Thiên Đồng

Tăng Hội Là Sơ Tổ Thiền Tông

1 bài viết trong chủ đề này

Chúng ta đang thờ vị Sơ tổ Phật giáo nào?

(TuanVNN)- Thiền sư Thích Nhất Hạnh có những nghiên cứu riêng chỉ ra rằng, Việt Nam có vị Thiền sư Tăng Hội, lớn hơn cả Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma - người mà chúng ta đang thờ là Sơ tổ Phật giáo - tới 300 tuổi.

Nội dung này nằm trong bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Hà Nội, ngày 18/1/2005 - "Lịch sử của Phật giáo ngày nay dưới cái nhìn tương tức".

Chúng ta biết rằng vào thượng bán thế kỉ thứ 3 tại Giao Châu có Thiền sư Tăng Hội, cha là người Khương Cư, mẹ là người Việt Nam. Ngài xuất gia năm 10 tuổi, trở thành cao tăng, mở đạo tràng tu tập ở Luy Lâu, Bắc Ninh, thiết lập một trung tâm dịch thuật và sáng tác ở đó và tịch vào tháng 9 năm 280.


Posted Image


Thiền sư Tăng Hội đã sử dụng những kinh bản nguyên thủy như kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Bốn Niệm Xứ để thực tập thiền. Trong khi đó, Thiền sư sử dụng con mắt Đại Thừa để thực tập.

Vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3, Thiền sư Tăng Hội mà chúng ta đang công nhận và vị Sư tổ của Thiền Tông Việt Nam đã rời đất nước chúng ta sang nước Ngô để truyền đạo. Cao Tăng Truyện nói rất rõ ràng là khi thầy Tăng Hội đi sang nước Ngô thì bên đó chưa có tăng sĩ Phật giáo. Chính Thiền sư Tăng Hội đã tổ chức đàn truyền giới đầu tiên cho những người Ngô trở thành những vị xuất gia đầu tiên. Ngôi chùa mà thầy Tăng Hội thành lập có tên chùa Kiến Sơ - ngôi chùa đầu tiên.

Bài tựa kinh An Ban Thủ Ý do Thiền sư Tăng Hội đã viết tại Việt Nam, trong đó nói Lạc Dương như là kinh đô. Lúc đó chưa chia ra làm tam quốc. (Nếu đã chia tam quốc thì kinh đô là Bành Thành). Trong bài tựa An Ban Thủ Ý, chúng ta tìm ra được sự thật là bài tựa kinh Quán Niệm Hơi Thở được viết tại Giao Châu.



Posted Image

Thiền sư Thích Nhất Hạnh diễn thuyết trong Đại lễ Vesak
Ảnh: langmai.org

Sau khi đã tiếp xúc với truyền thống Phật giáo phương Nam, chúng tôi vẫn tiếp tục giảng dạy và xiển dương Thiền học Việt Nam theo đúng tinh thần của Tăng Hội.

Nghĩa là căn cứ và thiền kinh của Nam tông mà giảng dạy theo tinh thần thực tập rộng rãi và phóng khoáng của Bắc tông. Nếu quý vị có tới Làng Mai để tu tập, sẽ thấy rằng pháp môn của Làng Mai nối tiếp một cách rất trung thực và kì diệu với truyền thống của Thiền sư Tăng Hội. Thiền sư Việt Nam và Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma - Sơ tổ Thiền tông Trung Quốc tới 300 năm. Như vậy trong các chùa của chúng ta, theo nguyên tắc thì phải thờ Thiền sư Tăng Hội làm Thiền tổ Việt Nam, chứ không phải Thiền sư Bồ Đề Lạt Ma. Nếu quý vị là nhà học giả, nhà văn, hay họa sĩ thì phải vẽ ra hình ảnh của Tổ sư Thiền đầu tiên của chúng ta là Thiền sư Tăng Hội.

Chúng tôi đã viết cuốn "Thiền sư Tăng Hội" và cuốn này đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng. Giới Phật tử lâu nay thường theo Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, chưa phản ứng vì họ thấy rất lúng túng, lâu nay đã lỡ tin Bồ Đề Lạt Ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Quốc và Việt Nam rồi. Bây giờ lại nghe nói Thiền sư Tăng Hội lớn hơn Tổ Đạt Ma tới ba trăm tuổi, chính là người đầu tiên giảng dạy Thiền học tại Việt Nam và Trung Quốc thì điều đó chưa chấp nhận được.

Thiền sư Tăng Hội rất uyên bác về Lão giáo, Khổng giáo và Phật học cho nên đã thuyết phục được vua Ngô Tôn Quyền yểm trợ xây ngôi chùa đầu tiên tại nước Ngô.

Sau đó thì Tôn Hạo tiếp nối Tôn Quyền, nghe lời một số cộng sự làm khó dễ, nhưng cuối cùng đã được thầy Tăng Hội thuyết phục và vua đã thọ Tam quy Ngũ giới với thầy.

Chúng ta thấy khả năng hóa độ của thấy Tăng Hội rất lớn. Thầy không chỉ là Tổ Sư Phật giáo Thiền Việt Nam mà phải được cọi như Tổ Sư Phật giáo đầu tiên ở tại Trung Quốc. Chúng tôi mong rằng cuốn "Thiền Sư Tăng Hội" đó, đã được dịch sang tiếng Anh, sẽ được dịch ra tiếng Trung Quốc một ngày rất gần.


  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tăng Hội Là Sơ Tổ Thiền Tông

Tổ Tăng Hội không phải chỉ là thiền tổ tại Việt Nam tại vì ngài đã qua Trung Quốc để dạy thiền vào giữa thế kỷ thứ III và vì vậy ngài cũng là thiền tổ Trung Hoa. Lâu nay trong học giới ít ai nói nhiều về thầy Tăng Hội và nếu có thì cũng không nói về tư tưởng thiền và sự thực tập thiền của thầy. Cho nên quý vị có thể viết những bài ngắn, một trang, hai trang, năm trang, mười trang hay hai mươi trang về giáo lý và thiền tập của thầy Tăng Hội để đăng trong những tờ báo Phật giáo ở Âu Châu hay là ở Mỹ Châu. Các vị nào có tài hội họa hay điêu khắc thì xin nghĩ đến chuyện tạc tượng thiền sư Tăng Hội. Chúng ta chỉ mới có một tượng Tăng Hội của họa sĩ Hiếu Đệ vẽ thôi. Tượng đó cũng chưa được toàn hảo. Chúng ta có thể vẽ thêm hàng chục bức khác hoặc hàng trăm bức khác và có thể tạc thêm nhiều tượng để cho quần chúng Phật tử chọn lựa. Hy vọng sau này chúng ta có một tượng Tăng Hội rất hào hùng để thờ trong các thiền viện. Thầy Tăng Hội lớn hơn thầy Bồ Đề Đạt Ma đến mấy trăm tuổi. Thầy Bồ Đề Đạt Ma không để lại giáo lý trên những văn bản. Giáo lý của thầy Bồ Đề Đạt Ma chỉ được kể lại vắn tắt bởi một số các đệ tử. Còn thầy Tăng Hội đã để lại giáo lý của thầy trên giấy trắng mực đen. Nếu quý vị muốn nghiên cứu về thiền Việt Nam thì phải đọc cho được tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh. Uyển tức là khu vườn. Anh tức là những tinh hoa. Tập là sự gom góp lại. Nghĩa là gom góp lại những bông hoa đẹp nhất trong vườn thiền. The most beautiful flowers in the garden of Dhyana in Vietnam. Trong cuốn này các tác giả có ghi chép lại tên, sự nghiệp và tư tưởng của các thiền sư Việt Nam thuộc về ba tông phái thiền: phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), phái Vô Ngôn Thông và phái Thảo Đường. Theo sách này, tại Việt Nam đã có một thiền phái do thiền sư Tăng Hội thành lập. Thiền phái này được truyền thừa mãi tới đời Trần mới bắt đầu hòa nhập với các thiền phái khác để thành thiền phái Trúc Lâm. Người đại diện cho thiền phái Tăng Hội ở đời Lý là thiền sư Lôi Hà Trạch. Năm 1090, có một vị hoàng thái hậu đời Lý tên là Phù Cảm Linh Nhân đã mời các thầy ở thủ đô vào trong cung vua để cúng dường. Sau khi các thầy đã thọ trai, hoàng hậu đứng lên và tham vấn: "Bạch các thầy, trong số các vị cao đức ở đây có ai biết rõ về nguồn gốc của đạo Bụt Việt Nam hay không ?" Giáo điển, sách vở nói về đạo Bụt ở Ấn Độ và ở Trung Quốc thì rất nhiều nhưng những tài liệu về khởi nguyên đạo Bụt Việt Nam thì ít, do đó hoàng thái hậu mới hỏi như thế. Trong số các vị thượng tọa có mặt buổi ấy, có một thầy là thiền sư Trí Không. Thầy Trí Không đã lên tiếng nói về nguồn gốc của Phật giáo Việt Nam. Thầy có nói tới Mâu Bác của thế kỷ thứ II và Khương Tăng Hội của thế kỷ thứ IIỊ Thầy cũng nói tới thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi và thầy Pháp Hiền. Thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi là một thầy người Ấn Độ, đã từng đi ngang qua Trung Quốc và đã từng gặp được tổ thứ ba của thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán. Thầy Tăng Xán nói: "Ở đây không yên ổn, thầy nên về Giao Châu mà ở." Giao Châu hồi đó có an ninh hơn. Thầy Trí Không nói rằng Mâu Bác và Khương Tăng Hội thuộc về Giáo Tông, còn Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Pháp Hiền thì thuộc về Thiền Tông. Nên nhớ rằng câu chuyện tham vấn này đã xảy ra vào đầu thế kỷ thứ XỊ Tại Việt Nam lúc bấy giờ ta đã chịu ảnh hưởng về ý niệm nguồn gốc thiền học của Trung Hoa rồi. Vì vậy thầy Trí Không không thấy thầy Tăng Hội là một vị thiền tổ mà chỉ xem thầy là một vị giáo tổ. Thiền tông bên Trung Quốc nhấn mạnh tới nguyên tắc bất lập văn tự, nghĩa là không căn cứ trên văn chương chữ nghĩa. Họ bắt đầu coi những lời chỉ dẫn của chư tổ đôi khi còn quan trọng hơn lời dạy của Bụt nữa. Đó là những hạt giống sau này đưa tới tư tưởng thiền tổ sư. Trong suốt lịch sử của thiền học, người ta có khuynh hướng xem thiền khác với giáo. Giáo tức là có học hỏi kinh điển đàng hoàng. Còn thiền thì không cần học hỏi kinh điển. Thầy mình bảo mình ngồi thì mình ngồi, bảo mình thở thì mình thở, chớ không cần học hỏi kinh điển, kể cả kinh An Ban Thủ Ý. Tuy người ta nói vậy, nhưng người ta cũng nói rằng thầy Bồ Đề Đạt Ma đã trao lại cho tổ Huệ Khả một cuốn kinh. Đó là kinh Lăng Già, trong đó có tư tưởng Như Lai Tạng. Thành ra nói rằng thiền hoàn toàn bất lập văn tự là không đúng. Và nói rằng giáo tông chỉ học tập kinh điển mà không thực tập thiền cũng không đúng. Trong lịch sử thiền có những vị thiền sư chủ trương thiền giáo nhất trí, tức là thiền và giáo là một. Chúng ta thấy thiền của tổ Tăng Hội đi theo con đường đó. Thực tập thiền nhưng vẫn sử dụng giáo lý và kinh điển. Có nhiều người đi quá đà, nói rằng không cần học gì hết, không cần xem kinh gì hết, chỉ cần ngồi thiền thôi là được. Thầy Trí Không đã liệt Mâu Bác vào Giáo tông và liệt thầy Tỳ Ni Đa Lưu Chi và thầy Pháp Hiền vào Thiền tông. Do đó chúng ta thấy rằng thầy Trí Không đã bị ảnh hưởng suy tư của Trung Quốc. Trong khi trình bày với hoàng thái hậu, thầy Trí Không còn nói: "Có một hôm vua Tùy Văn Đế ở bên Tàu - vua là một người rất sùng thượng đạo Bụt, đã yểm trợ cho sự thành lập nhiều ngôi chùa ở tại Trung Hoa và yểm trợ cho các tăng đoàn hành đạo - nói với một vị pháp sư tên là Đàm Thiên là vua muốn gởi một phái đoàn đem đạo Bụt về Giao Châu để hoằng dương chánh pháp tại vùng đất xa xôi đó." Câu chuyện Đàm Thiên và vua Tùy Văn Đế xảy ra vào thế kỷ thứ VỊ Thầy Đàm Thiên nói: "Tâu Bệ Hạ, hồi mà nước ta chưa có Phật giáo gì hết, thì bên Giao Châu Phật giáo đã thành hình rồi. Hồi mà ta chưa có tăng sĩ thì bên đó đã có tăng sĩ rồi. Hồi mà ta chưa có kinh điển thì bên đó đã có kinh điển rồi. Hồi ấy, tại Giao Châu đã có khoảng năm trăm vị xuất gia và có khoảng mười lăm cuốn kinh đã được phiên dịch ra từ tiếng Phạn." Đó là câu chuyện mà thầy Trí Không đã trích dẫn và báo cáo lên hoàng thái hậu Nguyên Thánh. Thầy Trí Không là một sử gia. Thầy đọc sách rất nhiều. Trong số các thầy được mời vào cung, thầy là người ứng đối lưu loát nhất cho nên hoàng thái hậu mới tâu vua để ban cho thầy đạo hiệu Thông Biện Quốc Sư, một vị đại đức có biện tài thông suốt. Thầy Thông Biện có ghi chép lại một số dữ kiện về lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Những tài liệu đó đã được truyền xuống cho những thiền sư khác là Thường Chiếu, Thần Nghi và Ẩn Không. Tất cả những tài liệu này chúng ta thấy trong tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh. Sách Thiền Uyển Tập Anh có thể bắt đầu do thầy Trí Không biên tập, rồi truyền xuống cho thầy Thường Chiếu, thầy Thường Chiếu thêm thắt vào cho đầy đủ. Thầy Thường Chiếu truyền cho thầy Thần Nghi. Thầy Thần Nghi truyền cho thầy Ẩn Không. Rốt cuộc thì chúng ta có sách Thiền Uyển Tập Anh. Sách hoàn thành vào cuối đời Lý.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay