thaochau

Phát Hiện Lại Gốc Của Bài Việt Nhân Ca (Bài Ca Của Người Việt)

6 bài viết trong chủ đề này

Phát hiện lại nguồn gốc Việt nhân ca và Lục Bát (26/09/2012)

Được xem là một trong những bài thơ tình cổ nhất của nhân loại (có từ 2800 năm trước), "Việt nhân ca" từng gây tranh cãi trong giới học giả, nghiên cứu cổ ngữ và văn hóa nhiều nước trên thế giới. Gần đây, nhà nghiên cứu Đỗ Thành (Nhạn Nam Phi) cho công bố bài viết"Phát hiện lại Việt nhân ca" với nhiều chứng cứ thuyết phục. Đoạncuối của bài viêt này có một chi tiết thú vị liên quan đến nguồn gốc tác phẩmvà thơ Lục Bát...

Tóm tắt về bối cảnhra đời của Việt nhân ca: Lưu Hướng (刘向) là cháu bốn đời của Lưu Giao (刘交). Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦), cao tổ của nhà Hán. Lưu Hướng là tác giả củasách Thuyết uyển (说苑). Sách có chương kểchuyện “Tương Thành Quân thủy phong chi nhật” (襄成 君始封之日). Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王) tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫). Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân TửTích (鄂君子皙) là vua SởHùng Ngạc (楚熊咢) dùng thuyềndạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân ca Việt.Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng"Sở" là bài "Việt nhân ca".

Nguyên văn đoạn đó như sau:

" 襄 成君始封之日,衣翠衣,带玉剑,履缟舄(舄:xi4,古代一种双层底加有木垫的鞋;缟舄:白色细生绢做的鞋),立于游水之上,大夫拥钟锤(钟锤:敲击乐鼓锤子),县令执桴(桴:鼓槌) 号令,呼:谁能渡王者于是也?楚大夫庄辛,过而说之,遂造托(造托:上前求见)而拜谒,起立曰:臣愿把君之手,其可 乎?襄成君忿然作色而不言。庄辛迁延(迁延:退却貌)沓手(沓:盥之误字,盥手即洗手)而称曰:君 独不闻夫鄂君子皙之泛舟于新波之 中也?乘青翰之舟(青翰:舟名,刻成鸟形的黑色的船),极(:man2,上艹下两;芘:bi4。芘:不详为何物,疑为船上帐幔之类),张翠盖而检(检:插上)犀 尾,班(班,同丽袿(袿:gui1,衣服后襟,指上衣)(衽:ren4,下裳),会钟鼓之音,毕榜枻(榜:船;枻,yi4,桨。榜 枻:这里指代船工)越人拥楫而 歌,歌辞曰:滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖鄂君子皙曰:吾 不知越歌,子试为我楚说之。于 是乃召越译,乃楚说之曰:夕何夕兮,搴中洲流。今日何日兮,得与王子同舟。蒙羞被好兮,不訾诟耻。心几顽而不绝兮,知得王子。山有木兮木有枝,心说君兮君不知。 于是鄂君子皙乃揄修袂,行而拥之,举绣被而覆之。鄂君子皙,亲楚王母弟也。官为令尹,爵为执圭,一榜枻越人犹得交欢尽意焉。今君何以踰于鄂君子皙,臣何以 独不若榜枻之人,愿把君之手,其不可何也?襄成君乃奉手而进之,曰:吾 少之时,亦尝以色称于长者矣。未 尝过僇(僇:lu4,羞辱)如此之卒也。自今以后,愿以壮少之礼 命。

Dịchnghĩa:

“Ngàyđầu tiên Tương Thành Quân được phong quan tước, mặc áo đẹp, đeokiếm ngọc, mang cao guốc, đứng phía trên dòng nước, đại phu gõ nhạc,đánh trống. Lệnh rằng: "Ai có thể đưa ta lên đò?" Sở đại phuTrang Tân bước lên phía trước bái kiến, đứng thẳng nói rằng:"Thần nguyện nắm tay của quân vương, có được không ?" TươngThành Vương phẫn nộ, mặt biến sắc và im lặng. Trang Tân mất mặt, phủitay nói rằng: " Quân vương không nghe qua chuyện Ngạc Quân Tử Tíchdạo thuyền trên làn sóng mới sao? Trên thuyền Thanh Hàn, cắm cờ xí,khoác áo choàng đẹp. Trong tiếng chuông trống, người chèo thuyền làngười Việt đã hát. Lời hát là "Lạm hề biện thảo biện dư,xương hoàn trạch dư xương châu châu, Thực thẩm châu châu yên hô tần tư tư,mạn dư hô chiêu, thẳn tần du sâm, đề tùy hà hồ ." Ngạc QuânTử nói: " Ta không hiểu Việt ca, thử cho ta hiểu bằng tiếngSở." Thế là cho người phiên dịch, bằng tiếng Sở nghĩa là: "Kimtịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu, kim nhật hà nhật hề, đắc dĩvương tử đồng Chu. mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sĩ. tâm kỷ phiềnnhi bất tuyệt hề, tri đắc vương tử. Sơn hửu mục hề mục hửu chi, tâmthuyết quân hề quân bất tri.” Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích xăn tayáo, đến ôm lấy, dùng mền thêu mà đắp lên. Ngạc Quân Tử Tích làem cùng mẹ với Sở vương, làm quan Lịnh-Doãn, tước vị cao sang, mà còncó thể cùng vui tận hết ý với người chèo thuyền Việt.Nay sao quân vương lại do dự hơn Ngạc Quân Tử Tích, thần tại saokhông bằng người chèo thuyền, muốn nắm tay quân vương, tại sao lạikhông được ?" Tương Thành Quân đưa tay ra bước tới, nói: "Ta từnhỏ đã được người lớn khen đàng hoàng, chưa từng bất ngờ gập quacảnh nầy. Từ nay về sau xin nghe lời chỉ dạy của tiên sinh."

Chính nhờ đoạn văn này mà Bài cacủa người Việt còn tới ngày nay. Từ văn bản Hán ngữ:

今夕何夕兮,搴舟中流。 Kim tịch hà tịch hềkhiênchu trung lưu.

今日何日兮,得与王子同舟。

Kim nhật hà nhật hềđắc dữ vương tử đồng chu! file:///C:/Users/pc/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.jpg

蒙羞被好兮,不訾 耻。

Mông tu bị hảo hề,bất hiềmcấu sỉ.

心几烦而不绝兮,得知王 子。

Tâm kỉ phiền nhi bất tuyệt hềđắc tri vương tử.

山有木兮木有枝 ,心悦君兮君不知!

Sơn hữu mộc hề mộc hữuchi,tâm thuyết quân hề quân bất tri!

Và đây là bản dịch có thểđược coi là chuẩn:

Việt nhân ca

Đêm nay đêm nào chừ, chèothuyền giữa sông

Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng.

Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong

Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông

Non có cây chừ, cây có cànhchừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?

(Bản dịch Việt ngữ trênDiễn Đàn của Viện Việt Học)

Hiện giờ Việt nhân ca đượcbiết như là bài dân ca của dân tộc "Choang", được ghi lại bằngký âm bởi người Sở thời Xuân-Thu.* Một số ý kiến cho rằng lịnh doãnnước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việtrồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở. Sở quá rộng lớn nênBắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sởhay Tượng Sở. Trong lịch sử xưa có khi Nam Sở tách ra độc lập lànước Dương Việt. Nếu ngược thời Xuân thu đi về xa nữa, thì tận xa xưacó “lịnh doãn" của nước Sở là Tử Văn vào triều đình nhà Chu nóichuyện bằng tiếng Sở mà nhà Chu xưng là Hoa lại không ai hiểu... Điềunầy được ghi nhận trong Sử ký. Xin quí vị xét kỹ yếu tố câu chuyệnnầy mà đừng lầm rằng tiếng Sở là tiếng Hoa. Ngay cả"lịnh-doãn" nước Sở nghĩa là gì thì người Hoa cũng khôngbiết, nên chỉ ghi chú: quan "lịnh-doãn" là chức quantương đương với "tể tướng" hay gọi là "thừa tướng".Thực ra lịnh-doãn (令尹) là từ đa âmcổ: quan lịnh-doãn hay quan loãn à quan loan à quan lang chỉ có trong tiếngViệt và người Việt mới hiểu. Quan chức người Việt thời Hùng Vươngđược gọi là quan lang à loan, khi ký âm bằng chữ vuông thì biến thành lịnh- doãn (令尹). Thời Xuân thuvẫn dùng ngôn ngữ Việt làm tiếng phổ thông giữa các quốc gia nhỏ ởTrung Nguyên và gọi là Nhã ngữ. Nhã ngữ là Việt ngữ mà ngày nay cũngbị gọi là Hoa ngữ, đã đơn âm hóa nên nhiều người lầm tưởng"Việt" "Hoa" là hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ"Trữ-la" thôn thì thực ra là "Tử la" thôn có nghĩa là“thôn Tả". "Trả" “tả” hay "trái" chính là"Tó" (Triều Châu), “Chỏ" (Quảng Đông),"Chò" (Bắc Kinh) dù chung một gốc mà sau khi biến âm thì vùngnầy lại không hiểu ngôn ngữ vùng kia.

Nay tôi xin thử phục nguyên bàica Việt trình bạn đọc.

Ký âm tiếng Việt của bàica được ghi lại là:

滥兮抃草滥予

Lạm hề biện thảo lạm dư

昌枑泽予昌州州

Xương hằng trạch dư xươngchâu châu

饣甚州焉乎秦胥胥

Thực thầm châu yên hồ tần tưtư

缦予乎昭

Mạn dư hồ chiêu

澶秦逾渗惿随河湖

Thìn tần du sâm, đề tùy hàhồ

So sánh hai bản văn ta thấy khácnhau rõ rệt. Bản dịch có 54 chữ, trong khi nguyên bản chỉ có 33 chữ. Ở bảndịch, câu thứ 3 bị thiếu chữ "",đó chính là chữ -Thực.Trong khi đó bản dịch bị thêm câu cuối, chỉ mang tính đưa đẩy vô nghĩa“non có cây, cây có cành.” Có vấn đề cần lưu ý là sự hình thành của hai bản văntrên: Bài ca bằng tiếng Việt của người Việt. Người Sở nghe không hiểu nên yêucầu được dịch sang tiếng Sở. Nhưng rồi cả bản tiếng Việt cả bản tiếng Sở đượcký âm bằng chữ vuông Hán ngữ. Nếu dịch là diệt thì đây cũng là ví dụ tiêu biểu.Tiếng Việt cổ của 2800 năm trước là ngôn ngữ đa âm, “bị” chuyển thành Hán tựđơn âm cách nay 2000 năm là sự mất. Mất chữ dẫn tới mất nghĩa… Qua quá trìnhchuyển ngữ như thế, tất cả đều thay đổi. Nhìn khách quan, đó là hai bản vănkhác nhau hầu như hoàn toàn về văn tự. Có lẽ chỉ chung nhau ở phong cảnh sôngnước, nỗi quyến luyến của người chèo thuyền và chàng vương tử, vậy thôi! Hơnhai nghìn năm nay, giai thoại vẫn nằm trong sách. Bao thế hệ đã đọc và ngợi cađều bằng lòng với bản dịch mà chưa ai nghiên cứu nguyên văn của bài ca tức làbản tiếng Việt! Phải chăng đó là thứ ngôn ngữ bị mai một mà bao tháng nămdo không hiểu được nên lớp lớp tài tử văn nhân bằng lòng với cái bóng, cáihình? Rất khó xác định giữa nguyên bản và bản dịch, cái nào hay hơn. Có thể dochất trữ tình của bản dịch cụ thể hơn cộng với nhịp điệu đưa đẩy của bài ca gâyấn tượng cho người đọc khiến hàng nghìn năm người đọc bị dẫn dụ sang bài cakhác mà không phải bài ca của người Việt? Chính vì vậy, việc khảo cứu, phụcnguyên văn bản gốc của bài ca Việt càng trở nên ý nghĩa.

Phiên dịch ra Hán Việt cho mộtbài dùng chữ tượng hình cổ để "phiên âm" tiếng Việt thì sẽrất là khó vì có chữ không còn được dùng nữa, nên không có trong từđiển. Mà dù cho có tra tự điển thì chưa chắc đúng bởi vì giọng đọc ởcác địa phương khác nhau. Thêm nữa, cách nhau đến ngàn năm thì tiếngnói và cách viết của một số chữ có thể thay đổi và lại biến âm theotừng miền ngôn ngữ v v... Bản ký âm nầy cho đến nay vẫn bị cho là phiênâm để ghi lại tiếng "Choang" tức là tiếng "Thái" củaTráng tộc.

Xin trình bày lại vàxếp theo ý tôi:

兮 抃 草 予 昌 枑 予 昌 州 州 飠 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗

... 河 湖。

Xin sắp xếp lại lần nữa, vìrất quan trọng, cho đúng 6-8: (chú ý hai chữ có gạch nối là một chữ đaâm)

兮 抃 -

Lạm hề biện-thảo lạm dư

昌 枑 - 予 昌 州 州 飠

Xương hoàng trạch-dư xương châu châu thực

甚 州 焉 乎-秦 胥 胥

Thẩm châu yên hô-tần tư tư

予 乎-昭 澶 秦 踰 渗 -

Mạn dư hô-chiêu thìn tần du sâm đề-tùy.

...河 湖。

Hà Hồ.

Để dịch bài này từ tiếng Việt xưara tiếng Việt nay xin giải thích những ký âm của Việt nhân ca:

: "Lạm" là"Lam" hay "nam" tức là "Năm", "L" và"N" thường là biến âm, ngày nay màu "Lam" tiếng TriềuChâu là "Nam". Rất nhiều nơi ở Quảng, Triều, Việt thường lẫnlộn "L" và "N".

: Hề... hầy,nầy, nè, đây... nhiều biến âm.

抃草: Biện-thảolà từ đa âm của "bảo".

: "Dư"còn có âm "ia" (Triều Châu, Bắc kinh). Năm "dư" cóthể như ngày nay là "năm kia", "năm xưa."

: ký âm"xương" là "thương". Ngày nay tiếng QuảngĐông-thuần Việt là "Sẹc", Triều Châu-thuần Mân Việt là"Siaiê".

: "Hằng"hay "Hoàng".

泽予: "Trạch-Dư"hay "Trạch-Dử" là "Trử” hay "Tử",

: Thực,tiếng Quảng Đông à sực, Bắc kinh à Sữa: phát âm như là "Xưa".

: Thẩmhay Thậm là Sẩm, sửm, sơm tiếng tiếng Quảng Đông, và Bắckinh "Sum" phát âm như "Sớm".

: Châu phátâm Mân Việt -Triều Châu thì đọc là "Chiêu", "Chiệu"như "Chiều".

: (zen) phátâm tiếng Bắc Kinh như em.

乎秦: "Hô-tần" đaâm, là "Hận" đơn âm.

乎昭: "Hô-chiêu" đaâm là "Hiểu" đơn âm.

:"Thẳn" hay "Đặng" hay "được". Nếu tra tựđiển và phiên dịch là "Thìn" hay "chiền" là khôngđúng! Bên trái là bộ "Thủy" và bên phải là chữ"Đàn", đọc là "Thẳn" hay "đặng" và nghĩalà "nước xối... thẳng, thông, đặng". Tiếng Quảng Đông:"Thànn", Tiếng Triều Châu: "thànn" hay"thạnn".

胥胥: "tư tư" làTương Tư.

秦 踰: Tần Du, là ký âm "tình duyên" hay"tình yêu", là Tsình của tiếng Triều Châu ngày nay, , du, Duyè (Quảng đông), Dua (Triều Châu).

: "Sâm"là Sâu, tiếng Quảng Đông ngày nay "sâu" vẫn là "Sâm".

惿随: "Đề-Tuỳ" đaâm là "đùy" đơn âm, là "đầy"

- Hà: hớ

- Hồ: hò

Như vậy, nghĩa Việt củabài ca như sau:

Năm nầy bảo nămxưa

Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

....Hò Hớ

Theo khảo cứu của tôi thìViệt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò củadân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽlà:

Hò... ... hớ...

Năm nầy bảo với năm xưa

Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

Việc khảo cứu và giải mã bímật của Việt nhân ca, đối với tôi rất là dễ bởi vì tôi biết chữ tượnghình người Hoa đang dùng vốn là chữ Việt. Khi nghiên cứu cổ sử, tôithường đọc theo nhiều phương ngữ khác nhau là Bắc Kinh, Quảng Đông,Triều Châu, Hán Việt. Vì thế có thể nói, nhìn vào Việt nhân ca làthấy được bài thơ Việt liền! Thích thú với chi tiết 2800 năm vềtrước, tiếng Việt đã dùng "biện- thảo" là "bảo" ,"nầy" kia, "nầy" xưa, "thương chiều chiềuxưa", "em hận tương tư" v v... Nhưng có điều tôi chưa biết"Hò... hớ" là nghĩa gì và cũng chưa bao giờ nghĩ đến sẽtìm hiểu "Hò......Hớ" là gì! Vậy mà Việt nhân ca bản gốcđã làm tôi kinh ngạc và "ngộ" ra rằng "Hò... hớ"là dân ca của người Việt khi gắn bó với sông hồ, với ghe, thuyền:Hò... Hớ nghĩa là "Hà "..."Hồ "

Sacramento, 12. 09

Tác giả Đỗ Thành

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phát hiện lại nguồn gốc Việt nhân ca và Lục Bát (26/09/2012)

Được xem là một trong những bài thơ tình cổ nhất của nhân loại (có từ 2800 năm trước), "Việt nhân ca" từng gây tranh cãi trong giới học giả, nghiên cứu cổ ngữ và văn hóa nhiều nước trên thế giới. Gần đây, nhà nghiên cứu Đỗ Thành (Nhạn Nam Phi) cho công bố bài viết"Phát hiện lại Việt nhân ca" với nhiều chứng cứ thuyết phục. Đoạncuối của bài viêt này có một chi tiết thú vị liên quan đến nguồn gốc tác phẩmvà thơ Lục Bát...

Tóm tắt về bối cảnhra đời của Việt nhân ca: Lưu Hướng (刘向) là cháu bốn đời của Lưu Giao (刘交). Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦), cao tổ của nhà Hán. Lưu Hướng là tác giả củasách Thuyết uyển (说苑). Sách có chương kểchuyện “Tương Thành Quân thủy phong chi nhật” (襄成 君始封之日). Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王) tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫). Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân TửTích (鄂君子皙) là vua SởHùng Ngạc (楚熊咢) dùng thuyềndạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân ca Việt.Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng"Sở" là bài "Việt nhân ca".

Nguyên văn đoạn đó như sau:

" 襄 成君始封之日,衣翠衣,带玉剑,履缟舄(舄:xi4,古代一种双层底加有木垫的鞋;缟舄:白色细生绢做的鞋),立于游水之上,大夫拥钟锤(钟锤:敲击乐鼓锤子),县令执桴(桴:鼓槌) 号令,呼:谁能渡王者于是也?楚大夫庄辛,过而说之,遂造托(造托:上前求见)而拜谒,起立曰:臣愿把君之手,其可 乎?襄成君忿然作色而不言。庄辛迁延(迁延:退却貌)沓手(沓:盥之误字,盥手即洗手)而称曰:君 独不闻夫鄂君子皙之泛舟于新波之 中也?乘青翰之舟(青翰:舟名,刻成鸟形的黑色的船),极(:man2,上艹下两;芘:bi4。芘:不详为何物,疑为船上帐幔之类),张翠盖而检(检:插上)犀 尾,班(班,同丽袿(袿:gui1,衣服后襟,指上衣)(衽:ren4,下裳),会钟鼓之音,毕榜枻(榜:船;枻,yi4,桨。榜 枻:这里指代船工)越人拥楫而 歌,歌辞曰:滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖鄂君子皙曰:吾 不知越歌,子试为我楚说之。于 是乃召越译,乃楚说之曰:夕何夕兮,搴中洲流。今日何日兮,得与王子同舟。蒙羞被好兮,不訾诟耻。心几顽而不绝兮,知得王子。山有木兮木有枝,心说君兮君不知。 于是鄂君子皙乃揄修袂,行而拥之,举绣被而覆之。鄂君子皙,亲楚王母弟也。官为令尹,爵为执圭,一榜枻越人犹得交欢尽意焉。今君何以踰于鄂君子皙,臣何以 独不若榜枻之人,愿把君之手,其不可何也?襄成君乃奉手而进之,曰:吾 少之时,亦尝以色称于长者矣。未 尝过僇(僇:lu4,羞辱)如此之卒也。自今以后,愿以壮少之礼 命。

Dịchnghĩa:

“Ngàyđầu tiên Tương Thành Quân được phong quan tước, mặc áo đẹp, đeokiếm ngọc, mang cao guốc, đứng phía trên dòng nước, đại phu gõ nhạc,đánh trống. Lệnh rằng: "Ai có thể đưa ta lên đò?" Sở đại phuTrang Tân bước lên phía trước bái kiến, đứng thẳng nói rằng:"Thần nguyện nắm tay của quân vương, có được không ?" TươngThành Vương phẫn nộ, mặt biến sắc và im lặng. Trang Tân mất mặt, phủitay nói rằng: " Quân vương không nghe qua chuyện Ngạc Quân Tử Tíchdạo thuyền trên làn sóng mới sao? Trên thuyền Thanh Hàn, cắm cờ xí,khoác áo choàng đẹp. Trong tiếng chuông trống, người chèo thuyền làngười Việt đã hát. Lời hát là "Lạm hề biện thảo biện dư,xương hoàn trạch dư xương châu châu, Thực thẩm châu châu yên hô tần tư tư,mạn dư hô chiêu, thẳn tần du sâm, đề tùy hà hồ ." Ngạc QuânTử nói: " Ta không hiểu Việt ca, thử cho ta hiểu bằng tiếngSở." Thế là cho người phiên dịch, bằng tiếng Sở nghĩa là: "Kimtịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu, kim nhật hà nhật hề, đắc dĩvương tử đồng Chu. mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sĩ. tâm kỷ phiềnnhi bất tuyệt hề, tri đắc vương tử. Sơn hửu mục hề mục hửu chi, tâmthuyết quân hề quân bất tri.” Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích xăn tayáo, đến ôm lấy, dùng mền thêu mà đắp lên. Ngạc Quân Tử Tích làem cùng mẹ với Sở vương, làm quan Lịnh-Doãn, tước vị cao sang, mà còncó thể cùng vui tận hết ý với người chèo thuyền Việt.Nay sao quân vương lại do dự hơn Ngạc Quân Tử Tích, thần tại saokhông bằng người chèo thuyền, muốn nắm tay quân vương, tại sao lạikhông được ?" Tương Thành Quân đưa tay ra bước tới, nói: "Ta từnhỏ đã được người lớn khen đàng hoàng, chưa từng bất ngờ gập quacảnh nầy. Từ nay về sau xin nghe lời chỉ dạy của tiên sinh."

Chính nhờ đoạn văn này mà Bài cacủa người Việt còn tới ngày nay. Từ văn bản Hán ngữ:

今夕何夕兮,搴舟中流。 Kim tịch hà tịch hềkhiênchu trung lưu.

今日何日兮,得与王子同舟。

Kim nhật hà nhật hềđắc dữ vương tử đồng chu! file:///C:/Users/pc/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.jpg

蒙羞被好兮,不訾 耻。

Mông tu bị hảo hề,bất hiềmcấu sỉ.

心几烦而不绝兮,得知王 子。

Tâm kỉ phiền nhi bất tuyệt hềđắc tri vương tử.

山有木兮木有枝 ,心悦君兮君不知!

Sơn hữu mộc hề mộc hữuchi,tâm thuyết quân hề quân bất tri!

Và đây là bản dịch có thểđược coi là chuẩn:

Việt nhân ca

Đêm nay đêm nào chừ, chèothuyền giữa sông

Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng.

Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong

Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông

Non có cây chừ, cây có cànhchừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?

(Bản dịch Việt ngữ trênDiễn Đàn của Viện Việt Học)

Hiện giờ Việt nhân ca đượcbiết như là bài dân ca của dân tộc "Choang", được ghi lại bằngký âm bởi người Sở thời Xuân-Thu.* Một số ý kiến cho rằng lịnh doãnnước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việtrồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở. Sở quá rộng lớn nênBắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sởhay Tượng Sở. Trong lịch sử xưa có khi Nam Sở tách ra độc lập lànước Dương Việt. Nếu ngược thời Xuân thu đi về xa nữa, thì tận xa xưacó “lịnh doãn" của nước Sở là Tử Văn vào triều đình nhà Chu nóichuyện bằng tiếng Sở mà nhà Chu xưng là Hoa lại không ai hiểu... Điềunầy được ghi nhận trong Sử ký. Xin quí vị xét kỹ yếu tố câu chuyệnnầy mà đừng lầm rằng tiếng Sở là tiếng Hoa. Ngay cả"lịnh-doãn" nước Sở nghĩa là gì thì người Hoa cũng khôngbiết, nên chỉ ghi chú: quan "lịnh-doãn" là chức quantương đương với "tể tướng" hay gọi là "thừa tướng".Thực ra lịnh-doãn (令尹) là từ đa âmcổ: quan lịnh-doãn hay quan loãn à quan loan à quan lang chỉ có trong tiếngViệt và người Việt mới hiểu. Quan chức người Việt thời Hùng Vươngđược gọi là quan lang à loan, khi ký âm bằng chữ vuông thì biến thành lịnh- doãn (令尹). Thời Xuân thuvẫn dùng ngôn ngữ Việt làm tiếng phổ thông giữa các quốc gia nhỏ ởTrung Nguyên và gọi là Nhã ngữ. Nhã ngữ là Việt ngữ mà ngày nay cũngbị gọi là Hoa ngữ, đã đơn âm hóa nên nhiều người lầm tưởng"Việt" "Hoa" là hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ"Trữ-la" thôn thì thực ra là "Tử la" thôn có nghĩa là“thôn Tả". "Trả" “tả” hay "trái" chính là"Tó" (Triều Châu), “Chỏ" (Quảng Đông),"Chò" (Bắc Kinh) dù chung một gốc mà sau khi biến âm thì vùngnầy lại không hiểu ngôn ngữ vùng kia.

Nay tôi xin thử phục nguyên bàica Việt trình bạn đọc.

Ký âm tiếng Việt của bàica được ghi lại là:

滥兮抃草滥予

Lạm hề biện thảo lạm dư

昌枑泽予昌州州

Xương hằng trạch dư xươngchâu châu

饣甚州焉乎秦胥胥

Thực thầm châu yên hồ tần tưtư

缦予乎昭

Mạn dư hồ chiêu

澶秦逾渗惿随河湖

Thìn tần du sâm, đề tùy hàhồ

So sánh hai bản văn ta thấy khácnhau rõ rệt. Bản dịch có 54 chữ, trong khi nguyên bản chỉ có 33 chữ. Ở bảndịch, câu thứ 3 bị thiếu chữ "",đó chính là chữ -Thực.Trong khi đó bản dịch bị thêm câu cuối, chỉ mang tính đưa đẩy vô nghĩa“non có cây, cây có cành.” Có vấn đề cần lưu ý là sự hình thành của hai bản văntrên: Bài ca bằng tiếng Việt của người Việt. Người Sở nghe không hiểu nên yêucầu được dịch sang tiếng Sở. Nhưng rồi cả bản tiếng Việt cả bản tiếng Sở đượcký âm bằng chữ vuông Hán ngữ. Nếu dịch là diệt thì đây cũng là ví dụ tiêu biểu.Tiếng Việt cổ của 2800 năm trước là ngôn ngữ đa âm, “bị” chuyển thành Hán tựđơn âm cách nay 2000 năm là sự mất. Mất chữ dẫn tới mất nghĩa… Qua quá trìnhchuyển ngữ như thế, tất cả đều thay đổi. Nhìn khách quan, đó là hai bản vănkhác nhau hầu như hoàn toàn về văn tự. Có lẽ chỉ chung nhau ở phong cảnh sôngnước, nỗi quyến luyến của người chèo thuyền và chàng vương tử, vậy thôi! Hơnhai nghìn năm nay, giai thoại vẫn nằm trong sách. Bao thế hệ đã đọc và ngợi cađều bằng lòng với bản dịch mà chưa ai nghiên cứu nguyên văn của bài ca tức làbản tiếng Việt! Phải chăng đó là thứ ngôn ngữ bị mai một mà bao tháng nămdo không hiểu được nên lớp lớp tài tử văn nhân bằng lòng với cái bóng, cáihình? Rất khó xác định giữa nguyên bản và bản dịch, cái nào hay hơn. Có thể dochất trữ tình của bản dịch cụ thể hơn cộng với nhịp điệu đưa đẩy của bài ca gâyấn tượng cho người đọc khiến hàng nghìn năm người đọc bị dẫn dụ sang bài cakhác mà không phải bài ca của người Việt? Chính vì vậy, việc khảo cứu, phụcnguyên văn bản gốc của bài ca Việt càng trở nên ý nghĩa.

Phiên dịch ra Hán Việt cho mộtbài dùng chữ tượng hình cổ để "phiên âm" tiếng Việt thì sẽrất là khó vì có chữ không còn được dùng nữa, nên không có trong từđiển. Mà dù cho có tra tự điển thì chưa chắc đúng bởi vì giọng đọc ởcác địa phương khác nhau. Thêm nữa, cách nhau đến ngàn năm thì tiếngnói và cách viết của một số chữ có thể thay đổi và lại biến âm theotừng miền ngôn ngữ v v... Bản ký âm nầy cho đến nay vẫn bị cho là phiênâm để ghi lại tiếng "Choang" tức là tiếng "Thái" củaTráng tộc.

Xin trình bày lại vàxếp theo ý tôi:

兮 抃 草 予 昌 枑 予 昌 州 州 飠 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗

... 河 湖。

Xin sắp xếp lại lần nữa, vìrất quan trọng, cho đúng 6-8: (chú ý hai chữ có gạch nối là một chữ đaâm)

兮 抃 -

Lạm hề biện-thảo lạm dư

昌 枑 - 予 昌 州 州 飠

Xương hoàng trạch-dư xương châu châu thực

甚 州 焉 乎-秦 胥 胥

Thẩm châu yên hô-tần tư tư

予 乎-昭 澶 秦 踰 渗 -

Mạn dư hô-chiêu thìn tần du sâm đề-tùy.

...河 湖。

Hà Hồ.

Để dịch bài này từ tiếng Việt xưara tiếng Việt nay xin giải thích những ký âm của Việt nhân ca:

: "Lạm" là"Lam" hay "nam" tức là "Năm", "L" và"N" thường là biến âm, ngày nay màu "Lam" tiếng TriềuChâu là "Nam". Rất nhiều nơi ở Quảng, Triều, Việt thường lẫnlộn "L" và "N".

: Hề... hầy,nầy, nè, đây... nhiều biến âm.

抃草: Biện-thảolà từ đa âm của "bảo".

: "Dư"còn có âm "ia" (Triều Châu, Bắc kinh). Năm "dư" cóthể như ngày nay là "năm kia", "năm xưa."

: ký âm"xương" là "thương". Ngày nay tiếng QuảngĐông-thuần Việt là "Sẹc", Triều Châu-thuần Mân Việt là"Siaiê".

: "Hằng"hay "Hoàng".

泽予: "Trạch-Dư"hay "Trạch-Dử" là "Trử” hay "Tử",

: Thực,tiếng Quảng Đông à sực, Bắc kinh à Sữa: phát âm như là "Xưa".

: Thẩmhay Thậm là Sẩm, sửm, sơm tiếng tiếng Quảng Đông, và Bắckinh "Sum" phát âm như "Sớm".

: Châu phátâm Mân Việt -Triều Châu thì đọc là "Chiêu", "Chiệu"như "Chiều".

: (zen) phátâm tiếng Bắc Kinh như em.

乎秦: "Hô-tần" đaâm, là "Hận" đơn âm.

乎昭: "Hô-chiêu" đaâm là "Hiểu" đơn âm.

:"Thẳn" hay "Đặng" hay "được". Nếu tra tựđiển và phiên dịch là "Thìn" hay "chiền" là khôngđúng! Bên trái là bộ "Thủy" và bên phải là chữ"Đàn", đọc là "Thẳn" hay "đặng" và nghĩalà "nước xối... thẳng, thông, đặng". Tiếng Quảng Đông:"Thànn", Tiếng Triều Châu: "thànn" hay"thạnn".

胥胥: "tư tư" làTương Tư.

秦 踰: Tần Du, là ký âm "tình duyên" hay"tình yêu", là Tsình của tiếng Triều Châu ngày nay, , du, Duyè (Quảng đông), Dua (Triều Châu).

: "Sâm"là Sâu, tiếng Quảng Đông ngày nay "sâu" vẫn là "Sâm".

惿随: "Đề-Tuỳ" đaâm là "đùy" đơn âm, là "đầy"

- Hà: hớ

- Hồ: hò

Như vậy, nghĩa Việt củabài ca như sau:

Năm nầy bảo nămxưa

Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

....Hò Hớ

Theo khảo cứu của tôi thìViệt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò củadân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽlà:

Hò... ... hớ...

Năm nầy bảo với năm xưa

Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

Việc khảo cứu và giải mã bímật của Việt nhân ca, đối với tôi rất là dễ bởi vì tôi biết chữ tượnghình người Hoa đang dùng vốn là chữ Việt. Khi nghiên cứu cổ sử, tôithường đọc theo nhiều phương ngữ khác nhau là Bắc Kinh, Quảng Đông,Triều Châu, Hán Việt. Vì thế có thể nói, nhìn vào Việt nhân ca làthấy được bài thơ Việt liền! Thích thú với chi tiết 2800 năm vềtrước, tiếng Việt đã dùng "biện- thảo" là "bảo" ,"nầy" kia, "nầy" xưa, "thương chiều chiềuxưa", "em hận tương tư" v v... Nhưng có điều tôi chưa biết"Hò... hớ" là nghĩa gì và cũng chưa bao giờ nghĩ đến sẽtìm hiểu "Hò......Hớ" là gì! Vậy mà Việt nhân ca bản gốcđã làm tôi kinh ngạc và "ngộ" ra rằng "Hò... hớ"là dân ca của người Việt khi gắn bó với sông hồ, với ghe, thuyền:Hò... Hớ nghĩa là "Hà "..."Hồ "

Sacramento, 12. 09

Tác giả Đỗ Thành

Người chép viết: Việt nhân ôm chèo mà ca, ca từ nói: “…. “ . Đây là bản gốc bài “Việt nhân ca”, nhưng câu chép ngắt đoạn bằng dấu phẩy không đúng: 越人拥楫而 歌,歌辞曰:‘ 滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖 。’

Đỗ Thành sửa lại cho đúng ngắt câu, Đỗ Thành viết:

《 Nay tôi xin thử phục nguyên bài ca Việt trình bạn đọc.

Xin trình bày lại và xếp theo ý tôi:

滥 兮 抃 草 滥 予

昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠

甚 州 焉 乎 秦 胥 胥

缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗 惿 随

.. 河 湖。》

[ Hoàn toàn chính xác, nhưng sẽ không thể dịch được đúng nghĩa bài ca nếu cứ theo nghĩa từng chữ Hán như từ điển mà dịch. Ví dụ chữ Xương ở bài “Việt nhân ca” chỉ là mượn âm để ghi chữ Thương, vì biểu ý của chữ Xương nghĩa là Thịnh Vượng . Chữ Xương 昌 là chữ do nhà nho đặt ra, ám chỉ Thịnh Vượng, ghép bằng hai chữ Viết 曰, chẳng tá âm “ương” nào cả, mà lại đọc là Xương. Chữ Viết 曰nghĩa là Nói , hình tượng chữ Viết 曰là cái miệng chữ khẩu 口có cặp môi là nét vạch ngang . Van=Viết=Vân=Và (tiếng Quảng Châu)=Vân Vân=Van Vỉ=Ví Von= Văng, chỉ dùng cho trường hợp “văng tục”. Nói=Na (tiếng Nhật là “ha-Na-xư”) =Nài=Năng, nên có từ đôi Nói Năng, Van Nài. Chữ Viết 曰nhỏ ở trên (ý là số ít, là kẻ trên tức quan nói), chữ Viết 曰to ở dưới ( ý là số đông, là kẻ dưới tức dân nói). Ghép hai cái Nói thành chữ Xương昌, đúng địa vị trên dưới, mà lại mang nghĩa là Thịnh Vượng thì chỉ có là trong trường hợp kẻ trên và kẻ dưới đồng thuận có lý, tức có tự do phản biện cho ra nhẽ để đạt đồng thuận có lý thì mới đạt Thịnh Vượng. Trường hợp bài “Việt nhân ca” cổ xưa này nếu cứ theo nghĩa chữ mà dịch thì khi ấy sẽ là Dịch=Diệt (như Đỗ Thành nói). Diệt nghĩa là mất đi, nhưng lý thú là trong cái mất đi ấy lại có thể phát hiện được “Dấu nét Việt”=Diệt. Nên ta thấy nhiều từ Việt cổ không còn được dùng trong Tiếng Việt nữa, lại vẫn còn dùng ở ngôn ngữ láng giềng.]

Đỗ Thành viết tiếp:

《 Ký âm tiếng Việt của bài ca được ghi lại là:

滥 兮 抃 草 滥 予

Lạm hề biện thảo lạm dư

Giải tự: Lạm=Nam=Năm, Hề=Hầy=Nầy=Này, “Biện Thảo”=Bảo, Dư=Xừ=Xưa . Giải thích: ví dụ câu trách “kém bỏ xừ !” (nghĩa là kém quá, bỏ đi, vì cách đó quá xưa rồi).

昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠

Xương hằng trạch dư xương châu châu thực

Giải tự: Xương=Sương (tiếng Hã Tĩnh)=Thương, Hoằng=Hoàng, “Trạch Dư”=Trứ=Tứ=Tó (tiếng Triều Châu)=Tả=Trá=Trở=Trái=Trổ=Tró=Chỏ (tiếng Quảng Châu)=Dó=Dối=Dủa (tiếng Bắc Kinh). Giải thích: Ở Việt có làng Kẻ Trổ, cũng có làng Kẻ Tró. “Chít khăn để Trở” tức là chit khăn tang, nó trái với chit khăn bình thường. Lật Trở cái bánh đa đang nướng tức lật Trái cái bánh đa đang nướng. “Trái Dó Trở Trời” thì sinh bệnh tức trái tự nhiên thì sinh bệnh, chứ không phải gặp gió từ bên trái. Dối Trá là nói trái sự thật. Trứ danh là tên nổi hẳn, trái với những tên bình thường. Giải tự: Châu Châu = Chiều Chiều, Thực= Xực (tiếng Quảng Châu)= Xưa

甚 州 焉 乎 秦 胥 胥

Thầm châu yên hô tần tư tư

Giải tự: Thậm=Sẫm=Sớm, Châu=Chiều, Yên=Em, “Hô Tần”=Hận, Tư Tư = Tương Tư

缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗 惿 随

Mạn dư hồ chiêu thìn tần du sâm, đề tùy hà hồ

Giải tự: Mạn=Mà, Dư=Ư=Ai, “Hô Chiêu”=Hiểu, Thìn=Thẳng=Đặng, Tần Du = Tình Duyên, Sâm=Sâu, “Đề Tùy”= Đùy=Đầy

.. 河 湖

…hà hồ 。

Giải tự: Hà=Hò, Hố=Hớ.

Như vậy, nghĩa Việt của bài ca như sau:

Năm nầy bảo nămxưa

Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

...Hò Hớ

Theo khảo cứu của tôi thì Việt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò củadân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽ là:

Hò... ... hớ...

Năm nầy bảo với năm xưa

Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa

Sớm chiều em hận tương tư

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. 》

[ Tôi xin mạn phép xếp lại cho vần:

Hò…hớ…

Năm này bảo với năm xưa

Thương hoàng tử tự chiều xưa, thương nhiều

Tương tư em hận sớm chiều

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy ]

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hò…hớ…

Năm này bảo với năm xưa

Thương hoàng tử tự chiều xưa, thương nhiều

Tương tư em hận sớm chiều

Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy ]

Hó hớ và Hò ơ là một. Việt Nhân ca trong tiếng Hán biến thể từ thơ Lục Bát. Mà trong truyền thống văn hiến Việt thì bất cứ bài lục bát nào cũng có thể dùng để hát, cụ thể ngày nay dùng để ru con. Tùy theo hoàn cảnh mà hát lục bát với nội dung thích hợp. Trên sông nước thì "Hò ơ"; ru con thì "À ơi" hoặc "Ầu ơ".....Bởi vậy, có thể nói bài hát bằng thơ lục bát chính là một thể loại nhạc của Việt tộc xưa. Cho nên có thể xác định rằng:

Việt nhân ca chính là một thể loại nhạc của Việt tộc bằng thơ Lục Bát. Cho nên bài thơ lục bát trên mới được nói đến như một thể loai nhạc đặc thù của Việt tộc, chứ không phải tính cụ thể về nội dung của bài "Việt nhân ca" này.

Thơ lục bát là một loại hình văn chương đặc thù của Việt tộc. Cái này không bị gọi là "Ảnh hương văn hóa Hán", Thơ Lục Bát bắt nguồn từ việc thuận theo quy luật tự nhiên mô tả trong Dịch lý về bát âm (Tám phương) và Lục khí ở Hậu Thiên Lạc Việt.

Trong văn hóa truyền thống Việt rất nhiều thể loại văn chương có hình thức liên quan đến Dịch Lý. Trong lịch sử kinh Dịch được mô tả cũng cho thấy các bậc tiền nhân - tất nhiên là của Việt tộc, như Phục Hy, Thần Nông.... sử dụng hình tượng quẻ Dịch để chế tạo vật dụng. Tất nhiện tiền nhân cũng căn cứ vào đó để sáng tạo ra các thể loại văn chương, nghệ thuật trong văn hóa truyền thống Việt. Ngay cả cây đán đáy cũng được nghiên cứu cho thấy các kích thước và hình thức của nó liên quan đến các độ số, biểu tượng của vũ trụ trong thuyết ADNH.

Nền văn minh thứ V đầy bí ẩn trong lịch sử văn minh nhân loại, chính là những điều đang được mô tở diễn đàn này.

6 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hó hớ và Hò ơ là một. Việt Nhân ca trong tiếng Hán biến thể từ thơ Lục Bát. Mà trong truyền thống văn hiến Việt thì bất cứ bài lục bát nào cũng có thể dùng để hát, cụ thể ngày nay dùng để ru con. Tùy theo hoàn cảnh mà hát lục bát với nội dung thích hợp. Trên sông nước thì "Hò ơ"; ru con thì "À ơi" hoặc "Ầu ơ".....Bởi vậy, có thể nói bài hát bằng thơ lục bát chính là một thể loại nhạc của Việt tộc xưa. Cho nên có thể xác định rằng:

Việt nhân ca chính là một thể loại nhạc của Việt tộc bằng thơ Lục Bát. Cho nên bài thơ lục bát trên mới được nói đến như một thể loai nhạc đặc thù của Việt tộc, chứ không phải tính cụ thể về nội dung của bài "Việt nhân ca" này.

Thơ lục bát là một loại hình văn chương đặc thù của Việt tộc. Cái này không bị gọi là "Ảnh hương văn hóa Hán", Thơ Lục Bát bắt nguồn từ việc thuận theo quy luật tự nhiên mô tả trong Dịch lý về bát âm (Tám phương) và Lục khí ở Hậu Thiên Lạc Việt.

Trong văn hóa truyền thống Việt rất nhiều thể loại văn chương có hình thức liên quan đến Dịch Lý. Trong lịch sử kinh Dịch được mô tả cũng cho thấy các bậc tiền nhân - tất nhiên là của Việt tộc, như Phục Hy, Thần Nông.... sử dụng hình tượng quẻ Dịch để chế tạo vật dụng. Tất nhiện tiền nhân cũng căn cứ vào đó để sáng tạo ra các thể loại văn chương, nghệ thuật trong văn hóa truyền thống Việt. Ngay cả cây đán đáy cũng được nghiên cứu cho thấy các kích thước và hình thức của nó liên quan đến các độ số, biểu tượng của vũ trụ trong thuyết ADNH.

Nền văn minh thứ V đầy bí ẩn trong lịch sử văn minh nhân loại, chính là những điều đang được mô tở diễn đàn này.

Điều này chứng tỏ rằng thời Hùng Vương là một thời hưng thịnh, kinh tế, văn hóa...rất phát triển. Thơ Lục bát đã có ngay từ thời đầu các Vua Hùng dựng nước.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Điều này chứng tỏ rằng thời Hùng Vương là một thời hưng thịnh, kinh tế, văn hóa...rất phát triển. Thơ Lục bát đã có ngay từ thời đầu các Vua Hùng dựng nước.

Đúng là như vậy!
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đúng là như vậy!

Theo nhóm nghiên cứu thời tiền sử của cụ Đỗ Tòng, cuốn “Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh tuyền” để ở đền Hùng, Phú Thọ, nội dung cho thấy nước Văn Lang tồn tại 2622 năm qua 18 triều đại, đều lấy họ là Hùng, tôn xưng là Lang Vương, Long Quân. (Đỗ Thành phân tích chữ Lệnh Doãn ở nước Sở chính là “Lệnh Doãn ”=Loãn=Lang=Lãnh=Lớn, là một chức Quân). Theo cuốn phả trên cho biết, dưới thời cháu của Triệu Đà là Minh Vương đã cho đem chôn 114 ấn tỷ truyền quốc của nhà Hùng, chứng tỏ nhà Hùng có 114 đời kế tiếp nhau làm vua qua 18 triều đại lớn. Tại sao đang làm vua trên đất Lĩnh Nam xưa của Hùng Vương mà lại phải đem chôn ngọc tỷ đời trước của dòng nhà Hùng? Là vì như sử ghi, nhà Tần chiếm được đất Lĩnh Nam của nhà Hùng, nhưng đến thời Tần mạt, nông dân ở Trung Nguyên nổi lên khởi nghĩa với lãnh tụ Trần Thắng, Triệu Đà thừa cơ đó lãnh đạo Lĩnh Nam giành lại độc lập cho đất Việt, lập nên Nam Việt quốc (204-111BC tồn tại 93 năm), đô ở Phiên Ngung, hoàn toàn độc lập với Tần-Tây Hán quốc, bởi vậy hai đời đầu của nhà Triệu là Triệu Đà xưng Nam Việt Vũ Đế ( 204-137 BC), con Triệu Đà thì Triệu Thủy (Triệu Trọng Thủy ?) chết khi chưa được truyền ngôi, con thứ Triệu Muội tiếp ngôi xưng Nam Việt Văn Đế ( 137-122 BC), xưng đế thể hiện độc lập hoàn toàn với Tây Hán, nhưng vẫn rất mềm mỏng trong quan hệ với nhà Hán. Lại còn cho dân chạy loạn từ Trung Nguyên di cư xuống Lĩnh Nam. Đến đời cháu Triệu Đà là Triệu Anh Tề , nhà Hán lấn lướt càng mạnh, Nam Việt trong quan hệ đối ngoại mềm mỏng chịu nhún chỉ dám xưng là Vương, nên từ đời ba đến đời năm, Nam Việt quốc chỉ có Vương, chịu làm phiên thuộc của Tây Hán. Nam Việt Minh Vương Triệu Anh Tề, như đã lường trước nguy cơ trước sức mạnh xâm lược của nhà Hán, đã cho đem chôn 114 ngọc tỷ các đời của dòng Hùng, là để bảo vệ di sản dòng Hùng khỏi tay Hán.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites