí thế này thì các chư hầu khác sụp đổ nhanh chóng là tất yếu. Các sử gia Trung Hoa không biết vì lý do gì nhấn mạnh chữ ‘thủy’ là đầu tiên, tiếp theo là nhị thế, tam thế cho đến vạn thế mà làm lơ chữ Thủy cũng nghĩa là Nước ; thực ra các vì vương Trung Hoa từ đời Thương đã dùng các co số của Thập Can làm vương hiệu rồi, không đợi đến Tần Thủy Hoàng. Sở dĩ họ cố tình như thế để tránh có người hiểu chữ thủy là nước mã tin Dịch Lý chỉ phương Nam hay Huyền phương. Vì khi nhận ra thủy là phương nước thì hỏa theo Dịch Lý bắt buộc phải ở hướng xích đạo như thế … Nhà Hạ hỏa, Thương xanh phương Đông và Chu màu trắng không thể ở Bắc Hoàng Hà được (Xin xem bản đồ Trung Hoa). Chữ thủy này đích thị là mã tin Dịch Lý chỉ phương nước, Huyền phương, huyền thiên vì đi kèm chữ thủy còn có các mã tin khác như: nhà Tần chọn màu đen là màu chủ đạo, số 6 là chủ đạo, ta nhớ trong Hà Thư số 1 – 6 chỉ phương nước đối lập với số 2 – 7 chỉ phương lửa hay hỏa, họp hội thì bắt đầu vào tháng 10 tức tháng bắt đầu mùa Đông cũng là mã tin Dịch Lý ngược với mùa hè là mùa đỏ lửa. Tóm lại chữ thủy trong đế hiệu Tần Thủy Hoàng còn ý nghĩa là nước, phương Nam (Dịch Lý) chứ không phải chỉ có nghĩa là khởi đầu hay đầu tiên. Dựa vào ngữ nghĩa tiếng Việt và mã tin Dịch Lý ta còn biết nhiều điều nữa để đính chính lịch sử. chữ Tần của từ Hán Việt, thổ âm Quảng Đông đọc là ‘Chưn’ cái chân (cùng với tay gọi là tứ chi); gọi đất Tần là ‘Chưn’ trong chỉnh thể Chân và Đầu, đầu = Đào , đất Đào nước Thao tức vương triều Hạ, cũng chính vì lẽ ấy mà đất Việt nam ngày nay xưa còn gọi là đất Sừng biến âm ra Sùng nghĩa là cao . Trong cái thế đối lập: lửa – nước, đầu – chân cũng còn là Quẻ Ly – Quẻ Khảm. Theo Dịch Lý thì tính của Khảm là Hiểm, Hãm và … ký âm sai thành ra đất Hàm với nhiều địa danh như thủ đô Hàm Đan của Triệu, kinh đô Hàm Dương của Tần, cửa Hàm Cốc, V.v… Chân và Hàm như thế chỉ rõ ở phần trên đều có nghĩa là phương Nam, phương nước của Dịch Lý (ngược với phương hướng hiện nay). Tới câu thơ của Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh “Quốc Tây Cự Chấn Tráng Chân Đăng” thì ta xác định được lãnh thổ Tần quốc là tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Chăn Đăng → Chân Đanh, Chân Định cùng 1 nghĩa với Tứ Xuyên, Xuyên Thục chỉ có nghĩa là hướng Tây Nam theo Dịch Lý (hướng Tây Bắc hiện nay). Cũng chính vì ý nghĩa này mà Hùng triều Thế Phổ gọi là triều Hùng Định Vương, Chân Lang có đủ cả Chân và Định. Điều Cần nhấn mạnh ở đây : Dựa vào Ngũ hành ,ngũ sắc và cửu thiên ta khẳng định : khi nhà Tần là hành thuỷ , màu đen , huyền thiên ở Tứ xuyên – Thiểm tây thì đất nhà Hạ Thương Chu không thể nào ở phía bắc( nay) sông Hoàng hà được. Thời Chiến quốc Trung Hoa ta có Tần Thủy Hoàng, thời 12 sứ Việt Nam ta có Đinh Tiên Hoàng. Tiếng Việt ‘Đinh’ cũng là ‘Đanh’ trong Chân Đanh hay Chân Định, tức nước của Tần Thủy Hoàng, 2 dòng sử cho ta 2 đế hiệu của cùng 1 hoàng đế. Sự tàn ác được 2 dòng sử mô tả rất giống nhau. Dân Việt gọi vì vua tàn ác này là sài lang hay lang sói, sau thành câu ‘lòng lang dạ sói’ sở dĩ có câu này vì dân gian nhà Tần thờ con có ‘đại bản’ làm vật tổ; chữ cửu là số 9 chỉ phương Tây theo Hà Thư biến thành chữ ‘cẩu’ là con chó, dân nhà Tần ban đầu là Tạng tộc tức người của cao nguyên Khang – Tạng tràn xuống Tứ Xuyên được sử mô tả là còn ở trình độ văn minh rất thấp so với người Trung Hoa, thậm chí họ chưa biết làm ruộng, trồng lúa. Nhà tần đã phải nhờ nước Tấn sau là Triệu cho dân sang định cư để nâng cao mặt bằng văn hóa, văn minh, chỉ dẫn cho người gốc Tạng cách làm ăn, Xuất phát từ sự bạo ngược của Tần thuỷ hoàng Việt ngữ hình thành các từ kép: Tàn ác, tàn bạo, tàn nhẫn... Ở đây ta dành vài dòng cho vấn đề chủng tộc, phần trên ta đã nói đến tộc Miêu, là con cháu của đế sông Hắc, hay Xuyên Húc, truyền thuyết gọi là Vũ Tiên tổ của Tiên tộc hay Miêu tộc. Họ Miêu hay Tam Miêu theo Bàn canh vượt Trường Giang thành dân Ân Thương ngày nay, hậu duệ là người H’Mông – Dao cũng gọi là người Mèo, Mun. H’Mông hay Tam Miêu là dân chủ lực của nước Tấn, sang Tần hòa huyết do cộng sinh lâu đời với Tạng tộc tạo thành dòng Quì Việt hay Quí Việt. Quí là 1 can của Thập Can chỉ phương Tây, bản thân từ kép: Chân Định mô tả rất chính xác sự hòa huyết này. Chân = H’Mông = phương nước Định = Đanh = phương Tây chỉ Tạng tộc. Trong khối người Đông nam Á thì Hmông là tộc duy nhất bị nhiễm các tập tục của người phương bắc (nay ) có lẽ do tiếp súc lâu ngày nên đã xảy ra sự đan xen các tập tính của nhau . Chân Định tức Tứ Xuyên trở thành vùng đất rất quan trọng trong lịch sử và văn hóa Trung Hoa, vì đó là vùng đất chính, nơi định đô của 2 triều Tần và Hiếu (Tây Hán) là triều đại đặt nền cho văn hóa Trung Hoa về sau. Truyền thuyết Việt còn ghi: Họ Triệu truy bức vua cuối cùng của dòng An Dương Vương tới tận Nghệ An nên ở đây mới có Đền Cuông thờ An Dương Vương, lập ở núi Mộ Dạ. Giai đoạn lịch sử: nhà Tần diệt triều Đông Chu được truyện cổ tích lịch sử Việt Nam phản ảnh trong ‘truyện nỏ thần’. Nhân vật Triệu Đà chính là Chiêu Tương Vương Đinh tắc hay Triệu Tắc và Trọng Thủy là con trai thứ 2 của ông (thái, trọng, quí,); chữ ‘thủy’ xác định dòng giống phương thủy tức phương nam (Dịch Lý.) của Trọng Thủy Thủy đã gạt Mỵ Châu để bia miệng ngàn đời gọi là “sở khanh” (sở biến âm của ‘sủy’ là nước) còn Mỵ Châu là ai? Mỵ là con gái vua Hùng đồng nghĩa với nương (con trai là quân, lang); châu = Chu, nghĩa rất rõ Mỵ Châu là con gái vua Chu không cần phải suy đoán gì nữa cả. Sử Trung Hoa cho biết sau khi chiếm đất Lục Lương (Lạc Long) nhà Tần đặt các quận: Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận … như ở phần trước chúng ta biết đoạn sử này không chính xác vì miền Bắc hộ tức đất trung Việt Nam ngày nay đã thuộc về nhà Tần trước khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi; chắc chắn đoạn này đã bị sửa đổi vì một ý đồ nào đó.; các sách lịch sử Tàu cũng không giống nhau , có sách chép Tần chiếm đất Luđc lương ..., sách khác chép Tần chiếm Lĩnh nam ..., quyển khác lại chép Tần chiếm đất Lục dương lập thành 3 quận ...; ‘Lục dương’ chỉ là biến âm của ‘Lạc dương’ đất trung tâm nhà Đông Chu theo chính sử .(Người Tàu chỉ định Lạc dương nằm bên bờ Hoàng hà ..?) đây là chỉ dẫn rõ ràng nhất về lãnh thổ Đông Chu. Tổng hợp sử Việt Nam và Trung Hoa giai đoạn này ta có thể hiệu chỉnh đoạn sử trên thành: “Họ Triệu chiếm đất Âu Lạc của Văn Vương chia thành 3 quận: Quế lâm – Tượng Quận – Tam Xuyên” a. Quế Lâm là đất Quí Châu, Quí → Quế; Lâm là ký âm sai của lam → nam, chỉ phía Nam của Giao Chỉ tức vùng )Đông-Bắc Quảng tây nơi có Lâm Giang chảy qua (Lâm Giang là sông Tứ, sông Chu ngày nay) b. Tượng Quận là quận phía tây. Tượng = Tịnh = con voi là mã tin Kinh Dịch chỉ phương tây, phương Tịnh, Tĩnh, Định. Quận Tượng chính là nước “Mật Tu” của Cơ Xương là Vân Nam ngày nay. c. Tam Xuyên – Sử ký Tư Mã Thiên chép: Tần chiếm đất của 2 nhà Chu lập quận Tam Xuyên, thủ phủ là Ung khâu . Viết 2 nhà Chu là sai đất Tây Chu đã lập Tượng Quận và phần Quế trong Quế Lâm; như vậy đất Đông Chu mới chính là quận Tam Xuyên, Ung khâu hay Ung Thành là thành phố Nam Ninh ngày nay; Ung Thành thời nhà Lý của Việt Nam được gọi là Ung Châu, 1 trong 3 châu bị Lý Thường Kiệt đánh chiếm trong cuộc chiến Việt-Tống. Chính do quận Tam Xuyên này mà từ đời Đường đất Việt có tên là lộ Tam Giang như ông Phạm Sư Mạnh nhắc đến: “Thiên khai địa tịch lộ Tam Giang”. vùng trung tâm Ung Thành của quận Tam Xuyên đã bị đổi thành huyện Long Xuyên nơi trấn nhậm của Úy Đà . Nhân vật Úy đà bị phù thủy biến thành Triệu Đà hay Triệu Đào nước Nam Việt . Ta đã biết : số 3-tam, con rồng , quẻ Chấn đều là những dịch tượng chỉ phương Đông chúng thường được dùng thay thế lẫn cho nhau nên : Tam xuyên= tam giang =long xuyên chỉ là một . Một dẫn chứng quan trọng : theo quan chế nhà Tần quan cầm đầu 1 quận gọi là quận úy , vì vậy khi đã gọi là Úy Đà thì Long xuyên phải là quận chứ không thể là huyện ,ví dụ như úy Nhâm ngao là quan cầm đầu quận Nam hải... Tại sao Hán sử lại phải mờ ám như vậy ? Chính Vì : Quận Tam xuyên sử ký Tư mã Thiên ghi rõ : Thủy hoàng lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên , quận trị là Ung khâu...; và chỉ với một quận Tam xuyên hay Long xuyên của Úy Đà này thôi đã đủ để toàn bộ lịch sử Trung hoa phải viết lại. . Tới đây ta có thể định danh những vùng trong lãnh thổ vua Chu: - Vân Nam : Cửu, Định , Tượng (cả 3 đều có nghĩa chỉ phía tây) - Quí Châu : Thục, Quế, Chân. - Quảng tây : Lâm, Nam ,Nam giao sau này mở rộng thành lĩnh nam. - Quảng Đông : Đào 2, Thao (nằm ngoài đất nhà Chu, nhưng trong Giao Châu) - Bắc Việt Nam : đất Đường hay Việt thường , Lạc ấp - Trung Việt Nam : đất Đào 1 , Mân ấp , An ấp, An, Yên. Tần Thủy Hoàng tung 50 vạn quân không phải chiếm đất Lạc Long (Lục Lương) mà là chiếm miền đông nam Trung Hoa hiện nay tức lãnh thổ Ngô và Việt xưa, ở đấy nhà tần lập Ngô Quận, Mân Quận. Tại sao các sử gia Trung Hoa lại phải bẻ quẹo đoạn sử này? Đọc sử ký của Tư Mã Thiên nếu ta có nhận định sâu sắc và xem xét sự kiện một cách lô-gích , cẩn thận sẽ có nhiều điều khiến ta phải suy nghĩ : Tần Thủy Hoàng cho làm 1 con đường bạt ngàn xẻ núi từ đất Cửu Nguyên tới Vân Dương, ở Vân Dương cho đắp đá ở đất Cử làm cửa biển phía đông nhà Tần. Tần Thủy Hoàng còn nói …. giữa 2 kinh đô nhà Chu, Tây và Đông là đất đế vương sẽ là kinh đô nhà Tần, và cho dời 40 ngàn hộ đến Vân Dương, 30 ngàn hộ đến Ly Ấp. Đấy chính là tổ tiên của người Đông Thoán Ô Man và Tây Thoán Bạch Man ngày nay , Người Trung hoa gọi họ là Thoán hay Thóan đoạt có nghĩa là kẻ chiếm đóng không phải dân địa phương, mà thực họ là một nhóm thuộc ngữ hệ Tạng –Miến bỗng dưng không biết tại sao lại lọt vào giữa vùng người thuộc ngữ hệ Nam thái. - Cửu Nguyên hay đất phía tây còn gọi là đất Cảo là Vân Nam ngày nay, đất Vân Dương tức phía đông của Vân Nam chính là Quảng Tây, phần đất giữa 2 kinh đô nhà Chu ý chỉ nhà Tần đã chọn nam Quảng Tây và vùng bắc Việt làm nơi xây kinh đô mới của đế quốc Tần , nơi đất Cử đắp đá làm cửa biển nhà Tần ngày nay gọi là Cửa Ông nơi bờ biển Quảng Ninh Việt Nam; Vân Dương nơi Tần Thủy Hoàng di dân đến chính là Quảng tây, Ly Ấp là Hạo Kinh cũ sau này gọi là Côn Minh … đây là 1 đoạn sử khó hiểu , ý nghĩa thực sự của nó chưa bao giờ được phân tích, xem xét cặn kẽ. Chỉ 1 việc chọn đất Cử làm cửa biển phía đông của nước Tần đã làm đau đầu nhiều lắm rồi; vì theo chính sử nhà Tần ở bên bờ sông Vị, giáp với sa mạc cực tây-bắc (nay) của Trung Hoa thì lấy biển ở đâu ra để làm cửa phía đông? Bình Nguyên Lộc trong “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”: ở Quảng Tây có 1 thành rất lớn gọi là thành nhà Tần, điều này không thấy có đoạn sử nào nói đến cả. Tóm lại chúng ta còn nhiều điều phải làm để tìm ra những gì đích thực đã từng diễn ra trong quá khứ xa xưa. Lại nữa, sử ký Tư Mã Thiên cho biết sau khi lên ngôi Tần Thủy Hoàng sai tướng Mông Điềm đem 30 vạn quân, lần đấu tiên vượt Hà chiếm vùng Hà Sáo lập thành 44 huyện. Trong chữ Hà Sáo, Hà chỉ hoàng Hà của Trung Hoa, Sáo tiếng Việt có nghĩa là nước, Sáo cũng là biến âm của ‘Siu’ thổ âm Quảng Đông của chữ Thủy, Hà sáo chỉ có nghĩa là vùng phía nam Hoàng hà.; Mâu thuẫn trong cổ sử Trung Hoa là : vùng Hà sáo nơi lần đầu tiên nhà Tần chiếm được lập nên 44 huyện lại là đất của nước Triệu, nước Yên … tức là đất của Trung Hoa từ trước; lịch sử Trung Hoa chép những việc không thể xảy ra trên nước Yên, nước Tề được: như chuyện Điền Đan người nước Tề dùng trâu lửa đánh bại quân Yên rửa nhục cho nước Tề, vì con trâu (thủy ngưu) là vật gắn liền với việc làm ruộng nước, mà ruộng nước không hề có ở phía bắc Hoàng Hà vào thời đó. Vây ta giải thích thế nào với những điều ghi chép trong sử? ...hay là Điền đan đã dùng trâu... Yak để đánh Yên...?. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 Các cuộc khởi nghĩa chống Tần *** a. Khởi nghĩa làng Đại Trạch – Dạ Trạch Vương Tần Thủy Hoàng huy động dân chúng vào những công trình to lớn vào bậc nhất thế giới lúc bấy giờ như xây Vạn Lý Trường Thành, xây cung A Phòng, và xây lăng mộ cho chính Tần Thủy Hoàng. Chiến quốc kéo dài mấy trăm năm đáng lẽ khi thống nhất thiên hạ họ Triệu phải khoan sức cho dân để quốc lực hồi phục, ngược lại nhà Tần lại vắt kiệt những gì còn lại, khiến nhân dân không còn sức chịu đựng được nữa và họ vùng lên chống lại “sài lang”. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng, ông quê ở Dương Thành tức Quảng Châu thuộc Quảng Đông ngày nay. Ông đã cùng Ngô Quảng khởi nghĩa ở làng Đại Trạch thuộc huyện Túc Tỉnh tỉnh An Huy ngày nay, khởi nghĩa nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và Trần Thắng xưng vương lấy quốc hiệu là Trương Sở có nghĩa là nước Sở mở rộng, chữ Sở chính là biến âm của thủy chỉ phương Nam. Sử Việt Nam chép ông là Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục (quan phục). Dạ Trạch và Đại Trạch là biến âm của nhau, triệu là biến âm của chữ ‘chậu’ tiếng Thái Lào (đã đề cập ở phần trước đây). Triệu Quang Phục nghĩa là ‘Chúa phục hưng phương Nam’ cận nghĩa của vương hiệu ‘Trương Sở Vương’. Vùng đất trung tâm của đế quốc Tần là Quan Trung nghĩa là vùng trung tâm phía nam, thủ đô Tần là thành Hàm Dương nghĩa là thành phía đông của đất Hàm, ,còn Hàm Đan là thành phía nam đất Ham. Chữ Hàm có nghĩa là ‘mặn’ trong ngũ vị, hàm – mặn chỉ phương nước tức phương nam theo Dịch Lý. Trần Thắng không phải là tên riêng mà là hiệu đặt theo nghĩa: ‘Trần’ là chữ ‘đông’ và chữ ‘A’ chỉ phương đông, thắng là thắng lợi; nghĩa là phương đông tất thắng lợi, vì nước tần vào thời điểm này được coi là phương tây. Lần lượt Ngô Quảng và sau đó Trần Thắng lần lượt hy sinh – cuộc khởi nghĩa chống ‘sài lang’ thất bại. b. Cuộc khởi nghĩa của Hạng Lương – Hạng Vũ Hạng Lương là con cháu của Hạng Yến đại tướng nước Sở, Hạng Yến đã tự sát khi Tần đánh bại Sở. Khi hay tin Trần Thắng khởi nghĩa Hạng Lương cùng cháu là Hạng Tịch khởi nghĩa ở quận Cối Kê, nơi thờ vua Hạ Vũ tức Tản Viên Sơn Thánh Quốc Chúa Đại Vương. Chính sử Trung Hoa chỉ định Cối Kê ở Giang Tô Trung Quốc hiện nay, nhưng trong mạch sử chúng ta đang nhiên cứu thì Cối Kê phải ở Phúc Kiến – Chiết Giang là đất Việt của Việt Vương câu Tiển xưa; sử ký Tư Mã Thiên viết: con thứ hai của vua Thành Khang được phong ở đất Cối Kê, ông và những người dân theo mình đã “cắt tóc ngắn, xâm mình khai phá đất”, và đất Cối Kê là nơi được dành riêng để thờ vua Đại Vũ, tổ nhà Hạ. Từ ‘Cối Kê’ không có nghĩa gì trong Trung Hoa ngữ nhưng trong Việt ngữ thì ý nghĩa lịch sử hiện ra rõ ràng: ‘cối’ biến âm của ‘cái’ có nghĩa là cả là đứng đầu. Cơ chính là cô từ mà người thủ lãnh, quân vương tự xưng mình. “Cối Kê” chính xác là ‘cái cô” tức vua cả hay vương đứng đầu đồng nghĩa với ‘tiên hoàng’ hay ‘thủy hoàng’. Dân tộc học xác định … cắt tóc ngắn và xâm mình là tập tính của người Việt chính gốc, dân Đài Loan ngày nay vẫn còn ăn trầu y như người Việt; trong lịch sử Việt vẫn mơ màng nói tới … có sự liên quan nào đó giữa người Việt và con dân của Việt Vương Câu Tiễn …, ở thiên khảo luận này ta thấy là sự liên quan rõ ràng chứ không phải mơ màng nữa. Đất Đào 2, nước Thao tức Hồng Bàng 2 tức nhà Hạ là cái gốc của nước Việt thời Chiến quốc: con dân Hồng bang từ đất Đào tức là Việt Nam với Quảng Đông ngày nay mở nước theo 2 hướng: hướng nam (Dịch Lý) tiến về bờ Trường Giang làm nên Việt Thường Thị; hướng thứ 2 do con cháu Thành Khang tiến về hướng đông lập nên nước Việt, như thế rõ ràng nhiều cành 1 gốc. Không hiểu thực hư ra sao, hay tại sao lại có việc đó nhưng sử sách Trung Hoa còn ghi rõ vào đời Trịnh Thành Công, anh hùng kháng Thanh của dân Trung Hoa thì ấn truyền quốc của nhà Tây Chu là bảo vật vô gía còn cất giữ tại Đài Loan. Hạng Lương và Hạng Tịch nhanh chóng lập được đạo quân khoảng 8.000 người gọi là “Tử Đệ binh”, tiến binh theo hướng tây chiếm được Dương Châu rất có thể Dương Châu là tên cũ của Quảng Châu ngày nay hay Dương Thành xưa; Dương Thành là 1 trong những thành phố cổ xưa bậc nhất của Trung Hoa, nó đã được lập nên trước Công Nguyên, nên ít nhất cũng hơn 2.000 năm tuổi (người Trung hoa tính ra như thế , còn trong thiên khảo luận này Dương thành đã có khoảng 4000 năm) Trung Quốc công nhận thời gian lịch sử của nó nhưng lại gán cho nó 1 nghĩa “quái gỡ”, Dương Thành là thành phố dê (con dê). Dương Thành thật ra mang nghĩa ‘thành phố ở phương đông’ mà các sử gia Trung Hoa cũng không rõ … hay là cố tình gán ghép như thế để tránh tìm ra phần “tương đối của nó theo luật âm dương lưỡng lập của Dịch Lý” Đã có thành phố phía đông thì phải có thành phố phí tây là hạo kinh, thành phố phương nóng là la thành, thành phố ở giữa là ung hay ương thành... Hạng Lương nghe theo mưu thần Phạm Tăng lập cháu Sở Hoài Vương lên làm vương quân Sở, sau Hạng Lương tử trận từ đấy quyền hành và công trạng thực sự thuộc về Lỗ Công Hạng Tịch và Bái Công Lý Bôn (Lưu Bang) c. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn (Lưu Bang) Lý Bôn người Phong Châu (đất Phong) khởi binh ở núi Muang Đãng, ban đầu lực lượng chỉ có khoảng vài trăm người. Ở Huyện Bái có 2 viên chức là Tiêu Hà và Tào Tham biết ông là người nghĩa khí nên ngầm cấu kết với ông. Khi Trần Thắng nổi lên và chiếm được Huyện Trần thì Tào Tham và dân đất Bái giết quan huyện và đến núi Muang Đãng mời Lý Bôn về đứng đầu Huyện Bái từ đó gọi ông là Bái Công. Ở những trang trước ta đã xác định đất Phong hay Phong Châu chính là miền tây bắc Việt Nam ngày nay; núi Muang Đãng nơi Lưu bang khởi nghĩa chắc chắn là miền đất của 2 sắc tộc Thái – Mường ,Mường → Muang, sự ký âm này hoàn toàn giống với ký âm tiếng Anh hiện nay. Lý Bôn người đất Phong rất có thể ông tổ triều Hiếu ( tây hán) là người ‘tiền’ Mường , Địa danh có chữ Muang rất nhiều ở Việt Nam, Lào, Thái và Bắc Miến Điện, hy vọng các nhà nghiên cứu sau này xác định được núi Muang Đãng trên bản đồ. Đất Phong là miền tây bắc Việt Nam còn đất Bái là phần lớn miền bắc Việt Nam hiện nay. Điều này được Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh, thế kỷ 14 xác nhận trong 1 câu thơ của ông khi đi sứ Trung Quốc. “Lũng Lại tranh nghênh sứ Bái qua” Sứ Bái là Phạm Sư Mạnh và nước Bái chính là huyện Bái nơi khởi nghĩa của dân chúng và Lưu Bang năm xưa nay là lưu vực sông hồng nà núi rừng Việt bắc. Bái Công và Trương Lương gặp nhau ở Lưu Thành, hai người quyết định đi theo Hạng Lương ‘Lưu Thành’ là viết sai ‘La Thành’ tức Hà Nội hiện nay. Cùng vào thời này sử Trung Hoa cho biết quí tộc các chư hầu nhà Chu cũng nổi lên lập lại “quốc” của mình, cũng Tống, Tề, Yên V.v… nhưng theo hãn sử những nước này lại ở lưu vực Hoàng Hà thế là các nước của người Trung Hoa bỗng chốc biến thành các của người Liêu (Lu), thực không hiểu nỗi, rối rắm cả ngàn năm sau vẫn còn rối rắm. Bái Công vào kinh đô của Tần và ở đây ông tỏ rõ là người nhân đức, dân Tần rất kính phục … nhưng đến khi Hạng Tịch kéo quân vào thì mọi việc đảo ngược, đốt và giết, kinh đô của Tần cháy đến 3 tháng lửa vẫn chưa tắt hẳn. Cũng từ đấy phát sinh mâu thuẫn giữa Lỗ Công và Bái Công đưa đến cuộc Hán Sở tranh hùng về sau. SỬ Việt Nam lầm lẫn lớn khi chép Lý Bôn còn có tên là Lý Bí , thực ra đây là 2 vua của 2 triều đại cách nhau hàng trăm năm, Lý bôn chính là Lưu Bang trong Hoa sử còn Lý Bí là Lưu Bị của nước Thục thời tam quốc . d. Hưng Suy tranh hùng (Hán – Sở) Cặp từ Hán – Sở nếu vận dụng các qui tắc Dịch Lý ta có thể tìm ra gốc nghĩa: Hán – Sở = Hên – Xui = Hơn – Thua = Hưng – Suy. Từng cặp là các mã tin đối lập và sự biến âm cho ta biết chúng chỉ là 1 nhưng khác nhau do âm phát ra mà thôi. Điều này chỉ cho ta: không có ai là Hán Vương và Sở Vương, đây chỉ là tên do sử gia đặt để chép về thời đại ấy, có thể khẳng định thời này chưa có tên riêng, các sử gia phải đặt tên cho đất, cho người thường là dựa vào 4 phương, tám hướng và các mã tin Dịch Lý mà tạo ra 1 danh xưng dùng phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, cũng chính vì việc này mà đời sau khó có thể nhận định chính xác về lịch sử vì có quá nhiều điều trùng nhau, cùng là tên đất phương nam nhưng mỗi thời kỳ lịch sử lại chỉ 1 nơi khác nếu không cẩn thận, xem xét thấu đáo sẽ sa vào trận đồ bát quái không lối ra. Việc định danh do đời sau đặt nên dĩ nhiên: Lý Bôn hay Bái Công là Hán Vương hay Hên, Hơn, Hưng Vương vì ông ta là người thắng trận; ngược lại Lỗ Công là người chiến bại nên có tên với ý nghĩa là Sở Vương, hay Xui, Thua, Suy Vương. Sử Trung Hoa không nói tới nhưng chắc chắn Lỗ Công đã lên ngôi vua, nên sau Hạng Tịch mới có thêm danh hiệu mới là Hạng Vũ. Hành động thực tế của ông cũng chỉ rõ như thế: ông ta tự ý, tự quyền phân đất, phong vương cho những người có công trong việc lật đổ vương triều Tần. Các sử gia cho ông ta là lạm quyền, tự phong không chính thống nên chỉ gọi ông là ‘Tây Sở Bá Vương’ nghĩa là trùm miền đông Sở, chữ ‘Tây’ là ký âm sai của chữ Từ , chữ ‘từ’ dịch chữ Thương của Việt ngữ, 1 mã tin Dịch Lý chỉ phương đông. Vì sẵn hiềm khích Hạng Vũ phong cho Lý Bôn, Bái Công miền đất xa xôi hiểm trở nhất là Xuyên Thục và đất Hãm tức là Nam Thiểm tây bắc Hồ Bắc hiện nay. Ở đấy dân chủ yếu là người Khang, Tạng và người Man gọi vua là Hãn, viết sai thành chữ Hán. Bái Công – Hưng Vương (Hán Vương) phong Tiêu Hà là tể tướng, Hàn Tín làm đại tướng từ tháng 8 năm 206 trước CN bắt đầu cuộc chinh phục lập đế của mình, cuộc chinh phục kết thúc khi Lỗ Công Từ Sở Bá Vương tự sát ở Ô Giang năm 202 trước CN. Lịch sử Trung Hoa chép triều đại của Lý Bôn khởi đầu từ năm 206 trước CN tức năm ông xưng là Hưng Vương ở đất Nam Trịnh và cũng Chính vì điểm này ông có tên là Hùng Trịnh Vương trong Hùng Vương Thập Bát Chi Thế Truyền. Cuộc Hán –Sở tranh hùng được sử Việt thể hiện thành cuộc chiến giữa Lý phật tử tức Lý Bôn và Triệu Việt vương , cuộc chiến kết thúc với việc tự sát của Triệu Việt vương ở Ô giang. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 16 . Hùng triều thứ 16: Hùng Trịnh Vua khai sáng – Hưng Đức Lang . Danh hiệu khác trong sử Việt : Lý Bôn , Lý nam đế . Danh hiệu khác trong sử Hoa : Lưu Bang Hán (Hiếu)cao tổ. Quốc hiệu : Vạn xuân . Niên đại : năm 206 – 8 trước CN Hùng Trịnh là vương đất Trịnh nơi khởi phát đế nghiệp của Lý Bôn Hưng Đức Lang có ý nghĩa : Hưng ta đã biết ở phần trên (Hưng – Suy). Đức là biến âm của Đế , Lang cũng có nghĩa là vương, nên gọi là Hưng Đức hay Hưng Lang thì đúng hơn. Đây là sai lầm thường thấy của người Việt như: Núi Thái Sơn, Sông Hương Giang V.v… Phép biến âm phù thủy đã biến ‘Hưng Đức’ thành ‘Hán đế’ tức đại hãn Mông cổ. Sử Trung Hoa không biết vô tình hay hữu ý thường lờ họ Triệu của nhà Tần … thay vào đấy dùng chữ Dinh, như Tần Thủy Hoàng tên là Triệu Chính nhưng sử Trung Hoa thường ghi là Dinh Chính. Thực ra ‘Triệu’ là biến âm của từ ‘Chậu’ trong ngôn ngữ Thái Lào; từ chúa trong tiếng Việt vậy Triệu Chính chỉ có nghĩa là chúa tên Chính chứ không phải họ Triệu tên Chính. Tương tự triều Lý Bôn Hưng Đế cũng thế, theo qui luật về danh xưng các vương triều Trung Hoa thì thời Lý Bôn – Lưu bang phải gọi là triều “Hiếu” mới đúng; tất cả các vua triều này đều có đế hiệu với chữ “Hiếu” đứng đầu như: Hiếu Cao Tổ, , Hiếu Cảnh Đế , Hiếu Vũ Đế V.v… nhưng sử Trung Hoa lại gọi là triều ‘Tây Hán’ hay ‘Tiền Hán’, không hiểu vì lẽ gì? Do hiềm khích giữa Lưu Bang và Hạng Vũ khi phân phong đất đai trước của đế quốc Tần , Hạng Vũ đã đẩy Lưu Bang đến vùng xa xôi hiểm trở nhất là bắc Tứ xuyên –nam Thiểm tây đấy là nơi khỉ ho cò gáy đến nỗi không những quân mà cả tướng ngày nào cũng có người bỏ trốn trong đó có cả Hàn Tín may mà tể tướng Tiêu Hà đuổi kịp dỗ dành nên quay lại . Nói như thế để ta hình dung ra cảnh sinh họat tiêu điều không bóng người...trái ngược với điều Hoa sử nói Thiểm tây là đất trung tâm của nhà Chu tức là chốn phồn hoa đô hội...không lẽ tất cả dân nhà Chu đã chết sạch ?. Khi lên ngôi dù lòng không muốn nhưng Lý Bôn buộc phải phong cho 1 số tướng lãnh, công thần tước vương và cắt đất cho họ làm chư hầu, trong đó: Hàn Tín được phong ở nước Sở – Hồ Nam. Bành Việt được phong ở đất Long, sở Trung Hoa gọi là Lương Vương (ta nhớ lại: Lạc Long → Lục Lương) tức Quảng Đông ngày nay. Anh Bố được phong là Hoài Nam Vương đất Phong ở nam sông Hoài. Về sau các vương này đều bị cáo giác làm phản và bị giết, đất đai bị thu hồi. Sau khi diệt Hoài Nam Vương Anh Bố, Hưng Đế về thăm đất Bái, trong 1 bữa tiệc nơi đất cũ, nơi có núi Muang Đãng thưở xưa, ông vua Trung hoa người dân tộc Mường ngâm 4 câu thơ còn ghi trong sử sách đặc biệt có câu: “Đại phong khởi hề vân phi dương” dịch là ‘gió lớn thổi hề mây bay lên’. Ý nghĩa lịch sử nằm ở chữ ‘phong’ và chữ ‘vân’. Phong chỉ Phong Châu, hay đất Phong nơi sinh ra Lý Bôn, vân là tên cả vùng đất nay là Vân Nam, xưa là đất Văn Lang hay Văn Vương thường được gọi tắt là đất Vân . Việc mở rộng cương vực về miền bắc (phương hiện nay) Hoàng Hà đã được bắt đầu từ thời Trụ Vương nhà Ân Thương, rẻo đất giáp bờ bắc Hoàng Hà ngày nay thuộc Hà Nam là nơi xây Biệt Đô Triều Ca, đất xưa có Biệt Đô tên là Hà Nội, trùng với tên thủ đô Việt Nam ngày nay. Sang đời Tần tướng Mông Điềm đã vượt sông chiếm vùng đất từ Hoàng Hà lên đến Trường Thành lập thành 44 huyện; đấy là đất của người Lu (Liêu) thuộc chủng Mongoloit, trong chiến tranh Hưng – Suy (Hán Sở) vì nội chiến vùng này không có người phòng thủ nên rơi vào tay Hung Nô, Hiếu Cao Tổ sau khi lên ngôi đã toan chiếm lại nhưng Hung Nô lúc ấy đã quá mạnh đành chịu thất bại – phải áp dụng chính sách hòa thân không chiến tranh. Trong cuộc Hán sở tranh hùng quân của Lưu bang có nhiều người Hung nô phương bắc (nay) nên với Lưu bang không có sự phân biệt Hán Hoa , hoàng tộc Trung hoa và dòng thủ lãnh các tộc Hung nô đã có nhiều cuộc hôn nhân , rất có thể trong số các hoàng tử công chúa cũng đã có người mang 2 dòng máu , điều này thể hiện quan điểm chính trị thực dụng của Lưu Bang do thực tế vùng đất ông đứng chân mà ra. Nhưng với vợ ông bà Lữ hậu thì khác : trong cái tầm mắt hạn hẹp nhỏ nhoi của đàn bà lại chứa cái rất to lớn đó là ý thức dân tộc Hoa là Hoa Hán là Hán ...chính vì vậy : khi Hiếu Cao mất, quyền hành thực sự nằm trong tay Lã Hậu, bà là người cứng cỏi và có tham vọng đoạt ngôi vua cho họ Lữ , chúng ta sẽ có 1 chương nói về triều đại họ Lữ mà từ trước đến nay đã bị dấu nhẹm. Từ khi Lưu bang mất thì Hung nô đã thực sự trở thành quốc nạn đối với người Trung hoa , tấn công cướp phá liên miên mãi cho đến đời vua thứ 6 là Hiếu Vũ Đế, Trung Hoa lại phục hưng đánh bại và dồn Hung Nô về tận sa mạc ở tây bắc. Đây là đời thịnh trị huy hoàng của Trung Hoa. Theo sử Việt: Lý Bôn – Lưu Bang là Lý Nam Đế, chữ Nam này đã chỉ rõ vùng kinh đô của triều Hiếu nằm ở phía nam (xưa) Trung Hoa , Triều Hiếu Trung Hoa có văn trị võ công hiển hách, cả vùng đất mênh mông của người Mongoloit ở ngoài Trường Thành phía bắc (hiện nay) Trung Hoa đã bị chinh phục, phông phải chỉ mở rộng lãnh thổ, tầm nhìn Trung Hoa cũng được mở mang rất nhiều qua các chuyến đi sứ về hướng tây của Trương Khiên, Tô Vũ V.v… Tự điển đầu tiên của Hoa tự đã được lập ở thời này, có trên 6.000 từ, đây cũng là tự điển đầu tiên của nhân loại. Từ đời Hán Văn Đế tức năm 163 trước CN, Trung hoa bắt đầu dùng niên hiệu vua làm lịch, từ đó mới có thể xác định thời gian của lịch sử Trung Hoa, trước đây dùng lịch Can Chi, lịch này cứ 60 năm lại trở về từ đầu nên khó biết đích xác các sự kiện lịch sử vì 60 năm lại có 1 năm trùng tên nhưng như thế cũng chưa phải là ổn vì có nhiều niên hiệu trùng nhau . Sau khi Lữ Hậu mất, Trung Hoa chia thành lưỡng triều Bắc và Nam, phải đến đời Hiếu Vũ Đế đánh bại Nam Việt Vũ của nước Nam Việt thống nhất Trung Hoa. Lịch sử mới coi đó là cái mốc chính thức thành lập “Đế quốc Hiếu”, nên Lý Triệt có đế hiệu là Hiếu Vũ Đế, như Hạ Vũ tổ nhà Hạ, Thành Thang Vũ Vương người kiến lập triều Thương, Chu Vũ đế người khởi đầu triều đại Chu, riêng triều Hiếu đã trải 6 đời vua nhưng phải đến Lý Triệt một quân vương hiển hách, thu giang sơn về 1 mối mới được gọi là “Hiếu Vũ”. Chi tiết lịch sử về đoàn đi sứ về phương Tây của Trương Khiên muốn tìm đến nước Thiên Trúc, khi đi đến Côn Minh bị chặn lại, họ phải đi vòng đến nước Điền Việt ở Vân Nam, được vua Điền Việt hết sức giúp đỡ … cho ta thấy đầu đời Hiếu Vũ Đế nhà Hiếu không làm chủ phía nam (hướng hiện nay) Trung Hoa vì đây là vùng ảnh hưởng của nước Nam Việt. Nhà Hiếu từ Hiếu Cao Tổ Lý Bôn đến vua cuối là Nhũ Tử Anh tổng cộng là 13 đời vua, trị vì Trung Hoa từ năm 206 trước CN đến năm 8 sau CN là dấu ấn quan trọng trong lịch sử Trung Hoa, các sử gia Hán tộc đã dùng thủ thuật chữ nghĩa biến Hưng Đế thành Hãn Đế (tức vua Hung Nô); chỉ một động tác nhỏ mà thành công hoàn toàn trong việc thoán đoạt độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Hưng Đế biến thành Hãn Đế, dân tộc họ Hùng hàng chục ngàn năm lịch sử bổng biến thành dân Hãn của Khả Hãn kéo theo hàng loạt từ “biến chất”: (xin đọc bài cây cầu Hoa Hán ở phần trước) Hãn Quốc: nước của Khả Hãn biến thành Hán Quốc. Hãn tộc biến ra Hán tộc. Người họ Hùng còn gọi là người Hoa bổng chốc trở thành người Hán tức Hãn tộc. Sự kiện hy hữu này tới 2.000 năm sau mới nhìn ra; người Trung Hoa ngày nay vẫn vui vẻ nhận mình là người Hán tức con dân Đại Hãn , rất hãnh diện nên cứ mở miệng là Xưng ...nam tử hán...; Dân Họ Hùng là tộc người duy nhất trên trái đất này bị tráo mất tổ tiên, lịch sử và nền văn minh khi triều đại “Hiếu” của Trung Hoa bị biến thành nhà “Tây Hán” hay Tây Hãn Quốc tức nhà nước của dân Mongoloit. Bản thân vương hiệu: Hưng Đức Lang tức Hưng Đế bị bẻ quặt thành Hán Đế từ đó đẻ ra nhà Tây Hán. Thực ra lịch sử Trung Hoa triều Canh Thủy Đế Lưu Huyền là ông tổ của nước Hán hay hãn Quốc là triều Tây Hán mới đúng. Sử Việt đã sai rất lớn khi chép Lý Bôn cũng là Lý Bí rồi dồn các sự kiện lịch sử ở 2 triều thành một khiến hậu thế rối bời mãi đến nay vẫn chưa nhìn ra lịch sử thật của dân tộc mình . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 17 . Hùng triều thứ 17: Hùng Triệu Vua khai sáng – Cảnh Triệu Lang Danh hiệu khác trong sử Việt:Cảnh Thiều, Triệu Đào hay Thao Danh hiệu khác trong sử Hoa :Nam Việt Vũ , Triệu Đà hay Triệu Tha Quốc hiệu : Nam Việt Niên đại : năm 179 – 111 trước CN Lã Hậu trước khi mất đã sắp sẵn cho 1 cuộc soán đoạt to lớn: chuyển ngôi đế từ họ Lý sanh họ Lữ, mặc dù trước khi mất Hiếu Cao Tổ đã tổ chức cuộc “giết ngựa trắng ăn thề”: Ai không phải họ Lý không được phong Vương. Nhưng khi thực sự nắm quyền, Lữ hậu đã phong hàng loạt tước vương cho con cháu nhà họ Lữ và bố trí vào những địa vị then chốt nơi triều chính, nắm giữ những vùng trọng yếu của đất nước như: Lã Lộc, Lã Sản nắm trọn đại quân ở kinh đô, Khi Lã Hậu mất, họ Lữ định ra tay làm chính biến lật đổ ngôi vua của họ Lý nhưng các trung thần nhà Lý đã nhanh tay hơn 1 bước, kết quả Lữ Lộc, Lữ sản đều thiệt mạng. Quyền hành ở kinh đô vẫn thuộc về họ Lý, con lớn của Lý Bôn là Lý Hằng được tôn làm vua. Nhưng ở đất Đào, nước Nam Việt ra đời đối đầu với chính quyền trung ương của họ Lý. Đất nước trở thành Lưỡng triều: họ Hiếu làm một chủ phương , Lữ gia làm tể tướng nước mới lập trên đất Lĩnh nam tức đất Đào hay Thao thời nhà Hạ danh xưng là Nam việt , lịch sử Việt Nam và Trung Hoa gọi vua Nam Việt là Triệu Đào hay triệu Thao viết sai thành Triệu Đà còn gọi là Triệu Tha...; Lữ gia hoặc nghĩa là ‘nhà họ Lữ’ hoặc là tên riêng của một người cháu Lữ hậu đã được bà phong vương , cổ sử Việt Nam gọi là tể tướng Lữ gia, rất có thể họ Lữ đã tôn người họ Lý con của Lý Bôn và Lữ hậu lên làm vua Nam Việt còn mình chỉ nắm chức tể tướng? Về Lữ gia và nước Nam Việt, còn có nhiều điều không giống nhau trong sử Việt Nam và sử Trung Hoa. Theo chính sử Trung Hoa thì Triệu Đà là quan úy huyện Long Xuyên được sự giúp đỡ của Nhâm Ngao đã chiếm đất Quảng Đông của nhà “Tần” lập nước Nam Việt, sau đó dùng tiền tài bổng lộc mua chuộc những người cầm đầu các vùng đất chung quanh như Mân Việt và tây Âu Lạc để hình thành 1 đế chế không thua kém gì phương bắc (nay) . Sử Việt Nam dựa trên Hán sử nên cũng chép tương tự chỉ khác là Triệu Đà xâm lăng chiếm nước và giết An Dương Vương ở núi Mộ Dạ thuộc Nghệ An. Huyền sử Việt thì nói: An Dương Vương không chết mà cầm sừng văn tê 7 tấc theo thần Kim Qui đi ra biển. Về lãnh thổ ban đầu khi thành lập nước Nam Việt cũng không thống nhất, chính sử xác định là Quảng Đông ngày nay, kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu ) nhưng nhiều sử liệu khác của Trung Hoa lại ghi: “Đà chiếm Lâm Ấp và tượng Quận làm cõi riêng của mình”. Theo chính sử … thì Lâm Ấp và Tượng Quận thuộc miền Trung Việt Nam hiện nay, Lâm Ấp sau chính là nước Chiêm Thành? Vậy nước Nam Việt ở đâu và Triệu Đà hay Úy Đà là ai? Ở đây ta đặt ra 1 sử thuyết dựa trên sự tổng hợp các dữ liệu của lịch sử Việt Nam và Trung Hoa. Triệu Đà không phải là tên mà là danh hiệu của Chúa đất Đào; Lâm Ấp là chữ viết sai của Nam Ấp chỉ vùng Quảng Tây; Tượng Quận nghĩa là đất phía tây trong nước Tây – Âu – Lạc của Cơ Xương khi xưa là Vân Nam ngày nay; Lâm Ấp cũng là đất Âu. Có thể đoán định toàn cõi Nam Trung Hoa đều là lãnh thổ của nước Nam Việt kể cả đất Lạc tức Việt Nam ngày nay, chính vì điều này nên đầu đời Hiếu Vũ Đế đoàn đi sứ phương tây của Trương Khiên mới bị chặn lại ở Côn Minh, Vân nam không đến được Thiên Trúc. Ta có thể đoán nước Nam Việt tồn tại từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm Lộ Bác Đức bắt được Kiến Đức – Triệu Dương Vương thu giang san Trung Hoa về 1 mối cho nhà Hiếu (Tây Hán). Sử Việt Nam rất lúng túng khi có sách cho Triệu Đào, hay Triệu Vũ Vương là 1 trang sử chính thống của Việt Nam, các sách đời nay thì coi đó như 1 thời Việt Nam bị Triệu Đà đô hộ (Triệu Đà cũng là người Trung Hoa) Về đất Chân Định quê hương Triệu Đà thì sử Trung Hoa xác định là đất của nhà “Hiếu” nhưng truyền thuyết Việt có tư liệu coi đó là 1 bộ trong 15 bộ của vua Hùng, như vậy là đất Trung Hoa hay đất Việt Nam? Ta đã giải mã: đất Chân Định hay Chân Đanh, Chân Đăng chỉ có nghĩa là đất Tây nam theo phương của Dịch Lý, là tỉnh Tứ Xuyên ngày nay chính là đất trung tâm của đế quốc Tần (hay chưn →chân) thời cổ xưa. Chương nói về Triệu Đà và nước Nam Việt trong sử ký Tư Mã Thiên là giả mạo nhằm làm nhiễu loạn lịch sử phục vụ cho sự bẻ quặt lịch sử Trung Hoa chính thống. Đối chiếu các sự kiện ta tìm ra được các tác giả của việc giả mạo to lớn này đã lấy lịch sử các triều đại nhà Tần làm gốc rồi chế biến sửa đổi thành lịch sử nhà Triệu của Nam Việt. Trước hết ta thấy cả 2 đều họ Triệu, và đều có 5 đời vua. ta có bảng đối chiếu như sau: Tần (họ Triệu)............................ Họ Triệu của Nam Việt Chiêu Tương Vương.................... Triệu Vũ Vương-.ĐÀ Hiếu Văn Vương.......................... Triệu Văn Vương-HỒ Trang Tương Vương..................... Triệu Minh Vương-ANH TỀ Thủy Hoàng Đế – Triệu Chính....... Triệu Ai Đế – Triệu Hưng Nhị Thế Hoàng Đế ....................... Triệu Kiến Đức Còn nếu lấy Tần Thủy Hoàng là Triệu Vũ Vương ta có sự trùng lắp cả 3 đời vua: Tần (họ Triệu)............................... Họ Triệu của Nam Việt Triệu Vũ Tần Thủy Hoàng............... Triệu Vũ – Triệu Đà Triêu Hồ Hợi – Nhị Thế ................... Triệu Hồ Triệu Tử Anh ................................ Triệu Anh Tề Ta chú ý chi tiết: Triệu Chính là con ngoại hôn của Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Bên họ Triệu thì Triệu Ai Đế là con của đôi gian phu dâm phụ Cù Thị và An Quốc Thiếu Quí. Sự nhiễu loạn lịch sử thực sự ghê gớm, ngàn năm sau vẫn chưa tìm ra được sự chân xác đích thực, con cháu bơ vơ không bờ không bến, một phần thì gọi giặc làm cha, phần còn lại thì cứ tổ tiên mình mà căm hờn . Do bụi thời gian quá dày, nếu tỉnh táo một chút ta nhìn ra ngay sự lừa bịp này dựa vào giọng điệu và thông tin mang trong nó. Thứ 1: Đoạn sử hư cấu này chủ yếu miệt thị dân Giao Chỉ như: Triệu Đà xưng mình là Man Di Đại Trưởng Lão … Triệu Đà gọi dân Tây Âu Lạc là còn ở truồng. Thứ 2: Chứa đựng sự hư cấu phi lý: Như người Trung Hoa chỉ bán cho Nam Việt những trâu bò giống đực, không bán giống cái. Không bán cho Nam Việt những đồ kim khí … điền khí để làm ruộng. Tất cả chỉ muốn nói lên 1 điều: đất phương Nam (hiện nay) là đất mọi rợ … trong khi khảo cổ học ngày nay xác định thời Triệu Đà ở Giao Chỉ đã bước vào thời đồ sắt, còn xương trâu bò từ lâu đã tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ, và chúng được xác định là giống vật bản địa tiêu biểu. Ngữ cảnh và giọng văn không phải của Tư Mã Thiên mà l mang dấu ấn của những bộ óc bã đậu biến chế ra . Tại sao Hán sử không có dòng nào nói đến cuộc tấn công đất của thiên tử nhà Chu ? có thực là vua Chu đã tự nguyện tự giác nộp đất cho Tần không ...? Qua dòng thơ sử sau sẽ rõ : Quốc Tây cự chấn tráng Chân Đăng . Làm gì có truyện Thiên tử tự nguyện nộp đất cho chư hầu ... Trong Hoa sử triều và quốc là một như Triều Đường cũng là nước đại Đường, triều Tống cũng là nước đại Tống .v.v., như vậy triều Chu cũng là nước Chu hay Chiêu , chiêu là phương tây ngược với mục là phương đông nên nước Chiêu cũng chính là quốc tây trong câu thơ trên . Cự chấn tráng Chân Đăng nghĩa là : chống cự mạnh mẽ làm rung động cả nước Chân đăng hùng mạnh , Nhà Chu thiên tử đã chiến đấu chống lại ai ngoài nước Tần vô đạo thóan nghịch ?, như vậy rõ ràng Chân đăng là tên khác của nước Tần mà trước đến nay sử sách chưa bao giờ nói đến . Sở dĩ như thế vì những trang sử nói về cuộc tấn công của họ Triệu nước Tần đánh nhà Chu đã bị bẻ quẹo thành cuộc đánh chiếm nước Âu –Lạc cuả Triệu Đà vua Nam Việt ...tất cả nhằm giấu đi quận Tam xuyên mà Tư mã Thiên đã chép rành rành trong Sử ký...; vì chỉ với việc xác định được một quận này thôi cũng đã đủ chứng lý để viết lại lịch sử Việt nam và Trung hoa . Ở bài trước chúng ta đã đề cập đến Úy Đà quận úy quận Tam xuyên hay Long xuyên...và Triệu Đào hay Triệu Thao... 2 ông Đà chẳng dính gì với nhau vì thuộc 2 giai đọan lịch sử khác nhau, nhưng khi đã vớ được cái phao.... ‘cùng tên là Đà’ lập tức các sử gia vốn chăn ngựa đã khai thác triệt để chế biến cho luôn cả dòng họ Triệu của Tần thành họ Triệu cuả Nam Việt cho chắc ăn như ta thấy ở trên . Vị quận úy sau cùng của Quận Tam xuyên là Lý Do con của thừa tướng Lý Tư đã tử trận dưới chân Ung thành trong cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn hay Lưu Bang . Khi nghe nói ông Lưu Bang tổ của triều Tây hãn là người Mường ...có thể độc giả phì cười ....nhưng xin bạn tìm đọc cuốn ‘Bách Việt tiên hiền chí’ sẽ thấy tất cả cận thần của Lưu bang như Tiêu Hà, Tào Tham , Hàn Tín đều là người Việt ...như vậy tại sao Lưu bang tên Việt là Lý Bôn lại không thể ..? Nhưng trong sử ký của Tư Mã Thiên, chương Úy Đà Thế Gia, ta cũng lượm được 1 thông tin bổ ích, đó chính là tên sứ giả của triều Hiếu 2 lần đến thuyết phục Triệu Đà: ông ta tên là Lục Giả hay Lạc Giả; Lục chính là tên đất của Triệu Đào, cũng chính là đất Lạc của Lạc Việt, hay Lạc Ấp xưa, Xét tổng thể tới nay ta vẫn còn rất mù mờ về nước Nam việt , cả triều đại lẫn niên đại và các sự kiện lịch sử nổi bật liên quan tới nhà nước này ngay cả phần tối quan trọng là bản chất dân tộc cũng chưa có đủ cơ sở để xác quyết chỉ có thể nói chung chung là thuộc dòng Bách Việt ... riêng đức Trần hưng Đạo thì đã có lời khẳng quyết Triệu Vũ tức Triệu Đào là 1 tiên vương của nước Việt nam ngày nay . Hoa sử và lịch sử các nước Đông nam á ngày nay cho ta cảm giác 2 vùng miền này không có sự ràng buộc về lịch sử cổ đại . Có thực thế không ? Ở phần trên của thiên sử thuyết này đã nói : còn 3 nước của con cháu họ Hùng không bị Hán tộc chiếm đóng là nước Lỗ, Yên và Tề . Dựa vào sự kiện người Thái ồ ạt di cư đến miền đất phía tây Việt nam vào thời điểm 100 năm trước và 100 năm sau công nguyên ta đã đủ dữ kiện để đưa ra ức thuyết : Người Thái chính là dân vùng trung tâm nước Nam Việt ở qủang Đông ,sau khi kinh đô Phiên ngung thất thủ họ đã kịp tổ chức di tản về kinh đô mới ở phía tây lập trong vùng lòng chảo Điện Biên thuộc Việt nam ngày nay , như thế nước Nam việt của Triệu Đà không hề diệt vong mà chỉ mất thủ đô và phần đất phía đông mà thôi . Thông qua trung tâm và cũng là nơi trung chuyển Điện biên này người Thái đã dần dần trong khoảng 200 năm chiếm lĩnh cả vùng đất phía tây Việt nam và nam tỉnh Vân nam trung hoa ở đó nước Nam Việt tồn tại dưới một tên mới là Đốn tốn với cư dân chủ yếu là người nước Lỗ xưa kết hợp với người Thái gốc Nam việt mới di cư đến . Nước Đốn tốn vẫn liên tục tồn tại , thời trung đại đổi quốc hiệu là Nam chiếu , quốc gia này chính là tiền thân của nước Thái Lan và Lào ngày nay , Thái lan cũng gọi là Táy lương hay táy Long , chữ Lương giúp xác định người Thái là dòng Long trong truyền thuyết lịch sử của Việt nam , là con cháu của Động đình quân và Long nữ ở vùng vịnh bắc Việt , với cổ sử Trung hoa thì họ chính là người họ MY. Chữ Tốn ở đây là quẻ Tốn của bát quái chỉ gió bão hoa ngữ là Phong ,như vậy có thể đoán định nước Đốn tốn nằm trên đất Phong châu của cổ sử Việt cũng là đất phong của nhà Chu ,thời chiến quốc là nước Lỗ , sách đời Tấn và Lưu tống bên Tàu cho biết : nước Đốn tốn phía tây giáp Thiên trúc tức Ấn độ , phía đông giáp Giao châu và đương nhiên có mặt giáp đế quốc Đông hãn , ngoài ra Đốn tốn còn có bờ biển hàng ngàn lý ...nếu đúng như thế thì lãnh thổ nước Đốn tốn có lẽ bao trùm cả vùng Đông nam Á lục địa ngày nay ? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 18 . Hùng triều thứ 18: Hùng Duệ . Vua khai sáng : – Huệ (Duệ) Lang Danh hiệu khác trong sử Việt : Danh hiệu khác trong sử Hoa : Vương Mãng , Châu hoàng đế. Niên đại : năm 8 – 23 sau công nguyên. Lịch sử Trung Hoa không có vì vua nào họ Vương Tên Mãng, Vương Mãng thực đúng là Vương Mãn có ý nghĩa là vì vua cuối cùng, chính sử Trung Hoa đã viết thế nhưng không hiểu vì sao, và thời nào đã bẻ quặt thành Vương Mãng khiến mất hết ý nghĩa lịch sử, dân Trung Hoa không hiểu nổi trang sử bi thương số 1 trong lịch sử của dân tộc mình. Vương Mãn là ngoại thích của triều Hiếu, một hiền tài, chính nhân quân tử, học cao hiểu rộng có chí lớn nhưng đánh giá sai thời thế, chỉ 1 vì vua thôi thì không đủ sức xoay chuyển tình hình cả xã hội. Ý tưởng tốt nhưng thực thi bởi 1 guồng máy tồi tệ thì kết quả sẽ ngược lại, chính dân chúng đối tượng mà Vương Mãn muốn cho có cuộc sống tốt đẹp hơn lại trở thành nạn nhân của lũ tham quan ô lại, lợi dụng “phục cổ cái chế’ chính sách của Vương Mãn để hà hiếp bóc lột dân chúng đến tận xương tận tủy. Vương Mãn thất bại vì quá nóng vội, phục cổ cái chế khi chưa xây dựng được bộ máy để thực thi công công việc, dù là đại nhân, đại trí, đại dũng ông cũng thất bại thảm hại vì không biết chữ “thời”. Mệnh lệnh cải cách của Vương Mãn có tác động vô cùng to lớn, ảnh hưởng đến mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, ông thay đổi từ những vấn đề mang tính nhân văn như qui chế các nô tì, “vương hóa” ruộng đất, nghĩa là tất cả các ruộng đất trong thiên hạ đều là vương điền, hiểu theo nghĩa hiện đại là công hữu hóa, sở dĩ Vương Mãn phải quyết định việc này vì hầu hết ruộng đất trong cả nước thực tế nằm trong tay bọn vương công, quan lại; phục cổ cái chế cũng đảo lộn cả những vấn đề thuộc lãnh vực kinh tế, thương mãi, tài chính, tiền tệ … Tóm lại là đảo lộn tất cả. Khi xã hội đang rã rời, quốc lực tàn tạ gần đến số không, thì ngoại xâm đến như 1 sự tất yếu: nào Hung Nô, nào Hồi Hột ở Tây Vực, nào Khang Tạng, dân chúng đã khổ lại càng khổ hơn, quan lại mặc sức hà hiếp bóc lột lấy cớ huy động quốc lực để chống ngoại xâm. Lúc này dân chúng đúng thực là “trên răng dưới khố”. Tình hình bi đát như trên lại bị châm ngòi bởi thiên tai, đói kém do mất mùa, có nơi chết đói cả làng, cả tổng … như thế sự bùng nổ cách mạng là tất yếu. Chính sử Trung Hoa cố ý nhập nhèm ở chương này. Có 2 cuộc khởi nghĩa với 2 chí hướng hoàn toàn khác biệt của 2 thành phần dân tộc khác biệt: 1. Cuộc khởi nghĩa của Phàn Sùng: Phàn Sùng người Hoa, thủ lãnh tôn giáo, chính xác là Đạo giáo, một tôn giáo có gốc là đạo Mẫu phát triển trên cơ sở học thuyết: Hoàng Đế – Lão Tử nên còn gọi tắt là đạo Hoàng Lão, tôn giáo duy nhất của Trung Hoa. Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là khôi phục lại họ Lý của Trung Hoa. Phàn Sùng chỉ là thủ lãnh cách mạng không gây dựng đế nghiệp cho mình mà tìm kiếm cho được con cháu của Lý Bôn để tôn vương, sau cùng tìm được 1 đứa bé chăn bò 15 tuổi là con cháu chính dòng Lý Bôn tên là “Lưu Bồn Tử” ai đó cố tình nhập nhèm ... chính xác là “Lý Bôn Tử” nghĩa là con cháu của Lý Bôn, là danh hiệu chứ không phải là tên riêng. Vì quân của Phàn Sùng đều nhuộm lông mi đỏ nên được gọi là quân Xích Mi. 2. Cuộc nổi loạn núi Lục Lâm : Lơi dụng quốc lực Trung Hoa suy tàn, người Mongoloit hay các dân tộc bắc Trung Hoa (hiện nay) nổi dậy lập quốc của họ. Nòng cốt lãnh đạo cuộc nổi loạn này là quí tộc người “Lu” hay Liêu, tức giống Man làm chủ lưu vực Hoàng Hà trước đây. Lãnh địa của Hưng Đế Lý Bôn trước đây là miền đất Hãm hay Hiểm tức vùng núi non hiểm trở Tây Bắc Trung Hoa, trong đó có đất Hán tức là đất của dân gọi vua là Hãn, dân chúng sinh sống trên đất khởi nghiệp nhà Hiếu có 3 thành phần rõ rệt: Hoa tộc – Tạng tộc – và người Man phương Bắc (hiện nay) do công trạng của họ trong công cuộc xây đựng đế nghiệp họ Lý, nên nhà Hiếu coi tất cả là con dân của vương triều, thậm chí hoàng tộc họ Lý còn kết thân với thủ lãnh sắc dân Hãn qua các cuộc hôn nhân “chính trị”. Sử Trung Hoa nhập nhèm họ Lý Trung Hoa và họ Lu (Liêu) của dân man thành một và viết thành họ Lưu, Lý Bôn biến ra Lưu bang, Hưng Đế trở thành Hán Đế hay Đại Hãn; chính sử Trung Hoa cũng hé lộ … các thủ lãnh dân Hung Nô đều mang họ Lưu là họ của hoàng tộc Trung Hoa …sự việc đó chính là cái đuôi của thời kỳ lịch sử đặc biệt này. Sử chép: Vương Mãn cấm người họ Lưu làm quan, ta hiểu ý nghĩa sâu xa là Vương Mãn phân biệt chủng tộc … Rạch ròi giữa người cai trị và dân bị thống trị, không có chuyện thủ lãnh dân bị trị lại là quí tộc Trung Hoa … Đế hiệu của Vương Mãn là Chu Hoàng Đế nói lên rất rõ ý nghĩa này; Đặt tên triều đại là ‘Tân’ danh hiệu vị lang cuối cùng nhà Đông chu , chính mình cũng xưng là Châu hòang đế đủ soi rõ tâm can của Vương mãng. Triều Chu là triều đại dài nhất Trung Hoa cả ngàn năm tạo dựng quốc thống Trung Hoa, bản sắc Trung Hoa và văn minh Trung Hoa. Vương Mãn với đế hiệu Chu Hoàng Đế rõ rệt là muốn nối tiếp quốc thống nhà Chu, quốc thống của “Văn Lang” hay Văn Vương. Bọn cường hào họ Lu tập hợp lực lượng chiếm giữ núi Lục Lâm ở Hồ Bắc, ban đầu chỉ là bọn cướp núi, dân Trung Hoa gọi là bọn “Lục Lâm thảo khấu” khinh thường là ‘giặc cỏ’. Trong cơn khốn quẫn cùng cực của Trung Hoa bọn giặc cỏ làm nên sự nghiệp: lập nên Hãn quốc đầu tiên, sử Trung Hoa nhập nhèm không gọi là nước Hán, nhưng quân đội thì quên nên vẫn gọi là Hãn quân....; Ở một bài trước ta đã nói : đế hiệu cũng là quốc hiệu “Tây Hãn” chính xác phải được dùng để xác định thời này, thời Đại Hãn Lưu Huyền lập Tây Hãn Quốc . Lưu chỉ họ Lu hay người Liêu, Huyền là huyền phương, phương màu đen; mã tin Dịch Lý chỉ phương nam, phương nước ngược lại với phương hỏa hay xích đạo. Huyền = Đen = Mun. Lưu Huyền → Lưu Mun → Lưu Manh chỉ với từ dân gian diễu cợt ‘Lưu Manh’ cũng đủ khẳng định không phải là vua Trung Hoa, Tây Hán hay Tây Hãn không phải là 1 triều đại của Trung Hoa đó là tên quốc gia đã xâm chiếm và thống trị Trung Hoa mở đầu cho đế quốc Hãn (viết sai thành Hán). Từ Hãn đã trở thành nổi ám ảnh kinh hoàng của dân Việt-Hoa, trong kho tàng từ ngữ của họ vẽ nên hình ảnh ghê rợn với những chữ: hung-hãn . Phải chăng khi lịch sử sang trang cũng là lúc đất trời đảo lộn , Nam biến ra bắc , bắc lộn ngược thành nam...để Chim lặn dưới nước ngược lại cá bay trên trời... Con số 18 định mệnh của người Việt đã nói lên rất rõ danh hiệu Hùng Vương thứ 18 là Vương Mãn – nghĩa là vua cuối cùng; chữ mãn này nghĩa là đã tràn đầy rồi không thể chứa thêm được nữa , ta thường dùng chỉ sự hết hạn như: mãn hạn, mãn phần …;Ngày đau thương của dân Việt-Hoa là vào 1 ngày năm thứ 23 sau CN khi cùng đường Chu Hoàng Đế ngồi trên long ngai đọc kinh sám hối chờ Lưu Tú, một tướng lãnh của Hãn Quốc tới chặt đầu. Ngày mà đầu của Chu Hoàng Đế lìa khỏi cổ cũng là ngày mà dân Việt-Hoa bắt đầu ngàn năm nô lệ – vong quốc. Sự vong quốc trong thực tế (bỏ qua thời nước Thục, Ngô ngắn ngủi) của dân Trung Hoa đã chấm dứt với thời phục hưng của triều Bắc Chu – Vũ Văn Giác, tức vua: Văn Giác. Nhưng sự vong quốc trong tâm thức thì kéo dài tới tận hôm nay vì chính sử Trung Hoa vẫn nhận các triều Lưu Huyền, Đông Hán, Ngụy, Tấn Nguyên, Thanh là các triều đại Trung Hoa và người Trung Hoa vẫn hãnh diện với “Hán tộc” của mình, vui vẻ làm con dân Đại Hãn …!!!? vẫn gọi những kẻ đã diệt quốc Trung Hoa là tiền nhân …!!!?. Nước Trung Hoa ngày nay thực chất là một hợp chủng quốc đây là chuyện đương nhiên do lịch sử để lại nhưng oái oăm ở chỗ người Hoa không có trong số các tộc người làm thành hợp chủng quốc Trung hoa…; Hán ,Mãn ,Mông , Hồi , Tạng có chữ Hoa nào đâu…? phần dân chính gốc Trung Hoa biến thành các sắc tộc thiểu số ở Hoa nam và số khác lập thành các quốc gia Đông Nam Á ngày nay nhưng vì đã hoàn toàn mất sự liên thông với quá khứ nên không nhận mình là ‘Trung hoa’ thậm chí không biết mình là Trung hoa và tệ hơn nữa là :từ “Trung Hoa” đã trở thành một nỗi ám ảnh đè nặng trong tâm trí họ. 18 Hùng triều là Lịch sử có thật , có gì đau buồn hơn nếu phải làm kẻ thất tộc , thực may mắn cho dân họ HÙNG tiền nhân đã để lại cho chúng ta một qúa khứ rõ ràng và đầy đủ từ khai thiên lập địa đến khi vong quốc , dù trải qua biết bao đắng cay gian khổ cộng lại có đến gần ngàn năm làm thân nô lệ nhưng… sử còn là ta còn …, nhắc chuyện đã qua là để lo việc sắp đến , đấy chính là trách nhiệm phải mang của sử Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 C . Lịch sử họ HÙNG cổ và trung đại a . VONG QUỐC SỬ. 1. Thời nô lệ Hãn Quốc (25 – 220) Cuộc nổi loạn núi Lục Lâm mà lịch sử chỉ đích xác là “Lục Lâm thảo khấu” đắc thời nên trở thành cuộc phục hưng của các dân Man hay Mông. Hãn quốc được tạo lập, Đại Hãn đầu tiên là Lưu Huyền, thủ đô là Tây An ngày nay. Phàn Sùng và quân Xích Mi tôn Lý Bôn Tử lên ngôi vua, Hán sử không nói đến đế hiệu của vì vua con cháu Lý Bôn này, quân Xích Mi có kỷ luật nghiêm nhặt rất được dân chúng ủng hộ đã mau chóng phát triển và sau cùng tấn công Tây An giết chết Đại Hãn Lưu Manh. Lưu Tú một tướng lãnh của Tây Khả Hãn đang cai trị vùng bắc Hoàng Hà nay là Sơn Tây, Hà Bắc tuyên bố lập Đông hãn quốc và lên ngôi hoàng đế . Triều Đông Hãn là kế thừa chính thống của triều Tây Hãn đã diệt vong. Quang Vũ là tên hoàng đế khai quốc của Đông Hãn, thực ra danh vị này do Hán sử đặt cho ông ta. Quang là chữ viết sai của Quan là từ nom, nhìn Việt ngữ dịch sang hán ngữ ; danh hiệu Quan vũ chỉ nghĩa là Chúa phương Nam của người Man – Mông – Mãn – Minh . Lưu Tú biến âm tiếng Việt là “Lu Tối”; Đông Hãn kế tiếp Tây Hãn .Quan vũ tự nhận là cháu 5 đời của Hiếu Cảnh đế..., nhưng không có gì che mắt được thiên hạ dân gian có câu ...mập mờ đánh lận con đen... bia miệng ngàn năm vẫn còn trơ trơ và sự bịp bợm không còn gì che đậy được nữa . Ở một phần trước của thiên khảo luận này đã nói đến 2 “tiền quốc” của người Lu hay Liêu. - Đông bắc Hoàng Hà (hiện nay) là nơi sinh tụ của dân quan Liêu ngày nay là 2 tỉnh Sơn Tây-Hà Bắc. - Đông nam Hoàng Hà thuộc dân Từ Lu hay Tào Lao, nay là tỉnh Sơn Đông – Giang Tô, xưa gọi là bọn Hoài Di Từ Nhung. Phàn Sùng và chúa “Lý Bôn Tử” đã sai lầm chết người khi đóng đô ở Tây An tức thành đô của Lưu Manh nước Tây Hãn, lập tức họ bị dân Man triệt đường lương thực, quẫn bách phò Chúa chạy sang Cam Túc đất “truyền thống” của Hung Nô , Kết quả là thầy trò ôm cái bụng đói meo chạy về hướng đông lọt đúng vào cái bẫy Lưu Tối đã giăng sẵn, không còn cách nào khác ngoài việc xin hàng, Lưu Tú giở trò nhân nghĩa dẫn họ về Lạc Dương cấp đất để thầy trò sinh sống, chỉ vài tháng sau Phàn Sùng bị “làm thịt” vì tội mưu phản. Phải thừa nhận Lưu Tối, Quan Vũ là đại trí, đại dũng nhưng cũng đại lưu manh … chính ông ta là người đã xô dân họ HÙNG vào màn đêm tăm tối của kiếp nô lệ. Chính sử Trung hoa cố gắng đánh lừa thiên hạ nhập nhèm gọi triều Hiếu của Lý Bôn là nhà Tây Hán để Tây hán chuyển sang Đông Hán là sự tiếp nối bình thường hợp lẽ...cũng là Hán cả chỉ phân ra Tiền và Hậu mà thôi....thực tế : đây là sự sang trang của lịch sử ;Trung hoa từ một quốc gia độc lập biến thành nô lệ các đại hãn man phương. 2. Kẻ sĩ Nhiếp Chính Vương Mãn nhà Tân (Chu) tuẫn quốc nhưng toàn cõi lĩnh nam vẫn không chịu khuất phục, các Châu, Quận trở thành các vùng tự trị, ở Giao Chỉ Sỹ Nhiếp lãnh đạo nhân dân tự trị . Sỹ Nhiếp không phải là tên là họ, Sỹ Nhiếp nghĩa là ‘kẻ có học tạm nắm quyền’. Sử Việt trước kia rất trọng Sỹ Nhiếp, thời kỳ này coi như 1 chương của lịch sử, gọi là kỷ Sỹ Vương, các sử gia rất lúng túng khi thì coi như 1 thời kỳ độc lập của nước Việt, khi thì coi như là 1 thời trong chuỗi ngày nô lệ . Về mặt văn hóa cũng có nhiều điều không bình thường, trước đây sử học thường cho là: người Việt nhiễm văn hoá “Trung Hoa” từ thời này, Sỹ Nhiệp đã đem Tứ Thư, Ngũ Kinh, phong hóa Khổng Giáo truyền vào nước Việt , nhiều tư liệu cũng cho là chữ Nôm, thứ chữ riêng của người Việt đã có gốc từ thời này. Nương theo cái đà ấy các sử gia “đế quốc” phịa thêm: Sỹ Nhiếp đã dạy chữ Hán cho dân Việt, giúp đỡ để đôi nam nữ thành vợ thành chồng theo lễ nghi Trung Hoa, thậm chí dạy cho dân Việt cách cày bừa, trồng trọt. Với ý nghĩa chữ Sỹ Nhiếp là ‘kẻ có học tạm cầm quyền’… cho ta rõ là chủ quyền của quốc gia đã mất ở thủ đô, ở các địa phương kẻ sỹ nhiếp quyền để lãnh đạo nhân dân tự trị và tự lực, đấy cũng là lý do cho điều sử Việt Nam viết: ‘các quan lại, đại thần, danh sĩ nhà “Hiếu” rút về Giao Chỉ đều được Sỹ Nhiếp đón tiếp, đối đãi tử tế. Giao Chỉ giờ thành đất cực nam Trung Hoa, nơi tinh hoa Trung Hoa đổ về vì các miền đất khác đều bị khả Hãn man tộc lần lượt chiếm đóng. Sau cùng việc đến cũng phải đến, năm 39 Quan Vũ vua Đông Hãn sai Mã Diện (Viện) nghĩa là Mặt ngựa thống nhất quân thủy bộ tổng tấn công Giao Chỉ. Cuộc tổng tấn công này sử Việt lầm lẫn biến thành cuộc chiến chống lại cuộc khởi nghĩa 2 bà Trưng. … Khi Mã Diện chiếm Giao Chỉ năm 43 thì ở đây dân Việt: - Vẫn còn dùng trống đồng để tế lễ tổ tiên . Vẫn còn dùng luật Việt mà Mã Diện đã tâu về triều đình là khác luật Hán 10 điều. Hai điều trên chứng tỏ trước khi Mã Diện kéo quân đến thì sinh hoạt của dân chúng vẫn thuần “Việt” nghĩa là không nô lệ người Hán . Năm 43 (Quí Mão) Giao Chỉ thất thủ, Hãn Quốc Đông hoàn tất việc chinh phục Trung Hoa. Thành tích của Mã diện ở Giao Chỉ thì rất nhiều nhưng nổi tiếng nhất là truyền tích: Mã Vương ra lệnh thu tất cả trống đồng ở Giao Chỉ đúc thành 1 con ngựa dâng lên Quan Vũ vua Đông Hãn, và ra lệnh chôn một trụ đồng trên đó khắc hàng chữ: ‘đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt’, đến nay câu trên vẫn được dịch: trụ đồng gãy thì Giao Chỉ mất nước. Thực sự thì Mã Vương đâu có tốt đến thế, trụ đồng mà gãy thì phải đến cả trăm năm. Ta giải mã đoạn sử trên: trống đồng là đặc trưng văn hóa nước Văn Lang tức triều Chu của Trung Hoa, do công dụng tế tự tổ tiên, trống đồng trở thành linh khí nối thông quá khứ với hiện tai, tạo nên dòng linh lực vô tận tuôn đổ từ quá khứ ngàn đời nuôi sống tâm linh con cháu Trung Hoa. Việc nấu chảy trống đồng được mô tả là : trụ đồng của nền văn minh tâm linh Trung Hoa đã gãy. Câu này còn chỉ rõ 1 điều ít ai để ý : trống đồng bị nấu chảy đúc thành con ngựa là có ý nói : nền văn minh Văn Lang đã bị Quan vũ và Mã diện phù phép biến ra văn minh dân Man tức dân lấy ngựa làm gốc, ăn ngủ trên lưng ngựa, sống chết trên mình ngựa, tóm lại là nền văn minh lang thang du thủ du thực với ngựa, tạm gọi là văn hóa- văn minh ...Ngựa. Diệt quốc Trung Hoa, tráo đổi văn minh Trung Hoa chính là Quan Vũ, kẻ thực hiện chính là Mã Diện (Viện). Quan Vũ – Lu tối là Cao Tằng Tổ của Càn Long đế quốc Mãn Thanh sau này, kẻ đã diệt chủng Trung Hoa về văn hóa trong đợt đại hồng thủy “Tứ khố toàn thư”. Ta lưu ý; Đông Hãn sau khi chiếm Giao Chỉ đã hụt hơi không thể tiến xa hơn được, nên thiên hạ của Trung Hoa cũng còn 3 nước thoát ách chiếm đóng đó là phần đất thuộc các nước: Lỗ, Yên, Tề cũ sau lập thành các nước sử Hán gọi là Phù nam hay Bồ Nam ,Đốn Tốn và Lâm ấp là tiền thân của Xiêm La, Nam chiếu và Chiêm thành sau này . 3. Cuộc khởi nghĩa của 2 nữ vương (Ngày 5 tháng 2 năm Giáp Tý- 184) Đạo Giáo thời phục hưng do Trương Thiên Sư còn gọi là Trương Đạo Lăng lập nên, Lăng là biến âm của Lang vậy Trương Đạo Lang tương đương với chữ ‘giáo hoàng’ ngày nay. Đông Hãn đến đời Linh Đế thì trở nên cực kỳ hủ bại, vua chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, quan chỉ lo bóc lột dân, triều đình công khai rao bán quan chức, hoạn quan lộng hành nơi cung cấm, khống chế cả triều chính – bản chất của một triều đình đế quốc đã lộ rõ. Dân Trung Hoa đã bắt đầu nổi dậy, đáng kể là cuộc khởi nghĩa của Hứa Sinh ở Cối Kê đất tổ của Việt Vương Câu Tiễn xưa, Hứa Sinh lên ngôi xưng là Dương Minh Hoàng Đế, năm 174 quân khởi nghĩa bị đánh bại. Ở quận Cự Lộc có 3 anh em Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo (chữ Giác – Lương – Bảo chỉ có nghĩa là Thứ 1, Thứ 2, Thứ 3). Trương Giác tinh thông y thuật, tự coi là truyền nhân của Trương Đạo Lang đã lập nên Thái Bình Giáo vừa giúp dân cứu đời, sau 10 năm hoạt động Thái Bình Giáo đã truyền ra khắp nước, Hán Linh Đế và bọn tham quan ô lại vẫn vùi đầu ăn chơi. Đệ tử Thái Bình Giáo được tổ chức chặt chẽ thành 36 phương, ước hẹn vào ngày 5-3- giáp tý -184 sẽ đồng loạt khởi nghĩa phục quốc. Nhưng có kẻ phản bội, kế hoạch bị lộ, Trương Giác quyết định khởi nghĩa sớm 1 tháng tức 6-2-Giáp tý -184. Trương Giác xưng là Thiên Công Tướng Quân, Trương Lương là Nhân Công Tướng Quân và Trương Bảo là Địa Công Tướng Quân, vì quân khởi nghĩa dùng khăn vàng quấn lên đầu làm ám hiệu nên được gọi là Quân khăn vàng. Hãn quân do Hà Tiến và Tào Tháo chỉ huy đã đàn áp đẩm máu quân khởi nghĩa, sau 9 tháng chiến đấu ngoan cường không may thủ lãnh Trương Giác bị bệnh đột ngột từ trần, các em Trương Lương, cũng lần lượt hy sinh. Quân chủ lực khăn vàng bị đánh bại nhưng những cánh quân lẻ tẻ tiếp tục kháng chiến đến cả chục năm sau, Hãn quân vẫn chưa tiêu diệt hẳn được. Thực là 1 trang sử bi hùng, được sử Việt Nam lưu giữ dưới truyền tích khởi nghĩa của 2 bà Trưng : Trương Giác là bà Trưng Trắc, Trương Lương là Trưng Nhị. Do quan điểm văn hóa nên 2 dòng sử Việt – Hoa có sự khác biệt : Trung quốc với truyền thống trọng nam khinh nữ qúa đậm nét nên các sử gia đã không dám thể hiện một sự thực lịch sử : cầm đầu cuộc nổi dậy phục quốc là 2 hoặc cũng có thể là 3 vị nữ vương ; còn ở Việt nam hình ảnh các nữ vương cưỡi voi xông pha trận mạc đã trở thành hào khí dân tộc từ ngàn xưa đến tận ngày nay. Sử Việt đã lầm lẫn cuộc đàn áp quân khăn vàng của Hà Tiến và Tào Tháo năm 184 với cuộc tấn công diệt quốc Giao Chỉ của Mã Vương năm 39. Ngày nay ở Việt Nam hằng năm vẫn làm lễ kỷ niệm hai bà Trưng vào ngày 6 tháng 2 âm lịch nhưng lại cho là ngày 2 bà Trưng tuẫn quốc ở Hắc Giang – thực ra đó chính là ngày khởi nghĩa của quân khăn vàng ; so sánh các sự kiện của 2 cuộc khởi nghĩa ta thấy hai yếu tố chính là tên thủ lãnh và ngày tháng đều trùng hợp chứng tỏ đó chỉ là 1 sự kiện được thể hiện bởi 2 dòng sử khác nhau mà thôi . Cuộc khởi nghĩa của 2 bà Trưng được dân gian lưu truyền : 2 bà khởi binh để rửa hận cho nước, trả thù cho chồng có vẻ... không bình thường ; vì tên chồng của Trưng Trắc bị giặc Hán giết là THI SÁCH rất xa lạ với người Việt; rất có thể đây là lối dùng chữ để ám chỉ : Thi là Kinh Thi, là văn chương Trung Hoa, Sách là Kinh Thư là lịch sử Trung Hoa, 2 quốc bảo này truyền từ đời Chu đã bị quân xâm lược Đông Hán hủy hoại , Thi Sách (Thư) bị giết hại, cũng có nghĩa là kinh Thi –Kinh Thư bị chà đạp đồng nghĩa với sự vong quốc, con dân họ HÙNG quằn quại trong kiếp nô lệ giặc Hãn phương Man. 2 nhà khoa bảng Việt nam là : - Nguyễn Thực đi xứ trung Hoa cuối thế kỷ 16 và Ngô thì Nhậm năm 1793 đ̣ã tận mắt thấy và ngậm ngùi với những vần thơ nói đến đền thờ 2 bà Trưng ở Hồ nam . Gần đây bác sĩ Trần đại sỹ đã làm việc 1 thời gian dài và đã khảo sát rất công phu tường tận về đạo thờ vua Trưng ở khắp các tỉnh miền nam trung quốc . Những tư liệu mới này gợi lên nhiều điều băn khoăn suy nghĩ về cuộc khởi nghĩa của quân ‘Khăn vàng’. Theo chính sử Trung quốc thì dưới thời Đông Hán ngoài cuộc khởi nghĩa ‘hoàng cân ‘ hay ‘khăn vàng ‘ thì không có cuộc khởi nghĩa nào khác có quy mô toàn quốc cả , chỉ lẻ tẻ ở địa phương như Cối kê có cuộc khởi nghĩa của Hứa Sinh , Giao chỉ có khởi nghĩa của Trưng thị ... Vậy tại sao lại có đền thờ ‘ vua Bà’ khắp Hoa nam ? đúng theo Hán sử những đền thờ ấy phải thờ anh em Trương Giác thủ lãnh của cuộc khởi nghĩa Hoàng cân mới hợp lẽ ..?...điều bất thường này dẫn ta đến những gỉa thuyết : phải chăng 2 nhân vật Trương Giác thủ lãnh Hoàng cân và Trưng Trắc mà sử Tàu nói đã nổi dậy ở Giao chỉ là một ; chi tiết quân khởi nghĩa theo 2 bà Trưng đã chiếm được 65 thành trì càng củng cố lập luận này . quy luật phát triển sự vật theo dịch lý gồm 2 chuỗi chẵn và lẻ : - chuỗi số chẵn : 1 – 2 – 4 – 8....64 ( thái cực – lưỡng nghi – tứ tượng và 64 quẻ trùng ) - nếu thêm vào chuỗi trên 1 phần tử ở trung tâm gọi là nhân ta có chuỗi phát triển theo số lẻ 1 – 3 – 5 – 9....65 (thái cực – tam tài – ngũ hành và 65....thành trì ( ? ) ) Con số 65 trong dịch học có nghĩa là tất cả hay toàn thể , ở đây nó diễn tả sự thành công to lớn của nghĩa quân theo 2 bà Trưng đã chiếm lại được và làm chủ trọn vẹn lãnh thổ quốc gia , chiếu theo sự phân bố những đền thờ vua Bà hiện nay đã biết thì ta không thể nào nói khác hơn ...là : đất nước của người họ HÙNG thời đầu công nguyên ít ra cũng là toàn cõi Hoa nam ngày nay. Còn 1 điểm nữa rất quan trọng là như sử Trung Hoa đã ghi : ‘toàn quốc nổi dậy chống vua quan nhà Đông Hán’ ....còn cổ sử Việt thì ghi dứt khoát rõ ràng là ‘ hai bà Trưng khởi nghĩa để rửa hận cho nước trả thù cho chồng’ ... như vậy nhà đông Hán không thể nào là 1 triều đại của Trung Hoa , tính chất của cuộc nổi dậy này là 1 cuộc khởi nghĩa phục quốc chứ không phải chỉ để chống lũ bạo quân - tham quan như sử Trung quốc đã cố tình ghi chép . 4. Thời Lưỡng triều kháng Ngụy – (giặc giả năm 220 – 280) Sau cuộc khởi nghĩa khăn vàng, triều đình Đông Hãn đã lung lay tận gốc; dân tộc trung tâm của Đông Hãn là Quan – Liêu, hay Nam – Lu không còn làm chủ được đế quốc mênh mông nữa. Lịch sử thời này chắc chắn đã bị các sử gia Hán tộc cắt xén, sửa chữa rất nhiều khiến không thể hình dung được tình cảnh lúc đó ra sao; chỉ biết sau cơn hỗn loạn đến năm 220 nước Ngụy ra đời trên vùng đất dân Lu hay Liêu gồm cả Quan Lu và Từ Lu và vua đầu tiên là Tào Phi con của Tào Tháo, Tào Tháo là đại công thần triều Đông Hãn, tước Tào Vương. a. Năm 221 ở Xuyên Thục, Lý Bí sử Trung Hoa gọi là Lưu Bị lập nước Thục, năm 222 Tôn Quyền lập nước Ngô ở Giang Nam. Nước Thục và Ngô của người Trung Hoa, nước Ngụy của dân Man, thành phần chính là người Lu (Liêu). Như thế Trung Hoa đã phục quốc nhưng lại chia làm đôi. Lý Bí hay Lưu Bị là hoàng thất triều Hiếu hay Hưng Đế, khởi đầu nương nhờ người anh em họ là Lý Thiên Bảo, sử Trung Hoa gọi là Lưu Biểu ở Kinh Châu, Kinh Châu bị Tào Tháo chiếm, Lý Thiên Bảo và Lý Bí chạy về Quí Châu, ở đấy Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương trên đất Dạ Lang , sử Việt Nam viết thành Dã Năng, Dạ Lang là đất của Họ Lửa người lửa còn nhiều tên khác: Lão, Liêu, Lý Lão … Hữu Hổ – ngày nay gọi chung là Ka Đai, sử Việt lầm lẫn viết là Động Dã Năng ở bên Lào thay cho nước Dạ Lang của người Lão... thực ra cả DẠ LANG và DÃ NĂNG đều sai , tên đúng là DÃ LANG nghĩa là đất của vua DÃ tức vua CHÀY - CỐI tên gọi khác của ÂM - DƯƠNG , vua tổ khai sáng vùng này còn được gọi là ÂM DƯƠNG hay AN DƯƠNG vương cũng là Chu văn vương tổ nhà Chu . Trong thời kỳ lịch sử này cổ sử Việt còn 1 lầm lẫn khác : vùng Điền trì nghĩa là cái ao ở xứ Điền Vân nam biến thành hồ Điển triệt ....được ức đóan là ở bắc Việt nam hiện nay . . Sau Lý Bí tiến chiếm vùng Tứ Xuyên ngày nay, xưa là đất Phát của Hùng Trịnh Vương – Hưng Đức Lang nên sử gọi là Hậu Lý Nam Đế (Lý Bôn là Lý Nam Đế) Sử Trung Hoa gọi Lý Bí là Chiêu Liệt Đế có nghĩa là chúa vùng tây nam (phương Dịch Lý) Chiêu = phía tây; Liệt là biến âm từ chữ Lạc, Lục tiếng Việt phát âm là Nác – Nước; chiêu và liệt là mã tin Dịch Lý chỉ phương tây nam đồng nghĩa với chữ Tứ Xuyên, Chân Định Xuyên Thục. Câu truyện kết nghĩa Đào Viên lừng lẫy trong lịch sử Trung Hoa của Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi đã trở thành điển tích trong văn hóa còn truyền đến tận ngày nay. Sử Việt đã ghi các sự kiện của 2 triều vua Lý Bôn và Lý Bí chồng lên nhau nên không có cơ sở nào để xác quyết là Lý Bôn hay Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, 1 quốc hiệu cực đẹp thể hiện sự trường tồn và hạnh phúc của dân tộc. b. Năm 222 Tôn Quyền xưng đế ở Giang Nam, sử Việt Nam gọi là Ngô Quyền; Tôn không phải là họ mà là tôn quí, cao trọng ý chỉ thủ lãnh. Tôn Quyền tôn trọng hiền tài nên được văn thần, võ tướng phò tá rất đông. Đối với Lưu Bị hay Lý Bí, Tôn quyền tỏ rõ sự hòa thân, cho mượn Kinh Châu để Lý Bí đứng chân, gả em gái để Lý Bí trở thành người một nhà với mình. Sử Trung Hoa chỉ nói những việc làm nhân nghĩa thông thường không hé lộ để người ta nhìn ra một liên minh dân tộc giữa Thục và Ngô. c. Năm 220 Tào Phi cướp ngôi Hãn của con cháu Quan Vũ, ngôi chúa chuyển từ người Quan Lu sang Từ Lu hay Tào Lao, Tào Phi lấy quốc hiệu là Ngụy – từ đó trong ngôn ngữ Trung Hoa ‘ngụy’ có nghĩa là ‘giả’, sử Việt Nam gọi đích danh triều này là Nam Hãn, như thế Đế quốc Hãn có 3 triều đại: Tây Hãn của Canh Thủy Đế Lu Huyền; Đông Hãn của Quan Vũ Lưu Tú, và Nam Hãn của họ Tào hay Từ. Lý Bí được một 1 văn thần kiệt xuất phò tá đó là Khổng Minh Gia Cát Lượng, đối sách liên minh dân tộc với Ngô để cùng chống cường địch là Nam Hãn hay Ngụy là tư tưởng xuyên suốt của ông thể hiện tầm vóc, và tầm nhìn rộng và sâu của bậc vỹ nhân, 1 đời cặm cụi và tận tụy vì dân vì nước, đến lúc chết còn làm cho vua Ngụy kinh hồn bạt vía. Ở Trung Hoa còn truyền tụng câu vè: “Gia Cát Lượng đã về trời còn làm Trọng Đạt rụng rời tay chân” Trọng Đạt là tên của Tào Phi tướng nước Đông Hán sau này là vua nước Ngụy. Vì ngụy là giả trá nên dân Việt Nam gọi là “giặc giả” chỉ thời giặc phương Man quấy phá quốc gia mình, sau giặc cỏ đến giặc giả ý nghĩa lịch sử rất rõ ràng, tại người đời sau không hiểu thấu mới bị kẻ gian xảo lừa gạt. Liên minh dân tộc Thục – Ngô có chiến công vang dội khiến cường địch là Lu Quốc của Khả Hãn phương Mun táng đởm kinh hồn, đó là trận thủy chiến trên sông Đằng, Việt Nam gọi là Bạch Đằng Giang, ‘Đằng’ là biến âm của Đường, Thường. Thương → Đường – Đằng là sông Trường Giang hay Dương Tử ngày nay, ta đã chỉ ra Dương Tử chỉ là từ dịch từ ‘Sông Thương’; chính xác phải là Dương Từ chứ không phải là Giang Tử. Sử Việt Nam gọi đây là thắng lợi hiển hách của Ngô Quyền chống Nam Hán. Sử Trung Hoa thì gọi là trận Xích Bích và xác định Xích Bích là một khúc sông trên Trường Giang. Thực ra Xích Bích là biến âm của ‘Thất Bát’ chỉ trận ấy quân Hãn của Tào Tháo 10 phần chết 7, 8 hay 70%, 80%. Sau này xích bích, thất bát còn có nghĩa trong nhiều thành ngữ như ‘Thất điên bát đảo’ hay ‘xất bất xang bang’. Tất cả đều chỉ sự đại bại, đòn đau quá đến độ quáng gà mất cả phương hướng. Xích bích còn là biến âm của ‘sạch bách’ có nghĩa là ‘chẳng còn gì’ chỉ sự thảm hại của Tào Tháo sau thất bại này. Sử Việt Nam chép trong trận Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán gọi Tào Tháo là Hoàng Tháo; chỉ có một chi tiết sai là Hoàng Tháo không bỏ mình trong trận Bạch Đằng Giang, ông ta vẫn còn sống và gây dựng đế nghiệp cho con cháu họ Tào; thực ra tào không phải là họ mà là ‘tộc danh’ của người Lu, Liêu phương đông. Từ → Tào. Đáng buồn là người Trung Hoa đã phục hưng nhưng lại chia đôi, khi thục và Ngô liên kết thì kẻ thù phương Bắc đại bại, sau chỉ vì những tỵ hiềm ân oán cá nhân làm hỏng đại sự, Thục và Ngô đánh nhau đến suy kiệt và kết quả là cả dân tộc Trung Hoa lại một lần nữa phải oằn oại dưới vó ngựa phương Bắc. 5. Thời nô lệ nước Tấn – người Hãn (Đế quốc đầu trâu mặt ngựa) Năm 265 Tư Mã Viêm lên ngôi Hãn thay thế họ Tào, viết như thế dễ lầm lẫn, Tào, Tư Mã cũng như Quan không phải là 1 họ của dân Man; các chữ Tào, Tư Mã là tộc danh của các dân tộc sống ở phương Bắc Trung Hoa; chính xác phải gọi là ‘dân Quan’ tức dân Liêu phương Nam; ‘dân Từ’ tức dân Liêu phương Đông và sau cùng ‘Tư Mã’ là dân Hung Nô ở phía Tây đất Mã, đất Mã là Sơn Tây ngày nay. Dân Việt Nam gọi bọn cướp nước thuộc tộc Tư Mã là bọn “đầu trâu mặt ngựa” vì tập tục chiến binh đội đầu trâu có 2 sừng khi lâm trận. Chữ Tư Mã gây nhiều hiểu lầm vì Trung Hoa có họ Tư Mã như Tư Mã Thiên V.v… họ Tư Mã Trung Hoa ban đầu là chức quan lo về binh bị trong ngũ quan như Tư Đồ, Tư Không, Tư Mã … chính chữ đồng âm Tư Mã này nên các sử gia Trung Hoa coi nhà Tấn là vương triều Trung Hoa. Thực ra họ là Hung Nô tức cũng là 1 Hãn như các Hãn trước, có sự kế tục của Tây Hãn, Đông Hãn, Nam Hãn rồi Tây Mã Hãn, người Trung Hoa phải chịu nỗi nhục vong quốc từ năm 23 đến năm 220 qua thời độc lập lưỡng triều Thục – Ngô lại mất nước. Từ năm 280 cho đến hết đời Tây Tấn năm 317, từ đời Đông Tấn năm 317 do tình thế bắt buộc các Hãn phải áp dụng chế độ nửa thuộc địa, người Trung Hoa phải chịu cảnh nửa nô lệ cho đến năm 557 thì vừng dương mới ló dạng ở triều đại Bắc Chu của Vũ Văn Giác sau đó là thời độc lập thống nhất huy hoàng với 2 triều Tùy – Đường. Từ năm 557 kéo dài đần đến năm 907, năm 907 trở về sau Trung Hoa lại chịu cảnh xâm lược, chiến loạn triền miên. Chiến tranh dành giật lãnh thổ giữa Trung Hoa và các dân tộc Man phương, con cháu các Hãn là trường kỳ tạo thành lịch sử khu vực, suốt chiều dài lịch sử có thể nói lịch sử Trung Hoa đồng nhất với lịch sử chiến tranh giữa Trung Hoa và các dân tộc phương Bắc (hiện nay), bắt đầu từ thời Tần trước Công Nguyên tới tận thế kỷ 20, thực là cuộc chiến khũng khiếp kéo dài 2.000 năm. Khi Trung Hoa thắng thì cảnh thái bình thịnh vượng bày ra, còn khi bị đánh bại thì phải chịu nỗi cơ cực tủi nhục của thân nô lệ, 2 kẻ thù truyền kiếp này quấn chặt vào nhau đến nỗi sử Trung Hoa ngày nay nhập chung 2 thành 1, Hoa và Hãn thống nhất thành 1 khối diệu kỳ : nước Trung Hoa nhưng lại là người Hãn. Tư Mã Viêm lập nước Tấn từ năm 265 nhưng phải đến năm 280 sau khi diệt Ngô thì đế quốc ‘Đầu trâu mặt ngựa’ mới thực sự làm chủ toàn bộ Trung Hoa. Tuy làm chủ Trung Hoa nhưng các triều đại của vua Man tức các Hãn cũng hãy còn vương vấn cái nếp của các bộ lạc du cư, chưa phải là sinh hoạt của 1 dân tộc định cư ỗn định lâu đời. Sự tổ chức và cai trị quốc gia của họ chưa thoát ra được kiểu tổ chức lãnh chúa và các tộc trưởng, nên chỉ vài năm ỗn định là đã có mầm mống nội loạn; đất Trung Hoa bị chia thành hàng tá các nước nhỏ, chỉ cần 1 tia lửa mồi là thùng thuốc súng bùng nổ, cuối thời Tây Tấn gọi là “Bát vương chi loạn”, chém giết nhau khũng khiếp. Mỗi vương liên kết với 1 sắc tộc người Man để tiến hành việc tranh quyền đoạt lợi, chỉ tội nghiệp người Trung Hoa, cuộc sống và nhân phẩm không khác gì loài vật, ai làm thịt cũng được. Năm 304 sau công nguyên , 8 tộc trưởng Hung Nô hợp lại bầu Lưu Uyên làm thủ lãnh, chiếm Lý Thành ở Sơn Tây xưng Đại Hãn, lập 1 Hãn quốc khác độc lập với Tây Mã Hãn (nhà tây Tấn), vài năm sau cơ cấu song Hãn quốc mới tổng tấn công Tây Mã Hãn và chẳng bao lâu Đại Hãn Lưu Thông (người kế nghiệp Lưu Uyên) đã chiếm hết miền Bắc Trung Hoa. Năm 317, Tư Mã Duệ lập quốc Đông Tấn đóng đô ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Tư Mã Duệ một hoàng thân kém vai vế trong hoàng tộc Tây Tấn được phái xuống cai trị vùng Nam sông Dương Tử vào năm 307, lúc đó được coi là vùng gai góc vì dân thuần là người Hoa. Tư Mã Duệ khôn khéo theo đường lối dùng người Hoa trị người Hoa, guồng máy cai trị triều Tấn cộng tác với thành phần có máu mặt người Hoa, hình thành kiểu chính quyền liên hiệp: Hãn – Hoa, vì thế Tư Mã Duệ đã thành công trong việc giữ yên phương Nam. Thực chất của nhà Đông Tấn không còn giống nguyên mẫu đế quốc Tấn, nó trở thành dạng chính quyền liên kết Hãn – Hoa, dân Hoa được hưởng 1 phần của quyền làm người, được tham gia công vụ 1 cách giới hạn. Dĩ nhiên thẩm quyền tối cao vẫn thuộc về Hãn và dân tộc của ông ta. Thời này văn hóa Trung Hoa cũng khởi sắc đôi chút, dân Hoa cũng dễ thở nên chủ yếu chăm lo làm ăn nuôi thân, không nghĩ đến việc “cứu quốc”. Đã có lúc với sự đứng đầu của Chu Hy tưởng đâu sĩ phu phương Nam thành công theo sách lược “diễn biến hòa bình”, nhưng sau cùng cũng thất bại, Chu Hy buồn đau mà chết. Năm 420 Lưu Dụ buộc Tấn Cung Đế thoái vị và ông ta lập ra triều Lưu Tống tiếp tục cai trị phương Nam. Ở phương Nam Trung Hoa, loại hình nửa đế quốc đã thành công trong việc cai trị từ năm 417 đến tận năm 589 mới chấm dứt, qua các triều Đông Tấn, Lưu Tống, Tề, Lương, Trần, tổng cộng là 172 năm. Càng về sau sự Hoa hóa càng mạnh, đến đời Trần hầu như chính quyền là chính quyền của Trung Hoa, triều Trần đặc biệt với Trần Bá Tiên đã làm nhiều việc ích nước lợi dân, chăm lo cho người dân như là ông vua Trung Hoa chính gốc, mất hẳn chất đế quốc cai trị . xét ý nghĩa Tên các vua mà lịch sử đặt cho triều Trần ta thấy rất có thể họ là người Trung Hoa chứ không phải Đại Hãn như : Trần Bá Tiên chỉ có nghĩa là vị bá thứ nhất của phương Đông, Trần là chữ Đông ghép với chữ A, tương tự như ông Cơ Xương là Tây Bá khi xưa. Kế đến, Trần Thiên, nghĩa là trời đông; rồi Trần Bá Tông là bá phương đông chính dòng V.v… Từ năm 308 trở đi Trung Hoa bị 2 Hãn quốc cai trị: Hoa Nam là chính quyền nửa đế quốc. Phía Bắc sông Dương Tử chịu sự cai trị của Hãn quốc do Lưu Uyên lập nên. Sau đó năm 386 dòng Thác Bạt lập nước Bắc Ngụy rồi Đông Ngụy – Bắc Tề. Tới năm 557 Vũ Văn Giác phục quốc cho Trung Hoa, quốc hiệu là Chu, sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu để phân biệt với các triều Chu khác. Trong các đế chế cai trị vùng Hoa Bắc đáng chú ý là dòng Thác Bạt, quốc hiệu là Ngụy, sử Trung Hoa gọi là Bắc Ngụy. Thác Bạt Khuê khi tuyên lập nước Ngụy cho dàng Thác Bạt đã công khai thừa nhận: người Hán và Thác Bạt là anh em cùng gốc, nói theo danh từ khoa học ngày nay họ cùng thuộc loại hình nhân chủng Mongoloit. Như thế như đã nói rõ – người Hán không phải là người Hoa . Dòng Thác Bạt cai trị Bắc Trung Hoa tới đời thứ 6 là Hiếu Văn Đế thì cải họ Thác Bạt thành họ Nguyên, theo Hoa ngữ ‘nguyên’ là mã tin Dịch Lý cùng gốc với chữ nguồn gốc, bản, số 1, khởi đầu, Nước, Giang … Tất cả chỉ có ý nghĩa là phương nam, ngược với phương nóng bức ở hướng xích đạo, Việt ngữ biến âm thành họ Nguyễn. Cùng với việc cải họ, Hiếu Văn Đế nước Bắc Ngụy cũng cải cách toàn diện theo phong tục, lễ giáo của người Trung Hoa. Thác Bạt là quí tộc người Tiên Ty trước khi vào Trung Hoa họ còn là những bộ lạc du mục, cuộc sống còn ít nhiều nét man dã, sau khi chiếm Bắc Trung Hoa họ cảm nhận được cái hay của nền văn minh cao hơn của họ nhiều, vì thế quyết định của Hiếu Văn Đế là quyết định sáng suốt, biếu cho dân Tiên Ty đôi hia 7 dặm, bước nhanh tới văn minh. Thác Bạt theo ngôn ngữ Hoa có nghĩa là Thổ Hậu hay Địa Hoàng còn tên tộc Tiên Ty do các sử gia Trung Hoa đặt. Tiên là khởi đầu, thứ nhất, số 1; Ty là thấp ngược với tôn là cao, là quý – Tiên Ty là mã tin Dịch Lý chỉ vùng Nam hay phương nước. Ngụy là tên nước của dân Man thời sử Trung Hoa gọi là Tam Quốc, tổ của nước Ngụy là Tào Tháo; tới tận ngày nay trong ký ức của người Việt vẫn in đậm thời này và họ thường gọi người phương Bắc (phương hiện nay) là người Tào biến âm thành Tàu, hoặc là Xẫm đúng ra Sẫm tức màu tối. Theo quy luật Dịch Lý chỉ dân sống ở phương Nam hay Huyền phương là đối lập của dân nhiệt hay hỏa còn gọi là Viêm Bang là dân hướng nóng bức . Ngụy Hiếu Văn Đế tên là Thác Bạt Hoằng đổi tên Trung Hoa là Nguyên Hoằng, sau khi “Hoa hóa” nước bắc Ngụy hưng thịnh được 1 thời gian thì vua quan bắt đầu sa đọa, vì đã “Hoa hóa” nên Bắc Ngụy có cái hay là không phân biệt Hãn – Hoa, ai cũng là con dân của Đại Hãn giờ đổi là Hoàng Đế. Do thượng bất chánh hạ tất loạn, quyền hành ở Bắc Ngụy dần dần rơi vào tay 2 đại tướng, đại tướng Vũ Văn Thái là người Hoa chính gốc, trấn nhậm miền tây tức Tứ Xuyên, Thiểm Tây ngày nay. Thời cuộc đã trao vào tay ông cơ hội, ông liền chớp thời cơ cùng con sau 1 thời gian chuẩn bị thấy thế lực đã đầy đủ bèn lật đổ ách thống trị của Thác Bạt khôi phục truyền thống Trung Hoa và nước Chu ra đời, sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu để phân biệt với các triều Chu khác. Chính xác phải gọi là triều Chiêu mới phải: Chiêu → Chu nghĩa là phương Tây. Sử Việt Nam gọi quốc gia – Trung Hoa phục hưng đó là triều “Đinh Hoàng”; Đinh là mã tin Dịch Lý chỉ phương tây, là phương không đổi, hay còn là cứng, cương, đứng, tịnh, tĩnh … biểu tượng là con voi hay Tịnh – đấy cũng là đất Chân Định, Chân Đanh của nhà Tần – Hiếu, còn gọi là Xuyên Thục, Chân Định (nay là Tứ Xuyên). Vua khai phá và lập quốc ở vùng này đầu tiên là Tần Thủy Hoàng, tên Việt Nam là Đinh Tiên Hoàng. Nay nước Trung Hoa mới lại ra đời ở đó sử Việt Nam gọi là triều ‘Đinh Hoàn’ hay ‘Đinh Hoàng’, quốc hiệu mới là ‘Đại Cồ Việt’. Qua các triều kế tiếp là Tiền Lê của Lê Hoàn, Lý 1 của Lý Uyên; không thấy sử nói đến việc đổi quốc hiệu, mãi tới triều Lý 2 tức anh em Lý Cung, Lý Ẩn (Lưu Cung, Lưu Ẩn) mới xuất hiện quốc hiệu mới là Đại Việt thay cho Đại Cồ Việt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 6, 2008 b. THỜI PHỤC HƯNG 1 . Triều :Đinh Hoàn hay Đinh Hoàng Hoa sử gọi là : BắcChu vua Vũ văn Giác Niên đại : 557 – 581 Vũ Văn Thái nắm toàn quyền đất Tây Ngụy là sự khởi đầu để con là Vũ Văn Giác tuyên bố sự phục hưng của dân Trung Hoa, với quốc hiệu Chu. Sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu, Chu biến âm từ từ Chiêu như trước đã nói. Phân tích ý nghĩa danh hiệu 2 ông có thể khẳng định: Vũ Văn Thái là vua tổ, Thái là tổ. Vũ Văn Giác chỉ vua khai quốc ; vua Văn thứ nhất, Giác là biến âm của Giáp, Can thứ nhất trong Thập Can . Sử Việt Nam đặt tên triều phục hưng này là Đinh Hoàng chính xác là Đinh Hoàn nghĩa là vua họ Đinh, quốc danh thời phục hưng huy hoàng này được Đinh Hoàng đặt tên là Đại Cồ Việt, ‘Cồ’ là âm Nôm cũng có nghĩa là to lớn . Chỉ nghe tên Vũ văn Thái- Vũ văn Giác ta đã cảm thấy ngay thanh điệu Việt chẳng cần phải phân tích từ ngữ chi cả. Theo Việt nam sử lược của Trần trọng Kim thì thời vua Đinh nước ta có 10 đạo quân , nếu căn cứ vào ‘phép’ tổ chức quân đội nhà Đinh thì 1 đạo có 10 quân , 1 quân có 10 lữ , 1 lữ có 10 tốt , 1 tốt có 10 ngũ và 1 ngũ có 10 người ...cứ vậy nhân lên thì nhà Đinh có đạo quân khổng lồ là 1 triệu người ,thử hỏi nếu nhà Đinh là nước mà lãnh thổ chỉ là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và bắc bộ thì lấy đâu ra người mà xung quân lắm thế ? lấy lương thực đâu mà nuôi ? Theo sử Trung Hoa thì nước Bắc Chu truyền được 5 đời vua, đánh diệt Bắc Tề hậu thân của Đông Ngụy, thống nhất miền Hoa Bắc. Năm đời đế của Đại Cồ Việt hay 5 Đinh Hoàng: Hiếu Mẫn Đế: Vũ Văn Giác – Vua Văn Giác Minh Đế: Vũ Dụ – Vua Dụ Vũ Đế: Vũ Dung – Vua Dung Tuyên Đế: Vũ Huân – Vua Huân Tĩnh Đế: Vũ Xiễn – Vua Xiễn Vua cuối cùng là Chu Tĩnh Đế, đối chiếu với sử Việt là Vệ Vương lên ngôi lúc 6 tuổi, quyền hành nằm trong tay Dương Kiên, cha của Thái hậu Dương Vân Nga. Ở đoạn này các sử gia Việt Nam đã sai lầm lớn : lấy sự kiện vua khai quốc nhà Tống là Triệu Khuông Dẫn thay thế nhà Hậu Chu chép thành chuyện Lê Hoàn thay ngôi Đinh Hoàn (sử Trung Hoa gọi là nhà Bắc Chu …) 2 sự kiện diễn ra y hệt nhau khiến ta khẳng định đã sự chép lẫn. Tên triều đại CHU và vua VĂN cho thấy rõ ràng có sự liên hệ với nhà CHU và Văn vương hay VĂN LANG . 2. Triều Lê Hoàng hay Lê đại Hành Hoa sử là : Nhà Tùy vua Dương Kiên Niên đại : 581 – 618 Dương Kiên phế ngôi của cháu ngoại và giáng xuống tước Vương, sử Việt Nam gọi Vệ Vương – Đinh Phế đế. Dương Kiên lên ngôi lập ra triều đại Tùy chữ Tùy này là đồng âm của chữ Sở , đất Hồ bắc xưa là nước Sở , người ở đấy gọi là TỦY-VIỆT hay VIỆT TỦY gọi là ‘nhà TÙY’ chỉ là sự bóp méo của sử Trung quốc ; chính xác phải gọi là triều VIỆT TỦY một triều đại của người họ HÙNG . Vì có sự đoạt ngôi không theo khuôn phép truyền thống nên niên hiệu nhà Tùy không hề có chữ ‘Vũ’ nghĩa là vua, nói khác đi là lịch sử không công nhận là 1 triều đại chính thống như các triều đại Trung Hoa khác. sử Việt Nam gọi triều đại này là triều Lê Hoàn tức Lê Hoàng nghĩa là vua họ Lê. Lãnh thổ của vua Lê (Lê Hoàng) lúc lên ngôi đã là cả miền Hoa Bắc, vì đấy là đất cũ của người Man họ Thác bạt nên Lê Hoàng-Dương Kiên rất khôn khéo trong chính sách đối nội, vẫn tôn trọng quý tộc Tiên Ty cho họ hưởng các đặc quyền đặc lợi của tầng lớp trên nên không có cớ để họ nổi loạn. Lê Hoàng hay Vua Lê còn có tên là Lê Đại Hành. Hoa sử gọi Dương Kiên - Tùy Văn Đế đã tiến quân diệt Trần quốc của Trần hậu chủ thống nhất toàn cõi Trung Hoa năm 589, sử Trung Hoa chép: vì dân miền Hoa Nam vẫn coi Dương Kiên là người Nam, ý nói là người Trung Hoa chính gốc nên mau chóng khuất phục mở ra cảnh nước non thống nhất thái bình và thịnh trị. Lê Hoàn – Dương Kiên có tác phong của 1 người lính, rất kiên quyết, cứng rắn, rất kham khổ trong cuộc sống. Ông nhanh chóng tiêu diệt tất cả các thế lực cát cứ manh mún, diệt trừ tham quan ô lại, chia lại ruộng đất cho nông dân, nói chung các mặt kinh tế, giao thông, văn hóa đều có bươc phát triển. Ông cũng rất cẩn trọng cho việc kế tục ngôi vua, giáo dục người kế vị hết sức nghiêm khắc, nhưng trời không chiều lòng người, Dương Kiên đã tin lầm kẻ gian manh và mắc lõi lớn khi truyền ngôi cho Dương Quảng, sử Việt Nam gọi là Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, sử Trung Hoa gọi là Tùy Dạng Đế, một kẻ say mê với những gì to lớn, ông ta cho xây Đông Đô cực kỳ tráng lệ, huy động sức lực cả nước để thỏa sự đam mê của mình bất chấp sự tàn tạ của dân chúng, công bình mà xét thì một trong những công trình được làm dưới đời ông đến nay dân chúng vẫn còn được hưởng lợi, đó là các vận hà mà Tùy Dạng Đế cho đào để nối liền các con sông lớn như Hoàng Hà, Hoài Thủy, Trường Giang, V.v… sử VN chép thành : Lê Hoàn cho đào kênh 'sắt' và kênh 'xước' ở bắc trung việt. Sự chịu đựng của con người có giới hạn, đến một mức nào đó người dân không còn cách nào khác là vùng lên để tự cứu lấy mình. Dạng Đế chạy về thành Kiến Nghiệp, ở đó ông ta bị chính binh lính mình giết chết. Sử Việt Nam mô tả rất rõ sự tàn ác của Lê Ngọa Triều … như róc mía trên đầu nhà sư, đốt chết tù nhân, thả người trôi sông … nói tóm lại tàn ác không thua Kiệt, Trụ thời xưa. 3. Triều Lý 1 - Lý công Uẩn . Hoa sử gọi là : Nhà Đường vua Lý Uyên Niên đại : [618-684][705-907] Lý Uyên là quý tộc triều Tùy, tước Đường Quốc Công, năm 617 Tùy Dạng Đế phái ông trấn thủ Thái Nguyên chống chọi với rợ Đột Quyết, là rợ ở Tây Bắc ngày nay Trung Hoa. Lý Uyên có 4 con trai trong đó Lý Thế Dân là hùng lược hơn cả. Sử Việt Nam gọi Lý Uyên là Lý Công Uẩn; nhưng sử Việt Nam lại chép 2 đời Lý thành một, khiến người sau không nhận ra, ở đây ta tạm gọi là Lý Công Uẩn 1 tức nhà Đường của sử Trung Hoa. Lý Công Uẩn 2 là triều do anh em Lưu Cung, Lưu Ẩn lập ra ở Giao Châu xưa, xưng là Đại Việt. Tùy Dạng Đế khi đã đi đến mức cùng cực của xa hoa đồi bại thì Lý Thế Dân nhìn rõ cục diện với cha khởi binh xây dựng đế nghiệp. Đầu tiên Lý Uyên mang quà cáp biếu xén Khả Hãn Đột Quyết, yên được mặt Bắc (HN) cha con nhà Lý đem “Đường quân” tấn công Trường An, quân nhà Tùy là lũ quân tướng hũ bại làm sao có thể chống chọi được, Lý Uyên vào Trường An tuyên bố 12 Điều Ước Pháp khiến an lòng dân, ông khôn khéo chưa lên ngôi vội mà đưa cháu nội Tùy Dạng Đế – Lê Long Đĩnh tên là Dương Hựu lên làm vua bù nhìn. Năm 618 Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô, Lý Uyên mới chính thức phế Dương Hựu để lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu là Đường, Lý Uyên trở thành Đường Cao Tổ. Đất Đường, sử Việt Nam gọi là Việt Thường nằm ven sông đằng hay Thương Giang thời cổ xưa, sông Đường hay Thương Giang, Thường Giang là Dương Tử Giang ngày nay. Sử Trung Hoa gọi triều đại theo tên đất gốc, nên có tên nhà Đường; sử Việt Nam gọi theo họ của vua nên triều đại này là triều Lý, đặc biệt trong thiên khảo luận này thì đây là triều Lý thứ 1 vì còn triều Lý 2 . Cuộc khởi nghĩa của cha con Lý Uyên được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ nên nhà Tùy sớm tiêu vong. Năm 627 Lý Thế Dân kế nghiệp cha lấy đế hiệu là Đường Thái Tông. Sử Việt Nam gọi Lý Thế Dân là Thái tử Phật Mã, đế hiệu cũng là Lý Thái Tông. Cả 2 dòng sử đều ghi chép về biến cố khi Thái Tông lên ngôi, tuy có tình tiết hơi khác nhưng chắc chắn là 2 sử liệu của cùng 1 sự việc. Để được kế nghiệp ngôi báu thì Lý Thế Dân – Thái tử Phật Mã đều trải qua cuộc tàn sát anh em của mình, sử Trung Hoa chép vị trung thần giúp Thế Dân chiến thắng là Uất Trì Kính Đức; còn sử Việt Nam gọi là Lê Phụng Hiểu. Lê Phụng Hiểu sau được Thái Tông ban thưởng bằng cách trèo lên núi ném con dao, con dao đi đến đâu thì chỗ ấy là đất riêng ban cho ông, sự việc này được truyền thuyết Việt Nam gọi là “Thác Đao Điền”. 2 dòng sử Việt – Hoa còn chép trùng nhau về một số sự kiện nữa: Sử Trung Hoa có chuyện Đường tam Tạng tây du thỉnh kinh Phật , sau này hư cấu thành chuyện Tây Du Ký nổi danh. Còn sử Việt Nam chép: … vua sai Nguyễn Đạo Thành sang Trung Hoa (?) xin kinh Tam Tạng đưa về nước. Đặc biệt việc tôn sùng Nho học, việc học hành thi cử của triều Lý – Đường được 2 dòng sử viết giống hệt nhau. Về võ công thì Đường Thái Tông sai Lý Tịnh một danh tướng toàn đức toàn tài tấn công lên hướng Bắc đánh tan quân Khiết Đan chiếm cả vùng Trung Á rộng lớn ở Tây Bắc Trung Hoa, uy danh Trung Hoa là việc ngoại giao với Trung Á thuận lợi từ đấy. Còn sử Việt Nam cũng ghi: … danh tướng Lý Thường Kiệt xuất quân Bắc phạt chỉ chiếm Châu Ung, Châu Khâm, và Châu Liêm của Tống quốc rồi rút về. Thực ra cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt là xãy ra ở triều Lý 2. Còn nhiều sự kiện khácdo sử Việt Nam lồng 2 triều Lý làm một nên lẫn lộn rất nhiều. Triều Đường có Võ Hậu nắm triều chính xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, cải quốc hiệu là Chu làm gián đoạn Đường triều từ năm 685 tới 704. Còn sử Việt Nam chỉ chép có một thái phi tài đức vẹn toàn nhưng chỉ nhiếp chính sau bức rèm đó là Ỷ Lan Thái Phi. Năm 705 đại tướng Trương Giản Chi ép Võ Tắc Thiên thoái vị, tái lập lại Đường quốc. Triều Đường hay triều Lý 1 là một trong những triều đại dài nhất, nổi tiếng nhất đã tạo nên khuôn đúc Trung Hoa, đến tận thời cận kim người Hoa đã di cư ra nước ngoài sinh sống vẫn nhận mình là “Thoòng dành” tức Đường nhân đủ biết dấu ấn của triều Đường sâu tới đâu trong lịch sử Trung Hoa. Trên đất ngày nay là Việt nam nhà Đường cho lập đến 2 đô hộ phủ : An nam đô hộ phủ để trông coi các châu KIMI ở miền lĩnh nam xưa. Phong châu đô hộ phủ có sách chép là đô đốc phủ trông coi các châu KIMI thuộc miền tây bắc Việt nam tức đất Phong hay Phong châu xưa . Châu KIMI là gì ?. đó là vùng đất của các sắc dân thiểu số : KI là chép sai chữ CƠ , Việt ngữ là CẢ là dòng họ của Hùng Vũ thời lập quốc, sử Trung hoa chép Hiên viên là tổ họ CƠ ; ngày nay gọi chung là người Kađai. MI là họ của người thuộc Long tộc xưa , tức hậu duệ của Động đình quân , con cháu Long nữ, Đồ Sơn thị ngày nay gọi là người Tai. Các châu KIMI được hưởng quyền tự trị rộng rãi . Nhà Đường ý thức rất rõ về dòng giống đã tôn Lão tử-Lý Nhĩ là tổ của dòng tộc , vì Cơ và Mi là 2 dòng chính truyền của gốc tổ Trung hoa nên nhà Đường đã đặt 2 đô hộ phủ ở đất Việt làm công việc bảo hộ cho 2 sắc dân Kađai và Tai này. Đô hộ phủ chỉ nghĩa là cơ quan lo việc bảo trợ cho... không phải nghĩa chữ đô hộ là đè đầu cưỡi cổ như chúng ta quen dùng ngày nay. Nếu nhà Đường là 1 triều đại của đế quốc Hãn cai trị An nam thì ông Khương công phụ cao lắm là... được làm nông dân cày ruộng mà ăn ; làm gì có chuyện làm tới tể tướng và được vua Tàu rất qúi trọng ...như sử sách đã ghi . Xin hỏi các sử gia : ở Thiểm tây-Sơn tây có châu KIMI không ? Nếu không thì xin trả lại sự trung thực cho lịch sử Vì thiên khảo luận này không phải là sử ký , chỉ nghiên cứu lịch sử để tìm cái mới ,điều đúng , ở đây chỉ nhấn mạnh những sự kiện đặc biệt nhằm chứng minh cho sử thuyết nguồn gốc và những nét cơ bản của qúa trình dựng nước và giữ nước . Văn nhân, thi sĩ, võ tướng đời Đường nhiều vô kể, thực là một triều đại huy hoàng của dân họ Hùng, Người Việt ngày nay là truyền nhân chính thống và duy nhất của nền văn hóa – văn minh đời Đường vì toàn cõi Trung Hoa trừ Việt Nam đều chìm sâu dưới móng ngựa quân xâm lược phương Bắc từ cuối đời Tống đến tận đầu thế kỷ 20, dù muốn hay không chắc chắn đã diễn ra qúa trình lai tạp . Hiện các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã bắt đầu xác định : âm Hán Việt chính là âm ngữ đời Đường , khi nghe tên nhà Đường hay nước Đường người Việt thấy rất xa lạ nhưng biết đâu rằng đó chỉ là ký âm bằng Hán văn của từ VIỆT-THƯỜNG , tên gọi một thời của nước họ HÙNG . 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites