Thiên Đồng

Đình Làng Việt Nam

3 bài viết trong chủ đề này

ĐÌNH LÀNG – GƯƠNG MẶT KIẾN TRÚC CỔ VIỆT NAM

Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Như là một ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, đình được dùng làm nơi thờ Thành Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng) và họp việc làng. Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn, to, thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Vào mỗi dịp lễ, Tết, đình trở thành trung tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.



Posted Image

Đình Đồng Kỵ ( Bắc Ninh)

Về mặt tạo hình, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, đình làng là gương mặt của nền kiến trúc Việt cổ. Nó không chỉ là công trình oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc bởi ít phải chịu ảnh hưởng của kiến trúc ngoại sinh. Đặc biệt, qua một thời gian dài nghiên cứu, chắt lọc, người ta còn phát hiện từ đình làng một kho tàng những tác phẩm điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam mà sự khéo léo, tài tình của những người thợ được thể hiện trên từng nét vẽ, chạm khắc. Xét trên mặt bằng tổng thể, trước đình làng luôn là ao đình (tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều hàng cây cổ thụ. Đây là hai yếu tố quan trọng trước tiên tạo nên diện mạo đình làng mà các kiến trúc gia nước ngoài thường gọi là “nền kiến trúc họa cảnh”. Tòa đình chính (đại đình) thường là một căn nhà lớn lợp ngói mũi kiểu bốn mái xòe rộng ra ôm lấy đất. Thế nhưng, bốn tàu mái cao rộng đó không trở nên nặng nề nhờ bốn góc có bốn tầu đao cong vút như nâng các tàu mái bay bổng. Kiểu mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc truyền thống Việt Nam, khác hẳn với kiểu tàu hộp hay giả tàu của nền kiến trúc Trung Hoa mà ta thường thấy trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế.



Posted Image

Đình làng Vị Thượng (Phủ Lý - Hà Nam)

Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt. Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê.

Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ phương Đông, dựa trên sự liên kết của các bộ vì. Sức nặng của tòa nhà do cột trong vì đảm nhiệm nên khi ấy, tường nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ ngăn che nắng mưa, gió bão. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc đình làng Việt cổ là một không gian mở, mỗi khi làng có việc, cửa bích bàn bốn mặt đình được dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình càng trở nên thông thoáng.

Posted Image

Một góc đình Đại Bái (Bắc Ninh)

Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu.

Cột trong nền kiến trúc cổ Việt Nam đều được làm bằng gỗ nguyên cây, không có cột nối, không sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác nhau: kèo lẻ, con rường hoặc kết hợp của hai loại liên kết trên (thượng rường - hạ kẻ). Kiến trúc đình Việt Nam trước thời Nguyễn thường chỉ sử dụng hai kiểu liên kết: kèo lẻ và trên rường - dưới kẻ. Tuy nhiên, kiểu liên kết cổ nhất là kèo lẻ - một kiểu liên kết ta không thấy trong nền kiến trúc Trung Hoa.



Posted Image

Đình làng Khinh Giao (An Dương - Hải Phòng)

Ở đình làng, chúng ta rất dễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều được chạm khắc trang trí. Ngoài các hình rồng, phượng, hoa lá, ta thường gặp trong nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng hình ảnh những ngày hội làng, những khung cảnh lao động nhọc nhằn hay bức vẽ thể hiện tình yêu mẹ con, chồng vợ và cả những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho các thế hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng xã thời xưa, đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc cổ Việt Nam – một bản sắc văn hóa và lịch sử sâu sắc nhất.

Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên.

Cuộc Sống Việt

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Di tích lịch sử văn hóa Đình Sen xuống cấp trầm trọng


(Dân trí) - Trưa vắng, bước chân vào khuôn viên di tích lịch sử này, chỉ nghe tiếng gió thổi lao xao trên những ngọn cây. Anh cán bộ văn hóa xã lặng lẽ mở cửa các căn phòng, như thể sợ làm phá tan cái không gian tĩnh lặng vốn có ở nơi đây.




Posted Image
Không gian trống vắng của ngôi đình

Nằm gần bên bờ sông Con và chợ Sen xưa nổi tiếng, đình Sen là di tích lịch sử thuộc làng Sen, ở xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Theo giáo sư Ninh Viết Giao trong cuốn “Tân Kỳ truyền thống và làng xã” thì đình Sen là ngôi đình lớn nhất, có ý nghĩa về mặt kiến trúc vào loại hiếm so với tất cả các đình làng ven sông Hiếu còn lưu giữ cho đến nay. Đình Sen xây dựng năm 1926 (Bính Dần), dân làng tự chặt gỗ, tự nung gạch ngói để xây nên ngôi đình này. Đây là nơi thường diễn ra các buổi sinh hoạt văn hóa làng xã đặc sắc của trong những ngày hội: hát đối dân ca, hò, ví…rồi những trò chơi như đánh vật, cờ người, tổ tôm…

Trong những năm 1930 - 1931, đây là nơi làm lễ tổ chức thành lập Phủ ủy Qùy Châu để hưởng ứng mạnh mẽ cao trào cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Đình Sen đã có 7 đêm diễn thuyết, rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm kêu gọi quần chúng lao khổ vùng lên đấu tranh chống thực dân và phong kiến.



Posted Image
Cán bộ văn hóa xã ôm những cột đình mà xót xa.

Trước tình thế đó, lo sợ cao trào cách mạng diễn ra rộng, địch đã huy động nhiều lực lượng phá hoại phong trào. Chúng bắt ba đồng chí: Nguyễn Linh, Lê Thạch và Lê Nguyệt, là cán bộ ở miền xuôi lên xây dựng cơ sở cách mạng tại vùng này. Để bắt các đồng chí khai báo, chúng đã dùng các nhục hình để tra tấn dã man các đồng chí, nhưng chẳng ai hé một lời. Ngày 13/7/1931, địch giải ba đồng chí về Đình Sen để xử bắn, hòng uy hiếp tinh thần của người dân. Súng giặc nổ, máu đào của ba đồng chí kiên trung đã nhuộm đỏ đất làng Sen. Năm 1945, đây còn là địa điểm của quần chúng nhân dân tập hợp đi biểu tình cướp chính quyền trên toàn huyện.

Không chỉ mang ý nghĩa to lớn về truyền thống văn hóa của địa phương. Di tích này còn ghi lại tinh thần đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường của nhân dân Nghệ Tĩnh.


Posted Image
Đền thờ chính điện vắng khói hương.

Thế nhưng, trong những năm gần đây, khi đến với địa chỉ văn hóa này, nhiều người không khỏi chạnh lòng. Qua nhiều lần di dời do hoàn cảnh chiến tranh nên mái ngói vây cũ đã thay bằng ngói khác, những mảng tường của đình đã hằn vết rạn nứt và rêu bám phủ dày. Các văng kèo xà cột đang bị mối mọt ăn mòn dần, mùi ẩm mốc bay lên nồng nặc. Ngay cả tấm bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa, nay cũng đã hoen ố cùng thời gian. Trong khuôn viên di tích, cỏ mọc đầy sân nhưng cũng chẳng có người quét dọn.

Khi chúng tôi viết bài báo này, chính quyền và nhân dân xã Nghĩa Đồng đang lên kế hoạch kêu gọi trùng tu và tôn tạo cụm di tích Đình Sen. Sở dĩ, một thời gian dài di tích văn hóa này bị lãng quên là do nguồn kinh phí quá hạn hẹp và một phần do còn vướng mắc về cơ chế quản lý các di tích văn hóa hiện nay. Điều quan trọng là việc trùng tu, tôn tạo di tích là việc làm cần sớm được tiến hành nhằm trả lại những giá trị vốn có của di tích lịch sử văn hóa này.

Nguyễn Duy - Tiến Thành

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đình Ngọc Canh

Cách đình Hương Canh chừng 200m, được khởi dựng thời Hậu Lê (thế kỷ XVII), đình Ngọc Canh có kiểu thức kiến trúc tương tự đình Hương Canh, rất đồ sộ, cột lớn kết cấu vững chãi. Hiện đình còn nguyên 3 toà kiến trúc bố cục như hình chữ “vương”, tiền tế 5 gian dài 20m, rộng 7,10m; đại đình 5 gian 2 dĩ dài 24m, rộng 15,50m; hậu cung 5 gian dài 10m, rộng 7,30m.

Posted Image

Posted Image

Về nghệ thuật chạm khắc, đình Ngọc Canh cũng có những bức chạm giống đình Hương Canh như: “đấu vật”, “bơi chải”, “đi săn về” hay những hình rồng phượng, con giống... Tuy nhiên nội dung và nghệ thuật chạm trổ ở đây có những điểm khác với đình Hương Canh. Nếu như ở đình Hương Canh tả nhiều về ngày hội làng, những trò chơi đông người tạo nên không khí vui nhộn thì ở đình Ngọc Canh lại thiên về tả cảnh lao động, những thú vui hàng ngày trong nông thôn. Nếu chạm trổ ở đình Hương Canh đẹp trong không khí nhộn nhịp vui tươi thì chạm trổ ở đình Ngọc Canh đẹp trong không gian trầm lắng, suy tư liên tưởng trước thực tế cuộc sống của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ 17, như các bức chạm: “dựng cột buồm”, “uống rượu”, “chơi cờ”, “đến hát nhà quan”. Với lối bố cục chặt chẽ, hài hoà, đường nét phóng khoáng tự do, chú ý khắc hoạ từng chi tiết thể hiện rõ tình cảm, cá tính của từng nhân vật trong bức chạm để rồi có một tác phẩm hoàn hảo, mang nội dung tư tưởng sâu sắc, thể hiện cao độ đề tài định trước. Đó là những thành công nổi bật trong chạm gỗ ở đình Ngọc Canh.

Posted Image


Đình Ngọc Canh, cũng như Hương Canh, Tiên Canh, mỗi đình thuộc một làng, cùng thờ chung 6 vị thành hoàng: Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - con trai cả của Ngô Quyền, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền, Linh Quang Thái Hậu Dương Thị Như Ngọc - vợ Ngô Quyền, A Lữ nương nương Dương Phương Lan - vợ thứ Ngô Quyền, Thị Tùng phu nhân Phạm Thị Uy Duyên - vợ Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, Đông Ngạc đại thần Đỗ Cảnh Thạc - tướng và là cháu ngoại Ngô Quyền.

Posted Image

"Cửa võng" thế kỷ XIX

Đình Ngọc Canh và các di tích thuộc thị trấn Hương Canh đã và đang được Nhà nước quan tâm lập dự án trùng tu tôn tạo nhằm bảo quản, gìn giữ kiến trúc cổ truyền và các tác phẩm điêu khắc dân gian cũng như việc khôi phục những sinh hoạt hội hè, phát huy giá trị vật thể và phi vật thể của di tích trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay

V.H

http://www.vhttdlvin...ichlsvanhoa&p=2

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay