Thiên Đồng

Osho

6 bài viết trong chủ đề này

Tự truyện OSHO

Biên dịch : Đỗ Tư Nghĩa

Posted Image

VÀI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG CỦA OSHO

Osho (1931-1990) là một vị đạo sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi.

Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Khoảng trong thập kỷ 70 người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Raineesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là "đạo sư" của một dòng Thiền. [1] Tác phẩm bạn đọc đang cầm trên tay, T Truyện Osho, kể lại cuộc đời lạ lùng và quan niệm của ông về nhiều vấn đề, thế tục cũng như tâm linh.

Osho để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với hàng trăm cuốn sách và vô số các bài thuyết giảng. Ông là một người gây nên rất nhiều tranh cãi trong số những ai quan tâm đến triết học phương đông, trong giới những người tầm cầu tôn giáo và đạo sư. Có thể nói, ông là một trong những người gây phân hóa cùng cực nhất về mặt đạo lý, nhưng cũng là người có sức thu hút mạnh mẽ nhất trong các bài giảng về tôn giáo và triết học.

Nhân cách của Osho có một sức thu hút mãnh liệt, nó biểu hiện trong những bài luận giải xuất chúng của ông về mọi vấn đề tôn giáo và triết học, kể cả về các bộ kinh lâu đời nhất mà nhiều vị luận sư đã dày công trình bày. Những ai đã gặp ông đều thừa nhận Osho có một tài hùng biện đầy ma lực, một sự hấp dẫn cá nhân mà người nghe hầu như không thể cưỡng lại.

Sự thật về con người Osho nằm ở đâu ? Chính ông cũng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy). Tuy thế, một khi độc giả đã cầm quyển sách này trong tay, một lời dẫn nhập ngắn nhằm giới thiệu con người và quan niệm của Osho có lẽ sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước. Đó là mục đích của bài này.

[1] Về sau, Osho còn liên hệ danh xưng này với từ oceani của William James. Ocani có nghĩa là đại dương. Như vậy, Osho còn có nghĩa là đại dương. (BT)

II

Trước hết, trong những năm 60, Osho là giáo sư triết học tại đại học Jabalpur, Ấn Độ. Về bản thể luận, ông là người có một quan niệm Nhất Thể (Monism) về vũ trụ. Đối với ông, Thượng đế nằm trong mọi vật, nằm trong mọi con người. Không hề có sự phân biệt nào giữa "Thượng đế" và "phi Thượng đế". Toàn thể mọi con người, dù là người tồi tệ nhất, đều thiêng liêng cả. Mọi dạng xuất hiện của một thứ năng lượng mang tên là "Thượng đế" đối với ông đều đáng ngưỡng mộ và điều này sẽ thể hiện trong quan niệm hành trì mà ông muốn truyền bá.

Đối với đời người, Osho cho rằng giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment). Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là nằm yên trong "trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ". Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội. Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế. Ông quan niệm rằng, muốn trở lại trạng thái hồn nhiên và an lạc, con người phải tự mình giải thoát khỏi sợ hãi và ức chế.

Với nhận thức này Osho hoàn toàn nằm trọn vẹn trong truyền thống của triết học Ấn Độ, nhất là trong Đại thừa Phật giáo. Nếu nhớ đến tư tưởng của Mã Minh trong Đại thừa khởi tín luận, hay Thiền ngữ "Tâm bình thường là đạo" của Nam Tuyền, hay các phép hành trì của Phật giáo Tây Tạng, hay tư tưởng của các vị đạo sư của thời hiện đại như Aurobindo hoặc Krishnamurti, vân vân, ta dễ dàng thấy sự trùng hợp tuyệt đối về nhận thức luận giữa ông và các truyền thống đó. Chỉ có điều khác biệt là, Osho nói về các nhận thức này một cách hùng biện và mới mẻ, và nhất là với tính cách của một giáo sư triết học, trong các luận giải, ông phối hợp một cách tài tình những truyền thống của Phật giáo, Jaina giáo, Hindu giáo, Ky tô giáo, Sufism (một truyền thống của Hồi giáo), và triết học cổ của Hy Lạp. Thế nhưng, cũng như mọi nhà đạo học khác, ông không quên chỉ rõ, không một nền triết học nào có thể diễn bày được chân lý, có thể thay thế được sự chứng thực cá nhân.

Do đó sự trải nghiệm, sự chứng thực của trạng thái giác ngộ là cốt tủy của mọi sự. Ông tự nhận mình đã đạt trạng thái này năm 21 tuổi. Phương pháp khả dĩ đưa đến giác ngộ là phép thiền định. Nhưng thiền định là gì và hành trì thiền định như thế nào? Theo Osho thiền định là một trạng thái nằm ngoài tâm. Thiền định không phải là sự tập trung. Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý về thiền định có thể ví như to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân sự lặng yên. Đó là một tình trạng có thể xảy ra bất chợt, một tình trạng mà ta có thể ở trong đó, chứ không phải là một sản phẩm do ta tạo ra. Quan niệm này về thiền của Osho không hề khác với các phát biểu xưa nay của các vị Thiền sư của miền Đông Á, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhưng cách hành trì thiền định do Osho đề ra thì khác hẳn.

Osho cho rằng con người hiện đại, nhất là người phương Tây rất khó áp dụng phép tọa thiền, tìm sự an tĩnh và ngưng bặt tư tưởng bằng cách ngồi yên. Vì thế ông đề xuất những phép thiền tích cực (Active Meditation) và cho rằng những phép hành trì của thiền tích cực sẽ đưa con người vào trạng thái thiền định một cách tự nhiên. Nội dung của các phép thiền tích cực này là cho phép con người rủ bỏ những gì ức chế mình bằng cách để cho chúng được thể hiện một cách tự nhiên. Trong các phép thiền tích cực do Osho đề ra ta có thể kể phép thiền năng động (Dynamic Meditation), thiền Kundalini, Nadabrahma, Natajai, trong đó phép thiền năng động được chú ý nhiều nhất. Trong phép thiền năng động, thường thường thiền sinh bắt đầu với những hoạt động mạnh mẽ về thể chất, sau đó là sự lặng yên và lễ hội“ (celebration). Phép thiền này tin rằng, qua đó con người sẽ vượt thắng sự sợ hãi, giảm bỏ sự ức chế, phát sinh được một dạng của không tính (state of emptiness) và đạt giác ngộ. Đối với Osho, muốn đối trị sự ức chế nào ta phải kích động nó lên, nếm trải, chứng nghiệm nó và cuối cùng trực nhận nó chỉ là "không" thì mới thực sự siêu việt được nó. Theo ông một con người giác ngộ sẽ là "phi quá khứ, phi tương lai, không ràng buộc, không tâm thức, vô ngã, vô bản chất".

Đó là những nét cơ bản về quan niệm của Osho về phép hành thiền. Thật ra thì phương pháp chủ động kích thích dục vọng của con người lên để chứng nghiệm, quán chiếu và siêu việt chúng không phải là một điều gì mới lạ. Trong truyền thống Ấn Độ, người ta vẫn còn nhắc đến 84 vị Đại Thành tựu giả (Mahasiddha), các vị được xem là sống trong khoảng thế kỷ thứ 8 đến thứ 12 sau công nguyên [2]. Đó là các vị hành giả lòng còn chất chứa đầy các loại dục vọng khác nhau, nhưng nhờ biết cách quán chiếu chúng chẳng qua đều là những dạng của Không tính mà đạt được thành tựu. Đọc tiểu sử các vị đó, ta sẽ thấy đó toàn là những người mang đầy thói hư tật xấu, thậm chí có kẻ là người chuyên đánh bạc hay ăn trộm, nhất là có rất nhiều vị đam mê tình dục. Thế nhưng, nhờ một cách hành trì thiền định, trong đó họ quán tưởng "đối tượng đam mê" và "người đam mê" đều chỉ là những dạng của "Không", họ đạt giác ngộ ngay trong đời này. Các vị đó là những người tiên phong của một truyền thống được mệnh danh là Kim cương thừa. Trong thời đại gần đây hơn, các vị tu sĩ trong truyền thống Kim cương thừa của Tây Tạng cũng là những người chủ trương "chuyển hóa" năng lực của dục vọng thành động lực của sự giác ngộ. Thậm chí trong nền phân tâm học hiện đại của phương Tây người ta cũng biết đến phép chữa bệnh Gestal Therapy, trong đó bệnh nhân được khuyến khích hãy sống thực với nền tảng tâm lý của mình, hãy tận lực khóc cười hay la hét với những ức chế của mình với mục đích giải thoát ra khỏi sự đè nén của chúng.

<br clear="all">

[2] Xem Keith Dowman, Master of Mahamudra, Songs and histories of Eightyfour buddhist Siddhas, NY 1985. Xin xem bản dịch Việt ngữ "Các bậc đạo sư của Đại Thủ Ấn" của Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng tại http://www.quangduc....3mahamudra.html

III

Dĩ nhiên phương pháp của Osho có một tầm cỡ hoàn toàn khác so với phép chữa bệnh tâm lý nói trên vì ở đây nó có tính chất tôn giáo cao độ. Còn so với các truyền thống xưa thì điều kỳ lạ là ông dám đem ra áp dụng cho quảng đại quần chúng. Ở đây ta dễ dàng đoán biết điều gì sẽ xảy ra. Đó là khi con người bình thường được khuyến khích chủ động cho những ức chế của mình được vận hành thì một năng lực thuộc về bản năng sẽ vùng dậy, đó là tình dục.

Osho vốn là một con người "nổi loạn", luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60 ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề Từ tình dục đến ý thức siêu việt [3] (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng "đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng" và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự hủy vì người ta không thể chuyển hóa tình dục nếu không nếm trải nó "một cách đích thực và đầy ý thức". Quả thực, trong phong trào của ông, môn đệ của ông thực hành lời dạy này một cách đầy hoan lạc. Liệu hành động của họ là "đích thực và đầy ý thức" như ông giảng giải, là một vấn đề khác. Thật ra phần nói về tình dục chỉ là phần nhỏ trong cuộc đời thuyết giảng của ông nhưng kể từ đó người ta gọi chủ trương của ông là “tự do tình dục” và gọi ông là “ đạo sư sex” (sex-guru) - nhưng đó chỉ là sự vu khống buồn cười và đầy ác ý, vì những ai chịu khó theo dõi tư tưởng ông, đều biết rằng ông không phàm tục như họ nghĩ !

Trên quan niệm đạo học phương Đông, tình dục là một dạng vận hành của năng lượng. Năng lượng hàm chứa trong con người biểu hiện dưới nhiều dạng của ái dục mà dạng ái dục quan trọng nhất là hữu ái (bhavatrsna), tức là sự khao khát được tồn tại. Trong sự khao khát đó thì tình dục là dạng ái dục cụ thể nhất, mang nặng tính vật chất nhất. Tình dục do đó là bản năng cơ bản nhất của mọi loài, nó không dính líu gì đến các giá trị do xã hội loài người đặt ra như thiện-ác, xấu-tốt, phải-trái. Sở dĩ tình dục hay bị lên án là vì mọi hoạt động xuất phát từ nó thường sinh ra những hậu quả phiền toái cho đời sống xã hội của con người. Cũng chính vì thế mà con người thường bị ức chế về tình dục, tuy luôn luôn nhớ nghĩ về nó nhưng cũng luôn luôn phải đè nén nó. Do đó tình dục là một trong những ức chế lớn nhất của con người, thật ra là ức chế chủ yếu của đời làm người. Nền tâm lý học phương Tây cũng đã có những phát hiện tương tự.

Vì vậy khi Osho chủ trương con đường giải thoát là phải đối diện, nếm trải mọi năng lực bị ức chế để có thể siêu việt và chuyển hóa chúng, thật ra ông không thể không nói đến tình dục, nếu ông thật sự nhất quán với chính mình. Và thực ra mỗi kẻ tầm đạo, một khi đã đi vào con đường tích cực và chuyển hóa, cũng phải tìm cho mình một phương thức riêng để chuyển hóa năng lực của tình dục, một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn "chuyển hóa" thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể tỏa hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim cương thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.

Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim cương thừa trong thế kỷ 20 tại phương Tây. Tuy là người vô cùng thông minh, nhưng có lẽ ở đây ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim cương thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng.

Nếu xét Kim cương thừa và những vị tu sĩ cao cấp đã tu luyện theo phép này, người ta phát hiện lại một câu nói giản đơn của một người hẳn đã biết mức độ chọn lọc đối với người hành giả có thể theo học phép tu này. "Chỉ những ai đã xả bỏ tâm phân biệt, những ai mà đối với họ một đĩa thực phẩm sang trọng và một đĩa phân là như nhau, thì kẻ đó mới được theo học Kim cương thừa". Đó là lời của Đạt-lai lạt-ma thứ V (1617-1682).

Tiếc thay, nhiều môn đệ của ông tìm đến vì tò mò, không ít người phản bội ông. Trong quá khứ người ta cũng chỉ biết vỏn vẹn có 84 vị Thành tựu giả trong số hàng triệu người tu học tại Ấn Độ thì tại sao ngày nay lại có thể khác. Hơn thế nữa, con người của thời đại này lại càng vô cùng khó khăn hơn nữa khi muốn chuyển hóa một năng lực gắn liền với thân vật chất để thăng hoa, tiến gần với cái thiêng liêng. Thời đại này là kỷ nguyên của chủ nghĩa duy vật, những người tưởng như muốn tìm đến cái thiêng liêng thực chất cũng là môn đệ của chủ nghĩa duy vật tâm linh (spiritual materialism) như Chogyam Trungpa đã nói. Thời nào cũng thế, con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, chỉ tìm những gì họ khao khát.

<br clear="all">

[3] Superconsciousness: có nhiều cách dịch: 1. Siêu thức. 2. Siêu tâm thức. 3. Ý thức siêu việt. Hiện nay, chưa thống nhất. Cả 3 cách đều chấp nhận được. (BT)

IV

Trước khi ra đi, Osho đã có nhiều hoài bảo lớn. Chúng có trở thành hiện thực hay không, chỉ thời gian mới có thể trả lời.

Sinh thời, ông đã bị chỉ trích nhiều, nhưng công bằng mà nói, đó là điều dễ hiểu, bởi vì ông luôn “gây hấn", chống lại mọi định chế – là cái không bao giờ chấp nhận một sự tấn công nào.

Trong chiều kích tâm linh, hẳn là ông đã đạt tới những đỉnh cao, và chắc không mấy ai nghi ngờ điều đó. Trong lãnh vực hình tướng, ông chủ trương nhập thế, và đã có nhiều kế hoạch cụ thể để làm đẹp cuộc đời. Về phương pháp hành thiền, ông cũng đã có nhiều phát minh đáng chú ý. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, việc ông muốn áp dụng Kim cương thừa - cụ thể, việc “chuyển hóa năng lượng sex thành năng lượng tâm linh” - rộng rãi cho quần chúng, có thể nói là một sai lầm đáng tiếc. Bởi vì, lịch sử cho thấy, Kim cương thừa tuyệt đối dành cho những bậc “thượng căn.“

Với sự thận trọng và cảnh giác cần thiết, thì việc đọc tác phẩm của ông có thể là một nguồn cảm hứng vô tận, bởi ông có một tâm hồn không ngừng sáng tạo, và trái tim của một nhà nghệ sĩ. Nhưng, đã mang thân xác con người, thì dù thế nào đi nữa, không thể nói rằng ông không có những sai lầm – nhất là ở chiều kích của thế giới “hình tướng

Có nhiều người than phiền rằng, sau khi ông ra đi, các “đệ tử” của ông đã làm nhiều điều sai trái, phản bội lại giáo huấn của ông. Thật có như vậy. Nhưng biết làm sao được? Những cuộc thánh chiến thời Trung cổ đâu phải là ý muốn của chúa Jesus, và Quốc xã của Hitler đâu phải là mong đợi của Nietzsche! Sự phản bội này, Osho biết rõ hơn ai hết. Có lần ông nói, “ Khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản những gì mà hậu thế sẽ làm. Nó nằm ngoài vòng kiểm soát của bạn.”

Dĩ nhiên, ta có quyền “phán đoán“ ông về những cái mà ông còn khiếm khuyết. Nhưng, phải thừa nhận rằng, những lời nói đầy minh triết của ông chắc chắn sẽ vẫn mãi còn giá trị, vẫn mãi là nguồn cảm hứng, chừng nào trên mặt đất này vẫn còn có chủng loại người. .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về OSHO

Thế kỉ 20 đã chứng kiến những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ làm nền tảng thúc đẩy sự phát triển của nhân loại trên bình diện vật chất: toàn thế giới đi vào nền kinh tế thông tin và tri thức, xã hội chuyển biến thành xã hội tri thức. Cả trái đất nay đã trở thành như một cái làng, một việc xảy ra ở bất kì ngõ ngách nào trên thế giới thì lập tức toàn thể thế giới đều được biết tới ngay.

Nhưng cũng thế kỉ 20 này còn chứng kiến những phát triển vượt bực nữa của tâm thức con người: việc xuất hiện nhiều bậc thầy tâm linh như Gurdjieff, Ramakrishna, J. Krishnamurti, Osho… với những chỉ dẫn phong phú về sự phát triển của con người mới và nhân loại mới.

Một trong các bậc thầy tâm linh được nhắc tới nhiều nhất và gây ra nhiều tranh luận nhất vào cuối thế kỉ 20 này chính là Osho. Nhưng điều mà Osho đã giảng giải trong suốt cuộc đời mình, thực sự cũng chính là những điều mà Phật, Mahavira, Lão Tử, Trang Tử, Jesus… những người chứng ngộ trong quá khứ đã nói.

Con người hiện đại, tuy có tầm mức trí tuệ và suy diễn cao hơn ngày xưa, nhưng hầu hết tập trung vào những vấn đề cuộc sống vật chất bên ngoài và ít khi chú ý tìm hiểu tâm thức bên trong của mình. Osho là người nêu ra vấn đề phát triển tâm thức của từng người ngay trong thực tế sống động đời thường hàng ngày, lấy việc phát triển tâm thức qua việc sống cuộc sống đời thường là trọng tâm.

Về từ nguyên, osho là một từ cổ Nhật Bản, theo nghĩa tiếng Nhật Bản là “Hoà Thượng”, như chúng ta vẫn dùng từ này khi chỉ các nhà sư Phật giáo, mang ngụ ý “Người Hoà hợp với Thượng giới” hay nói cách khác là hoà hợp với toàn thể sự tồn tại.

Một nghĩa khác nữa của từ osho này là “tính đại dương” như đã được Willaim James nêu lên. Cái tên Osho đã được bậc thầy tâm linh Bhagwan Shree Raijneesh (1931-1990) người Ấn Độ, chọn làm tên hiệu chính thức cho mình và đã trở thành nổi tiếng trên toàn thế giới.

Phát triển tâm thức con người

Tâm linh theo Osho không phải là hệ thống đẳng cấp các lực lượng tinh thần chi phối thế giới vật chất. Trái lại, theo Osho, tâm linh đích thực chính là sự phát triển tâm thức của mỗi người, để sống một cách hoàn toàn tỉnh táo, có ý thức trong mọi suy nghĩ, hành động, tư tưởng, tình cảm của mình và tham gia vào các hoạt động sáng tạo trong thế giới vật chất.

Sự trưởng thành của con người được đánh dấu bằng việc thoát khỏi rất nhiều tầng đồng nhất tâm thức với thân thể, với tâm trí, với các tục lệ, lề thói xã hội, các ý thức hệ tôn giáo, các mối quan hệ với thế giới xung quanh.

Sự phát triển cao nhất của con người, chứng ngộ, không gì khác hơn việc hiểu ra điều đơn giản là không có cái tôi tách biệt để vun vén cho riêng mình, mà chỉ có một cái toàn thể đang vận hành và chúng ta tham gia cùng sự sáng tạo vĩ đại đó để làm cho mọi thứ tốt đẹp nhất có thể được.

Sự phát triển tâm thức hiện đại hoàn toàn không mang nghĩa như việc tu tập của các tu sĩ thời xưa, chỉ quay vào bên trong mình để phát triển nội tâm mà không đóng góp gì về vật chất cho xã hội.

Theo Osho, con người mới phải là con người sống trong thế giới này, đóng góp tích cực cho sự phát triển của xã hội, nhưng đồng thời vẫn quan sát mọi suy nghĩ và hành động của mình để không bị lệ thuộc cả vào những lực ngầm xui khiến bên trong mình lẫn những lực thúc đẩy mù quáng bên ngoài.

Con người mới phải là con người có cách nhìn toàn diện, thấu hiểu qui luật phát triển của sự tồn tại và hành động theo qui luật đó mà không bị chi phối bởi những ham muốn, những thúc giục của thói ích kỉ cá nhân.

Con người mới phải là con người đã nhìn rõ chân tướng mọi ham muốn của mình và thoát khỏi sự chi phối của nó, để có thể trở thành cây sáo trúc hổng mà tạo hoá thổi qua những điệu nhạc du dương.

Sự phát triển tâm thức là nhiệm vụ của riêng từng người, không ai có thể làm thay người khác được, nhưng có những hướng dẫn, có những chia sẻ của những người đã đạt tới dành cho những ai đang khao khát đi tìm cách sống, ý nghĩa của cuộc sống.

Những hướng dẫn, chia sẻ đó đã được Osho thuyết giảng trong suốt 30 năm, đều đặn mỗi ngày Osho nói chuyện với các bạn bè và người tìm kiếm trong hai tiềng đồng hồ. Những bài nói đó đã được ghi âm và ghi hình trong quãng 1800 cuộn băng từ, và được dỡ ra, ghi lại thành sách.

Cho tới nay, đã có hơn 600 đầu sách được chuyển lại như vậy từ các thiết bị đa phương tiện. Osho không phải là nhà văn. Ông không viết mà đó toàn là những bài nói trực tiếp cho các đối tượng cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể và vấn đề cụ thể.

Osho đã nói và bình luận về gần như toàn bộ tất cả các tôn giáo chính trên thế giới. Nhiều kinh sách kinh điển, thường rất khó hiểu với người đọc, lại trở nên cực kì dễ hiểu qua giảng giải của Osho vì ông đã dùng ngôn ngữ đời thường, kinh nghiệm của cuộc sống hiện đại để minh hoạ cho những vấn đề có tầm sâu lắng nhất.

Từng bài nói của Osho đều chứa đựng nhiều tầng tri thức và kiến giải, và tuỳ khả năng và trình độ của người đọc, mỗi lần đọc lại sẽ lại thấy ra những vấn đề mới mà lần đọc trước mình chưa thấy ra. Từng bài nói đều là những hình tròn trọn vẹn đưa người đọc từ những bước sơ cấp nhất đi lên tột đỉnh chứng ngộ.

Và không chỉ giảng giải, Osho còn cung cấp và giới thiệu cho mọi người những phương pháp thực hành ngay lập tức với chính thân thể, tâm trí và con người mình, để đưa họ từ chỗ họ đang đấy lên tới đỉnh cao nhất. Và phương pháp không có gì khác hơn là quan sát, tỉnh táo và chứng kiến mọi việc xảy ra, cả từ bên trong lẫn bên ngoài.

Osho nhấn mạnh vào tính cá nhân, mỗi người phải sống có ý thức và tự chịu trách nhiệm phát triển tâm thức mình qua việc tham gia vào cuộc sống hàng ngày đang diễn ra.

Osho không chủ trương xây dựng tôn giáo có tổ chức dựa theo lời giảng của mình. Ông phê phán tất cả các hình thức tổ chức (tôn giáo, xã hội…), khi xem xét chúng trong chiều phát triển của tâm thức con người. Mọi tổ chức đều có những qui định kỉ luật ràng buộc con người, và tổ chức phải là như vậy thì mới trở thành sức mạnh vật chất.

Nhưng sự phát triển sáng tạo của tâm thức con người bao giờ cũng vượt qua mọi giới hạn kỉ luật của tổ chức. Trong phát triển tâm thức, tới một mức độ nào đó, người ta phải có đủ dũng cảm để tự mình đi một mình bằng chính hiểu biết của riêng mình, không dựa vào bất kì ai khác hay bất kì tổ chức nào.

Tháo gỡ khỏi cái kính hiểu biết hiện tại

Những điều Osho đã nói ra là những giúp đỡ vô cùng quí báu cho những người tìm kiếm, cho những người đang trên con đường phát triển tâm linh. Tuy nhiên đây là những lời giảng cao siêu, rất có ý nghĩa và không phải là tất cả mọi người đều có thể hiểu hay đồng ý với quan điểm của Osho ngay lập tức.

Người ta thường hiểu mọi vấn đề qua cặp kính hiểu biết hiện tại của chính mình, vì vậy việc hiểu sai hay ngộ nhận rất thường xảy ra xung quanh những bậc thầy tâm linh, khi mà người ta chưa tháo gỡ cái kính đó ra. Điều này là tất yếu, và bản thân Osho cũng đã phải chịu rất nhiều chỉ trích, phê phán, thậm chí cấm đoán, trù dập và đầu độc bởi sự đố kị thông thường, bởi việc mọi người vẫn hay coi hiểu biết của mình, đôi kính của mình, là duy nhất đúng.

Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu vẫn có những lời chê bai, công kích Osho theo nhiều góc nhìn khác nhau. Nhưng với thời gian và với sự khao khát tìm kiếm chân lí, người tìm kiếm sẽ tìm thấy những điều đích thực trong lời của Osho.

Nhưng để nhận ra được những hạt kim cương lấp lánh trong lời của Osho, người đọc cần phải mang một tâm trạng vô tư, không nghi ngại, không thiên kiến, không vồ vập, không dễ dãi.

Có thể đọc lời Osho như dòng sông chảy từ mạch nguồn trên thượng du, băng qua đồng bằng, rồi đổ oà vào đại dương. Cũng có thể nhảy bổ ngay vào những chủ đề mình thấy quan tâm nhất, rồi sau mới chuyển sang các vấn đề khác, không cần trật tự nào. Hãy đi theo tiếng gọi của niềm yêu thích bên trong mình, hãy để cho nguồn mạch tuôn chảy, đừng đắp đê, cũng đừng khai thông.

Điều cơ bản là khi đọc xong rồi đừng bám vào lời nói, hãy đi sâu vào cái vô lời ẩn giữa các dòng chữ, hãy bắt được cái thần, cái ý được ngụ trong đó. Đừng bị lệ thuộc vào những mô hình, hệ thống, cách giải thích logic mà hãy đi vào cái trực cảm, cái cảm nhận chợt trào ra bên trong chúng ta, cái chẳng lệ thuộc gì vào những giải thích logic cả.

Cái còn đọng lại trong người đọc, sau khi đã quên tất cả những lời nói, dù đồng ý hay không, cái làm vỡ ra vô minh để chiếu sáng vào đời sống của chúng ta mới là điều quan trọng nhất. Và hãy dùng nó mà sống, mà ứng xử với đời mình và đồng loại, để tự mình làm biến đổi mình, để sống một cách hồn nhiên, tự phát, không bị lệ thuộc vào bất kì thói quen hay ý tưởng nào.

Để làm cho những lời của Osho đi gần hơn nữa với con người hiện đại, một số nhà xuất bản tại Mĩ đã làm công việc biên tập, tuyển chọn trích rút những lời nói của Osho trong rất nhiều bài nói theo từng chủ đề một, cung cấp cho bạn đọc cách nhìn nhận mới theo những vấn đề cụ thể, các chủ đề cụ thể của cuộc sống.

Những cuốn sách này đương nhiên không cho độc giả cái nhìn thấu suốt từ sơ cấp tới đỉnh cao nhất như bài nói trọn vẹn của Osho, nhưng nó lại phù hợp với trình độ hiện tại của nhiều người. Các quan niệm về tình yêu, về thiền, về sáng tạo, dũng cảm, trưởng thành, nhận biết, thân thể và tâm trí, theo một góc độ nào đó có thể được xem xét độc lập với các khía cạnh khác và cũng nên được giới thiệu như những bước đi đầu tiên vào việc tìm hiểu chính bản thân chúng ta.

Những cuốn sách đó được tập trung lại thành loạt sách “Sự sáng suốt về cách sống mới” như: Trưởng thành – trách nhiệm là chính mình, Tủ thuốc của linh hồn, Sáng tạo: Khơi nguồn sức mạnh bên trong, Dũng cảm: Vui sống hiểm nguy…

Chúng ta cũng là một phần của thế giới, nhân loại, cho nên những điều đang là mối quan tâm về văn hoá, cách sống, giá trị con người trên thế giới cũng chính là mối quan tâm của chúng ta.

Thông qua việc giới thiệu những cuốn sách này, độc giả sẽ được cung cấp thêm cách nhìn “thoát ra ngoài hộp” để soi rọi vào chính bản thân mình, cách nghĩ đối lập với những quan điểm đã quá quen thuộc của mình. Mọi sáng tạo và cái mới chỉ có thể tới được trên cơ sở cách nhìn nhận mới, cách nghĩ mới, không theo lối mòn cũ.

* Lời giới thiệu cuốn “Từ thuốc tới thiền” của Osho, do dịch giả Ngô Trung Việt viết

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích dẫn kinh sách

Hỏi: Sao thầy làm nhiều sai lầm khi thầy trích dẫn người khác hay tham chiếu tới các sự kiện Kinh Thánh hay tới các khám phá khoa học thế? Đích thân tôi đã trả lời câu hỏi này nhiều lần theo nhiều cách khác nhau. Bây giờ tôi muốn nghe câu trả lời của thầy.

Osho: Vậy cho phép tôi phạm thêm vài sai lầm nữa.

Thứ nhất: trí nhớ của tôi là phi thường đấy.

Mulla Nasruddin đang nói với một người và anh ta nói 'Vợ tôi có trí nhớ rất tệ.'

Và người này hỏi 'Anh ngụ ý cô ấy quên mọi thứ chứ gì?'

Mulla Nasruddin nói 'Không, cô ấy nhớ mọi thứ!'

Nếu vợ của Mulla Nasruddin có trí nhớ tệ, tôi có trí nhớ phi thường. Tôi quên mọi thứ. Và tôi tận hưởng việc quên lãng này; tôi không lo nghĩ về nó.

Thứ hai: Tôi là người dốt. Tôi không là học giả. Tôi thích thú đọc sách, nhưng tôi đọc Kinh Thánh, Gita, Koran chỉ như người ta đọc tiểu thuyết; chúng là những câu chuyện cổ đại, hay. Krishnamurti nói ông ấy chưa bao giờ đọc bất kì kinh sách nào; ông ấy chỉ đọc truyện trinh thám. Tôi đọc kinh sách, nhưng tôi đọc trong kinh sách như tiểu thuyết trinh thám và không gì khác. Và tôi sẽ gợi ý cho Krishnamurti rằng chắc sẽ tốt nếu ông ấy nên nhìn vào Kinh Thánh; bạn không thể tìm được câu chuyện nào hay đầy tình trạng hồi hộp. Mọi thứ đều có đó: yêu, sống, giết hại; mọi thứ đều có đó. Nó là rất giật gân.

Kinh sách, với tôi, chẳng có gì đặc biệt. Kinh sách là thiêng liêng như cây và đá và sao - hay như trần tục. Tôi không làm phân biệt cho nên tôi không rất nghiêm chỉnh về kinh sách. Điều duy nhất tôi nghiêm chỉnh là về chuyện đùa. Cho nên khi tôi trích dẫn kinh sách tôi trích dẫn từ trí nhớ, khi tôi trích dẫn chuyện đùa tôi phải viết nó ở đây ngay trước tôi. Tôi chưa bao giờ muốn làm sai lầm gì về chuyện đùa - tôi thực sự nghiêm chỉnh. Về mọi thứ khác tôi tuyệt đối không nghiêm chỉnh.

Cho nên nó là rất hiển nhiên. Nghe tôi bạn phải hiểu điều đó, rằng nhấn mạnh của tôi không phải vào điều kinh sách nói - cái đó không phải là vấn đề: nhấn mạnh của tôi là vào điều tôi đang nói. Nếu bạn đi tới linh mục Ki tô giáo, ông ấy trích dẫn kinh sách, nhấn mạnh của ông ấy là vào kinh sách. Ông ấy rất chính xác từng từ, ông ấy phải vậy - bản thân ông ấy là phụ, kinh sách mới là chính. Ông ấy là nhân chứng cho kinh sách. Với tôi chính điều ngược lại: kinh sách chỉ là nhân chứng cho tôi. Bất kì điều gì tôi phải nói, chỉ điều đó tôi phải nói. Nếu tôi cảm thấy kinh sách có thể là nhân chứng cho nó, tôi dùng nó.

Và tôi cứ chơi với kinh sách, đôi khi theo cách này, đôi khi theo cách khác. Bao giờ cũng nhớ, tôi không định chứng minh kinh sách đâu - rằng kinh sách là đúng - tôi đơn giản dùng nó như minh hoạ thôi. Nó là phụ, bạn có thể quên về nó: chẳng cái gì sẽ bị mất. Bất kì điều gì tôi đang nói đều là trực tiếp. Chỉ để giúp bạn, bởi vì bạn không có khả năng nghe chân lí trực tiếp, bạn cần vài nhân chứng. Cho nên Jesus, Krishna và Phật và Lão Tử và Liệt Tử - họ chỉ là nhân chứng cho tôi. Tôi không điều chỉnh theo họ, họ phải điều chỉnh theo tôi.

Và điều nay bao giờ cũng nên là vậy: người chết nên tồn tại và điều chỉnh theo người sống và vì người sống. Sao người sống phải điều chỉnh theo người chết? Liệt Tử phải điều chỉnh theo tôi chứ, bởi vì chỉ trong điều chỉnh theo tôi Liệt Tử mới lại có thể có cuộc sống chút ít. Jesus phải điều chỉnh theo tôi, tôi không điều chỉnh theo Jesus. Quá khứ phải điều chỉnh theo hiện tại. Cho nên tôi cứ chơi....

Đây toàn là câu chuyện với tôi, sâu bên dưới đây là cách tiếp cận: toàn thể cuộc sống là hư cấu, nó là maya, nó là giấc mơ. Jesus và Phật và Krishna và tôi và bạn đều là một phần của giấc mơ lớn - Thượng đế là mơ. Đừng quá nghiêm chỉnh về nó. Các học giả trở nên quá nghiêm chỉnh. Tôi không phải là học giả và tôi không có kính trọng với học giả. Thực ra thái độ của tôi đích xác là hệt như thái độ của Mulla Nasruddin's.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cái gì còn lại sau chứng ngộ?

Hỏi: Thầy đã nói chứng ngộ là có tính cá nhân, nhưng tính cá nhân có còn lại sau chứng ngộ không?

Osho: Không. Tính cá nhân không còn lại sau chứng ngộ, nhưng chứng ngộ có tính cá nhân. Bạn sẽ phải hiểu điều đó. Sông rơi vào đại dương. Khi nó đã rơi vào, sông đã biến mất - không có tính cá nhân của sông còn lại, nhưng chỉ riêng một sông rơi vào trongđại dương. Bạn rơi vào trong đại dương của chứng ngộ như một cá nhân: bạn không thể đem vợ bạn đi cùng bạn được hay bạn của bạn đi cùng bạn - không có cách nào. Bạn đi một mình. Không ai có thể đem được bất kì ai.

Làm sao bạn có thể đem được bất kì ai? Khi bạn thiền bạn thiền một mình. Khoảnh khắc bạn nhắm mắt lại và bạn trở nên im lặng, mọi người đã biến mất - vợ, bạn, con. Cái gần nhất cũng không còn gần; cái gần nhất bây giờ là xa nhất. Trong im lặng sâu của bạn, bình thản bên trong, bạn tồn tại một mình. Một mình này sẽ rơi vào trong đại dương.

Cho nên, chứng ngộ có tính cá nhân. Tất nhiên sau chứng ngộ tính cá nhân biến mất; không có tính cá nhân. Cho nên nhớ điều này: bạn không thể đi theo đám đông được; bạn không thể đi như một tổ chức được; bạn không thể đi như một giáo phái. Bạn không thể nói, "Mọi người Ki tô giáo lại đây," hay "Mọi người Hindus lại đây. Tôi sắp chứng ngộ và tôi sẽ đem mọi người Hindus cùng tôi." Không ai có thể đem được bất kì ai khác. Nó tuyệt đối là một mình. Và đó là cái đẹp của nó, thuần khiết của nó. Trong tính một mình tuyệt đối của bạn, bạn rơi vào trong niết bàn đại dương. Mới khoảnh khắc trước, bạn còn là dòng sông; mới khoảnh khắc trước, bạn còn là một cá nhân - chính đỉnh của tính cá nhân, vị phật - và chỉ một khoảnh khắc sau đó chẳng cái gì tồn tại. Bạn không còn là sông nữa; bạn đã trở thành đại dương. Bây giờ bạn thậm chí không thể nói, "tôi đây." Đại dương hiện hữu; sông đã biến mất.

Bạn có thể nói điều đó theo hai cách: rằng sông đã biến mất - một cách, cách của Phật tử; hay bạn có thể nói sông đã trở thành đại dương - cách kia, cách của Vedanta. Nhưng cả hai là một. "Sông đã trở thành đại dương," hay, "Sông đã biến mất; chỉ đại dương hiện hữu," chỉ là các cách nói cho cùng một điều.

Trích từ "Yoga: Alpha và Omega - Tập 5"

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người cho phải cảm ơn

Tại sao tiền lại quan trọng thế? Nó là sự bảo vệ của bạn chống lại tình yêu, chống lại cuộc sống, chống lại cái chết, chống lại Thượng đế. Do đó, Mahavira và Phật đã từ bỏ nó. Việc từ bỏ này đơn giản tới từ hiểu biết rằng toàn bộ sự thu xếp này là chống lại cuộc sống, chống lại tình yêu, chống lại Thượng đế. Họ đơn giản từ bỏ! Không phải bởi vì tiền bạc mà họ đang từ bỏ nó, nhưng chỉ bởi vì họ đã đi tới hiểu rằng qua sự bảo vệ này họ đã tự giết mình, đây là chất độc. Cho nên họ đơn giản trốn khỏi cung điện.

Thế rồi một cuộc sống mới bắt đầu khi bạn hiểu rằng tiền là loạn thần kinh. An ninh, khao khát được an ninh và an toàn, chỉ ra rằng bạn đã chết, rằng cuộc sống đã rời bỏ bạn. Nỗ lực liên tục để được an ninh nghĩa là bạn vẫn chưa có khả năng yêu; bằng không, tình yêu là vĩnh hằng - không sợ chết, người yêu có thể chết dễ dàng, đáng yêu. Người đó đã biết cuộc sống, người đó biết ơn. Cho dù một khoảnh khắc tình yêu xảy ra... người đó đã biết tới niềm vinh quang của nó, ích lợi, mọi ân huệ đã có cho mình. Người đó có thể cám ơn Thượng đế về khoảnh khắc duy nhất này đã được trao cho người đó - và người đó không xứng đáng.

Ai xứng đáng? Không ai xứng đáng cả. Bạn đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa - rằng bạn đang sống? Bạn có xứng đáng sống không? Bạn đã kiếm được nó như thế nào? Bạn đã biết hoa và cây và chim tung cánh và mặt trời lên, biết bao nhiêu buổi sáng, biết bao nhiêu buổi tối, và những vì sao. Bạn đã kiếm sống như thế nào? Đó là ân huệ đơn giản. Bạn không xứng đáng, bạn đã không kiếm nó theo bất kì cách nào. Việc bạn hiện hữu đơn giản là ân huệ của Thượng đế.

Nhưng khi ai đó đi tới biết một khoảnh khắc của tình yêu, toàn bộ cuộc sống này trở thành chẳng là gì. Thế thì mọi chim chóc mà bạn đã thấy, và mọi bài ca bạn đã nghe, và mọi nhạc sĩ của thế giới - chẳng là gì cả! Thế thì tất cả xanh tươi này của cây cối đều chẳng là gì. Thế thì không có sự toả sáng trong mặt trời và không có âm nhạc trong các vì sao.

Nếu bạn đã biết một khoảnh khắc của tình yêu, thế thì toàn thể thế giới này chỉ nhoà đi và là cái bóng; nó chỉ là phản xạ, không phải cái thật. Nếu bạn đã biết chỉ một khoảnh khắc của tình yêu, vĩnh viễn và vĩnh viễn bạn sẽ biết ơn và hát lên bài ca về sự biết ơn với điều thiêng liêng. thế thì không có cái chết - tình yêu không biết đến cái chết, tình yêu chỉ biết cuộc sống. Bạn chỉ biết cái chết. Tình yêu... bạn đã phớt lờ nó, bằng cách nào đó bạn đã không sống qua nó; bạn đã phớt lờ nó, và bây giờ tiền bạc đã trở thành có ý nghĩa. Tiền là biểu tượng của người chết, tiền là tình yêu của người chết.

Cho nên nhìn kẻ keo kiệt mà xem. Đấy không đơn giản là tiền khi người đó cầm tờ bạc trong tay. Tôi đã thấy một kẻ keo kiệt - mắt người đó lãng mạn thế khi người đó nhìn vào tờ bạc; chưa bao giờ người yêu nhìn vào mặt người mình yêu lại có vẻ yêu mến thế. Người đó sẽ cảm và chạm... và nhìn vào mắt người đó mà xem! Tia sáng toả ra từ mắt người đó, thơ ca chiếm lĩnh con người người đó. Người đó trở thành một người được biến đổi hoàn toàn. Không, Majnu cũng không hạnh phúc thế khi anh ta nhìn vào Laila. Không, Shiri cũng không hạnh phúc thế khi cô ấy nhìn vào Farhad.

Người này là người họ hàng cho nên tôi đã có nhiều cơ hội để nhìn ông ta và hiểu ông ta. Ông ta là con người hoàn hảo về tiền, một phật trên con đường đó. Ông ta chưa bao giờ lấy vợ; ông ta bao giờ cũng nói, "Việc ấy quá tốn kém và tôi không thể nào đảm đương được. Một ngày nào đó tôi sẽ lấy vợ." Ông ta bây giờ chết rồi. Ông ta chưa bao giờ lấy vợ - ông ta vẫn còn là người chưa vợ. Nhưng ông ta sẽ hợp lí hoá điều đó; ông ta sẽ nói, "Đây là brahmacharya"; ông ta sẽ nói, "Đây là vô dục. Trong kinh sách, trong Vedas, cuộc đời vô dục là cuộc đời cao nhất." Nhưng ông ta đơn giản là kẻ keo kiệt, thậm chí keo kiệt cả tinh dịch. Đó là vô dục của ông ta - ông ta không phải là brahmachari.

Cho nên khi bạn tìm người vô dục, chín mươi chín trong một trăm người sẽ chỉ là kẻ keo kiệt về tinh dịch. Họ sợ buông bỏ: nếu tinh dịch ra khỏi thân thể họ, số dư ngân hàng của họ...Cái brahmacharya của họ là một loại táo bón. Họ bốc mùi! Bạn chẳng bao giờ có thể thấy hương thơm toả ra từ họ. Họ là những kẻ keo kiệt - nhưng họ hợp lí hoá. Và họ bao giờ cũng sống qua lí luận, chưa bao giờ qua trái tim - bởi vì trái tim là điều nguy hiểm.

Lý luận bao giờ cũng nắm bắt mọi thứ còn trái tim bao giờ cũng muốn cho. Trái tim là người cho và trái tim chưa bao giờ là kẻ keo kiệt, cho nên kẻ keo kiệt không bao giờ có thể tin vào trái tim được. Dần dần người đó sẽ giết chết trái tim, người đó trở thành chỉ cái đầu. Không có cảm giác trong người đó - cảm giác là nguy hiểm. Người đó không cảm, người đó trở thành không nhạy cảm. Người đó không cho phép bất kì sự nhạy cảm nào trong bản thể mình, bởi vì kẻ ăn xin tới và người đó hỏi... nếu bạn có cảm giác, sẽ khó nói không.

Nhưng nếu bạn chỉ có cái đầu, bạn sẽ hợp lí hoá và bạn sẽ nói, "Tôi không tin vào việc ăn xin; điều này là xấu cho kinh tế, điều này là không tốt cho văn hoá - và anh trông hoàn toàn mạnh khoẻ, cho nên đi và làm việc đi." Bạn sẽ hợp lí hoá, và những lí lẽ này bạn cũng biết chỉ là giả tạo; sâu bên dưới bạn không muốn cho - đó mới là điều cơ bản. Nhưng bạn không thể chấp nhận sự kiện rằng bạn không phải là người cho.
Bạn sống trong lời, lí lẽ, hợp lí hoá, và cứ che giấu sự kiện cơ bản là bạn đang giết chết cảm giác của mình.

Nếu bạn đang trên con đường của tiền bạc - và gần như mọi người đều đang đi thế, dù ít dù nhiều - thế thì thấy toàn thể hiện tượng về điều đang xảy ra bên trong bạn; bạn đang tự giết chết mình. Và cuộc sống không thể bị ngăn cản không cho chuyển động, cuộc sống sẽ đạt tới cái chết. Bạn không thể ngăn cản được nó, nó không trong kiểm soát của bạn. Nó phải đi - như nó đã tới, nó phải đi. Trước khi nó rời bỏ bạn, bạn chỉ có thể tạo ra lo âu, có vậy thôi.

Nếu bạn chấp nhận triều xuống và triều lên của cuộc sống, việc sinh là chết của cuộc sống; nếu bạn chấp nhận, bạn không cần tạo ra bất kì lo âu nào. Bạn có thể yêu. Trong khi việc chết có đó, yêu đi. Và cho phép việc yêu xảy ra. Đừng cố gắng giữ an ninh và đừng sợ chết. Cái chết sẽ tới. Cho cuộc sống cơ hội để nở hoa. Nếu cuộc sống thực sự nở hoa, cái chết sẽ là thượng đỉnh, không phải sự kết thúc. Nó sẽ là cực đỉnh, cao trào. Nó sẽ là đỉnh cao nhất, đỉnh Everest, không phải sự kết thúc.

Và vào khoảnh khắc chết, người đã sống đúng, qua tình yêu - và đó là con đường phải để sống - với người đó cái chết tới như niềm cực lạc đẹp nhất. Người đó chết với bài ca trong trái tim. Người đó chết với niềm cực lạc trên khắp thân thể, thổn thức. Người đó đang đi gặp điều thiêng liêng yêu mến. Người đó đã học cách yêu và cách cho. Cho nên trong khoảnh khắc của cái chết nữa người đó cũng có thể cho. Người đó trả lại toàn bộ sự hiện hữu của mình cho tự nhiên; thân thể, khí về với khí, lửa về với lửa, đất về với đất, bầu trời về với bầu trời. Người đó cho, người đó là người cho, và bản thể về với cội nguồn, về với Brahma; người đó không níu bám.

Nhưng bạn không thể làm điều đó được nếu bạn đã là kẻ níu bám cả đời mình. Vào khoảnh khắc chết, nếu bạn níu bám mọi thứ trở thành xấu. Nếu bạn đã từng níu bám và níu bám và níu bám, và bao giờ cũng sợ và trong lo sợ và chưa bao giờ được phép yêu, thế thì vào khoảnh khắc chết bạn sẽ bỏ lỡ đỉnh cao nhất, vốn là điều có thể được, điều đã là có thể được.

Đây là hai con đường; con đường này đúng, con đường kia sai.
Trích Sách Osho
Ngô Trung Việt
dịch

Share this post


Link to post
Share on other sites

Làm sao trở nên được hoà nhập?

Hoà nhập chẳng liên quan gì tới việc trở nên. Thực tế, mọi nỗ lực để trở nên đều đem tới tan rã. Hoà nhập đã có đó tại cốt lõi sâu nhất của bản thể bạn; nó không phải được đem vào. Tại chính trung tâm bạn được hoà nhập, bằng không bạn không thể tồn tại được chút nào. Làm sao bạn có thể tồn tại được mà không có trung tâm? Chiếc xe bò chuyển động, bánh xe chuyển động, bởi vì có một trung tâm bất động mà bánh xe chuyển động trên nó. Nó chuyển động trên trục. Nếu chiếc xe chuyển động thì trục có đó. Bạn có thể biết nó, bạn có thể không biết nó.

Bạn đang sống động, bạn đang thở, bạn có ý thức; cuộc sống đang chuyển động, cho nên phải có cái trục cho bánh xe cuộc sống. Bạn có thể không nhận biết, nhưng nó có đó. Không có nó, bạn không thể hiện hữu được.

Cho nên điều đầu tiên, và rất nền tảng: việc trở thành không phải là vấn đề. Hiện hữu đi. Bạn phải đi vào và thấy nó. Đó là khám phá, không phải là thành đạt. Bạn đã mang nó đi suốt rồi. Nhưng bạn đã trở nên quá bị gắn bó với ngoại vi, và quay lưng vào trung tâm. Bạn đã trở thành quá đi ra ngoài, cho nên bạn không thể nhìn vào trong.

Tạo ra chút ít việc nhìn thấu. Từ ‘insight – nhìn thấu’ là hay – nó nghĩa là: cái nhìn vào trong, nhìn vào, thấy bên trong. Mắt mở ra bên ngoài, tay vươn ra bên ngoài, chân đi xa từ bạn. Ngồi im lặng, thảnh thơi ngoại vi, nhắm mắt lại và đi vào trong… và không nỗ lực nào. Chỉ thảnh thơi – cứ dường như người ta đang chìm đắm và người ta không thể làm gì cả. Chúng ta cứ làm ngay cả khi chúng ta chìm đắm.

Nếu bạn có thể đơn giản cho phép nó xảy ra, nó sẽ đi tới bề mặt. Từ các đám mây bạn sẽ thấy trung tâm nảy sinh.

Có hai phương thức sống: một là phương thức hành động, bạn làm cái gì đó; phương thức kia là phương thức tiếp nhận, bạn đơn giản tiếp nhận. Phương thức hành động là đi ra. Nếu bạn muốn nhiều tiền hơn, bạn không thể chỉ ngồi đấy. Nó sẽ không tới theo cách đó đâu. Bạn sẽ phải tranh đấu vì nó, cạnh tranh, và bạn sẽ phải dùng đủ mọi cách thức và biện pháp – hợp pháp, bất hợp pháp, đúng, sai. Tiền sẽ không tới chỉ bởi việc ngồi. Nếu bạn muốn trở nên quyền lực, nếu bạn muốn trở thành chính khách, bạn sẽ phải làm cái gì đó về nó. Nó sẽ không tới theo cách riêng của nó.

Có phương thức hành động. Phương thức hành động là phương thức đi ra ngoài. Và có phương thức bất hành nữa: bạn không làm gì cả, bạn đơn giản cho phép nó xảy ra. Chúng ta đã quên mất ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ bị lãng quên đó phải được học lại.

Hoà nhập không cần phải được mang vào – nó đã có đó rồi. Chúng ta đã quên mất cách nhìn vào nó, chúng ta đã quên mất cách hiểu nó. Chuyển từ phương thức hành động ngày một nhiều sang phương thức tiếp nhận, thụ động đi.

Tôi không nói rời bỏ thế giới hành động – bởi vì điều đó sẽ lại làm cho bạn bị thiên lệch. Bạn đã bị thiên lệch ngay bây giờ. Bạn chỉ có một phương thức cho cuộc sống của mình, và đó là hành động, làm cái gì đó. Có những người không thể nghĩ được tới việc ngồi im lặng; điều đó là không thể được. Họ không thể cho phép bản thân mình có lấy thảnh thơi trong một khoảnh khắc. Họ chỉ quan tâm tới hành động.

Tôi đã nghe…

Vợ của Mulla Nasruddin đang đứng gần cửa sổ, và lúc đó là lúc mặt trời lặn đẹp, và chim chóc đang bay về tổ. Đó thực sự là buổi tối kì diệu. Và cô ấy nói với Nasruddin, “Anh nhìn kìa! Lại đây đi. Nhìn xem mặt trời lặn đẹp làm sao!”

Nasruddin, chẳng hề ngước mắt khỏi tờ báo của mình, nói “Bây giờ nó đang làm gì thế, mặt trời ấy?”

Nếu cái gì đó đang được làm; thế thì anh ta quan tâm. Nếu đấy chỉ là mặt trời lặn, thế thì phỏng có ích gì mà nhìn vào nó?

Bạn quan tâm chỉ vào hành động, nếu cái gì đó đang xảy ra. Điều này đã trở nên quá cố định. Điều này phải được làm thảnh thơi một chút: bạn phải đi vài khoảnh khắc, trong vài giờ, đôi khi vài ngày, toàn bộ sang phương thức kia của cuộc sống, chỉ ngồi và cho phép mọi sự xảy ra. Khi bạn nhìn vào mặt trời lặn bạn không được trông đợi làm điều gì. Bạn đơn giản nhìn. Khi bạn nhìn vào hoa, bạn được giả thiết làm gì? Bạn đơn giản nhìn.

Thực tế không có nỗ lực, ngay cả việc nhìn vào hoa. Nó là vô nỗ lực. Mắt bạn mở, hoa có đó… một khoảnh khắc của giao cảm sâu sắc tới khi cái được nhìn và người nhìn cả hai biến mất. Thế thì có cái đẹp, thế thì có phúc lành. Thế thì đột nhiên bạn không là người quan sát, và hoa không là vật được quan sát – bởi vì để quan sát vẫn phải có hành động nào đó. Bây giờ bạn có đó và hoa có đó, và bằng cách nào đó các bạn chờm lấp lên biên giới của nhau. Hoa đi vào bạn, bạn đi vào hoa, và có khải lộ bất thần. Gọi nó là cái đẹp, gọi nó là chân lí, gọi nó là Thượng đế.

Những khoảnh khắc hiếm hoi này phải được phép có ngày một nhiều hơn. Tôi không thể nói chúng phải được nuôi dưỡng, tôi không thể nói bạn phải huấn luyện về những khoảnh khắc đó, tôi không thể nói rằng bạn phải làm điều gì đó – bởi vì điều đó lại sẽ là dùng ngôn ngữ của phương thức hành động, và sẽ bị diễn giải sai rất sâu. Không, tôi chỉ có thể đơn giản nói cho phép những khoảnh khắc này ngày một nhiều hơn. Đôi khi, đơn giản không làm gì. Thảnh thơi trên thảm cỏ và nhìn lên trời. Đôi khi nhắm mắt lại và chỉ nhìn vào thế giới bên trong của bạn – các ý nghĩ chuyển động, trôi nổi; ham muốn nảy sinh, đi qua. Nhìn vào thế giới mơ đầy mầu sắc cứ diễn ra bên trong bạn. Chỉ nhìn thôi. Đừng nói, “Mình muốn dừng các ý nghĩ này lại” – lần nữa bạn đã chuyển vào phương thức hành động đấy. Đừng nói, “Ta đang thiền – đi đi! Tất cả các ý nghĩ, đi xa khỏi ta” – bởi vì nếu bạn bắt đầu nói điều đó, bạn đã bắt đầu làm điều gì đó rồi. Cứ dường như bạn không có…

Có một trong những cách thiền cổ đại nhất vẫn còn được dùng trong vài tu viện ở Tây Tạng. Phương pháp thiền này dựa trên chân lí mà tôi đang nói với bạn. Họ dạy rằng đôi khi bạn đơn giản có thể biến mất. Ngồi trong vườn, bạn chỉ bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang biến mất. Xem cách thế giới trông thế nào khi bạn đã đi khỏi thế giới này, khi bạn không còn ở đây nữa, khi bạn đã trở nên tuyệt đối trong suốt. Thử một giây không hiện hữu.

Trong nhà riêng của bạn, hiện hữu cứ dường như bạn không có.

Nghĩ xem, một ngày nào đó bạn sẽ không có. Một ngày nào đó bạn sẽ mất đi, bạn sẽ chết; radio vẫn tiếp tục, vợ vẫn chuẩn bị bữa sáng, con vẫn sẵn sàng đi tới trường. Nghĩ xem: hôm nay bạn qua đời, bạn không còn nữa. Trở thành ma. Vẫn ngồi trên chiếc ghế, bạn đơn giản biến mất, bạn đơn giản nghĩ, “Mình không còn thực nữa; mình không có.” Và xem cách thức nhà vẫn tiếp tục. Sẽ có an bình và im lặng vô cùng. Mọi thứ sẽ tiếp tục như nó thế. Không có bạn, mọi thứ vẫn tiếp tục như nó thế. Chẳng cái gì sẽ bị thiếu cả. Thế thì phỏng có ích gì mà bao giờ cũng vẫn còn bận bịu, làm cái gì, làm cái gì đó, bị ám ảnh với hành động? Vấn đề là gì? Bạn sẽ qua đời, và bất kì cái gì bạn đã làm cũng đều sẽ biến mất – cứ dường như bạn đã kí tên mình trên cát, và gió tới, và chữ kí biến mất… và mọi thứ đều được kết thúc. Hiện hữu cứ dường như bạn chưa bao giờ tồn tại đi.

Đó thực sự là cách thiền hay. Bạn có thể thử nó nhiều lần trong hai mươi bốn giờ. Chỉ cần nửa giây thôi cũng có tác dụng; trong nửa giây, đơn giản dừng lại… bạn không có… và thế giới vẫn tiếp tục. Khi bạn trở nên ngày một tỉnh táo hơn với sự kiện là không có bạn thế giới vẫn tiếp tục tốt hoàn hảo, thế thì bạn sẽ có khả năng học phần khác của bản thể mình mà đã từng bị quên lãng lâu dài, trong nhiều kiếp – và đó là phương thức tiếp nhận. Bạn đơn giản cho phép, bạn trở thành cánh cửa. Mọi sự cứ xảy ra mà không có bạn.

Đây là điều Phật ngụ ý khi ông ấy nói: Trở thành mẩu gỗ trôi giạt. Nổi trong dòng chảy như mẩu gỗ, và bất kì chỗ nào dòng nước đi thì cứ để nó đem bạn đi; bạn không làm nỗ lực nào. Toàn thể cách tiếp cận Phật giáo đều thuộc vào phương thức tiếp nhận. Đó là lí do tại sao bạn thấy Phật ngồi dưới gốc cây. Mọi hình cảnh của ông ấy đều là về ngồi, ngồi và không làm gì. Ông ấy đơn giản ngồi đó, ông ấy không làm gì cả.

Bạn không có kiểu hình ảnh đó của Jesus. Ông ấy vẫn cứ đi theo phương thức hành động. Đó là chỗ Ki tô giáo đã bỏ lỡ khả năng sâu nhất: Ki tô giáo trở thành tích cực. Việc truyền giáo Ki tô giáo cứ phục vụ cho người nghèo, đi tới bệnh viện, làm điều này điều nọ, và toàn thể nỗ lực của ông ấy là để làm điều gì đó tốt lành. Vâng, rất tốt – nhưng ông ấy vẫn còn trong phương thức hành động, và Thượng đế chỉ có thể được biết trong phương thức tiếp nhận. Cho nên nhà truyền giáo Ki tô giáo sẽ là người tốt, người rất tốt, nhưng theo nghĩa phương đông, thì không phải là thánh nhân.

Bây giờ thậm chí ở phương Đông người làm những điều này được tôn thờ như một mahatma – bởi vì phương Đông nghèo, ốm. Có cả nghìn người hủi, người mù, người vô giáo dục; họ cần giáo dục, họ cần thuốc, họ cần phục vụ, họ cần cả nghìn lẻ một thứ. Bỗng nhiên người hoạt động đã trở thành quan trọng – cho nên Gandhi là một mahatma, Vinoba là thánh nhân, và Mẹ Theresa ở Calcutta đã trở thành rất quan trọng. Nhưng không ai nhìn vào xem liệu họ đã đạt tới phương thức tiếp nhận hay không.

Bây giờ nếu Phật tới, chẳng ai định biểu lộ kính trọng với ông ấy, bởi vì ông ấy sẽ không tới trường học hay bệnh viện. Ông ấy sẽ lại ngồi dưới gốc cây bồ đề, chỉ ngồi im lặng. Không phải là ông ấy không làm cái gì cả – sự hiện hữu của ông ấy đã tạo ra rung động vô cùng, nhưng chúng rất tinh tế. Ông ấy biến đổi toàn thể thế giới bằng việc ngồi dưới gốc cây bồ đề, nhưng để nhìn vào những rung động đó bạn sẽ phải được hoà hợp, bạn sẽ phải trưởng thành. Nhận ra vị phật là đã trên con đường rồi. Nhận ra Mẹ Theresa là rất dễ dàng. Chẳng có gì nhiều trong điều đó. Bất kì ai cũng có thể thấy rằng bà ấy đang làm việc tốt.

Làm việc tốt là một điều, và là tốt là điều khác hoàn toàn. Tôi không nói đừng làm việc tốt. Tôi đang nói: để việc tốt bắt nguồn từ bản thể tốt của bạn.

Trước hết đạt tới phương thức tiếp nhận, trước hết đạt tới tính thụ động, trước hết đạt tới bất hoạt. Và khi bản thể bên trong của bạn nở hoa và bạn đã đi tới biết việc hoà nhập bên trong – cái bao giờ cũng có đó, trung tâm bao giờ cũng có đó – khi bạn đã nhận ra trung tâm đó, bỗng nhiên cái chết biến mất với bạn. Bỗng nhiên tất cả mọi lo nghĩ biến mất bởi vì bạn không còn là thân thể bây giờ, không còn là tâm trí.

Thế rồi từ bi nảy sinh, tình yêu nảy sinh, cầu nguyện nảy sinh. Bạn trở thành việc mưa rào, thành phúc lành cho thế giới. Bây giờ, không ai có thể nói điều gì sẽ xảy ra cho con người như vậy – liệu người đó có đi và trở thành nhà cách mạng như Jesus và đuổi những kẻ cho vay lãi khỏi đền hay không; hay liệu người đó có đi và phục vụ người nghèo hay không; hay liệu người đó có tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề và lan toả hương thơm của mình hay không; hay liệu người đó có trở thành một Meera và nhảy múa và ca hát niềm vinh quang của Thượng đế hay không. Chẳng ai biết cả; điều đó là không thể dự đoán nổi.

Bạn hỏi tôi, “Làm sao để trở nên được hoà nhập?” Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để làm cho bạn nhận biết rằng chẳng cái gì được cần tới cả, chẳng cái gì hơn được cần tới. Bạn đã có nó ở đó rồi, tồn tại bên trong bạn. Nhưng bạn phải làm ra cách tiếp cận, cánh cửa, lối đi để khám phá ra nó. Bạn phải đào xới vì nó; kho báu có đó.

Cho nên vấn đề không phải là làm sao để trở nên được hoà nhập. “Làm sao để biết rằng tôi đã được hoà nhập?” mới là câu hỏi đúng.

Câu hỏi này tới từ Nisagar, và tôi có thể hiểu được tại sao nó lại tới từ cô ấy. Cô ấy đã từng có quan hệ với công trình của Gurdjieff ở phương tây. Gurdjieff có một ý tưởng rất kì lạ; có nghĩa nhưng vẫn kì lạ. Ông ấy hay nói cho các đệ tử của mình, “Linh hồn không tồn tại đâu. Trung tâm không tồn tại đâu; nó phải được tạo ra. Con người không được sinh ra với linh hồn”… một lí thuyết rất lạ. Nhưng tôi có thể hiểu được điều ông ấy nhấn mạnh: con người không được sinh ra với linh hồn, con người phải kết tinh linh hồn của mình lại bằng nỗ lực. Do đó toàn thể hệ thống của Gurdjieff có tên là ‘công trình’. Nó có tác dụng và có tác dụng và có tác dụng. Nó là nỗ lực – lại phương thức hành động.

Thực tế, ở phương tây, rất khó dạy cho mọi người phương thức bất hành. Cho nên ông ấy đã dạy các kĩ thuật, phương pháp về cách trở nên được hoà nhập. Ông ấy sẽ nói, “Không có sẵn linh hồn đâu.” Không phải là không có linh hồn, và không phải là ông ấy không nhận biết về nó; nhưng điều đó là một phương cách. Mọi người đã trở nên rất thờ ơ về linh hồn. Họ coi nó đã có đó rồi – Cho nên sao lo nghĩ, sao bận tâm? Nó có đó. Bất kì ngày nào chúng tôi cũng có thể tìm thấy nó, cho nên để chúng tôi trong lúc đó đi tìm những thứ khác đã không có đó. Trong khi đó để chúng tôi tìm ra đàn bà đẹp, nhiều rượu, nhiều tiền, nhiều quyền lực – những thứ đang không có đó. Cho nên để chúng tôi tìm kiếm những thứ này đã. Vào cái ngày chúng tôi phát chán với tất cả những cái này, vào bất kì khoảnh khắc nào, chúng tôi sẽ nhắm mắt lại và chúng tôi sẽ đi vào trong, và linh hồn sẽ có đó. Nó chưa bao giờ bị mất; bạn không thể làm mất nó được và bạn cũng không thể thu được nó. Nó đã có đó rồi.” Cho nên mọi người đã trở nên rất thờ ơ.

Bạn có thể thấy điều đó ở phương đông. Toàn thể phương Đông đã trở thành tồi tệ và lờ phờ thế. Linh hồn có đó và mọi người đều biết nó, mọi người đều đã nghe nói về nói. Thượng đế là ở bên trong trái tim, ngài đã ở đó rồi, cho nên sao tạo ra ồn ào nhặng sị về ngài thế? Mọi người tìm kiếm cái không có đó.

Gurdjieff đã trở nên nhận biết về sự kiện này: rằng lí thuyết về linh hồn đã có đó nay đã làm cho mọi người thành rất lờ phờ, rất không quan tâm tới linh hồn; rất không quan tâm, tuyệt đối không quan tâm tới thế giới bên trong. Tâm trí chỉ quan tâm tới cái gây thách thức, cái là cuộc phiêu lưu. Cho nên Gurdjieff, để khớp với tâm trí phương tây, đã bắt đầu nói rằng linh hồn không có đó: “Đừng ngồi kiên nhẫn, làm điều gì đó đi – bởi vì khi người ta chết đi, tất cả mọi đều không sống sót đâu. Chỉ những người đã hoà nhập trung tâm của họ mới sống sót thôi. Những người khác đơn giản sẽ biến mất tựa rau cỏ. Cho nên điều đó là tuỳ bạn chọn lựa. Bạn đang nhận rủi ro đấy,” Gurdjieff nói. “Nếu bạn làm điều gì đó – và làm nghĩa là làm cật lực, công việc vất vả, cả đời cống hiến – chỉ thế thì bạn mới có khả năng sống sót sau cái chết. Bằng không bạn sắp bị thải hồi rồi. Bạn sẽ bị ném vào đống đồng nát. Thượng đế sẽ không chọn bạn đâu trừ phi bạn được hoà nhập. Bạn phải kiếm lấy điều đó. Chỉ rất ít người mới được cứu sau cái chết, không phải tất cả đâu.”

Đây là một lí thuyết rất kì lạ, chưa bao giờ được nêu ra trước đây, chưa bao giờ trong toàn thể lịch sử nhân loại. Đã từng có những người nói, ”Không có linh hồn.” Chúng ta biết họ; họ là người vô thần. Họ bao giờ cũng có đó. Có những người nói, ”Có linh hồn, và nó không thể bị phá huỷ. Ngay cả cái chết cũng không thể phá huỷ được nó.” Chúng ta đã nghe nói về họ; họ bao giờ cũng có đấy. Nhưng Gurdjieff đang nói điều gì đó tuyệt đối mới, cái gì đó chưa bao giờ được nói trước đây. Ông ấy đang nói, ”Linh hồn là có thể đấy; nó không phải là thực tại đâu. Nó đơn giản là có thể thôi. Bạn có thể đạt tới nó, bạn có thể không đạt tới nó – bạn có thể bỏ lỡ nó. Có nhiều khả năng là bạn sẽ bỏ lỡ nó, bởi vì cách bạn đang sống, bạn không kiếm nó.” Gurdjieff nói, “Con người giống như hạt mầm. Không nhất thiết là hạt mầm sẽ trở thành cây. Không nhất thiết đâu - hạt mầm có thể không tìm thấy mảnh đất đúng. Cho dù có tìm thấy mảnh đất đúng, vẫn có thể không có mưa. Hay cho dù có mưa, con vật có thể tới và phá cây. Có cả nghìn lẻ một khó khăn. Hạt mầm không nhất thiết sẽ thành cây đâu. Nếu cả nghìn lẻ một việc bảo vệ được thực hiện, chỉ thế thì hạt mầm mới trở thành cây. Bạn không là linh hồn đâu; bạn chỉ là một khả năng thôi. Cả nghìn lẻ một nỗ lực phải được tiến hành; chỉ thế thì bạn mới trở thành linh hồn. Chỉ hiếm hoi thôi: trong cả triệu người, một người trở thành linh hồn. Tất cả những người khác đơn giản sống vô vị, chết và biến mất.”

Tôi nói nó là một lí thuyết kì lạ, bởi vì nó không đúng. Và tôi nói nó rất có nghĩa, bởi vì cái gì đó giống như thế này đang được cần tới – ít nhất ở phương Tây nó được cần tới. Bằng không, chẳng ai bận tâm về linh hồn cả. Nhưng tất cả các kĩ thuật mà Gurdjieff đã dùng về căn bản là cùng những kĩ thuật mà chúng ta đã dùng ở phương Đông để khám phá ra linh hồn. Ông ấy đơn giản thay đổi từ ngữ. Ông ấy gọi nó là ‘tạo ra linh hồn’, ’hoà nhập linh hồn’, ’kết tinh trung tâm’. Nhưng các kĩ thuật đó là một.

Bạn đã được hoà nhập rồi. Không ở ngoại vi – ở ngoại vi chỉ có rối loạn. Bạn bị phân mảnh trên ngoại vi. Đi vào bên trong nhiều hơn, và bạn đi càng sâu hơn, bạn sẽ càng thấy rằng bạn được hoà nhập hơn. Tới một điểm, tại chính điện thờ bên trong nhất của bản thể bạn, nơi bạn bỗng nhiên thấy mình là một thể thống nhất, thể thống nhất tuyệt đối. Cho nên đó là vấn đề khám phá. Làm sao khám phá ra nó?

Tôi muốn cho Nisagar một kĩ thuật. Nó là kĩ thuật rất đơn giản, nhưng ban đầu nó có vẻ rất khó nhằn. Nếu bạn thử, bạn sẽ thấy nó đơn giản. Nếu bạn không thử và chỉ nghĩ về nó, nó sẽ có vẻ rất khó nhằn. Kĩ thuật này là: chỉ làm điều bạn thích. Nếu bạn không thích, đừng làm nó. Cứ thử nó mà xem - bởi vì việc tận hưởng chỉ tới từ trung tâm bạn. Nếu bạn đang làm cái gì đó và bạn thích thú nó, bạn bắt đầu được nối lại với trung tâm. Nếu bạn làm cái gì đó mà bạn không thích thú, bạn bị ngắt khỏi trung tâm. Vui vẻ nảy sinh từ trung tâm, và không từ đâu khác cả. Cho nên để điều đó thành tiêu chuẩn, và là người cuồng tín về nó.

Bạn đang đi trên đường; bỗng nhiên bạn nhận ra rằng bạn không thích bước đi. Dừng lại. Kết thúc - điều này không được làm.

Tôi thường làm điều đó trong những ngày ở trường đại học, và mọi người cứ nghĩ rằng tôi điên. Bỗng nhiên tôi sẽ dừng lại, và thế rồi tôi sẽ vẫn còn ở chỗ đó trong nửa giờ, một giờ, chừng nào tôi còn chưa bắt đầu thấy thích thú bước đi nữa. Các thầy giáo của tôi cũng ngại điều đó nên khi có thi cử họ sẽ cho tôi vào xe và đem tôi tới phòng đại học. Họ sẽ để tôi ngoài cửa và đợi ở đó: liệu tôi có đi tới bàn của mình hay không? Nếu tôi tắm và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng tôi không thích điều đó, tôi sẽ dừng lại. Thế thì phỏng có ích gì? Nếu tôi ăn và tôi bỗng nhiên nhận ra rằng tôi không thích ăn, thế thì tôi sẽ dừng lại.

Tôi đã tham gia vào lớp toán hồi ở trường trung học. Ngày đầy tiên, tôi đi vào và thầy giáo giới thiệu chủ đề. Đến giữa chừng tôi đứng dậy và cố bước ra. Thầy nói, ”Em đi đâu thế? Không xin phép, tôi sẽ không cho phép em vào lại đâu.” Tôi nói, “Em không quay lại đâu; thầy đừng lo. Đó là lí do tại sao em không hỏi xin. Kết thúc rồi – em không thích nó! Em sẽ tìm chủ đề nào đó khác mà em thích, bởi vì nếu em không thể thích nó được thì em sẽ không làm điều đó. Điều đó là tra tấn, điều đó là bạo hành.”

Và, dần dần, điều đó trở thành chìa khoá. Tôi bỗng nhiên nhận ra rằng bất kì khi nào bạn thích thú cái gì đó, bạn được định tâm. Thích thú chính là âm thanh của bản thể được định tâm. Bất kì khi nào bạn không tận hưởng cái gì đó, bạn đều bị ngắt khỏi trung tâm. Thế thì đừng ép buộc nó; không có nhu cầu. Nếu

mọi người nghĩ bạn điên, thì cứ để họ nghĩ bạn điên đi. Trong vòng vài ngày, bằng kinh nghiệm riêng của mình, bạn sẽ tìm ra cách bạn đã bỏ lỡ bản thân mình. Bạn đã làm cả nghìn lẻ một điều mà bạn chưa bao giờ thích thú, và dầu vậy bạn vẫn làm chúng bởi vì bạn đã được dạy như vậy. Bạn chỉ hoàn thành nghĩa vụ của mình.

Mọi người đã phá huỷ ngay cả điều đẹp đẽ thế như tình yêu. Bạn về nhà và bạn hôn vợ bạn bởi vì điều đó phải là như vậy, nó phải được làm. Bây giờ, một điều đẹp đẽ như nụ hôn, một điều như đoá hoa, đã bị phá huỷ. Dần dần, không thích thú việc đó, bạn sẽ cứ hôn vợ bạn; bạn sẽ quên mất vui vẻ của việc hôn con người khác. Bạn bắt tay bất kì ai bạn gặp - lạnh nhạt, không có nghĩa gì trong nó, không thông điệp nào trong nó, không nồng nhiệt tuôn chảy. Nó chỉ là bàn tay chết bắt lẫn nhau và nói ‘xin chào’. Thế rồi bạn bắt đầu, dần dần, học cử chỉ chết này, cử chỉ lạnh nhạt này. Bạn trở nên đông cứng, bạn trở thành tảng băng. Và thế rồi bạn nói, “Làm sao đi vào trung tâm?”

Trung tâm là có sẵn khi bạn nồng nhiệt, khi bạn tuôn chảy, tan ra, trong tình yêu, trong vui vẻ, trong điệu vũ, trong hân hoan. Điều đó là tuỳ ở bạn. Làm chỉ những điều mà bạn thực sự yêu thích làm và bạn tận hưởng. Nếu bạn không thích thú, dừng lại. Tìm ra cái gì đó khác mà bạn thích. Nhất định có cái gì đó bạn sẽ thích. Tôi chưa bao giờ bắt gặp người không thể thích thú bất kì cái gì. Có những người có thể không thích thứ này, thế rồi thứ khác, thứ khác nữa, nhưng cuộc sống là bao la. Đừng vẫn còn bị vướng mắc; trở nên nổi. Cứ để có nhiều luồng năng lượng hơn. Cứ để nó trôi nổi, để nó tan ra cùng với các năng lượng khác bao quanh bạn. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng thấy rằng vấn đề không phải là cách trở nên được hoà nhập, vấn đề là ở chỗ bạn đã quên mất cách tuôn chảy. Trong năng lượng tuôn chảy, bạn bỗng nhiên được hoà nhập. Điều đó đôi khi xảy ra một cách ngẫu nhiên nữa, nhưng lí do là như nhau.

Đôi khi bạn rơi vào tình yêu với người đàn bà hay người đàn ông, và bỗng nhiên bạn cảm thấy được hoà nhập, bỗng nhiên bạn cảm thấy là một lần đầu tiên. Mắt bạn toả sáng, khuôn mặt bạn rạng ngời, và trí tuệ của bạn không còn đờ đẫn nữa. Cái gì đó bắt đầu bùng cháy sáng trong bản thể bạn; bài ca nảy sinh, bước đi của bạn có phẩm chất của điệu vũ trong nó bây giờ. Bạn là một con người hoàn toàn khác.

Nhưng đây là những khoảnh khắc hiếm hoi – bởi vì chúng ta không học bí mật này. Bí mật này là: có cái gì đó bạn đã bắt đầu thích thú. Đó là toàn thể bí mật này. Hoạ sĩ có thể đói mà vẫn vẽ, và bạn có thể thấy rằng khuôn mặt người đó được mãn nguyện thế. Nhà thơ có thể nghèo, nhưng khi người đó ca lên bài ca của mình thì người đó là người giầu nhất trên thế giới. Không ai giầu hơn người đó. Bí mật của điều đó là gì? Bí mật là: người đó đang thích thú khoảnh khắc này. Bất kì khi nào bạn thích thú điều gì đó, bạn đang hoà điệu với bản thân và bạn đang trong hoà điệu với vũ trụ – bởi vì trung tâm của bạn là trung tâm của tất cả.

Cho nên để sáng suốt này là bầu khí hậu cho bạn: chỉ làm điều bạn thích, bằng không thì dừng lại. Bạn đang đọc báo và nửa chừng qua nó bạn đột nhiên

nhận ra rằng bạn không thích nó: thế thì không có nhu cầu. Thế thì sao bạn lại đọc? Dừng nó lại ở đây và bây giờ. Nếu bạn đang nói với ai đó và giữa chừng bạn nhận ra rằng bạn không thích điều đó, bạn chỉ mới nói nửa câu, dừng lại ở đó đi. Bạn không thích thú, bạn không có nghĩa vụ phải tiếp tục. Lúc ban đầu điều đó sẽ có vẻ kì quái. Nhưng các sannyasin của tôi đều kì quái cả, cho nên tôi không coi là có vấn đề gì. Bạn có thể thực hành điều đó.

Nisagar già rồi, nhưng tôi có thể thấy phẩm chất trẻ thơ trong bà ấy. Bà ấy cũng có thể làm điều đó. Và tôi hi vọng bà ấy sẽ làm điều đó. Trong vòng vài ngày mối liên hệ sẽ được thiết lập với trung tâm, và thế rồi bạn sẽ hiểu điều tôi ngụ ý khi tôi cứ lặp đi lặp lại mãi rằng cái bạn đang tìm kiếm là đã có trong bạn rồi. Nó không ở trong tương lai. Nó chẳng có liên quan gì với tương lai cả. Nó đã ở đây bây giờ rồi, nó đã là hoàn cảnh rồi.

-OSHO – NGÔ TRUNG VIỆT dịch

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay