dinhmenh

Quả vải và vị thuốc lệ chi

1 bài viết trong chủ đề này

Quả vải và vị thuốc lệ chi

Posted Image

Vải là một quả ngon trong mùa hè. Về thành phần hóa học, cùi vải chứa protid, glucid, acid hữu cơ, caroten, các muối khoáng Ca, Fe, P, các vitamin B1, B2, C; đặc biệt, hàm lượng đường cao chủ yếu là glucose, saccharose. Hạt vải có 1-1,5% tanin, saponosid.Ngoài việc dùng ăn tươi, quả vải còn có tác dụng chữa bệnh từ lâu đời với tên thuốc trong y học cổ truyền là lệ chi. Các sách thuốc cổ có ghi: “Thường xuyên ăn vải sẽ bổ não, ích trí, khai vị, lợi tỳ, làm mạnh khỏe, rất tốt cho người mới ốm dậy, suy nhược, gầy yếu; dưỡng da làm đẹp nhan sắc chữa được nhiều bệnh. Cùi vải phơi khô là thuốc bổ nguyên khí, rất có lợi cho sức khỏe của người cao tuổi và phụ nữ”.

Cùi quả vải (lệ chi nhục) được dùng phổ biến dưới dạng nước giải khát với cách chế như sau: Chọn những quả vải chín đỏ, 1kg, bóc vỏ và hạt (để riêng), chú ý không làm nát cùi. Lấy 3 lít nước đã hòa tan 0,5kg đường kính và 5g acid citric, đun sôi trong khoảng 5-10 phút. Khi nước còn ấm, cho cùi vải vào rồi đựng trong lọ kín, đun cách thủy khoảng 20 phút để diệt khuẩn. Để nguội, nút kín. Khi dùng, lấy nước và cùi vải ra cốc, pha thêm nước đun sôi để nguội cho đủ ngọt để uống. Đây là loại đồ uống ngon, mát, rẻ tiền trong mùa hè với tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, bổ dưỡng, tiêu độc.

Cùi vải phơi khô 10 quả, phối hợp với đại táo 5 quả, thái nhỏ, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày là thuốc dưỡng huyết, bổ tỳ, chống tiêu chảy. Để chữa nấc, lấy cùi vải khô 7 quả, gừng tươi 6g, nấu với đường đỏ mà dùng.

Người ta cho rằng Dương Quý Phi đời nhà Đường (Trung Quốc) nhờ ăn quả vải thường xuyên mà đã trở thành một tuyệt thế mỹ nhân thời đó. Nhưng cũng có người cho rằng ăn nhiều vải sẽ phát nhiệt, rối loạn chuyển hóa đường trong cơ thể, gây chảy máu cam, sinh mụn nhọt, nhất là đối với trẻ nhỏ.

Hạt vải (lệ chi hạch) thu hoạch khi ăn cùi, đem bổ đôi, đồ qua hơi nước, rồi phơi khô để tránh bị sâu mọt. Thường dùng loại hạt to, mẩy, màu đen sáng bóng. Dược liệu có vị hơi đắng, ngọt, chát, tính ôn, có tác dụng ôn trung, lý khí, tán kết, chỉ thống chữa tinh hoàn sưng đau, đau bụng kinh, dạ dày lạnh đau, thoát vị bẹn. Liều dùng hằng ngày 3-6g dưới dạng thuốc sắc. Thường dùng phối hợp với các loại thuốc khác trong những trường hợp sau:

Chữa đau bụng khi hành kinh hoặc sau khi đẻ: Hạt vải đốt tồn tính (không để cháy thành than) 20g, hương phụ sao 40g, tán nhỏ, trộn đều, mỗi lần uống 8g với nước muối nhạt hoặc nước cơm, ngày 2-3 lần.

Chữa tinh hoàn sưng đau: Hạt vải, vỏ quýt xanh (thanh bì), quả hồi, ba thứ lượng bằng nhau, sao qua, tán nhỏ, rây bột mịn, uống mỗi lần 8g với rượu.

Chữa đau nhức răng: Hạt vải gọt vỏ ngoài, lấy nhân, sấy khô, tán bột, rây mịn. Khi dùng, chấm thuốc vào chỗ răng đau làm nhiều lần trong ngày.

Chữa đau dạ dày, viêm ruột: Hạt vải 3g, mộc hương 2g, nghiền thành bột, uống với nước nguội, chia uống 3 lần/ngày.

Chữa sôi bụng, đau quặn, tiêu chảy: Hạt vải (gọt vỏ, lấy nhân) 100g hoắc hương 100g, vỏ rụt 100g, trần bì 80g, hương phụ 70g, sa nhân 50g, vỏ vối 20g. Tất cả thái nhỏ, sao khô, tán rây thành bột mịn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 12g hãm với nước sôi, rồi chắt lấy nước trong uống.

Chú ý: Người bị chứng hàn thấp, khí trệ không được dùng.

DS. Đỗ Huy Bích

Báo SK&ĐS

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay