Thiên Sứ

NGƯỜI XƯA

29 bài viết trong chủ đề này

NGƯỜI XƯA

Tấm xương khô lạnh còn ân ái.
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình.

.......................................Đinh Hùng.

 

Câu chuyên mà tôi viết dưới đây các bạn có thể cho là một chuyện giải trí đọc lúc 0 giờ, hay là chuyện có thật thì tùy các bạn. Nhưng có lẽ các bạn cũng đừng tin đây là chuyện có thật. Như vậy nó sẽ giống với một câu chuyện ma do các nhà văn giầu trí tưởng tượng tạo ra hơn.


NICK LẠ TRÊN YAHOO MESSENGER
Tôi biết đến Yahoo messenge thì cũng lâu rồi. Cách đây hơn hai năm do một người bạn chỉ cho cách dùng. Nick yahoo messenge của tôi cũng do người ấy chọn cho tôi. Nhưng tôi thực sự ít dùng và cũng chẳng cho ai biết nick của tôi. Thời gian đầu, những người hay chát với tôi chỉ là mấy người quen và tôi cũng ít chát. Bây giờ thì cũng chỉ khoảng ngót chục người trong danh mục bạn bè trong YM của tôi. Tôi không giỏi cách sử dung YM, nên các nick ban bè đều do tôi cho nick của tôi và họ "át" vào. Tôi chưa "át" nick của ai cả vì không biết cách. Bởi vậy, lâu lâu có một nick lạ nhẩy vào chát với tôi thì tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên. Đấy chỉ là một người bạn nào đó cho nick của tôi cho họ và họ vào chát với tôi. Tôi nghĩ rất đơn giản vậy và mọi việc đều có vẻ đúng như vậy. Trừ một trường hợp sau đây và là chính nội dung của câu chuyên này. Nó có thể là chuyện Ma, hoặc nó là một sai lầm do trục trặc của kỹ thuật mạng vi tính thì đến nay đối với tôi vẫn là điều bí ẩn.
Bây giờ đang mùa thu nhỉ! Ngày hôm nay, khi tôi đang gõ những dòng chữ này là 16 tháng 9 - 2007. Nếu tôi nhớ không nhầm thì câu chuyện này xấy ra vào cuối tháng Năm năm nay.
Tôi còn nhớ lúc đó vào buổi chập tối, khoảng hơn 19g một chút. Một mình tôi ngồi trong phòng trước máy vi tính và cả nhà lúc đó có lẽ đang dưới phòng ăn. Họ đã gọi tôi xuống ăn cơm. Nhưng tôi còn nán lại đôi chút xem bài trên web. Tôi có mở sẵn YM nhưng không chát với ai, vì cũng chẳng có chuyện gì để nói.
Bỗng trên màn hình hiện lên một khung chát với hàng chữ:
- May quá! Anh còn ở đây?
- Dạ! Ai đấy?
- Em đây mà.
Thật tình tôi không nhớ là ai. Nhưng tính hay cả nể lại sợ mình quên thì thật mất lòng. Tôi đánh trống lảng:
- Em lấy nick lạ anh làm sao biết được?
- Hic! Anh quên em thật rồi sao? Em lấy tên thật của em làm nick mà?
- Ah! Anh nhớ ra rồi. Em viết tên liền thế , mắt anh cận nên không đoán ra.
Tôi trả lời vậy chứ cũng chưa nhớ ra nàng là ai. Tôi nhìn lướt nhanh lên nick của nàng: maitranletrinh. Một biểu tượng mặt khóc hiện ra trện màn hình:

- crying.gif
Trí nhớ của tôi khá tốt. Tôi nhớ ra ngay: Đây chính là tên người yêu đầu tiên của tôi đã chết cách đây gần 40 năm trước. Nhưng lúc ấy tôi cũng chưa có ấn tượng gì với cái tên này. Ý nghĩ tức thời của tôi chỉ là một cô gái trùng tên mà thôi. "Thế cô này là ai nhỉ?", cũng có vài người bạn tôi tên Trinh. Nhiều cô tôi cũng chẳng biết họ gì. Biết đâu có một người nào đó trong số các cô gái tên Trinh này trùng họ. Tôi gõ đại:
- Anh xin lỗi vì làm em buồn. Em có việc gì vậy?
- Trời ơi! Anh quên em thật rồi sao?
Tôi lúng túng thật sự và chưa biết phải trả lời thế nào thì may quá, cô ta viết:
- Biết được anh ở đây là may lắm rồi. Bây giờ em phải đi đây. Em sẽ gặp lại anh.
Hình biểu tượng mặt cười tắt ngấm bên nick maitranletrinh. Cô ta đã thoát ra khỏi YM. "Ai thế nhỉ?'. Tất nhiên tôi chưa thể liên hệ cái nick trên với người yêu tôi đã chết từ gần 40 năm trước.

Tôi xuống ăn cơm chiều. Tôi ăn rất nhanh, vì đó là thói quen và quan niệm sống của tôi: "Không nên mất thời giờ vào những chuyện mang tính quy luật sinh học như ăn uống ....". Bởi vậy, ăn xong tôi lại lên phòng làm việc ngồi một mình với cái máy vi tính, nhấn nút mở nhạc và làm việc với nó. Tôi bật YM và nhìn vào danh mục bạn bè. Không thấy nick maitranletrinh? Hay là cô nàng giận mình quên cô ta, nên xóa đi rồi? Bỗng từ trong dàn loa đặt trước mặt tôi nhắc lại mãi một câu: "Không quên"..."Không quên".... "không quên"........Nhạc vặn nhỏ, nên tiếng lặp lại cứ như từ một nơi xa xăm thủ thỉ bên tai.....Bực mình. Loại CD mua 6.000đ một cái thường có tình trạng kẹt đĩa như vậy. Tôi tắt nhạc. Lục tìm trong chồng đĩa một bản nhạc có tên "Biển nhớ". "Không quên thì nhớ vậy!", tôi suy nghĩ hài hước thoáng trong đầu. Màn hình hiện ra: "Biển nhớ" - ca sĩ thể hiện Phương Trinh.....
Lần này thì tôi không thể vô tâm được nữa. Tôi nhớ ngay đến nick maitranletrinh vừa chát với tôi. Nhưng nàng là ai? Chịu! Không có cách nào liên lạc lại. Tôi thầm nghĩ: "Thôi! Nếu có duyên thì gặp lại còn không thì thôi, chứ biết làm sao bây giờ?". Vừa nghĩ, tôi vừa tròn miệng nhả ra một đám khói thuốc lá hình chữ 0 thổi vào màn hình. Đám khói thuốc lá lờ lững , uyển chuyển trong không gian trước mặt tôi. Đụng vào màn hình , đám khói thuốc biến dạng, nó sắp lại đúng như một cái miệng cô gái đang cười trước mặt tôi.....Đám khói thuốc lá màu xám trắng, nên nó như một cái miệng người chết trôi đang mỉm cười. Maitranletrinh ngày xưa chết vì tự tử trên sông Hồng....


TÌNH ĐẦU

 

Gót sen uyển chuyển,
Xôn xao đêm huyền.
Em đi lạc xứ thần tiên.
Hồn thuyền dương hiện bóng huyền u minh....
Đinh Hùng
.
 

Ngày xưa, lúc nàng chết tôi mới 21 tuổi tình luôn cả tuổi mụ. Một thằng thanh niên mới lớn bày đặt yêu đương với tất cả mặc cảm trước những kẻ đối thủ thành tựu và có chỗ đứng trong cuộc đời. Lúc ấy tôi chỉ là anh công nhân bậc 2/7, đang học thêm mỹ thuật tạo hình. Chẳng có gì ngoài cái giá vẽ thể hiện tâm hồn nghệ sĩ. Còn đồng lương thì đủ trả nợ bà bán nước trà 5 xu một cốc cạnh cơ quan. Hic! Ngày ấy, gọi là sự ăn chơi của chúng tôi chỉ có thế. Ấy mà nó cũng bị quy vào phạm trù đạo đức vì tính không tiết kiệm. Ngày ấy, trong dân gian lưu truyền một câu ca dao là:

Một yêu anh có senko.
Hai yêu anh có Peugeur cá vàng.
Ba yêu bộ củ Tergan.
Bốn yêu hộ khẩu đàng hoàng thủ đô.

 

Trong bốn tiêu chí tình yêu thời đại trên thì tôi đạt tiêu chuẩn thứ tư. Nhưng tiêu chuẩn này thì chỉ thích hợp với các cô gái ngoài Hanoi. Maitranletrinh ở phố Hàng Buồm, nàng không cần hộ khẩu Hanoi. Bởi vậy đối với nàng tôi bị loại suy nốt yếu tố cuối cùng này. Ấy là nói theo ngôn ngữ khoa học. Tôi gặp nàng trong chỗ làm việc của chị tôi và cũng chính là chỗ tôi làm việc. Bởi vì lúc ấy tôi làm ở Cty xây dựng nhà ở Hanoi. Còn nàng phụ việc trong một công trình nghiên cứu của tiến sĩ Bùi Vạn Chân về các thông số trong những ngội nhà mà chúng tôi xây dựng. Cùng làm việc với nàng là một số cô gái trẻ tuổi 18 , đôi mươi. Lúc ấy, so với một đám học sinh phổ thông mới tốt nghiếp cấp III như các cô thì tôi có vẻ là một người từng trải và phong trần. Có lẽ tôi phải nói thêm một ưu thế của tôi lúc bấy giờ và điều này là chân lý. Đó là tôi khá gọi là đẹp trai. Bạn bè tôi phong tặng danh hiệu "Hội trưởng hội phù rể thuê"
Tất nhiên các cô đều có cảm tình với tôi, nhưng tôi thực sự chẳng chú ý đến ai cả. Lúc đó tôi cũng không ý thức được về cái mẽ bề ngoài của mình. Maitranletrinh là một cô gái sôi nổi và năng động. Chúng tôi dần dần thân với nhau và lúc đó nàng mới tâm sự với tôi là trước khi quen tôi, nàng đã từng yêu một người. Người này sau đó góp phần vào cái chết của nàng......

Thế rồi có một lần, tôi không nhớ hoàn cảnh nào khiến tôi vô tình nắm tay nàng. Đây là bàn tay người con gái đầu tiên mà tôi nắm tay trong đời. Một cảm giác lạ rất mãnh liệt khiến như ý thức của tôi vỡ ra. Hình như cả trời đất cũng quay cuồng và tôi không tự chủ được. Tôi ngây ra như tượng và nắm tay nàng. Nàng cũng yên lặng để nguyên bàn tay cho tôi nắm và hơi cúi đầu nhìn xuống. Ôi! Nếu như người xưa nói đến khoảng khắc sánh bằng thiên thu thì có lẽ chính là giây phút ban đầu này....nàng hơi xoay người sát đến tôi và vuốt nhẹ lên má tôi: "Anh hiền nhỉ?". Tôi ngơ ngẩn cả người và phản ứng của tôi là một nụ cười cực kỳ vô duyên. Cũng may là không có ảnh chụp lại cái mặt tôi lúc đó. Nếu không thì Thiên Sứ và Sư Thiến là một từ đồng nghĩa. Hic. Nàng nhanh nhẹn quay ra ngoài. Lúc ấy tôi chợt tỉnh và nói với theo:
- Em! Tối thứ bảy này anh mời em đi chơi nhé!
- Vâng.
Tôi như chết lặng và những ngay còn lại trong tuần dài lê thê. Cứ buổi trưa là tôi lại tích cực đến thăm bà chị để gặp nàng, Nhưng có vẻ như nàng lẩn tránh tôi, khiến cho tôi rất hoang mang. Cuối cùng vào chiếu thứ bẩy, tôi cũng gặp được nàng và nhắc lại lời hẹn.
Thật tình là tôi không nhớ lắm chúng tôi đã bắt đầu đi chơi với nhau như thế nào. Gần 40 năm rồi. Nhưng hình ảnh mà tôi nhớ nhất chính là lúc chúng tôi đúng đối diện nhau bên hồ Tây, phía trước đền Quan Thánh. Ngày ấy, quang cảnh bên hồ không đẹp như bây giờ. Cây cối rất ít và trong ký ức của tôi còn nhớ như in khuôn mặt của nàng dưới ánh trăng. Tôi ôm hai vai và cúi xuống hôn nàng, nàng nghiêng mặt đi và tôi hôn lên má nàng. Nụ hôn đầu đời của tôi với người con gái. Tôi xoay mặt nàng ngửa lên và muốn hôn môi người yêu tôi. Nàng mím chặt môi, lắc đầu và gục vào vai tôi. "Thôi! Không!". Nàng đẩy tôi ra và nói: "Chúng mình về đi!". Tiếng nói của nàng nhỏ nhẹ, yếu đuối không phải là hình ảnh của Maitranletrinh nghịch ngơm, lí lắc thường ngày. Tôi nhìn thấy trong nàng cả một trời thơ trinh. Bất giác tôi lùi lại với một sự trân trọng như đứng trước một thiên thần. Chính cảm giác thiên thần mà tôi nhận thấy trong nàng, đã khiến tôi có một suy luận rất chính xác về cái chết của nàng sau này, khi mà hầu hết mọi người nghi ngờ vì không tin vào tâm hồn trong trắng của nàng. Và cũng chính điều đó cứu tôi thoát chết khi tưởng rằng tôi sẽ đến nằm bên cạnh nàng ở thế giới bên kia. Nhưng phải chăng cũng trong thoáng phút giây ước nguyện bên cạnh cõi chết ấy, đã ràng buộc tôi với hình ảnh của nàng sau gần 40 năm với bao thăng trầm của cuộc đời. Đó chính là cái nick vừa quen vừa lạ maitranletrinh.

 

HỒN HOANG TRINH NỮ
Em mộng về đâu
Em mất về đâu?
Đêm đông lạnh, ngọn đèn sầu.
Ấy mầu hương khói là màu mắt xưa....
Đinh Hùng.


Nàng không còn yêu tôi nữa và nàng lảng tránh tôi sau khí trả lại toàn bộ sách vở, tập học mà tôi phải rất chắt chiu vay mượn mới sắm được cho nàng. Nụ hôn đầu tiên của tôi với người con gái và cũng là nụ hôn cuối với nàng. Nàng quay về với người yêu cũ của nàng. Sự mặc cảm nghèo và cô đơn khiến tôi không đủ can đam và tự tin để giành lại nàng từ kẻ tình địch. Anh ta là sinh viên của một trường đại học danh tiếng và là con trai của ông Cục trưởng thương nghiệp thành phố Hanoi. Vào cái thời những năm 70 của thế kỷ trước, chỉ cần trong nhà có người làm nghề dọn bếp cho một bếp ăn tập thể là rất danh giá. Tính ưu việt của nghề này ở chỗ mỗi ngày chí ít cũng một gamen cơm cháy , hoặc sang hơn thì thịt lợn vài lạng kho sẵn. Nói thể để thấy cái vị trí cục trường cục thương nghiệp thành phố Hanoi nó như thế nào.Thời gian trôi đi. Cái đám thanh xuân ríu rít trong chỗ làm việc của chị tôi cũng đi đâu cả.
Tôi cũng chẳng dám yêu ai vì biết cái thân phận nghèo và khốn khó trong cô đơn của mình. Tôi vẫn đến thăm chị tôi, nhưng với một tâm trạng buồn và chua chát trong sự trống vắng lớn hơn. Cái cảm giác "cảnh cũ còn đây, người xưa đâu thấy" thật sự dâng buồn trong tôi.....
Tôi không thể chịu đựng được nữa bèn đi chỗ khác ở, không ở gần nới chị tôi làm việc. lâu lâu tôi mới đến thăm chị tôi.
Thời gian trôi đi. Bỗng một buồi chiều, chị tôi nhớ người ra chỗ tôi làm việc và nhắn lại: "Tan tầm chiều này bảo cậu ghé chỗ chị. Anh Chân muốn nói chuyện với cậu!". "Cái gì thế nhỉ?".
Khi tôi đến nơi, vào phòng của chị tôi thì anh Chân đã ngồi đấy. Thấy tôi vào, anh nói ngay:
"Cái Trinh nó chết rồi!". Tôi bàng hoàng và chưa kịp nhận ra điều gì thì chị tôi bồi thêm cho một câu: "Cái Trinh người yêu của cậu đấy! Nó chết rồi cậu ạ!". Bất giác tôi nhắc đến tên nàng : "Maitranletrinh! Sao vậy em?"...
- Cũng chưa biết là chết thật hay không? - Anh Chân chậm rãi kể lại:
Cái Trinh sau khi nghỉ ở đây thì về học lại lớp 10. Có một con bạn cùng lớp của nó nói toáng lên trong lớp là cái Trinh nó xúi cô này bỏ người yêu đang đi bộ đội. Thế là lớp xúm vào chì chiết cái Trinh. Cái Trinh nó chối nói là nó không có nói. Nhưng cô kia cứ khăng khăng là cái Trinh có nói. Tội nghiệp cái Trinh, nó cuống lên gọi người yêu nó tới, thắng này lại bảo: "Nếu Trinh có tội gì thì các bạn cứ trừng trị tôi. Tôi xin chịu tội thay cho Trinh.....".
Nghe đến đây, tôi thốt lên: "Thằng ngu! Rồi sao nữa anh?". Anh Chân chậm rãi kể tiếp: " Thế là cả đám nó ồ lên và nói chính người yêu của nó cũng thừa nhận là cái Trinh có tội. Cái Trinh bỏ ra ngoài lấy xe đạp và phóng đi. Cả lớp nó đuổi theo cái Trinh. Tụi nó đuổi đến chân cầu Long Biên thì không thấy cái Trinh đâu cả. Chúng nó chia nhau đi tìm, khi lên cầu gần giữa sông thì chỉ thấy cái xe đạp xanh và đôi dép của cái Trinh ở đấy".
Nghe đến đây, người tôi như có một luồng lửa bốc lên khiến tôi chóng mặt. Tôi nắm lấy tay chị tôi và thốt lên: "Chị ơi! Trinh chết rồi! Cô ấy đã nhảy xuống sông tự tử rồi!". "Sao cậu chắc chắn thế? Cái Trinh nó làm sao dám tự tử kia chứ! Con gái gì cứ chồm chồm như con trai, yêu đương lung tung. Loịa như nó thì làm sao mà tử tử kia chứ!" "Không! Trinh rất trong trắng. Chính vì vậy nên Trinh đã chết rồi...". Tôi như muốn nấc lên vì nghẹn ngào.
- Chưa chắc cái Trinh nó chết đâu cậu ạ! Vì xác chết đuối thì ba ngày sau phải nổi lên. Mà nay đã 4 ngày rồi , người ta chưa tìm thấy xác của Trinh...
Tôi ra về trong một tâm trạng đau khổ và cô đơn tận cùng. Người ta nói rằng "Cách tốt nhất để lãng quên một người phụ nữ là thay thế bằng hình ảnh người phụ nữ khác". Từ ngày Trinh không còn yêu tôi nữa, tôi không có ai là hình ảnh thay thế. Nên nàng vẫn là cả tâm hồn tôi. Tôi vẫn hy vọng một ngày nào đó nàng sẽ quay lại với tôi vì tôi yêu nàng chân thành.
Ngày ấy, tôi không hiểu tại sao những thằng bạn tôi yêu ba lăng nhăng, hết cô này đến cô khác. Có thằng yêu một lúc đến hai ba cô. Vậy mà các cô ấy vẫn yêu tha thiết. Còn tôi với tất cả sự trân trọng và chân thành thì chẳng ai yêu tôi cả. Phải chăng, ở phút cuối cùng của cuộc đời, Trinh nhớ tới tôi thì tôi có thể chắc chắn nàng không chết. Đối với tôi thì cái đám lộn xộn , cãi vã với nàng chỉ là một lũ háo danh và ngớ ngẩn, phải tự trang sức tâm hồn mình bằng cách chê bai kẻ khác. Tôi thừa khả năng để chứng minh nàng trong trắng và vô tội.
Nhưng tất cả đã muộn rồi. Cả thế gian như sụp đổ trong tôi. Tình yêu của tôi đối với nàng mong manh như nụ hôn đầu đời và nay tan tác vì ngay cả cái hy vọng mong manh đó cũng không còn. Nàng chết rồi còn đâu...Chính tính cách mạnh mẽ trong phong cách sống của nàng, khiến nàng có một quyết định táo bạo để bảo vệ cả một trời thơ trinh trong nàng.
Cả tuần sau, mặc dù rất tích cực tìm kiếm, người ta cũng không tìm thấy xác của nàng. Cái chết của Trinh được đặc biệt chú ý, chính vì bố người yêu của nàng là nhân vật chủ chốt trong một vụ tham nhũng nổi tiếng thời bấy giờ. Bởi vậy, có nguồn tin cho rằng nàng nhân cơ hội này bỏ trốn để thực hiện những phi vụ đặc biệt liên quan đến số tài sản tham nhũng trên. Cả những thày Tử Vi cao tay cũng tham gia tìm hiểu lá số của nàng để xem nàng lưu lạc hay đã chết thật....
Hơn hai tuần trôi qua, cả khúc sông Hồng như bị lật tung lên, người ta vẫn không tìm thấy xác Trinh. Hầu như hy vọng Trinh còn sống đang đến dần với gia đình của Trinh và mọi người đều nghĩ như vậy.
Thật đau lòng! Riêng tôi vẫn khẳng định rằng Trinh đã chết. Dù sau này, vĩnh viễn không tìm thấy xác Trinh. Nhưng nó có thể giải thích việc mất xác bằng một nguyên nhân khác. Còn tính hợp lý trong suy luận của tôi là không thể bác bỏ được.
Trinh ơi! Chỉ có mình anh hiểu được là em đã chết vì một trái tim thiên thần trong em.
Gần một tháng sau, người ta tìm được xác Trinh bị kẹt dưới một cái bè nứa neo bên sông. Đôi mắt nàng nhắm khẽ và một bên má nàng khi tôi hôn đã bị bày cá rỉa hết. Cuộc khám nghiệm tử thi cho thấy nàng hoàn toàn trinh trắng.....
40 năm đã trôi qua. Tôi vẫn nhớ tới nàng. Không phải vì tình yêu của tôi dành cho nàng có gì đặc biệt hơn các cặp tình nhân khác ở thế gian. Không phải các chàng thanh niên khác trong nụ hôn đầu đời không run rấy như tôi. Và cũng không phải hiếm những cặp tình nhân bị chia lìa vì những cái chết bất ngờ do hàng ngàn lý do khác nhau trên cõi đời này. Nhưng với tôi, thì hình như linh hồn nàng đã cứu tôi, khi tôi cũng đã đứng trên cầu Long Biên, đúng chỗ nàng đã đứng trước khi chết.
Maitranletrinh! Cái nick yahoo messenger này có phải là chính em đó không?

 

HỒN MA CỨU NẠN

Tôi không còn gì cả, tất cả sụp đổ trong tôi. Tất cả những gì bi đát nhất trong cuộc đời của một con người bất ngờ ập lên đầu một thằng thanh niên mới 22 tuổi đời. Không chỗ nương thân, không người thân thích, không bạn bè, không tình yêu, không tiền, không tất cả và cũng không còn gì để ước mơ..... Tình yêu duy nhất với tôi là cha tôi cũng sụp đổ bất ngờ trong tôi.....Trời đêm Hanoi vẫn vũ mây đen buông một cơn mưa tuy không lớn nhưng năng hạt phủ lên con người tôi đang đau khổ tận cũng.....Niềm an ủi và sự đồng cảm duy nhất với tôi lúc này chỉ là linh hồn chết của maitranletrinh.
Tôi lầm lũi bước lên cầu Long Biên đi tìm nàng. Trong túi tôi có một lá thu vỏn vẹn một hàng chữ: " Khi tôi chết xin hãy chôn tôi cạnh mộ maitranletrinh". Tôi đến giữa sông, nơi maitranletrinh đã chọn làm nơi vĩnh biệt cõi đời.
Nước sông Hồng cuồn cuộn chảy, sóng trên dòng sông như hàng trăm ngàn con trăn khổng lồ đen trũi quằn quại lao vun vút ra biển và sẵn sàng nuốt chửng tất cả những gì rơi xuống đó. Trời vẫn mưa với mây đem vần vũ. Gió từng cơn thổi trong mênh mông, như reo cái lạnh vào tận trong lòng người. Cả một không gian chìm trong u tối....
- Maitranletrinh! Em hãy đợi anh. Bây giờ anh chỉ còn mình em.
Tôi dẫm một chân lên thành cầu và đạp mạnh, buông mình xuống sông.....
*

 



...Một lực rất mạnh bất ngờ đẩy tôi bật ngửa ra phía sau làm tôi ngã lăn trên cầu. Cơn mưa đã phủ ướt những thanh sắt trên lan can cầu và nó làm trượt chân tôi vì đôi dép Thái Lan (Cách gọi thời bấy giờ, trong Nam Bộ gọi là dép Lào) đã mòn vẹt của tôi.
Tôi lồm cồm bò dậy, người đau ê ẩm vì cái ngã trời giáng cân xứng với quyết tâm và sức mạnh của thằng thanh niên mới lớn khi đạp chân, tung người nhày xuống cầu. Điều ngạc nhiên là đôi dép lào khố khổ, mòn vẹt của tôi - do một sự ngẫu nhiên hay một năng lượng bí ẩn nào đó, mà khi rơi xuống nó xếp ngay ngắn bên cạnh nhau......đây chính là hình ảnh đôi dép của Maitranletrinh để lại khi nàng vĩnh biệt cõi đời.....
*

Tôi ngơ ngác trươc sự ngẫu nhiên một cách khó hiểu: Đôi dép xếp rất ngay ngay ngắn ngay tại sát lan can cầu. Nó như được sắp xếp bởi một ý thưc muốn nó phải như thế....?
Nhưng cái đầu khoa học có thể giải thích rằng:
Khi anh bước một chân lên thành cầu thì chân kia anh đã đặt một chiếc dép ngay sát lan can cầu. Hoàn toàn toàn chính xác! Vậy thì một chiếc dép khi văng ra cũng rất có thể khi rơi xuống nằm ở vị trí bên cạnh cái dép kia và đó là một điểm rơi thay vì văng xuống sông là một điểm rơi khác. Hoàn toàn đúng.
Chẳng có gì phải phàn nàn cách giải thích theo tư duy khoa học cả.
Nhưng lúc đó tôi không nghĩ như vậy..
*

Cú sốc bất ngờ vì ngã khiến tôi ở sang một trạng thái tâm lý khắc hẳn.
- Maitranletrinh! Phải chăng em muốn anh bỏ lại đôi dép như em để chúng ta cùng dẫm lên mọi chông gai trên cõi đời này.
- Không! Anh là người duy nhất hiểu em. Duy nhất biết em đã chết khi bao con người trện cõi đời này, kể cả những người thân yêu nhất của em đều không hiểu em bằng anh. Họ nhìn em với con mắt đơn giản của tha nhân mà không cần biết đến sự đau khổ trong nội tâm con người em. Thậm chí vì sự ích kỷ đã dẫn em đến một cái chết tức tưởi. Họ vẫn sống nhởn nhơ trên cõi đời này, vẫn mơ ước và thành đạt. Thế thì sao anh phải chết. Với em, anh hơn họ nhiều lắm. Anh đáng sống hơn những kẻ đã đẩy em vào cõi chết. Anh phải sống để nhắc đến em một lần khi mọi người đã lãng quên em.
Anh phải sống trong kiêu hãnh và vượt lên chính hoàn cảnh của anh vì em anh ạ.
Maitranletrinh. Anh hứa trong cuộc đời anh sẽ nhớ tới em và sẽ nhắc đến một tâm hồn thơ trinh chết tức tưởi vì sự ích kỷ của tha nhân.
Tôi không thể hiểu được rằng nàng đang nói với tôi, hay tôi đang tâm sự với chính mình? Nhưng quả thật là tôi còn một điều đáng sống ít nhất với maitranletrinh. Tôi hiểu nàng hơn tất cả những người đã nghĩ về nàng . Nếu họ đáng sống thì tôi cũng có cái để sống vì tư duy của tồi.
Tôi lấy trong túi ra tờ giấy xin được chôn bên cạnh Maitranletrinh. bật diêm đốt.....
- Maitranletrinh. Anh gửi tờ giấy này theo em xuống dòng sông Hồng, nơi em chon để an giấc ngàn thu. Em hãy ghi nhận tình yêu của anh dành cho em. ...
Lửa cháy bén và đượm tờ giấy trên tay tôi. Tôi buông tay, miếng giấy kéo đốm lửa bay là là xuống sông Hồng như một sự nhắn gửi với nàng một tình yêu của tôi....Trong màn đêm huyền vĩ, đốm lửa le lói trong đêm như cả linh hồn tôi gửi đến cho nàng.....


ƯỚC NGUYỀN VỚI HỒN TRINH NỮ
40 năm trôi qua sau đêm định mệnh. Nếu như không phải Maitranletrinh đã chết trên sông Hồng . Nếu như không có sự luận xét chính xác của tôi vì cái chết của nàng khiến tôi tự thấy mình đáng sống thì phải chăng tôi không còn ngồi đây gõ những hàng chữ này. . Cuộc đời đầy sóng gió khiến có lúc tôi không thể ý thức được sự tồn tại của tôi trên cõi đời này. cũng có lúc tôi quên nàng trong những thăng trầm của cuộc đời. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng quên nàng. Nhưng tôi chưa thực hiện lời hứa với nàng: Chưa một lần nhắc đến tâm hồn thơ trinh và cái chết tức tưởi của nàng...
Phải chăng, nàng đã đến đây để nhắc lại lời hứa của tôi với nàng với cái nick yahoo mesenge maitranletrinh?
- Maitranletrinh ơi! Đây chính là em hay chỉ là sự ngẫu nhiên do trục trặc kỹ thuật vi tính? *

- Xin phép bác con về.
Tôi liếc nhìn đồng hồ - đã 17g 30 - "con bé này cũng siêng thật!"....
- Khoan đã! Bé át cái nick này vào yahoo messenge cho bác.
Vừa nói, tôi vừa đứng dậy nhường máy cho cô bé.
- Bác đọc tên nick cho con đi.
- maitranletrinh viết liền không dấu. Chữ "mai" không viết hoa.
Tiếng bàn phím gõ lách cách.
- Sao cái nick này không át được bác ạ. Nick này của ai đấy bác? Nick này bác nhớ đúng không bác. Hay còn sai cái gì?
- Làm sao sai được? Bác nhớ mà, nick này đã chát với bác rồi mà?
- Oh! Nếu chát rồi thì nó phải có trên danh mục của bác chứ?
- Bác cũng không hiểu tại sao?
- Hay bác lại bấm nhầm nút xóa rồi. Con không thấy đâu cả?
- Không át được à?
- Dạ không? Hay bác nhớ sai nick. Hoặc có thể nick đó không có thật nên không át được?
Tôi tái mặt. "Không lẽ đó chính là maitranletrinh? Em về đây với anh thật sao?".
- Uh! Cũng có thể bác nhớ sai nick. Thôi bé về đi. Cảm ơn bé.
*
Đêm hôm ấy. Tôi bâng khuâng với bao hồi ức về nàng. 40 năm qua, nhưng hình như cả không gian và thời gian rất nhỏ bé và mọi chuyện như mới xảy ra hôm qua. Tôi nhớ đến bầu trời đêm vần vũ mây đen và mưa gió trên cầu Long Biên. Ngày ấy, tôi đã nhắc tên nàng. Nghĩ đến đấy, tôi thốt lên: "Maitranletrinh! Em đang phiêu diêu ở chốn nào?". Vừa suy tưởng , tôi vừa lướt vào trang thơ của vietlyso. Một bài thơ mới vừa đưa lên của nhà thơ Bích Hoàng. Trong bài thơ bà nhắc đến một cơn mưa đêm và mối sầu kim cổ đúng lúc tôi nghĩ đến kỷ niệm với nàng. Cảm xúc trong tôi lâng lâng, tôi đã họa bài thơ này tặng nàng:

 

Cảm tác
MƯA ĐÊM
Tặng người yêu tôi đã chết năm 19 tuổi.

 

Như gợi trong hồn tiếng ru êm.
Tiếng mưa như ai đến trong đêm.
Nhớ người năm cũ sầu thiên cổ
Chất cả phong ba dưới lụa mềm.

*

Gót sen uyển chuyển
Xôn sao đêm huyền

Em đi lạc xứ thần tiên
Hồn thuyền dương hiện bóng huyền u minh.(*)


Bài thơ tôi chỉ viết đến đấy, Nhưng cảm xúc của tôi với cái chết trong tuổi yêu đương thơ trinh của nàng, khiến tôi liên tưởng đến hai câu thơ đồng cảm với tâm trạng tôi lúc này của thi si Đinh Hùng.

Tấm xương khô lạnh còn ân ái.
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình...
.

Maitranletrinh! Em chết trong khi còn khao khát yêu đương....
Một thoáng đau xót dội lên trong tâm tư tôi. Vừa nghĩ, tôi vừa bấm nút gửi bài thơ tặng vong linh nàng lên diễn đàn..thì bỗng nhiên trên màn hình lại hiện lên khung chát của YM với dòng chữ:
- Khuya thế anh chưa đi ngủ sao?
Tôi nhìn lên tên hiển thị: maitranletrinh........
- Anh đang viết bài .- Tôi định nói - "bài thơ tặng em". Nhưng dừng lại được.
- Em xem rồi! Bài thơ cảm động quá! Cảm ơn anh!
- Em đang trên diễn đàn?
_ .....................
Chợt như có một bàn tay đặt lên vai khiến tôi lạnh buốt. Cảm giác lạnh lẽo lan tỏa xuống sống lưng làm tôi rùng mình. Trên khung hình hiện lên hàng chữ:
- Em đang ở đây với anh!

Tôi rùng mình vì một cái lạnh ớn xương sống cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tôi không thể hiểu nổi có phải nàng đứng ngay đằng sau tôi không? Tôi không đủ can đảm để quay mặt lại đằng sau để nhìn nàng, mà nếu có nhìn thấy thì đó chỉ là một linh hồn ...Nghĩ đến đấy, tôi sợ cứng cả người.....Tôi không dám cử động, bàn tay cầm con chuột như chết một chỗ. Tôi có cảm giác rằng chỉ cần một cử động nhẹ là nàng sẽ phản ứng ngay tức thì. Một phản ứng mà tôi không thể lường trước được. Tôi liếc xuống dưới chân: có hai sinh vật đang ngủ. Đó là con mi na và mi ni. Có một lần tôi nghe ai đó nói :"Giống chó có phản ứng nhậy cảm với hồn ma. Nếu có ma thì chúng tru lên ngay". Hai con chó cưng của tôi vẫn nằm yên. Tôi khẽ động chân, con mi na mở mắt nhìn tôi, rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp. Sự hoạt động của một sinh vật thân thiết khiến tôi can đảm hơn. Tôi từ từ quay đầu nhìn lại phía sau.......
Chẳng có gì cả...nhưng bỗng cả hai con chó của tôi cùng nhỏm dậy, chúng không tru lên mà kêu é é với những động tác rất bất thường. Từ chỗ tôi ngồi tiếp khách - cách bàn làm việc không xa - một đám khói bốc lên nghi ngút, đang từ từ bay đến chỗ tôi. Hình khói tựa như một người con gái tóc dài với áo quần một màu trắng toát, như đang giang tay muốn ôm lấy tôi..........

 

Tôi hoảng hốt thốt lên:
- Trinh ơi!
Vợ tôi giật mình tỉnh dậy,
- Cái gì thế anh?
Chúng tôi chay ra chỗ đám khói bốc ra...Bát nhang bàn thờ ông Địa đang cháy nghi ngút. Không thể ngờ được chỉ trong nháy mắt, bát nhang cháy hết sạch. Tôi với tay lấy mấy chung rượu cúng đổ lên tàn nhang cháy dở.
- Cháy bát nhang thế là phát tài đấy anh ạ.
Bà xã tôi vui vẻ nói với giọng ngái ngủ. Bà ấy luôn hi vọng vào những điềm lành sẽ đến với chúng tôi đã từ nhiều năm rồi.
"Con người chỉ là một sinh vật nhỏ bé và yếu ớt trong vũ trụ. Nó chỉ là một cậy sậy. Nhưng là cây sậy có tư tưởng".
Vợ tôi tin vào định mệnh và chấp nhận định mệnh. Bà ấy là một sinh vật yếu đuối trong vũ trụ, nhưng bà ấy vẫn ước mơ và luôn hi vọng. Sống với tôi gần trọn cuộc đời, có những lúc bà ấy không còn cả cơ sở để ước mơ...."Nếu anh chết! Em sẽ thiêu xác anh cho vào hũ. Dọn nhà đi đâu em sẽ mang anh theo". Vợ tôi thường nói với tôi như vậy, bà ấy giải quyết như vậy là đúng. Ngoài sự giải thích do tình yêu của bà ấy dành cho tôi thì còn lý do kinh tế. Đến lúc này tài sản của chúng tôi không đủ để mua một miếng đất cà chục triệu để chôn tôi trong nghĩa trang. Chúng tôi cũng có một miếng đất do may mắn mua lúc nó còn rẻ. Nhưng đó là một tài sản chứ không phải để chọn làm nơi an nghỉ.
- Khuya rồi anh ạ! Anh đi ngủ đi.
Tuy nói vậy, nhưng bà ấy biết tính tôi. Cái gì tôi thích thì tôi làm, chẳng ai cản trở được tôi cả. Bởi vậy, nói xong thì bà ấy lại leo lên giường ngủ.
Nhưng lần này thì tôi nghe bà ấy.
- Để anh tắt máy đã.
Tôi gõ phím kết thúc. Màn hình tối đen lại hiện ra những biểu tượng. Nhưng chẳng thấy khung yahoo chát của maitranletrinh đâu cả......
- Maitranletrinh! Định mệnh đã khiến anh và em không thể đến với nhau trong kiếp này. Đáng nhẽ anh và và em sẽ nằm cạnh nhau bên kia cõi trần gian. Nhưng phải chăng chính em đã cản trở anh một lần nữa để có thể nằm cạnh em trong cõi chết. Nay bên cạnh anh ở kiếp này đã có một người đàn bà đi cùng anh trong cuộc đời và chia sẻ mọi thăng trầm của số phận với anh và yêu anh. Anh có thể có những phút lãng mạn, nhưng không thể không trọn nghĩa với nàng. Maitranletrinh! Anh không phải là một thiên thần, nên chắc sau khi chết cũng không siêu thoát mà sẽ còn trầm luân trong muôn kiếp. Có thể linh hồn anh ở trên cõi trời Đao lợi hay chốn Bồng Lai, cũng có thể ở địa ngục A tỳ. Nhưng anh sẽ không quên em. Anh hứa và mong sẽ có một trong muôn kiếp luân hồi ấy, có một kiếp chúng ta sống bên nhau. Em hãy tin anh. Anh đã hứa :"Nếu anh còn sống sau đêm định mệnh gần 40 năm trước, anh sẽ nhắc tới em, một tâm hồn thơ trinh chết vì sự ích kỷ và mê muội của tha nhân". Anh đã giữ lời hứa khi viết câu truyện này trên mạng. Anh hy vọng rằng việc làm này của anh sẽ an ủi linh hồn em ở bên kia thế giới.
Anh cầu chúc cho linh hồn thơ trinh như thiên thần của em sẽ siêu thoát về cõi Bồng lai. Trong muôn kiếp trầm luân của chúng sinh, anh xin một kiếp bên em. Mong rằng lúc ấy em không từ chối tình yêu của anh giành cho em...
Những suy nghĩ triền miên về maitranletrinh đã ru tôi vào giấc ngủ và tôi thiếp đi ngay trên bàn vi tính....
Từ bấy đến nay, tôi không còn thấy nick maitranletrinh xuất hiện trong yahoo chát của tôi nữa. Cũng có thể đấy chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên do sự trục trắc của mạng vi tính với một người trùng tên đang chát với người yêu của mình và đường truyền đã dẫn đến máy của tôi. Cũng có thể đấy chính là linh hồn cùa maitranletrinh về đây với tôi để tôi một lần trọn lời hứa với nàng.
Đến bây giờ, các bạn có thể thử nghiệm:
Không hề có nick maitranletrinh trên mạng yahoo.

Thiên Sứ

6 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người đàn ông mặc áo nâu

Phạm Thị Ngọc Điệp

http://www.vannghesongcuulong.org.vn

Cái ý định ra về của tôi bị hoãn lại không phải vì đêm tang lễ đã quá khuya, không hẳn ý nghĩ phù du của kiếp người, của cái sống và chết làm tôi muốn ngồi một mình - mà đơn giản vì sự có mặt của một nhà sư rất trẻ. Dù không có tóc nhưng không làm giảm đi nét đẹp trai một cách thanh tú của khuôn mặt. Dưới lớp áo cà sa bùng nhùng vẫn hiện lên rõ nét tầm thước và dong dỏng cao.

Nhà sư có giọng đọc kinh trầm bổng, du dương một cách điêu luyện trong những lời cầu hồn, cầu siêu thăng, tịnh độ cho người chết. Giọng cầu kinh như tiếng của một nghệ sĩ tài hoa hát một bản dân ca buồn. Nó cũng hay như bàn tay thuần thục xòe những lá bài xập xám sát phạt không tiếc rẻ những kẻ ngồi chung bàn. Điều ấy làm tôi thú vị như khi đứng lặng nhìn những ni cô ở bãi tắm.

Có những sự bóc trần đáng nguyền rủa hoặc đồng nghĩa với sự trơ trẽn, dung tục nhưng sao sự bóc trần của những lớp áo cà sa phô bày cơ thể bấy lâu được ấp ủ trong lớp áo nâu sồng vẫn làm tôi thấy vui mắt và thích.

- Chào cô, rất vui được gặp lại.

Tiếng người đàn ông vừa ngồi vào bàn cất lên làm tôi rời khỏi suy nghĩ về nhà tu hành cầm binh xập xám.

- Chào ông.

Tôi gật đầu đáp lại và cố lục soát trí nhớ xem là ai? Cũng chẳng cần lâu. Tôi nhớ rất rõ. Chính là gã, người tôi đã vài lần gặp trong suốt mười lăm năm. Lần nào gã cũng làm tôi có những suy nghĩ không thoải mái và một ấn tượng riêng rẽ không nhòa lẫn với ai.

Gã mặc áo màu nâu sẫm. Những đường ráp nối hằn lên dấu mòn và bạc màu. Rất nhiều đường may nổi cộm và rất ư là nhiều nút. Đôi giày bết đầy bùn đất như là gã vừa bước ra từ một nơi đầy gió cát bùn lầy. Gã vẫn hay lắc lư cái cổ dài với mớ tóc dài bò quanh cổ. Lạy Chúa, từ những ngày người ta ghét tóc dài đến mức đón đường mà cắt xén nó đi gã vẫn để tóc dài và vẫn màu áo nâu sẫm ấy.

Trải qua bao biến thiên của mốt tóc đàn ông nào tóc đinh, tóc đuôi gà, tóc dài, rồi cạo trọc. Theo tôi có lẽ tóc dài đến cổ là dễ trông nhất. Nói như vậy không có nghĩa là tôi có cảm tình với gã.

*

- Chào cô, xin được làm quen. Tôi là chiến sĩ thi đua của nhà máy cơ khí X. Tên tôi là Viễn. Xin cô cho biết quý danh và là chiến sĩ thi đua của ngành nào?

Người đàn ông trung niên mặc áo màu nâu mang kính cận ngồi cạnh tôi nói vậy. Tôi giật mình: Quỷ thật, mình đã định ra về từ lúc bế mạc cuộc họp. Tôi rất sợ cái không khí của tiệc tùng, ăn uống, đám đông. Nếu tránh được đó là dịp may nhưng vì cái mụ đàn bà ba hoa đang phát biểu về thành tích cá nhân. Trong từng hành động, từng lời nói nó bốc lên cái rổn rảng, phô phang của kẻ hãnh tiến, của thành quả đạt được một cách dễ dãi. Nhân danh một phụ nữ thành đạt, mụ tha hồ múa gậy vườn hoang. Tôi ngắm nhìn người đàn bà ấy dưới góc độ một nhân vật truyện mà tôi khó tưởng tượng khơi khơi được. Và tôi đã đi theo mụ ta cho đến phòng ăn của hội nghị.

- Tôi tên là Phương, và thú thật, trong đời tôi chưa bao giờ là chiến sĩ thi đua. Đó là chưa tính vài lần bị lãnh đạo quở trách.

Qua làn kính cận vẫn thấy rõ đôi mắt to có phần mơ mộng của gã ánh lên sự ngạc nhiên và thích thú. Cái miệng hơi rộng ấy khi nghiêm trông rất đẹp trai và khi cười nó mang nét gì hơi đểu đểu mà tôi mơ hồ thấy rằng phải chắt lọc sự thật trong những điều gã nói. Nhưng gã vẫn từ tốn trong từng lời nói, cái nghiêng đầu lễ độ đầy chất nịnh đầm.

- Vậy xin phép hỏi cô có mặt ở đây để làm gì?

Tự nhiên tôi muốn trêu chọc gã:

- Để nghe những chiến sĩ thi đua như ông tự nói về mình hay nói khác hơn là để gặp những con người tinh túy, thành đạt của tỉnh nhà và phổ biến những điều ấy cho người người, nhà nhà cùng nghe để học tập.

Trái với dự đoán của tôi, điều tôi nói làm gã cười rất tươi. Cái cười có thể thấy hai mươi bốn cái răng đều tăm tắp và trắng bóng, đồng thời nó cũng tiềm tàng bản lĩnh và nét ngạo mạn.

Sự ngạo mạn như một kiểu phớt lờ câu nói của tôi.

- Ra cô là phóng viên ư? Vậy thì tôi cũng xin nói rõ rằng cô đừng có bao giờ định viết bài gương chiến sĩ thi đua về tôi và nhất là đừng chụp hình tôi mà đăng báo dù tôi rất đẹp trai. Cô đừng phật lòng nhé. Không phải tôi quá tự cao, chỉ vì tôi muốn nói thật rằng tôi sẽ bỏ công việc tôi đang làm bất cứ lúc nào tôi muốn vậy thôi. Tôi là thằng bất trị.

Gã nói chuyện rất giảo hoạt với mọi người và hình như người trong bàn rất thích nghe gã nói. Đầu óc tôi lơ mơ nghĩ đến những nơi tôi đã đến, những người tôi đã gặp, hình như không ai nói như thế cả. Cũng có người thích làm chiến sĩ vô danh, làm con trai suốt đời ôm nỗi đau tạo ngọc. Và tôi đã gặp vô số những con người thích nổi tiếng, thích nổi trội trong đám đông, bằng thành quả của mình cũng có và cũng có kẻ cướp công, cướp chiến tích của người khác để củng cố, xây đắp cho sự vinh thăng của mình. Nghề nghiệp giúp cho tôi có dịp thấy được sự mãn nguyện của người rỗng tuếch thích xuất hiện trước màn ảnh vô tuyến, thích có ảnh đăng báo, thích được phỏng vấn, được phát biểu... Và tôi cũng biết rõ hậu quả của những bài khen chê như chế rượu quì vào ba-zơ hay a-xít.

Tôi không biết bữa ăn ấy gồm những gì, có ngon không. Chỉ nhớ láng máng ánh lửa xanh lét liếm quanh cái hủ nhỏ đựng đầy thịt. Tôi lững thững ra về trên lối dành cho người đi bộ. Và lòng tôi thầm cảm ơn những bông hoa hoàng hậu nở vàng một khoảng sân nhà ai làm cho tôi thấy buổi chiều ấy có một chút dễ thương.

Lại cũng gã ấy. Viễn bước bên cạnh tôi và nói:

- Thế ra nhà cô trên đường này sao? Tôi định đến thăm người bạn ở cuối đường. Rất hân hạnh được đưa cô một quãng.

*

- Ai cũng thích được nổi tiếng, được ca ngợi. Tại sao ông thì không?

- Ngày xưa đôi lúc tôi cũng thích, nhưng giờ tôi cảm thấy tất cả là phù du và chẳng để làm gì. Hơn nữa lúc nào tôi cũng có ấn tượng với nhà văn, nhà báo vì tôi không thích ai nói láo hay nói thêm.

Tôi nổi sùng thật sự:

- Thú thật tôi chưa hề có ý định viết về ông nhưng ông có muốn tôi viết về thằng bất trị không?

Mặt gã bỗng sa sầm xuống đượm buồn như ai lùa bàn tay vào vết thương của gã.

- Biết nói sao đây, rằng tôi không hoàn toàn có ý nghĩ như vậy. Chỗ cô ở đấy phải không. Khi nào có dịp tôi sẽ đến thăm, cô cho phép tôi nhé.

- Để làm gì? Để ông sẽ nhạo báng tôi chăng hay để tôi biết thêm về một kẻ bất trị.

Vẻ buồn làm cho sự linh hoạt tinh quái của nét điển trai nhuộm vẻ đểu đểu trong nụ cười biến mất.

- Cô khó chịu về tôi ư? Cái thằng người tôi nó là vậy. Phá phách đùa cợt và cả quỷ quyệt nữa nhưng đôi khi tôi thấy buồn rũ ra, buồn muốn chết đi được nhất là nói về mình, về bề nổi của mình để được nổi tiếng. Tôi đã lang thang khắp chiều dài đất nước, lăn lóc, vật lộn với đủ trò đời. Vào tù ra khám... Tôi yêu tiền ngang với đàn bà đẹp. Tôi nói thật thà đó.

Tôi cười mỉa mai:

- Tại sao ông đi nói thật với người hay nói thêm và nói láo như tôi.

- Vì tôi thấy ở cô nổi trội lên sự cô độc, sự lạc lõng giữa đám đông, điều đó khiến tôi tin cậy.

*

Tôi gặp Viễn trên chuyến phà trưa sau vài năm không thấy gã. Tôi không viết một dòng nào về gã nhưng ở gã có nét gì rất riêng chỉ cần gặp lại là nhận ra ngay. Viễn cho tôi biết là đã bỏ nghề cơ khí và chuyển sang nghề nặn tượng mấy năm nay. Gã và vài người bạn thân mở một tổ nhỏ chuyên nặn tượng Thần Tài, Thổ Địa, Quan Âm bằng thạch cao để bán cho các gian hàng bán lẻ. Và hôm ấy Viễn đang trên đường giao hàng trở về.

Tôi lơ đãng nhìn khoảng trời đầy mây qua ô cửa nhỏ. Viễn vẫn đều

đều kể:

- Bỏ nghề cơ khí lại hóa hay. Cô biết không, cái việc nặn tượng này đơn giản vô cùng, nó không đòi hỏi lao động nghệ thuật nhiều như mẹ tôi - bà đã từng là nhà thơ tiền chiến, ở một chừng mực nào đó bà cũng đạt được những vinh quang và lận đận vì những bài thơ của bà. Không có ai quở trách sản phẩm mình làm ra sai trái thế này thế nọ, mà tôi chỉ thấy thiên hạ mua về để lên một vị trí trang trọng nhất và quỳ lạy. Tôi từng biết một người đàn bà rất giàu và rất kênh kiệu. Cả đời bà ta luôn vênh mặt với mọi người, bà ta chỉ cười với đồng tiền và quỳ lạy cung kính trước bàn thờ Thần Tài và tượng Phật Quan Âm. Và cũng xin khiêm tốn mà báo tin mừng với cô rằng đời sống bây giờ của tôi đã khá hơn trước rất nhiều. Đã mua được nhà và sắm được xe nhờ bàn tay lao động của mình - bàn tay biến thạch cao thành thần thánh!

Gã lại cười. Cái cười vẫn đẹp và đểu đểu như xưa nhưng hai bên đuôi mắt có vết chân chim.

Tôi chia tay với gã khi phà cặp bến. Nhìn bóng áo màu nâu, mái tóc dài kín cổ nhòa lẫn trong dòng người và xe cộ tôi hơi tiếc phải chi có dịp tôi sẽ hỏi gã về một kẻ bất trị.

Vậy là đêm tang lễ này tôi gặp lại Viễn. Viễn cũng quen và hàm ơn rất lớn với người chết. Tôi hỏi Viễn những câu xã giao thông thường của những người quen lâu ngày gặp lại.

- Bà và các cháu vẫn khỏe, thưa ông?

- Cám ơn cô. Hai cháu đang chuẩn bị thi hết cấp ba. Còn vợ tôi, bà ấy như là mẹ Mốc. Đó là người đàn bà trời sinh ra để khổ vì tôi.

Tôi làm thinh. Tôi không thích đàn ông nói về vợ như vậy trước mặt một phụ nữ khác. Viễn hỏi tôi:

- Bây giờ cô đang làm gì? Còn tiếp tục công việc cũ nữa không?

Tôi cười buồn:

- Tôi nghe người ta nói ông là thầy bói có tiếng sao không bói xem tôi đang làm gì. Làm cho tôi tin được không dễ đâu. Ừ, sao gặp tôi ông không hỏi tôi về chuyện khác, về chồng con chẳng hạn, như tôi đã hỏi ông vậy?

Viễn nghiêm chỉnh:

- Tôi không muốn biết chuyện ấy và tôi cũng không thích hỏi những lời xã giao chiếu lệ. Bao giờ tôi cũng thấy cô một mình, cô đơn. Dù cô có đến mười đứa con và một ông chồng mẫu mực đứng sau lưng; dù ba mươi năm sau gặp lại, tôi vẫn thích gọi cô là cô mà không là bà. Cái điều kỳ lạ là đứng trước mặt cô tôi thích nói thật dù tôi rất ghét nói thật với người khác - ghét ngang với tham vọng được nổi tiếng.

Một lần cúng nữa bắt đầu. Người quấn khăn tang làm công việc của người thọ tang quỳ trước linh cửu người thân. Nhà sư lại rời binh xập xám tiếp tục kinh kệ và chuông mõ với lòng thành kính và quyết tâm đưa vong linh người đã khuất về cõi Niết Bàn. Cái đầu óc lông bông và phàm tục của tôi lại lan man nghĩ về những lần đi viếng chùa, những lần dùng cơm chay với các vị tu hành trụ trì ở chùa. Tôi từng thấy nhà sư cho vào mồm những miếng thịt heo quay, cá chiên, tôm hùm hấp, mắm với rau sống. Dĩ nhiên những món ăn ấy được chế biến từ tàu hủ và rau quả. Các vị tu hành cứ thoải mái ăn uống chẳng ai cấm sự phong phú của óc tưởng tượng giữa thật và giả. Tôi không dám nói với ai ý nghĩ rằng nên chăng chế biến những con người bằng chất dẻo rồi thổi căng phồng lên, rồi trang phục như người thật và đặt trong giường ngủ các vị tu hành trai giới cho bớt lạnh lẽo những đêm dài cô quạnh.

Gã thầy bói vẫn ngồi im lìm vẻ trầm ngâm như một triết gia. Tôi giục một lần nữa:

- Ông bói dùm tôi một quẻ đi chứ. Đúng cũng được mà sai vạn dặm cũng được. Ngày xưa tôi cũng thỉnh thoảng đi xem bói, có điều bây giờ trong tôi không còn ngây thơ và cả tin nữa.

- Thầy bói gì tôi cô dư biết rồi, tại người ta gọi vậy thôi. Chẳng qua là thời gian tôi ở tù chung với một người biết ít nhiều về chỉ tay, tướng số, tử vi. Tôi học lóm rồi nghiên cứu thêm ở sách vở nhưng chủ yếu vẫn là tôi học ở trường đời. Qua giao tiếp, va chạm với đủ hạng người đã định hình những tính cách cho mỗi loại người. Họ có những cái chung nhất định nào đó và có những cái rất riêng mà khi tiếp xúc mới phân định chi li cho từng người... Nó đòi hỏi sự nhạy bén như ông cha nếm rượu của Alphonse Daudet vậy, không thể truyền hết cho ai được đâu.

Lúc đầu tôi chỉ tào lao với mấy bà bạn hàng quen ở các quầy bán lẻ. Coi tay, coi tướng cho vui. Chẳng ngờ tiếng đồn lan xa rồi người ta tìm đến tôi nhờ xem giúp chỉ tay đoán tương lai hậu vận. Tôi nhìn bàn tay kết hợp với cách nói năng và nhiều thứ khác. Có khi người ta tự khai về mình mà không hay. Và tôi đã nắm bắt những mấu chốt, những kẽ hở của lời nói mà đoán định. Thường người ta đến xem bói khi người ta đã mất mát hoặc đang chiếm lĩnh cái điều mà họ canh cánh bên lòng là sợ mất hay điều ngoài sự mong chờ.

Buồn cười nhất là những cô gái sợ người tình ruồng bỏ hoặc đã bị bỏ rơi. Họ đến tự khai hết mọi quan hệ hai người rồi yêu cầu mình cho hướng giải quyết. Nhưng đáng buồn cười nhất là một cơ quan nọ đang có sự cố nội bộ, năm phe, bảy phái gầm ghè nhau. Ai cũng sợ bị hất khỏi chỗ đứng. Không hiểu có thằng quỷ tha ma bắt nào nó chỉ đến tôi. Vậy là tôi hỏi khéo, nó khai hết nội tình xung đột rồi hỏi tôi phải làm sao. Rồi ngày khác cũng những người của cơ quan ấy lần lượt đến hỏi tôi, nhưng không ai biết ai đến tôi cả. Tôi đã nghe từ mọi phía và quá rõ đường đi của mỗi người. Tôi ung dung có lời đoán định và lời khuyên như một bàn cờ tôi sắp và điều quân khiển tướng không chút vấp váp, rồi đâu lại vào đấy. Mọi người coi tôi là thánh sống. Tôi được ra vào cơ quan ấy một cách thoải mái và được xem như một thượng khách đặc biệt. Ngẫm lại mà buồn cái thuở hàn vi, nơi ấy chưa chắc mình đã được đặt chân đến. Cái thuở mà tôi đọc được cách đối xử thậm tệ của con người và đầy đủ những bộ mặt người tráo trở.

- Vậy ra ông cũng là người quan trọng và là thầy bói nổi tiếng.

- Biết làm sao được điều mà tôi không thích. Mọi điều tôi thích tôi đã làm. Tôi chòng ghẹo những người nghiêm chỉnh và tôi đùa với những việc không thể đùa. Tôi làm cho nhiều đàn bà, con gái hư hỏng vì tôi. Tất cả những cái đó tôi đều phải trả bằng cái giá không rẻ đâu.

Gã thở dài. Nhưng bây giờ tôi đâm ra yêu cái công việc bói toán này mới chết chứ. Chẳng gì nó giúp tôi hiểu sự muôn mặt của con người, sự oan khiên, nỗi bất hạnh mà ai đó muốn dán cho nó bằng nhãn hiệu bình lặng yên lành. Tôi biết nhiều điều để tát vào mặt cái thằng ngây thơ trong tôi.

Tôi sẽ bơi lội trong dòng đời đục trong, nông sâu để đùa cợt. Một ngày nào đó không đùa cợt được nữa tôi sẽ ngồi ngắm nhìn, nghiên cứu dáng người quì trước mặt Thần Tài, nghiên cứu ngôn ngữ van xin cầu nguyện của con người trước đấng thiêng liêng. Chừng ấy những cái túi biết trong tôi đã lưng lửng, cô muốn tìm đến để nghe tôi xin thật thà kể lại mà không dối trá. Tôi thề.

Gã lại cười. Sao bao giờ trong cái cười điển trai của gã cũng ánh lên nét đểu đểu đến buốt lòng.

Không vì thương, không vì ghét, vì lẽ gì tôi đã từng làm cái việc cau bảy bổ ba, cau chín bổ ra làm mười. Chưa bao giờ tôi cho mình là kẻ đểu. Tôi không nỡ nhìn tôi bằng con mắt nghiêm khắc nhất của lương tâm, hay sự chà đạp của cuộc đời để lại những vết hằn trong tâm hồn làm cho tôi xót xa thương mình?

*

Mưa lại rơi. Người ta sửa soạn khiêng quan tài đi chôn. Vị thầy tu ngồi im không tụng kinh gõ mõ nữa và cũng thôi cái công việc binh xập xám đầy ngoạn mục kia. Tôi không tài nào đoán định được nhà sư đang nghĩ ngợi điều gì? Về một cõi Niết Bàn có thật để ngày đêm tiến tới? Về sứ mệnh của người nối liền cõi trên và nhân gian để sám hối mọi tội lỗi cho chúng sinh? Hay là sư đang nghĩ về một trò chơi hấp dẫn nào đó mà không phạm giới cấm?

Và Viễn - gã vẫn ngồi trầm ngâm nhìn ra màn mưa giăng bủa trên mặt sông khuya khoắt. Gã nghĩ gì? Nhớ đến một trong những người đàn bà đẹp mà gã đã ghé qua đời họ? Hoặc vô số những người đến tự nguyện kể lể đời tư uẩn khúc, đường hoạn lộ thăng trầm đầy đột biến và nhờ gã gióng lên những lời tiên tri vàng ngọc để người ta lo lắng, vui buồn, hí hửng hoặc có biện pháp củng cố những gì đang nắm giữ.

Còn tôi giá như bây giờ đấng thiêng liêng hiện ra trước mặt và cho phép tôi toại nguyện điều mong ước tôi cũng thú thật là tôi không biết mình muốn gì và sẽ từ chối điều xin xỏ. Nhưng có điều quái dị là khi đứng trước người đã nhắm mắt buông xuôi hai tay tôi vừa thấy sự phù du lẫn trò hề. Bất giác tôi cảm thấy thương con người còn đi bằng hai chân trên mặt đất hơn. Thương cõi Niết Bàn không biết còn gần hay xa tầm với của những bậc tu hành thích tắm biển và chơi xập xám. Thương nét đểu cáng của người đàn ông từng biến thạch cao thành thần thánh. Và tôi cũng thương sự ngông cuồng khờ khạo một thời mà tôi phải trả bằng giá quá đắt. Rồi mai... Qui luật muôn thuở của kiếp người.

Phạm Thị Ngọc Điệp

Nguồn: http://www.vannghesongcuulong.org.vn

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đọc bài chú viết hay ghê đi, HC vô được rồi nên phá chú chút nghe :P

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu có thông tin của nhà báo Phạm Thị Ngọc Điệp, chú Thiên Sứ có ghé thăm không?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vắng Phoenix lâu nhỉ ? giờ xuất hiện chắc là bận ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu có thông tin của nhà báo Phạm Thị Ngọc Điệp, chú Thiên Sứ có ghé thăm không?

Cảm ơn Phoenix! Có thể cho tôi địa chỉ được không? Tôi sẽ cố gắng ghé thăm. Nếu không được cũng gửi lời hỏi thăm nàng.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

HẬU NGƯỜI XƯA

Tấm xương khô lạnh còn ân ái.

Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình.

.......................................Đinh Hùng.

Đã gần 40 năm rồi. Trong đợt về Hanoi lần này, tôi tìm gặp được anh Bùi Vạn Chân - thủ trưởng cũ của Maitranletrinh. Anh bây giờ là Phó giáo sư Tiến sĩ khoa kiến trúc, đã nghỉ hưu. Chúng tôi gặp nhau sau gần 40 năm. Thời gian gặp gỡ ngắn ngủi, chỉ đủ ôn lại những kỷ niệm buồn về Maitranletrinh. Anh có đi dự đám tang của nàng, nhưng không nhớ mộ nàng chôn ở đâu? Thật là một điều buồn.

Posted Image

Em đi đâu?

Em về đâu?

Hắt hiu sương lạnh nhịp cầu Long Biên.

Hồn em lạc xứ thần tiên.

Bồng bềnh buông mái tóc huyền trên sông.

Thế rồi thôi.

Thoắt hư không.

Thời gian rêu phủ sông Hồng ngẩn ngơ.

Hồn trinh em vẫn mộng mơ

Bâng khuâng tôi gửi vần thơ nhớ người.

Trăng buồn bàng bạc môi cười.

Khói hương man mác nhắc người thiên thu...

...........................................Người Xưa - Trong tập thơ "Trăng Say"

Thiên Sứ

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

HẬU NGƯỜI XƯA

Tấm xương khô lạnh còn ân ái.

Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình.

.......................................Đinh Hùng.

Đã gần 40 năm rồi. Trong đợt về Hanoi lần này, tôi tìm gặp được anh Bùi Vạn Chân - thủ trưởng cũ của Maitranletrinh. Anh bây giờ là Phó giáo sư Tiến sĩ khoa kiến trúc, đã nghỉ hưu. Chúng tôi gặp nhau sau gần 40 năm. Thời gian gặp gỡ ngắn ngủi, chỉ đủ ôn lại những kỷ niệm buồn về Maitranletrinh. Anh có đi dự đám tang của nàng, nhưng không nhớ mộ nàng chôn ở đâu? Thật là một điều buồn.

Em đi đâu?

Em về đâu?

Hắt hiu sương lạnh nhịp cầu Long Biên.

Hồn em lạc xứ thần tiên.

Bồng bềnh buông mái tóc huyền trên sông.

Thế rồi thôi.

Thoắt hư không.

Thời gian rêu phủ sông Hồng ngẩn ngơ.

Hồn trinh em vẫn mộng mơ

Bâng khuâng tôi gửi vần thơ nhớ người.

Trăng buồn bàng bạc môi cười.

Khói hương man mác nhắc người thiên thu...

...........................................Người Xưa - Trong tập thơ "Trăng Say"

Thiên Sứ

Nàng đã được cải táng rồi. Nhưng còn nặng tình với nhân gian. Không phiền lụy mà chỉ vấn vương. Mừng vui vì còn tri kỷ. Mỗi người một mối, chào nhau là đủ thảnh thơi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG TRÁI TIM BÍ ẨN

BẮC VIỆT NAM - ĐẦU THẾ KỶ XX
Cử Trung chậm rãi mở tờ "Trung Bắc Tân Văn". Bỗng hắn giật mình, cái "píp" đang gậm trên miệng rơi xuống nền nhà, một hàng tít lớn chạy hết tám cột báo, ngay đầu trang hai đập vào mắt hắn: "Triệu phú An Nam". Dưới hàng tít đó là hình một người đàn ông ăn mặc ra lối Tây, đeo kính trắng đang mĩm cười. Đó chính là tham Tuấn, bạn cũ của hắn. Hắn tái mặt thốt lên: "Thế là cả bọn chúng đều trúng độc đắc! Trời! Một triệu đồng bạc Đông Dương! Không lẽ bọn chúng đã đổi trái tim cho quỷ sứ thật?". Hắn buông tờ báo đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng, dáng trầm ngâm.
ナ Lúc ấy, là một đêm trăng muộn cuối hè. Trên trời muôn ngàn vì sao lấp lánh như ngọc rắc, đang lung linh toả ánh sáng mờ ảo xuống trần gian. Trong vườn của một ngôi nhà xây theo lối cổ ở cuối phố Quan Thánh - Hà Nội, cử Trung đang cùng ba người bạn chén tạc chén thù chờ xem hoa quỳnh nở.
Vầng trăng lưỡi liềm đã chênh chếch đỉnh đầu. Trong bụi quỳnh, những cánh hoa rung rung, rồi từ từ xoè ra như bàn tay ngà của tiên nữ đưa xuống trần gian. Gió từ hồ Trúc Bạch sau vườn thổi tràn vào mát lạnh làm những cành hoa đung đưa. Đoá quỳnh như một đám mây trắng bồng bềnh. Trên áng mây hoa đó, như có nàng tiên áo trắng đang vũ điệu Nghê thường. Mọi người tỏ ra ngây ngất trước sự nhiệm mầu của tạo hoá khi hoa quỳnh nở.
Đúng vào lúc đó, từ trong bóng tối của hòn giả sơn phía sau vườn, một người loạng choạng bước ra, cười ngặt nghẽo:
- Thì ra các bác tụ tập ở đây uống rượu, thế mà không gọi nhà em uống với cho vui.
Vừa nói, người đó vừa ngật ngưỡng bước tới, lấy chai rượu đang kẹp trong nách đặt mạnh xuống bàn như một lễ vật nhập tiệc. Phán Thông khó chịu nói mát:
- Quí quá hoá, ông mới sang chơi - Y quay lại đám bạn - Đây là ông cử Khôi, trước là lý cựu làng Vũ Đại, bây giờ là hàng xóm của tôi. Ông ấy có tật uống rượu suốt ngày như Lý Bạch tiên sinh.
Mọi người miễn cưỡng gật đầu chào, tỏ vẻ khó chịu. Lão lý Khôi cười hềnh hệch:
- Tôi không dám so tài với bậc tiền bối. Nhưng nói về cái khoản uống rượu thì chắc Lý tiên sinh cũng phải thua tôi!
Đầy tớ mang thêm bát đũa, lý Khôi chẳng khách sáo kéo ghế ngồi rồi rót rượu trong chai. Hắn mời mọi người, rồi ăn uống tự nhiên như vốn đã có mặt từ lâu. Đám thực khách mất hứng, chuyển đề tài từ hoa sang chuyện ăn nhậu, rồi chuyện làm ăn, kiếm chác ở cái thời buổi Tây, Tàu lộn xộn.

Khi tiệc rượu đã gần tàn thì cử Trung cũng đã say lắm. Y nhìn khuôn mặt của đám bạn y, lúc tròn lúc méo. Đặc biệt lão lý Khôi trông cứ như quỷ sứ: mặt hắn gồ ghề, dài ngoẵng với cái cằm chẻ, thêm vào đó là hai cái tai giảo nhọn hoắt, lúc này nó có vẻ dài ra giống như hai cái sừng trên đầu con quỷ. Hắn còn nhìn thấy sau lưng lão lý Khôi thấp thoáng hai ba bóng người mờ ảo, như cô hồn bám theo ma quỷ. Cử Trung lắc lắc cái đầu nhìn kỹ: mấy bóng cô hồn biến mất như nhập vào người lão lý Khôi, chỉ thấy mình hắn vừa uống rượu vừa cười hồng hộc. Nhưng chỉ được một lát, mấy bóng cô hồn lại hiện ra nhập nhoạng với lão Khôi. Cử Trung mang mang nghe như hắn nói:
- Nếu phải đổi trái tim cho quỷ sứ để lấy một triệu bạc Đông Dương, chắc các bác cũng sẵn lòng đổi chứ? Thật đơn giản mà lại lắm tiền, chẳng phải lo nghĩ kiếm chác cho mệt xác!
Nói xong hắn rót rượu và nâng chén. Cử Trung còn nghe bọn bạn hắn cùng ồ cả lên như hưởng ứng. Tham Tuấn nói:
- Đổi chứ! Với cái giá đó thì cả thân tôi cũng đổi cho quỷ được, có sá gì một quả tim.
Nói xong hắn cười hô hố. Lý Khôi gật gù tỏ vẻ bằng lòng, tự tay rót rượu đưa cho Tham Tuấn. Hắn ngửa cổ uống cạn. Phán Thông ra vẻ lý luận:
- Theo cách trí của văn minh Thái Tây bây giờ thì quả tim chỉ để lưu thông máu huyết. Đổi lấy một quả tim khác thì có gì mà không được. Miễn là máu vẫn chảy phải không các bác?
- Phải rồi! Phải rồi! - Tú Can gật gù tán thưởng, giọng lè nhè - Ở đời này thiếu gì thằng chết vì vài đồng bạc thì một triệu đổi lấy quả tim là quá rẻ! Ai chứ tôi thì tôi đổi ngay, chả cần phải tính toán!
Lý Khôi đắc ý cười rống lên. Hắn lại rót rượu trong chai của hắn vào chén - một thứ rượu trắng đùng đục, cay nồng mà lúc nãy cả bọn đều chê, đưa cho tú Can và phán Thông.
- Tốt! Tốt lắm! Thế thì chúng ta phải uống cạn chén rượu này để chứng tỏ sự nhất trí của chúng ta!
Mấy người bạn của cử Trung reo hò hưởng ứng. Họ lần lượt uống cạn chén rượu và lảo đảo.
Lý Khôi bước tới bên cử Trung nhăn nhở:
- Thế nào? Uống đi chứ! Sao? Không bằng lòng đổi hả? Một triệu bạc Đông Dương, người ta có thể hoá điên vì nó. Ha! Ha!
Khi hắn nói, hơi rượu phả ra nồng nặc từ cái miệng đen ngòm vì gãy mấy cái răng cửa, có hai cái răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài. Hắn lại đứng trong bóng tối của lùm cây. Anh trăng rọi qua kẻ lá đung đưa, chiếu vào khuôn mặt gồ ghề của hắn làm cho nó loang lổ, lấp loáng trông thật ghê sợ. Đôi mắt tròn xoe, long lên sòng sọc nhìn như xoáy vào tim cử Trung. Hắn rùng mình, không hiểu đây là lão lý Khôi hay quỷ sứ hiện hình. Hắn thét lên:
- Đồ quỷ sứ! Cút đi. Tao không thể bằng lòng với một bọn hạ đẳng như chúng mày.
Cử Trung loạng choạng đứng dậy. Một mùi tanh dội lên từ trong bụng - hắn ôm cổ họng "hự" lên một tiếng rồi nôn thốc nôn tháo. Đầu hắn ong ong như búa bổ, mắt hắn hoa lên. Nhưng hắn cũng ráng với tay lấy cái liễn cơm trên bàn, quăng về phía lão lý Khôi.
Đám bạn hắn vội đứng bật dậy can hai người:
- Thôi đi bác Trung! Bạn bè uống rượu nói đùa một tí cho vui! Có gì đâu mà bác làm quá thế!
- Bác Trung say quá rồi! Vào ngủ đi.
Phán Thông quát đầy tớ dìu cử Trung vào phòng. Khi đi, hắn còn mang máng nghe họ xúm xít xin lỗi lão lý Khôi và tỏ ý chê trách hắn không xứng đáng với tư cách của bậc thượng lưu trí thức. Hắn bực tức lảm nhảm:
- Tao! Tao từ cả bọn chúng mày. Một bọn người hạ đẳng chơi với quỷ sứ! Chúng mày sẽ bị trừng phạt.
*
Hắn cau mặt đi đi lại lại trong phòng. "Không hiểu lúc đó tại ta say rượu hay lão lý Khôi đúng là quỷ sứ hiện hình? Không lẽ ở thời buổi văn minh Thái Tây này mà lại còn có ma quỷ?". Hắn lẩm bẩm nghi hoặcナ Nhưng sự thật sờ sờ trước mắt hắn: "Cả￸ ba thằng bạn hắn đều lần lượt có một triệu bạc Đông Dương của lô độc đắc trong ba kỳ xổ số liên tiếp, như có một phép lạ?ナ" - Cái giá mà bọn nó thoả thuận đổi trái tim cho quỷ để có - "Ta phải tìm cho ra lẽ!".
*
Một lát sau, chiếc xe tay gọng đồng bóng loáng do phu xe nhà kéo, chạy bon bon về phía cuối đường Quan Thánh. Trên xe, cử Trung ngồi đăm chiêu suy nghĩ.
Phán Thông, kẻ trúng độc đắc đầu tiên đã bán căn nhà của hắn dọn đi nơi khác. Nghe nói hắn hùn vốn với Tây mở đồn điền chè trên mạn ngược và sắm nhà Tây ở Hải Phòng, Đồ Sơn gì đó. Cử Trung gõ cửa nhà lão lý Khôi, một căn nhà tồi tàn lọt thỏm giữa dãy phố sang trọng.
- Cứ vào! - Tiếng lão lý Khôi nói vọng ra.
Cử Trung đẩy cửa bước vào. Lão đang uống rượu, trên bàn lăn lóc mấy quả chuối xanh và đĩa muối ớt. Nhìn thấy cử Trung, lão đứng dậy ngơ ngác một chút rồi gằn giọng:
- À! Thì ra là ông! Quí hoá quá! Thật phúc đức cho một thằng hà tiện như tôi, lại được một người sang trọng như ông hạ cố tới chơi!
Lão chỉ chiếc ghế đẩu rồi hạ giọng:
- Mời ông ngồi! Thế nào? Mấy ông bạn sang trọng của ông không ngó tới ông hả? Nghe đâu họ có cả triệu bạc Đông Dương đấy! Một bọn xỏ lá phải không ông?
- Tôi đến đây chính vì việc đó. Cử Trung cố gắng làm mặt nghiêm nghị cho ra vẻ quan trọng trả lời lão Khôi.
- Sao? Định bắt họ chia hả? Ha! Ha! - Lão lý Khôi cười phá lên - Này! Tôi nói cho ông cử nghe. Cái loại người được gọi là cao quý như ông làm gì có được hành động cao quý ấy! Ông muốn lấy tiền của họ thì phải đổi lấy một cái gì chứ!
Cử Trung tím mặt vì bị xúc phạm, nhưng cố bình tĩnh nói:
- Vâng! Đó chính là điều tôi muốn hỏi ông - hắn đi thẳng vào đề - Có phải chính họ đã đổi trái tim cho ông để lấy một triệu Đông Dương phải không?
Lý Khôi há hốc cái miệng mất hết răng cửa, có hai chiếc nanh chìa ra ngoài tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Ông nói cái gì? Một thằng như tôi mà lại có bạc triệu để đổi cho họ? Hố! Hố! Hố! - Lão lý Khôi cười rống lên. Bỗng hắn xụ mặt, đôi mắt long lên dữ tợn:
- Ông điên rồi! Đúng là ông điên rồi! Hãy cút đi, đồ điên loạn!
Nói xong, lão thuận tay cầm chén rượu ném thẳng vào người cử Trung. Trong nhà, tiếng chân người chạy ra rầm rập. Cử Trung vội đẩy cửa lách ra ngoài. Hắn còn nghe lão Khôi la hét:
- Cút đi! Thằng khốn nạn, mày muốn có tiền thì phải đi chơi với quỷ.
Thấy chủ ra, anh phu kéo chiếc xe tới. Hắn leo vội lên xe rồi hất hàm:
- Đến nhà ông tham.
Nói xong hắn lẩm bẩm:
- Thật là khó hiểu.
Hắn được tham Tuấn đón tiếp một cách lịch sự nhưng nhạt nhẽo trong một phòng khách sang trọng được bày trí ra lối Tây, vì tham Tuấn đã vào dân Tây. Chủ khách an toạ. Tham Tuấn rót chén nước lọc đẩy về phía cử Trung:
- Mời ông xơi nước.
Nói đoạn, hắn với tay lấy gói Cotab để trên bàn rút một điều thuốc gõ gõ lên móng tay, rồi châm lửa hút. Hắn không mời cử Trung. Sau khi thưởng thức một hơi thuốc thơm, hắn phà khói và chậm rãi nói với sắc mặt lạnh lùng:
- Đã hơn hai năm nay, kể từ bữa uống rượu ở nhà thầy phán Thông, nay mới gặp lại ông. Tôi cứ nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ gặp lại chúng tôi nữa chứ! Nay ông ghé nhà chắc có điều gì muốn nói?
Cách đối xử của tham Tuấn làm cử Trung ngượng ngùng lúng túng. Hắn cố bình tĩnh nói ấp lững:
- Vì đời có nhiều chuyện lạ, nên tôi đến hỏi ông!
- Đời chẳng có gì lạ. Kể cả việc tôi vừa trúng độc đặc.
Cử Trung vội vã chớp lấy câu nói tham Tuấn:
- Bác tham ạ! Đó chính là chuyện mà tôi muốn.
Tham Tuấn gạt ngang:
- Nếu tôi không trúng thì có người khác trúng, đâu có gì lạ.
- Cái lạ là ở chỗ bác với phán Thông và cả tú Can đều lần lượt trúng số ba kỳ xổ số liên tiếp sau bữa uống rượu ở nhà phán Thông - Cử Trung dừng lại thăm dò - Tham Tuấn ngồi im, mặt lạnh như tiền. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu cử Trung: "Đúng là sắc diện của thằng mang trái tim của quỷ". Hắn nói tiếp:
- Nếu tôi không nhầm thì lúc đó các bác đã bằng lòng đổi trái tim cho quỷ để có một triệu đồng?!.
Tham Tuấn tái mặt, hắn gạt ngang với một giọng đều đều:
- Này anh cử! Cái đó chỉ là chuyện rượu vào lời ra, không liên quan gì đến anh. Tôi còn nhớ hôm đó anh đã tệ đến mức ói mửa một cách khiếm nhã, không ra cái thể thống gì, lại còn nguyền rủa rồi từ chúng tôi. Anh coi chúng tôi như một lũ côn đồ đi theo ma quỷ. Tôi cứ tưởng sẽ không bao giờ còn gặp mặt anh nữa. Những điều anh hỏi tôi, đến mật thám Sở Liêm phóng cũng chưa có quyền hỏi tới. Theo tôi, chuyện lạ nhất trên đời này là thằng đã khinh rẻ bạn bè, tỏ ra cao thượng, nhưng lại muốn trở lại thân quen khi bạn nó giàu có!
Tham Tuấn nói một hơi, cử Trung sạm mặt vì bị xúc phạm. Hắn dằn mạnh cốc nước xuống bàn:
- Anh Tham! Tôi cũng không ngờ anh lại có lối nghĩ về bạn bè một cách thô bỉ như thế. Khi anh say, anh đổi trái tim cho quỷ, thì khi tôi say, say thật sự, tôi quá lời. Nhưng anh đừng vội nghĩ rằng tôi đến đây vì anh trúng độc đắc, có một triệu bạc Đông Dương, mà anh đã vội khinh rẻ bạn bè. Tôi không giàu bằng anh, nhưng cũng không phải dân hạ lưu. Rồi anh sẽ thấy: tự tôi sẽ tạo dựng nên cơ nghiệp chứ không phải như bọn anh, những kẻ chấp nhận đổi trái tim cho quỷ sứ để làm giàu!
Nói xong hắn đứng phắt dậy, xô ghế, mặt hầm hầm bước thẳng ra cửa. Tham Tuấn nhún vai, nói với theo kèm một cái cười nhạt:
- Đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền cũng chẳng lấy gì làm xấu, đâu có trộm cướp lừa đảo ai. Đổi chác sòng phẳng mà. Nếu có dịp, tôi khuyên anh cũng nên đổiナ
Cử Trung bước mạnh lên xe, bực tức buông thõng một câu:
- Về!
Anh phu xe ngơ ngác vài giây rồi cắm cúi kéo chiếc xe đi. Suốt dọc đường, hắn lầm lỳ không nói một lời nào. Vẻ mặt hắn lạnh lùng, đôi lông mày nhíu lại. Trong thâm tâm, hắn vẫn tin rằng các bạn hắn đã đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền. "Một bọn đểu giả! Tiền! Chính tiền đã làm ra những thằng đểu". Hắn đã bị mạt sát, sỉ nhục bởi những thằng đểu nhưng có tiền. "Hừ!" - hắn nghĩ - "Suy cho cùng thì thằng nào cũng cần có tiền. Chính ta cũng vì có tiền mà thằng culi xe kia gò lưng kéo ta đi và chịu để cho ta quát tháo, sỉ vả. Ha! Ha! Rút cuộc cả thế giới đều quay cuồng vì tiền!". Hắn nhếch mép cười nham hiểm. "Ta phải giàu có, phải có tiền để có tất cả, cái bọn đểu giả đó phải quỳ phục khi ta trở thành phú gia địch quốc mà không cần đổi trái tim cho quỷ. Bọn này sẽ biết tay tao!".


* *
*

 

Gần mười năm trời trôi đi, ông cử Trung trở thành tay cự phú. Người ta đồn rằng: Ông ấy có cả chục đồn điền lớn trên mạn ngược và cả ở xứ Nam kỳ. Ông ấy còn làm chủ nhiều khách sạn, cao lâu sang trọng ở nhiều tỉnh, thành phố Bắc kỳ. Ấy là chưa kể ruộng vườn vô số kể và hàng dãy phố lớn nhỏ cho thuê với đủ mọi giá ở Hà Nội, Hải Phòng. Sự giàu có đó người ta cho rằng đến Tây cũng phải nể và ông Bạch Thái Bưởi có sống lại cũng đến lắc đầu. Nhưng có điều mà ai cũng thấy ở ông cử Trung là sự lạnh lùng sắt đá. Hình như cả đời ông chưa hề biết thương xót và cũng chưa hề làm gì có thể được gọi là từ thiện. Những người tỏ ra sành sỏi về tâm lý học cho rằng: "Sở dĩ ông cử có cái tính đó, vì sự nghiệp của ông bắt đầu là do mở sòng bạc và cho vay cắt cổ". Ông đánh giá chính xác từ giá trị cái vương miện của đức Hoàng thượng, cho đến cả manh áo rách của thằng ăn mày và ông sẵn sàng cho cầm nếu thấy có lợi cho ông, chẳng cần biết đến quốc sỉ và lương tâm. Ông tỏ ra hài lòng, khi những con bạc thua cháy túi đem tài sản cầm cố cho ông với giá rẻ mạt, để cay cú nướng tiếp vào cuộc đỏ đen. Nhiều kẻ phải bán vợ, đợ con, tán gia bại sản vì ông. Ông làm giàu trên sự thất cơ lỡ vận và khốn cùng của con người, nên ông không thể xúc động và thương hại họ được. Sự sòng phẳng lạnh lùng đến độ tàn nhẫn đã mang lại cho ông cơ ngơi của nhà triệu phúナ
Cử Trung đã thoả mãn với sự nghiệp của mình. Hắn nghĩ đến những thằng bạn khốn nạn đã khinh bỉ và sỉ nhục hắn. Với kinh nghiệm của kẻ đã từng trải trong việc kinh doanh, hắn đoán không sai lầm khi cho rằng: đám bạn của hắn đã sạt nghiệp, hoặc may mắn lắm thì cũng chỉ hưởng nhàn chứ không thể hơn hắn được.
Hắn tin rằng, với tài sản hàng trăm triệu như hắn thì những thằng bạn ấy sẽ phải phun ra những điều bí ẩn của chúng nó để đổi lấy chút ơn huệ do hắn ban cho, như trước đây chúng đã đổi trái tim cho quỷ. Nhưng đám người ấy bây giờ ở đâu?

 

* *
*

 

Vào chập tối đêm giao thừa năm Tý. Đường phố Hà Nội vắng vẻ trong không gian lạnh lẽo và mờ mịt vì mưa bụi. Có một lão ăn mày lê từng bước chậm chạp trên hè phố. Thỉnh thoảng hắn lại ôm ngực, ho lên từng cơn làm cho thân hình gầy gò của hắn run bần bật một cách thảm não. Hắn hy vọng có một nhà nào đó còn mở cửa để xin ăn. Nhưng mọi nhà đều đóng cửa im ỉm chờ đón giao thừa và hắn cứ thế lê bước chân trong gió mưa lạnh lẽo.
Đến một ngôi nhà xây theo kiểu biệt thự ra lối Tây gần đầu phố Cửa Đông, ý chừng quá mệt mỏi và bị cơn đau hành hạ, hắn té nhủi xuống người va vào cánh cửa. Tiếng động bất ngờ làm đàn chó Tây trong nhà cùng rồ lên sủa ong ỏng. Nghe tiếng chó sủa dai dẳng, một anh đầy tớ chạy ra mở chiếc cửa ô nhỏ trên cánh cổng sắt nhìn ra ngoài. Thấy lão ăn mày, anh lớn tiếng quát.
- Cút ngay! Ai cho mày nằm trước cửa nhà ông!
Gặp người, lão ăn mày ngóc đầu dậy, thều thào năn nỉ:
- Xin ông làm ơn làm phúc cho kẻ bệnh tật khốn khổ này, miếng cơm hớp cháo sống qua ngày! Tôi kiệt sức quá rồi! Tôi không thể lết đi được nữa.
Anh đầy tớ nhăn mặt:
- Mày biết đây là đâu không mà dám lại xin ăn? Nhà ông cử Trung đấy! Ông chủ chúa ghét những bọn khố rách áo ôm xin xỏ, cút đi chỗ khác! Ở đây không có gì cho mày đâu!
Nghe đến tên cử Trung, mắt lão ăn mày sáng lên hy vọng:
- Thưa ông! Có phải ông cử Trung mà ông nói đấy là ông Bùi Thế Trung, con cụ án Phát, nhà trước ở phố Hàng Đồng không ạ! Tôi là tú Can vốn có quen ông cử Trung từ trướcナ
Anh đầy tớ nhăn mặt:
- Mày đừng có láo, dám gọi tên tục ông chủ tao! Không bước ngay, ông thả chó ra bây giờ!
Nói xong, anh đầy tớ đóng sập ô cửa và bước vào nhà.
- Cái gì ngoài đó thế mày? - Cử Trung hất hàm hỏi.
- Dạ bẩm ông! Có thằng ăn mày nằm ngoài cổng. Con đã đuổi, nhưng nó không chịu đi. Nó còn xưng tên là tú Can và nói có biết ông chủ ạ!
Cử Trung giật mình:
- Hả! Nó nói nó là tú Can hả?
- Dạ bẩm vâng!
- Nó còn nói gì nữa không?
- Dạ bẩm! Nó còn biết tên họ ông chủ và biết ông là con cụ An, trước ở phố Hàng Đồng.
Cử Trung nghĩ bụng: "Có lẽ là tú Can thậtナ". Hắn ra lệnh cho anh đầy tớ:
- Mày ra đưa nó vào nhà bếp, cho nó ăn uống tắm rửa, rồi lấy một bộ quần áo cũ của chúng mày đưa cho nó mặc. Sau đó bảo nó chờ đấy, tao sẽ xuống gặp!
Anh đầy tớ ngạc nhiên: Đây là lần đầu tiên anh thấy ông chủ giúp một kẻ ăn màyナ
Nửa giờ sau, cử Trung bươc xuống nhà bếp, tú Can cũng vừa ăn xong bát cháo. Sự tàn phá của thời gian trong một quãng đời khốn nạn, khiến cho đường nét và điệu bộ của lão ăn mày không còn cái gì là của tú Can gần mười năm về trước. Cử Trung hất hàm hỏi:
- Ông có phải là tú Can trước ở phố Hàng Bồ không?
Lão ăn mày giương đôi mắt mệt mỏi nhìn kỹ vào người vừa hỏi mình:
- Ông! Ông là ông Trung ở phố Hàng Đồngナ?
Nói chưa hết câu, tú Can ôm ngực ho sù sụ.
Cử Trung gật đầu:
- Tôi cũng có ý định tìm kiếm mấy ông. Phán Thông, tham Tuấn bây giờ ở đâu?
- Thưa ông! Ông phán Thông tôi nghe nói ông ấy hùn mở đồn điền với Tây ở trên mạn ngược, làm ăn cũng phát tài lắm. Nhưng hồi các quan Tây đánh nhau với quân của cụ Đề Thám, ông ấy đã chết trong loạn lạc rồi.
- Còn tham Tuấn? Ông có nghe gì không?
- Thưa ông! Tham Tuấn lúc có tiền, hắn lấy thêm vợ lẽ và mua cho cả dãy nhà ở phố Nhà Hoả bây giờ, lâu lâu hắn lại về đấy ở. Không may bị hoả hoạn, cháy to lắm! Nó với con vợ lẽ cũng chết cháy cả. Sau khi nó chết, con vợ cả đi lấy Tây rồi!
Cử Trung cười nhạt:
- Còn ông? Cả triệu bạc Đông Dương đâu mất cả mà lại đến nông nỗi này?
- Thưa ông! Tôi sau khi trúng số độc đắc được vài năm thì vợ tôi chết vì ho lao.
Nói đến đây, tú Can lại ôm ngực ho lên sù sụ, máu ứa ra hai bên mép, hắn quệt máu vào tay áo rồi hổn hển nói tiếp:
- Còn con trai tôi thì chết trong đợt lính tập sang Tây. Thế là tôi chán đời, bao nhiêu tiền bạc nướng vào cô đầu, nhà thổ và vào sự đen đỏ trường đời hết cảナ
Tú Can thở dài:
- Âu cũng là sự trừng phạt của số kiếp. Tôi mong ông thương tình ra tay cứu vớt. Suốt đời tôi xin đội ơn ông!
Cử Trung nheo mắt nhìn tú Can một cách khinh bỉ:
- Sao ông không tìm đến lão lý Khôi mà cầu cứu hắn.Chính hắn đã mang lại bạc triệu cho các ông kia mà.
Tú Can nhìn cử Trung ngơ ngác, có vẻ như không hiểu hắn nói gì. Tú Can ấp úng:
- Lý Khôi chết rồi! Hình như chết rồi! Không thấy hắn đâu cảナ!
- Sao! Hắn ra sao rồi? - Cử Trung hỏi đồn.
Tú Can mặt tái mét, hổn hển nói lắp bắp:
- Tôi! Tôi cũng chỉ nghe nói lại. Vì sau khi cả bọn tôi trúng số thì cũng bàn nhau ghé lão lý Khôi chơi, định cho lão ít tiền. Khi đến nơi thì người nhà lão cho biết: cách đó ít lâu, lão ra mé hồ Trúc Bạch sau nhà câu cá làm đồ nhắm rượu, nhưng không thấy trở về. Bên chỗ lão ngồi câu, người ta tìm thấy đôi guốc mộc lão vẫn đi, mồi câu cá và cả cái cần câu nổi bên hồ, nhưng chẳng thấy lão đâu cả. Ai cũng nghĩ lão say rượu rồi chết đuối. Nhưng mò thì không thấy xác, cả tháng cũng không thấy xác nổi lên. Mà cái hồ Trúc Bạch cũng không lấy gì làm lớn lắm. Rút cuộc cũng không ai biết lão ra làm sao.
"Thật đúng là một con quỷ, nó đã biến mất!" - Cử Trung nghĩ bụng, hắn gằn giọng:
- Này tú Can, chắc ông còn nhớ bữa rượu cuối cùng của chúng ta ở nhà phán Thông chứ? Nếu ông chịu nói thật liên hệ giữa lão lý Khôi với mấy cái giải độc đắc của các ông thì tôi sẽ cho ông ít tiền để sống!
Tú Can trợn mắt nhìn cử Trung, có vẻ ngạc nhiên.
Cử Trung cau mặt, sẵng giọng nói thẳng:
- Mày đừng giả vờ, có phải đêm hôm đó chúng mày đã thoả thuận đổi trái tim cho lão lý Khôi quỷ sứ đó, để lấy một triệu bạc Đông Dương phải không? Nói đi! Không nói thì bước ngay ra khỏi nhà tao và tiếp tục sống nốt cuộc đời khốn nạn của màyナ
Tú Can tái mặt vì xúc động và đau đớn, hắn ngồi đực ra.
Cử Trung nhếch mép cười mai mỉa:
- Nói đi chứ! Mày dám đổi trái tim cho quỷ để lấy tiền thì bây giờ mày cũng phải thấy cần đổi bí mật của quỷ để cứu lấy cái mạng mày chứナ
Tú Can vẫn im lặng, ngồi trơ như đá một lúc rồi miệng hắn lẩm bẩm câu gì nghe không rõ.
- Sao! Mày không chịu nói hả? Không nói thì cút! Bay đâu! Tống cổ thằng này ra khỏi nhà cho tao!
Tú Can giật mình hốt hoảng, hắn chồm tới gần như quỷ dưới chân cử Trung, nói một cách vội vã:
- Không! Không! Ông đừng đối xử tệ với tôi. Ông hãy nghe tôi nói đâyナ Vừa nói đến đấy, bỗng tú Can ôm ngực "hự" lên một tiếng, mắt trợn ngược, máu họng trào ra ngoài lảo đảo gục xuống. Hắn lăn lộn rên rỉ một hồi rồi nằm im bất động.
Cử Trung cau mặt, lấy chân đá vào người lão, lão vẫn không nhúc nhích. Hắn bực tức văng tục:
- Mẹ kiếp! Thật đen đủi. Năm hết Tết đến đi rước của nợ vào nhà mà không được cái tích sự gì!
Hắn quay ra quát đầy tớ:
- Bay đâu! Kiếm manh chiếu cũ bó nó lại, rồi đưa vào nhà thương thí cho tao!
Nhìn đám đầy tớ xúm xít khiêng lão tú Can ra ngoài, cử Trung nhếch mép cười nửa miệng một cách ngạo nghễ. Hắn mở tủ lạnh lấy ra một chai rượu Tây rót đầy cốc, ngửa cổ uống cạn để thưởng cho chính hắn: hắn đã chứng tỏ được con người hắn mạnh hơn ma lực của quỷ!

 

* * *
 

1000 NĂM SAU
Một thông báo của ngành khảo cổ - qua các phương tiện thông tin đại chúng - đã làm chấn động dư luận:
"Họ đã phát hiện được một trái tim người nguyên vẹn đến tận từng chi tiết, nhưng lại bằng đá trong một ngôi mộ cổ đào được ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam. Mộ bia đào được cho biết đó là mộ của một con người tên Bùi Thế Trung sống ở đầu thế kỷ XX. Qua di vật còn lại, mặc dù di hài đã thành đất, các chuyên gia cho rằng: đây là một người khi còn sống, được coi là giàu có trong xã hội đương thời. Nhưng chính sự kiện tồn tại của trái tim đã mới là điều chú ý của các chuyên gia và dư luận."
Ý kiến của các chuyên gia về lịch sử mỹ thuật trong Viện Khảo cổ cho rằng: Đây là một tác phẩm điêu khắc tiêu biểu của trường phái "cực hiện thực" tồn tại vào thời bấy giờ và tất nhiên là một tác phẩm có giá trị, nên đã được chủ nhân của nó: ông Bùi Thế Trung cho chôn theo khi chết, như tập tục cổ.
Nhưng ý kiến của nhóm này nhanh chóng bị bác bỏ, khi người ta dùng tia quang tuyến chiếu xuyên qua trái tim đá. Họ thấy rằng: đó không phải là một trái tim bằng đá mà là một trái tim người bị hoá đá. Phát hiện này thật sự đã làm các nhà khoa học sửng sốt.
Theo các chuyên gia về khảo cổ học cho biết: Trong lịch sử ngành khảo cổ, họ chưa hề thấy một hoá thạch thuộc phần mềm của một bộ phận trong cơ thể sinh vật, khi mà chính bộ xương của sinh vật đó - có cấu tạo gần với đá nhất - lại bị tiêu huỷ.
Những sự kiện trên được đưa tới "TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG LẠ TOÀN ĐỊA CẦU". Đây là một cơ quan rất có uy tín trong chức năng của nó. Những thành tích vĩ đại mà Trung tâm đã có trong cộng việc đóng góp vào kho tàng kiến thức của nhân loại, khiến cho mọi người kỳ vọng vào nó trong việc giải thích sự hiện hữu của một trái tim đã đầy bí ẩn.
Nhưng ngay cả ở Trung tâm này, các chuyên gia cũng không thống nhất ý kiến. Cuối cùng người ta phải nhờ đến can thiệp của "Siêu máy tính điện tử". Đây là loại máy hiện đại nhất thời bấy giờ. Bộ nhớ của nó ghi lại toàn bộ kiến thức của nhân loại và có khả năng suy luận trên cơ sở những dữ kiện khổng lồ ấy.
Dư luận lại một lần nữa sửng sốt về kết quả phân tích của "Siêu máy tính điện tử".
"Sự hiện hữu của trái tim người hoá đá chỉ có thể giải thích được nếu người ta thừa nhận rằng: Khi con người sống với lý trí thuần tuý không xuất phát từ một căn bản nhân tính, để cho sự lạnh lùng của lý trí với mục đích vị kỷ bóp chết những rung cảm hướng thiện của tâm hồn, thì trái tim sẽ hoá đá sau khi chết. Đó là một thực tế chứ không phải là một hình tượng nghệ thuật".
Vài ngày sau đó, mọi người lại được thông báo lập luận về vấn đề này của một chuyên gia có uy tín, đứng đầu nhóm các nhà bác học chuyên nghiên cứu về "Những vấn đề của con người và máy tính điện tử", giáo sư - tiến sĩ Niq Vidi. Ông ta cho rằng:
"Suy luận của máy tính điện tử, được dựa trên trữ lượng dữ kiện to lớn là toàn bộ kho tàng kiến thức của nhân loại. Nhưng kho tàng đó chỉ là những thành tựu đã đạt được, chứ không phải là kết luận cuối cùng của chân lý tuyệt đối, vốn vô lượng vô biên như vũ trụ. Do đó, nó chưa thể bảo đảm tính tuyệt đối của sự kết luận". Hơn nữa, ông Niq Vidi cho rằng: "Sự hiện tồn của trái tim đá chỉ là một sự kiện duy nhất về loại này trong lịch sử nhân loại. Cần phải có một hiện tượng tương tự được lặp lại với một kết luận trùng hợp, mới có thể chứng minh cho kết luận của Siêu máy tính điện tử".
Lập luận này khiến cho sự tìm hiểu về trái tim đá tìm được trong cổ mộ đi đến chỗ bế tắc. Do đó, những người có quan điểm nhân văn, những nhà đạo đức - xã hội học vẫn được sự ủng hộ của những người lạc quan với cuộc sống, có tâm hồn lãng mạn và yêu đời - khi họ cho rằng:
Trái tim của con người, cơ quan nhạy cảm nhất với những cảm xúc hướng thượng và nhân bản, là biểu tượng của những giá trị tinh thần cao cả của nhân loại trong tình yêu cuộc sống, cho nên nó không bao giờ hoá đá.

 

19-12-1991

Tập truyện - Đêm 1002 của nàng Sheherazate.

Nxb Phụ Nữ 1996

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

THÂN CHỦ TÔI KHÔNG GIẾT NGƯỜI!

Truyện khoa học giả tưởng

Hắn mở mắt ra, một thoáng cảm giác lạ xẹt qua người làm hắn nhớ lại: Đây không phải phòng riêng của hắn ở 27 đường Maxell mà là phòng giam. Một căn phòng hẹp téo, bề ngang chừng 2m5, dài cỡ 4m, đủ kê một cái giường cá nhân và một cái tủ con. Tường bê tông ba phía quét vôi xanh, cửa và mặt phòng giam quay ra hành lang làm bằng song sắt. "Rồi, ta bắt đầu một cuộc đời mới!". Hắn lẩm baẩm, đầu vẫn choáng váng vì rượu và quả đấm của Dream: "Cái thằng chết tiệt!". Mặc dù đã bị từ chối, vẫn năn nỉ đòi khiêu vũ với Mazda - người tình của hắn - khi nàng đã mệt đờ vì nhảy cả tiếng đồng hồ trước đó. Hắn đã cho Dream một bài học về phép lịch sự đối với phụ nữ, khiến cho nó không bao giờ có thể lặp lại hành đông bất nhã đó là lần thứ hai trong đời: một viên dạn vào giữa sọ làm thằng bợm đó chết ngay. Cảnh sát đã tống cổ hắn vào trại giam với cả lít Martell trong bụngナ. "Thế là hếtナ!" Nhưng hắn cũng chẳng còn kịp suy nghĩ gì hơn vì men rượu đã giúp hắn ngủ say đờ trên cái giường nệm mút cũ kỹ ở trong phòng giam nàyナ

Còn bây giờ thì hắn hối hận. Hình ảnh những người thân và những kỷ niệm bắt đầu hiện ra - những buổi vũ hội, những cuộc tắm biển và những đêm mùi mẫn bên người tìnhナ "Ôi! Mazdaナ". Nàng chẳng hơi đâu chờ đợi một kẻ giết người như hắn mà cái giá hữu nghị nhất là hai năm tù.

Bỗng một tiếng nói trầm trầm, đều đều vang lên từ cái haut - parleur đặt ở đầu hành lang làm đứt dòng suy nghĩ của hắn: "Giám thị trực! Đưa ngay phạm nhân VB - 018 - E lên phòng điều tra!". Hắn nhìn xuống ngực - số VB - 018 - E chính là hắn.

Có tiếng giày lộp cộp, một viên cảnh sát đi đến trước cửa phòng giam. Hắn xoay người đúng một góc chín mươi độ và đưa tay hướng về ổ khoá. Bộ điều khiển từ xa lắp trong bàn tay làm chiếc cửa tự động mở. "Một thằng "cớm sắt"!". Giới giang hồ rất sợ loại cớm này: võ nghệ tuyệt hảo, bắn súng như trong phim, bất kể kẻ nào chống lại hoặc cố ý chạy trốn đều nằm ngay đơ vì bị đánh trúng huyệt, hoặc ăn một viên đạn thuốc mê vào bả vai cứ y như là nó đã nằm sẵn ở đấy từ trướcナ

- Đứng dậy! Đi theo tôi.

Hắn đừng dậy và buớc ra. Đằng sau hắn, tay cớm lầm lũi đi theo. Hắn thấy ghê ghê ở trên gáy. "Biết đâu, do một sự trục trặc kỹ thuật nào đó mà tay "cớm" này có hành động bất thường và giết hắn?"ナ Những chuyên viên khoa học ở Bộ Nội vụ bảo đảm rằng: Không bao giờ có sự cố và tất cả những cảnh sát máy đều được theo dõi chặt chẽ bằng computer, chỉ cần một hành động khác thường nằm ngoài chương trrình, lập tức sẽ bị vô hiệu hoá bằng vô tuyến điều khiển từ xaナ "Mẹ kiếp! Cái xã hội loài người ở thiên niên kỷ thứ IV này, đã sống trong một môi trường nhân tạo hoàn toàn và bị lệ thuộc vào những bộ nhớ điện tử. Nếu bị một trục trặc gì đó, mọi thứ sẽ đi đứt, cuộc sống rối loạn và nhân loại sẽ trở lại thời kỳ đồ đá!". Hắn lẩm bẩm cầu xin Thượng đế toàn năng hãy ban phép lành cho những con virus điện tử ở trong các trung tâm siêu điện toán. Thế là xong! Mọi trung tâm điều khiển không còn hoạt động, những tội lỗi của hắn ghi trong bộ nhớ của các máy siêu điện toán sẽ được xoá sạch. Hắn sẽ quẹo phải, đi qua cổng trại giam về nhà và trở thành người lương thiện, còn tay "cớm sắt" lùi lũi đi sau lưng hắn sẽ quẹo sang tráiナ

Nhưng điều đó đã không xảy ra, vì hắn không phải là một nhân vật quan trọng đáng được Thượng đế chú ý, cho nên hắn vẫn phải bước vào phòng điều tra với tay "cớm sắt" đi sau lưng. Trong phòng điều tra không có một người nào. Hắn hiểu ngay: Người ta làm việc với hắn theo chương trình của những thủ tục pháp lý.

- Mời anh ngồi!

Hắn ngồi xuống chiếc ghế trước bàn làm việc như một cái máy, mặc dù haắn là một con người thật sự. Giọng nói đều đều, lạnh lùng tiếp tục vọng ra từ máy siêu điện toán:

- Anh sẽ được tiếp xúc với ngài luật sư Organ để biểu lộ sự đồng ý hay không đồng ý nhờ luật sự can thiệp cho vụ án của anh ! Xin mời ngài Organ Yamaha!

Cánh cửa tự động mở ra. Một người đứng tuổi, dong dỏng cao, khuôn mặt sáng sủa dễ mến, cắp chiếc cặp bước vào trong phòng. Ông nhã nhặn bắt tay hắn và ngồi xuống ghế đối diện:

- Anh là Sonyl - Pho?

- Thưa ông, vâng!

- Tôi là luật sư tiến sĩ Organ Yamaha, được gia đình anh đề nghị bào chữa cho anh trong vụ án Dream, anh có quyền từ chối hoặc chấp nhận sự bào chữa của tôi theo luật định!

Vừa nói ông vừa lấy trong túi áo vét một cái thẻ luật sự đưa cho hắn.

- Tôi đồng ý! Hoàn toàn đồng ý! - Hắn nói một cách vội vã, nét mặt tỏ ra sung sướng - Được một người như ông giúp đỡ, chắc chắn tôi sẽ có một mức án hữu nghị!

- Được rồi! - Luật sư Organ gật đầu tỏ vẻ hài lòng. - Bây giờ anh hãy trả lời một số câu hỏi của tôi: Anh thừa nhận có bắn vào Dream?

- Đúng thế thưa ông! Nhưng lúc đó tôi say rượu, tôi đã uống cạn cả lít Martell, không tin ông có thể hỏi thằng bồi, tôi không cố sát!

- Anh bắn vào nó trong trường hợp nào?

- Nó đánh tôi một cú rất mạnh vào đầu - Hắn chỉ lên trán - Đây ông coi, nó còn sưng chù vù lên đây này!

Luật sư gật đầu, nhìn lên cái trán có một cục lồi tím xanh, tỏ vẻ thông cảm:

- Nhân chứng cho biết hai người có xô xát!

- Đúng vậy thưa ông! Vì nó xúc phạm đến người yêu của tôi, tôi cản trở, nó còn mắng tôi là: Đồ lợn ích kỷ. Thế là tôi choảng nó!

- Dream đánh anh nhiều không?

- Mới chỉ một cú vào đầu nhưng rất mạnh, khiến tôi bật ngửa. Tôi phải bắn hắn vì nếu để một cú thứ hai chắc tôi không sống nổi!

Luật sư Organ nheo nheo mắt nhìn hắn:

- Trường hợp này tôi khuyên anh nên thừa nhận mọi hành động gây án để hoàn tất hồ sơ và được ra toà một cách nhanh chóng. Tôi sẽ giúp anh có thể được trắng án!

- Trắng án? Hắn trố mắt ngạc nhiên.

Luật sư Organ gật đầu với một nụ cười bí hiểm đầy vẻ tự tin:

- Cảm ơn sự cộng tác của anh.

Ông đứng dậy, bắt tay hắn rồi lặng lẽ ra về.

* *

*

Toà đại hình xử vụ giết người được mở tại toà án tiểu bang Atlantic. Thực ra với một án giết người do say rượu và sĩ diện với gái cũng chẳng có gì đáng chú ý, nhưng vì là một vụ đại hình nên số người tham dự cũng khá đông đảo. Trong khi chờ đợi đến giờ xử án, họ bàn tán đủ mọi chuyện trên đời: từ chuyện bế tắc trong việc tìm một giá trị hối đoái tiền tệ, để có thể liên kết về mặt kinh tế với người ngoài hành tinh; cho đến chuyện đã có một loại vải thông minh, có khả năng thay đổi màu sắc và độ dày mỏng theo ý muốn, được tung vào thị trường để phục vụ các quí bà, quí cô ナ Bỗng tiếng chuông reo vang và ánh sáng trong phòng xử án đổi sang màu lá mạ khiến cho mọi người chú ý. Tiếng ồn ào bớt đi hẳn vì những câu chuyện phiếm được ngưng lại. Phiên toà sắp bắt đầu.

Các quan chức của phiên toà trịnh trọng với bộ lễ phục, lục tục bước vào vị trí của mình trong phòng xử án. Sau những nghi thức được tiến hành cho có lệ, phạm nhân được dẫn ra trước vành móng ngựa. Chỉ mới có ba ngày trong tù, khuôn mặt của Sony - Pho trông đã tiều tuỵ hốc hác, hắn bước đi như người mộng du. Các nhân chứng làm lễ tuyên thệ rồi thuật lại những gì họ đã chứng kiến. Tất cả đều chống lại Sonyl. Hắn hồi hộp chờ đợi bản cáo trạng.

Ngài đại diện Công tố viện, một người đàn ông trạc tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao bọc lấy một dáng người đẫy đà. Với vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị, ông lấy từ trong chiếc cặp da đen một cái đĩa nhỏ màu bạc, cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán được gắn vào bàn làm việc. Ông nhấn nút, ra lệnh cho máy hoạt động. Một giọng đều đều lạnh lùng vang ra từ trong máy đọc bản cáo trạng: Tất cả mọi hành động của Sonyl được phân tích một cách rất chi tiết với những điều luật liên quan. Hắn chẳng hiểu chiếc máy nói gì với những danh từ chuyên môn của ngành tư pháp - ở cái thiên niên kỷ này, mọi lĩnh vực đều được chuyên môn hoá rất sâu, mỗi người chỉ có khả năng hiểu biết trong lĩnh vực của mình. Nhưng mặt hắn từ từ chuyển sang màu tái mét, những hình ảnh trước mắt hắn quay tròn và cảm giác có một vật gì đó đè nặng lên tim, khiến cho hắn phải nắm chặt lấy cái vành móng ngựa. Bản cáo trạng với sự tính toán chính xác của máy siêu điện toán vừa đưa ra đề nghị dành cho hắn mức án: bốn mươi năm tù.

Ông chánh án chống tay lên cằm ra vẻ suy nghĩ và tập trung tư tưởng nghe máy siêu điện toán đọc cáo trạng. Sự có mặt của ông ở phiên toà chỉ có ý nghĩa nghi thức, tất cả phần việc dánh cho ông đều do máy siêu điện toán làm việc, quyền hành thật sự của ông ở trong phòng nghị án. Cho nên, ông đã lợi dụng ánh sáng lóe phản chiếu từ mắt kiếng để tranh thủ ngủ. Tối hôm qua, ông đã đi nhảy đầm đến sáng với người bạn tình cũ, hơn mười năm nay mới gặp lại. Ông bồi thẩm biết điều đó, nên khi bản cáo trạng vừa dứt, liền đá nhẹ vào chân chánh án. Chánh án uể oải nhấn nút máy siêu điện toán. Một giọng trầm oai vệ thốt lên:

- Xin mời ngài luật sư Organ Yamaha.

Danh vị luật sư được nhắc đến như một dòng điện kích thích thần kinh khiến cho Sonyl - Pho tỉnh lại. Hắn ngước mặt về phía ông với cái nhìn van lơn, cầu cứu.

Luật sư bước hẳn ra khỏi chỗ ngồi, ông nói với một giọng từ tốn:

- Thưa quí toà! Vì những luận cứ để bào chữa của tôi không thể lập chương trình cho máy điện toán, cho nên căn cứ vào điều 432A, chương 27 của Luật Xử án, tôi xin phép được bào chữa bằng chính khả năng cá nhân!

Tiếng xì xào nổi lên trong phòng xử án. Đề nghị của luật sư làm họ ngạc nhiên. Ở thiên niên kỷ thứ IV này, một con người làm việc không cần đến sự hỗ trợ của máy siêu điện toán là điều không thể hiểu nổi. Ngài đại diện Công tố viện mỉm cười với ý nghĩ hài hước: "Có lẽ ông ta muốn thân chủ của mình hưởng nguyên xi mức án hoặc tù thêm".

- Thưa quí toà! - Luật sư nói tiếp - Tôi xin phép được trình bày đoạn phim tư liệu có liên quan đến đời tư của nạn nhân - Ông Dream - Makeno - trước khi tiến hành bào chữa cho bị can.

- Tôi phản đối! - Ngài đại diện Công tô viện cau mặt - Công bố đời tư của một người không được sự đồng ý của họ là sai luật.

-Thưa quí toà! Đây chỉ là đoạn phim của giai đoạn bệnh án của ông Dream, có liên quan đến những yếu tố luật pháp và là chứng cứ cho những lời bào chữa của tôi.

- Toà án đồng ý - Chánh án phát biểu và che miệng ngáp. Ông chẳng muốn mất thì giờ vì tụi luật sư nói giai như đỉa này.

Luật sư Organ lấy từ trong cặp một cái đĩa nhỏ màu bạc đưa cho thư ký Toà án. Ông này cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán. Lập tức sáu màn hình 150 inch được bố trí xung quanh phòng xử án, cùng lúc hiện lên những hình ảnh về những biến cố trong đời của Dream - Makeno:

Trên màn hình là cảnh dòng sông Danube chảy quanh co dưới những hàng thuỳ dương thơ mộng. Bên sông có một cái cối xay gió đứng im bất động, như suy tư cho những sự thăng trầm của cuộc đời. Đó là một di tích cổ được phục chế lại để nhắc nhở nền văn minh cổ xưa của loài người. Dream - Makeno đã sinh ra ở đây vào tháng 7 năm 3267.

Hình ảnh thơ mộng biến mất, thay vào đó là một thanh niên nằm quằn quại vì bị một chiếc xe hơi chạy bằng nệm không khí lướt qua đôi chân, khi anh ta té sấp xuống mặt đường. Mạch máu bể nát, xương ống chân nứt như mai rùa. Sự cố được ghi nhận vào tháng 2 năm 3289, lúc này Dream 22 tuổi. Anh ta được đưa vào bệnh viện thay bằng hai chân máy. Anh được xuất viện vào tháng 6 năm 3289 với tình trạng sức khoẻ tốt.

Tháng 10 năm 3296, Dream - Makeno tốt nghiệp đại học Oxford. Nhưng ngay sau lễ tốt nghiệp, trên đường về nhà, do một tai nạn xe hơi, Dream bị phỏng nặng. Màn hình chiếu cảnh một người bị cháy phừng phừng đang cố chui qua cửa kính xe hơi một cách tuyệt vọng. Bệnh nhân được đưa vào bệnh viện. Một ca giải phẫu tuyệt vời tiến hành dưới sự chỉ đạo của giáo sư Niq Vidi đã tách não và tim - hai bộ phận tự nhiên duy nhất còn hoạt động của bệnh nhân - vào một cơ thể nhân tạo giống hệt Dream về ngoại hình. Những hình ảnh sinh động của cuộc giải phẫu, được quay rất chi tiết và nó trở thành một bộ phim tư liệu nổi tiếng của ngành giải phẫu. Bệnh nhân xuất viện ngày 29 tháng 12 năm 3296 với một cơ thể yếu, không được hoạt động mạnh. Ra viện, bệnh nhân tiếp tục theo học chương trình cao học kỹ thuật tại Đai học Oxford. Lúc này Dream 29 tuổi.

Trên màn hình hiện lên cảnh mùa đông dưới chân dãy núi Alpes. Một màu trắng êm ái của tuyết phủ dày mặt đất, trên đó, đoàn người mặc quần áo thể thao, đầu đội mũ bảo hiểm đang chơi trượt tuyết. Họ đang bay từ độ cao 4m xuống và lướt đi trên mặt đất. Nhưng có một người vừa rơi xuống thì lăn đi vài vòng rồi giãy giụa. Đó là những hình ảnh được tái tạo trong phim tư liệu về tai nạn xảy ra cho Dream. Anh bị đứt mạch máu nối từ tim lên não, do chấn động khi rơi từ trên cao. Não tự nhiên của anh không còn khả năng phục hồi chức năng hoạt động. Người ta đưa não của anh vào phòng xử lý, mã hoá toàn bộ ký ức và chuyển sang bộ nhớ của óc điện tử. Bộ nhớ này hoạt động trên cơ sở những ký ức đã có của Dream và là một sự tiếp tục của những ký ức đó. Não nhân tạo được thay thế cho não tự nhiên trong cơ thể Dream. Trái tim được loại bỏ, vì không còn thích hợp cho một cơ thể nhân tạo và được thay bằng hộp năng lượng nguyên tử. Sự kiện xảy ra vào ngày 28 tháng 11 năm 3298. Hội đồng y học quốc tế coi việc thay thế não tự nhiên bằng não nhân tạo là thành tựu cuối cùng của ngành giải phẫu.

Hình ảnh Dream - Makeno tươi cười nhận văn bằng tiến sĩ kỹ thuật vào năm 3301, chứng tỏ cuộc giải phẫu hoàn hảo, não nhân tạo vẫn hoạt động tốtナ

Luật sư Organ ra hiệu tắt máy. Ông phát biểu:

- Thưa quí toà! Những hành động của Sonyl, tôi không có gì để bào chữa. Nhưng điểm quan trọng ở đây là: Dream thật sự đã chết vì tai nạn ngày 28 tháng 11 năm 3298 dưới chân dãy núi Alpes. Sự thay thế não, bộ phận tự nhiên cuối cùng trong cơ thể Dream bằng óc điện tử, chỉ là sự tái tạo hình ảnh của một con người thật sự đã chết bằng một người máy. Trong bộ luật về Người Máy đã định danh: "Người máy là sản phẩm do con người tạo ra bằng công cụ lao động, được mô phỏng theo hình thức và nội dung giống con người. Thưa quí toà! Trong Dream có cái gì không phải là sản phẩm của con người? Không có gì cả!.

Ông hăng hái nói tiếp:

- Điều 47B thuộc chương II của bộ luật này đã qui định: "Con người được quyền huỷ diệt hoặc vô hiệu hoá người máy, khi người máy có hành vi chống lại con người". Dream đã tấn công Sonyl bằng sức mạnh cơ khí của anh ta và dấu vết còn để lại ngay trên khuôn mặt, mà tất cả những ai tham dự trong phiên toà này đều nhìn thấy. Thưa quí toà! Căn cứ vào những điều luật về quyền con người đối với người máy, thân chủ tôi hoàn toàn vô tội.

Phát hiện độc đáo của Organ khiến mọi người sửng sốt. Có những tiếng vỗ tay nổi lên hoan hô ông. Những người tham dự quan toà xì xào làm cường độ âm thanh vượt quá giới hạn cho phép, máy điện toán tự động rung chuông và yêu cầu im lặng.

Ngài đại diện Công tố viện đứng dậy bước ra khỏi chỗ ngồi và nói với một giọng điềm tĩnh:

- Ngài luật sư đã viện dẫn phần định danh về người máy một cách thiếu sót, vì còn một đoạn văn bản sau đây cho phần này: "Người máy hoạt động được, bởi sự điều khiển trực tiếp hay gián tiếp của con người thông qua chương trình đã được ghi trong bộ nhớ điện tử"! Thưa quí toà! Dream không hề bị điều khiển bởi bất cứ một con người nào trên hành tinh này, ngoại trừ sự diễn biến tư duy của anh ta. Hơn nữa về mặt luật pháp, Dream chưa hề có sự công nhận đã chết của một hội đồng giám định y khoa. Việc thay thế những bộ phận tự nhiên bằng bộ phận nhân tạo đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử loài người, để đảm bảo sự sống tiếp tục của một con người là việc làm nhân đạo. Đối với Dream, khi não - bộ phận tự nhiên cuối cùng - được thay thế, anh ta đã sống với tất cả sự hiểu biết của bản thân anh ta. Môi trường gia đình và xã hội vẫn chấp nhận Dream như một con người thật sự. - Ngài đại diện Công tố viện nói mỗi lúc càng hăng hái; ông vung tay chặt xuống không khí với vẻ mặt phẫn nộ - Việc giết Dream phải được coi như một hành động giết người. Thưa quí toà! Ngay ở đây, quí vị có thể chứng kiến sự đau khổ tận cùng của một người mẹ mất con - Giọng ông trầm xuống với một nét mặt tỏ ra thương cảm, ông đưa tay chỉ hàng ghế dành cho thân nhân của Dream. Ở đấy có hai người đàn bà đang ôm mặt khóc nức nở, đó là mẹ và em gái Dream. - Phải chăng đây là tình cảm dành cho người máy? Nạn nhân chỉ thật sự được coi là đã chết bởi bàn tay của kẻ đang đứng ở kia, sau vành móng ngựa.

Luật sư Organ vội vã bước tới trước mặt mẹ và em gái của Dream. Ông nghiêng mình, nói với một vẻ mặt thông cảm:

- Tôi xin trân trọng bày tỏ sự chia buồn cùng bà và cô, vì đã mất đi hình ảnh sinh động của một người con trong gia đình.

Nói xong, ông cúi chào rồi quay lại phía quan toà:

- Thưa quí toà! Không ai có thể không xúc động trước những đau khổ của đồng loại, nếu tỏ ra là người có lương tâm. Tình cảm đối với Dream - người máy trong gia đình và cả trong xã hội - chỉ là một sự liên hệ tiếp tục với ký ức về một con người đã sống. Dream - người máy bị phá huỷ đã làm mất đi hình ảnh sống động liên hệ với kỷ niệm, tạo nên một cảm giác đau khổ vì mất mát thật sự. Nhưng không phải vì thế mà Dream - người máy phải được coi như là một con người. Đó là ý tưởng không nhân bản. Thưa quí toà! - Luật sư Organ nói một cách hăng hái - Chúng ta cũng không thể vì những thiếu sót có tính hành chính ở một bệnh viện mà đi đến kết luận về sự tồn tại của con người về mặt pháp lý. Ở Dream, người máy rõ ràng không có những giá trị sinh học của con người. Điều dễ nhận thấy ở đây là: anh ta không có tuổi sinh học như con người và bất tử cho đến ngày tận thế! - Nói đến đây ông ngừng lời nhìn phía những người dự phiên toà - Đối với con người đích thực - Ông nói tiếp - Tuy chưa có một sự định danh rõ ràng cho nó, nhưng ý niệm về con người vẫn hình thành bởi mối tương quan với đồng loại. Dream - người máy không phải là đối tượng nghiên cứu của mọi khoa học nhân văn. Nếu coi hành động của Sonyl là hành động của một kẻ giết người thì đó cũng là lúc người ta đã giết chết những ý niệm đích thực về con người.

Luật sư Organ dang rộng hai tay với vẻ mặt thất vọng và tiếc nuối:

- Ôi! Nhân loại sẽ đi về đâu, nếu người ta thừa nhận Dream - người máy, là một con người?

- Tôi phản đối - Ngài đại diện Công tố viện hầm hầm tức giận - Ông luật sư đã đưa ra những lời lẽ có tính ám chỉ đả kích cá nhân, chứ không phải tranh biện trên cơ sở luật pháp để làm sáng tỏ công lý.

- Tôi đang tranh luận với ngài đại diện Công tố viện tại toà án để làm sáng tỏ vụ án, chứ không phải hân hạnh tiếp kiến cá nhân ngài George - Malem.

- Rất tiếc, nếu nạn nhân không bị bắn chết bởi thân chủ của ông, chắc chắn anh ấy sẽ chứng minh với ông: anh ấy là con người thật sự.

- Điều may mắn cho ông là linh hồn con người chết không hiện về để báo cho ông biết: Anh ta đã thật sự chết trong cuộc trượt tuyết dười chân núi Alpes.

Tiếng chuông reo cảnh cáo những biểu hiện lệch hướng trong tranh luận. Máy siêu điện toán đã nhận được những tín hiệu âm thanh dồn dập.

Ngài đại diện Công tố viện quay về phía ông chánh án - với nét mặt bực bội - giành quyền phát biểu:

- Thưa quí toà! Con người không phải chỉ thay đổi những bộ phận tự nhiên trong cơ thể bằng những bộ phận nhân tạo, mà nó đã thay đổi luôn môi trường thiên nhiên đã sinh ra nó bằng một môi trường nhân tạo. Và đó là biểu hiện của sự tiến hoá của nền văn minh nhân loại. Phải chăng sống trong một môi trường nhân tạo, con người đã huỷ diệt mình? Sự tồn tại của Dream sau giải phẫu và thay thế bằng óc điện tử, chính là một thành tựu khoa học vĩ đại - cũng giống như con người đã tạo ra một môi trường của mình - ở đấy không phải sự sống kết thúc mà là tiếp tục phát triển dưới dạng khác. Nền văn minh của nhân loại sẽ đi về đâu, nếu không goi hành động của bị cáo là một hành động giết người - Vừa nói ông vừa ngẩng cao đầu nhìn mênh mang lên trần.

Luật sư Organ đưa tay lên xoa xoa cằm, đầu hơi cúi nhìn xuống đất, phải chăng ông đã tìm thấy ở nơi cát bụi - cõi cội nguồn và sự kết thúc của con người - một ý niệm đích thực về con người? Lúc này trông ông có dáng trầm ngâm của một triết gia. Bất ngờ, ông quay người về phía toà án, giơ tay như muốn nói ナ

Bỗng một tiếng nói trầm trầm hoà vào tiếng chuông reo vang: "Toà tạm nghỉ để nghị án."

Tiếng ồn ào lập tức nổi lên, những người tham dự phiên toà tiếp tục cuộc tranh luận của luật sư và vị đại diện Công tố. Trong phía ý kiến ủng hộ Công tố viện có mẹ của Dream. Bà cảm nhận đứa con bà chỉ thật sự chết bởi viên đạn oan nghiệt của Sonyl. Bà sụt sùi khóc vì người ta nhắc tới con bà.

- Thưa bà! Mong bà hãy bớt phiền não, người ta có thể làm sống lại con bà bằng cách chế tạo lại một bộ óc điện tử khác với những dữ kiện ký ức của Dream còn lưu trữ trong máy siêu điện toán. Anh ấy sẽ trở về với tất cả tình cảm nồng hậu như xưa đối với bà! Một ông béo phị, hói trán, ngồi bên cạnh mẹ Dream - mà người ta nhận ra là ông chủ tiệm gà rán Hamberger ở đường Don Juan - đã an ủi bà. Cô Simili, em gái của Dream, lắc đầu buồn bã:

- Nhưng lúc đó anh tôi sẽ thật sự là một người máy. Đâu còn như anh Dream trước đây là sự sống tiếp nối của anh ấy! Nói xong, cô ôm mặt khóc nức nở. Ông chủ tiệm gà rán lắc cái đầu hói tỏ vẻ bất lực.

Trong số những người ủng hộ luật sư Organ, những người có tín ngưỡng đã đưa ra lập luận dựa trên giáo lý: "Thượng đế đã sinh ra con người, nhưng trong cơ thể của Dream không có cái gì thuộc về Thượng đế. Dream phải là người máy". Một số người mộ đạo vội làm dấu thánh khi nghe nhắc đến danh vị Thượng đế. Có người lầm rầm: "Cầu xin Thượng đế toàn năng hãy tha tội. Thế gian này có cái gì nằm ngoài quyền năng của Ngài. Dream đã tồn tại trong hình ảnh của một con người, đó chính là ý muốn của Đấng Tối cao. Coi Dream như là một người máy chính là họ xúc phạm đến quyền năng của Ngài!".

Cuộc tranh luận chắc chắn sẽ còn kéo dài, nếu không có tiếng chuông báo hiệu cuộc xử án tiếp tục. Mọi người đứng dậy hồi hộp nghe quan toà đọc bản án:

- Sau khi căn cứ vào các điều khoản luật pháp, căn cứ vào cáo trang của Công tố viện và những chứng cứ với sự thú nhận của bị can. Toà đã buộc tội bị can Sonyl - Pho, sinh năm 3267, ngụ tại số 27, đường Maxell thuộc tiểu bang Atlantic, bị pháp luật trừng phạt một năm tù giam vì tội danh: say rượu, sử dụng vũ khí phá rối trật tự nơi công cộng.

Những người tham dự phiên toà cùng "ồ" lên ngạc nhiên. Chính Sonyl cũng buột miệng thốt lên câu nói cuối cùng trước toà:

- Vậy còn tội giết Dream thì sao?

* *

*

Luật sư Organ rít thêm một hơi thuốc dài rồi dụi thuốc vào cái gạt tàn. Ông cầm tờ tin "Thế giới hôm nay" rồi ngả người trên ghế xích đu. Tờ báo được giở ra, ngay đầu trang hai, một hàng tít lớn chạy suốt tám cột báo với những chữ: "SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT: CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN MẤT HAY TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN?" Bài báo tường thuật lại phiên toà ngày hôm qua - mà chính ông là một thành viên quan trọng - như một hiện tượng xã hội để bình luận về vấn đề con người. Thay cho lời kết luận, tác giả bài báo đưa ra câu trả lời phỏng vấn của ông chánh án khi được hỏi: "Phải chăng ngài đã bất lực khi xử vụ án này?". "Vụ án này đã đụng phải vấn đề mà nhân loại tìm kiếm: Con người là gì? Hay nói một cách chính xác hơn: Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã đặt lại vấn đề này. Tôi không thể lấy sự phán quyết của toà án để đặt ra một chuẩn mực xã hội!".

"Còn lâu mới có một chuẩn mực xã hội cho nó!" Luật sư Organ lẩm bẩm. Bỗng có tiếng động nhẹ, bà Organ đến bên cạnh ông, nét mặt tỏ ra bực bội một cách dễ mến:

- Thần kinh của ông đã bị suy nhược vì làm việc căng thẳng quá độ rồi đấy. Tôi thấy ông cần phải bồi dưỡng và nghỉ ngơi cho khoẻ!

Nói xong, bà đặt lên bàn bên cạnh ông một ly sữa hột gà và hai cục pin điện tử.

Luật sư Organ hững hờ lấy ly sữa nhấp một ngụm rồi đặt xuống bàn. Sau đó, ông đưa tay lấy hai cục pin rồi từ tốn vén mớ tóc loà xoà sau gáy - ông ấn hai cục pin vào một cái khe nhỏ ở đó. Ông làm việc ấy như một thói quen, hai mắt vẫn không rời khỏi tờ báo.

Bến Tre 1992

Share this post


Link to post
Share on other sites

ÔNG CHỈ LÀ NGƯỜI MÁY

Truyện khoa học giả tưởng

THẾ GIỚI NĂM 3000

Niq Vidi đã sống qua những ngày hạnh phúc bên người mà anh hết lòng yêu quí - khi hai người còn chưa thành hôn - để rồi anh ngày càng khổ tâm vì sự lơ đểnh và có vẻ như là ngớ ngẩn của vợ mình, nàng Ohoda. Giọng nói của nàng đều đều cứ như giọng nói của người máy. Thời còn yêu đương, chàng đã ngây ngất cảm nhận một tâm hồn thanh lặng từ đôi môi tuyệt vời phát ra những âm thanh đều đặn mang dáng vẻ từ tốn ấy. Nhưng cái đó cũng không đáng lưu ý đến tính chất người máy của nàng, bằng sự sinh hoạt chuẩn mực gần như ngày nào cũng như ngày nấy. Đồng thời, nàng tỏ ra ngoan ngoãn chiều theo mọi ý thích của chàng mà không có sự phản ứng nào, dù chỉ là thoáng qua.

Có lẽ nàng là người máy thật! Nếu thế thì sẽ là sự sỉ nhục cho một con người thật sự và thông minh như ta. Niq Vidi không thể có vợ là người máy! Luật pháp cũng không cho phép một con người đến tuổi trưởng thành kết hôn với người máy. Vì lý do bảo vệ nòi giống, mọi cuộc kết hôn với người máy đều không có giá trị pháp lý. Mọi sự chung đụng xác thân với người máy khác giới đều bị dư luận lên án và khinh bỉ, giống như đối với những kẻ đồng tính luyến ái.

Không! Không thể như thế được. Niq sẽ phải bỏ nàng. Nhưng để đi đến huỷ bỏ hôn thú với Ohoda và lấy vợ khác, Niq cần phải có chứng cớ chứng tỏ trước pháp luật là Ohoda vợ của chàng chỉ là một người máy.

Trời về khuya, Niq lên giường ngủ trong một tâm trạng căng thẳng ナ Chàng trằn trọc không thể ngủ được, vì ý nghĩ vợ chàng chỉ là một người máy vẫn đeo đuổi ám ảnh chàng. Chợt một ý nghĩ thoáng qua, Niq lên tiếng gọi vợ - lúc này vẫn đang loay hoay dọn dẹp. Tiếng gọi rất khẽ, gần như chỉ để cho chính chàng nghe được, nhưng không thiếu chất dịu dàng, trìu mến:

- Ohoda! Sao em không nghỉ đi? Em lại đây anh nói cho em nghe này!

Nàng quay lại trước sự kinh ngạc của Niq. Nàng đứng tận cuối phòng, cách chàng gần hai mươi mét, làm sao có thể nghe được tiếng gọi nhỏ như muỗi kêu của chàng?

Nàng tiến lại gần chồng:

- Anh bảo gì em?

Niq hét lên, tiếng hét rất lớn làm cửa kính rung động:

- Ohoda! Em là ai?

- Em là Jenni Ohoda, vợ của anh! Niq thân yêu ạ!

Nàng trả lời với giọng đều đều như mọi ngày với một cái nhìn âu yếm, rồi bình thản quay đi tiếp tục công việc của nàng. Đúng là một cái tai của một người máy, chỉ có thể tiếp thu rất nhạy cảm với những tín hiệu ngôn ngữ, nhưng không có phản ứng với cường độ âm thanh - Niq thầm nghĩ - nhưng các luật sư có thể bác bỏ chứng cứ đó với lập luận: đó có thể là trạng thái bất bình thường của bộ phận thần kinh thính giác mà khoa học gọi là trạng thái "người siêu nhân", tức là người có khả năng bẩm sinh đặc biệt. Trong lòng Niq dội lên một cảm giác bực bội vì bất lực. "Ngày mai, nhất định ngày mai, ta phải đến phòng lưu trữ hồ sơ của sở Bảo hiểm để tìm hiểu về cô ta! Nhưng với lý do gì? Không lẽ ta sẽ nói thẳng: Vì ta nghi vợ ta là người máy! Lúc đó, những người trong sở Bảo hiểm sẽ nhìn ta với con mắt khinh bỉ vì ta không tôn trọng người bạn đời của mình. Và nếu như nàng không phải là người máy thì thật là nguy hiểm! Dư luận xã hội sẽ chỉ trích ta là một kẻ vô nhân. Ở cái thiên niên kỷ thứ 3 này, so sánh con người với một người máy là sự sỉ nhục đối với họ, còn tệ hại hơn ở thế kỷ trước, khi con người thể hiện sự tức giận với nhau, thường so sánh đối thủ của họ với một loài súc vật nào đó! Trường hợp này có thể bị truy tố ra toà và phải bồi thường danh dự!"

Niq miên man trong những ý tưởng và ngủ thiếp đi.

* *

*

Ohoda cựa mình rồi thức dậy, cử động của nàng làm Niq tỉnh giấc. Chàng nhìn đồng hồ: "Đúng năm giờ, ngày nào cũng đúng năm giờ, không sai quá năm giây!" - Niq nghĩ bụng. Chợt chàng vùng dậy, hất cái mền sang một bên và xuống thẳng nhà bếp.

Ohoda đang trang điểm sau khi làm vệ sinh cá nhân buổi sáng. Nàng thật là đẹp, một vẻ đẹp phúc hậu kiểu Á Đông với đầy đủ nét đẹp tiêu chuẩn của con người. Đặc biệt cái mũi của nàng đã được viện bảo tàng sắc đẹp thừa nhận với sự tính toán chính xác của máy tính điện tử: cao hơn mũi của Nữ hoàng Ai Cập Cléopâtre đúng 1,87mm. Đó là độ cao lý tưởng mà nữ hoàng khi sinh thời thường mơ ước để có thể thay đổi dòng lịch sử của nhân loại. Rất tiếc, thời buổi này toàn là người đẹp, họ được đẹp theo ý muốn của họ, nên cái đẹp chỉ để dùng trang sức, không còn làm mưa làm gió gì được với cuộc đời. Nếu như nàng được sinh vào thời Cổ đại có lẽ Nữ hoàng Ai Cập sẽ được lựa chọn làm thị nữ của nàngナ

- Ohoda! Em lại cho anh nhờ một chút! - Từ dưới bếp, chàng lên tiếng gọi.

- Dạ! Em đến ngay đây! Anh cần gì?

- Em cầm cho anh ấm nước sôi lên nhà trên, pha trà giùm anh một chút! Anh đang mắc bận - Vừa nói, Niq vừa quay lại.

Ohoda tiến tới bên chàng với dáng đi uyển chuyển, không thua gì vũ nữ Ai Cập thời trước thiên niên kỷ thứ I.

Thật là dáng đi của người máy, đó chỉ là sự tổng hợp những dáng đi đẹp nhất được bộ nhớ của máy tính điện tử ghi nhận trong người máy mà thôi! Người thật làm gì có thời gian để tập cho mình một dáng đi tuyệt vời, chuẩn mực như vậy! Niq thoáng nghĩ và đưa nàng ấm nước còn đang sôi sùng sục. Chàng khẽ nghiêng vòi, nước sôi đổ tràn xuống bàn chân kiều diễm của Ohoda.

- Anh làm cho nước chảy ướt hết chân em rồi!

Nàng nói với giọng bình thản và rút khăn tay lau bàn chân bị ướt. Xong, nàng cầm ấm nước quay đi. "Rồi! Đúng là người máy! Nếu người thật thì chắc chắn cô ta sẽ la hét ầm ĩ vì bị phỏng! Nàng không có cảm giác nóng lạnhナ Ôi! Nhưng đó cũng chưa phải là chứng cứ pháp lý để ly dị nàng. Ngay người thật cũng rất nhiều kẻ không có cảm giác đó. Tụi luật sư chắc chắn sẽ viện dẫn trường hợp của những nhà tu theo trường phái Yoga làm luận cứ bênh vực cho nàng! Thật là khó xử"ナ

"À, phải rồi! Cái lưỡi, chính cái lưỡi, chìa khoá của mọi sự trên thế gian. Cái lưỡi tuyệt vời mà nhà ngụ ngôn E-dốp nhắc đến! Mi hãy giúp ta! Chỉ có mi, cơ quan linh hoạt nhất trong cơ thể con người, cái mà con người không thể bắt chước được vì sự phức tạp của nó. Chính mi sẽ giúp ta phân biệt được người thật và người máy. Chính mi sẽ giúp ta từ bỏ một mối tình phản tự nhiên, phi đạo lý để đi đến với một trái tim người luôn luôn biết rung cảm, giúp ta giữ được giá trị của con người thật sự biết liêm sỉ. Ôi! Cái lưỡi vĩ đại, sự mầu nhiệm của tạo hoá trong con người, ta sẽ tìm ra sự thật ở nơi mi. Sự thật ấy đang ẩn náu sau làn môi tuyệt vời của Ohoda!"

Niq sốt sắng bước nhanh lên phòng trên, nhẹ nhàng tiến tới sau lưng nàng. Với một cử chỉ dịu dàng, âu yếm chàng vòng tay ôm lấy ngực nàng:

- Ohoda! Anh xin lỗi em, anh chỉ lỡ tay thôi. Em có bị phỏng không?

- Không sao anh ạ! Lúc nào anh cũng tuyệt vời đối với em.

- Cám ơn em nhiều lắm!

Niq cúi xuống, hôn lên bờ vai trần tròn trịa của nàng. Chợt chàng ngẩng đầu lên nói với một giọng sửng sốt:

- Sao người em lạnh dữ vậy? Em có bệnh không?

- Không! Em có làm sao đâu?

- Chắc em bệnh thật rồi! Chàngxoay người nàng lại và nâng cằm nàng lên - Em lè lưỡi ra, há miệng anh coi!

Ohoda ngửa mặt, hé môi đưa lưỡi ra, mắt nàng từ từ nhắm mắt lại như đang mơ màngナ

"Một cái lưỡi kỳ cục - Niq nghĩ bụng - Màu gì mà tái như thịt bò tái, không có chút gì sinh động như lưỡi của một con người thật sự!" Niq đưa hai ngón tay bất ngờ kẹp chặt lấy lưỡi của nàng giật mạnh.

"Phực, ph - rực!". Cái lưỡi tuột ra khỏi miệng của nàng. Ohoda rùng mình, thân mình tuyệt vời của nàng sụm xuống và rã ra thành những linh kiện điện tửナ

Niq Vidi nhấn nút điện thoại:

- Alô! Cho tôi nói chuyện với thanh tra sở Cảnh sát thành phố!

Trên màn hình máy điện thoại hiện ra một nữ cảnh sát viên, mà vẻ đẹp không thua gì Ohoda. Với giọng nói đều đều và cũng rất từ tốn, nàng hỏi:

- Ông cần gì! Chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ ông nhân danh luật pháp!

- Tôi yêu cầu sở Cảnh sát cho người đến ngay nhà tôi số 247B, tầng 14F, khu 26V, đường WZ. Tôi lấy phải một cô gái người máy. Cần hỷ bỏ hôn thú với đầy đủ chứng cứ. Vợ tôi tên con gái là Jenni - Ohoda, nay chỉ còn là 467 tổ hợp linh kiện điện tửナ.

- Xin ông cho biết số giấy hôn thú của ông!

- Hôn thú mang số 3VO 16.

- Xin ông chờ cho một chút! Nói xong, nữ cảnh sát viên nhấn nút máy điện tử. Hình ảnh người nữ cảnh sát viên xinh đẹp biến mất, trên màn hình hiện lên dòng chữ:

"Giấy hôn thú mang số 3VO 16 được công nhận là hợp pháp, bởi sự kết hôn giữa hai người máy là Jenni- Ohoda và Niq Vidi. Luật pháp cho phép sự kết hôn giữa hai người máy khác giới tính, bởi tính logic của sự phát triển của những vật thể do con người chế tạo, được mô phỏng theo con người về hình thức và nội dung mà ngôn ngữ chính thức được gọi là: "Người máy".

Niq tái mặt, anh quát lên:

- Không thể như thế được, các người lấy gì để chứng minh tôi là một người máy, khi tôi đầy đủ tính chất của một con người thật sự. Tôi đã phát hiện ra vợ tôi là người máy vì cái lưỡi thiếu sinh động của cô ta. Còn tôi, các người hãy nhìn thẳng vào lưỡi của tôi mà coi!

Niq lè lưỡi ra.

Trên màn hình lại lần lượt hiện ra những dòng chữ:

"Niq Vidi mang số máy 42A - 08 - 02B, thuộc phát minh đã đăng ký với số HA - 198M là người máy hiện đại, thuộc thế hệ người máy thứ 87, khi nhân loại công nhận "con rối" là người máy thuộc thế hệ người máy thứ nhất. Luật pháp đã định danh: "Người máy" là sản phẩm do con người chế tạo ra bằng công cụ lao động, được mô phỏng theo hình thức và sự hoạt động của con người. Sự hoạt động của con người máy theo ý muốn của con người, thể hiện qua sự điều khiển trực tiếp hay gián tiếp thông qua chương trình được ghi trong bộ nhớ của người máy. Trong điều luật bổ sung về: "Trách nhiệm của người sáng chế và chế tạo người máy" thuộc chương I, điều 6, phần a có ghi rõ: "Tất cả những nhà chế tạo người máy - chế tạo hàng loạt hay từng đơn vị cá thể người máy - đều phải đăng ký bộ phận bảo hiểm, để vô hiệu hoá người máy, khi người máy có hành vi chống đối lại con người. Niq Vidi là tên người chế tạo ra người máy Niq Vidi 42A - 08 - 02B, đã đăng ký bộ phận bảo hiểm sản phẩm của mình, có chức năng vô hiệu hoá người máy Niq Vidi 42A - 08 - 02B được đặt bên tai trái của người máy này. Khi tác động một lực vật lý vào tai trái với cường độ trên 50N, người máy Niq Vidi 42A - 08 - 02B sẽ ngưng hoạt động chân tay và từ tan rã."

- Thật không thể tưởng tượng nổi! Đây chỉ là một sự nhầm lẫn của máy điện tử. Tôi sẽ khiếu nại việc này - Niq hét lên - Các người hãy mở to mắt ra mà coi đây! Tôi không bao giờ là một người máy.

Nói xong, Niq đưa tay lên giật mạnh vành tai trái của mình.

"Phực! Phrực!" Người Niq sụm xuống. Trước khi cái đinh ốc đầu tiên văng ra với sự ngạc nhiên của Niq, một ý nghĩ vẫn còn kịp chạy qua bộ óc điện tử của chàng:

- Vậy thế nào mới là một con người thật sự?

Bến Tre, 02 - 1990

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐÊM THỨ 1002 CỦA NÀNG SHEHERAZATD

HAY CÂU CHUYỆN CUỐI CÙNG CỦA HOÀNG HẬU BA TƯ

Nàng Sheherazatd đã được tấn phong hoàng hậu sau 1001 đêm liên tục kể chuyện cho hoàng đế Shariar. Ngày lễ đăng quang của hoàng hậu là ngày vui mừng của toàn thể vương quốc, vì nó đã kết thúc những chuỗi ngày khủng khiếp: Cứ mỗi khi bình minh ló dạng thì một thiếu nữ lại rơi đầu, sau một đêm ân ái với nhà vua.

Lễ đăng quang vô cùng long trọng với đầy đủ nghi thức. Sự huy hoàng của nó vượt xa tất cả những buổi lễ trọng thể nhất trước đó mà con người có thể biết được. Phí tổn cho buổi lễ xứng đáng với một quốc gia hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Hàng ngàn nô lệ da đen và da trắng phục dịch ngày đêm trong những bộ đồng phục rực rỡ. Chỉ tính riêng phần chi cho một nô lệ phục vụ cũng lên tới gần 100 đi-na tiền vàng. Những đầu bếp giỏi nhất của vương quốc và của cả những quốc gia lân cận cũng được mời đến để thực hiện những món ăn cầu kỳ cho thực khách. Khách mời là tất cả những ai có mặt trong vương quốc có thể đến được hoàng cung: từ những vị sứ thần của các quốc gia lân bang, những thương gia ngoại quốc, những quan to trong triều, những vương tôn công tử, cho đến tất cả những người bần cùng nhất cũng đều được hưởng ân sủng của nhà vua. Trong tiệc liên hoan, rượu chảy tưởng chừng như vô tận, cùng đủ thứ sơn hào, hải vị với những của ngon vật lạ trên đời, mà mọi người có thể biết đến hoặc mới biết đến trong lễ đăng quang của hoàng hậu.

Tất cả đều say sưa trong hoan lạc và ngây ngất bởi hàng trăm vũ nữ tuyệt thế, uyển chuyển như hoà vào thanh âm du dương trầm bổng do những nhạc công tài ba nhất vương quốc tạo ra từ nhạc khí của họ, để chúc mừng cho cuộc sống thanh bình và hạnh phúc của nhà vua.

Đêm về khuya, mảnh trăng lưỡi liềm đã treo lơ lửng giữa bầu trời bao la lóng lánh ngàn sao. Hoàng đế và hoàng hậu lui vào hậu cung để thoả lòng ân ái. Khi những thị thần đã lui ra, chỉ còn một thị nữ thân cận của hoàng hậu và cũng là em gái của nàng, người đã cùng nàng ở bên cạnh nhà vua trong suốt 1001 đêm, hoàng đế Shariar phán:

- Ai khanh đã kể cho trẫm nghe chuyện trong suốt 1001 đêm. Những câu chuyện của khanh đã đưa trẫm vào thế giới kỳ thú, huyền ảo của thiên nhiên và con người. Đó là những câu chuyện vô giá, khiến cho trẫm tỉnh ngộ và đã sửa chữa những sai lầm của trẫm, đồng thời cũng đưa khanh lên địa vị của người đàn bà cao quí nhất vương quốc hùng mạnh của chúng ta. Nay trẫm muốn trong đêm hạnh phúc này, khanh hãy kể cho trẫm nghe một câu chuyện để kỷ niệm cho ngày hôm nay và những ngày đã qua. Một ngày đã tạo nên bước ngoặt cuộc đời của trẫm và của khanh, cũng như của tất cả thần dân dưới quyền cai trị của trẫm.

Hoàng hậu nói:

- Muôn tâu bệ hạ! Thần thiếp xin lãnh ý và kể hầu bệ hạ một câu chuyện đã làm thiếp đắn đo trong gần 1001 đêm qua, vì không biết có nên kể cho bệ hạ hay không? Nhưng trong đêm nay, thần thiếp sẽ kể. Thiếp kể chuyện lần này không phải với tư cách một thị nữ trong hoàng cung, mà là hoàng hậu của một vương quốc hùng mạnh, người đang được bệ hạ sủng ái!

Hoàng đế vui mừng phán:

- Vậy ái khanh hãy kể ngay đi, chắc nó phải là câu chuyện hay hơn cả những câu chuyện mà trẫm đã nghe trong 1001 đêm qua phải không?

- Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp không dám cho rằng câu chuyện sắp được kể sau đây hay hơn cả những câu chuyện những câu chuyện đã kể trong 1001 đêm qua. Nhưng sở dĩ chỉ đến hôm nay thiếp mới kể được, chính vì nội dung của nó. Đó không phải là câu chuyện thần thoại của những ngày xa xưa, mà nó xảy ra ngay trong hiện tại, khi thiếp còn là thị nữ và đang kể chuyện hầu bệ hạ trong 1001 đêm!

- Ồ thế thì hay quá! Trẫm không thể ngờ rằng trong vương quốc của trẫm cũng có những câu chuyện y như trong 1001 đêm vậy. Khanh hãy kể ngay đi!

Hoàng hậu Sheherazatd nói:

- Muôn tâu bệ hạ! Câu chuyện thiếp được nghe kể rằng: Hai năm trước đây, cách thành Bagdad hai trăm dặm về phía bắc, có một ốc đảo giữa sa mạc. Ở đó có gia đình chàng Isarat Vidi sống cùng vợ và ba đứa con. Một hôm, chàng phải đến Bagdad để giao dịch việc buôn bán. Xong việc, chàng quay trở về.

Con lạc đà của chàng bước từng bước khoan thai trên sa mạc. Trên lưng nó, Isarat Vidi đang trầm tư về cái gia đình bé nhỏ của anh: "Có lẽ lúc này người vợ xinh đẹp với ba đứa con, chắc cũng đang nghĩ về mình ナ". Khi đi anh hẹn một tháng sẽ trở về mà bây giờ đã gần hai tháng rồi. Anh hình dung người vợ với vẻ mặt lo lắng, mỗi chiều lại ra đứng trước lều, mở to đôi mắt đen láy, cùng với ba đứa con ngóng đợi anh về. Thiếu cha, chắc chắn ba đứa con bé bỏng đang nép vào lòng mẹ nó và nhắc tới anhナ "Đường còn xa, đi kiểu này nhanh lắm cũng phải chiều mai mới về được tới nhà!". Anh giật mạnh dây cương và vỗ vào cổ chú lạc đà Ali. Con lạc đà khựng lại lấy trớn, rồi phóng nước kiệu.

Trước mắt anh vẫn là biển cát mênh mông. Phía chân trời, những hạt cát bị gió cuốn bay, làm cho người ta có cảm giác ở đó sa mạc đang bốc khói. Kinh nghiệm của những người dân sống ở sa mạc cho anh biết: đó là dấu hiệu của một cơn bão cát. "Lại gặp trắc trở rồi! Thật chẳng thú vị gì khi đêm nay ta và con Ali phải chống chọi với bão sa mạc!". Nghĩ vậy, anh cho chú lạc đà đi chậm lại để dưỡng sức. Mặc dù anh thừa biết chú lạc đà Ali đủ sức vượt qua cơn bão với một mình anh. Thật là may mắn, có lẽ đây là ơn riêng của Thượng đế ban phước cho gia đình anh. Nếu như lúc ra đi, anh cho đứa con trai của anh theo thì có lẽ hai cha con cùng con Ali sẽ bị vùi trong sa mạc. Con lạc đà của anh chỉ đủ sức chở một người qua cơn bão cát, vì nó bắt đầu già rồi!.

Chú lạc đà chồm lên đỉnh cồn cát một cách chật vật, vì gió và sức nặng của ông chủ nó. Bỗng từ dưới cồn cát có tiếng la:

- Ông ơi! Hãy cứu tôi với! Xin cám ơn Đức Ala đã đưa ông đến như một sứ giả nhân danh lòng từ ái của Người, để cứu tôi qua cơn bão cát giữa sa mạc này.

Isarat ghì cương con lạc đà, ngoái nhìn người đàn ông có ánh mắt mệt mỏi hắt ra từ khuôn mặt khắc khổ và tiều tuỵ, có lẽ đã nhiều ngày lang thang trên sa mạc.

Chàng ái ngại hỏi:

- Ông là ai? Lạc đà của ông đâu?

- Tôi là Mohamet Muykhan! Xin ông hãy cứu vớt tôi! Tôi là một kẻ khốn khổ, bọn cướp đã lấy đi tất cả của tôi. Nhưng nhờ sự che chở của Đức Ala, tôi đã trốn thoát khỏi tay bọn chúng và lang thang trên sa mạc mênh mông này. Đói và khát đã hành hạ tôi. Tôi sẽ chết thưa ông! Bão cát sẽ vùi lấp tôi. Mong ông hãy cứu vớt tôi vì lòng nhân ái của con người.

- Ông Muykhan ơi! Tôi là Isarat Vidi, người con của dân tộc Do Thái, dù Đức Jehovah - Thượng đế của chúng tôi - luôn nhắc nhở phải sẵn lòng nhân ái và giúp đỡ mọi người. Nhưng tôi không thể giúp gì cho ông được, mặc dù tôi rất ái ngại cho sự không may của ông. Vì con lạc đà của tôi chỉ có thể chở được một người qua cơn bão này, nó đã bắt đầu già rồi.

- Ông ơi! Tuy chung ta không cùng tôn giáo, nhưng những Đấng tối cao của cả hai tôn giáo của chúng ta đều khuyên con người phải yêu thương lẫn nhau. Và tất cả các nhà hiền triết đã chết hay đang sống trên cõi đời này, đều lấy lòng nhân đạo và sự thánh thiện làm đầu, nếu muốn chứng tỏ tư tưởng của họ thuộc chính đạo. Tự thân cuộc đời họ, dù trong khổ hạnh hay sung sướng, đều là tấm gương sáng cho lòng bác ái thánh thiện của con người. Tôi muốn sống, cũng như ông và mọi sinh vật trên thế gian đều muốn sống. Xin ông hãy cứu vớt tôi vì lòng nhân ái mà Thượng đế đã ban ở nơi ông!

- Mong ông hãy hiểu cho tôi! Không phải tôi không muốn giúp ông. Nhưng con lạc đà của tôi không đủ sức chở hai người qua cơn bão. Nó sẽ kiệt sức chết và cả hai chúng ta đều chết. Tôi muốn sống và con lạc đà của tôi cũng muốn sống với chủ nó. Tôi không thể giúp ông được. Cầu xin Thượng đế tối cao rủ lòng thương xót sẽ cứu ông khỏi chết.

Nói xong, Isarat giật dây cương và con lạc đà lại chậm rãi bước đi.

- Ôi! Đức Ala cao cả! Ôi! Các bậc thánh nhân đã khóc cho nhân loại đau thương. Sự từ bi của các ngài có phải chính vì con người đã lạnh lùng trước đau khổ của đồng loại hay không? Ông Isarat Vidi ơi! Đấng tối cao đã cho chúng ta thấy bằng thần uy của Người: Dấu hiệu của cơn bão cát phía xa kia, chưa chắc đã chứng tỏ bão cát sẽ thật sự xảy ra. Tôi biết ông là người cao cả và đầy nhân ái. Ông hãy cho tôi cùng đi trên con lạc đà của ông. Tôi đã kiệt sức rồi, dù bão cát không nổi lên, tôi cũng không thể một mình qua được sa mạc khắc nghiệt này. Tôi sẽ chết thưa ông! Nhưng, nếu như dấu hiệu của cơn bão cát phía xa kia tan đi vì ý muốn của Đấng tối cao - như Người đã nhiều lần chứng tỏ - thì ông sẽ phải hối hận vì đã bỏ lỡ đi cơ hội cứu giúp một con người khốn khổ sắp chết, cũng như tất cả mọi con người sinh ra đều phải chết. Nhưng có những cái chết thật bẩn thỉu và đê tiện. Còn cái chết của tôi và ông trong cơn bão cát này thìナ Tôi sẽ chết trong niềm tin vào lòng nhân ái của con người. Còn ông, ông chết vì thể hiện lòng nhân ái cao cả. Ông Isarat, ông đừng bỏ rơi tôi.

Isarat Vidi ngừng con lạc đà. Chàng trầm tư một chút rồi thở dài:

- Thôi được! Ông hãy lên đây!

Chàng vỗ đầu con Ali. Chú lạc đà ngoan ngoãn quì xuống. Muykhan leo lên lưng lạc đà, ngồi phía sau chàng. Con lạc đà đứng dậy và bước điナ

Isarat lo lắng nhìn về phía chân trời. Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Chàng nói:

- Có lẽ chúng ta cùng chết mất! Gió không giảm mà còn mạnh lên. Tôi sợ rằng chỉ tối nay sẽ có bão thôi ông ạ!

- Chúng ta sẽ không cùng chết đâu, ông Isarat Vidi ạ! Mà có thể chỉ một mình ông thôi!

Tiếng nói vừa dứt thì một mũi dao bén ngọt đã gí vào lưng Isarat Vidi đúng chỗ trái tim.

- Ngươi hãy xuống khỏi con lạc đà ngay, đó là lòng nhân ái mà ta dành cho ngươi. Nếu không ngươi sẽ chết ngay trên lưng con lạc đà này!

- Ôi! Thượng đế trên cao! Ông nỡ đối xử với tôi như thế sao?

- Con lạc đà này chỉ chở được một người. Ông biết điều đó hơn tôi và đã dạy cho tôi biết điều đó. Tôi không phải là kẻ tàn ác vô ơn, nhưng tôi cần phải sống. Ông hãy xuống ngay. Đấng tối cao sẽ cứu vớt ông, nếu ngài cho cơn bão này dừng lại. Ông đừng nhiều lời nữa. Mũi dao hích nhẹ vào lưng làm Isarat đau nhói như một lời cảnh cáo cuối cùng.

Isarat giơ tay định vỗ đầu cho con lạc đà quì xuống.

- Không được! Ông phải nhảy xuống. Vì nếu không, ông sẽ chống lại ta khi con lạc đà chưa kịp đứng lên!

Isarat nhảy xuống cát. Muykhan ngoảnh mặt lại nói với chàng:

- Ông khôn ngoan đấy, ông Isarat ạ! Ông đã kịp thời lựa chọn giữa cái chết tức khắc và sự sống trong một cơ hội may mắn, dù chỉ là mỏng manh. Thôi nhé! Chúng ta từ biệt nhau được rồi đấy. Tôi thành thật biết ơn ông và cầu xin Đức Ala cao cả của chúng tôi và Đức Jehovah khả kính của ông phù hộ cho ông được sống. Ông có muốn nhắn gì với người thân của ông không?

- Muykhan! Ông hãy ngừng lại nghe tôi nói đây. Tôi cũng có những người thân yêu như tất cả mọi người. Tôi cũng đã có vợ và con cần đến sự chăm sóc của tôi. Tôi còn nhiều sự ràng buộc bởi trách nhiệm trong cuộc đời đối với vợ con và những người thân của tôi. Tất nhiên, tôi phải có nhiều lời để nói lại với họ. Nhưng tôi không muốn loại người như ông gặp họ, nên tôi không nhờ ông chuyển lời nói cuối cùng của tôi đến với họ. Tôi chỉ muốn nói với chính ông những lời cuối cùng của kẻ sắp chết vì đã làm ơn cho ông. Ông Muykhan! Tôi luôn tin ở lòng nhân ái nơi con người, nên tôi cho rằng việc làm của ông đối với tôi chẳng qua vì bị đẩy vào một hoàn cảnh phải lựa chọn giữa cái sống và cái chết. Nên ông bắt buộc phải xử tệ với tôi. Ở trong một hoàn cảnh khác, có thể ông vẫn là một người lương thiện. Tôi tha thứ cho ông và chúc sự an lành cho ông, vì con lạc đà của tôi đủ sức chở một người qua cơn bão cát này. Nhưng điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Ông hãy quên câu chuyện này giữa hai chúng ta đi. Vì ông nhớ, lương tâm sẽ giằng xé ông, còn ông nói ra - dù với sự ân hận và chua xót như một lời thú tội - thì ông sẽ mắc một tội còn lớn hơn việc đã đẩy tôi vào cõi chết. Do câu chuyện giữa hai chúng ta đã bắt đầu bằng lòng nhân ái và tình thương của con người, đỉnh cao của những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, sự tột cùng thánh thiện của tôn giáo. Nhưng để rồi cái nguyên nhân cao cả đó lại dẫn đến kết quả bi thảm cho số phận con người. Cho nên tôi có điều mong muốn cuối cùng là: Ông đừng kể câu chuyện này cho ai nghe, vì như thế nhân loại sẽ không còn tin nhau nữa. Và đó sẽ là thảm kịch bi đát nhất của loài người.

Nghe nói, Mohamet Muykhan giật mạnh dây cương cho con lạc đà quay cổ lại. Anh ta ngồi nghiêm chỉnh trên lưng lạc đà, nhìn thẳng xuống Isarat Vidi trong ánh mắt lạnh lùng và trả lời với một giọng đều đều, vô hồn, như tiếng kinh nguyện cầu cho kẻ chết:

- Ông Isarat Vidi! Ông quả là một con người thánh thiện. Nhưng xin ông đừng quá âu lo cho niềm tin vào lòng nhân ái, cũng như tất cả giá trị tinh thần cao cả khác của con người, khi tôi kể câu chuyện giữa hai chúng ta. Tôi sẽ kể thưa ông, khi tôi cảm thấy có lợi cho tôi và tôi tin chắc rằng sẽ không tai hại gì cho niềm tin của con người đối với nhau. Vì bản chất con người, kể từ khi có loài người đến nay, vốn đã không tin nhau; thậm chí còn tàn ác với nhau, để cho cuộc đời ngay trong lúc thanh bình vẫn ẩn chứa thương đau. Vì vậy, chính lòng tham ác của con người là nguyên nhân nảy sinh lòng nhân ái của họ. Có sự tàn ác, đê tiện, vô liêm sỉ nên cái thánh thiện và đạo lý mới được tôn vinh. Và cuối cùng, mọi giá trị cao cả tốt đẹp của con người luôn hiện tồn cùng nhân loại, khi con người còn có tất cả những cái gì mà con người gọi là xấu xa bẩn thỉu. Nên, nếu như tôi có kể câu chuyện này, cũng chẳng khác gì những câu chuyện đau lòng đã xảy ra, mà còn tiếp tục xảy ra ở thế gian, trong xã hội loài người. Vì thế trước đây, hiện nay và cho đến mãi mãi về sau, một thằng ăn cướp khốn khổ như tôi chưa bao giờ phải chịu trách nhiệm về niềm tin của nhân loại vào những giá trị tinh thần cao cả của họ. Loài người vốn đã không tin nhau, có lẽ cũng không tin luôn câu chuyện này khi tôi kể cho họ. Vì họ không tin rằng: trên đời này lại có một người thánh thiện như ông, nên họ cũng chẳng tin rằng lại có một người tồi tệ như tôi. Thôi nhé! Tạm biệt Isarat Vidi. Cầu chúc cho ông, con người thánh thiện duy nhất trên thế gian mà tôi được biết và được gặp, sẽ bình yên qua cơn bão cát dưới sự che chở của Đấng Tối cao. Ôi! Nếu quả là Người có thật trong vũ trụ nàyナ

Kể đến đây, hoàng hậu ngừng lời. Nhà vua vội hỏi:

- Rồi làm sao nữa? Bão cát có nổi lên không?

- Muôn tâu bệ hạ! Thần thiếp chỉ được biết đến đó. Vì Mohamet Muykhan đã kể cho con cháu ông ta nghe, như một lời trăn trối cuối cùng trước khi chết. Và người ta cũng không biết được rằng: Ông ta kể lại để dạy khôn cho con cháu ông hay vì hối hận cho tội lỗi của mình!

- Này ái khanh! Tại sao trong câu chuyện này người giàu lòng nhân ái lại là dân ngoại đạo chứ không phải là người anh em cùng là con cháu Đức Ala của chúng ta?

- Muôn tâu bệ hạ! Xin bệ hạ thứ lỗi, vì sự thật đã xảy ra phũ phàng đúng như thiếp vừa kể. Bệ hạ quả là không công bằng khi có ý nghĩ cho rằng: Mọi sự tốt đẹp thuộc về con người chỉ có ở những người anh em cùng tôn giáo với chúng ta. Trong khi chính bệ hạ đã từng ra lệnh hành quyết nhiều kẻ phạm tội hoặc trái ý bệ hạ, mà những người đó đâu phải đều là dân ngoại đạo?

- Vậy ái khanh quên rằng: Chính theo câu chuyện ái khanh vừa kể, sự tốt đẹp luôn hiện tồn bên cạnh cái xấu xa, thì sự công bằng luôn hiện hữu bên cạnh cái bất công đâu có gì là lạ, mà ái khanh trách ta?

- Muôn tâu bệ hạ! Chính vì thực tế ở cõi đời vốn đã khổ ải, lại thêm thương đau bởi con người tàn nhẫn với nhau. Chính vì có kẻ mạnh lấn át kẻ yếu, kẻ cậy cường quyền bạo lực ức hiếp lương dân vô tội, nên đã nảy sinh ước muốn có sự công bằng. Chính vì sự tàn nhẫn, lạnh lùng của con người trước nỗi thống khổ của đồng loại mà con người hướng tới lòng nhân ái. Chính vì sự trói buộc mà con người ước muốn tự do. Bắt đầu từ những ước vọng về tự do, công bằng và lòng nhân ái được thực hiện trên cõi đời này để đi đến sự thánh thiện hoàn mỹ cho nhân loại, mà con người đã tôn vinh Thượng đế theo hình ảnh của con người, với những quyền năng tuyệt đối như là một giải pháp để thực hiện ước vọng cao cả của nhân loại. Nhưng tiếc thay, Thượng đế lại vô hình, nên mọi người đều có lý khi tin hoặc không tin ở Thượng đế. Vì vậy, con người đã tôn vinh danh vị Hoàng đế với những quyền năng tối cao, như là giải pháp thực tế, để thực hiện những ước vọng của con người vào những giá trị tinh thần cao cả của họ. Do đó, chính vì bệ hạ và những quan chức đại diện cho quyền lực của nhà vua trên khắp lãnh thổ của vương quốc, sẽ phải chịu trách nhiệm về niềm tin của con người vào những giá trị tinh thần cao cả của nhân loại, chứ không phải những loại người như Mohamet Muykhan.

- Vậy những loại người như Mohamet Muykhan phải chịu trách nhiệm gì cho niềm tin của con người?

- Muôn tâu bệ hạ! Hành động của những loại người như Mohamet Muykhan thành công hay thất bại còn tuỳ thuộc vào khả năng của họ trước đối tượng. Cho nên họ phải chịu trách nhiệm trước lương tâm của chính họ và lưỡi gươm công lý được trao nơi bệ hạ ナ Hoàng hậu trả lời qua hơi thở, giấc ngủ đang từ từ đến với người phụ nữ tuyệt vời đã qua 1001 đêm thức trắng.

Nhà vua im lặng, ngài đặt tay lên trán nhìn vòm trần hình cung dát vàng và chạm trổ công phu. Chung quanh ngài là những phương tiện xa hoa của con người dành cho ngài, vì ngài là niềm tin của họ. Bên long sàng, chiếc đồng hồ cát chảy liên tục như dòng suy nghĩ của nhà vua. Đã nhiều lần người thị nữ trung thành của hoàng hậu Sheherazatd lặt lại nó, để chứng tỏ dòng chảy liên tục của thời gian.

Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu nhà vua. Ngài quay lại nhìn hoàng hậu: nàng đẹp như thiên thần đang mơ màng trong giấc ngủ. Những tia sáng đầu tiên của bình minh vội vàng lách qua rèm cửa sổ lâu đài để được hôn lên má nàng, báo hiệu đêm thứ 1002 của hoàng hậu đã trôi đi theo thời gian. Nhưng thế nhân vẫn còn lưu lại câu chuyện cuối cùng của nàng Sheherazatd.

1990

Share this post


Link to post
Share on other sites

THIÊN CƠ

Võ Phạm Minh Thu - Thiên Sứ

xứ Monovastu, vào thời loài người mới xuống trần gian - lúc ấy, thú vật còn biết nói tiếng người - có con rắn tên là Malambo. Nó luôn len lỏi khắp nơi, để mách bảo cho mọi người biết những hạnh phúc sắp đến, hoặc tai ương sẽ giáng xuống đầu họ. Bởi vì, nó là kẻ duy nhất biết được những điều đó, bằng cách áp cái đầu nhỏ bé đầy linh hoạt xuống mặt đất. Thiên hạ đồn rằng: bằng cách đó, rắn Malambo đã nghe được tiếng nói các vị thần; mà trong lúc say sưa yến tiệc, họ chẳng còn giữ bí mật gì về những số phận do họ đã sắp đặt từ trước. Mà đã là thần thì lúc nào cũng yến ẩm, nên lúc nào họ cũng say.

Muôn loài đều phải vì nể tài năng của Malambo. Nó khoe rằng: nó chính là con cháu đích tôn của Rắn trên vườn Địa Đàng nơi thượng giới. Cho nên, nó thường nói: "Với những kẻ khốn khổ thì đó là do lỗi tổ tông truyền; còn đối với kẻ nào cảm nhận được hạnh phúc ở xứ Trần gian thì phải biết ơn tổ tiên của nó. Bởi chính tổ tiên của nó đã khuyên tổ tiên loài người: Ông Adam và Bà Eva ăn trái cấm, để được Thượng Đế đưa xuống đây!"

Malambo rất kiêu hãnh về điều này, nên dáng đi của nó uốn éo, cái đầu lắc lư và đôi mắt liếng láo, lúc nào cũng chỉ ti hí để nhìn mọi vật ở thế gian.

*

* *

Rồi có một mùa thu đến với trần gian và cả xứ Monovastu. Rừng cây phủ một màu vàng tàn úa, làm nữ thần mây vội vã buông chiếc khăn voan màu xanh mát vẫn choàng trên mái tóc bồng bềnh óng ả, quăng lên bầu trời như muốn đền bù cho trần thế đã mất đi màu xanh cây lá. Thần mặt trời âu sầu thở dài thả vào không gian những luồng sáng trong nhẹ. Thần gió ngang tàng cũng buồn bã vì bất lực: những cánh gió đìu hiu của chàng không nâng được lá thu úa tàn, khổ đau lìa cành, rơi tràn mặt đất. Chàng gió lang thang, u hoài. Những bước đi hiu hắt của chàng len lỏi khắp nơi, vuốt nhẹ mơn man khiến vỏ cây thanh xuân và những nàng hoa mùa thu run rẩy đầy cảm xúc.

Thần gió lướt tới lâu đài trong kinh thành Monovastu. Ở đó có công chúa Mimosa - viên ngọc báu của đất nước này. Nàng đang ngồi trầm tư bên hồ nước xanh, ngắm bóng mây in đáy nước. Dáng mây thu bay chầm chậm, đưa hồn nàng tới xứ Kivaso - nơi có hoàng tử Nig - Vidi, con người có tâm hồn vị tha và đầy lòng nhân ái. Chàng đã được chọn để trở thành vị hôn phu của nàng. Hôn nhân của công chúa Mimosa - người nữ chúa tuyệt sắc, hiền thục - sẽ quyết định tương lai của toàn dân trong vương quốc Monovastu xinh đẹp và yên bình.

- Công chúa Mimosa! Nàng đang nghĩ gì đấy, ta có thể giúp được gì cho nàng không? - Thần gió vuốt ve mái tóc óng ả đen huyền của nàng.

- Kìa thần gió. Tôi đang nghĩ về người hôn phu của tôi và muốn biết tương lai của xứ sở Monovastu xinh đẹp. Vì chồng tôi sẽ là người quyết định tối cao của vương quốc.

- Cái đó không thuộc quyền năng của ta. Sao công chúa không hỏi Malambo?

- Nhưng biết tìm nó ở đâu bây giờ?

- Ồ cái đó không khó gì! Thuộc hạ của ta có mặt ở khắp nơi. Để ta triệu nó về gặp công chúa!

Thần gió vừa nói xong thì trên cành cây phong lữ đang nở hoa tím biếc bên cạnh hồ, một giọng rin rít cất lên:

- Thưa công chúa khả ái! Tôi đã đến đây vì biết thế nào công chúa cũng sẽ cần đến tôi. Tôi hy vọng có thể giúp được gì cho công chúa chăng?

- Kìa Malambo! Ta đúng là đang cần gặp ngươi. - Công chúa Mimosa chắp hai bàn tay trắng muốt lên ngực, mắt nàng long lanh sung sướng - Ngươi hãy cho ta biết hoàng tử Nig Vidi thực sự là con người thế nào? Tình yêu của ta sẽ ra sao? Và xứ sở Monovastu xinh đẹp của ta tương lai có tốt đẹp không, khi chồng ta sẽ là người thay ta trị vì vương quốc với mọi quyền lực trong tay chàng?

Đung đưa cái đầu trên một cành cây, Malambo láo liên đôi mắt ti hí gian giảo nhìn công chúa:

- Tôiナ có lẽ cũng chỉ biết được như mọi người thôi: Chàng là một con người giàu lòng nhân áiナ

Thần gió buông tiếng thở dài, khinh bỉ nhìn Malambo rồi lướt đi.

- Không! Malambo ơi! Ngươi muốn từ chối đấy thôi. Hãy nói cho ta biết sự thật. Sự thật không ai biết trừ mi.

Malambo buông mình xuống đất. Nó cuộn tròn thân hình và ngóc đầu nhìn công chúa bằng con mắt nham hiểm, nhưng tỏ ra nghiêm cẩn. Nó nói giọng ra vẻ lo ngại đầy giả tạo:

- Vậy thì công chúa sẽ sống bên người chồng ngu si nhất xứ Kivaso. Người ta đồn hoàng tử từ bi chỉ cách chê khéo đây thôi. Vương quó6c Monovastu sẽ nghèo đi với những người dân đói khổ khi hoàng tử Nig Vidi trị vì. Chàng chỉ biết bố thí mà không biết tích lũy, cai trị. Lúc đó xã hội sẽ rối loạn, nội chiến sẽ xảy ra, vì ngay trong vương quốc xinh đẹp này, biết bao nhiêu người đem lòng yêu thương công chúa. Hoàng tử Nig Vidi sẽ bị giết!ナ

- Malambo! Sao ngươi ác thế?

- Coi kìa! Công chúa muốn biết sự thật và tôi đã nói sự thật những gì tôi đã biết, do chính các thiên thần đã nói ra.

- Vậy ngươi bảo ta phải làm sao bây giờ?

Công chúa nói, nét mặt băn khoăn, đau khổ.

- Nếu công chúa muốn vương quốc này ngày càng hùng mạnh, giàu có, công chúa hãy chọn tù trưởng Locobo của bộ lạc "Sói trắng" thuộc quyền cai trị của công chúa. Chàng có cái đầu và hai bàn tay thép, chàng cũng đang yêu tha thiết công chúa và tôn thờ nàng như một nữ thầnナ

- Rồi sau đó nữa sẽ ra sao?

- Cái đó còn tùy thuộc vào quyền năng của Thượng Đế. Ngài chưa tiết lộ điều này, nên tôi chưa biết được. Tôi đã nói tất cả những gì tôi biết và đã bày tỏ ý kiến của mình. Sự lựa chọn lúc này thuộc về quyền của công chúa. Bây giờ tôi xin phép từ biệt và chúc công chúa sáng suốt để định đoạt tương lai cho mình, và toàn thể Vương quốc khả ái này!

Nói xong, Malambo ngoằn ngoèo chui vào một bụi cỏ sau khi đắc thắng nhìn công chúa Mimosa đang đau khổ, thẫn thờナ

* * *

Đã ba năm trôi qua, vương quốc Monovastu trở thành một xứ sở hùng mạnh. Những đoàn quân tinh nhuệ của vương quốc gươm giáo sáng lòe, giáp trụ đầy đủ, rầm rập lên đường chinh chiến mở rộng lãnh thổ. Kinh thành Monovastu không có một giây phút tĩnh lặng, dù đêm đã xuống rất sâu và một ngày đã nặng nề trôi qua trong ồn ào náo nhiệt. Ở phía đông, hàng đoàn quân tập trận khói bụi mịt mờ, tiếng quân reo, ngựa hí vang động cả một góc trời. Ở phía tây, những bễ lò rèn phì phụt thổi lửa lo rèn vũ khí cho quân đội. Ở phía bắc từng đoàn xe rầm rộ chở những rương hòm đầy vàng bạc châu báu chiến lợi phẩm và những chiếc cũi lớn nhốt chặt tù binh thân hình tiều tụy, thương tật của các xứ lân bangナ Khắp nơi trong nước, phụ nữ ngày đêm may áo quần cho chiến binh với ánh mắt buồn vời vợi, miệng lẩm bẩm nguyện cầu sự bình yên cho chồng con đang trong vòng chinh chiếnナ

* * *

Monovastu lại vào thu. Khi những chiếc lá vàng đầu tiên rời cành trong gió thu heo hắt, nằm rải rác trong vường thượng uyển thì tại hoàng cung, hoàng đế Locobo đang ngồi trầm tư trước sa bàn với ánh mắt sắc lạnh. Chợt có tiếng chân vội vã lại gần khiến hoàng đế quay đầu lại. Hoàng hậu Mimosa nước mắt lưng tròng với gương mặt đầy âu lo đang đi tới. Nàng thảng thốt năn nỉ:

- Bệ hạ! Thiếp xin chàng hãy dừng những cuộc chém giết, thần dân đã mệt mỏi và phẫn nộ. Monovastu đã sống trong thanh bình, giàu có cả ngàn năm mà không cần những cuộc chinh chiến. Malambo vừa bảoナ

- Malambo! Lại Malambo - Hoàng đế giận dữ nhìn người phụ nữ mà đã một thời ngài yêu điên cuồng, tha thiết; nhưng gần như tuyệt vọng vì địa vị thấp kémナ Nhưng ngài chợt nhớ: chính Malambo đã đưa ông lên địa vị này. Ngài dịu giọng:

- Malambo đã nói với nàng những gì?

- Malambo nói rằng: các vương quốc lân bang đang liên minh để chống lại chúng ta. Kinh thành Monovastu sẽ bị chìm trong máu lửa. Locobo, chàng hãy yêu lấy những người dân vô tội. Đầu thiếp muốn vỡ ra vì những lời ta thán. Trái tim thiếp phải tan nát trước những khuôn mặt tiều tụy, u uất và những ánh mắt phẫn nộ. Ôi! Những ngày tháng thanh bình, hạnh phúc ngày xưa nay còn đâu? Thiếp chỉ thấy những tấm thân tiều tụy, què quặt trong bộ quần áo rách rưới với một cuộc sống đói nghèo, lầm than vì chinh chiếnナ

- Mimosa! Bông hoa xinh đẹp nhưng mỏng manh yếu ớt của ta. Khanh hãy can đảm lên, những việc ta làm chính vì sự sống của vương quốc chúng ta. Cuộc sống không thể mãi mãi thanh bình, vì tham vọng điên cuồng của con người. Ta không muốn vương quốc của ta là một xứ sở bị chinh phục bởi những nước lân bang, nên ta cần phải có binh lực hùng mạnh và chinh chiến để sinh tồn. Hạnh phúc và cuộc sống thanh bình sẽ trở lại, khi ta là kẻ chiến thắng và các thành bang phải thuần phục ta. Mimosa! Cuộc chiến sẽ còn tiếp tục và ta tin rằng chỉ trong vài tuần trăng nữa, lá cờ của vương quốc Monovastu sẽ cắm nơi tận cùng trái đất, chỗ trời và đất gặp nhau mà bên kia là cổng Thiên Đường. Lúc đó khanh sẽ là hoàng hậu không phải chỉ của Monovastu, mà là của tất cả mọi sinh vật trên trần thế. Khanh hãy tin tưởng ở ta.

Mimosa mắt đẫm lệ, thăm thẳm một nỗi đau xót nhìn Locobo:

- Nhưng Malambo cho biết trước chàng sẽ thất bại vì đó là ý muốn của Thượng Đế.

- Ha! Ha! Ý muốn của Thượng Đế? Vậy tại sao nàng không thi hành ý muốn của Thượng Đế để kết hôn với hoàng tử Nig Vidi, mà lại trao vương trượng cho ta? Không có định mệnh, chỉ có ý chí của con người và những kết quả của nó. Thôi! Khanh đừng có nhiều lời nữa! Ý ta đã quyết, việc ta đã làm như mũi tên đã bắn đi, không thể ngừng lại trước khi tới đích.

Nói xong Locobo hùng dũng bước ra ngoài. Hoàng hậu Mimosa ngước đôi mắt huyền long lanh ngấn lệ nhìn theo chồng. Nỗi xót xa sâu thẳm trào dâng trong tâm khảm của nàng hòa vào sự khổ đau của những con người đang quằn quại vì chinh chiến, đã toát lên một vẻ nhân từ trong những nét bi diễm trên vẻ đẹp thiên thần của nàngナ "Những ai cảm nhận được hạnh phúc dưới cõi trần gian này, phải biết ơn tổ tiên của taナ" Lời nói đầy kiêu hãnh của Malambo vẳng lại bên nàng. Một quầng sáng như chợt bừng lên trong tâm thức soi vào cõi vô minh của chính nàng: Đâu là hạnh phúc đích thực của cuộc đời nàng, của chàng và của hàng triệu con người trong kiếp sống trần gian? Nàng không thấy nó ở trong cung điện nguy nga tráng lệ đầy ngọc ngà châu báu; nàng cũng không thấy nó ở trong vương quyền của nàng và quyền uy của hoàng đế chồng nàngナ

***

Kinh thành Monovastu chìm trong máu lửa. Tiếng khóc la hoảng loạn hòa vào tiếng thét gầm man rợ của những chiến binh đang say máu, vang động chín tầng trời. Trong cơn hồng thủy bằng giáo, gươm, lửa, máu của chiến tranh, hàng vạn con người vô tội bồng bế, dắt díu nhau cuống cuồng tìm đường chạy trốn. Nàng Mimosa có vẻ đẹp thiên thần và tấm lòng nhân hậu - viên ngọc báu của xứ Monovastu - cùng vài thị vệ trung thành, mình đầy thương tích cũng đang rạp người trên lưng chiến mã chạy trốn, bỏ lại cung điện nguy nga tráng lệ và kinh thành Monovastu đang ngập chìm trong máu lửaナ Nàng đang chạy trốn cái chết, chạy trốn quá khứ, chạy trốn chính nàng.

Những thị vệ theo nàng lần lượt gục ngã vì tên đạn, vì thương tích và kiệt sức. Chỉ còn một mình Mimosa với con tuấn mã phi vùn vụt như điên cuồng vào vùng thảo nguyên bao la.

Khi đã thoát khỏi vòng nguy hiểm, con tuấn mã trung thành gắng sức đưa nàng vào sâu trong vùng thảo nguyên, đến bên một hồ nước mênh mông, trong vắt, đầy thơ mộng. Sóng nước lăn tăn, làm vỡ ánh trăng thu của vầng trăng đang vằng vặc giữa trời thanh lặng. Bên hồ, những cành lau đu đưa nhè nhẹ, có những chùm hoa trắng hoang dại của thảo nguyên như lay động trong tiếng chim đêm cô tịch.

Mimosa xuống ngựa, nàng định dắt nó tới bên hồ cho nó uống nước. Nhưng nó chỉ bước đi thêm được vài bước thì khuỵu xuống vì kiệt sức. Mimosa mắt đẫm lệ, nàng bất lực nhìn con tuấn mã trung thành máu me đầy mình đang cố ngóc đầu hí lên một tiếng dài ai oán cuối cùng, trước khi từ giã cõi đời. Tiếng hí thê lương của con tuấn mã vang lên khắp thảo nguyên bao la, như muốn hỏi cõi hư không mênh mông: tại sao nó phải chết bởi con người, khi cả cuộc đời nó trung thành và tận tụy với con ngườiナ

Linh hồn cuối cùng thuộc về nàng đã đi sang cõi bên kia, chỉ còn lại một mình nàng bơ vơ trong hoang vắng của thảo nguyên. Mimosa bước những bước vô thức đến bên hồ. Dưới đáy nước long lanh là bóng đen mở ảo của thân hình người đàn bà rũ rượi, mệt mỏiナ Nàng đứng im chết lặng như hóa đáナ Chợt từ trong bụi cỏ bên hồ, một thanh âm rin rít cất lên kéo linh hồn nàng đang chìm sâu trong cõi u uẩn trở về với thực tại.

- Hoàng hậu Locobo!

- Malambo! Ôi Malambo! - Mimosa thảng thốt - Sao ngươi lại ở đây?

- Thưa hoàng hậu khả kính! Tôi mong bà hãy bình tĩnh và đừng kinh sợ như thế! Bà còn may mắn hơn những thần dân vô tội đã chết vì bàナ

- Vì ta? Không! Không bao giờ như thế, mà là vì ngươi! Chính ngươi đã lừa dối taナ

- Tôi không hề lừa dối bà. Tôi đã nói sự thật và chính bà đã lựa chọn. Tiếc thay! Vì thời gian không quay trở lại, nên con người không thể chứng nghiệm được cái đúng, cái sai cho con đường đời mà họ đã lựa chọn, khi đứng trước những ngã rẽ cuộc đời. Nhưng riêng tôi, tôi đã chứng nghiệm được một điều là: Thế gian này như một bàn cờ lớn - thưa hoàng hậu khả kính - đó là cuộc cờ của Thượng Đế. Khi Thượng Đế chí tôn cầm con xe để ăn con mã. Tôi mách nước để tránh cho con mã thì Ngài dời con xe để ăn con tượng. Bà đã lựa chọn một trong hai: hoặc Nig Vidi hoặc Locobo. Vì Thượng Đế đầy quyền năng, Ngài đã nhấc con xe lên thì phải ăn một con cờ nào đó. Tôi cứu được con cờ này thì không cứu được con cờ kiaナ

- Malambo! Ngươi thật là độc ác! Ngươi xảo trá và nguỵ biện.

- Thưa hoàng hậu khả kính! Chính Lệnh bà đã lầm lẫn. Sự thánh thiện mà bà nhận thấy có ở trong bà, đã làm cho bà không nhìn thấy tham vọng của mình. Bà muốn xứ Monovastu xinh đẹp và thanh bình của bà trở nên vĩnh hằng. Nhưng bàlại từ chối lòng nhân ái, ước mơ muôn thuở của con người có trong hoàng tử Nig Vidi để chọn Locobo - con người giữ gìn vương quyền của bà bằng sức mạnh của quyền lực - và bà đã bất lực trước tham vọng trong con người Locobo. Hậu quả của nó, bà đang nhận lãnh và đau khổナ Nhưng thưa hoàng hậu khả kính! Bà hãy nhìn những người chăn cừu trên thảo nguyên. Bà bây giờ cũng như họ, thậm chí vẫn còn giàu có hơn họ, vì những đồ trang sức qúi giá còn trên người bà. Nhưng bà đã mất những gì bà cho là đã có và đau khổ. Còn họ, họ không thấy mất mát gì cả và đang sống yên bình.

Ôi! Vầng trăng thu vằng vặc trên hư không kia. Nó không lặn, không mọc, không tròn, không khuyết. Nhưng con người thấy nó lặn, nó mọc, nó tròn, nó khuyết - thế giới ảo vọng của con người khiến cho họ phải đau khổ. Bà hãy bình tâm và sống trong yên bình. Bà chưa hề mất gì vì thực ra bà chưa hề có cái gì trong thế giới này. Thưa hoàng hậu khả kính! Mỗi lần được hân hạnh được gặp bà, tôi luôn nói sự thật mà tôi đã biết được và bây giờ tôi đã nói hết tất cả những gì tôi đã biết, nên không còn gì để nói với bà nữa. Trước khi từ biệt Lệnh bà, không biết đến bao giờ mới gặp lại, tôi chân thành chúc Lệnh bà qua được cơn hoảng loạn, không phải của cuộc binh lửa mà là của chính lòng bà.

Vừa ngừng lới, Malambo uốn mình phóng thẳng xuống hồ làm ánh trăng như tan vụn ra theo sóng nước loang trên mặt hồ. Mimosađứng ngây như hóa đáナ

Sương thu buông ướt xiêm y, gió thu hiu hắt chợt làm nàng rùng mình ớn lạnh. Sự sống vẫn còn ở trong nàng, Mimosa hoảng hốt bước men theo ven hồ như trong cơn mộng du. Nàng đau khổ tận cùng, trí tuệ của nàng vẫy vùng tuyệt vọng trong miền tâm thức mênh mang để tìm hạnh phúc đích thực của cuộc đời.

Mimosa đi, đi mãi đến bên rìa của một rừng phong. Nàng chợt nhìn thấy thấp thoáng trong rừng bóng một vị đạo sư đang ngồi trên một tảng đá cao. Nàng như được tiếp thêm sức mạnh, bước nhanh tới phiến đá vị đạo sư đang ngồi, quì xuống đảnh lễ đạo sư và thảng thốt nói qua hơi thở:

- Bạch đạo sư. Con là Mimosa, hoàng hậu xứ Monovastu. Xứ sở của con đã tan nát vì chiến tranh, dân chúng lầm than, con đã mất tất cả. Nhưng ngay trong vinh quang tột đỉnh và trong đau khổ tận cùng, con vẫn không tìm thấy hạnh phúc đích thực của cuộc đời. Con đến đây cầu xin đạo sư chỉ bảo cho kẻ đệ tử vô minh này.

Cầu khẩn xong, nàng ngước mắt nhìn lên - trăng thu gần tàn xuyên qua kẻ lá đung đưa, chiếu mờ ảo lên người vị đạo sư - ông vẫn ngồi thiền tĩnh lặng trong thế liên hoa, hai mắt nhắm nghiền bất động. Trí tuệ của ông như chìm sâu trong tiềm thức. Ông như không để ý tời lời cầu khẩn tha thiết của nàng. Mimosa tiếp tục khẩn cầu ナ Nhưng trên tảng đá cao, vị đạo sư vẫn ngồi yên lặng. Nàng khấu đầu xuống đất để bộc lộ sự thành tâm của nàng. Khổ đau, tuyệt vọng và bất lực cùng với sự mệt mỏi rã rời của kẻ chiến bại, khiến nàng ngã ra dưới chân táng đá rồi thiếp điナ

Khi ánh sáng bình minh mơ màng xuyên qua tầng lá phong thu vàng, chim rừng véo von kêu hót gọi nàng Mimosa xinh đẹp tỉnh dậy. Nàng cựa mình thức giấc rồi mở to đôi mắt tuyệt với, ngây dại nhìn lên. Bỗng nàng bật dậy, bước tới bên tảng đá: phía trên chỉ là một pho tượng tạc vị đạo sư đang ngồi thiền. Đây là pho tượng do cha nàng, quốc vương Monovastu cho tạc cách đây hơn ba mươi năm về trước, để kỷ niệm vị đạo sư thánh thiện đã tới xứ này. Phiến đá lớn cẩm thạch dùng làm bệ tượng có khắc lời vị đạo sư:

"Hỡi các đệ tử! Hãy dùng nguồn nhiệt nhân ái để thắp sáng ngọn đèn trí tuệ ngay trong tâm thức của các người và sẽ tìm được hạnh phúc đích thực trong đó!"

Công chúa Mimosa như hụt hẫng chơi vơi, nàng khuỵu xuống bên tảng đá và thốt lên:

- Ôi! Hạnh phúc đời người chỉ thế thôi saoナ

Share this post


Link to post
Share on other sites

CUỘC GẶP GỠ ĐẦU NĂM

Khoảng khắc ngắn ngủi gọi là giao thừa đã qua đi. Nhưng chính cái khoảng khắc ngắn ngủi đầu năm ấy, lại mang cái không gian xuân đầy nhựa sống chảy đẫm vào cuộc đời, làm cho nó nôn nao rạo rực. Thỉnh thoảng những tiếng guốc dép, tiếng giầy Tây hay tiếng nói chuyện râm ran lại thảng thốt nổi lên trong màn đêm mệt mỏi, tĩnh lặng. Thanh âm do những người đang du xuân đón giao thừa tạo ra, như muốn níu kéo cái rạo rực trong khoảng khắc giao mùa đã mất. Trong không gian nhàn nhã và đặc quánh hy vọng đó, thời gian như nhích dần về quá khứ một cách khó nhọc. Mọi người như cũng theo dòng thời gian mệt mỏi vì hy vọng quá nhiều. Họ đã thiếp đi trong giấc ngủ, trả lại cho màn đêm sự tĩnh lặng cố hữu của nó.

Nhưng đâu đây, trong giấc xuân mơ màng - hình như từ trong phòng bên cạnh hay gần hơn - có những tiếng ai đó còn nói chuyện râm ran, làm như họ đang tranh luận một cái gì. Âm thanh lớn dần và mỗi lúc một rõ hơn. Từ trong tủ sách (có lẽ thế), một người loạng choạng bước ra với cái đầu trọc lốc, được đắp ở phía trước là khuôn mặt đỏ gay, chằng chịt đầy sẹo. Miệng hắn nói oang oang, phả hơi rượu nồng nặc:

-"Tôi! Tôi muốn làm người lương thiện. Tôi cần phải sống đạo đức. Tôi không thể như thế mãi được. Tôi không phải loại người như thế! Nhưng chúng nó không cho tôi được lương thiện! Thế thì tiên sư chúng nó! Tiên sư cả làng Vũ Đại!".

Hắn hét lên, cái đầu trọc lắc lư, tay cầm chai rượu huơ huơ trong không khí. Một đoàn người rùng rùng kéo ra, hình như cũng từ trong tủ sách. Họ giữ tay Chí Phèo - Phải! hắn chính là Chí Phèo, một nhân vật đáng vì nể, từ lâu đã nổi tiếng trong giới văn chương - nên họ chỉ khuyên can an ủi. Một người đưa tay phân bua:

-"Tại anh Chí Phèo quá nóng! Nhưng anh ấy nói đạo đức hả? Tôi không đồng ý! Để được cái gì? Tôi! Tôi đã đạo đức. Tôi đã sống lương thiện. Nhưng tôi cũng bế tắc và phải trở về quê với hai bàn tay trắng, sống bám vào mụ vợ khốn khổ, quanh năm lam lũ với bầy con nhếch nhác. Không! Không thể sống như thế được! Ta phải ác! Ta phải ác!".

Một tiếng cười gằn nổi lên:

-"Thôi đi ông Thứ ơi! Cái cỡ anh, một anh giáo khổ trường tư; "Sống mòn mỏi" dưới ngòi bút của Nam Cao; cơm không đủ mà ăn, quanh năm chật vật lo kiếm sống thì đếch làm gì được ai mà cũng bày đặt ác với độc. Còn thằng Chí Phèo! Mày cũng chỉ là thằng lưu manh mạt hạng ở nhà quê, một thứ du đãng miệt vườn, chỉ giỏi bắt nạt mấy anh nông dân khốn khổ, đã thấm vào đâu mà mở miệng nói đạo đức. Hơ! Hơ! Mà mày đã đạo đức hồi nào đâu? Mày mới chỉ có ý nghĩ đó thôi thì đời đã vội vươn bàn tay lông lá túm lấy mày và quẳng ra bên lề cuộc đời rồi! Hơ! Hơ! Như ta đây nè! " Vừa nói, người đó vừa vỗ bồm bộp vào bộ ngực xăm trổ chằng chịt: "Năm Sài Gòn đây! Cuộc đời "Bỉ vỏ" ngang dọc của ta cũng đủ cho mấy người thấy rằng: mấy người chỉ có thứ triết lý rẻ tiền. Tốt nhất hãy câm mồm lại để người khác nói chuyện!".

-"Thôi đi anh! - một người đàn bà mặt mũi chất phác, quê mùa, nhưng khá xinh xắn, kéo áo Năm Sài Gòn nói nhỏ - Nhắc làm gì cái quá khứ đó! Chúng mình hãy an phận, để em cố buôn thúng bán bưng, đồng tấm đồng cám rồi sống đạm bạc, nhưng hạnh phúc bên nhau là được rồi!". Tám Bính buồn rầu nói.

-"Các anh có cách sống như vậy là không được! - Đào Vân Hạc lắc đầu - con người sống phải có đức; phải biết tôn ti trật tự; phải đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và phải biết xuất xử tuỳ thời mới là bậc trí giả. Trong sách Luận ngữ, Đức Khổng tử có dạy "

-"Thôi đi ông bạn ơi! Cái thứ Nho giáo cổ hủ - sản phẩm của xã hội phong kiến lạc hậu của các anh - mà đem ra bàn bây giờ thì không còn hợp thời nữa! Trí giả gì đâu? Xuất xử gì đâu? Mà sao anh cũng "Lều Chõng" đi thi. Cụ Ngô Tất Tố cũng đã cho anh đậu đến thủ khoa thi Đình rồi kia mà. Anh được cái gì? Hay là viết văn phạm huý - một thứ luật lệ khắt khe của chế độ phong kiến các anh - Rồi cũng tù, rồi cũng phải trở về quê với vợ như anh Thứ giáo khổ kia".

Phú vừa nói vừa hăng hái bước ra trước đám đông. Anh ưỡn ngực, ngửa mặt đưa cả hai tay hướng lên trời, hùng hồn nói lớn:

-"Theo tôi! Cuộc đời là một trường tranh đấu, chúng ta phải dấn thân!".

Một vài tiếng vỗ tay lộp độp nổi lên ủng hộ Phú. Đào Vân Hạc cau mặt tỏ vẻ bực mình. Anh bước ra trước mặt Phú:

-"Tôi xin hỏi anh. Anh được cái gì trên trường tranh đấu của anh? Văn minh Tây học như anh; đấu tranh như anh rồi cũng tù như tôi chứ gì; mà còn tệ hơn tôi nữa. Anh bị tra tấn đánh đập. Còn tôi thì không. Rồi anh cũng về quê sống với vợ chứ gì. Anh bảo tôi phong kiến khắt khe hả? Nhưng ở đó mọi chuyện còn rõ ràng. Tuy khắt khe, nhưng người ta còn biết thế nào là phạm húy để mà tránh. Còn cái thời gọi là văn minh Tây học của anh thì thiên địa tù mù, chẳng biết đằng nào mà lần. Ông đó mà thằng cũng đó. Phải chi ông Vũ Trọng Phụng cho thêm một lần "Vỡ đê" nữa, thì cũng chẳng ai biết cuộc đời anh sẽ trôi dạt về đâu? Sợ rằng anh còn tệ hơn ông Thứ giáo khổ kia".

Thứ gào lên:

-"Thằng nào bảo Thứ tệ gì đâu? Dám nói lần nữa xem nào?".

Năm Sài Gòn gằn giọng:

-"Câm đi! Cấm thằng nào làm ồn ào mất trật tự. Đến thằng Chí Phèo cũng phải câm miệng nữa đấy!".

Chí Phèo thét:

-"Thằng nào bảo ông câm đâu? Tiên sư chúng nó! Tiên sư cả làng Vũ Đại"

-"A thằng này láo!". Năm Sài Gòn lao tới đá mạnh vào ngực Chí Phèo. Chí Phèo ngã dúi vào một người đàn bà ở phía sau.

"Choang!", một thứ nước sền sệt đổ ra tung tóe. Tiếng Thị Nở tru tréo:

-"Ối giời đất ơi! Ối làng nước ơi! Chúng nó làm bể tô cháo hành của tôi rồi".

Chí Phèo vớ ngay mảnh sành của bát cháo hành vỡ rạch mặt ăn vạ:

-"Ối làng nước ơi! Ối! ông đội sếp ơi! Chúng nó giết tôi, cứu tôi với!".

Năm Sài Gòn điên tiết:

-"A! Thằng này vừa ăn cướp vừa la làng! Anh em đâu? Cho nó một trận để biết mặt giang hồ".

Tư lập lơ và Ba dao bay cùng Năm Sài Gòn lao vào đấm đá Chí Phèo túi bụi. Tiếng ồn ào la hét vang động cả một góc trời, khiến mọi người nhốn nháo.

Đoàng! Đoàng! Hai tiếng súng nổ rắn đanh, khiến tiếng ồn ào im bặt. Có hai người cảnh binh xuất hiện. Họ bước đến trước đám đông với nét mặt hầm hứ. Một người cầm khẩu súng lục, nòng súng vẫn còn bốc khói. Người kia tay lăm lăm cái dùi cui.

-"Ê! Ai cho các người làm ồn ào gây mất trật tự ở đây hả? Tít đâu? Đưa hết cả đây xem!".

Đám đông dúm dó, sợ hãi ngồi nép vào nhau. Người nào người nấy mặt tái xanh trước sức mạnh của công lực, họ nhìn nhau lơ láo. Tiếng ồn ào biến mất như có phép lạ. Một viên cảnh binh đưa đôi mắt ngầu ngầu đầy uy lực lướt qua đám đông đang rúm ró vì sợ hãi. Ánh mắt sắc lạnh dừng lại ở một người đàn ông mặt bộ đồ nâu vá chằng đụp, đội chiếc nón mê rách xùm xụp che kín mặt, dáng điệu rất khả nghi.

-"Ê! Thằng kia! Bước ra đây! Tít đâu! Đưa đây coi?".

Người đàn ông đứng dậy, thân hình lực lưỡng chật căng trong bộ đồ nâu rách. Anh khoanh tay trước ngực, tư thế ra vẻ thách thức. Người này từ từ tiến lên với ánh mắt đầy phẫn nộ hắt ra từ sau vành nón phóng thẳng vào hai nhân viên công lực. "Anh Pha!" - Có tiếng xì xào. Mọi người nín thở, không biết điều gì sẽ xảy ra với anh Pha - Phải, người đó chính là anh Pha - con người đang ở "Bước đường cùng". Hai luồng kình lực từ ánh mắt phóng thẳng vào nhauナ Thầy đội cầm súng bất giác lùi lại, người kia lăm lăm chiếc dùi cui thủ thế.

Khoảng cách giữa hai bên từ từ rút ngắn ,không gian nặng nề, căng thẳng. Đúng lúc ấy, bỗng xuất hiện một người đàn ông mặc bộ đồ Tây sang trọng bước đến. Ông đứng cản giữa anh Pha và hai nhân viên công lực. Với vẻ mặt nghiêm trọng và đầy uy quyền một cách giả tạo, ông ra hiệu cho anh Pha dừng lại. Rồi xoay người về phía hai nhân viên công lực, ông bình tĩnh đưa tay gạt chiếc dùi cui xuống.

-"Thôi đi, hai thầy Min deux và Min trois! Đây là một cuộc tranh luận Đó là điều rất cần thiết cho nền văn minh và sự tiến hoá. Chúng ta không nên ngăn cản họ. Hai thầy hãy yên tâm về nhiệm sở. Ở đây sẽ không có chuyện gì!".

Nói xong, người này đẩy nhẹ vào vai hai thầy đội, ra hiệu. Hai thầy đội hầm hầm, tỏ vẻ miễn cưỡng phải bước đi. Họ cũng không quên ném vào đám đông một cái nhìn sắc lạnh như muốn cảnh cáo: sự việc này sẽ không thể xảy ra lần thứ hai. Người đàn ông vận đồ Tây sang trọng quay về phía đám đông. Ông khoát tay làm một cử chỉ như muốn nói một điều gì. Nhưng có lẽ thấy đám người bất lực đang dúm dó vì sợ hãi. Ông tỏ vẻ thương hại, nhún vai rồi bỏ đi.

Từ trong đám đông, một số người lục tục đứng dậy đi theo ông. Người ta nhận thấy đó là: vợ chồng ông Văn Minh, ông Tuyp - phờ - nờ, bà phó Đoan, cậu "em Chã" và cả ông thầy bói nữa.

Đợi mọi người đã đi khuất hẳn trong bóng đêm. Tiếng nguời lại ồn ào nổi lên. Chị Dậu thẽ thọt :

-"Tôi hỏi cái này khí không phải. Vì "Tắt đèn" nên nom không rõ. Cái nhà ông vận đồ Tây là ai mà oai thế? Đến đội xếp cũng phải nể thế, hả thầy Năm Sài Gòn?".

Năm Sài Gòn giật mình:

-"Suỵt! Nói khẽ chứ! Đội xếp nó biết tôi ở đây, chúng nó bắt tôi bây giờ".

Năm Sài Gòn lấm lét nhìn xung quanh. Chẳng ai để ý đến hắn. Yên tâm, Năm Sài Gòn ghé sát vào tai chị Dậu, nói rất khẽ:

- Ông ấy chính là ngài giáo sư Xuân tóc đỏ!

BếnTre 1991

Share this post


Link to post
Share on other sites

HOÀ CẢ LÀNG

Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

(Ca dao)

Vào năm Nhâm Thìn bão lụt, thời Bảo Thái nguyên niên, dưới triều Lê Trịnh, có anh cu Đẹt làm mõ làng Vũ Đại. Quanh năm suốt tháng, anh mõ đầu tắt mặt tối phục dịch cho việc làng việc xã, nhưng vẫn nghèo xơ xác. Mặc dù địa vị xã hội thuộc vào hàng dưới hạ đẳng và bần cùng, nhưng anh mõ vẫn chắt chiu, dành dụm nuôi được con lợn áng chừng non tạ. Không may cho anh, vào chiều tối ba mươi Tết năm ấy, trong khi lo chạy việc làng, con lợn xổng chuồng, phóng chạy sang bếp nhà ông xã nhiêu.

Lúc này, ông Mít - mới gom góp của cải dành dụm được trong nhiều năm, mua chân xã nhiêu để được mang danh chức dịch trong làng - đang hí hửng bổ củi, nấu nồi bánh chưng ăn Tết. Trong ánh lửa bập bùng, nhập nhoạng với trời tối mịt của đêm ba mươi, chợt thấy con vật lạ xộc vào chỗ mình, xã nhiêu hoảng hồn. Sẵn rìu bổ củi trên tay, ông xã phang một cái trời giáng vào đầu con vật. Con lợn khốn khổ của anh mõ "hự" lên một tiếng rồi lăn ra chết. Cầm thanh củi cháy đỏ lại gần, giơ lên coi, xã nhiêu giật mình: con lợn của thằng hàng xóm - thằng mõ - kẻ hạ đẳng và bần cùng nhất làng Vũ Đại. "Chết mẹ!" - xã nhiêu nghĩ bụng - "Thằng mõ nó biết mình giết lợn nó, mà lại giết ngay tại nhà mình, nó bảo mình ăn trộm, nó ăn vạ la làng thì còn gì là danh giá ông xã nữa! Bây giờ chỉ còn cách quăng mẹ nó con lợn này sang vườn nhà lão lý cựu là chắc ăn hơn cả". Nghĩ sao bào hao làm vậy, xã nhiêu lặc lè vác con lợn băng qua cánh đồng lén đến vườn nhà lý cựu.

Ông Ổi cũng mới mua chân lý cựu ngót trăm quan tiền và một tiệc khao cả làng cũng cỡ đó. Ông thấy thật là danh giá - "Không như cái thằng Mít mới làm ăn khá lên đây, ti toe có mấy hột mà cũng bày đặt mua chức xã nhiêu!" Vừa nghĩ, lý cựu vừa chắp tay sau đít đi đi lại lại trong vườn vừa gật gù tỏ vẻ đắc chí. Bỗng lý cựu đứng sựng lại, mặt mày tái mét: bên bờ rào, một bóng đen lù lù xuất hiện đang nhìn ngó. Lý cựu định thần coi kỹ - xã nhiêu - vừa nghĩ tới nó, nó đã hiện ra, mình mẩy mặt mày máu me bê bết, trông cứ như một oan hồn hiện lên đòi mạng. Lý cựu lập cập la lên, tiếng eo éo vì lạc giọng:

- Bớ làng nước ơi! Cứu tôi với!

Tiếng la chưa dứt thì "huỵch"; một con gì cũng bê bết máu quăng ngay trước mặt làm lý cựu sợ đến cứng họng, lăn quay ra đất, run lẩy bẩy. Người nhà nghe tiếng la chạy túa ra vườn. Ánh đuốc bập bùng, lý cựu mắt trợn trắng chỉ tay ra bờ rào, răng đánh vào nhau lập cập "Xã nhiêu"ナ Một tay người nhà tỏ ra can đảm, mạnh bạo cầm đuốc đi tới coi:

- Bẩm cụ lý! Con lợn ạ!

- Nó! Xã nhiêu, không phải lợnナ

Thấy cụ lý đã mất hồn vía, đám đầy tớ bèn khiêng lý cựu vào nhà chạy chữa.

Hoàn hồn, ông lý bàn với bà lý:

- Sách nho có câu: "Họa phúc bất tường, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí". Nó làm ông hết vía thì ông được con lợn. Vậy bu nó sai pha thịt ra, nhà ta lấy một góc tư ăn Tết. Còn bao nhiêu, mai tôi với đầy tớ gánh ra đình bán lấy tiền, bù chút đỉnh vào cái khoản lo chân lý cựu cho tôi!

Bà lý khoái chí cười toe toét:

- Lạy thánh mớ bái, nhờ ơn đức ông bà tổ phụ, nên năm hết Tết đến nhà ta vẫn có lộc Trời cho!

Sáng mồng một Tết, lý cựu khăn đóng, áo dài, quần chúc bâu, giày da láng, phe phẩy chiếc quạt cùng anh lực điền gánh thịt lợn ra chợ đình bán. Nửa đường, cụ lý gặp trương tuần Hách - người phụ trách an ninh trong làng - đang ve vẩy tay thước đi cùng với một tuần phu. Trông thấy lý cựu, trương tuần Hách cười toe toét, khom lưng vái:

- Bẩm cụ lý, năm mới kính chúc cụ vạn thọ khang ninh.

Lý cựu cũng toe toét cuời ra dáng hỉ hả:

- Không dám! Không dám! Năm mới xin chúc ông trươngナ

Chợt nhìn thấy thịt lợn, trương tuần Hách đổi giọng:

- Ai cho phép ông phạm lệ làng?

Lý cựu xám mặt ngơ ngác. Tuần Hách tiếp:

- Ông sát sinh ngày mồng một là một tội, hai nữa là ông không có nuôi lợn, sao lại có thịt lợn bán, đích thị đồ gian, tôi phải bắt ông ra làng phạt vạ.

Lý cựu mặt tái mét:

- Bẩm ông trươngナ

- Không bẩm báo gì hết! Ông là lý cựu, chỉ có cái danh do làng đặt ra, để bán cho kẻ có tiền như ông, để ông khỏi mang tiếng bạch đinh, khỏi phu phen tạp dịch, để ông được ăn trên ngồi trước mỗi khi có đình có đám. Nhưng ông không có quyền gì sất, tôi mới có quyền! Biết chưa? Đi!

Người tuần phu vung tay thước. Lý cựu run lập cập:

- Bẩm ông trương! Thật ra thìナ

Lý cựu thuật lại câu chuyện, rồi nói:

- Xin ông cũng thương tình, sự thật chỉ có thế. Ông có làm lớn chuyện thì chẳng bõ dân làng nó cười đám đàn anh. Chẳng gì chúng ta cũng cùng trong chức dịch với nhau!

Trương tuần Hách nghĩ bụng: "Nếu việc thật chỉ có thế thì cũng đếch làm gì được thằng lý cựu keo kiệt này. Thằng này có bóp cổ thì nó lè lưỡi, chứ không chịu lòi tiền cho mình, chi bằng lựa cách lấy mẹ nó chỗ thịt lợn có lẽ dễ hơn!". Nghĩ vậy, trương tuần Hách dịu giọng:

- Nếu ông biết điều thì thôi! Vả lại cũng tình chòm xóm, lại trong chức dịch với nhau. Thôi thì tôi bàn thế này: công ông đã khó nhọc gánh ra đến đây, ông đã lấy một góc tư thì lấy thêm bộ đồ lòng nữa là quá phải. Lợn cũng không biết là của ai, chỗ thịt này ông cứ đưa cho tôi, mặc tình tôi lo liệu, êm chuyện thì thôi. O¬ng thấy thế nào?

Lý cựu mừng húm, vâng dạ rối rít. Ông lý đưa mắt lườm anh đầy tớ. Thầy trò chộp bộ đồ lòng rồi lập cập ra về. Vừa đi lý cựu vừa tâm đắc: "Họa phúc bất tường, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí".

Trương tuần Hách lấy thịt về nhà, nghĩ nuốt cũng khó trôi. Chú bèn pha lấy một góc tư, còn bao nhiêu đem trình lý trưởng.

Lý trưởng làng Vũ Đại đang khề khà uống rượu thì trương tuần Hách đem thịt lợn đến trình việc. Bực mình, cụ lý mắng:

- Tháng giêng là tháng ăn chơi, lại là mồng một Tết. Chú trình việc định phá ta hả? Sao không để ra giêng hãy trình?

- Dạ bẩm cụ lý! Để ra giêng e thịt lợn ôi, phạm tội phí của trời. Nên con cũng mạn phép lấy một góc tư, còn bao nhiêu đem trình cụ lý, tuỳ chỗ cụ định liệuナ

Nghe nói lý trưởng gật gù:

- Thôi được, thầy nói cũng có lý. Vậy cứ để thịt đây cho tôi lo!

Trương Hách về rồi, lý trưởng nghĩ bụng: "Tiên sư cái thằng trương Hách thế mà khôn, nó đẩy việc cho mình. Xử thì Tết nhất rộn làng rộn xóm, tiếng oán để cho ta, không xử để ra giêng thì lợn ôi cũng uổng, lợn thì không biết của ai, mà cũng chẳng còn nguyên con lợn!". Cụ lý chắc lưỡi: "Thôi thì nó góc tư, ta đây cũng góc tư cho khỏi phí của trời". Nghĩ vậy, cụ bèn sai đầy tớ xẻ thịt. Chỉ một lát sau, cụ lý đã áo the khăn xếp chỉnh tề cùng đầy tớ bưng quả thịt, đem trình ông chánh tổng. Nghe lý trưởng là Vũ Đại trình sự việc, ông chánh phán:

- Thằng trương Hách nó đùn việc cho ông, ông lại đùn cho tôi hả?

Lý trưởng khom lưng:

- Dạ, bẩm cụ chánh, nhà con đâu dám. Thôi thì cụ chánh thương tình xín xái. Dầu gì cụ cũng xuất thân từ làng Vũ Đại. Kể như làng Vũ Đại con tết cụ chút đỉnh thịt lợn!

Chánh tổng ra chiều suy nghĩ rồi gật gù:

- Nể tình thầy, tôi cũng chiếu cố lấy một góc tư, chứ chẳng dám ăn hơn các ông. Còn cái đầu lợn, để tôi sai đem biếu quan phụ mẫu tri huyện, nói là của làng Vũ Đại các anh tết quan. Như vậy, sau này các anh xin xỏ gì nó cũng dễ, có phải không?

Lý trưởng hớn hở cười toe toét, vái dài:

- Bẩm cụ chánh! Cụ thật cao kiến, thôi thì trăm sự làng Vũ Đại chúng con trông cậy cả vào cụ!

*

* *

Quan phụ mẫu đang phấn khởi, vì đầu năm có người đem biếu cái thủ lợn. Thực ra, quà Tết quan chẳng thiếu gì, nhiều cái còn đắt giá hơn. Nhưng quan cho đó là điềm lành. Con ngài năm nay lại đi thi để lấy cái tú tài. Trước đây nó đã mấy lần thi không đậu. Nó tuổi Hợi tức là lợn, ứng vào điềm đầu lợn chắc hẳn phen này sẽ đậu thủ khoa. Chỉ tiếc cái tai trái đầu lợn lại rách mất một miếng, e có điều gì không được trọn vẹnナ

Bỗng lính lệ chạy vào báo:

- Bẩm quan lớn! Có thằng mõ làng Vũ Đại xin được vào hầu. Bẩm nó láo quá, cửa quan mà nó làm như cái gì của nó ấy ạ!

- Thôi được! - quan phụ mẫu đang phấn khởi, ngài tỏ ra độ lượng - Chốn công đường ai có việc thì tới, vậy mới gọi là công đường chứ! Cho nó vào đây!

Chú lính há miệng ngạc nhiên: lần đầu tiên quan tỏ ra độ lượng, một anh mõ hạ đẳng mà cũng được gặp quan. Cảm động đến rưng rưng nước mắt, chú lính cúi rạp người:

- Xin tuân lệnh quan lớn!

Anh mõ bước vào.

- Có việc gì? Quan hất hàm, oai vệ hỏi. Anh mõ chắp tay vái rồi mếu máo kể lể:

- Dạ! bẩm quan lớn! Cái thân con nghèo hèn, dành dụm chắt chiu mới nuôi được con lợn. Nhưng không may đêm ba mươi Tết có kẻ ăn trộm lợn của con!

Quan quắc mắt, ngài quát:

- Sao không báo tuần! Tao còn nhiều chuyện lớn phải lo, thì giờ đâu mà lo cái chuyện vặt của mày!

Anh mõ nghe quan nổi giận thì mặt tái xanh, nói lắp bắp:

- Dạ bẩm quam lớn! Con lợn của quan thì nó nhỏ, nhưng con lợn của con thì nó lớn lắm ạ! Dạ bẩm, con cũng đã báo ông trương tuần; ông trương tuần chỉ lên cụ lý; cụ lý chỉ lên cụ Chánh; cụ Chánh chỉ lên quan lớn. Con hết hơi mới lên đến đây, kêu xin quan lớn đèn trời soi xét cho phận cùng đinh này!

- Con lợn của mày có dấu tích gì không?

- Dạ bẩm quan lớn! Con lợn của con nó bị gai tre móc phải, nên rách tai trái từ bé ạ!

Quan phụ mẫu giật mình, tái mặt. Ngài thét lớn:

- Lệ đâu! Bảo thầy lục sức giấy gọi tất cả chức dịch làng Vũ Đại với chánh tổng Vũ Nhai lên hầu ngay!

Chú lệ khúm núm:

- Dạ bẩm quan lớn! Chức dịch làng Vũ Đại với chánh tổng Vũ Nhai đang tề tựu trước công đường để mừng tuổi quan lớn.

Quan khoát tay ra hiệu cho anh mõ và chú lính đi theo, rồi hầm hầm bước ra cổng.

Thấy quan thăng đường, đám chức dịch quỳ mọp:

- Bẩm quan lớn! Năm mớiナ

Quan gạt phắt:

- Không năm mới năm me gì hết! Chúng mày làm ăn thế nào mà để Tết nhất thằng mõ lên tận đây kêu ca là nó mất lợn?

Quan quay lại hỏi anh mõ:

- Con lợn của mày ra sao?

Anh mõ sợ quá, quỳ xuống lắp bắp:

- Dạ bẩm quan! Lợn con bị rách tai trái ạ!

Quan quắc mắt nhìn chánh tổng. Chánh tổng vội nói:

- Dạ, bẩm quan! Thủ lợn con biếu quan do lý trưởng làng Vũ Đại đem cho ạ! Dạ! Chỉ có cái thủ và một góc tư!

Lý trưởng vội nói:

- Dạ, bẩm quan! Lợn ấy anh trương Hách đem lại cho con chỉ có một nửa ạ!

Trương Hách vội nói:

- Xin quan minh xét! Con đi tuần gặp anh lý cựu gánh thịt ra đình nhờ con trình làng, lợn thiếu một góc tư ạ!

Lý Ổi run lập cập:

- Dạ, bẩm quan! Anh xã Mít đêm ba mươi, quăng lợn chết vào nhà con ạ!

Xã nhiêu quì mọp kể lại sự việc, sau đó lạy như tế sao:

- Bẩm quan! Xin quan đèn trời soi xét.

Quan phụ mẫu ngẫm nghĩ: "Đúng là thủ lợn rách tai sinh điềm gở! Biết đâu nó ứng vào việc kiện cáo này, còn con ta vẫn lãnh thủ khoa!". Nghĩ vậy, quan khoái trá, ngài phán:

- Như vậy thì nay ta xét thấy: lợn chạy vào bếp xã nhiêu, bị nó đập chết nhưng lại quăng vào vườn lý cựu, chứng tỏ xã nhiêu không có lòng tham. Đập lợn chỉ là hành động tự vệ chính đáng, nó không có tội gì, bản chức tha cho!

- Xã nhiêu hớn hở vái dài:

- Dạ, bẩm quan lớn minh lắm ạ!

Quan quay qua lý cựu:

- Còn thầy lý cựu! Lợn quăng vào nhà thầy, thầy có lấy hết cũng phải mà chỉ lấy một góc tư, rồi đem trình làng. Bản chức xét thấy thầy cũng vô tội!

Lý Ổi quỳ mọp hớn hở:

- Bẩm quan lớn dạy chí phải!

Quan nhìn sang trương Hách:

- Với trương Hách, Tết nhất còn mẫn cán với công việc thật đáng khen. Lợn lý cựu đưa cho không biết của ai; lại chỉ lấy một góc tư rồi đem trình lý trưởng là phải phép, ngươi không có tội gì!

Trương Hách hí hửng:

- Dạ bẩm quan lớn dạy thật chí lý!

- Còn lý trưởng làng Vũ Đại! - quan phán tiếp - con lợn đến thầy cũng không còn nguyên vẹn. Không lẽ gọi cả làng ra nhận lợn trong ngày tư ngày tết làm rộn làng rộn xóm, trong khi cũng không biết lợn ở đâu ra. Ông xung công rồi đem biếu chánh tổng là phải phép. Như thế là người biết làm việc.

Lý trưởng vui vẻ vái dài:

- Tạ ơn quan lớn, xét thật công tâm!

Quan ngó qua chánh tổng:

- Còn ông chánh! Thầy lý biếu ông, ông có quyền nhận và còn có bụng trên nghĩ đến ta, dưới nghĩ đến làng Vũ Đại. Như thế là trên dưới trọn đạo, vẹn tình. Xử thế thật đáng khen.

Chánh tổng vái dài:

- Dạ bẩm quan! Xưa nay con vẫn đúng như lời quan dạy!

- Còn ta! - quan gật gù - ta vốn thương người, lấy quá thì khổ dân, mà không lấy thì phụ tình người biếu ta. Ta nhận vì thuận lòng người, chớ cái đầu lợn thì vơi ta có gì đáng kể!

Đám chức dịch vái dài:

- Dạ bẩm quan! Quan thật nhân đức. Đúng là "Dân chi phụ mẫu"!

Anh cu Đẹt quỳ mọp, mếu máo:

- Dạ bẩm quan lớn! Bẩm các cụ! Cái phận con nghèo, nên cái thân con ngu. Con thấy quan dạy thật chí lý, việc các cụ làm thì phải cả. Nhưng con lợn của con thì nó đi đàng nào? Thật khốn khổ thân con!

- Đối với thằng mõ! - quan gật gù độ lượng, ngài phán - Ngươi vô ý để lợn xổng chuồng, lại kêu rêu là mất trộm khi không có chứng cớ rõ ràng, gây hoang mang, hoài nghi trong bà con, làng xóm. Đúng ra ta phải trừng trị. Nhưng xét ra thì "của đau con xót, một mất mười ngờ" lại thấy thân phận ngươi nghèo hèn cũng đáng thương. Bậc thánh nhân xưa lấy lòng nhân làm gốc, lấy hoà khí làm đầu! Nay ta xử: "Hoà cả làng!".

Đám chức dịch nảy giờ nín thở, nay mừng rỡ la lên:

- Bẩm quan lớn! Chí phải! Chí phải! Lợn đã xổng chuồng, hoà cả làng! Hoà cả làng! Ha ha ha!

Anh mõ tiu nghỉu, mếu máo trở về nhà. Thế là câu chuyện từ miệng anh mõ lan ra khắp làng Vũ Đại, rồi ra hết tổng Vũ Nhai, lan cả huyện Thọ Xương, rồi khắp trấn Kinh Bắc, rồi ra cả nước. Đến nay trải đã mấy trăm năm, "Hoà cả làng" đã trở nên câu thành ngữ dân gian.

Cho đến tận bây giờ, mỗi khi đi qua đám đánh cù, đánh đáo, thấy bọn trẻ thường la lên:

- Hoà cả làng! Hoà cả làng!

Và khi đó, thế nào cũng có thằng cười, thằng khócナ

Share this post


Link to post
Share on other sites

CÁI CƯỜI CỦA THẰNG BỜM

Tiểu "nuận"

Thằng Bờm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè

Phú ông xin đổi một bè gỗ lim

Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi

Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm cười.

Cứ như thế, bài ca dao thằng Bờm ngộ ngĩnh, tửng tửng theo gió, luồn lách qua luỹ tre làng, qua mái tranh, gốc rạ, lưu truyền không biết tự bao đời, cho đến tận bi giờ. Chẳng phải vì triết lý sâu xa dạy đời; cũng chẳng phải là áng văn chương trác tuyệt làm rung động lòng người; cũng lại càng chẳng phải huyền thoại, sử thi khiến người đời phải trân trọng gìn giữ. Nhưng lạ thay! Chuyện thằng Bờm vẫn cứ tồn tại, còn lâu hơn cả nhũng bài thơ đắc ý của những thi nhân vào "hạng thường thường bậc trung". Hẳn như truyện Kiều, khi sáng tác cụ Nguyễn Du đã chép ra giấy trắng mực đen rõ ràng, chứ đâu phải truyền miệng như "Thằng Bờm". Vậy mà khi lưu truyền, còn có bậc "cao nhân" nào đó trong lúc nhậu nhẹt say sưa, nổi máu giang hồ, liều mạng sửa văn của cụ Nguyễn Du, bôi chữ "tác" thành ra chữ "tộ". Khiến cho hậu thế có luôn mấy bản Kiều khác nhau, bản dài, bản ngắn để lưu truyền. Tao nhân, mặc khách về sau thi nhau bàn bạc chữ "tộ" chữ "tác", cứ loạn cả lên. Ấy thế mà chuyện "Thằng Bờm" chưa thấy ai sửa được chữ nào. Cũng may, nếu bị sửa chỉ cần một chữ thì đâu còn là "Thằng Bờm" nữa. Sự tồn tại của chuyện "Thằng Bờm" kể ra thì cũng "lọa", chẳng thua gì một huyền thoại.

Nhưng chẳng ai có thể biết được bài ca dao ấy có từ bao giờ, gốc tích ra sao? Từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, hay thời Trần, thời Lý? Hẳn từ thời Bắc thuộc hay có khi từ thời Hùng Vương cũng nên? Ai là tác giả chuyện "Thằng Bờm"? Hổng biết luôn! Đến như chuyện Thạch Sanh, thần thoại từ đầu đến đuôi, thế mà cũng có người tìm ra được "dị vật" bảo chứng cho nguồn gốc của câu chuyện mới ghê chứ(?). Người ta bảo rằng thì là ở tận tít Hà Tiên, có cái động gọi là "Thạch Động" (liên quan chặt chẽ đấy nhé: Thạch với Thạch giống nhau); trong động còn có cái hang ăn thông xuống biển (cứ y "choang" như trong chuyện). Hình như còn có cả mảnh vỡ của nồi niêu, xong chảo bằng đất nung nằm lung tung trong ấy nữa (Hẳn là đồ dùng của Thạch Sanh khi đi làm quan quăng lại!?). Đã vậy, hiện nay ở vùng đồng bằng Nam bộ có rất nhiều người mang họ Thạch (Chắc đấy là con cháu do Thạch Sanh lấy công chúa đẻ ra?). Như vậy thì chuyện Thạch Sanh phải có thật đứt đuôi đi rồi!

Ối giời đất ơi! Chu choa, mèng đéc, mế bầu, bọ bủ ơi! Thế thì mau mau cố gắng đào bới chung quanh Thạch động xem, có khi còn cả cây đàn và niêu cơm thần vẫn chôn đâu đó. Cổ vật có giá trị thượng thặng đấy! Đào được thì "Nô - tế bồ" về giá cả. Cứ gọi là trúng quả đậm chứ chẳng phải chuyện chơi! Nhưng eo ơi! Nếu thế thì chuyện đại bàng, trăn tinh, thuỷ quái đều phải có thật cả đấy! Cửa giả phải đóng cẩn thận; buổi tối trẻ con phải đi ngủ sớm. Nếu không yêu tinh bắt ăn thịt đấy! Kinh quá!

Còn chuyện thằng Bờm thì lại chẳng có cái may mắn đó! Di vật khảo cổ thì chẳng thấy mồ mả thằng Bờm chôn ở đâu. Xét gia phả cũng chẳng thấy ai là con cháu thằng Bờm.Văn bản chữ Hán, chữ Nôm cũng chưa thấy ai viết chuyện "Thằng Bờm". Có lẽ văn bản "cổ" nhất về "Thằng Bờm" được ghi bằng chữ Quốc ngữ?

Chà! Như vậy thì có thể "Thằng Bờm" xuất hiện vào thời Tây mới sang xâm lược nước ta cũng nên?

Ơ! Nhưng mà văn bản "Thằng Bờm" thì lại không có dấu ấn của thời Tây trong đó? Bởi vì nếu vào thời Tây thì chắc hẳn thay vì con chim đồi mồi sẽ là con búp bê chớp mắt mở mắt chẳng hạn; hoặc giả câu cuối có thể viết là " Phú ông đổi ￸ bánh ga - tôi (*). Bờm cười" thì mới đúng là dấu ấn thời Tây chứ! Đằng này nó lại cứ tưng tửng, chỉ trừ thời đại đồ đá. còn thời nào cũng được. Như vậy là chuyện "Thằng Bờm" không may mắn như chuyện Thạch Sanh rồi. Bàn chuyện xuất xứ của thằng Bờm khó quá. Cứ y như đi tìm sơ yếu lý lịch của Chí Phèo ở làng Vũ Đại, cũng đến hoà cả làng thôi.

Thế thì đành phải quay ra bàn về nội dung của câu chuyện thằng Bờm vậy. Cũng nhiều người bàn rồi. Thằng Bờm lên phim lên kịch, thằng Bờm vào sách vở học sinhナ Người Việt Nam ta ai mà chẳng biết thằng Bờm, cứ y như ai cũng biết ông trời vậy. Thậm chí, người viết có lần vô tình đã nhìn thấy một quán cà phê karaoke lấy tên "Thằng Bờm" hẳn hoi. Đủ hiểu thằng Bờm nổi tiếng cỡ nào! Nói thế chứ chưa ai biết được thằng Bờm mặt mũi ra sao, ăn mặc thế nàoナ Có người bảo rằng thằng Bờm ngớ ngẩn không biết giá trị vật chất cao sang, nên đã từ chối những gì phú ông cho nó. Cũng có người lại bảo rằng: thằng Bờm là tiêu biểu cho giới trí thức bình dân, vốn thật thà chất phác. Cho nên Bờm không tham lam (giới bình dân thì không tham lam? Hơ!), nên chỉ đổi cái quạt mo lấy đúng giá trị của nó là gói xôi ナ Hình như những nhận xét của người đời không làm thằng Bờm thoả mãn, nên nó vẫn cười cho đến tận bi "vờ".

Nếu bảo Bờm ngớ ngẩn - theo tiêu chuẩn phương pháp luận: không biết giá trị của cải cao sang là ngớ ngẩn - thì không lẽ phú ông cũng là thằng ngu hay sao mà đem cả một gia tài đồ sộ để đổi lấy cái quạt mo? Cứ theo phương pháp luận này thì phú ông không thể là thằng ngu. Bởi vì phú ông ngu thì làm sao mà lắm tiền thế? Như vậy thì Bờm cũng không thể ngu. Lập luận kiểu này là không lô gích.

Nếu bảo Bờm không tham lam, cái quạt mo chỉ giá trị bằng gói xôi thì phú ông đổi làm gì? Để ngài quạt phạch phạch cho nó mát chăng?! Ở cái xứ sở mà người ta ăn trầu từ thời thượng cổ, mo cau thiếu gì! Giầu như phú ông chỉ cần bỏ ra một đồng kẽm cũng mua nổi ngót chục cái quạt mo chứ đừng nói một cái. Cứ gọi là đổi gói xôi cũng còn là mắc tiền. Lập luận này cũng không lô gích.

Ấy thế mà xét theo nội dung văn bản qua ngôn từ của bài ca dao, thì rõ ràng thằng Bờm đã đổi cái quạt mo đâu? Nếu Bờm đã đổi thì sao bài ca dao câu cuối không viết là: "Phú ông xin đổi nắm xôi. Bờm: Ừa!". Cái oái ăm nó ở chỗ Bờm mới chỉ cười. Cười thì cũng còn nhiều kiểu. "Cười" khác, mà "ừ" khác. Đó là hai "phạm trù"￸ khác nhau hẳn. Bởi vậy bảo Bờm cười tức là đã đồng ý đổi chỉ là lập luận vội vã, chưa thấu đáo. khiên cưỡng, chủ quan, duy ý chí, không khoa học, thiếu logic, chưa thể hiện rõ tính bức xúc, trăn trở, trằn trọc suy tư cho vấn đề ナ."cười". Tất nhiên đó là một sai lầm và cần phải xem xét lại. Chưa biết được đây là cái cười thoả mãn, bằng lòng; hay là cái cười của sự minh triết Lạc Việt trước những giá trị của nó mà người đời chưa hiểu hết, nên không thể đem so sánh nó với những giá trị vật chất của đời thường?

Ba bò chín trâu là những phương tiện sản xuất dồi dào, của cái thời mà các nhà xã hội học gọi là phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu; một bè gỗ lim có thể xây được nhà cao cửa rộng vào loại thứ "xịn"; ao sâu cá mè thể hiện sự phú túc an nhàn trong cuộc sống; con chim đồi mồi là một vật trang trí nội thất của những nơi quyền quí cao sang. Nếu tất cả đều hiện hữu ngay trong xã hội hiện đại, thì số tài sản đó bán đi có thể gây dựng được một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ghê chưa! Thế mà chỉ để đổi cho thằng Bờm lấy một cái quạt mo? Vậy mà Bờm còn chưa chịu đổi, thế mới kinh chứ!

Nhưng trong văn hoá dân gian Việt Nam không phải chỉ có một mình thằng Bờm độc quyền có quạt đâu nhé! Chú Tễu trong múa rối nước cũng có cái quạt và cũng cuời toe toét. Ông Địa khi ngồi ở góc nhà - để nhận sự kính trọng và phù hộ cho thế nhân được giàu có - cũng cầm một cái quạt và cũng cười như Bờm vậy. Khi ông Địa chơi với đám múa Lân, múa Rồng, người ta thấy ông cười vui hơn và vẫn không bỏ cái quạt. Đặc biệt cái quạt của ông lúc này sinh động hơn nhiều. Ông chỉ cần cầm quạt ve vẩy, thì cả Lân lẫn Rồng đều như bị thôi miên mà chạy theo ông. Lân và Rồng là những biểu tượng cho sức mạnh huyền bí và là điềm lành cho cuộc sống con người. Như thế thì thằng Bờm cũng giống như ông Địa ở chỗ cũng có cái quạt vậy. Ông Địa thì chẳng ai dám to gan mà gạ đổi cái quạt của ông ấy! Ông ấy mà trù cho thì chỉ có mà nghèo mạt rệp! Có mà lạy ông ấy cũng còn chưa chắc ăn; ở đấy mà xôi mới chè! Thằng Bờm thì được, vì đã là "thằng" thì thân phận chắc chả hơn được ai. Thích thì cứ gọi nó lại mà đổi, cứ y như đầy tớ nhà giầu gọi ăn mày đổi nắm cơm để lấy mẩu quai bị, chữa mẹo cho bệnh quai bị của con chủ nhà vậy. Trong trường hợp này ông ăn mày đổi ngay. Có ông nào láu cá lắm thì cũng chỉ kỳ kèo chủ nhà cho thêm chút tiền mua lại cái bị khác thay cho cái bị đứt quai, để tiếp tục nghề ăn mày. Ấy thế mà với một gia tài vĩ đại mà phú ông đem đổi - đủ khiến cho ngay cả những thằng giầu cũng hoa cả mắt, lùng bùng cả lỗ tai - thì thằng Bờm lại chưa thèm đổi. Kể ra thì câu chuyện đến đây cũng thấy là "lọa".

Nhưng chẳng hay cái quạt mo của thằng Bờm có giá trị hơn cái quạt của ông Địa trong đám múa Lân, múa Rồng hay không mà phú ông đổi nhiều đồ đến thế! Phú ông thì không thể là thằng ngu. Bởi vì đã ngu thì sao mà thành "phú" mà còn được gọi bằng "ông". Hẳn cũng phải khôn lõi đời ra ấy chứ! Đã không ngu thì ngài phải biết giá trị những món đồ mà ngài đem ra đổi cái quạt mo. Chứng tỏ ngài phải biết giá trị cái quạt. Bằng chứng cho sự thông minh và nhận ra chân giá trị của cái quạt mo, chính là tài sản mà phú ông đem ra đổi. Thế thì Bờm làm sao mà ngu được, cho dù thế nhân có xin phép gọi là "thằng" đi nữa. Nếu ngu thì Bờm đã đổi ngay với một con bò đầu tiên, chứ đừng nói đến ba con. Vì chỉ cần một con bò cũng đủ to hơn cái quạt, với một thằng ngu nhất nếu không bị bệnh "Đao" cũng biết điều đó. Ở đây Bờm không đổi. Như vậy chứng tỏ Bờm cũng biết giá trị của cái quạt mo, nên cũng không đổi một cách dễ dàng. Vậy mà chỉ với một gói xôi thì Bờm cười. Cười chưa hẳn đã là bằng lòng. Như vậy thì vấn đề mấu chốt, giá trị cốt lõi, tính chất căn bản, nguyên nhân sâu xa, nội dung quan trọng của sự hấp dẫn và cũng là tình tiết bất ngờ tạo nên mâu thuẫn khó hiểu trong chuyện thằng Bờm, chính là ở gói xôi. Xôi chứ không phải là cơm nắm đâu nhé! Có văn bản ghi rõ ràng trên giấy trắng mực đen đàng hoàng hẳn hoi. Chỉ có điều là không nói rõ ra là xôi gì mà thôi. Nhưng có lẽ vì xét thấy không quan hệ, nên ông cha ta không nói chi tiết lắm! Xôi là được rồi, xôi gì thì tuỳ hỷ.

Như vậy vấn đề không kém phần "nghiêm trọng", bức xúc cần phải bàn ngay chính là "gói xôi". Xôi thì làm bằng gạo nếp, cơm thì làm bằng gạo tẻ, đây là một chân lý phổ biến. Tất nhiên về mặt hiện tượng, trong "thời xa vắng" cũng có những bà hàng xôi giầu tính sáng tạo, đã trộn gạo dẻo vào xôi để kiếm lời. Cho dù đấy là một hiện tượng đã tồn tại trên thực tế. Nhưng về mặt lý thuyết thì mọi người vẫn tuân theo chân lý phổ biến mà công bố :"xôi làm bằng gạo nếp". Kể cả các bà hàng xôi nói trên. Như vậy theo phương pháp luận chính thống xuất phát từ chân lý phổ biến - được hầu hết những người ăn xôi ở trong nước, kể cả cộng đồng những người ăn xôi ở nước ngoài đều thừa nhận - thì "xôi làm bằng gạo nếp" sẽ được ứng dụng để tìm hiểu "gói xôi thằng Bờm". Xôi nếp thì ăn chắc dạ hơn cơm tẻ. Ăn chắc dạ nghĩa đen thì là no bụng. Nhưng trong ngôn ngữ Việt Nam, "ăn chắc" còn có nghĩa là một sự bảo đảm. Tức là phải có một sự bảo đảm, phải ăn chắc thì thằng Bờm mới có thể đổi cái quạt mo. Như vậy, chắc chắn giá trị cái quạt mo của thằng Bờm phải lớn hơn nhiều cái gia tài đồ sộ biểu trưng của phú ông; vì nó đòi hỏi một sự bảo đảm nơi người sử dụng.

Như vậy, "gói xôi" là hình tượng của sự bảo đảm của phú ông khi được sở hữu cái quạt mo của Bờm. Ở đây, theo đúng nội dung văn bản thì cái sự chắc ăn và bảo đảm đó mới chỉ làm cho "Bờm cười". Thế thì vấn đề tiếp theo là Bờm có đổi hay không sau cái cười đó?

Trong văn bản thì Bờm đã từ chối tất cả của cải vật chất cao sang. Không tin hả? Đây nè: "Bờm rằng: Bờm chẳng lấyナ". Đấy! Thấy chưa? Sự khẳng định rõ ràng và được lặp đi lặp lại nhiều lần hẳn hoi. Cái Bờm cần ở đây là một sự bảo đảm nơi người sử dụng. Đã có sự bảo đảm - qua hình tượng "gói xôi" của phú ông - có khi Bờm cho luôn cũng chẳng biết chừng? ("Síc"! Ở cái thì buổi kinh tế thị trường này, nói cho luôn cũng khó tin hỉ). Vì đã là vật vô giá thì lấy gì để đổi nhỉ?

Nhưng cái quạt mo của thằng Bờm là cái gì đã thì mới có thể biết được Bờm có đổi hay không chứ?

Thế thì phải đặt một vấn đề từ cội nguồn của nó là tại sao lại là "quạt mo" chứ không phải "quạt nan", "quạt giấy" nhỉ? Nếu là "quạt nan" thì bài thơ chỉ cần đổi lại là:

Thằng Bờm có cái quạt nan.

Phú ông xin đổi cả đàn bò trâu?

Bờm rằng: Bờm chẳng.......

Còn nếu là "quạt giấy" thì cũng chỉ cần đổi là:

Quạt giấy thằng Bờm có đây.

Phú ông khoái, đổi một bầy bò trâu.

Bờm rằng: Bờm chẳng...

Nghe cũng được đấy chứ ! Tuy có hơi không có chất cụ thể. Thế nhưng chính văn nó lại là cái quạt mo, thế mới rắc rối? Phải chăng cái "quạt mo" chính là biểu tượng cho nền văn minh "Trầu - Cau " của con cháu vua Hùng?

Cứ như phương pháp luận logic lủng củng nêu trên thì cái quạt mo của Bờm không thể chỉ có nghĩa đơn giản là cái quạt làm bằng mo cau, rẻ tiền và tiện lợi, đầy rẫy ở xứ sở quen ăn trầu từ thời Hùng Vương đến bi vờ. Nó phải là một biểu tượng cho một giá trị tinh thần đủ để đối xứng và vượt trội những giá trị vật chất mà phú ông có thể có đem ra đổi kèm theo một sự bảo đảm. Một điều hiển nhiên nữa và cũng là sự liên hệ tiếp nối là giá trị tinh thần đó thuộc về văn minh Lạc Việt. Bởi vì, cái quạt mo thuộc về nền văn hoá trầu cau mà xuất xứ của nó thuộc về nước Văn Lang dưới thời trị vì của các vua Hùng.

Phải chăng cái quạt mo của thằng Bờm - ngoài ý nghĩa trên - chính là biểu tượng cho cái chìa khoá để mở kho tàng bí ẩn của nền Minh Triết Đông phương, còn tồn tại trong đời sống văn hoá dân gian của người Việt, nơi cội nguồn của nền văn hoá trầu cau này? Đó cũng là lý do để Bờm cần có sự bảo đảm chắc ăn. Chà! Nếu đúng như thế thì Bờm có đổi không hà? Thôi thì cứ cho rằng thì là chắc ăn thì Bờm sẽ đổi đi! Nhưng như thế nào gọi là chắc ăn chứ? Ăn xôi mà đã chắc à! Cho dù cũng nhiều thằng "chịu đấm ăn xôi"

Hỏi Bờm xem có đúng không? Bờm cười! Khó hiểu thật!

Sài Gòn 1999

-----------------------

(*) Chú thích: Cứ theo đúng cách "mần" thơ ra lối Lục Bát của người Lạc Việt thì chữ thứ sáu của câu tám phải bắt vần với chữ cuối câu sáu ở trên. Thế thì câu trước vốn là "Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi"; vần "ôi". Nên câu sau phải đổi bánh gatô gọi theo lối Tây ra "ga - tôi", cho đúng kiểu "mần" thơ Lục Bát.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA LỤC ĐỊA ATLANTIC

Sự cố

Những chiếc mô tô bay chạy bằng nệm không khí lướt ào ào trên băng tuyết Nam cực. Tất cả hướng về vịnh Victoria. Họ vừa được thông báo một hiện tượng lạ xảy ra ở đây. Khi tới nơi, mọi người vội vã ra khỏi xe. Trước mặt họ là một quả trứng khổng lồ màu trắng bạc, nửa nổi nửa chìm trong băng tuyết. Toàn bộ công việc trên công trường khai thác băng Nam cực phải dừng lại vì sự cố này. Trưởng đoàn Reild báo cáo sự kiện về trung tâm ở Châu Âu. Họ được lệnh bằng mọi cách phải đưa quả trứng khổng lồ này về trụ sở, nơi trú ngụ của đoàn người đang làm việc ở đây.

Hồi sinh

Những đám mây huyền ảo, đủ màu sắc từ từ tan đi trong tiềm thức của Nig. Những bộ phận máy móc tinh xảo trong quả trứng đã hoạt động khi có nhiệt độ thích hợp. Chúng làm hồi sinh lại Nig. Nig đã tỉnh hẳn. Anh ra lệnh cho bộ phận tự động chuyển từ chế độ tự bảo vệ sang chế độ hoà nhập với môi trường. Quả trứng tách ra và tự động chuyển Nig ra ngoài, trước sự ngạc nhiên của đoàn người khai thác băng Nam cực.

Reild hỏi Nig: "Ông là ai? Tại sao lại ở trong quả trứng này?". Nig ngỡ ngàng trước câu hỏi. Anh không hiểu họ nói gì. Ngôn ngữ của họ xa lạ với anh. Chàng hỏi lại: "Các ông, các bà là ai?". Họ cũng không hiểu anh nói gì. Ngôn ngữ của anh xa lạ với họ.

Họ mang đến một tấm bản đồ thế giới. Họ chỉ vào họ và chỉ vào những vùng khác nhau trên bản đồ. Nig hiểu họ muốn nói đến quê hương của họ. Nig nhìn vào bản đồ. Anh buồn bã lắc đầu, rồi chỉ vào một vùng biển ở Đại Tây Dương. Họ ngơ ngác nhìn nhau và cùng thốt lên: "Lục địa Atlantic!". Anh cũng không hiểu họ nói gì.

Đại Hồng thuỷ

Tất cả cư dân trên Địa cầu đã được thông báo qua lời tiên tri về một tai nạn sẽ xảy ra: Thế giới sẽ bị huỷ diệt. Băng sẽ tan ra. Nước biển sẽ tràn ngập. Mưa lớn sẽ trút nước ở khắp nơi.

Một số người tin vào lời tiên tri, tìm cách chạy trốn lên các vùng cao. Noê bạn của Nig, không tin vào những thành tựu khoa học kỹ thuật. Ông cho rằng chính khoa học kỹ thuật là nguyên nhân của tai hoạ. Nó đã làm Trái đất nóng lên, đã tạo ra hiệu ứng nhà kính. Nó đã thách thức những quyền năng của Thượng đế mà con người chưa hiểu hết được Ngài. Nó đã làm Ngài nổi giận và trận Đại Hồng thuỷ sắp tới là cơn thịnh nộ của Ngài. Nig không bằng lòng. Anh cho rằng khoa học kỹ thuật là điều tất yếu trong quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Sự lạm dụng quá đáng những thành tựu khoa học cho cuộc sống con người, làm mất tính cân đối của thiên nhiên. Hiện tượng Đại Hồng thuỷ là điều kiện để thiên nhiên cân đối môi trường. Với anh thì tình yêu con người vẫn là điều kiện tiên quyết. Khoa học mang lại hạnh phúc của con người. Nên đối với Nig, nó vẫn là điều tất yếu và cần thiết. Noê không tin điều này. Mặc dù ông vẫn thừa nhận tình yêu con người là mục đích cao cả của sự sống. Và với ông như thế là đủ. Con người hãy sống với thiên nhiên và tình yêu. Ông chạy trốn bằng việc làm của con người gần gũi với thiên nhiên nhất. Ông đã làm một con thuyền rất lớn. Trong đó là tất cả những thứ súc vật mà ông có thể mang theo trên con thuyền vĩ đại đó. Ông bảo với mọi người rằng: "Ông làm việc này nhân danh Thượng đế". Nhiều người tin và đi theo ông. Những người tin vào sức mạnh khoa học kỹ thuật đều chuẩn bị cho mình một quả trứng để có thể sống tiềm sinh trong đó. Trong số những người này, tất nhiên có Nig.

Dấu tích Đại Hồng thuỷ

Trận Đại Hồng thuỷ đã xảy ra. Thật là khủng khiếp. Bản văn cổ nhất trên đất sét của nền văn minh Sumer mà nhân loại hiện đại đã tìm thấy, ghi nhận điều này như sau:

Cơn mưa lớn bảy ngày bảy đêm.

Cày xới trên mặt đất.

Một quá khứ chìm sâu.

Sự im lặng bao trùm tất cả.

Mọi người thành đất sét.

Con cháu của ông Noê còn sống sót đến ngày nay, đã bảo rằng: "Chính Thượng đế đã cứu ông và con cháu của ông". Câu chuyện này được lưu truyền. Đến nay vẫn nhiều người tin như vậy.

Tình yêu đơn phương

Như thế Nig là người cuối cùng còn sống sót của lục địa Atlantic. Anh được đoàn người khai thác băng Nam cực cứu sống, sau nhiều ngàn năm nằm trong quả trứng tiềm sinh. . Những nhà khoa học của thiên niên kỷ thứ IV chưa cho anh hội nhập với đời sống của nhân loại hiện đại. Họ e sợ Nig sẽ mang những căn bệnh từ thế giới cổ sơ vào thế giới hiện đại của họ. Anh sống và làm việc với những người khai thác băng ở Nam cực. Anh đã yêu Melady, người con gái dịu hiền và đẹp nhất nơi đây. Melady cũng yêu anh với tất cả những hành động và sự thể hiện tình cảm tốt đẹp nhất của một người dành cho người tình. Nig không thể tìm thấy và chưa hề biết đến một tình yêu như thế trong xã hội Atlantic của anh. Ở đấy, tất cả những con người đều nhân hậu và yêu thương nhau. Họ làm việc vì hạnh phúc của con người. Đấy là điều mà Noê bạn anh và cả anh mong muốn. Nhưng họ lại sống trong một xã hội rất hiện đại. Thật là một sự hài hoà giữa tình yêu và một cuộc sống hoàn chỉnh.

Nhưng khi ngày cưới đến gần thì một sự thật đã làm cho anh choáng váng. Melady chỉ là người máy. Nàng là người máy cao cấp được tạo ra để làm các công việc về văn phòng. Tất cả những người khai thác băng ở Nam cực cũng đều chỉ là người máy. Kể cả Reild trưởng đoàn.

Hụt hẫng và chơi vơi trong cô đơn tận cùng, niềm an ủi đối với Nig là anh sẽ trở về với thế giới của con người thật sự và tìm thấy tình yêu đích thực trong đó.

Thất vọng

Cuối cùng Nig đã đạt được ước nguyện. Anh tin rằng chủ nhân của những người máy giầu chất nhân bản, sẽ phải đang sống trong sự tuyệt đỉnh của tình yêu con người. Anh được đưa về lục địa châu Âu. Người ta ra đón anh rất đông và nồng nhiệt ở sân bay. Tên tuổi của anh được đưa lên những phương tiện thông tin đại chúng và cả mạng Internet từ rất lâu. Cả nhân loại đã biết đến anh. Nhưng bây giờ họ mới nhìn thấy. Anh được mời vào làm việc ở Viện "Nghiên cứu lịch sử cổ đại". Rất nhiều cô gái yêu anh. Họ thay nhau mời anh đi chơi với họ ở tất cả những nơi vui chơi giải trí. Nhưng tình cảm của họ ngắn ngủi. Sự nồng thắm bùng lên và tan rất nhanh. Anh không tìm thấy một chiều sâu trong tình yêu con người. Có lần Jenny, người yêu anh đã trả lời cho hiện tượng này: "Con người đã hoàn chỉnh và được đáp ứng về mọi điều kiện vật chất, trong mọi mặt của cuộc sống. Cho nên mỗi cá thể đều có thể tự tồn tại và con người không cần đến nhau nữa."

Nig hụt hẫng chơi vơi. Anh nghĩ về Melady. Sự phận biệt về ngoại hình của nàng và các cô gái không hề khác nhau. Nhưng ở nàng có tất cả những gì anh cần về tình yêu con người.

Cô đơn

Nig lại trở về vịnh Victoria. Ở đây mọi người vẫn yêu thương anh. Melady vẫn đợi chờ và nàng vẫn dành cho anh sự nồng thắm như ngày nào. Nhưng từ từ anh nhận thấy một nhịp sống đều đặn của những cỗ máy được lập trình. Anh có thể biết trước được tất cả những phản ứng của Melady và các người xung quanh. Đã có lần anh cố nạp vào bộ nhớ của nàng sự hờn dỗi, ghen tuông và một chút tham vọngナ nhưng không được. Càng ngày anh càng lạc lõng. Một sự trống vắng không thể giải thích được tràn ngập trong tâm hồn Nig. Phải chăng anh không có dĩ vãng của một thời hoàng kim Atlantic; thuở hồng hoang của con người. Thời mà con người đến với nhau bằng những rung cảm thật sự trong tâm hồn. Có thể anh sẽ không có sự trống vắng này.

Nig nhớ đến Noê và các bạn anh. Nig nhớ đến người yêu của anh ở lục địa Atlantic. Tất cả đều đã chết từ hàng chục ngàn năm về trước, Anh không còn gì cả.

Ngày tận thế

Sự cô đơn tận cùng đã khiến Nig buồn bã. Anh bỏ dở công việc ở ban chỉ huy công trường trở về nơi cất quả trứng tiềm sinh của anh. Anh chui vào trong đó và ra lệnh cho bộ phận tự bảo vệ. Cánh cửa quả trứng từ từ khép lại.

Từ trung tâm ở lục địa Âu châu, các nhà khoa học đã phát hiện ra điều này. Họ ra lệnh cho Reild và đoàn người làm việc ở đấy: "Phải tìm mọi cách cứu Nig". Reild và tất cả mọi người phóng mô tô bay quay trở về tìm Nig. Nhưng không kịp. Nig đã nhấn nút tự huỷ diệt. Một đám lửa lớn bùng lên làm sáng một vùng trời bạc của Nam cực. Thật là may mắn, đoàn mô tô bay kịp thời dừng lại ở một khoảng cách an toàn trước quả cầu lửa sáng chói.

Có tiếng rú ga. Một chiếc mô tô bay phóng hết tốc lực lao vào quả cầu lửa. Trên đó là Melady. Nét mặt nàng đau khổ đến tận cùng, ánh mắt hoang dại. Nàng lao vào để cứu Nig.

Chiếc xe bị nuốt chửng trong khối lửa. Một tiếng nổ bùng lên.

Sự việc diễn ra rất nhanh làm mọi người không kịp trở tay.

*

Ở trung tâm nghiên cứu khoa học Địa cầu, họ đổ lỗi cho nhau. Nhưng có một lỗi kỹ thuật mà tất cả các nhà khoa học không thể giải thích được. Đó là tại sao Melady lao vào quả cầu lửa, khi nàng không được lập trình để làm việc này?

Sài Gòn 1999

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện tình Trương Chi.

Thiên Sứ

Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ

Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ

Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ

Ôi ! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ…(*)

Thơ và nhạc là những rung cảm vi diệu của tâm hồn. Nếu bạn được nghe những giai điệu mở đầu của nhạc phẩm “Trương Chi” với lời ca diễn cảm trong một trạng thái hoàn toàn thư giãn, bạn sẽ thấy sự huyền ảo của thơ nhạc như hòa quyện vào nhau, nâng hồn người ra khỏi mọi sự vướng bận của trần gian. Thật tài tình khi ngay câu mở đầu: “Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ” rất giàu hình tượng, đầy chất lãng mạn và bay bổng của tâm hồn với sự khoáng đạt của không gian vời vợi ngập màu trăng nước ấy, lại là hình ảnh cho tâm hồn trinh trắng như cả một trời thơ của Mỵ Nương. Trong cái không gian thơ trinh tưởng chừng như tĩnh lặng vô tư ấy, một cảm xúc từ dư âm của đường tơ như đang dâng lên chầm chậm và lan tỏa trong nàng…”Trầm trầm không gian mới rung đường tơ”. Khúc nhạc tình đã ngập một trời trinh trắng. Để cho “Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ”. Và rồi một cảm giác bâng khuâng xa lạ đã đến với tâm hồn thơ trinh len lén, nhẹ nhàng, êm dịu như nâng niu, như ngần ngại. Nó chưa phải tình yêu, nó mới chỉ gợi lên sự trống vắng trong tâm hồn: ” Ôi tiếng cầm ca thu đến bao giờ?”.

Mùa thu là mùa của biệt ly, của những chiếc lá vàng vĩnh biệt sự sống trở về cát bụi và để lại trên trần gian sự luyền tiếc của những cành thu đầy cảm xúc. Thật tuyệt vời với chất thơ ngập tràn trong những giai điệu đầu tiên của nhạc phẩm Trương Chi!

Tôi quan niệm cho rằng một hình tượng văn chương có giá trị và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật là nó phải mô tả được trang thái trừu tượng. Mô tả được những cảm xúc tế vi của tâm hồn. Điển hình như hai câu thơ đầy mỹ cảm và tuyệt hảo của nữ sĩ Đặng Nguyệt Anh:

Một đời gió có vì ai.

Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn.

Tôi đã nghe đi, nghe lại những giai điệu trác tuyệt với lời ca đầy hình tượng trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao. Với tôi, ông là thiên tài của nền âm nhạc Việt Nam đương đại.

Tiếng cầm ca như đem cả một mùa thu đến với giai nhân tuyệt sắc đã làm rung cảm bao nhiêu thơ nhạc trong nền văn hóa Việt – được nhắc đến trong nhạc phẩm nổi tiếng của Văn Cao – là của chàng Trương Chi, khi tiếng sáo tuyệt kỹ của chàng Trương vọng tới lầu son gác tía của Mỵ Nương. Câu chuyện tình Trương Chi đã gây bao cảm xúc nghệ thuật cho các bậc tài hoa anh kiệt của nền văn hiến Việt và nhạc phẩm Trương Chi của thiên tài âm nhạc Văn Cao cũng bắt đầu nguồn cảm hứng từ câu chuyện này.

Câu chuyện tình Trương Chi xuất hiện vào thời Hùng Vương và dấu ấn để lại xác định điều này chính là danh xưng Mỵ Nương, nhân vật chính với giọt lệ thiên thu làm tan tành chén ngọc, được kết tinh từ chính trái tim Trương Chi, như thách thức với thời gian, khắc khoải đợi chờ.

Thời đại Hùng Vương có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhận thức được trong các quốc gia của nhân loại. Những giá trị của nền văn minh lâu đời đó dù tan nát theo những diễn biến lịch sử. Nhưng những mảnh vụn còn lại, mặc dù chưa được phục chế hoàn hảo cũng đủ làm cho trí tuệ hiện đại của nhân loại phải kinh ngạc. Trong lịch sử văn minh nhân loại, có lẽ ít thấy một quốc gia nào sử dụng khái niệm văn hiến để nói về đất nước có lịch sử trải gần 5000 năm, kể từ thời Hùng Vương thứ I (2879 trước CN – theo chính sử). Bởi vì, bắt đầu từ thời Hùng Vương, nền văn hóa của đất nước này đã hướng con người tới sự hòa nhập trong tình yêu của con người đầy nhân bản. Những truyền thuyết, huyền thoại của nền văn học nghệ thuật thời Hùng dù còn lại rất ít, đều chứng tỏ điều đó. Đó là: Mỵ Châu – Trọng Thủy, Thạch Sanh, chuyện tình Trương Chi và rải rác trong những truyền thuyết lịch sử khác.

Có thể xác định ngay rằng: Chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương là câu chuyện tình hay nhất trong thể loại chuyện tình lãng mạn của thế giới. Bây giờ và mãi mãi về sau, hay trở ngược lại hàng thiên niên kỷ xuyên suốt qua quá khứ của các nền văn minh nhân loại, cũng sẽ không bao giờ có được một câu chuyện tình lãng mạn hay hơn thế nữa. Sự thăng trầm của Việt sử với hàng ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và những cuộc chinh chiến liên miên, chủ yếu với Bắc phương trong một ngàn năm hưng quốc sau đó của Việt sử, đã khiến những di sản văn hiến Việt - trong đó có câu chuyện Trương Chi truyền miệng này – đã phải cô đọng lại và tóm tắt nội dung của nó. Nhưng với nội dung còn lại vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ với bao thăng trầm của Việt sử cũng đủ nhận thấy sự trác tuyệt đến huyền vĩ của tác phẩm văn học thuộc nền văn hiến Việt.

Vì là một tác phẩm văn học, nên chuyện tình Trương Chi khác với truyền thuyết lịch sử là không có sự hiện diện của vua Hùng. (Tất cả những truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử ẩn tàng của thời Hùng Vương bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: “Vào thời Hùng Vương thứ….”). Nhưng người Việt gốc Văn Lang vẫn nhận ra dấu ấn của tổ tiên qua người con gái diễm hằng với thiên thu: đó là Mỵ Nương con quan tể tướng. May thay! Nếu không phải là Mỵ Nương, mà là một thiên thần thì câu chuyện đã nhạt nhòa với thời gian, còn đâu chất lãng mạn của tình yêu con người trong áng văn chương trác tuyệt, vượt thời gian đến tận bây giờ và mãi mãi về sau…

Câu chuyện kể rằng:

Ngày xưa, có một chàng trai đánh cá nghèo, mồ côi cha mẹ tên là Trương Chi. Anh rất xấu xí, nhưng thổi sáo rất hay. Đêm đêm anh thường đem sáo ra thổi. Bến sông anh đậu thuyền ngay gần dinh quan tể tướng, nên tiếng sáo của anh vang vọng đến dinh của ngài. Quan tể tướng có một người con gái tên là Mỵ Nương đã đến tuổi lấy chồng rất xinh đẹp. Mỗi khi Trương Chi thổi sáo, nàng lại ra cửa sổ phòng mình hướng về phía sông để được nghe tiếng sáo tài hoa của chàng và nàng đã say mê tiếng sáo ấy.

Rồi có một thời gian, Trương Chi ốm bệnh, Mỵ Nương không còn được nghe tiếng sáo của chàng. Nàng buồn bã tưởng nhớ tiếng sáo đến tương tư, rồi phát bệnh. Quan tể tướng hỏi nguyên nhân, biết chuyện, ông cho mời Trương Chi đến để thổi sáo cho nàng nghe.

Được nghe lại tiếng sáo, Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vừa nhìn thấy Trương Chi, nàng đã quay mặt đi vì chàng quá xấu. Còn Trương Chi lại đem lòng yêu Mỵ Nương, sau khi được gặp nàng.

Biết không thể gần nhau, Trương Chi buồn bã bệnh chết (Có bản chép chàng tự tử chết).

Trải bao năm tháng chôn vùi dưới đất, thân xác đã tiêu tan. Nhưng trái tim Trương Chi kết thành một khối ngọc đỏ thắm như thách thức với thiên thu, thủy chung chờ đợi. Về sau có người tình cờ tìm được khối ngọc này, tiện thành một bộ đồ trà và đem dâng quan tể tướng.

Trong một tiệc yến có Mỵ Nương cùng dự, quan tể tướng sai lấy bình trà quí ra dùng. Nhưng khi rót nước vào, Mỵ Nương chợt thấy trong chén trà của mình hình bóng con thuyền của Trương Chi và tiếng sáo ngày xưa vọng về. Công chúa khóc, nước mắt nhỏ vào trong chén và chén trà tan đi trong tay nàng.

Giọt lệ của Mỵ Nương không phải chỉ nhỏ vào chén trà khiến mối tình u uẩn của Trương Chi tan đi trong tình yêu của thiên thần. Cùng với trái tim ngọc đá của Trương Chi, giọt lệ từ cảm xúc trong tâm hồn Mỵ Nương đã rơi vào tận cõi thiên thu, đưa tình yêu đôi lứa đến đỉnh cao nhất của sự hòa nhập tâm hồn.

Mỵ Nương – nàng công chúa diễm hằng – bước vào không gian của tuổi buồn trinh nữ. Tâm hồn trong trắng của nàng chưa một lần rung lên với nhạc khúc tình yêu. Nhưng nàng lại tìm được sự đồng cảm trong tiếng sáo chơi vơi, đong đầy chất u buồn nhân thế của Trương Chi… đã đến trong nàng không biết tự bao giờ…

Tiếng sáo Trương Chi trầm buồn theo sóng nước, chơi vơi như cuộc đời bất hạnh của chàng. Chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại có một ngoại hình xấu xí bọc một kiếp nghèo. Nhưng thiên nhiên lại ban cho chàng cây sáo với tài năng tuyệt kỹ. Tiếng sáo của chàng an ủi cho chính lòng chàng. Trương Chi biết đâu trong lầu son gác tía bên sông lại có một tuyệt thế giai nhân, đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng.

Ngay từ những đoạn mở đầu của câu chuyện tình, chất lãng mạn đã ngập tràn trong âm thanh vi diệu của tiếng sáo Trương Chi. Tiếng sáo ấy chơi vơi, xao xuyến rồi lắng chìm trong tâm hồn trinh nữ của Mỵ Nương. Giá trị nghệ thuật là dung môi để hai tâm hồn đồng cảm tìm đến nhau, rồi tan trong đó.

Từ chân trời góc biển bên kia lục địa Á – Âu sau đó hơn 2000 năm, đại văn hào Victor Hugo cũng không nỡ gán ghép khiên cưỡng mà cho cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp lấy chàng Cadimodo gù, đã viết nên tác phẩm lãng mạn nổi tiếng thế giới và là niềm tự hào của nền văn học Pháp; đó là tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Từ chối hợp hôn với một người đàn ông xấu xí tật nguyền, đó là quyền thiêng liêng của người phụ nữ; quyền của thiên chức làm mẹ mà Thượng Đế ban cho mỗi người nữ ở trần gian; để đảm bảo sự di truyền của giống nòi. Dù cho Mỵ Nương tìm thấy ở Trương Chi một sự hòa nhập tâm hồn, nhưng chàng quá xấu… không ai có thể trách nàng!

Tình yêu nam nữ không có sự hòa nhập xác thân nơi trần thế thì không có chất lứa đôi. Nhưng thiên tài của tác gia thời Hùng cũng như đại văn hào Victor Hugo đã tài tình tạo ra một hình tượng xấu xí của chàng trai, để khéo léo từ chối một sự hòa nhập thân xác đầy nhân tính; tình yêu đôi lứa trong tác phẩm chỉ còn lại phần tâm hồn. Đó là điều kiện để những thiên tài đưa chất lãng mạn đến sự rung cảm tế vi nhất trong tình yêu của con người. Với cõi tâm linh, ước mơ và sáng tạo là không giới hạn.

Trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”, trái tim cô gái Bohemieng chưa hề rung cảm trước mối tình của Cadimodo – đã đến với nàng bằng tình yêu tự nhiên đẹp nhất ở con người. Kết thúc câu chuyện, Cadimodo ôm xác người yêu cùng chết trong hầm mộ. Thiên tài của Victo Hugo chỉ dừng lại ở đây.

Nhưng trong câu chuyện tình Trương Chi, sự lãng mạn đã thăng hoa đến mức tận cùng của tình yêu đôi lứa. Tác giả truyện tình Trương Chi đã tạo ra những khoảng cách từ chất liệu đời thực của thế nhân vốn ngăn cản tình yêu đôi lứa giữa Trương Chi và Mỵ Nương. Đó là khoảng cách giàu sang tột đỉnh với sự nghèo khó tận cùng; khoảng cách của quyền uy tối cao trong xã hội và thân phận mồ côi, cô đơn và cuối cùng là khoảng cách mà chính Tạo hóa đem lại cho con người. Đó là khoảng cách giữa vẻ đẹp tuyệt mỹ của người con gái tuổi trăng tròn với sự xấu xí của người đánh cá nghèo Trương Chi.

Có thể nói rằng tác giả truyện tình Trương Chi đã thể hiện thiên tài siêu việt của mình khi không chỉ dừng lại ở khoảng cách đẹp xấu bởi quyền năng của tạo hóa cho hình thức nhân vật, như trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” – mặc dù chỉ với một khoảng cách này cũng để hạn chế tình yêu của thế nhân (Tất nhiên ngoại trừ sự thương hại). Mà cùng lúc tác giả câu chuyện tình Trương Chi đưa ra những khoảng cách tận cùng ở hai cực của những mâu thuẫn xã hội trong con mắt tha nhân vào hoàn cảnh nhân vật của mình. Đó chính là những khoảng cách làm ngăn ngại và ngăn cản tình người đến với nhau mà thế giới hiện đại gọi là “giai cấp”.

Nhưng chính từ khoảng cách tận cùng của những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội ở con người đã đưa câu chuyện đến đỉnh của những câu chuyện tình lãng mạn. Khi tâm hồn của Mỵ Nương ở tuyệt đỉnh cao sang, quyền quý với sắc đẹp tuyệt trần vẫn hòa nhập và đồng cảm trong tiếng sáo tài hoa tuyệt kỹ của Trương Chi. Nghệ thuật âm nhạc chính là chất xúc tác tuyệt vời đã đẩy sự lãng mạn lên đến đỉnh cao nhất của câu chuyện , khi nó đã đưa tâm hồn con người đồng cảm và chia sẻ với nhau vượt qua tất cả mọi mâu thuẫn giữa con người với con người trong nhận thức của tha nhân.

Đến đây thì cũng đủ để mối tình trong câu chuyện mang tính vượt thời gian và chất chứa đầy chất nhân bản của tình yêu con người, khác hẳn những chuyện tình lãng mạn khác ở trần gian.

Trong “Nhà thờ Đức Bà”, Victor Hugo chỉ khai thác được một tình tiết đơn giản nhất để tạo khoảng cách giữa cái cực xấu Cadimodo và sự xinh đẹp của cô gái Bomehieng và tính lãng mạn của câu chuyên xuất hiện ở khoảng cách này với tình yêu vô vọng của Cadimodo. Còn trong truyện tình Trương Chi của nền văn hiến Việt thì đấy cũng mới chỉ là giai đoạn mở đầu cho cả một thiên bi diễm tình lãng mạn vào bậc nhất trong nền văn hóa của nhân loại. Cốt lõi của câu chuyện và chất lãng mạn đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật văn chương chính là sự thượng tôn nghệ thuật trong văn hóa tri thức vào thời Vương đạo thanh bình của đất nước Văn Lang, cội nguồn văn hiến Việt. Những khoảng cách của tha nhân với sự giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu đều chỉ còn là hình thức bên ngoài trang sức cho cuộc đời. Còn giá trị đích thực chính là cái tâm thánh thiện và trong sáng trong mỗi con người rung cảm với thiên nhiên, cuộc sống qua những gía trị nghệ thuật để tâm hồn con người đồng cảm với nhau và hòa nhập trong sự rung cảm nghệ thuật. Ở đây là hình tượng bằng tiếng sáo trác tuyệt của Trương Chi. Sự hòa nhập và rung cảm đồng điệu của con người trong dung môi nghệ thuật, xóa nhòa mọi khoảng cách quyền uy, sự giàu sang và vẻ đẹp thân xác chính là chất lãng mạn tuyệt vời, mang giá trị nhân bản cao cả và đầy tính minh triết của chuyện tình Trương Chi. Đây cũng là điều mà “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” - vốn được coi là thể loại chuyện tình lãng mạn nổi tiếng của văn chương hiện đại – không thể so sánh. Có thể nói rằng chỉ cần đến đoạn giữa của thiên diễm tình Lạc Việt cũng đủ để câu chuyện tình Trương Chi xứng đáng đặt vào hàng những câu chuyện tình lãng mạn hay nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.

Nhưng tính vượt thời gian và đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật trong chuyện tình Trương Chi của nền văn hiến huyền vĩ Việt – khiến cho trong quá khứ, hiện tại và tương lai của tất cả nền văn minh nhân loại không thể có một câu chuyện hay hơn thế nữa. Đó chính là đoạn kết đầy huyền thoại đã đưa câu chuyện tình Trương Chi vào cõi bất tử của văn minh nhân loại, qua hình tượng nghệ thuật trác tuyệt với trái tim hóa đá của Trương Chi và giọt lệ thiên thu của Mỵ Nương.

Thế nhân kể rằng: “Trương Chi khi gặp Mỵ Nương qúa xinh đẹp và đem lòng yêu nàng”!?.

Có thật thế không? Tầm thường quá! Nó không phải bản chất của câu truyện tình trác tuyệt của nền văn hiến Việt. Cái đó chỉ là nhận thức trực quan về ngôn từ văn chương khi ghi nhận Trương Chi thấy Mỵ Nương xinh đẹp nên đem lòng yêu trong tuyệt vọng và tự tử chết (Hoặc bệnh chết). Một cái nhìn như vậy không mang tính hợp lý với toàn bộ kết cầu nội dung câu chuyện truyền miệng vượt qua bao thăng trầm của lịch sử với thời gian tính bằng thiên niên kỷ. Dù là chuyện thần thoại cũng phải có tính hợp lý của nó. Kết cấu và diễn biến toàn bộ nội dung câu chuyện cho thấy tiếng sáo Trương Chi chỉ có Mỵ Nương cảm nhận được và rung cảm với tiếng sáo ấy. Ở đây, nó có nét tương tự như câu chuyện Tử Kỳ với Bá Nha vậy. Điều này có thể minh họa bằng hai câu thơ đầy minh triết của nữ sĩ Ngân Giang:

Chuyện không hợp ý cười thêm gượng.

Đời thiếu tri âm sống cũng thừa.

Bởi vậy, khi biết rằng người có thể chia sẻ nỗi cô đơn tận cùng với tâm hồn chàng chính là nàng công chúa quyền quý cao sang và không thể gần gũi, chàng đã tự sát (Hoặc buồn bã sinh bệnh mà chết). Tương tự như Bá Nha đập đàn vì không còn ai chia sẻ. Tình yêu của Trương Chi nếu chỉ vì muốn lấy Mỵ Nương làm vợ, nhưng không được mà chết thì tầm thường quá. Nó không hợp lý với diễn biến nội dung câu chuyện. Bởi vì nếu chỉ có tham vọng hòa nhập thân xác thì câu chuyện sẽ kết thúc ở cái chết của Trương Chi.

Chính đoạn kết của câu chuyện mang tình huyễn ảo và màu sắc thần thoại đã xác định rằng Trương Chi không hề có tham vọng lấy Mỵ Nương, mà chàng chỉ cần chờ đợi một câu trả lời của một tâm hồn đồng cảm. Hình tượng trái tim hóa đá như thách thức với thiên thu, khắc khoải đợi chờ câu trả lời của Mỵ Nương đã xác định rằng: Chàng muốn tìm một sự hòa nhập tâm hồn vốn cô liêu tận cùng trong chàng và chàng chỉ còn tiếng sáo để gửi gấm nỗi buồn nhân thế. Sự miêu tả tính tuyệt kỹ tài hoa trong tiếng sáo của Trương Chi còn là sự gửi gấm cả linh hồn chàng hòa trong tiếng sáo.

Nếu bạn đã từng nghe những nghệ nhân hạng hai chơi nhạc vì đến giờ biểu diễn; đã từng nghe những ca sĩ hát nhép mà cố diễn cảm thì bạn sẽ thấy tính hòa nhập cả tâm hồn trong biểu diễn nghệ thuật sẽ mang lại những cảm xúc chân thành nhất của con người đến với nhau cần thiết như thế nào. Tác giả chuyện tình Trương Chi đặt nhân vật của mình trong một hoàn cảnh cô đơn tận cùng vì mồ côi cả cha lẫn mẹ với một kiếp nghèo và thân hình xấu xí. Đã vậy chàng Trương lại không phải sống ở nơi đô thị phồn hoa, mà sống trên một con thuyền lênh đênh sông nước, vốn là một hình ảnh đầy cảm xúc của nội tâm khi con người trở về với chính mình. Trong hoàn cảnh cô đơn tận cùng trong tình nhân thế thì tiếng sáo tuyệt kỹ tài hoa của Trương Chi chính là hình tượng miêu tả cả tâm hồn Trương Chi gửi gấm một nỗi niềm sẻ chia và hòa nhập nỗi cô liêu trong tiếng sáo của chàng. Tất nhiên tiếng sáo chất chứa đầy sự u uẩn của Trương Chi cũng chứa đựng bao nỗi khát khao một tình yêu con người đích thực đến với chàng.

Tiếng sáo của Trương Chi đâu phải chỉ có mình Mỵ Nương nghe được. Nhưng ai rung cảm được tiếng nhạc lòng của Trương Chi bằng Mỵ Nương? Phải chi Trương Chi là Bá Nha, Mỵ Nương là Tử Kỳ thì chỉ đập cây đàn là xong. Nhưng Trương Chi không thể đập cây sáo rồi ra đi như Bá Nha. Vì ở Bá Nha chỉ là sự đồng điệu về nghệ thuật, không có người thưởng thức thì đàn ai nghe. Còn Trương Chi, ngoài sự đồng điệu về nghệ thuật; thanh âm tiếng sáo chính là thanh âm của tâm hồn chàng; khi ngoại hình xấu xí trong con mắt thế nhân, không phải là con người đích thực trong chàng. Rung động với tiếng sáo của Trương Chi, chính là sự hòa nhập với tâm hồn Trương Chi. Nhưng oái oăm thay, người hiểu được lòng chàng và hòa nhập với tâm hồn chàng qua tiếng sáo lại là một giai nhân tuyệt thế và quyền quý cao sang. Cho dù cha nàng với quyền uy tể tướng, có thừa khả năng để đưa chàng đánh cá nghèo thành một người có đầy thế lực. Nhưng quyền uy tể tướng, làm sao vượt được quyền năng của tạo hóa đã ghi dấu ấn trên thân hình xấu xí của chàng?

Trong ”Nhà Thờ Đức Bà ở Paris”, Victor Hugo chưa một lần để Cadimono tỏ tình với người minh yêu vì khoảng cách đẹp xấu. Đấy là tính nhân bản của câu chuyện này – Mặc dù hoàn cảnh nhân vật này có thể nói là cùng “giai cấp”. Tất nhiên tác giả thiên tài của nền văn hiến Việt trong câu chuyện tình Trương Chi đầy chất nhân bản cũng không thể đưa một người con gái xinh đẹp lấy một chàng trai thậm xấu xí cả.

Nếu như tác giả của chuyện tình Trương Chi và “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” cho nhân vật của mình lấy nhau thì sự ích kỷ lại chính từ chàng trai xấu xí. Đâu còn tính nhân văn và cao thượng của câu chuyện tình lãng mạn dù cách nhau hàng thiên niên kỷ. Cái chết của nhân vật trong cả hai câu chuyện chính là một trong những tình tiết giàu chất nhân tính và cao thượng của chuyện tình Trương Chi, có nét tương đồng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” của Victor Huygo. Nhưng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” thì cô gái xinh đẹp người Bôhêmiêng đã chết, để hai người cùng chết bên nhau với tình yêu say đắm của Cadimodo. Còn ở chuyện tình Trương Chi thì chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh đã chết. Chàng chết, vì đã mất đi một nửa linh hồn khi chợt thấy ở trong sự rung cảm của Mỵ Nương với cõi lòng chàng. Chàng chết, vì không thể đem lại hạnh phúc cho nàng với một ngoại hình xấu xí. Câu chuyện tình đến đây cũng đủ chất lãng mạn và cao thượng, hơn hẳn so với nhiều câu chuyện tình nổi tiếng cổ kim.

Chính sự khao khát một tình người đồng cảm sưởi ấm cho tâm hồn cô liêu đến tận cùng của Trương Chi, khi đã tìm được sự hòa nhập của tâm hồn mà không thể gần gũi để sẻ chia, đã làm trái tim chàng hóa đá để thách thức với thiên thu, khắc khoải chờ câu trả lời của Mỵ Nương.

Giọt lệ của Mỵ Nương khi được nghe lại tiếng sáo Trương Chi rơi vào chén ngọc – được khắc họa bằng cả khối đá nội tâm (Biểu tượng bằng trái tim) tưởng như sánh với sự vĩnh hằng cùng tạo hóa – Hai tâm hồn hòa nhập, trái tim Trương Chi tan chảy bởi giọt lệ như nhỏ vào cõi thiên thu của Mỵ Nương. Giọt lệ thiên thu ấy mang cả một tâm hồn đồng cảm trong tiếng sáo năm xưa của Trương Chi, đưa câu chuyện tình vào cõi bất tử của văn minh nhân loại.

Đoạn kết của câu chuyện tình Trương Chi đầy huyền ảo trong sự hư cấu nghệ thuật, đạt đến đỉnh cao nhất của thiên bi diễm tình trác tuyệt và rất giàu chất nhân bản. Ở đây, chất lãng mạn đã được thăng hoa đến tận cùng và chứa đựng tính minh triết cao cấp nhất của mọi thứ triết lý của tha nhân trong lịch sử văn minh nhân loại, để ngàn đời sau – cho đến ngày tận thế – nhân loại sẽ không còn tạo dựng được một hình tượng hay hơn thế nữa. Hình tượng trái tim hóa đá và giọt lệ thiên thu đã nhắc nhở con người trở về với bản thể đích thực có trong mỗi con người – đó là cõi nội tâm và sự hòa nhập trong cõi vĩnh hằng – Nó đã xóa nhòa và vượt qua những khoảng cách mâu thuẫn xã hội và tham vọng của con người – dù biến thiên theo lịch sử – đã tạo ra cho chính mình và chấp vào đó ở nơi trần thế. Cũng như tượng thần vệ nữ ở Milo, những điêu khắc gia đầy tài năng của nhân loại hiện nay, chưa ai lắp nổi cánh tay cho nàng. Đôi cánh tay trần thế, không thuộc về vẻ đẹp của thiên thần.

Đây cũng là điều mà trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” một điển hình được ca ngợi về thể loại chuyện tình lãng mạn, đã không giải quyết được. Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris” Cadimodo đã chết theo người yêu, tuy giàu chất lãng mạn, nhưng không thể là một mẫu tình yêu của đời thường. Ngược lại, chính sự huyền ảo phi thực trong chuyện tình Trương Chi – thể hiện ở trái tim ngọc đá và giọt lệ thiên thu – đã đưa con người hướng tới một giá trị đích thực của tình yêu là sự hy sinh và hòa nhập tâm hồn, vượt qua mọi khoảng cách ngăn trở tình người trong cuộc sống tha nhân, nhưng lại không thể chứng tỏ được bằng cái chết.

Ở đây – trong đoạn cuối của chuyện tình Trương Chi – ngay cái chết là khoảng cách tuyệt vọng nhất của tha nhân trong tình yêu đôi lứa, họ vẫn đến được với nhau bởi sự hòa nhập vi diệu của tâm hồn qua tiếng sáo liêu trai mang trong thanh âm chất ngất nỗi buồn nhân thế.

Bằng những hình tượng nghệ thuật, tác gia Lạc Việt đã chứng tỏ được chất lãng mạn tuyệt đỉnh và mơ ước trong tình yêu đôi lứa: Đó là sự hoà nhập của tâm hồn, chính là nguồn nhiệt để vượt qua tất cả những ngang trái chốn trần gian ngăn cản tình yêu đôi lứa. Điều này đã khiến câu chuyện tình Trương Chi trở nên bất tử với thời gian sống mãi trong sự thăng trầm của lịch sử giống nòi Lạc Việt cho đến tận bây giờ. Tình yêu chính là cõi huyền diệu trong “Mùa xuân vĩnh viễn“ của nhân loại.

Chuyện tình Trương Chi, một chuyện tình lãng mạn cổ kim chưa từng có, vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của Kim Tự Tháp những chuyện tình lãng mạn của tha nhân, đã chứng tỏ trí tuệ bậc thầy của các tác gia đời Hùng để lại cho thế nhân qua hàng thiên niên kỷ…

Văn Cao, một nghệ sĩ tài năng tuyệt thế mà nhạc khúc Thiên Thai đã đưa linh hồn ông vào chốn vĩnh hằng ở cõi Bồng Lai. Ông không hề trách Mỵ Nương như không ít người lầm tưởng. Ông trách thế nhân còn có mảnh đời phụ bạc, trong những cuộc tình đã đến rồi đi trong cuộc đời ông, khi ông tìm thấy cảm hứng tuyệt vời ở “Chuyện tình Trương Chi” của nền văn hiến Việt, thách thức với thiên thu cho đến tận bây giờ.

Đêm nay,

Dòng sông Thương dâng cao,

Mà ai hát dưới trăng ngà

Ngồi đây ta gõ ván thuyền,

Ta ca trái đất còn riêng ta,

Đàn đêm thâu.

Trách ai khinh nghèo quên nhau

Đôi lứa bên giang đầu

Người ra đi với cuộc phân ly

Đâu bóng thuyền Trương Chi?(*)

Đầu xuân xem lại câu chuyện tình Trương Chi, áng văn chương bất tử của nền văn hiến Việt, tôi không khỏi ngậm ngùi tình nhân thế với những gía trị huyền vĩ của Việt sử 5000 năm văn hiến.

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?(**)

=======================

Chú thích:

* Lời bản nhạc Trương Chi của nhạc sĩ Văn Cao.

** Bài thơ “Ông Đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu chào bác Thiên Sứ, mong bác và gia đình luôn khỏe mạnh, bình an. Cháu đã theo dõi chủ đề này từ đầu tới cuối trong buổi chiều hôm nay. Cháu tin là có duyên nghiệp, và hiện giờ thì nhân quả báo ứng rất mau. Cháu cũng băn khoăn về "nguyên lý hoạt động" của luật này. Cháu đã từng xem cuốn phim khoa học: The Secret nói về luật hấp dẫn đối với mọi kết quả của đời sống sự vật. Thấy có chút liên quan nên giới thiệu với bác cuốn phim này.

http://www.youtube.com/watch?v=VO1L3FWb8ks

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn Hoa Bách hợp đã giới thiệu bộ phim này.

Với tôi thì nó rất hữu ích cho những người tò mò. Những cái gọi là "Bí mật" trong bộ phim này chỉ là một phần nhỏ trong Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Lý học Đông phương mô tả chi tiết hơn nhiều và nó còn nói đến những tương tác phức tạp khác..

Dù sao thì bộ phim này cũng gợi mở một cảm nhận về một cái gì đó còn bí ẩn.

Tôi phát biểu rất chân thành với suy nghĩ của tôi.

Việc xác định 10 ngày Đại Lễ không mưa cũng ứng dụng một phần cái mà nội dung này nói tới.

Nhưng tiếc thay! Tôi nghĩ con người cũng có thể không cần đến nó. Vì một đời người chỉ có 100 năm và họ không cần đến những kiến thức như vậy, họ vẫn thấy hạnh phúc theo cách của họ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Bác ơi câu chuyện về tình yêu của bác thật hay, xúc động và ý nghĩa ! Cháu cảm ơn bác :D

Edited by vplan
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác ơi câu chuyện về tình yêu của bác thật hay, xúc động và ý nghĩa ! Cháu cảm ơn bác :D

Cảm ơn vplan.

Văn chương và hiện thực khoảng cách xa lắm.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn vplan.

Văn chương và hiện thực khoảng cách xa lắm.

Vâng nhưng đó là cảm xúc thực của con người viết. điều đó làm cháu thấy câu chuyện như thật vậy :D

Mà cháu cảm giác rằng bây giờ cảm xúc con người càng ngày càng thu hẹp lại và không được như các bác thời ngày xưa í :|

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vâng nhưng đó là cảm xúc thực của con người viết. điều đó làm cháu thấy câu chuyện như thật vậy :D

Mà cháu cảm giác rằng bây giờ cảm xúc con người càng ngày càng thu hẹp lại và không được như các bác thời ngày xưa í :|

Thực ra hồi trẻ tôi cũng nông nổi lắm. Cảm xúc từ từ đến lúc ...tuổi già. Nên người trẻ tường là "các bác hồi xưa" giàu cảm xúc. Hì.

Kinh nghiệm của tôi là tuổi trẻ nên tìm hiểu và học hỏi. Nhưng lưu ý là kinh nghiệm này không bảo đảm giàu có.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay