Posted 23 Tháng 8, 2012 Người Việt định cư ven các dòng sông để làm ruộng “Lạc” tức ruộng “nước” trồng lúa, nên gọi xứ sở mình là Nước. Nam Việt 南 粤(thời Triệu Đà) chẳng qua là viết bằng chữ nho, nên phải đọc là Nam Việt 南 粤 (theo phát âm của tiếng Kinh hoặc phát âm của “cổ Hán ngữ”), còn nghĩa đen của nó là Nước Việt , vì Nước = Nặm = Nam (“nước” là người Kinh nói, “nặm” là người Tày nói, “nam” là người Thái Lan nói). Nam Việt = Nặm Việt = =Nước Việt, của các tộc người Bách Việt. Người Việt chỉ cần nhìn chữ Nam Việt 南 粤 mà đọc là Nam Việt hoặc đọc là Nước Việt. Chỉ có Hán thư thì mới phải ghi là Nam Việt Quốc 南 越 国, bởi họ quan niệm Quốc mới là Nước, họ còn gọi là Quốc Gia. Nhưng Hứa Thận thời Đông Tấn viết Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm giải thích: “Quốc- Bang dã 國 邦 也” tức Quốc chỉ là Bang mà thôi, tức là Nước phải là Liên Bang. Quốc là Bang tức là cái âm tiết “Quốc” chỉ là từ lướt “Của Nước” = Quốc, một khi coi Nước là Liên Bang, chẳng thế mà thời Vua Hùng phải thống nhất cả 15 bộ ở một địa bàn rộng mênh mông gọi là Họ Hồng Bàng, bổn nghĩa chữ thì Hồng 鴻 và Bàng 龐 đều là rộng mênh mông, mà cái âm tiết của chúng lại cũng nói lên là vùng sông nước, theo QT Tơi-Rỡi thì: Hồng = =Sông, Bàng = Giang, Hồng Bàng 鴻 龐 là vùng của cư dân nông nghiệp lúa nước thuộc đại tộc Việt. Cư dân là người đặt tên cho dòng sông và chính cư dân lại lấy lấy tên sông nơi mình sinh sống làm Họ . Dòng sông lớn nhất của bất cứ vùng nào người Việt ở đều được gọi là Sông Cả. Cả=Cái=Cơ=Cu=Tu=Tử. Sông=Công=Kinh=Kang=Giang=Dòng=Dương=Trường. Sông Cả = Sông Cái = Sông Cơ = Dòng Cả = Dương Tử. Dương Giang = Trường Giang, đều là những từ đôi để nhấn mạnh một ý “sông”, rằng con sông này rất rộng lớn. QT Lướt để tạo ngôn từ Việt đã có Hứa Thận chứng minh, vì cách nay 2000 năm ông đã vận dụng qui tắc đó để hướng dẫn cách đọc đúng âm một từ đơn âm tiết bằng cách “thiết” (tức lướt) hai âm tiết khác (mà cứ phải phát âm như Tiếng Việt hiện đại thì mới trúng chứ còn phát âm như Hán ngữ hiện đại thì trật). QT Tơi-Rỡi tôi nêu trong tạo ngôn từ Việt, có thể vận dụng để tìm từ nguyên (theo nguyên tắc: của Hán ngữ hiện đại thì tìm trong “cổ Hán ngữ”, của “cổ Hán ngữ” thì tìm trong Tiếng Việt), nghe cái tên tôi đặt là QT Tơi-Rỡi thật là quê mùa, vậy mà hóa ra tính đúng của QT ấy lại được đại danh nhân Tư Mã Thiên chứng minh giùm, khi tôi tình cờ đọc được trong Sử Ký có đoạn ghi: 夫差取番者,番首姿,又音蒲。还音烦,音盘者即潘氏 - Phù Sai thủ Phan giả, Phan Thủ Tư, hựu âm Bồ. Hoàn âm Phàn, âm Bàn giả tức Phan thị - Phù Sai (vua nước Ngô, đánh nhau với Câu Tiễn vua nước Việt) lấy vợ họ Phan, Phan Thủ Tư, lại có âm là Bồ. Còn âm Phàn, âm Bàn là tức họ Phan. Như vậy rõ ràng là thời Hán Vũ Đế (đánh nhau với Hai Bà Trưng), thời của Tư Mã Thiên, trong Tiếng Việt có tồn tại qui tắc Tơi-Rỡi trong hình thành ngôn từ, cho nên mới có như viết ở đoạn trên, tức: Phan=(Phiên)=Phàn=Bàn=Bồ=(Đỗ=Cổ=Cố=Cơ), tức các họ này đều có cùng một gốc từ họ Cơ, ở dòng sông Cơ, từ họ của một mẹ chung là U Cơ = Âu Cơ (mẹ chung là “Mẹ Âu” = Mẫu). Cổ thư có ghi xuất xứ họ Phan (cũng như xuất xứ của nhiều họ khác) là từ họ Cơ. Bởi lẽ thời cổ đại dân số còn ít, đương nhiên ít họ. Đông dần lên, họ sinh nhiều chi, chi biến thành họ khác khi đến sống ở dòng sông khác, ngôn từ để đặt cho họ cứ vậy theo QT Tơi- Rỡi mà sinh ra nhiều, đều cùng từ một Nôi khái niệm mà ra cả. Người Việt cổ đại làm lúa nước đã theo đường biển từ Nam lên Bắc vào các cửa sông bãi bùn để trồng lúa nước, ngược dòng sông Tây tiến khai thác các đồng bằng hai bên bờ sông. Trong khi lịch sử của người Hán cổ đại là từ Tây sang Đông giai đoạn một, rồi từ Bắc xuống Nam giai đoạn hai. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites