Thiên Đồng

Truyền Thuyết Hùng Vương

3 bài viết trong chủ đề này

Truyền thuyết HÙNG VƯƠNG

Vài lời bạch

Tìm mãi trong đống sách cũ ở nhà, Thiên Đồng mới tìm lại được quyển sách nhỏ trong đó ghi lại những câu chuyện truyền thuyết của dân tộc Việt về thời Hùng Vương. Sách được in vào năm 1984 của thế kỷ XX trước, do Hội văn học nghệ thuật Vĩnh Phú xuất bản . Những câu chuyện trong quyển "Truyền thuyết Hùng Vương" này đa phần là được trích lại từ cuốn "Lĩnh Nam chích quái" hoặc ghi lại từ những câu chuyện truyền khẩu trong dân gian.

Tôi cảm thấy đây là phần tư liệu thú vị và quý báu nên giới thiệu và soạn lại vào đây, diễn đàn của website Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, nhằm phổ biến cho mọi người con của Rồng cháu của Tiên được nghe kể hay nhắc nhở về những truyền thuyết đặc sắc của dân tộc với cội nguồn văn hiến 5000 năm huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử, nền văn minh Văn Lang rực rỡ.

Mong rằng quyển sách nhỏ này góp phần cho mọi người hiểu sâu sắc về văn hóa nước nhà, góp phần phục vụ cho những nghiên cứu về cổ sử Việt, về thời đại Hùng Vương một thời huy hoàng rực rỡ.

Ngày 23 tháng 11 năm 2012
Thiên Đồng

LỜI NÓI ĐẦU

Để góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên cứu thời đại Hùng Vương, năm 1974, Chi hội văn nghệ dân gian Vĩnh Phú đã xuất bản tập "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Nguyễn Khắc Xương biên soạn.

Năm 1981, thể theo yêu cầu của bạn đọc trong và ngoài tỉnh, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phú tái bản tập "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Lê Tượng biên soạn, chú thích và khảo dị. Trong tập, ngoài những truyện đã in trong "Lĩnh Nam chích quái" do Trần Thế Pháp biên soạn (?), Vũ Quỳnh - Kiều Phú chỉnh lý và "Truyền thuyết Hùng Vương" do đồng chí Nguyễn Khắc Xương biên soạn, có bổ sung thêm một số truyện mới do các đồng chí Lê Tượng, Nguyễn Lộc và Bùi Quang Thanh sưu tầm.

Lần in thứ ba này, chúng tôi có chọn lọc và sửc chữa đôi chỗ, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi sơ xuất. Mong được bạn đọc xa gần góp ý để những lần in sau tập sách sẽ hoàn chỉnh và mĩ mãn hơn.

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VĨNH PHÚ

Posted Image

Posted Image
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

HỌ HỒNG BÀNG

Tục truyền Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.

Lạc Long Quân dạy dân Việt cày cấy nông trang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui...Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: " Bố ơi, sao không lại cứu chúng tôi": Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long Quân, người đời không ai lường nổi...Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất tường, vứt ra cánh đồng. Qua sáu, bảy ngày bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường (1).


Long Quân ở lâu dưới thủy quốc, vợ con ít gặp. Một hôm Long Quân trở về, gặp nhau ở đất Tương, Âu Cơ nói: “Thiếp vốn là người đất Bắc, ở với vua sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình”. Long Quân nói: “ Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia li. Ta đem năm mươi con về thủy phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết”…

Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (2) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình Hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm mười lăm bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Lục Hải, Hoài Hoan, Ninh Hải, Dương Tuyền, Chu Diên, Vũ Ninh, Phú Lộc, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, và Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ: văn là lạc hầu, võ là lạc tướng, con trai vua gọi là quan lang, con gái mua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần tộc. Nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, lên nói với vua. Vua đáp: “Giống sơn nam và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó”. Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đây. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dung, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng lúa, sản xuất nhiều lúa nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói, cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng núi. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu, cau, việc hôn thú giữa nam và nữ lấy gói muối làm đầu, sau đó mới giết trâu, dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.

(Trích trong :Lĩnh nam chích quát”)

---------o0o---------

(1) Trong truyện này chúng tôi cắt bỏ bớt đoạn nói về Xuy Vưu hiên viên, Hoàng Đế là những nhân vật thần thoại Trung Quốc không liên quan gì tới truyện trăm trứng của ta.

(2) Phong Châu: nay là vùng đất thuộc tỉnh Vĩnh Phú và một phần tỉnh Hà Sơn Bình; đúng ra phải gọi là Văn Lang vì tên Phong Châu mới có từ khoảng thế kỷ thứ VII - VIII


Khảo dị:

Xung quanh truyền thuyết về họ Hồng Bàng, ở Vĩnh Phú còn sưu tầm được những truyện về Lạc Long Quân và bà Âu Cơ:

  • Lạc Long Quân đi thuyền dọc theo sông Đà, đến vùng động Lăng Xương (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Tam Thanh) gặp một cô gái xinh đẹp tên là Âu Cơ, đang hái dâu ven sông. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm vợ, đưa về núi Nghĩa (nay là xã Hy Cương, huyện Phong Châu). Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm, ba tháng mười ngày thì sinh ra một bọc trứng. Lúc sinh, trên trời có mây sáng chiếu (nên chỗ sinh bọc trứng sau làm chùa và đặt tên Thiên quang thiền tự), bảy ngày sau bọc trứng nở ra một trăm người con trai. Lạc Long Quân không biết đặt tên mới cầu khẩn thiên địa, được lão tiên hay câu cá ở Việt Trì về đặt tên các con giúp (ở Việt Trì vẫn có hòn đá có dấu chân lão tiên này ngồi câu cá).
Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng chia đôi con, năm mươi người theo cha xuống biển, sinh ra các dân tộc miền xuôi, bốn mươi chín người lên núi, sinh ra các dân tộc miền núi, để người con trưởng ở lại làm vua là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang.

Bà Âu Cơ đưa con lên mạn ngược, khi đến vùng Hiền Lương thấy đất tốt mới để một người con lại, dạy cách đốt cỏ mà trồng lúa, lấy gạo giã nhỏ nhào với mật ong cho vào chõ làm bánh. Rồi bà lại đưa tiếp các con theo ngọn suối mà đi mãi vào các cánh đồng phía trong. Mỗi năm bà lại đi thăm các con vài lần, ở lại mỗi chỗ dăm hôm rồi đi nơi khác. Ở xã Hiền Lương nay còn đền thờ bà Âu Cơ, khi cầu có hèm làm bánh mật, và phải do phụ nữ tế.

  • Trong bản “Ngọc phả Hùng Vương” hiện lưu ở đền Hùng được viết từ thời Trần, viết lại năm 1470, còn bản sao năm 1600 (Hoàng định nguyên niên) ghi: Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày mới sinh và cũng sinh ra cái bọc có một trăm quả trứng. Lạc Long Quân thấy sự lạ bèn để lên mâm vàng cầu khẩn thiên địa, bảy ngày sau nở ra một trăm người con trai, không ăn uống, bú mớm, chỉ hương hoa, không biết nói, chỉ cười mỗi ngày ba lần. Bảy tháng sau cùng tự nhiên nói to: “Trời sinh thánh đế, trị nước sinh vua, bốn bể thanh bình, thiên hạ yên mạnh”. Đoạn sau cùng giống như truyện trên. Hiện tên một trăm người con của bà Âu Cơ vẫn còn được ghi lại.
  • Đồng bào Mường có bài mo “Đẻ đất, đẻ nước” cũng có dạng tương tự như vậy.
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

HỌ HỒNG BÀNG

Tục truyền Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm, hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất.

Lạc Long Quân dạy dân Việt cày cấy nông trang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui...Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: " Bố ơi, sao không lại cứu chúng tôi": Long Quân tới ngay, sự linh hiển cảm ứng của Long Quân, người đời không ai lường nổi...Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất tường, vứt ra cánh đồng. Qua sáu, bảy ngày bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường (1).

Long Quân ở lâu dưới thủy quốc, vợ con ít gặp. Một hôm Long Quân trở về, gặp nhau ở đất Tương, Âu Cơ nói: “Thiếp vốn là người đất Bắc, ở với vua sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình”. Long Quân nói: “ Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia li. Ta đem năm mươi con về thủy phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết”…

Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (2) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình Hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm mười lăm bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Lục Hải, Hoài Hoan, Ninh Hải, Dương Tuyền, Chu Diên, Vũ Ninh, Phú Lộc, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, và Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn, tướng võ: văn là lạc hầu, võ là lạc tướng, con trai vua gọi là quan lang, con gái mua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần tộc. Nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, lên nói với vua. Vua đáp: “Giống sơn nam và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó”. Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đây. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dung, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cày bằng dao, trồng bằng lúa, sản xuất nhiều lúa nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói, cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng núi. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu, cau, việc hôn thú giữa nam và nữ lấy gói muối làm đầu, sau đó mới giết trâu, dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.

(Trích trong :Lĩnh nam chích quát”)

---------o0o---------

(1) Trong truyện này chúng tôi cắt bỏ bớt đoạn nói về Xuy Vưu hiên viên, Hoàng Đế là những nhân vật thần thoại Trung Quốc không liên quan gì tới truyện trăm trứng của ta.

(2) Phong Châu: nay là vùng đất thuộc tỉnh Vĩnh Phú và một phần tỉnh Hà Sơn Bình; đúng ra phải gọi là Văn Lang vì tên Phong Châu mới có từ khoảng thế kỷ thứ VII - VIII

Khảo dị:

Xung quanh truyền thuyết về họ Hồng Bàng, ở Vĩnh Phú còn sưu tầm được những truyện về Lạc Long Quân và bà Âu Cơ:

  • Lạc Long Quân đi thuyền dọc theo sông Đà, đến vùng động Lăng Xương (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Tam Thanh) gặp một cô gái xinh đẹp tên là Âu Cơ, đang hái dâu ven sông. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm vợ, đưa về núi Nghĩa (nay là xã Hy Cương, huyện Phong Châu). Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm, ba tháng mười ngày thì sinh ra một bọc trứng. Lúc sinh, trên trời có mây sáng chiếu (nên chỗ sinh bọc trứng sau làm chùa và đặt tên Thiên quang thiền tự), bảy ngày sau bọc trứng nở ra một trăm người con trai. Lạc Long Quân không biết đặt tên mới cầu khẩn thiên địa, được lão tiên hay câu cá ở Việt Trì về đặt tên các con giúp (ở Việt Trì vẫn có hòn đá có dấu chân lão tiên này ngồi câu cá).
Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng chia đôi con, năm mươi người theo cha xuống biển, sinh ra các dân tộc miền xuôi, bốn mươi chín người lên núi, sinh ra các dân tộc miền núi, để người con trưởng ở lại làm vua là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang.

Bà Âu Cơ đưa con lên mạn ngược, khi đến vùng Hiền Lương thấy đất tốt mới để một người con lại, dạy cách đốt cỏ mà trồng lúa, lấy gạo giã nhỏ nhào với mật ong cho vào chõ làm bánh. Rồi bà lại đưa tiếp các con theo ngọn suối mà đi mãi vào các cánh đồng phía trong. Mỗi năm bà lại đi thăm các con vài lần, ở lại mỗi chỗ dăm hôm rồi đi nơi khác. Ở xã Hiền Lương nay còn đền thờ bà Âu Cơ, khi cầu có hèm làm bánh mật, và phải do phụ nữ tế.

  • Trong bản “Ngọc phả Hùng Vương” hiện lưu ở đền Hùng được viết từ thời Trần, viết lại năm 1470, còn bản sao năm 1600 (Hoàng định nguyên niên) ghi: Sau khi lấy Lạc Long Quân, bà Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày mới sinh và cũng sinh ra cái bọc có một trăm quả trứng. Lạc Long Quân thấy sự lạ bèn để lên mâm vàng cầu khẩn thiên địa, bảy ngày sau nở ra một trăm người con trai, không ăn uống, bú mớm, chỉ hương hoa, không biết nói, chỉ cười mỗi ngày ba lần. Bảy tháng sau cùng tự nhiên nói to: “Trời sinh thánh đế, trị nước sinh vua, bốn bể thanh bình, thiên hạ yên mạnh”. Đoạn sau cùng giống như truyện trên. Hiện tên một trăm người con của bà Âu Cơ vẫn còn được ghi lại.
  • Đồng bào Mường có bài mo “Đẻ đất, đẻ nước” cũng có dạng tương tự như vậy.

Tết Đoan Ngọ và Bách Việt tộc

http://su.people.com.cn/GB/channel109/200706/19/1537.html

Tết Đoan Ngọ nguyên do là ngày Tế totem của dân tộc Bách Việt.

Số lượng lớn văn vật khai quật được thời cận đại cùng với nghiên cứu khảo cổ đã chứng thực: Khu vực rộng lớn ở trung du và hạ du sông Trường Giang, vào thời đại đồ đá mới, có di tồn văn hóa đặc trưng là đồ gốm có in hoa văn kỷ hà học, di tồn văn hóa này thuộc về dân tộc có totem Rồng, sùng bái Rồng- sử gọi là tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt là tên chung chỉ các tộc liên quan đến người Việt cổ đại sống ở vùng mà ngày nay là miền nam Trung Quốc, sử thư ghi là “Bách Việt百粤”, “Việt 粤”, “Việt Tộc 越 族”. Trang trí trên các đồ gốm khai quật và truyền thuyết lịch sử đã làm sáng tỏ rằng họ sống ở làng ven sông, có tập tục cắt tóc ngắn, xăm mình, tự cho là con cháu của Rồng, cho rằng cắt tóc ngắn để dễ làm ăn dưới nước, và xăm mình hình con giao long để không bị các động vật dưới nước làm hại. Đến thời Tần Hán vẫn còn người Bách Việt, tết Đoan Ngọ chính là do họ sáng lập dùng ở ngày tế Tổ. Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm, đại bộ phận người Bách Việt đã hòa nhập vào trong khối Hán tộc, vì vậy Tết Đoan Ngọ đã trở thành ngày Tết của toàn dân tộc Trung Hoa.

Trong lịch sử Trung Quốc, toàn bộ vùng đất Giang Nam rộng lớn, tức vùng từng được gọi “từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm”, trước thời Tần Hán đều là nơi cư trú của Bách Việt tộc, họ dùng là cổ Việt ngữ, khác rất xa cổ Hán ngữ của người phương bắc Trung Quốc dùng, hai bên không thể hiểu được nhau. Theo các nhà ngôn ngữ học, cái gọi là 7 phương ngôn lớn ở Trung Quốc hiện nay thì phương ngôn phương bắc (quan bắc thoại) có thể coi là kết quả phát triển hàng ngàn năm từ cổ Hán ngữ, còn lại 6 phương ngôn kia là hình thành do hàng ngàn năm ảnh hưởng lẫn nhau giữa ngôn ngữ phương nam và ngôn ngữ phương bắc do người phương bắc di cư xuống phía nam. Nhất là Ngô ngữ (Thượng Hải-Triết Giang), Mân ngữ (Phúc Kiến) và Việt ngữ (Lưỡng Quảng) càng có quan hệ mật thiết với cổ Việt ngữ của dân tộc Bách Việt.

Bách Việt thời Xuân Thu gọi là Ư Việt, lúc đầu trung tâm của Ư Việt là Cối Kê, đến Câu Tiễn kiến lập Việt Quốc. Cuối thời Xuân Thu, nước Ngô và nước Việt thường đánh chiếm lẫn nhau, năm 492 BC Việt Quốc bị vua Ngô là Phù Sai đánh bại, 19 năm sau vua Việt Quốc là Câu Tiễn lại đánh bại Phù Sai, tiêu diệt nước Ngô, xưng là Bá Chủ. Câu Tiễn trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.

Các dân tộc thiểu số sống ở miền nam Trung Quốc ngày nay, dù ngôn ngữ và phong tục có khác nhau, nhưng đều có quan hệ nhất định với dân tộc Bách Việt cổ đại. Ngoài ra nhiều học giả còn cho rằng nhiều dân tộc ở lục địa ĐNÁ như người Thái ở Thái Lan, người Đán ở Miến Điện, người Kinh và người Mường ở Việt Nam, thậm chí các dân tộc Nam Đảo là thổ dân ở Đài Loan đều có quan hệ mật thiết nhất định với Bách Việt tộc. [Nghiên cứu của Đài Loan cho rằng 6000 năm trước, người Việt cổ, khi chưa tiếp xúc với người Hán, đã từ Phúc Kiến đi ra đảo Đài Loan, thành thổ dân Đài Loan, còn người Mân ngữ chỉ là về sau ra Đài Loan vào thời Minh].

Đến thời Tam Quốc thì Bách Việt tộc mới dần dần biến mất.

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites