Posted 25 Tháng 8, 2012 Chỉ có người Việt, Tiếng Việt mới gọi xứ sở của mình là Đất Nước. Người Việt vẽ ra cái bầu biểu tượng Âm Dương khái quát sự hình thành Vũ Trụ, cũng như Đất Nước, cũng như Con Người. Mỗi con người cũng là một tiểu vũ trụ. Trong cái bầu ấy là hình vẽ hai con Nòng Nọc xoắn xuýt nhau. Từ Nòng-Nọc là một từ dính, bởi nó là do QT Nở mà sinh ra từ một cái Nòi tức là từ cái NÔI khái niệm, khi đang trong quá trình tách đôi ở trong bọc thì nó đang là từ dính Nòng-Nọc, vậy Nòng-Nọc là chỉ một con, gọi là con Nòng-Nọc, một con thì trong cấu tạo của nó cũng đã là có hai phần Âm Dương cân bằng, chỉ khi tách hẳn thì mới thành hai con là thành con Nòng (con Đực) và con Nọc (con Cái). Tương quan giữa Đất và Nước cũng giống như tương quan giữa Dương và Âm. Con Nòng-Nọc là nói chung, khi nó chưa ra khỏi bầu nước, khi đứt đuôi nhảy ra khỏi bầu nước thì rõ ràng thành con Cóc Đực và con Cóc Cái. Nhưng về mặt ngôn từ thì từ Nòng Nọc cũng lại là từ nguyên của từ Đất Nước: Đất là nơi ở của con người, nơi con người đậu đến đó, đỗ đến đó, Đất là Chỗ=Chỉ (địa chỉ) của con người. Con chó trước khi nằm nó còn quay thân một vòng tròn xác định cái chỗ nằm của nó rồi mới đặt thân nó nằm xuống, đó là đất ở của nó, cũng như cái ổ. Vì vậy ngôn từ “đất” bắt đầu từ chữ O tròn (chữ O cũng là cái lõi của NÔI), đúng với câu “Mẹ Tròn Con Vuông”, Tròn là dương, có đầu tiên để sinh ra mọi thứ. Nôi khái niệm của “Đất” là trong từ NÒNG, như sau: Đất=Đậu=Âu=Ấp=O=Ở=Ư=Khư=Khu=U=Vu=Ụ=Ổ=Tổ=Thổ=Đỗ=Địa=Đai=Đồng=Nông=NÒNG=Nà=Nương=Ruộng=Vuông=Văn=Vườn=Vùng=Lũng=Lộ=Lục=Lang=Làng=Long=Vòng=Vàng=Hoàng=Hồng=Vồng=Giồng=Rồng=Động=Đàng=Đường=Đê=Đất. (“Nà” tiếng Tày nghĩa là Ruộng. Ở Vân Nam có vùng của người Thái là vùng Xịp Xoong Bản Nà tức Thập Song Bản Ruộng, xưa có mười hai bản làm ruộng lúa nước). Những từ đôi Đồng Đất, Ruộng Đất, Ruộng Nương, Ruộng Vườn, Thổ Địa, Đất Đai, Đàng Lộ , Đường Đê, Lục Địa là ý nói nhiều đất. Thần Long Đỗ cũng hiểu là Thần nhiều đất như là Thần Thổ Địa. Nôi khái niệm của “Nước” là trong từ NỌC, như sau: Nước=Nặm=Nậm=NỌC=Nôi=Nác=Đác=Đầy=Đế=Đức=Tức=Túc=Té=Tế=Lễ=Lã=Lọc==Lạc=Nác=Nước. Những từ đôi Nước Nôi, Nước Đầy, Tức Nước, Nước Lã, Nước Lọc đều chỉ ý nhiều nước. Dẫn hai nôi khái niệm trên thì thấy rõ là từ dính Âm-Dương như từ Nòng-Nọc thì Nòng ở nôi Đất, Nọc ở nôi Nước. Từ dính Nòng-Nọc cũng tương tự như từ dính Hoàng-Đế , như từ dính Đất-Nước hay như từ dính Long-Lạc.Khi tách hẳn ra không dính ở từ dính nữa thì có những cặp từ đối như Âm/Dương, Trời /Đất, Đất/Nước, Nòng/Nọc. Ở tương quanTrời/Đất thì Đất là Âm, nhưng ở tương quan Đất/Nước thì Đất là dương so với Nước là âm (cũng thường thay bằng cặp Non/Sông). Nhưng cái bầu biểu tượng Âm-Dương ấy người Việt gọi là Con Nòng-Nọc, đương nhiên sẽ tương tự như Con Đất-Nước hay Con Long-Lạc. Mà Con ở đây là thay cho cái gọi là Từ trong ngôn ngữ, vì Con=Quân=Quan=Kẻ=Cu=Tu=Tử=Tế=Tố=Từ, một Con chữ như một cái Tế, khi cất tiếng lên thì nó là một cái Tố, nó có ý nghĩa nên nó gọi là một Từ. Con Đất-Nước = Con Nòng-Nọc =Con Long-Lạc. Nhưng Con=Quan=Quân, nên Con Long Lạc = Quân Long Lạc. Đó là khi viết bằng chữ Khoa Đẩu , viết và đọc từ trái sang phải, là Quân Long Lạc. Còn đến khi phát triển lên viết bằng “vuông Chữ Nho nhỏ”, gọi vo theo cái lõi, tức gọi theo kiểu chọn lấy “Giữa Chỗ” tức kiểu “Giao Chỉ” thì còn cái lõi là Chữ Nho , thì khi đó phải đọc từ phải sang trái theo qui định mà các nhà nho bày đặt ra (dù viết một chữ vuông thì các nét viết theo chiều từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, nhưng xếp chữ trên bức hoành phi thì xếp từ phái sang trái nên phải đọc câu là từ phải sang trái. Còn sách thì viết theo dòng dọc, xếp dòng từ phải sang trái nên lật trang sách cũng lật ngược về bên phải), nên phải đọc từ phải sang trái là Lạc Long Quân. Hàng nghìn năm dùng chữ nho, không dùng chữ Khoa Đẩu nữa nên người ta quên hẳn Con Long Lạc, mà chỉ nhớ Lạc Long Quân, để bây giờ viết bằng chữ Quốc Ngữ thì viết từ trái sang phải là Lạc Long Quân. Nhưng cứ thử đọc ba chữ đó bằng từ phải sang trái thì lại là Quân Long Lạc = Con Long Lạc (= Con Nòng Nọc). Đây cũng giống như người ta đọc câu đầu tiên của bài đầu tiên trong nguyên bản của Thi Kinh là câu “quan quan Thư Cưu” thì không hiểu nó là ý gì, phải khổ công tìm các sách xưa từng “chú giải” để mới có thể dịch nổi hay chứng minh nổi nó nghĩa gì. Bởi lẽ “quan quan Thư Cưu” nó là cái âm Việt, là “con con Cù Cu”, “quan quan = con con” bởi chúng là hai con đang đứng cặp kè với nhau, “Thư Cưu = Cù Cu” bởi chúng là nòi chim Cù Cu (gọi chung bằng từ dính Cù-Cu giống như từ dính Nòng-Nọc của nòi cóc), mà trong cái tên chung nòi chim đó thì con Cù là con Mái, vì Cù=Thú=Thư=Nữ=Nái=Cái=Mái=Mợ=Vợ ( Thú là Hôn Thú). Còn con Cu là con Trống, vì Cu=Cặc=Cộc=Chốc=Trốc=Trống=Chồng=Hồng=Hùng (Tiếng Việt “Chốc” là nằm trên, “Trốc” là cái đầu, cũng là kẻ dẫn đầu trong nhà, “Trước Ốc” = Trốc). Loài Chim đơn giản thế mà lại chính là loài gợi ý cho con người biết dệt vải mặc từ cách đan tổ của nó: Chim=Chức=Dực=Dày=Dầy=Dải=Vải=Váy=May. Con người biết Tổ Chức cũng do con Chim biết phân công khi bay cùng bầy hay khi ấp trứng mà gợi ý cho (nên trống đồng mới có nhiều hình chim). Do cái mỏ con Chim là cái công cụ lao động của nó như cái Kìm để mổ và gắp nên người Việt mới biết làm đôi đũa, và có nôi khái niệm ngôn từ là Chim=Kìm=Cầm=Châm=Đâm=Điểu. Hán ngữ có từ “Gia Cầm” chứ không có từ “Gia Điểu” trong khi họ gọi Chim là Điểu, chứng tỏ thuần dưỡng gà vịt là nghề của người Việt đầu tiên chứ không phải của người Hán du mục từ phương Bắc dạy cho mới biết. Từ cái tên gọi nòi chim gần gũi quanh vườn nhà của người Việt là Cù-Cu, mà tính cách của chúng tiêu biểu cho tình yêu chung thủy một vợ một chồng như trong bài “Thư Cưu” của Thi Kinh (Thơ của người Kinh) mà có được các từ nho nhã đẹp đẽ là từ “Anh Thư”, “Anh Hùng” và các từ văn học như “một phen Trống Mái”, “một trận Thư Hùng”. Con Nòng Nọc = Con Long Lạc = Quân Long Lạc là Lạc Long Quân. Bởi vậy người Việt nghe đến Lạc Long Quân thì hiểu ngay đó là Tổ của Đất Nước, và trên ban thờ luôn có hình cái bầu biểu tượng Âm Dương. Ý nghĩa của biểu tượng ấy (ngoài các ý nghĩa vũ trụ cao siêu khác) cũng còn đơn giản là Con Nòng Nọc (= Con Đất Nước = Con Long Lạc) = Lạc Long Quân. Lạc Long Quân là Tổ của Đất Nước. Đất Nước ấy là do người Kinh tạo lập nên, cho nên bố của Lạc Long Quân là Kinh Dương Vương (đọc từ phải sang trái là Vương Dương Kinh = Vua Việt Kinh, ý nghĩa là: Vua của Bách Việt là người Kinh. Dương=Duôn= Duê = Duyệt = Nguyệt = Việt = =Liệt = Nhiệt = Nhật. Chữ Nhật 日 và chữ Nguyệt 月 ghép lại như từ dính Nhật-Nguyệt 明, tương tự Đất-Nước, tương tự Nòng –Nọc. Lướt thì “Nhật Nguyệt” = Nhiệt = Liệt = Việt. Mà tiếng đọc và ý nghĩa của từ dính 明 Nhật-Nguyệt đó là là chữ Minh明. Kinh Dương Vương = Đế Minh. Đế Minh cho một con là Đế Nghi đi làm vua đầu tiên của nước Sở). Đó chính là nội dung của sự thật lịch sử được hình tượng hóa bằng truyền thuyết Trăm Trứng : Cha và Mẹ đem trăm con đi các vùng, lập nên Bách Việt. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 8, 2012 Hay quá. Biểu tượng âm dương chính là hai con nòng nọc, nảy sinh từ Nước. Hồng Bàng: Hồng tiếng Hán là nhiều nước, Bàng là tổ tức là tổ nước. Vấn đề ngôn ngữ này không biết có đúng không? Kính. Share this post Link to post Share on other sites