Posted 14 Tháng 8, 2012 Bài chòi Huỳnh Hữu Uỷ trích từ Tạp chí Văn số Xuân Bính Tuất 2006 Suốt trên dải đất dọc miền Trung Trung bộ, từ Bình Trị Thiên qua Nam Ngãi và vào đến Bình Định, Phú Yên, cứ vào những ngày Tết đến lại xuất hiện trong sinh hoạt giải trí dân giã một trò chơi bài bạc mang nặng tính chất đình đám hội hè: trò chơi bài chòi. Bài chòi sử dụng những quân bài của bộ bài tới thường được chơi giữa sáu người là anh em, bà con trong gia đình, rồi biến thành một lối chơi nơi công cộng, trước sân đình làng hay bên đình chợ, ngồi trên 11 nhà chòi cao hai hay ba thước, năm chòi dựng bên trái, năm chòi dựng bên phải, ở giữa là một chòi “trung ương”. Đánh bạc không cốt ăn thua, mà chỉ để vui xuân, để giải trí, cốt để hô bài chòi, một loại sinh hoạt văn nghệ rất đặc biệt, đậm đà tính dân tộc, và có lẽ ít nhiều cũng mang hơi hướm một buổi trình diễn hát bội hay chèo tuồng nơi hương thôn ngày trước. Bài chòi, trước đây đã có nhiều người nghiên cứu và khảo sát khá kỹ, riêng về bài tới, cũng có một đôi người để ý đến nhưng chưa được đầy đủ gì lắm. Hôm nay, chúng ta sẽ thử lật lại xem một số quân bài tới, đặc biệt lưu ý đến những nét vẽ, hình tượng độc đáo trên các quân bài, độc đáo đến độ đôi lúc rất kỳ dị, khó hiểu [1] . Tổ tôm điếm (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Bài tới ở miền Trung cũng như tranh Tết ở miền Bắc, thường chỉ xuất hiện vào những ngày Tết đến, kéo dài trong tháng Giêng là tháng ăn chơi, rồi sẽ tàn nát đi vì chất liệu thô sơ, giản dị, nghèo nàn khi tháng Hai đến, khi nhân dân bắt đầu bắt tay trở lại với nhịp sống lao động sản xuất bình thường.Không được bền chắc, đẹp đẽ và sang trọng như một bộ bài Tây hay bài Tàu, bài tới thường được in ra từ những làng quê xa xôi, hẻo lánh, theo kỹ thuật mộc bản, in trên giấy dó, giấy bản đã được phủ qua một lớp điệp, rồi bồi lên một lớp giấy cứng, mặt sau con bài được quét một lớp phẩm màu đỏ, xanh lá cây hay xám sẫm.Trong chừng vài mươi năm trở lại đây, cách in ấn cũng như chất liệu làm thành quân bài chẳng được canh tân hơn chút nào mà lại còn kém đi nhiều, vẫn nét vẽ thô sơ, ngưòi ta không còn phủ điệp trước khi in nét vẽ đen lên, giấy in thì mỏng và xấu, rồi dán lên trên những tấm bìa cũng rất xấu. Chỉ có một điều mới, là ngày xưa, trên quân bài có những tên gọi ghi bằng chữ Nôm thì nay đã được đổi thành chữ quốc ngữ [2] . Bốn người chơi bài tam cúc (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Ở Huế, có một địa phương là làng Sình, nơi mà cho đến hiện nay cũng còn để lại rất nhiều vết tích về dân tộc học, về những đình đám hội hè, trò vui chơi ngày Xuân như đấu vật, bơi thuyền, nằm về phía đông bắc kinh thành Huế, đi về phía chợ Bao Vinh thuộc làng Thế Lại, từ đấy vượt qua sông Bao Vinh sẽ gặp làng Sình. Sình là tên gọi quen thuộc trong dân gian, tên chính thức là làng Lại An, nằm cận kề vùng duyên hải, nơi có tiếng lắm tôm nhiều cá như trong dân ca Huế vẫn thường nhắc nhở: “Cá tôm mua tại chợ Sình. Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường”, mà cũng là nơi chuyên nghề in tranh cung cấp cho các cửa hàng vàng mã, đặc biệt nhất là sản xuất những bộ bài tới, cung cấp cho đồng bào quanh Huế và các vùng phụ cận vui chơi, giải trí trong những ngày Xuân mới. Về sau này, người Tàu sinh cư buôn bán quanh vùng cầu Gia Hội, ngay ở chính trung tâm thành phố, đã in ấn bộ bài tới một cách có kế hoạch và qui mô hơn, tuy cũng chỉ bằng kỹ thuật mộc bản mà thôi.Nếu bài chòi là một thú vui chơi hoàn toàn Việt Nam, do người Việt tự nghĩ ra, không vay mượn của nước nào thì bài tới cũng thế, rất Việt Nam, cả hình thức cũng như nội dung. Ở miệt Huế và Quảng Nam, trong dân gian có bài vè:Nghe vẻ nghe veNghe vè bài tớiCơm chưa kịp xớiTrầu chưa kịp têmTôi đánh một đêmThua ba tiền rưỡiVề nhà chồng chửiThằng Móc, Thằng QuănĐánh sao không ănMà thua lắm bấyTôi lấy tiền cấyCho đủ mười ngàyBảy giày bảy sưaCũng là nhịp kéoChị em khéo léoDễ mượn dễ vayThân tôi ngày ràyDầm sương dãi nắngChị em có mắngTôi cũng ngồi đâyNó là năm giàyNó cũng a duaĂn thì tôi lùaThua thì tôi chịu. <a href="http://www.xuquang.com/mambo/index.php?option=com_content&task=view&id=214&Itemid=43#baichoi-3" title="baichoi-3a">[3] Một số lá bài vẽ theo bộ bài do Ðoàn Viết Hùng sưu tầm được ở Phú Yên (Xem chú thích số 2). Hàng trên, từ trái sang: Cửu gấu, Thất liễu, Ngũ trợt, Tam quăng, Nhứt nọc. Hàng dưới, từ trái sang: Ông ầm, Bát dừng, Lục chạng, Tứ tượng, Nhì nghèo. Thằng móc, thằng quăn, bảy giày, bảy sưa, năm giày, là tên gọi của mấy quân bài, chỉ cần kể đủ tên của ba mươi quân bài cũng đủ làm cho chúng ta hết sức buồn cười. Những tên gọi nôm na, dễ dãi, hài hước, tinh nghịch, tiếng Nôm pha tiếng Hán, khi gọi thế này, khi gọi thế khác, có khi tên gọi chẳng gợi ý nghĩa gì cả mà phải xem vào nét vẽ trên con bài mới thấy được một điều gì đó. Xin kể đủ tên tất cả ba mươi con bài [4] dưới đây, để trong thoáng chốc chúng ta có thể sống lại và hoà vào giữa các trận cười ồn ào, dân dã, rất ngây ngô, hồn nhiên. Tiếng cười của những bà mẹ quê chất phác, hiền hoà vang lên dòn tan khi đang cùng nhau ngồi chơi bài tới giữa những ngày Xuân Tết, trên một chiếc giường tre nơi góc nhà vừa được trải lên một chiếc chiếu hoa mới, nghe gọi tên những con bài rất vui tai, ngộ nghĩnh, đôi lúc tưởng như tục tĩu, thô lỗ, nhưng vẫn rất tự nhiên: bảy giày, bảy sưa, ba gà, ba bụng, nọc đượng, năm rún, ông ầm, bạch tuyết (đôi nơi gọi là bạch huê, có khi còn gọi là con l…), tứ tượng, ngủ trưa… Tiếng cười cợt ồn ào ấy đúng là chỉ phát xuất ở chốn thôn dã, đồng quê, chợ búa, nơi sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động bình thường, chứ chẳng thể nào nổ bung ra giữa những nho sĩ nghiêm trang, đạo mạo, đúng mực chi hồ giả dã của một thời nào, thời mà đạo lý, nếp nghĩ và nếp sống phong kiến đang đè nặng lên các phần đất tổ quốc. Bộ bài tới cũng là một tấm gương nhỏ phản ảnh phần nào dòng văn hoá nghệ thuật sống động và tự do của nhân dân, không dính líu gì đến dòng nghệ thuật cung đình chính thống.Ba mươi con bài này cũng được xếp thành ba pho: văn, vạn, sách như trong lối chơi tài bàn, tổ tôm, mỗi pho là chín con (9x3=27), ba con còn lại được xếp thành ba cặp yêu: cặp ông Am, cặp Thái tử, cặp Bạch Tuyết. Như vậy, lúc chơi bài tới giữa sáu người với nhau, phải có 60 quân bài tức 30 cặp tất cả (27x2=54+3 cặp yêu).Dưới đây là tên tất cả 30 quân bài:Chín Gối, Lục Xơ, Nhì Nghèo,Thất Nhọn, Trường Hai, Trường Ba,Tứ Hường, Tám Giây, Đỏ Mỏ,Sáu Tiền, Tám Tiền, Học Trò,Cửu Thầy, Bảy Sưa, Bảy Liễu,Ngủ Trưa, Tam Quăn, Năm Giày,Ba Gà, Nọc Đượng, Tứ Gióng,Bát Bồng, Nhị Đấu, Tứ Tượng,Chín Xe, Năm Rún, Bằng Đầu,Bạch Tuyết, Thái Tử, Ông Am.Tên gọi các quân bài đã lạ lùng, kỳ dị, hình vẽ trên các quân bài càng kỳ dị và lạ lùng hơn, nó gợi lên một thế giới đầy bí hiểm, vượt lên trên cách nhìn bình thường. Tựa như cách nhìn của những trường phái hội hoạ mới, từ chối hình thể hay thanh lọc thực tại đến kỳ cùng, trừu tượng hoá sự vật, hoặc là đi đến chỗ siêu thực tại, hoặc cách điệu và ghi nhận thực tại một cách ngây ngô, hồn nhiên như trẻ con, Những hình vẽ mà chúng ta không sao hiểu nổi đã phát xuất từ những cơ cấu trí tuệ như thế nào. Nó phảng phất đâu đây một chút không khí u uất rất Chàm hay Phù Nam, những hình ảnh, đường nét, kiểu thức rất Tây Nguyên, có khi gợi dậy một chút xa xăm phi thực, mù mờ của bùa chú, hay của một cuộc sống hoang dã bên ngoài cõi đời văn minh. Trong một khảo sát về trò chơi bài chòi trước đây, Võ Phiến đã nhận xét về hình tượng các quân bài này: Nó gợi lên cảm tưởng hoặc nét vẽ của các hoạ phái siêu thực, vô hình dung, lập thể, hoặc nét vẽ trên các mộ cổ Ai Cập. Nhận xét ấy tương đối tinh tế, thú vị và xác đáng [5] .Về hình vẽ trên các quân bài, sắp riêng theo từng pho một, chúng ta sẽ thấy ở mỗi pho có một cách biểu đạt gần gần giống nhau. Các quân bài thuộc pho văn sử dụng những cách điệu gần gũi lối hình học, có những miếng tròn như bánh xe, đồng tiền hay nửa đồng tiền. Hình các con bài, trái: Nhị đấu [thuộc pho Vạn]; phải: Bảy liễu [thuộc pho Văn] Các quân bài thuộc pho vạn thì đều vẽ mặt người với những nét rằn rịt theo kiểu tranh thờ khắc gỗ dân gian, trên mỗi quân bài có ghi thêm hai chữ nho từ nhất vạn đến cửu vạn như chín quân bài trong bộ bài tổ tôm. Ba cặp bài yêu cũng chứa đựng lối vẽ như thế. Các quân bài thuộc pho sách thì đặt biệt có những nút tròn nhỏ, giữa vòng tròn có một chấm đen, ngoài những vòng tròn này còn có những đường vạch ngang rất đều, có thể hình dung như được quấn tròn đều đặn bằng dây mây. Ông Nguyễn Văn Y, nguyên Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội, trong một bài giới thiệu sơ lược về những bản in tay khắc gỗ của bộ bài tới, trên tuần báo Văn hoá Nghệ thuật khoảng giữa năm 1977, do vậy, đã tạm xếp các quân bài theo lối vẽ này là quấn mây thắt nút.Chúng ta hãy lật lại một số quân bài đầy thú vị này, thưởng thức hương vị kỳ lạ của cuộc sống dân dã, là bó hoa đồng nội mà chắc chắn đã được dần dà hình thành từ một trường kỳ lịch sử, trên chuyến viễn du hùng tráng và kỳ thú của dân tộc, giữa những giao lưu, gặp gỡ của đất nước anh hùng và cuộc sống mới trong thời quá vãng.Trước tiên hãy xem qua vài quân bài thuộc pho văn, với lối vẽ gần gũi những cách điệu hình học, chỉ trừ con chín gối (còn gọi là chín nút), những điểm chính giống với loại quấn mây thắt nút, có chín nút tròn nhỏ và những vạch ngang. Con sáu tiền, vẽ sáu nửa đồng tiền ghép lại với nhau, từng đôi một, đôi này chồng lên đôi kia. Hình này khá giản dị, ai cũng hình dung được, nếu vận dụng để đưa vào trong những mô típ đề-co hiện đại cũng sẽ rất hay. Con tám tiền cũng như thế, là tám nửa đồng tiền ghép lại. Ở vùng Bình Định, lại gọi là sáu miểng, tám miểng (miểng: tiếng địa phương có nghĩa là mảnh). Hình các con bài, từ trên xuống, từ trái sang: Tám tiền, Học tro, Bạch tuyết, Cửu thầy, Tứ tượng (con Voi) và Ngủ trưa. Con bảy liễu (thất liễu), tính cách trang trí đã phức tạp hơn con sáu tiền và tám tiền, vẽ bốn đồng tiền ghép lại với nhau, ở chỗ ghép lại có một nút tròn nhỏ. Giữa các khoảng trống do các đồng tiền ghép lại có một cành liễu nhỏ không có vẻ gì là liễu, trông đúng là một thứ phức diệp (foliole), hay thứ lá có răng cưa (feuille dentée) nhưng vì có chữ liễu trên các con bài nên ta hãy xem đây là một cành lá liễu. Phía trên bốn đồng tiền có một hình xoắn trôn ốc như ta vẫn bắt gặp chạm trổ trên các đồ dùng của người Tây Nguyên.Con voi, cũng gọi là tứ tượng, ở Quảng Nam lại gọi rất nghịch ngợm là dái voi. Chúng ta sẽ không thể nào hình dung được đây là con voi, nhưng với chữ voi chú thích trên con bài, hãy tập trung cách nhìn, gạn lọc đối vật đến mức độ giản dị nhất, nghĩa là trừu tượng hoá hình ảnh một con voi được trang trí vào ngày lễ hội, nhìn từ trên xuống, chúng ta sẽ đoán được các phần đầu voi, hai tai voi, lưng voi, bành voi. Lối trang trí cách điệu này vẫn thường được gặp khắp các vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’ Mông, Dao, Ê-đê, v.v… đặc biệt nhất là trên các cạp váy, đồ thêu, những chạm khắc bằng tre, gỗ, đồng ở vùng Tây Nguyên. Lấy một vài mẫu thêu, vài mẫu khắc trang trí rất trừu tượng của người miền núi, hỏi về ý nghĩa, chúng ta sẽ được giải đáp rất rành mạch, đây là hoa ban, cây Kơ-nia, đoàn người, là những thứ hoa sặc sỡ và vui tươi nhất của dân tộc Ê-đê: hoa Dua, hoa Ê-prang, hoa Gấc, hoa Mi-ê, là chim Xìn-tra của dân tộc Ta-pan, là hình cỡi ngựa, chim đậu trên cây trên các trang phục của người Dao.Con trường hai, vùng Bình Định gọi là nhì bánh, tương tự như một phần của hình con voi, in hình hai mảnh hình thuẫn, có người cho là hình hai chiếc bánh xe, thực ra, có thể đây là hình ảnh của bất kỳ thứ bánh gì: bánh xe, hay là hai ổ bánh lớn để ăn, muốn nghĩ thế nào thì ra thế ấy.Con trường ba, cũng như con trường hai, nhưng khác ở chỗ là chồng vào giữa hai mảnh hình thuẫn trên một mảnh hình thuẫn khác, và giữa mảnh hình thuẫn này là những đường hình thoi lớn nhỏ, chồng chồng lên nhau. Con trường ba rất nhiều người ở Huế gọi là trạng ba, cắt nghĩa là ông Trạng đỗ ba khoa, nhưng như vậy có nghĩa là thế nào? Chẳng có chút gì ở đây để có thể gợi nên hình ảnh một con người, chứ chưa nói đến hình ảnh một ông Trạng, chẳng có một chút liên hệ nào giữa tên gọi và hình vẽ. Với con bài Trạng ba chẳng hạn, người ta có thể cắt nghĩa rằng đây là quân bài do một hoạ sĩ tài tử nào đấy vẽ ra, hình vẽ đôi lúc chẳng cần biểu lộ một ý nghĩa nào cả, nó chỉ mang tính chất một dấu hiệu mà thôi. Những người lưu đãng xa nhà, không có sẵn trong tay một bộ bài thực đàng hoàng để giải trí với nhau, đành tự tạo ra ba mươi dấu hiệu cho ba mươi quân bài, để làm thành một bộ bài hoàn toàn mới mẻ. Và cũng do tính cách tài tử ấy mà chúng ta có một bộ bài vô cùng hấp dẫn, cái hấp dẫn của một thứ mời gọi bí hiểm, lạ lùng. Vậy nên, trước một quân bài, đôi lúc phát giác thêm một ý nghĩa mới, người ta lại đặt thêm một cái tên nữa cho lá bài, có lúc rất vui, rất dí dỏm, bộc ra được tất cả tiếng cười đùa tự nhiên, thoải mái. Tên gọi những con bài do thế cũng thay đổi tuỳ vào địa phương, như con voi cũng gọi là tứ tượng, dái voi; tám giây cũng gọi là tám hột; trường hai có nơi gọi là nhì bánh, có lúc gọi là nhì xe; chín gối có khi gọi là nhất gối, có khi gọi là chín nút; con tứ hường cũng gọi là cẳng hương, hay tứ cẳng v.v… Và ở vùng Qui Nhơn, Bình Định, Phú Yên lại có những tên gọi rất quái quỷ, không có nghĩa gì cả, mà âm thanh gọi lên lại bày ra cả một thế giới của những trận cười cợt ồn ào, thô sơ, hoang dã: cửu điều, ngũ trợt, ngũ dụm, ngũ dít, đổ ruột, sáu miểng, chín gan, lục chạng, sáu bường…Bây giờ chúng ta xem đến một số quân bài thuộc pho sách, đặc biệt có những nút tròn nhỏ và các vạch ngang đều đặn, rồi phía dưới là những vạch chồng chéo đối xứng nhau. Trước tiên là con tứ gióng, vẽ một đôi quang gióng, ở trên có quai xách, dưới có chân đế kiềng ra hình tam giác, thân gióng là bụng phình hình bầu dục, nơi điểm tiếp giáp của thân gióng, quai xách và chân đế là hai nút tròn nhỏ, giữa nút tròn là chấm đen như mắt cua. Đã nhìn thấy đôi gióng ở miền Trung Trung bộ, rất giản dị, bằng tre, mây hay bằng thép, có bốn quai, phía trên túm lại, phía dưới xòe ra và thắt nút rồi quấn chặt cân bằng trên bốn điểm của một vòng tròn, chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào nhà nghệ sĩ dân gian tài tử của chúng ta đã quan sát, suy nghĩ và vẽ nên đôi gióng trên con bài này. Hẳn rằng đấy là cách thu nhận sự vật với đôi mắt thơ dại tuyệt vời.Về mặt nội dung, dù thế nào cũng hiển nhiên là những đôi gióng này đã nặng nợ lắm với dân tộc trên hành trình tay xách nách mang tiến về phương Nam, đấy là hình ảnh đôi gióng của gần 10 thế kỷ trước, từ thời quân đội nhà Lý đặt chân lên thành Đồ Bàn, hay từ hơn ba thế kỷ trước, cùng với những bước chân của lưu dân đi xây dựng đất mới dưới thời các Chúa Nguyễn?Con nọc đượng có lẽ là con bài đáng chú ý nhất, đối lập với con bạch tuyết sẽ đề cập ở dưới.Trong một cuộc chơi bài chòi, khi rút đến con nọc đượng, anh hiệu, một người có nhiều khả năng văn nghệ giữa thôn xóm, làng mạc, hô những câu hát bài chòi báo hiệu cho mọi người trong cuộc chơi về quân bài vừa rút được, có thể sẽ hô lên như vầy:Cần trúc, ống trắc, lưỡi sắc, chỉ nọ tơ TàuAnh đây muốn câu con cá mại biểnCá mại bàu sá chi!Mấy câu trên, nghe qua, chúng ta cũng phần nào thấy được cái chí của kẻ nam nhi; sống đời phong lưu thì cũng phải vác cần đi câu ngoài biển Đông, chứ sá gì con cá mại tẹp nhẹp trong vũng bàu. Mà hơn thế nữa, câu hát cũng có gợi lên đôi chút hình ảnh chiếc cần câu ngúc ngắc, vậy thì đúng là con nọc đượng rồi. Cũng có lúc anh hiệu lại cất lời với một câu thai man mát, có gợi âm gợi hình đôi chút về chiếc cọc đã cắm xuống rồi lại nhổ lên; cắm xuống để giữ con thuyền, rồi nhổ lên để đẩy thuyền đón khách. Đò em đưa rước bộ hànhThuyền nan một chiếc tử sanh trọn bềTrải qua bãi hạc, gành nghêQuanh năm chèo chống, tứ bề sóng xôTiếng ai văng vẳng gọi đò Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người.Cắm cọc, cắm nọc, hay cắm sào đợi khách sang sông, những từ ngữ và hình ảnh ấy đều để dẫn đến con nọc đượng, hay nọc thược, hay nhất nọc trong pho sách của bộ bài chòi. Có lúc khác nữa, mấy câu hát trên chưa đủ mạnh, anh hiệu sẽ cương lên mà hô với giọng nghịch ngợm, pha đôi chút phấn khích, hồ hỡi. Năng cường, năng nhược,Năng khuất, năng sanh,Nó thiệt cục gân,Ngồi gần con gái trân trân chẳng xìu.Lời hô trên nghe có vẻ như tục tĩu, thô lỗ, sống sượng, nhưng đào sâu vào chúng ta sẽ thấy đáng được quan tâm nghiên cứu đến, bởi lẽ nó mang nhiều dấu vết về cách nhìn của con người trước thế giới tự nhiên, dấu vết của một vũ trụ quan vào những thế kỷ xa xưa.Ngày nay, đi ngược lên những vùng thượng du, quan sát sinh hoạt của người miền núi, chúng ta sẽ thấy đời sống sinh dục ở nhiều nơi vẫn còn là một điều rất tự nhiên. Người ta tắm rửa với nhau trần truồng bên bờ suối không một chút e dè. Những phần cơ thể cần phải che giấu, cấm kỵ ở miền xuôi, nơi đây ngượi lại, hoàn toàn phô bày ra không có gì phải xấu hổ. Người Ê-đê và Gia-rai vẫn nói đến cái đẹp của một đôi vú cong vút lên như ngà voi, đôi mông tròn đầy như trứng chim. Cái đẹp ấy rất phù hợp với bản năng sinh tồn để bảo vệ giống nòi.Xa xôi hơn trong lịch sử và thời gian, trên suốt dải đất miền Trung và Nam Trung bộ hiện nay, người Chàm của đất nước Champa cổ có tục thờ Linga tượng trưng cho dương vật và Yoni tượng trưng cho âm vật. Việc thờ phượng vật tổ này, bắt nguồn từ tục thờ đá rất xưa ở hải đảo và khắp vùng Đông Nam Á, chắc chắn phải có nhiều liên quan đến hình thái thờ phượng đất đai, là thần linh mang lại sức sống, năng lực sinh tồn, sự phồn thịnh của mọi loài sinh thực vật trên địa cầu.Linga là một cột đá, gồm ba phần: đầu tròn, thân tám cạnh và một chân đế hình vuông. Yoni là một chậu đá hình vuông hay chữ nhật, có một rãnh nước thoát gần như phần dưới của một cối đá xay bột. Các vua Chàm lúc vừa lên ngôi đều cho dựng cột Linga quốc bảo, có nghĩa là nhà vua đã tự mình đồng nhất với thần linh, với con mắt thấu suốt và tái tạo, với năng lực sinh tồn hằng cửu, khẳng định quyền lực của mình và dòng họ trước trời đất và con người. Các tô-tem này cũng thường được rước theo trong những ngày hội có nhảy múa, ca hát.Trên miền Bắc đất nước, một số nhà nghiên cứu văn học, sử học, dân tộc học, khảo cổ học cũng ghi nhận được nhiều vết tích còn đậm nét những hình thái tương tự như thế, đề cao sự sinh sôi nẩy nở, đề cao tính năng và sự tự do luyến ái, như việc thờ dâm thần và một số tập tục khác rải rác nhiều nơi tỏ ra rất quí trọng sinh thực khí, như đám rước âm vật ở làng Đông Kỵ, rồi trò chơi tranh giành nõn nường, mà theo Bình Nguyên Lộc thì dân miền Trung gọi là lỗ lường. Với tục múa mo, âm vật và dương vật được thay bằng cái mo và cây tre; con trai được gọi là Chày, và con gái là Sọt, y hệt như các tiệm chạp phô ở Ấn Độ bày chày và cối bán cho người ta mua về để thờ. [6]Một hình ảnh khác được ghi nhận cũng rất sống động là chiếc thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) cao trên 80 phân được tìm thấy năm 1960 đã trở nên quen thuộc với nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ. Trên nắp chiếc thạp này, bốn chiếc quai đắp nổi là bốn cặp nam nữ đang giao hợp xen kẽ vào giữa những hoa văn chạm nổi. Người dân Việt cũ, trên đường thiên cư từ Bắc vào Nam, mang những cảm quan và suy nghĩ ấy đi theo cuộc hành trình, đã gặp gỡ quan niệm của dân tộc Champa, và khi vì nhu cầu giải trí, phải làm ra một bộ bài để vui chơi với nhau, những hình tượng ấy đã xuất hiện trở lại trên hai con bài bạch huê, nọc đượng. Ông Hoàng Chương, trên tạp chí Văn nghệ xuất bản ở Hà Nội, số 50, tháng 7-1961, trong một bài nghiên cứu về hát hô bài chòi đã cho rằng: Những vật thể ấy (tức là Linga và Yoni của người Chiêm Thành) được vẽ trên những con bài gọi là bạch huê, nọc đượng, của bài chòi hiện nay. Tôi không biết lúc viết bài này, ông Hoàng Chương có nắm trong tay các quân bài hay không, nhưng thực sự chỉ có con bạch huê, về mặt hình tượng, gợi lên ít nhiều hình dạng của âm vật, còn con nọc đượng, chỉ có tên gọi gợi lên một cách khá sống động hình ảnh Linga, hình vẽ thì tuyệt nhiên không còn liên hệ gì đến vật thể ban đầu. Hình các con bài, từ trái sang: Ba gà, Tứ gióng, Nọc đượng, Nhì nghèo. Hãy đối chiếu với hình chim và mái nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ (Bản vẽ của Hà Nguyên Ðiểm) để có thể cảm ra một bầu không khí chung, một gốc gác chung của nền văn minh trải rộng ở vùng Ðông Nam Á cổ đại và cận đại mà bộ bài tới hẳn có nhiều liên hệ đến. Con nọc đượng, từ Quảng Nam đến Bình Định thì gọi khác đi một chút, là nọc thược. Nọc đượng, có lẽ chỉ nhấn mạnh ở chữ nọc, đượng là từ phụ không có nghĩa gì cả, ghép vào chỉ để hài thanh, tạo nên sự trôi chảy về âm thanh, cho dễ đọc, dễ nói, dễ hô lên mà thôi. Tuy nhiên, đượng cũng có thể là do biến âm, hoặc đọc trại ra từ tiếng dượng hay trượng. Dượng có nghĩa là bố ghẻ hoặc chồng cô, chồng dì, như trong câu hát Dì rằng mang rổ hái dâu, gặp dượng thằng đỏ ngồi câu bên đường. Thấy dì dượng nó cũng thương. [7] Và trượng, từ Hán-Việt, có nghĩa là cây gậy hay cái hèo. Một chữ trượng khác trong trượng phu lại có nghĩa là người đờn ông, hoặc là tiếng vợ gọi chồng [8] Như vậy, có thể tạm hiểu nọc đượng như là hình ảnh của cái cọc hay một cây gậy thẳng đứng được vạt nhọn để cắm vào đất, và bóng bẩy hơn, đó chính là tiếng gọi thông tục của linga.Hình vẽ con nọc đượng quả là hết sức lạ. Xem kỹ, chúng ta sẽ thấy là một mái nhà sàn ở Tây Nguyên, nhìn từ một bên (profil), mái nhà nghiêng dốc cao vút. Trên đỉnh mái nhà, đầu một con chim đã được kiểu thức hoá, khó lòng mà biết loại chim nào, trông tương tự như chim gõ kiến mà cũng có thể là đầu một con gà, bởi vì cũng chính đầu con chim ấy lại xuất hiện trên nhiều quân bài khác, và trên con ba gà thì lại ghi rõ ràng là gà. Ở đây, tại sao là đầu của một con chim mà không phải của một loài thú khác? Ở Trung bộ, tiếng chim vẫn được dùng để chỉ đến dương vật, nhưng thường thì để nói đến trẻ con hơn là người lớn. Cũng rất có thể, khi vẽ con bài nọc đượng, người vẽ đã chọn biểu tượng ấy như một ngôn ngữ gián tiếp để phô diễn nội dung muốn đạt đến.Trước hình vẽ này, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ đến những mái nhà sàn trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, chắc chắn rằng sự đối chiếu cũng sẽ rất hữu ích. Những nhà sàn trên các trống đồng, ngược lại, được nhìn thẳng vào chính diện, hai đầu cuối cùng của mái nhà cũng có những nút tròn nhỏ, ở giữa có chấm, trông tựa như mắt của hai con chim đang vươn cánh bay lên trời, trên mái nhà thường khắc hình chim rất lớn, đè nặng cả mái nhà. Chim mỏ ngắn, chân ngắn, mào nhỏ, lông đuôi dài và to, nên có người đã ước đoán là người làm trống đồng muốn thể hiện hình dáng con gà lôi (Lophura Nycthemera). Cũng là chim (hay gà) đậu trên mái nhà sàn, nhưng mỗi nơi lại được nhìn theo một cách, người nghệ sĩ tài tử của bộ bài tới ghi nhận và cách điệu sự vật khác hẳn hoàn toàn với người thợ chuyên nghiệp tài tình đã sản sinh ra những trống đồng của mấy ngàn năm trước [9] .Con ba gà và con nhì nghèo, cũng gần với thế giới của nọc đượng, vậy nên sự gợi cảm mang lại cho người xem đều từ bầu khí chung ấy. Phần trên quân bài là một đầu chim, bên dưới là hình ảnh của một mái nhà sàn, từ giữa thân bài, có một đường giải chạy viền lên đến đầu chim, có thể đấy là túp lông từ cổ qua bụng nối liền với đuôi chim được cách điệu như thế. Toàn bộ con nghèo, đầu chim, mình chim, hai nút tròn nhỏ chồng lên nhau nằm ở giữa thân thắt eo lại, thêm vào đấy là phần cái nhà sàn bên dưới ghép vào như một thứ đuôi chim xòe ra, tất cả hợp lại thành hình ảnh một con chim rất kỳ dị giữa những giấc mộng lạ lùng của chúng ta. Con ba gà, cũng gần như con nọc đượng và nhì nghèo nhưng có khác đi một tí. Trong cuộc chơi bài chòi, khi bốc đến con ba gà, anh Hiệu sẽ hô lên hai câu rất vui, lột tả được tất cả tính mèo mả gà đồng của họ gà, se sua chưng diện, áo quần sặc sỡ xinh đẹp, suốt ngày là anh chàng họ Sở ngoài đường phố nhưng tối về cũng chỉ co ro buồn thiu một mình. Mình vàng bận áo mã tiên,Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình.Khi bốc được con Nhì nghèo, anh hiệu lại hô lên mấy câu nói về cảnh nghèo, mà lại rất vui, đúng ra đó chỉ là một tiếng cười đùa dí dỏm, vô hại. Mẹ ơi chớ đánh con đau Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ Bắt ốc, ốc nhảy lên bờ Hái rau rau héo, mẹ nhờ chi con.Đến như than vãn thân phận nghèo khổ, thì cũng là lời bông phèng vui vẻ. Ngày thường thiếu áo thiếu cơm Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường Dù dơi, dép bướm chật đườngMàn loan, gối phượng ai thương thằng nghèo.Con Tám giây, cũng gần tựa như hai cặp gióng chồng lên nhau nhưng không có quai xách. Tám giây cũng gọi là tám hột vì nó có tám nút tròn nhỏ cân đối trên hình vẽ của quân bài. Và gọi tám giây có lẽ vì có tám sợi dây hình vòng cung nối tám nút trong quân bài thành hai cặp gióng.Chúng ta hãy xem đến vài con bài thuộc pho vạn gồm chín con từ thất vạn đến cửu vạn. Phong cách khá lạ, chủ yếu trên mỗi quân bài là một mặt người tạo thành bằng những nét rằn rịt, gần với bầu khí chung của loại tranh thờ dân gian nhưng pha nhiều vẻ hoang sơ hơn. Thô kệch, ngô nghê, vụng về nhưng chính vì thế rất hấp dẫn, rất gần với cái đẹp hoang dại nơi các điêu khắc gỗ mộc mạc của Tây Nguyên, của Phi Châu đen hay một số bộ tộc Úc Châu và Mỹ Châu La Tinh.Con cửu thầy tức cửu vạn, cũng gọi là cửu chùa vì vẽ hình một đầu người đội chiếc mũ như các ông thầy cúng, thầy pháp, rất nhiều nơi không có sự phân biệt rõ ràng, là tình trạng nhập nhằng của một số người lợi dụng tiếng kinh mõ ê a, rồi cũng khua chiêng đánh trống, thổi kèn, trộn nhào cả kinh Phật với bùa chú, bắt quyết gọi âm binh, trừ tà ma, để nhận xôi, gà, oản chuối của những gia chủ rước thầy về.Con ngủ trưa tức ngũ vạn, cũng cùng một lối vẽ như con cửu thầy, chỉ đổi khác đi một chút mà thôi. Ngay giữa con bài, hình một người có vẻ như đang ngái ngủ, gật gà gật gưỡng giấc trưa. Hình vẽ này có lẽ cũng mang một chút tinh thần châm biếm trào lộng đối với những kẻ thích ngủ trưa, mang tật chây lười.Con lục xơ tức lục vạn, cũng như các con trên, ở đầu quân bài có chữ xơ, kế tiếp là hai chữ nho lục vạn, kế đến là hình người. Không có gì chắc lắm, nhưng có người đã giải thích rằng sở dĩ có có tên là lục xơ hay lục chuôm vì phía trên đầu hình người có những ô chéo như mảng xơ hay hình nan chuôm.Tất cả chín con trong pho vạn đều có cùng một phong cách, chỉ thay đổi thêm bớt một đôi tí mà thôi. Như con học trò (nhất vạn) thì ở trên đầu nhân vật có đội thêm một cái khăn đóng cho ra vẻ hẳn hoi là con nhà nghiên bút! Anh Hiệu sẽ hô về con học trò: Đi đâu ôm tráp đi hoài,Cử nhân không thấy tú tài cũng không.(Là con học trò)Nghe hô như thế, lại nhìn vào con bài thì người đến giải trí trong cuộc chơi bài chòi sẽ có thể phá lên mà cười như nắc nẻ.Con tứ cẳng cũng gọi là con cẳng hương (tức tứ vạn): cũng như tất cả các con bài thuộc pho vạn nhưng chỉ riêng ở con này là khuôn mặt người không nhìn thẳng mà hơi lệch đi, ở phần dưới có bốn mảnh hình tam giác gần như bốn màng chân vịt xòe ra, có thể vì thế mà gọi là tứ cẳng. Ở Huế, người ta còn gọi là tứ hường. Hường tức là hàm Hồng Lô Tự Khanh của triều đình nhà Nguyễn cũ, kêu tắt lại, như trong các tiếng quan hường, quan thị. Như vậy con bài ở đây cũng mang một nội dung châm biếm trào lộng cay độc, quan hường đã xuất hiện nơi đây với một thể dạng xô lệch rằn rịt, không mang bài ngà mà lại kéo theo bốn cái chân vịt lạch bạch. Xét về mặt kỹ thuật khắc gỗ, nét vẽ đen nổi trên nền trắng, chỗ đậm chỗ nhạt đặt đúng nơi đúng chỗ, phải công nhận là lối cách điệu này tuy giản dị nhưng rất tài, bố cục chặt chẽ, nhuẫn nhuyễn, hấp dẫn. Phải nhớ một điều, nếu là người nghệ sĩ chuyên nghiệp, rất khó mà cống hiến được cho ta một hình tượng như thế, ở đây là nghệ thuật của bản năng, của tài tình tự phát, của tài tử nghiệp dư mà dần dà, vì gần gũi với cuộc sống của đại chúng nên đã nhập vào sâu sắc trong cuộc sống của nhân dân. Những nét nghệ thuật độc đáo của một dòng nghệ thuật tự do như vậy rất đáng cho chúng ta ngày nay phải lưu tâm nghiên cứu và học hỏi.Ba lá bài thuộc ba cặp yêu: ông ầm, thái tử, bạch tuyết, về mặt phong cách tạo hình, có thể xếp luôn vào loại vừa đề cập.Con bạch tuyết, đối lập với con nọc đượng, là quân bài cũng hết sức đáng chú ý. Nọc đượng là biểu tượng của dương vật thì bạch tuyết là biểu tượng của âm vật, là vật tổ Iôni của dân Champa cổ tái hiện trở lại theo một cách khác. Bạch tuyết ở vùng Bình Định gọi là bạch huê, và khi rút được từ trong ống lá bài này giữa một hội chơi bài chòi, anh Hiệu có thể rề rà hát lên một bài thơ lục bát, chữ nghĩa dân dã nhưng cũng pha một chút văn chương bác học, phảng phất chút đỉnh hơi thơ Hồ Xuân Hương:Hoa phi đào phi cúcSắc phi lục phi hồngTrơ như đá vững như đồngAi xô không ngã, ngọn gió lồng không xaoMỉa mai cụm liễu cửa đàoOng qua muốn đậu, bướm vào muốn buBốn mùa đông hạ xuân thuKhi búp, khi nở, khi xù, khi tươi.Chúa Xuân ngó thấy mỉm cười,Sắc hay vương vấn mấy người tài danh.Có bông, có cuống, không cànhỞ trong có nu, bốn vành có tua.Nhà dân cho chí nhà vuaAi ai có của cũng mua để dành.Tử tôn do thử nhi sanh,Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi.Trong không khí riêng của đất Huế, về con bạch tuyết, anh hiệu lại có thể cất giọng hát lên mấy câu rất dân dã mà vẫn óng ả, cầu kỳ, và kiểu cách:Cần vàng, ống bạc, chỉ tơAnh móc mồi thơm thả xuốngCá nọ giả lơ không thèm. Cũng vậy, là mấy câu khác nữa:Tiếc con tôm rằn nấu với rau máTiếc con cá bống thệ nấu với lá cỏ hôiTiếc công em trang điểm phấn dồiRa lấy chồng không đặng cân đôi cũng buồn. Chúng ta hãy xem qua hình vẽ trên quân bài này. Hình tượng trông tựa như hai nhánh lá hoặc hai nhánh rong, nhánh ở trên là nét đen nổi bật trên nền trắng, nhánh dưới là nét trắng nổi bật trên nền đen. Nhánh lá rất có thể là một nhành liễu vẫn tượng trưng cho người phụ nữ, nhưng theo ý tôi, đấy là âm vật được cách điệu một cách bay bướm, nhẹ nhàng, do thế đã tránh được cái nặng nề phải mô tả đối tượng theo lối chính xác.Về mặt kỹ thuật, với nét đen và trắng của hai nhánh lá ở đây, tuy rất giản dị nhưng đã tỏ ra biết đào sâu vào phương thức tạo hình của nghệ thuật mộc bản dân tộc, biết khắc hoạ những nét đen, biết đục sâu vào nền gỗ để tạo những nét trắng, gây nên tương phản về sắc độ rất hấp dẫn.Con thái tử vẽ hình người mang hia, đội mão ra vẻ con nhà vua, người được chỉ định sẽ nối nghiệp cha trị vì đất nước. Hình vẽ giản lược phần thân mình, chỉ còn là một hình vuông giữa một khối bầu dục có những nét rằn rịt, hình vuông chứa những chấm đen nhỏ chạy thành hàng đều đặn. Hình vẽ nặng tính cách biểu tượng với thể dạng cái mão và đôi hia, lộ ra ngay dáng dấp áo mão cân đai. Phía trên đầu nhân vật, một mảnh son đỏ hình hơi tròn in chồng lên đấy như một dấu triện. Sự tham dự của màu đỏ son ấy cũng tìm thấy trên con đỏ mỏ tức con ác, con ma trùng, và đặc biệt nhất là trên con ầm tức con sấm, người ta in chồng lên các nét vẽ đen một lớp son đỏ phủ lấy toàn thể quân bài như vẫn thấy trên các đạo bùa, những nét vẽ đen, đỏ, ngoằn ngoèo chồng chéo lên nhau.Nhắc đến con ầm tức con sấm, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ lại hai câu hát bài chòi khá vui mà anh hiệu có thể sẽ hô lên khi rút đến thẻ bài này. Chỉ cần một tiếng ầm âm vang để mọi người dự cuộc chơi biết ngay là đã bốc trúng con Am, chứ chẳng cần tiếng ầm ấy liên hệ gì với cái nghĩa tiếng sấm ầm ầm, giữa bầu trời đầy mây tối hay mưa gió bão bùng mù mịt. Nửa đêm gà gáy le te Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm.(Ông Am!)Chúng ta vừa xem qua một số hình tượng lạ lùng trên các quân bài tới. Với các hình ảnh ấy, với những ý nghĩa ấy, có lẽ chúng ta phải thừa nhận rằng chúng hết sức lạ lùng, hấp dẫn, đặc sắc. Từ hình vẽ cho đến tên gọi, đều là quá đỗi kỳ lạ. Ở nơi đây, tất cả đều tan biến,chỉ còn lại tiếng cười đùa dí dỏm, thoải mái, nghịch ngợm của nhân dân. Chúng ta thấy những hình ảnh con gà nằm cạnh ông Thái tử, đôi gióng đứng bên ông ầm, con voi chơi đùa với ông thầy chùa, anh học trò, anh chàng ngủ trưa, con nọc đượng cũng như con bạch huê đuề huề với một quan hường (cẳng hương). Dưới những triều đại phong kiến cũ, tiếng cười dòn dã và hồn nhiên ấy tất nhiên còn phải được lý giải trên cả những nhịp điệu của đời sống chính trị, đó cũng là một thứ vũ khí, dù tiêu cực và có thể là vô thức, để đấu tranh chống bạo lực và cường quyền thống trị.Về mặt nghệ thuật tạo hình là điều cốt yếu mà bài viết này nhằm đạt đến, bộ bài tới chắc chắn sẽ có nhiều đóng góp hữu ích, phong phú đối với kho tàng nghệ thuật đất nước. Các nghệ sĩ hiện đại chắc chắn sẽ tìm được ở đây nhiều điều rất mới mẻ. Và hẳn rằng các nhà dân tộc học, khảo cổ học cũng sẽ còn nhiều vướng bận ở đây.Viết ở Sài Gòn năm 1985Sửa chữa lại ở California, 2005. [1] Về bài chòi, xem thêm: “Khảo về bài chòi”, Võ Phiến, Tân Văn, số 1 tháng 4, 1968 “Bài chòi ở Bình Định”, Tạ Chí Đại Trường, Sử Địa số 5, tháng 1, 2, 3, 1967. “Những hội mùa Xuân”, Nguyễn Văn Xuân, Tân Văn, số 9, 10, tháng 1, 2, 1969. Nước non Bình Định, Quách Tấn, Nam Cường xuất bản, Sài Gòn, 1967. “Phong thổ Huế” trong Lược khảo về mỹ thuật Việt Nam, Từ Lâm Nguyễn Xuân Nghị, Quốc Học thư xã, Hà Nội 1942. Đào Đức Chương,“Bài Chòi Bình Định”, Giai phẩm Tây Sơn Xuân CanhThìn2000 http://chimviet.free...oi/baichoi1.htm (18 tháng 4, 2005). Cũng xin xem thêm Connaissance du Việt Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Ecole Francaise d’Extrême-Orient xb, trang 224-226, Hà Nội, 1954, viết về Tổ tôm Điếm, cũng là một loại bài chòi nhưng có vẻ sang trọng hơn. Nhân đây, chúng tôi trích in lại bản vẽ về Tổ tôm Điếm trên đất Bắc ngày trước, từ sách Connaissance du Việt-Nam. Cạnh đó, chúng tôi cũng trích in hình vẽ cảnh bốn người chơi bài tam cúc, chẳng khác mấy với cảnh tượng một đám chơi bài tới, tuy nhiên chơi bài tới đòi phải có 6 tay, để chúng ta có thể sống lại phần nào một khía cạnh sinh hoạt của đất nước ngày xưa. [2] Về sau này, ở vài nơi sản xuất bài tới, người ta còn xoá hết tất cả phần chữ viết, bất kể Nôm, Hán, Quốc ngữ, hoặc chỉ còn giữ lại vài chữ mà thôi trên toàn thể các con bài. Ví dụ, đó là bộ bài tới do ông Đoàn Việt Hùng sưu tầm được ở thôn Phú Ấn, xã Hoà An, huyện Phú Hoà, tỉnh Phú Yên, in đính kèm bài viết “Ngày Tết đánh bài chòi” của Trần Sĩ Huệ trên tạp chí Xưa và nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Xuân Quý Mùi, TP Hồ Chí Minh, số 132-133, tháng 1-2, 2003, trang 62-64.Xoá hết chữ thì không nói làm gì, nhưng đáng tiếc là hình vẽ trên các quân bài giản lược rất cẩu thả, khờ khạo, hoặc vẽ thay vào bằng một hình ảnh khác, không còn chút gì cái đẹp dân dã mạnh khỏe, kỳ lạ và đầy tính sáng tạo của các hình tượng trên bộ bài tới xưa nay nữa. Tuy nhiên, về chuyện này thì chúng ta có thể yên tâm phần nào, vì cách đây khoảng 20 năm, chúng tôi có nhìn thấy trong bộ sưu tập của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội một bộ bài tới rất đẹp. Không những thế, các hình vẽ của từng quân bài còn được phóng lớn cỡ bàn tay và in trên giấy dó rất hấp dẫn. Vết tích này còn được giữ gìn như vậy, có lẽ nhờ ở sự lưu tâm đặc biệt của ông Nguyễn Văn Y thuở còn sinh thời, lúc bấy giờ đang đảm trách chức vụ giám đốc của Nhà Bảo tàng. Ông Nguyễn là một nhà nghiên cứu mỹ thuật, hoạ sĩ mà cũng là nhà tạo hình về gốm rất đặc sắc. Nhắc lại sự kiện này cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ và bày tỏ đôi chút lòng biết ơn đối với một con người tâm huyết trước sự nghiệp văn hoá nghệ thuật của đất nước. [3] Bài vè này chúng tôi ghi chép lại được ở Huế. Trong Thi ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1971, ở trang 391, bài vè có khác một đôi chữ. Và trong Tự điển thành ngữ điển tích của Diên Hương, bản chụp in lại của Nxb Zieleks ở Houston Texas, năm 1981, cũng vậy, lại có khác một số chữ nữa, như vậy rõ ràng là do tam sao thất bổn, hoặc có thể vì đã biến đổi dần do giọng phát âm của từng địa phương chăng? [4]Con bài: Tiếng miền Trung, ở miền Bắc gọi là quân bài. [5] Võ Phiến, “Khảo về bài chòi”, bài đã dẫn, trang 5. [6] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, chụp lại bản in ở Sài Gòn năm 1971, trang 387. [7] Trích dẫn theo Việt Nam tự điển, hội Khai Trí Tiến Đức, Nxb Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản ở Sài Gòn, không ghi năm xb, trang 162. [8] Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, bản chụp in lại của Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974, trang 503. [9] Từ hình dáng mái nhà sàn trên con nọc đượng hay nhì nghèo, biến dạng hơn một chút là con ba gà, biến dạng nhiều hơn nữa là các con bảy sưa, năm giày, đỏ mỏ, chúng ta đang đứng trước một đề tài khá lớn vô cùng thích thú trong lĩnh vực dân tộc học và cả mỹ học, khi đối chiếu với nhiều vết tích về nhà sàn trên suốt vùng Đông Nam Á và hải đảo, chưa kể đến những mái nhà sàn khác xa xôi hơn bên kia nửa trái đất. Trong chừng mực của bài viết này, chúng ta không thể đi xa hơn được. Đề nghị xem thêm: “Tìm hiểu Nhà Đông Sơn qua ngôi nhà cổ của người Toradja (Indonesia)”, Tạ Đức, Khảo sổ học số 1, 1987. Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản, 1975. Introduction à l’Etude de l’habitation sur pilotis dans L’Asie du Sud-Est. Nguyễn Văn Huyên, Librairie Orientaliste, Paul Geuthner, Paris, 1934. The Art of East Asia, Gabriele Fahr-Becker (Ed.), Volume 1, Konemann Verlagsgesellschaft mbH, An bản tiếng Anh, Oldenburg, Germany, 1999. Phần viết về Nam Dương của Sri Kuhnt-Saptodewo, “Indonesia, Architecture and Symbolism”, p.p 312-324. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 8, 2012 Bài chòi là di sản thế giới? Lễ hội Bài chòi lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội sẽ giúp công chúng hiểu hơn về một di sản đang được Bộ VHTTDL chủ trương lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nhân sự kiện này, NNVN đã trao đổi với GS Hoàng Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam.Trình diễn Bài chòiBài chòi là gì?Xin GS cho biết rõ hơn về loại hình nghệ thuật mà không phải nhiều người đã được biết tới...Bài chòi đã có lịch sử mấy trăm năm ở Nam Trung bộ. Tuy nhiên cái nôi của nó là ở Bình Định và phát triển mạnh mẽ nhất cũng ở Bình Định. Sau Cách mạng tháng Tám, Bài chòi phát triển từ dân gian thành chuyên nghiệp. Với công chúng Hà Nội trước đây, trong những môn nghệ thuật như cải lương, đờn ca tài tử, Tuồng, Bài chòi thì Bài chòi được mê nhất. Đặc biệt, Bài chòi của Đoàn nghệ thuật Quân khu 5 từng làm khán giả Hà Nội mê mẩn. Sau 1975 thì các đoàn về Nam, để lại khoảng trống trong lòng khán giả Hà Nội.Bài có nghĩa là trò chơi văn hóa nghệ thuật. Còn chòi là cái chòi để người chơi ngồi. Bài chòi về sau này phát triển được sáng tác thêm những điệu hát dài hơn, có thể vận dụng nhiều cách hát hơn như trong các vở tuồng, cải lương… Bài chòi chuyên nghiệp hiện nay rất khác với lễ hội Bài chòi truyền thống. Lễ hội Bài chòi trên đất Thăng Long mà khán giả được xem trong dịp Tết Nhâm Thìn này là lễ hội truyền thống.Bài chòi truyền thống có 8 cái chòi dựng 2 bên song song nhau và 1 chòi trung tâm. Người chơi bài ngồi trên chòi, được anh hiệu phát cho 3 thẻ tre (con bài) có vẽ các hình tượng, người, vật tương ứng với những câu hát của anh hiệu. Ví dụ, con bài có hình anh học trò thì sẽ thắng khi anh hiệu hát câu: “Đi đâu đi hủy đi hoài/ Cử nhân không đỗ tú tài cũng không”. Hoặc khi anh hiệu hát câu “Đêm nằm gối ấm không êm/ Gối lụa không mềm bằng gối tay em” thì người thắng là người có thẻ bài có hình con chim gối. Người chơi bài nghe anh hiệu hát trùng tên thẻ bài của mình thì gõ mõ báo hiệu là mình đã trúng. Nếu trúng 3 thẻ thì gõ trống mõ báo mình thắng. Anh hiệu hát chúc mừng và được BTC trao giải thưởng. Cuộc chơi kéo dài cho đủ vòng 9 chòi với 27 câu hát thì kết thúc một ván bài, thời gian chơi dài, ngắn phụ thuộc vào những câu hát ngắn hay dài. Trong quá trình diễn ra từng ván bài đều có những tiết mục biểu diễn xen kẽ chúc mừng của các nghệ sỹ. Vì vậy mà cuộc chơi hết sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem suốt ngày, đêm."Sinh hoạt văn hóa đặc biệt"Công tác bảo tồn, phát huy giá trị của nghệ thuật Bài chòi hiện nay thế nào, thưa GS?Có thực tế là Bài chòi phát triển chuyên nghiệp nhưng lại mất tính dân gian. Bởi vậy, chủ trương của Bộ VHTTDL là phục hồi lễ hội Bài chòi theo đúng dân gian. Việc đào tạo thế hệ trẻ hát Bài chòi cũng không đơn giản. Năm 2010, việc đào tạo thế hệ trẻ hát Bài chòi theo chủ trương của Bộ VHTTDL gặp rất nhiều khó khăn. Không nhiều người trẻ thích hát dân gian nữa. Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi chưa phục hồi được lễ hội hát Bài chòi truyền thống. Tuy nhiên, việc bảo tồn Bài chòi ở Bình Định thì khá tốt. Hiện Bình Định có 9 đoàn hát Bài chòi, mỗi đoàn có 5- 6 nghệ nhân trẻ, tuổi tầm 20 trở lên. Họ đều sống khỏe bằng việc đi diễn Bài chòi. Năm 2010, sau quá trình nghiên cứu, sưu tầm, tỉnh Bình Định đã phục hồi thành công lễ hội Bài chòi.GS có tin nghệ thuật Bài chòi sẽ thu hút khán giả?Ở Bình Định, có một điều khác biệt là đoàn nghệ thuật không chuyên lại diễn hay hơn đoàn chuyên nghiệp. Bởi chuyên thì chỉ diễn theo định mức, còn không chuyên lại đi diễn quanh năm, diễn ở khắp nơi để kiếm sống. Lực lượng không chuyên người già thì rất giỏi trong sáng tạo, ứng biến, còn người trẻ thì thuộc bài và hát rất ngọt. Ngồi trên chòi trong những ngày lễ tết, chơi Bài chòi là hoạt động được nhân dân Nam Trung bộ nói chung và người dân Bình Định nói riêng rất yêu thích. Đây cũng là sinh hoạt văn hóa đặc biệt thể hiện được nét độc đáo của con người, vùng đất Nam Trung bộ. Những người dân miền Trung mê Bài chòi nên đã có ca dao: Mải mê cái thú bài chòi/ Để con nó khóc mà lòi rốn ra…Bởi vậy, chủ trương của Bộ VHTTDL là hoàn thiện phục hồi lễ hội và giới thiệu đến đông đảo nhân dân nhằm lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong thời gian tới.Xin cám ơn GS!Tùng Linh =======================Nghe hát Bài chòi thử:http-~~-//www.youtube.com/watch?v=_JaCzbV_8PY&feature=related 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 8, 2012 Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦNThiên Đồng – Bùi Anh Tuấn - Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch.Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠITừ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi.Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Bản nguyên của vũ trụ có tính thuần khiết, tràn đầy, viên mãn. Do thuần khiết nên không thể coi bản thể nguyên gồm những cái cực nhỏ và cũng không thể là một cái cực lớn; trong đó không có cái “Có” để nói đến cái “Không”. Tượng của Thái cực do tính viên mãn nên là hình tròn. Tính của Thái Cực chí tịnh. Bởi tính chí tịnh nên động. Có tịnh, có động đối đãi nên sinh ra Âm Dương. Cái “Có” Động (Âm) ra đời đối đãi với cái “Không” bản nguyên. Tính của Âm tụ, đục, giới hạn nên tượng của Âm hình vuông. Bởi vậy, ông cha ta đã truyền lại câu tục ngữ: “Mẹ tròn con vuông” nhằm hướng dẫn về việc lý giải về bản nguyên của vũ trụ. “Mẹ tròn” cái có trước và là Thái Cực – Trở thành Dương, khi sinh Âm – “Con vuông”, cái có sau. Với ý nghĩa của câu tục ngữ này và cách giải thích như trên thì Dương cũng là Thái Cực (Mẹ tròn) vì có đối đãi nên có sự phân biệt Âm Dương. Hoàn toàn khác hẳn ý niệm Thái Cực sinh Lưỡng Nghi theo cách hiểu của các nhà Lý học cổ kim, khi họ cho rằng: Âm Dương tuy cũng có nguồn gốc của Thái Cực nhưng không phải là Thái Cực. Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: “Người xưa cho rằng khởi thủy của vũ trụ là Thái Cực. Thái Cực vốn chí tịnh, thuần khiết không phải là một cái cực lớn và cũng không phải là cái cực nhỏ; trong đó không có sự phân biệt. tức là không có cái có để nói đến cái Không. Tượng của thái cực hình tròn thể hiện tính tràn đầy viên mãn…” Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” III. LỜI KẾT Sự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: “Tạo ra một lý thuyết thống nhất các định luật vũ trụ! Một siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn có thể giải thích được mọi sự kiện bao quanh con người, từ những hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ”. ( trích “Định mệnh có thật hay không”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 56) Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: “ Nếu một lý thuyết hoàn chỉnh được phát minh thì chỉ còn là vấn đề thời gian để cho lý thuyết đó được thấu triệt và mọi người chúng ta sẽ đủ khả năng có một kiến thức nhất định về những định luật trị vì vũ trụ và điều hành cuộc sống của chúng ta.” ( trích “Định mệnh có thật hay không”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 59) Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: vấn đề thời gian để cho lý thuyết đó được thấu triệt và mọi người chúng ta sẽ đủ khả năng có một kiến thức nhất định về những định luật trị vì vũ trụ và điều hành cuộc sống của chúng ta. Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 8, 2012 Cờ người – cuộc đấu trí đầy trí tuệ Cờ người là một trò chơi dân gian Việt Nam thường được tổ chức vào dịp lễ cổ truyền khi làng mở hội. Chơi cờ người cũng giống như cờ tướng nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân đất rộng. 32 quân cờ người thường được tuyển chọn từ các nam thanh nữ tú là con cháu trong làng, hoặc các võ sinh của võ đường. Các quân cờ người thường mặc áo rực rỡ có thêu biểu tượng quân cờ mình thủ vai ở trước ngực và sau áo để người xem dễ theo dõi diễn tiến ván đấu. Để chuẩn bị cho cuộc đấu cờ người ban tổ chức hội làng phải dày công trong việc chuẩn bị. Dàn quân trước trận đấu Trước tiên là việc tuyển tìm người làm quân cờ phải là những trai thanh, gái lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình. Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải đủ 32 quân, gồm 7 loại chia đều cho mỗi bên gồm 16 chàng trai khoẻ mạnh đóng quân đỏ (hoặc vàng) và 16 thiếu nữ xinh đẹp đóng quân đen (hoặc xanh). Hai tướng (tướng ông, tướng bà) là hai người đẹp nhất được chọn trong số 32 quân cờ. Sau đó tiến hành tập luyện các thế đi, đường võ để khi ra xung trận biểu diễn cho từng thế cờ. Hai kỳ thủ với áo dài khăn đóng ngồi trên hai chòi cao để đấu với nhau. Trên sân khấu có bình luận viên bình luận về các thế cờ sau mỗi nước đi của từng kỳ thủ Ra thế võ triệt hạ đối thủ Sau khi hai bên đã dàn quân xong thì trận đấu được bắt đầu khi có hiệu lệnh trống của người cầm trịch. Theo quy định đấu thủ cầm quân đỏ được đi trước, sau đó đến bên đen và luân phiên thứ tự cho đến khi kết thúc ván cờ. Khi ăn quân của đối phương thì quân cờ thể hiện bằng một bài biểu diễn song đấu hoặc một bài tự vệ. Các quân cờ cần phải trải qua sự tập luyện lâu dài và gian khổ, vì các đòn thế biểu diễn không phải dễ dàng. Trong không gian rộn rã của tiếng chiêng, tiếng trống khua liên hồi. Cờ xí, võng lọng bay phấp phới trong nắng xuân hồng, cùng với áo mão của "ba quân tướng sĩ" đã làm cho không khí ngày hội thêm hào hùng.Chơi cờ người trong các lễ hội cổ truyền không chỉ là một trò chơi giải trí đơn thuần mà còn là một cuộc đấu đầy trí tuệ . Xem chơi cờ người chúng ta không những chỉ thưởng thức các thế võ đẹp của các quân cờ mà còn thưởng thức trí tuệ qua từng nước cờ của các kỳ thủ. Chính sự hấp dẫn này nên trong các lễ hội đầu xuân nào cờ người cũng là sân chơi thu hút rất đông người đến xem, tạo ra sức sống lâu bền của các lễ hội dân gian.Hoàng Anhhttp://laodong.com.vn/ 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 8, 2012 Cảm ơn bài biết rất hay. “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” Bản nguyên vũ trụ khác Tính thấy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 9, 2012 Chơi ô ăn quan “Chơi ô ăn quan”, tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh (nguồn: internet) Ô ăn quan, hay còn gọi tắt là ăn quan là một trò chơi dân gian của trẻ em người Kinh, Việt Nam mà chủ yếu là các bé gái. Đây là trò chơi có tính chất chiến thuật thường dành cho hai người chơi và có thể sử dụng các vật liệu đa dạng, dễ kiếm để chuẩn bị cho trò chơi.Hiện chưa rõ nguồn gốc cũng như thời điểm bắt đầu nhưng chắc chắn rằng Ô ăn quan đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời. Những câu truyện lưu truyền về Mạc Hiển Tích (chưa rõ năm sinh, năm mất), đỗ Trạng nguyên năm 1086 nói rằng ông đã có một tác phẩm bàn về các phép tính trong trò chơi Ô ăn quan và đề cập đến số ẩn (số âm) của ô trống xuất hiện trong khi chơi. Ô ăn quan đã từng phổ biến ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt nam nhưng những năm gần đây chỉ còn được rất ít trẻ em chơi. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trưng bày, giới thiệu và hướng dẫn trò chơi này.Cách chơi :Chuẩn bịBàn chơi: bàn chơi Ô ăn quan kẻ trên một mặt bằng tương đối phẳng có kích thước linh hoạt miễn là có thể chia ra đủ số ô cần thiết để chứa quân đồng thời không quá lớn để thuận tiện cho việc di chuyển quân, vì thế có thể được tạo ra trên nền đất, vỉa hè, trên miếng gỗ phẳng.... Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài. Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan.Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể cho dễ phân biệt với nhau. Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả... hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quanluôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 50.Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân,dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Trường hợp không muốn hoặc không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng cách đặt số lượng dânquy đổi vào ô quan.Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Luật chơiMục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dânhoặc 5 dân.Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiềudân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau:Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn.• Nếu liền sau đó là một ô trống (không phân biệt ô quan hay ô dân) rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ đượcăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bịăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này... Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn hết toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt đi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân thì người chơi lại tiếp tục được dùng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường được trẻ em gọi là ônhà giàu, rất nhiều dân thì gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hoặc tính toán phương án nhằm nuôi ônhà giàu rồi mới ăn để được nhiều điểm và có cảm giác thích thú.Bé mẫu giáo chơi ô ăn quan Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương.• Trường hợp đến lượt đi nhưng cả 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người đó sẽ phải dùng 5 dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô 1 dân để có thể thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không đủ 5 dân thì phải vay của đối phương và trả lại khi tính điểm.Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quanđã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hay hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân nhỏ hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt.Đồng daoTrong cách chơi truyền thống có sử dụng một số bài đồng dao, dưới đây là một bài trong số đó: Hàng trầu hàng cau Là hàng con gái Hàng bánh hàng trái Là hàng bà già Hàng hương hàng hoa Là hàng cúng Phật.Biến thểTrò chơi có một số biến thể sau:• Số dân ở mỗi ô vuông là 10 và/hoặc ở ô quan ngoài quan còn có thêm 20 hay 30 dân.• Khi quân cuối cùng đã được rải xuống, nếu ô liền sau đó là ô quan thì người chơi cũng mất lượt ngay dù ô đó có chứa quân hay không.• Khi đến lượt đi người chơi có thể tính toán phương án đi của mình trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc phải đi ngay mà không được phép tính toán.Ô ăn quan cho nhiều hơn hai người chơiÔ ăn quan cũng có thể được chơi với 3 hoặc 4 người chơi trong đó cách di chuyển quân, thể thức tính điểm cũng giống như khi chơi hai người nhưng bàn chơi được thiết kế khác đi cho phù hợp • Bàn chơi cho 3 người: có hình tam giác đều với 3 ô quan ở 3 đỉnh của tam giác, ở mỗi cạnh kẻ 5 ô vuông để làm ô dân. Người chơi ngồi ở phía cạnh tam giác có các ô dân thuộc quyền kiểm soát của mình.Bàn chơi cho 4 người: có hình vuông với 4 ô quan ở 4 góc vuông, các ô dân hình vuông kẻ ở 4 cạnh, mỗi cạnh 5 ô. Người chơi ngồi ở phía cạnh hình vuông có những ô dân thuộc quyền kiểm soát của mình.Ô ăn quan trong văn học, nghệ thuậtÔ ăn quan thú vị, dễ chơi đã từng là trò chơi hàng ngày của trẻ em Việt Nam. Chỉ với một khoảng sân nho nhỏ và những viên sỏi, gạch, đá là các em nhỏ đã có thể vui chơi. Có thể thấy dấu ấn của Ô ăn quan trong đời sống và văn học, nghệ thuật: Thành ngữ: Một đập ăn quan - hàm ý chỉ những hành động đơn giản nhưng tức thì đạt kết quả to lớn. Trích bài thơ "Chơi Ô ăn quan" của Lữ Huy Nguyên: Bên rìa hầm trú ẩn Em chơi ô ăn quan Sỏi màu đua nhau chạy Trên vòng ô con con. Sỏi nằm là giặc Mỹ Sỏi tiến là quân mình Đã hẹn cùng nhau thế... Tán bàng nghiêng bóng xanh... Trích bài thơ "Thời gian trắng" của Xuân Quỳnh: Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát Những đầu trần, chân đất, tóc râu ngô Quá khứ em đâu chỉ ngày xưa Mà ngay cả hôm nay thành quá khứ... Họa sỹ Nguyễn Phan Chánh có bức tranh lụa nổi tiếng Chơi Ô ăn quan (1931). 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 9, 2012 Chào chú Thiên Đồng! Đợt môn thi Đường lối của Đảng Cộng Sản VN vừa rồi, thầy cho bài tiểu luận để mọi người về làm. Cháu chọn đề tài " Các trò chơi dân gian Việt Nam" và có tham khảo các bài của chú post cũng như bài về trò lò cò xủn mà chú nghiên cứu có trích dẫn đàng hoàng. Và cháu mới biết điểm, cháu được 10 điểm chú ah. hahahaha hihihiihih vui quá chú ah ^^ Cũng nhờ các bài tham khảo và nội dung mang đậm bản chất văn hóa truyền thống Việt Nam của chú đó! Cháu cảm ơn chú nhiều nhe! Topic của chú rất bổ ích! Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 9, 2012 Chào chú Thiên Đồng! Đợt môn thi Đường lối của Đảng Cộng Sản VN vừa rồi, thầy cho bài tiểu luận để mọi người về làm. Cháu chọn đề tài " Các trò chơi dân gian Việt Nam" và có tham khảo các bài của chú post cũng như bài về trò lò cò xủn mà chú nghiên cứu có trích dẫn đàng hoàng. Và cháu mới biết điểm, cháu được 10 điểm chú ah. hahahaha hihihiihih vui quá chú ah ^^ Cũng nhờ các bài tham khảo và nội dung mang đậm bản chất văn hóa truyền thống Việt Nam của chú đó! Cháu cảm ơn chú nhiều nhe! Topic của chú rất bổ ích! Vậy thì thật là hay quá. Chúc mừng Requat. Mong sao văn hóa nước nhà được mọi người quan tâm và phát huy. Bác Hồ là nhà văn hóa lớn, ai đọc thơ Nhật ký trong tù và Minh triết Hồ Chí Minh thì sẽ thấy Lý học ẩn tàn một cách tự nhiên nhẹ nhàn và thâm sâu trong đó.Chúc Requat tinh tiến. Thiên Đồng 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 9, 2012 Sức hấp dẫn của trò chơi dân gian Ai đã sống quãng đời từ sáu, bảy, đến mười hai, mười ba tuổi, trên dải đất Việt Nam, từ Bắc vào Nam, chắc đều biết vài ba kiểu đáo. Ðáo là trò chơi của con trai. Con gái thì nhảy giây, đánh chuyền... Còn gì vui nhộn cho bằng một sân trường trong giờ ra chơi. Dưới bóng mát của cây bàng, cây sấu hay cây phượng, cây me, chỗ này một nhóm đánh đáo, chỗ kia một đám đá cầu, bắn bị Reo hò cứ như là mổ bò... Giờ chơi bao giờ cũng quá ngắn ngủi. Lũ trẻ còn tiếc rẻ ván đáo dở dang, hẹn nhau hôm sau tiếp tục. Nếu hôm sau là chủ nhật thì sao? " Eo ơi ! lâu thế thì làm sao đợi được? ". Phải hẹn tới nhà nhau mà " đánh " tiếp chứ. Trẻ con ham mê đánh đáo lắm... Chả cứ gì trẻ con, ngay cả người lớn cũng có nhiều người mê tơi vì đáo ! "Ðáo" là cái trò gì mà quyến rũ như vậy? Muốn biết là trò gì thì ta chỉ việc lật ... Mà thôi hãy khoan ... Chuyện chữ nghĩa lát nữa hãy bàn... Mời bạn đi xem đánh đáo kẻo muộn ((2). Huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, hàng năm tổ chức chơi "đáo đá" vào ngày mồng 6 tháng giêng, để chọn người làm chủ tế ở đình cho suốt năm. Những người được làng cử ra chơi phải hội đủ mấy điều kiện: trên 50 tuổi, đông con cháu, gia đình đạo đức, không tang chế. Tại sân đình, người ta đào một cái hào. Ðào xong, chính ông lí trưởng tự tay trồng hai cái cọc trong hào. Lúc chơi đáo, cứ hai cụ một ra chơi. Từ bờ hào, mỗi cụ được dùng sáu viên đá để ném vào cọc của mình. Cụ nào ném trúng giữa thân cọc, chỗ có dán tờ giấy điều là thắng cuộc, sẽ được làm chủ tế. Làng Lũng Ngoại, tỉnh Vĩnh Yên chơi "đáo hú", gần giống đáo đá. Người chơi vừa hú vừa ném viên đá sao cho trúng chân cọc. Mỗi người chỉ được ném một viên đá. Làng Vọng Nguyệt, tỉnh Bắc Ninh có tục tổ chức đánh "đáo lỗ" tại sân đình vào ngày mồng 4 tháng giêng. Tại mỗi đầu sân người ta đào 4 lỗ đủ rộng và sâu để có thể ném một viên gạch vào. Làng chọn 8 người có chức sắc ra chơi đáo. Những người này mặc bộ quần áo tế, chia làm hai phe, mỗi phe 4 người. Một hồi chiêng trống nổi lên báo hiệu bắt đầu trò chơi. Mỗi người cầm một viên gạch nhắm ném vào lỗ của đối phương. Ai ném trúng, được vào ngồi chiếu cỗ của làng. Ném không trúng thì phải lấy tà áo bọc viên gạch, đem đến bỏ vào lỗ. Bỏ rồi, đến trước bàn thờ thành hoàng làng khấn : "Con trót vụng về để thua ván đáo, vạn lạy ngài, xin ngài xá tội cho con". Nổi tiếng và bình dân nhất có lẽ là "đáo đĩa" được tổ chức tại Bắc Ninh và Bắc Giang. Người chơi đáo đứng ở vạch cấm, ném đồng tiền vào một chiếc đĩa đặt trong một cái mẹt. Nếu đồng tiền nằm trong đĩa thì người chơi (nhà con) thắng giải. Văng ra mẹt thì thua, người tổ chức (nhà cái) ăn đồng tiền ấy. Văng ra khỏi mẹt, rơi xuống đất thì hòa, người chơi được lấy lại đồng tiền. Ðáo đĩa khó hay dễ, tùy theo đĩa nhỏ hay lớn, vạch cấm xa hay gần. Giải thưởng có thể bằng tiền hay gói trà tàu, hoặc vuông nhiễu điều. Có nơi thay đổi cách chơi, biến đáo đĩa thành "đáo ô". Chiếc đĩa được thay bằng chiếc khay kẻ ô. Mỗi ô được sơn màu trắng hay đen để phân biệt ô được, ô thua. Người chơi đứng ở vạch cấm ném đồng tiền vào khay. Tiền nằm trong khay thì theo màu ô mà định được thua. Tiền văng ra ngoài khay thì hòa. Ðáo đĩa, đáo ô là hai trò chơi thường có ăn thua tiền bạc giữa nhà cái và nhà con. Nếu chỉ muốn mua vui, thử thời vận đầu năm, hay chỉ muốn khoe tài giữa bạn bè thì chơi "đáo cọc" của làng Lũng Ngoại, tỉnh Vĩnh Yên. Người ta trồng một cái cọc ở một mé sân đình. Ðầu cọc cắm cờ ngũ sắc, vừa đẹp vừa dễ thấy từ xa. Sáng mồng 3 Tết, ông tiên chỉ của làng làm lễ tại đình, rồi ra ném viên đá đầu tiên, khai mạc cuộc chơi. Người chơi đáo đứng ở vạch cấm, ném những viên đá tròn tới chân cọc. Viên đá của ai nằm gần chân cọc nhất thì người đó thắng cuộc. Trò chơi càng hào hứng, vui nhộn mỗi khi có ai nhắm đánh văng bật viên đá của người khác ra xa chân cọc! Chơi đáo tại hội làng là thú vui của người lớn, đúng hơn là của các ông. "Phép vua thua lệ làng". Lệ làng là như vậy ! Trẻ con chỉ được quyền chầu rìa, vỗ tay. Nghĩ cũng tức thật ! Chẳng lẽ con cháu cứ đứng nhìn cha ông vui chơi? Bỗng một ngày nào đó, trong đám trẻ nảy ra một bộ óc thông minh đầy sáng tạo, dám nghĩ rằng " Lệ làng phải hàng ... luật trẻ". Bộ óc này đã cả gan cải tiến, đổi mới những kiểu chơi của người lớn thành những trò tiêu khiển hoàn toàn của trẻ con: đó là những lối đánh đáo ngoạn mục và hào hứng. Phổ biến nhất phải kể hai món "đáo lỗ " và "đáo tường ". Ðáo lỗ chơi chỗ nào cũng được, bao nhiêu người chơi cũng được, trừ ... chơi một mình ! Chỉ cần khoét một cái lỗ dưới đất, to nhỏ, nông sâu tùy theo thỏa thuận giữa người chơi. Muốn dễ chơi thì khoét lỗ to và sâu nằm giữa bãi đất. Những tay lão luyện thì chỉ cần một lỗ vừa khít kích thước đồng cái, thường là đồng hai hào ngày xưa, xấp xỉ bằng đồng 1 euro (tiền của Cộng đồng Châu Âu). Ðể làm tăng thêm khó khăn, các bậc đàn anh thường chọn chỗ đất nghiêng, khoét lỗ gần một chướng ngại vật, cạnh một gốc cây, sát một mảnh chai chẳng hạn ! Cạnh lỗ kẻ một lằn mức. Cách lằn mức này độ hai, ba mét là vạch cấm. Ðáo lỗ có nhiều luật lệ, tùy theo giao ước giữa người chơi. Bắt đầu phải "đi cái" để định thứ tự chơi. Từ vạch cấm, ai thảy đồng cái gần lỗ nhất (trường hợp lí tưởng là ... bít kín lỗ), được chơi trước. Người chơi đứng ở vạch cấm thảy tiền đáo (tiền góp) lên quá lằn mức. Nếu có đồng nằm dưới lằn mức thì bị thua hoặc bị phạt, phải góp thêm tiền. Ðồng nào chạm hoặc rơi vào lỗ thì người khác được quyền đặt lại vào bất cứ vị trí nào. Trường hợp có nhiều đồng chồng dính lên nhau, người khác được tùy ý xếp lại thành đống lớn. Nếu người chơi đánh tan hết đống tiền thì thắng ván đáo, đánh tan một phần thì chỉ được những đồng đánh tan này. Ðây là lúc phải "bày binh bố trận " sao cho khéo, phải nghĩ ra những mẫu kiến trúc tân kì, đụng đến là văng tung toé, va chạm lung tung, người chơi sẽ bị phạt. Nếu không có tiền chồng dính nhau, thì người khác được chỉ định bất cứ đồng nào, người chơi phải đánh trúng đồng đó. Ðặc biệt là đồng nằm đụng lằn mức, đánh trúng nhưng vẫn còn phải nằm đụng lằn mức ! Lúc đánh, nếu chạm bất cứ đồng nào khác, ngoài những đồng được chỉ định, là bị phạt. Ðánh văng xuống dưới lằn mức hoặc chạm vào lỗ cũng bị phạt ! Lúc bắt đầu một ván đáo, mỗi đứa góp vài ba hào. Sau vài lần phạt, số tiền cứ tăng dần. Thỉnh thoảng có ván lên đến mấy đồng, bàn tay trẻ con cầm không hết, cả bọn phải đồng ý lấy bớt để ra ngoài ! Bắt đầu hồi hộp, gay cấn rồi đấy ! Có những cú đánh "thần sầu quỷ khốc ", đáng được ghi vào sách vở ! Có những ván "bất phân thắng bại ", cuối cùng đành phải hòa. Cao thủ gặp nhau mà lị ! Kẻ mới nhập môn làng đáo, còn e ngại đáo lỗ khó chơi, thường bắt đầu bằng "đáo điệu", còn gọi là "đáo thủ". Ðáo điệu dễ hơn đáo lỗ ở chỗ ... không có lỗ. Chỉ có lằn mức và vạch cấm. Giản dị hơn nữa thì chỉ khoét lỗ, không vạch lằn mức. Từ vạch cấm, thi nhau thảy đồng tiền vào lỗ. Trò chơi này có nơi cũng gọi là "đáo lỗ", có nơi chỉ gọi trống không là đáo để phân biệt với đáo lỗ có nhiều luật lệ kể ở trên. Tại các thành phố lớn, vỉa hè được tráng xi măng, nhiều lúc không tìm ra khoanh đất để khoét lỗ, đành phải vẽ một vòng tròn con con thay vàọ Cách chơi tuy không thay đổi nhưng trò chơi đã giảm mất đôi phần thú vị. Thảy đồng cái vào lỗ là cả một tích lũy kinh nghiệm, kết quả của luyện tập lâu ngày. Ðất mềm hay cứng, nhẵn hay mấp mô? tùy địa hình mà đưa ra lối chơi thích hợp. Thảy tiền trên nền xi măng thì còn gì là hứng thú, hấp dẫn ! Còn đâu cái khoảnh khắc hồi hộp nhìn đồng tiền lướt nhẹ trên mặt đất, từ từ bít kín lỗ đáo? Ðứa khó tính bĩu môi "Chán bỏ xừ". Thế là cả bọn nhao nhao "Ử, chán bỏ xừ, chơi đáo tường thích hơn". "Ðáo tường ", còn gọi là "đáo đập ", chỉ cần một lằn mức. Lúc chơi đập đồng tiền vào tường cho văng ra. Ðồng nào nằm gần lằn mức là hơn, vượt quá là thua. Ðứa thứ nhất được lấy đồng của mình chọi đồng của đứa thứ nhì. Chọi trúng thì được ăn đồng ấy và được chọi tiếp đồng của đứa thứ ba...Nếu chọi không trúng đồng nào thì đến lượt đứa có đồng ấy được chọi những đồng tiếp theo. Cứ lần lượt như vậy cho đến hết. Ðáo tường chơi mau chán vì có ít luật lệ. Nếu chán thì còn "đáo móc ", gần giống đáo tường, chỉ khác ở chỗ lúc đập đồng tiền vào tường, bắt buộc phải đập móc, nghĩa là phải vung tay theo chiều từ dưới lên trên. Ðồng tiền văng theo đường cầu vồng trước khi chạm mặt đất. Khó khăn lớn nhất của đáo tường, đáo móc là kiếm cho ra một bức tường để chơi mà không bị người lớn xua đuổi ! Nhiều khi không kiếm ra tường phải đập tạm vào cột, vào gốc câỵ "Cười gượng còn hơn mếu "! Sau một buổi đáo sôi nổi, bức tường được trang điểm lấm tấm, đẹp như mặt rỗ hoa ! Bọn trẻ không hiểu nổi tại sao các bậc cha mẹ lại không ưa, không thích, thậm chí còn ghét hai món đáo này? Thỉnh thoảng gặp cơn khó khăn, cả bọn trần như nhộng, không có đồng xu dính túi, hoặc bị mẹ cấm đánh bạc, chỉ còn nước rủ nhau giải trí lành mạnh, đánh đáo bằng một nắm xèng. Ðồng xèng là cái nắp bia bằng sắt được đập cho thành hình tròn bằng phẳng. Ðồng cái là một mảnh ngói hay một miếng gạch con con. Mấy đứa thua phải làm ngựa cõng đứa được, chạy nhong nhong quanh gốc cây, hay chạy rồng rắn lượn qua lượn lại một vòng. Ngô Quý Sơn gọi con ngựa của trẻ con này là "ngựa Bình Kho " (le cheval Bình Kho)(2). Nhưng ông không cắt nghĩa, không nói tại sao lại gọi như vậy? Ngô Quý Sơn đã treo lủng lẳng một cái dấu hỏi trước mặt mọi người. Ðã từng một thời mê đánh đáo, khoái chí quất ngựa nhong nhong bù lại những lúc phải cong lưng chở nặng chạy loanh quanh, tôi cứ bứt rứt, muốn tìm cho ra con ngựa Bình Kho này. Tôi tự đặt câu hỏi : Bình Kho là tên người, tên một giống ngựa, hay tên một nơi nuôi ngựa nổi tiếng? Tìm kiếm trong mấy bộ sách sử kí, địa lí, phong tục đang có thì không thấy tên Bình Kho. 2) Bình Kho là do đọc trại từ tên nào khác? Tôi tìm được ba tên phát âm gần giống Bình Kho : - Bình khấu, một chức quan đi dẹp quân làm loạn (Huỳnh Tịnh Của, Ðại Nam quốc âm tự vị). - Bình khung, một loại giường (Nguyên Hồng, Sóng gầm). - Bình Khang, nơi nổi tiếng nuôi "ngựa người " của ... người lớn (Nguyễn Du, Kiều). Trong ba tên, chỉ có "bình khấu " là tương đối sát nghĩa. "Ngựa bình khấu " có thể tạm hiểu là ngựa của ông quan có nhiệm vụ đi dẹp loạn. Hình ảnh ông quan cưỡi ngựa, có lính đi hầu, rất thích hợp với trò chơi của trẻ con. Mặc dù thuở nhỏ chúng tôi chỉ biết con ngựa : Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Ðề cho ngựa ông ăn. Thật là may ! Phải reo lên là thích quá, sướng quá, gần đây tôi đã tìm ra tông tích con ngựa Bình Kho, trong bộ tranh dân gian Oger. Tấm tranh vẽ trẻ con làm ngựa chơi đùa. Tên tranh được viết là "Làm ngựa Bình Vu" (hai chữ Bình Vu tôi tạm đọc theo chữ hán). Vậy Bình Vu là gì? a) Tên Bình Vu cũng như Bình Kho, không có trong sách. B) Chữ Bình có thể đọc ra tiếng nôm thành Bằng. Nếu vậy, phải trả lời câu hỏi: trẻ con làm ngựa bằng...gì? Chỉ có thể bằng vai, bằng tay, bằng lưng, hay bằng kiệu. Mấy chữ nôm vai, tay, lưng, kiệu viết hoàn toàn khác chữ vu trong tranh. c) Chúng ta thử tra nghĩa của hai chữ bình vu. - Chữ bình , nghĩa là bằng phẳng, yên ổn. Chữ bình có rất nhiều chữ đồng âm. Ngoài những chữ bình được ghi trong cả hai cuốn Hán Việt từ điển của Ðào Duy Anh (3) và Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (4), cuốn Thiều Chửu còn có thêm một chữ bình mà cuốn Ðào Duy Anh không có. Ðó là chữ bình (bộ nhân) , nghĩa là sai khiến, bắt làm một việc gì. - Chữ vu (cũng đọc là hu, Thiều Chửu), nghĩa là quanh cọ Chữ này có đánh dấu cá, báo hiệu là không được đọc theo tiếng hán. Bình vu đọc theo nghĩa, có thể là : - Bằng phẳng, quanh co. Tên tranh trở thành " làm ngựa chạy quanh co trên một mặt phẳng" (sân, vỉa hè). Rất đúng với hình học không gian! Nhưng đặt trong bối cảnh bộ tranh dân gian, tả một trò chơi của trẻ con, tôi nghĩ rằng nghệ sĩ bình dân không giàu tưởng tượng, cầu kì đến mức đó! - Sai khiến, quanh co. Tên tranh bây giờ có nghĩa là "làm ngựa (bị sai khiến) chạy quanh co". Ðúng là con ngựa nhong nhong thân yêu của chúng tôị Ðứa được bắt đứa thua cõng chạy một vòng. Nhóc nào đã chơi đáo giải trí hẳn đều biết con ngựa này. Theo tôi, chữ bình trong tranh viết thiếu bộ nhân, thiếu cả dấu cá để lưu ý người đọc! Tại sao Ngô Quý Sơn lại đọc chữ vu thành chữ kho? Tôi phỏng đoán có thể Ngô Quý Sơn nhầm chữ vu của tranh với chữ vu nghĩa là khoai(bộ thảo), rồi đọc âm khoai thành kho. Trở lại chuyện đáo. Ðáo có từ thời nào? Không ai trả lời đích xác được. Nhưng chắc chắn là đáo đã xuất hiện từ lâu, được chơi trong lễ hội cổ truyền của nhiều làng quê miền Bắc. Có giả thuyết cho rằng "đáo hú" của làng Lũng Ngoại được tổ chức để tưởng nhớ bà Lê Ngọc Trinh, một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người đã bày ra trò chơi trong khi luyện tập binh sĩ (. Tên đáo từ đâu mà ra? Rất có thể là từ chữ đáo của tiếng hán, nghĩa là đến, đến nơi đến chốn. Chơi đáo chính là ném một vật gì đến cái đích. Ðịnh nghĩa của đáo là gì? Chúng ta lật tự điển : - Ðáo : cuộc chơi, đào lỗ dưới đất, đứng xa xa mà thảy vật gì nhằm lỗ (Huỳnh Tịnh Của) (5). - Ðáo : Jeu d'enfants consistant à lancer une sapèque contre un but (Gustave Hue) (6). - Ðáo : Trò chơi của trẻ em, ném đồng tiền hoặc vật tương tự vào một cái đích (Hoàng Phê) (7). Ðịnh nghĩa của Hoàng Phê gần giống định nghĩa của Gustave Huẹ Cả ba định nghĩa trên đều còn thiếu sót. Huỳnh Tịnh Của chỉ nói đến đáo lỗ. Gustave Hue và Hoàng Phê lại bỏ quên mất ... người lớn. Vâng, chính người lớn, các ông lớn ở làng, đã bày ra trò chơi đáo trước trẻ con. Văn Tân (8) định nghĩa một cách tổng quát hơn : - Ðáo : Trò chơi quăng đồng tiền hay một vật gì vào một cái đích. Non nửa thế kỷ rồi mà đôi lúc còn bùi ngùi mường tượng đến cái đám tí nhau, được người đời liệt vào hàng thứ ba, sau quỷ và ma ... Ðứa còn đứa mất. Ðứa lên ông, đứa xuống thằng. Phiêu bạt nơi đất Mỹ, trời Tây hay vẫn ngày ngày đi về mấy con đường năm xưa. Gặp lại, chắc chắn mấy mái tóc hoa râm chẳng ai nhận ra ai. Nhưng nếu gợi lại những buổi trưa hè, đánh đáo vã mồ hôi, thì có lẽ tất cả sẽ cười ồ lên, ôm chầm lấy nhau ! (- Phan Thanh Hiền và một nhóm :Trò chơi dân gian Việt Nam NXB TP Hồ Chí Minh, 1990. (2)- Ngô Quý Sơn : Jeux d'enfants du Vietnam Sudestasie, Paris, 1985 (in lại). (3)- Ðào Duy Anh : Hán Việt từ điển NXB Trường Thi, Sài Gòn, 1957. (4)- Thiều Chửu : Hán Việt tự điển NXB TP Hồ Chí Minh, 1993. (5)- Huỳnh Tịnh Của : Ðại Nam quốc âm tự vị NXB Rey, Saigon, 1895. (6)- Gustave Hue : Tự điển Việt-Hoa-Pháp NXB Trung Hòa, 1937. (7)- Hoàng Phê và một nhóm : Từ điển tiếng Việt NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988. (8)- Văn Tân và một nhóm : Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. La Giang 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 9, 2012 Mancala châu Phi Một bàn chơi Mancala châu Phi Loại trò chơi Mancala phổ biến ở châu Phi và cũng được biết đến ở nhiều nơi khác trên thế giới với những biến thể, tên gọi (theo cách gọi của người phương Tây) khác nhau như Kalah, Oware, Ơmweso, Bao,...[3]Mancala khác Ô ăn quan ở một số điểm chính sau: Bàn chơi thường có 12 ô (hay được khoét thành những lỗ), mỗi người chơi kiểm soát 6 ô gọi là nhà, ngoài ra có thể có 2 ô lớn hơn gọi là kho. Kho có thể chỉ được dùng để chứa hạt giống đã bị người chơi ăn chứ không phải để đặt quân vào trong lượt đi do đó không nhất thiết phải có. Trong một số biến thể, bàn chơi có 24 ô, chia làm 4 hàng 6 ô, mỗi người chơi kiểm soát hai hàng, tổng cộng 12 ô ở phía bên mình. Không có quân tương tự như quan mà chỉ có một loại quân gọi là hạt giống. Số lượng hạt giống ở mỗi ô khi chuẩn bị chơi có thể là 3 hoặc 4. Khi đến lượt, người chơi cũng dùng những quân ở ô bất kỳ thuộc quyền kiểm soát của mình để di chuyển (gieo hạt) nhưng chỉ di chuyển ngược chiều kim đồng hồ chứ không phải theo chiều tuỳ ý. Thể thức ăn quân không phải yêu cầu cách một ô trống mà phụ thuộc số lượng hạt giống ở các ô mà những hạt giống cuối cùng trong lần gieo hạt đặt vào. Mancala ở các nước châu Á khác Cũng được người phương Tây xếp vào loại Mancala là trò chơi có những tên gọi khác nhau tuỳ từng quốc gia như Congklak, Tchonka, Naranj, Dakon, Sungka. Trò này được chơi ở Indonesia, Singapore, Malaysia, Philippines, miền Nam Thái Lan, Sri Lanka, Maldives...[4] Nó khác Ô ăn quan ở những điểm chính dưới đây: Bàn chơi có 14 ô, mỗi người chơi kiểm soát 7 ô ở phía bên mình, không có ô như ô quan. Không có quân tương tự như quan mà chỉ có 98 quân khi chuẩn bị đặt ở mỗi ô 7 quân. Khi đến lượt, người chơi cũng dùng những quân ở ô bất kỳ thuộc quyền kiểm soát của mình để rải vào từng ô, mỗi ô 1 quân nhưng chỉ di chuyển theo chiều kim đồng hồ chứ không phải theo chiều tuỳ ý. Thể thức ăn quân: nếu quân cuối cùng trong lượt rải rơi vào ô trống thuộc quyền kiểm soát của mình thì người đi mới có thể ăn được quân. Ô bị ăn là ô đối diện phía đối phương, người chơi được ăn tất cả số quân đang có trong ô đó, đương nhiên nếu là ô trống thì số lượng quân ăn được là 0. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 5 Tháng 9, 2012 Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại Chương I - 2 Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn AnhNguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương - NXB Văn hóa thông tin Bởi vì, khi một đất nước bị chinh phục với âm mưu đồng hóa, thì việc đầu tiên của kẻ xâm lược là xóa sổ tất cả giá trị văn hóa chính thống của nền văn minh bị xâm lược. Đối tượng chính của sự xóa sổ đó là tri thức văn hóa có trong sách vở và con người. Do đó, các học giả còn sống sót của Văn Lang không thể công khai phổ biến tri kiến của mình. Họ phải bảo vệ hệ thống tư tưởng chính thống của văn minh Văn Lang dưới một hình thức khác. Đó là: tục ngữ, ca dao, cổ tích thần thoại… dưới dạng mật ngữ, truyền miệng đời này qua đời hác.Trăm năm bia đá thì mònNgàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Như phần trên đã trích dẫn lời của học giả Thiệu Vĩ Hoa trong uốn Chu Dịch và dự đoán học đã đặt vấn đề:Giới Dịch học cho rằng sự ra đời của học thuyết Ngũ hành rất có khả năng đồng thời với học thuyết Âm Dương. Sự thật đúng như vậy! Nhưng sở dĩ qua hơn 2000 năm tính từ thời Hán cho đến những năm đầu của thế kỷ 21 này, các nhà Lý học Trung Hoa vẫn chưa tìm được bản chất sự quan hệ thuyết Âm Dương Ngũ hành mà chỉ mới đặt vấn đề một cách dè dặt cho sự liên quan của nó; chính vì thuyết Âm Dương Ngũ hành chỉ được phát hiện một cách rời rạc qua những sách vở còn sót lại của một nền văn minh bị hủy diệt, nên đã tạo ra những khoảng trống không lý giải được. Đối với nền văn minh Văn Lang – cội nguồn và là nền tảng cho một nền văn hiến gần 5000 của Việt Nam – thì sự thống nhất và liên hệ đồng thời của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được thể hiện trong chiếc bánh chưng, bánh dầy. Bởi vì, khi Ngũ hành giải thích sự vận động của tự nhiên, xã hội và con người, không phải tự nhiên sinh ra mà phải có bản nguyên của nó. Do đó, Thái Cực theo vũ trụ quan của tổ tiên người Việt được truyền lại với câu tục ngữ: “Mẹ tròn, con vuông” thì lý của Thái Cực phải hiểu là:Bản nguyên của vũ trụ có tính thuần khiết, tràn đầy, viên mãn. Do thuần khiết nên không thể coi cấu tạo thể bản nguyên gồm những cái cực nhỏ và cũng không thể là một cái cực lớn; trong đó không có cái “Có” để nói đến cái “Không”. Tượng của Thái Cực do tính viên mãn nên là hình tròn. Tính của Thái Cực chí tịnh. Bởi chí tịnh nên động. Có tịnh, có động đối đãi sinh Âm Dương. Cái “Có”, Động (Âm) ra đời đối đãi với cái “Không” bản nguyên. Tính của Âm tụ, đục, giới hạn nên tượng của Âm hình vuông. Bởi vậy, ông cha ta đã truyền lại câu tục ngữ: “Mẹ tròn, con vuông” nhằm hướng dẫn việc lý giải về bản nguyên của vũ trụ. “Mẹ tròn” cái có trước và là Thái Cực – Trở thành Dương, khi sinh Âm – “Con vuông”, cái có sau. Với ý nghĩa của câu tục ngữ này và cách giải thích như trên, thì Dương cũng là Thái Cực (Mẹ tròn) vì có đối đãi nên có sự phân biệt Âm Dương. Hoàn toàn khác hẳn ý niệm Thái Cực sinh Lưỡng Nghi theo cách hiểu của các nhà Lý học cổ kim, khi họ cho rằng: Âm Dương tuy cũng có nguồn gốc của Thái Cực, nhưng không phải là Thái Cực.Cũng bởi quan niệm phân biệt giữa Thái Cực và Âm Dương, cho nên hầu hết các nhà Lý học thuộc văn minh Trung Hoa và sau này ở các nơi khác, cho rằng: tính của Âm là tĩnh và tính của Dương là động. Tức là hiểu sai về căn bản sự vận động của Âm Dương Ngũ hành. Nhưng theo cách lý giải của văn minh Văn Lang thì Âm động, do đó Ngũ hành thuộc Âm phải động. Nếu Âm tịnh thì không thể nói đến sự vận động của Ngũ hành. Điều này lý giải tượng của Ngũ hành nằm trong bánh chưng vuông thuộc Âm. Như vậy, quan điểm dựa trên cơ sở phân tích truyền thuyết về bánh chưng, bánh dầy mà di chứng còn truyền lại đến ngày nay cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành của tổ tiên người Việt đã phát minh và hoàn chỉnh có từ trước thời Hùng Vương thứ VI, thì hoàn toàn có thể biết được căn nguyên của sự hình thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và giải thích được tất cả những hiện tượng liên quan tới nó. Linh diệu thay! Mỗi khi năm hết tết đến, nhìn lên bàn thờ tổ tiên lại thấy chiếc bánh dầy tròn đầy một màu trắng thuần khiết, được đặt lên trên chiếc bánh chưng vuông với màu lá dong xanh mượt, buộc bằng bốn sợi lạc (lạt) hồng. Đó là tất cả ý nghĩa bản căn của nền lý học cổ Đông phương mà tổ tiên người Lạc Việt truyền cho con cháu qua hàng thiên niên kỷ, cho đến tận bây giờ.Để minh họa rõ hơn ý cho rằng Âm Dương - Ngũ hành là một học thuyết xuất hiện đồng thời mà các nhà Lý học Trung Hoa hiện đại đã đặt vấn đề hoài nghi và chưa thể giải quyết; ngoài phần minh chứng qua câu tục ngữ “Mẹ tròn, con vuông” và biểu tượng của nó là bánh Chưng, bánh Dầy, xin được trình bày một trò chơi trẻ em Việt Nam vẫn còn tương đối phổ biến, đó là trò chơi “Ô ăn Quan”.Đối với trẻ em Việt Nam trước thời văn minh phương Tây du nhập để có những trò chơi như: búp bê, bắn bi, hoặc các trò chơi như “Xút xanh”... thì “Ô ăn Quan” là một trò chơi hấp dẫn, truyền từ đời này qua đời khác cho đến tận bây giờ.Trò này được chơi như sau: Trên một hình vẽ gồm 10 ô vuông sắp thành hai hàng trong một hình chữ nhật. hai đầu hình chữ nhật có hai nửa vòng tròn. Có hai người chơi ngồi hai bên, đối xứng theo trục dọc của hình. Mỗi bên có 25 quân chia cho mỗi ô 5 quân. Mỗi nửa vòng tròn trong đó có một quan. Quân có thể là hạt nhãn hoặc hòn sỏi, quan có thể là hạt vải hoặc hòn sỏi to hơn.Đồ hình trò chơi Ô ăn Quan Cách chơi: lần lượt từng người chơi. Mỗi bên khi đi chỉ được phép bốc quân ở một trong năm ô phía bên mình và rải đều mỗi ô một quân theo một chiều nhất định (kể cả ô quan). Khi hết quân trên tay thì bốc tiếp ở ô kế đã rải quân cuối cùng và rải tiếp, cho đến khi ngưng trong những điều kiện sau đây: @ Ô rải quân cuối cùng sát ngay ô quan (nếu ô quan vẫn còn quân hoặc quan trong đó).@ Ô rải quân cuối cùng mà hai ô kế liên tiếp thuận chiều không có quân để bốc.@ Kế ô rải cuối cùng không có quân và ô kế đó có quân thì được lấy hết quân trong ô cách ô trống ra ngoài, kể cả đó là ô quan.Hai trường hợp trên gọi là “Chựng” và phải nhường cho người kia đi. Trường hợp cuối gọi là “Ăn” và sau đó cũng đến lượt người kia đi.Một điều đáng lưu ý ở trò chơi này là: mặc dù cả hai bên đều còn quân để đi, nhưng ô quan không còn quân (đã rải vào trong quá trình chơi) hoặc quan thì trò chơi vẫn bị ngưng lại. Người chơi hô: “Hết quan, toàn dân kéo về!”. Người nào ăn và còn nhiều quân nhất thì thắng.Theo cái nhìn của người viết thì hình ảnh và cách chơi “Ô ăn Quan” đã thể hiện sự liên quan chặt chẽ của Âm Dương Ngũ hành:@ Hai quan nằm trong ô tròn biểu tượng hình và tướng của Âm Dương.@ Mười ô vuông biểu tượng Ngũ hành (năm Âm Ngũ hành và năm Dương Ngũ hành). @ Sự vận động của năm quân trong ô biểu tượng cho sự vận động của Ngũ hành. Trong suốt quá trình chơi là thể hiện sự tiêu trưởng sinh khắc của Âm Dương Ngũ hành.@ Trong lúc chơi, khi không còn quân ở hai ô quan (tức là hông có Âm Dương) thì trò chơi bị ngưng. Nghĩa là: không có Âm Dương thì cũng không có sự vận động của Ngũ hành.Phải chăng, trò chơi này nếu không do sự ngẫu nhiên trùng hợp với nguyên lý của Âm Dương Ngũ hành, thì chính là do ông cha ta đã đặt ra để lưu truyền trong đời qua thế hệ mầm non một ý niệm về Âm Dương Ngũ hành và sự diễn biến, liên hệ chặt chẽ của nó: Âm Dương có trước, Ngũ hành có sau và là một hệ tư tưởng thống nhất hoàn chỉnh, với hy vọng sau này cùng với bánh Chưng, bánh Dầy sẽ chứng tỏ được nền văn minh kỳ vĩ của tổ tiên.Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một hệ thống Lý học hoàn chỉnh về vũ trụ quan của người Việt được phát triển và ứng dụng vào nhiều mặt của tự nhiên, xã hội và con người: trên xét thiên văn, dưới xem địa lý, làm lịch pháp, luận đoán cát hung, y lý Đông phương và ứng dụng vào cả việc cân bằng sự phát triển, ổn định xã hội (xin xem phần: “Cửu trù Hồng phạm - bản hiến pháp cổ nhất của người Lạc Việt”, ở phần sau).Đến thời Hùng Vương thứ VI, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được biểu tượng hóa một cách độc đáo trong chiếc bánh chưng, bánh dầy thể hiện Âm Dương hài hòa, Ngũ hành tương sinh. Sự ấn chứng của vua Hùng chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ hành là hệ thống tư tưởng vũ trụ quan chính thống của nền văn minh Văn Lang.Các học giả của thế giới hiện đại trên nhiều lãnh vực khoa học đã dày công nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành và đã phát hiện nhiều điểm tương đồng với khoa học hiện đại. Mặc dù họ chưa có một kết luận về tính khoa học của thuyết này, nhưng cũng chưa khám phá hết sự kỳ ảo của nó. Nhưng với phạm trù rộng lớn và qui mô ứng dụng trên khắp mọi lĩnh vực của học thuyết này, đã chứng tỏ:Thời Hùng Vương không thể chỉ tồn tại khoảng 300 năm và là một thời kỳ được coi là chưa văn minh lắm so với các quốc gia đương thời. Và cũng không thể kể từ khi bắt đầu hình thành xã hội Văn Lang cho đến khi chiếc bánh chưng, bánh dầy được tôn vinh vào thời Hùng Vương thứ VI mới khoảng 100 năm (tức khoảng 4 thế hệ, theo quan điểm mới) – mà một xã hội lạc hậu hoang sơ, có thể phát minh ra một học thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh cùng với sự ứng dụng rộng rãi của nó.Sự tồn tại và phát triển của một học thuyết vũ trụ quan cổ đại với qui mô to lớn là thuyết Âm Dương Ngũ hành trong một xã hội của người Lạc Việt, tổ tiên của người Việt Nam hiện nay. Học thuyết này có tham vọng lý giải từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi sự vận động của con người. Mặc dù những thăng trầm của lịch sử đã khiến nó bị thất truyền, nhưng sự vi diệu sâu sắc qua những gì còn lại của nó đã làm kinh ngạc tri thức con người hiện đại. Điều này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý là: Đã có một nhà nước với một tổ chức chặt chẽ của cộng đồng người Lạc Việt như truyền thuyết đã nói tới. Đó chính là nhà nước Văn Lang, dưới thời trị vì của các vua Hùng.“Chơi Ô ăn Quan”Bức danh họa của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh sáng tác năm 1931Thiếu nhi vẽ tranh về trò chơi Ô ăn quan 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 9, 2012 Chuyến tàu đưa em về tuổi thơ Bắn bi, ô mai giun, kẹo kéo, pháo tì tạch ngày Tết… là những thứ đã biến mất khỏi thì hiện tại. Những hình ảnh sau sẽ giúp mỗi bạn tìm lại được phần nào ký ức tuổi thơ của mình Ngày bé, tụi con trai tụm năm tụm bảy, chơi bắn bi ve ở sân nhà, góc vườn... Chỉ cần 200 đồng là mua nhòe bi luôn, tha hồ đem khoe lũ bạn. Không những chơi bi, các chàng còn thi nhau làm bộ sưu tập các viên bi đẹp và độc nữa. Bạn đã bao giờ chơi bi và thắc mắc tại sao người ta có thể nhét những cánh hoa bảy màu sặc sỡ và đẹp thế kia vào những viên bi trong suốt chưa? Một điều hết sức thú vị, những viên bi ve tròn vo này đã xuất hiện từ rất rất lâu đời. Viên bi cổ nhất được tìm thấy trong một ngôi mộ trẻ em tại Nagada, Ai Cập có niên đại khoảng 3.000 năm trước Công nguyên. Bảo tàng Anh cũng lưu giữ những viên bi được tìm thấy ở đảo Crete, Hy Lạp có niên đại từ 2.000 năm đến 1.700 năm trước Công nguyên. Còn thời La Mã cổ đại, đánh bi là trò chơi đã khá phổ biến, đặc biệt là trong lễ hội Saturnalia với tên gọi là "nuts". Những viên bi này chủ yếu được làm bằng đá và đất sét. Tụi con trai say bắn bi như điếu đổ thì tụi con gái cũng có thú vui riêng, rủ nhau chơi chuyền bên hiên nhà. Đây là trò chơi dân gian đòi hỏi khéo léo lắm đấy nhé, chỉ cần một quả bóng (hoặc quả cam) và 10 que tre vót tròn là hội con gái có thể ngồi chơi cả chiều không chán. Cách chơi là tung bóng lên không trung - nhặt que - bắt bóng sau khi bóng nảy một nhịp xuống đất hoặc bắt bóng trước khi bóng chạm đất. Khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván. Ai không nhanh tay hay nhanh mắt để bắt được bóng và que cùng một lúc sẽ bị mất lượt. Vui nhất là trong khi chơi, các bạn còn đọc làu làu câu đồng dao "Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện giăng tơ, quả mơ có hạt...". Nhảy ngựa cũng là một trò chơi vui khiến các teen nhà mình ngày xưa "kết nổ đĩa" và cho đến tận bây giờ, trò chơi này vẫn lác đác được teen thế hệ mới duy trì và chơi nhiệt tình. "Rồng rắn lên mây. Có cây lúc lắc. Có nhà điểm danh. Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...". Đọc đến đây, hẳn các anh chị 8x nhớ đến quay quắt một thời dầm nắng, nối đuôi nhau và cười phớ lớ chơi trò rồng rắn lên mây nhỉ. Đây là một trong những trò chơi dân gian bất hủ cùng với "chi chi chành chành", "nu na nu nống"... mà có lẽ không một bạn nào có thể quên được. Thế còn món ăn gì khiến teen thế hệ trước bồ kết nhỉ. Những buổi trưa hè nắng nóng, chỉ cần nghe thấy tiếng bác bán kem dạo "Ai kem đậu xanh, kem cốm, sữa dừa nào", cùng với tiếng còi bíp bíp nữa là dù có đang làm gì, trẻ con cũng túa ra, vây quanh thùng xốp đòi mua kem. Kem que ngày ấy rẻ hều à, chỉ 200 đồng một chiếc thôi, có 1000 đồng là có thể khao kem "cả làng" rồi ý chứ! ^^ Món ăn ưa thích của các bạn gái hồi xưa còn có kẹo kéo nữa. Kẹo kéo là món ăn vặt giá cực rẻ, thường được bán rong nên được học sinh tụi mình rất ưa thích. Kẹo kéo rất dẻo, dễ kéo dài nhưng khi đã tạo thành thanh nhỏ thì lại trở nên giòn. Thậm chí, người bán hàng còn để nguyên nồi kẹo vừa nấu (kẹo mạch nha) cực kỳ mềm dẻo, dùng 2 chiếc đũa lấy kẹo rồi đưa cho người mua tự kéo nữa cơ. Không thể không nhắc đến món ăn cực hot từng làm các teen nhà mình điên đảo một thời, đó là món ô mai giun hay còn gọi là ô mai Thái, được bọc trong túi đỏ in hình hoa mai vàng. Thời ấy, có lẽ chẳng ai trải qua những ngày thơ ấu mà không măm măm ô mai giun đâu. Tuối thơ chúng mình ngày trước còn gắn với món sữa chua túi chỉ 500 đồng một gói được bày bán trước cổng trường mầm non và cấp 1, ăn xả láng luôn. Sau đó, giá cả tăng cao, món ăn yêu thích này tăng lên 1.000 đồng, 1.500 đồng, rồi 2.000 đồng và hiện tại là 3.000 đồng nhé. Giờ hiếm lắm mới tìm được nơi bán sữa chua túi để mà gặm, mà nhấm nháp như ngày xưa, các ấy nhỉ. Có ai nhận ra chị Bống Hồng Nhung đứng ngoài cùng bên phải đang véo von hát trong chương trình Những bông hoa nhỏ không nào? :P 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 6 Tháng 9, 2012 Trước 1995, cứ đến dịp Tết là tụi mình được chơi pháo, nghe tiếng pháo nổ đì đùng, thật vui tai, báo hiệu một năm mới rộn ràng đã đến. Cái cảm giác tiếng pháo nổ trong đêm giao thừa, xua tan những điều không may trong năm cũ để đón một năm mới với nhiều may mắn hơn, thật là thiêng liêng và xúc động. Nhưng từ khi Việt Nam mình cấm đốt pháo vì những hậu quả của nó mang lại, hẳn nhiều bạn thấy buồn và hụt hẫng hẳn. :( Nếu được sinh sớm hơn một chút, chúng mình còn có thể rủ nhau đi bắt dế ở triền đê nữa cơ. Rồi còn thi nhau ăn hồng bì và nhãn để dành hạt chơi ô ăn quan nữa chứ. Bịt mắt bắt dê thật dễ thương! Ngày nay, trò chơi này vẫn được teen nhà ta chơi đều trong mỗi lần sinh hoạt tập thể các ấy nhỉ! Bổ quay nè. Trông thế thôi chứ chẳng đơn giản đâu nhé. Cái khó là phải bổ làm sao để con quay của mình quay tít và lâu hơn hẳn con quay của đối phương cơ. Nhưng trò này cũng tiềm ẩn nguy hiểm nếu không may bổ trúng vào người khác. Trong khi con trai mê tít món bổ quay thì con gái thích thú phô diễn kỹ thuật nhảy dây siêu đẳng. Từ bàn bụng trở lên là có thể đèo nhau được rồi đấy. Ngoài nhảy dây ra, còn một trò chơi khiến nhiều teen mê mệt, đấy là trò song phi các teen ạ. Nhảy lò cò nữa này. Ném lon ném lon đi! ^^ Vỏ lon coca ngày xưa uống xong toàn được để dành, phòng có lúc mang ra chơi ném lon ý. Lon được đặt cố định ở một vị trí, rồi oẳn tù tỳ, ai thua phải đứng canh lon, còn các bạn khác đứng tại vạch rồi cầm dép ném. Bạn nào ném không đổ lon là bị bắt làm "con tin" luôn, chờ các bạn ném giỏi giải cứu. :P Hồi còn đi học nhà trẻ, mẫu giáo, các ấy đã gặt được bao nhiêu phiếu bé ngoan rùi? Thậm chí ngày ấy, chúng mình ai cũng thuộc làu làu câu hát: "Thứ hai là ngày đầu tuần, bé hứa cố gắng chăm ngoan, thứ hai thứ ba thứ tư, ngày nào cũng luôn cố gắng, thứ sáu rồi đến thứ bảy, cô cho phát phiếu bé ngoan, chủ nhật cả nhà đều vui vì bé ngoan nhất nhà". Cho dù ngày nay, hàng triệu teen có mê mẩn Angry bird, Đế chế hay hàng nghìn những trò chơi điện tử với công nghệ hiện đại khác thì có một điều không thể phủ nhận rằng, hiếm có bạn nào lại không bị đốn tim với chiếc máy điện tử Brick Game màn hình đen trắng một thời. Ngày ấy, có cảm giác nhà nhà, người người mê mẩn ngồi chơi xếp gạch vậy. Brick Game như một phát nổ thành công đầu tiên trong thế giới trò chơi điện tử, để rồi sau đó, điện tử 4 nút - sản phẩm "huyền thoại" của hãng Nintendo, Nhật Bản xuất xưởng, cùng theo đó là trò bắn xe tăng, bắn ruồi, Contra, đặt mìn... và kinh điển nhất là Super Mario Bros (Trò hái nấm) phát hành năm 1985. Đó là thời kỳ mà hiếm có đứa trẻ nào có thể bỏ qua Mario, cũng giống như bây giờ hiếm nhóc tỳ nào lại không đọc truyện Doreamon vậy. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 9, 2012 Chùm ảnh trò chơi dân gian Bắn bi Bịt mắt bắt dê Thổi bong bóng Chơi chuyền Chong chóng Đánh khăng Kéo co Lò cò Ném còn Nhảy dây Nhảy ngựa Rước đèn Thả diều ... Bắn bi Bịt mắt bắt dê Thổi bong bóng Chơi chuyền Chong chóng Đánh khăng Kéo co Lò cò Ném còn Nhảy dây Nhảy ngựa Rước đèn Thả diều DDL Sưu tầm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 9, 2012 Chọi trâu Nét đẹp văn hóa vùng đất biểnNước ta nhiều nơi có tục chọi gà. Nhưng chọi trâu thì chỉ độc nhất vô nhị có ở Đồ Sơn. Dù ai buôn đâu bán đâuMồng chín tháng tám chọi trâu thì vềDù ai buôn bán trăm nghề Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu. Hội chọi trâu có từ bao giờ, tới nay chưa có lời giải chuẩn xác. Có người cho rằng thế kỉ XVIII, khi Nguyễn Hữu Cầu dấy binh, lấy Đồ Sơn làm căn cứ chống lại chúa Trịnh, để khích lệ quân sĩ, đã nghĩ ra tục chọi trâu. Nhưng trong cuốn Lịch sử người Thăng Long, Hà Ân lại viết: “... Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đến xem hội chọi trâu ở Đồ Sơn, gặp Kỳ Vĩ là người đã cứu Nhượng Vương khỏi nạn cướp, mới kết nghĩa huynh đệ... “. Vậy theo sách này, chí ít tục chọi trâu Đồ Sơn đã có từ đời Trần. Các cụ già ở Đồ Sơn thì khẳng định rằng tục chọi trâu có lâu lắm rồi, từ thời những người tứ xứ về đây khai phá, sinh cơ lập nghiệp.Khi đến vùng đất mới, người ta muốn có một vị thần bảo trợ. Với người Đồ Sơn sơ khai, vị thần hoàng làng đó là Điềm Tước Đại Vương. Theo sách Đồng Khánh địa dư chí lược, biên soạn từ thời nhà Nguyễn thì dân Đồ Sơn cho rằng vị thần hoàng làng của mình rất thích xem trâu chọi nhau. Lai có truyên thuyết cho rằng khi thần xuất hiện thường có hai áng mây giống hình hai con trâu húc nhau. Cũng có sách giải thích, mỗi khi thần giáng hạ, đều có hai con trâu chọi nhau. Vì vậy để đẹp lòng thần, cứ vào ngày mồng chín tháng tám hàng năm, người Đồ Sơn lại tổ chức lễ tế và bày trò chọi trâu để vui lòng thần. Song, cũng còn có cách giải thích khác nữa: biển Đồ Sơn thường bị thủy quái quấy nhiễu. Để được yên, dân làng lập đàn cúng bái cầu thần làng giúp đỡ. Hôm sau thủy quái đầu rồng, mình trâu rất lớn bị chết nổi lên; ở cổ có một dấu chân chim. Dân làng cho rằng thần làng đã giúp dân diệt họa, mới mua trâu về mổ nhằm lễ tạ. Những con trâu lạ từ các nơi về, tự dưng chọi nhau. Từ đấy mỗi năm, mỗi khi mổ trâu tạ thần, người ta lại cho trâu chọi nhau, dần dà thành tập tục, thành lễ hội. Nhưng cũng có người nói, do thủy quái đầu rồng, mình trâu nên sau này người Đồ Sơn mới cho trâu chọi nhau, bắt chúng “ đền tội “ cho tổ tiên đã sát hại dân lành. Cũng bởi thế mà trâu chọi sau đó đều bị giết, kể cả con thắng lẫn con thua để tế thần... Như vậy, tục chọi trâu xuất hiện trên cơ sở huyền thoại, cũng có thể tục chọi trâu có trước, sau đó xuất hiện huyền thoại để giải thích.Đồ Sơn không phải là vùng đất nông nghiệp. Cư dân sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản, trồng lúa nước chỉ là nghề phụ; vậy tại sao có tục chọi trâu? Đây không hẳn là điều dễ lý giải. Song dù thế nào, chọi trâu là một mỹ tục hào hùng mang tính thượng võ và rất độc đáo. Đầu tháng tám, khi lúa ở đồng đang vào thì con gái, ngư dân cũng vừa kết thúc vụ xăm, người ta bắt đầu chọi trâu. Hội kéo dài từ mồng 1 đến 15 tháng tám. Song chỉ có một ngày, ngày mồng 9 là diễn ra chọi trâu.Để có ngày hội náo nức đó, người Đồ Sơn phải chuẩn bị trong vòng tám tháng. Việc tìm mua trâu và nuôi dưỡng trâu chọi là điều quan trọng bậc nhất. Sau tết âm lịch, người các giáp tự nguyện góp tiền và cử người có kinh nghiệm đi các nơi để tìm mua. Trước khi đi, giáp nào cũng làm lễ tế thần, cầu mong mua được trâu tốt. Người được dân làng ủy nhiệm có khi lặn lội hàng tháng trời vào tận Nghệ An, Thanh Hóa, ra Ninh Bình, Nam Định, có khi ngược lên Tuyên Quang, Bắc Cạn, rồi lộn về Hải Dương, Quảng Ninh.v..v...mới chọn được trâu vừa ý. Kinh nghiệm nhiều đời cho hay, ở chợ Gồi (Nam Định); ở chợ Thủy Tú, Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải Phòng) ; ở chợ Thanh Hà (Hải Dương) thường có trâu hay, dễ đoạt giải! Chọn trâu là một công việc cầu kì và tỉ mỉ. Những con trâu đủ tiêu chuẩn là những con đực khỏe mạnh, sừng cánh cung, ức rộng, cổ tròn, dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, vẫn gọi là trâu cổ cò. Lưng trâu dày, càng phẳng càng tốt. Lưng con nào để được bát nước đầy lên đó không đổ là quý. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu. Trong những đặc điểm đó thì đặc điểm trâu cổ cò là quan trọng nhất vì trâu cổ cò có ưu điểm là cúi xuống không biết mỏi. Tránh nhất là trâu cổ vại. Sừng trâu phải đen như mun, vểnh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm lông hình chóp, trên đỉnh đầu là xoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay. Răng trâu cũng rất đáng lưu ý. Răng phải đều không sứt mẻ. Dân Đồ Sơn thích những con trâu trên thân có bốn hoặc hai xoáy giao nhau, chân ngắn, mập, đầu gối có lông, giống trâu rừng.Việc mua trâu đã khó nhưng huấn luyện trâu càng khó hơn. Đàn bà con gái khồng được cho trâu ăn. Những người được dân làng cử ra chăm sóc là người già có kinh nghiệm. Họ coi đây là một nhiệm vụ, một vinh dự. Trâu được nuôi ở chuồng riêng, kín đáo, không cho thấy trâu nhà. Mục đích là để khôi phục bản năng hoang dã. Giáp ngày thi đấu, khẩu phần ăn được tăng cường. Ngoài cỏ non còn có thêm một lượng cám nhất định. Trâu được huấn luyện ở các giáp. Sới tập chọi là bãi đất rộng. Người ta cố tình đứng kín xung quanh, gõ chiêng trống và hò hét, mục đích là để trâu quen với không khí ngày hội. Phải là những người dư kinh nghiệm mới huấn luyện được cho trâu có những miếng đánh hay. Qua huấn luyện người ta phát hiện sở trường của trâu mà vót sừng theo kiểu mũi đinh hay mũi khế.Trước đây, ngày rằm tháng năm bắt đầu đấu loại vòng thứ nhất. Ngày tám tháng sáu đấu loại vòng hai. Đến ngày hội (mồng 9 tháng 8),dân Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương và nhiều nơi nô nức đổ về Đồ Sơn. Thời Pháp thuộc, những tên Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ, Công sứ các tỉnh đều đưa vợ con xuống. Ngoài xem chọi trâu, người ta mở sòng bạc để sát phạt nhau. Rồi cá cược. Không ít kẻ mất gia sản ruộng vườn.Trâu chọi được gọi là ông trâu. Trâu nào đoạt giải được tôn lên hàm cụ: cụt trâu. Xưa kia, sới chọi là sân đình Công (chỗ trường phổ thông trung học Đồ Sơn ngày nay).Mở đầu hội chọi là lễ tế thần Điểm Tước. Từ chiều 29 tháng 7, nhân dân rước bát nhang từ đền Nghè, nơi thờ thần Điểm Tước, tới đình Công để thờ. Thờ suốt trong 15 ngày hội. Cũng thời gian ấy, các đình làng đều thắp hương nhằm cầu mong cho trâu làng mình đoạt giải cao. Mỗi giáp góp một trâu, một lợn, một thúng thóc nếp để làm lễ. Đến ngày hội chính, trâu thi đấu đi đầu trong lễ rước nhằm trình diện thần. Mình trâu được kết hoa và trùm nhiễu điều. Đi sau trâu là 12 chàng trai y phục mầu đỏ, kế đó là đội nhạc và dân làng. Xong lễ tế, trâu và người cùng đi ra sới.Gần đây thủ tục trước khi chọi có bị giảm bớt, nhưng không vì vậy mà lượng người xem ít đi. Quanh sân vận động người tứ xứ đông nghịt vòng trong vòng ngoài.Sau hồi trống mở màn, từ hai phía đấu trường các chàng trai y phục mầu đỏ tiến vào, thực hiện nghi thức múa cờ.Mỗi trận đấu đượcc gọi là “ kháp”.Tiếng loa vừa dứt, chủ trâu y phục mầu đỏ dẫn trâu vào sới. Khi cách nhau 20 mét, hai đối thủ được bỏ “sẹo”. Đấu trường lặng phắc. Bất thần hai trâu lao vào nhau. Cuộc tỉ thí diễn ra giữa tiếng reo hò vang dậy của hàng vạn khán giả. Có “kháp” chỉ năm phút, sự thắng thua diễn ra rất nhanh. Song có trận xẩy ra hàng giờ, vẫn không phân thắng bại. Không khí sới chọi hết sức sôi động. Người ta cổ vũ, người ta vỗ tay reo hò và người ta nín thở.Cuối trận đấu là màn thu trâu. Màn thu trâu diễn ra rất hùng tráng, rất thượng võ và tính nghệ thuật cao. Khi trâu thua bỏ chạy, trâu thắng hăng máu đuổi theo. Để trâu không xông vào đám đông khán giả, người bắt trâu phải tìm cách giữ cho được trâu thắng trận dừng lại. Đây là hành động rất dũng cảm. Vì hai trâu chỉ cách nhau vài mét, lại đang hăng, không có kinh nghiệm sẽ hết sức nguy hiểm. Trong trận đấu năm 1973, khi trâu thắng đang lao đuổi trâu thua, cả hai chạy với vận tốc rất nhanh thì ông Nguyễn Văn Ghé lúc ấy 64 tuổi xuất hiện. Với y phục đỏ rực trên người, tay trái nắm lấy sừng trâu, tay phải và vai độn dưới cổ trâu, ông khiến con trâu đang chạy phải dừng lại, hai chân trước giơ lên chới với trên không. Rất thuần thục, ông luồn nhanh dây thừng vào mũi nó. Con trâu hung dữ, hai mắt đỏ nọc chợt trở nên ngoan ngoãn để ông ghé dắt đi. Cảnh tượng ngoạn mục có một không hai đó khi được phát trên đài truyền hình Nhật Bản đã làm sửng sốt hàng triệu khán giả màn ảnh nhỏ nước Phù Tang. Người ta cho rằng chọi trâu ở Đồ Sơn Việt Nam thể hiện rất rõ tính thượng võ, sự hào hùng, lòng dũng cảm và hấp dẫn hơn cả đấu bò tót ở Tây Ban Nha. Tuy nhiên, mọi sự so sánh chỉ là ... so sánh.Làng có trâu thắng được rước bát nhang thờ thần Điểm Tước ở đền Nghè về đình làng mình. Song cũng chỉ được thờ từ mồng 10 đến 15 tháng tám. Ngày mồng 10 là ngày các làng mổ trâu cúng thần. Ngày 16 là ngày mao huyết (bát tiết) được đổ xuống ao làng để “tống thần”, sau đó rước bát nhang trở lại đền Nghè. Bát nhang được đặt trên kiệu sơn son thếp vàng trong sự thành kính, ngưỡng vọng của dân Đồ Sơn.Những năm gần đây, năm nào Đồ Sơn cũng tổ chức chọi trâu, số trâu tham gia cũng đông hơn, cũng như số người đến xem ngày càng đông đúc.Chọi trâu Đồ Sơn từ lâu trở thành một mỹ tục văn hóa, một lễ hội truyền thống ngày càng hấp dẫn ở vùng đất biển Đồ Sơn.Tại sao lễ hội chọi trâu là ngày mồng 9 tháng 8? Điều này vẫn là một ẩn số. Xin mời bạn đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn để nghiên cứu và tìm hiểu.ĐÌNH KÍNH Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 9, 2012 Trích sách tham khảo: Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam - Phần I - 6 Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn AnhNguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương - Nhà xuất bản văn hóa thông tin Chọi trâu Tranh dân gian Đông Hồ Nếu hiểu theo nghĩa trực tiếp và gần gũi là trâu của xã Đông và xã Tống chọi nhau. Với cách hiểu này thì hai cái bảng trên bức tranh và dòng chữ “Hội chí lầu” sẽ là chi tiết thừa. Người ta chỉ cần thể hiện lá cờ biểu tượng cho lễ hội và hai con trâu là đủ. Xã Đông và xã Đoài, thôn Thượng và thôn Hạ, tổng Bắc và tổng Nam cũng có thể đem trâu chọi thi vậy? Nhưng những chi tiết này sẽ không thừa một chút nào, nếu chúng ta đặt vấn đề về nội dung sâu xa của bức tranh này. Giá trị của hình ảnh hai tấm bảng và lá cờ chính là tính hướng dẫn để tìm hiểu nội dung đích thực của nó. Chính chữ “xã” trên bức tranh có bộ “thổ” nghĩa là “đất”; chữ “lầu” là nhà cửa; chữ “chí” trên lá cờ có nghĩa là sự cản trở, sự khó khăn phải vượt qua; chữ “hội” nghĩa là sự tập trung cho một vấn đề, mục đích…. Hình tượng con trâu – trong kinh Dịch là quái Khôn (tức Địa – đất), Thuyết quái viết: “Khôn vi địa,… vi tử mẫu NGƯU…”. Từ những ý nghĩa trên cho chúng ta một ý nghĩa gần gũi và liên hệ đến thuật Phong thủy Đông phương. Vì vậy, có thể hiểu rằng: hai tấm bảng và lá cờ trên muốn nói tới tính chất đối nghịch của Đông trạch và Tây trạch trong thuật Phong thủy (qua hình tượng hai con trâu chọi nhau). Theo quan niệm của thuật Phong thủy thì địa bàn chia làm tám hướng; trong đó có 4 hướng thuộc Đông trạch và 4 hướng thuộc Tây trạch. Tên gọi đủ của khái niệm này là: Đông tứ trạch và Tây tứ trạch. Nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đây thì bức tranh này về nội dung sẽ không hơn một cuốn sách dạy về thuật phong thủy Đông phương phổ biến trên khắp thế giới, những ai có tìm hiểu về thuật Phong thủy đều biết điều này. Trước khi trình bày nhận xét riêng của mình về nội dung sâu xa của bức tranh, bạn đọc xem hình dưới đây miêu tả đồ hình Hậu thiên Bát quái liên hệ với Lạc thư, diễn tả vị trí Đông tứ trạch và Tây tứ trạch theo quan niệm của thuật Phong thủy từ những bản văn cổ chữ Hán như sau: Qua hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy rằng:“Đông tứ trạch” – màu đỏ – theo cổ thư chữ Hán gồm: Hướng chính Bắc (Quái Khảm); hướng chính Đông (Quái Chấn); Hướng Đông Nam (Quái Tốn); hướng chính Nam (quái Ly). “Tây tứ trạch” – màu đen – theo cổ thư chữ Hán gồm: Hướng Tây Nam (quái Khôn), hướng chính Tây (quái Đoài); hướng Tây Bắc (quái Càn); hướng Đông Bắc (quái Cấn). Theo thuật Phong thủy năm sinh của mỗi người ứng với một cung trong Bát quái Hậu thiên và chia làm Đông & Tây tứ trạch. Hướng tốt của người Đông trạch là hướng xấu của người Tây trạch và ngược lại. Hay nói một cách khác: Đông trạch và Tây trạch đối chọi nhau. Bây giờ chúng ta xét đến bức tranh “Chọi Trâu” nói trên. Trên mình hai con trâu này tổng cộng 9 vòng xoắn, một con có 4 vòng xoắn, một con có 5 vòng xoắn. Đây chính là độ số của hành Kim trên Hà đồ (Độ số 4 và 9). Trên mình con trâu 5 vòng xoắn có chữ Sơn, tức là núi – tượng của quái Cấn – trong kinh Dịch. Như vậy, hai con trâu chọi nhau ngoài biểu tượng của sự xung khắc giữa Đông và Tây trạch, còn là sự đối xứng (đối chọi) của quái Tốn () và quái Cấn ( ). Hành Kim thuộc Dương, theo qui tắc Dương trừ (5), Âm cộng (5) đã trình bày trong mục tranh “Đàn Lợn”. Theo đồ hình trình bày ở trên từ cổ thư chữ Hán (Hậu thiên bát quái liên quan đến Lạc thư) thì quái Tốn – độ số 4 thuộc hành Kim trên Lạc Thư , nhưng quái Đoài – trong kinh Dịch cũng thuộc Kim – lại có độ số 7 trên Lạc thư. Nếu bây giờ ta đổi chỗ quái Tốn sang quái Khôn trong Hậu thiên Bát quái từ cổ thư chữ Hán, và đặt lên Hà đồ thì sẽ hoàn toàn thỏa mãn những yếu tố mà bức tranh “Chọi trâu” đề cập đến theo nhận xét của người viết. Bạn đọc xem đồ hình trình bày dưới đây: Hà đồ Hậu Thiên và Bát Quái nguyên thủy bổ xung Đông & Tây trạch Qua đồ hình trên, bạn đọc cũng thấy mọi yếu tố đã giải mã trong bức tranh “Chọi Trâu” đều thỏa mãn:@ Quái Tốn độ số 4 nằm ở hành Kim, vẫn thuộc Đông tứ trạch đối chọi với Tây tứ trạch là quái Đoài (thuộc Kim trong kinh Dịch) độ số 9. Đây là tổng độ số vòng xoắn trên mình hai con trâu. @ Quái Cấn (chữ sơn) thuộc Tây tứ trạch đối chọi (đối xứng) với quái Tốn thuộc Đông tứ trạch. Trong bức tranh này có một chi tiết cũng rất đáng lưu ý. Đó là tại sao hai con trâu lại chỉ có 3 cái sừng. Người viết xin được tạm trình bày ba cách giải thích sau đây: 1) Ba cái sừng tức là tam giác. Phải chăng, khi đổi chỗ hai quái Tốn và Khôn và kết hợp các quái điên đảo dịch sẽ tạo ra được 2 tam giác như sau: 2) Trong kinh Dịch – thuyết quái viết “ Khôn vi địa, vi mẫu, vi lận tường, vi quân, vi tử mẫu ngưu, vi đại dư, vi văn, vi chúng, vi nạp, kỳ dư địa dã, vi hắc”. Chữ “Ngưu” trong một số bản văn tiếng Việt dịch là “Bò”. Nhưng chữ “Ngưu” dịch ra tiếng Việt còn có nghĩa là “Trâu”. Như vậy, quái Khôn liên quan đến con trâu và ba cái sừng ở phía trên đầu hai con trâu, phải chăng là chỉ quái Chấn độ số 3 phải ở trên quái Khôn?3) Ba cái sừng là bố cục chặt chẽ nhất trong phần giữa của bức tranh. Nếu thêm cái sừng thứ tư vào sẽ bị thừa? Người viết tự nhận thấy cả ba nhận xét trên đều chưa rốt ráo, rất mong sự minh xét của các bậc trí giả quan tâm. Hiện nay còn có một dị bản của tranh “Chọi trâu” mà người viết sưu tầm và trình bày với bạn sau đây. Mặc dù về hình thức tương đối giống nhau, nhưng vì chỉ thể hiện đơn thuần một cảnh chọi trâu, cho nên bức tranh này không nói lên điều gì. Hiện tượng này cho thấy sự tam sao thất bản trải qua hàng thiên niên kỷ cho những di sản văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, với phong cách thể hiện gần giống nhau và không giống với phong cách thể hiện tranh dân gian hiện đại cũng cho thấy cả hai đã tồn tại từ thời rất xa xưa. Phụ lục Sự đối xứng của quái Cấn và Tốn trong bức tranh trên, còn phù hợp với hai câu đối lưu truyền trong dân gian Việt Nam (cả hai câu đối này đều ở trong truyện dân gian Việt Nam, không rõ tác giả) mà chắc nhiều người cũng biết. Đó là câu đối: 1) Lợn CẤN ăn cám TỐN & Chó KHÔN chớ cắn CÀN. 2) Chồng phương Đông, vợ phương Tây, hòa hợp cùng nhau, đừng lòng Nam Bắc & Trai phương CẤN, gái phương TỐN, chớ nên cãi lộn, trái đạo CÀN KHÔN. Nếu theo cổ thư chữ Hán thì các phương vị của câu đối thứ nhất theo Hậu thiên Bát quái sẽ sắp xếp như sau: Câu đối 1 Câu đối 2 Nếu theo phương vị đã hiệu chỉnh hai quái Tốn & Khôn thì phương vị của câu đối 1 sẽ sắp xếp như sau: Câu đối 2 theo Hậu thiên Bát quái nguyên thủy đã hiệu chỉnh vị trí hai quái Tốn & Khôn sắp xếp như sau: Như vậy, với sự hiệu chỉnh phương vị, câu đối sẽ rất hoàn chỉnh. Điều này chứng tỏ rằng: Sự thay đổi vị trí Tốn Khôn từ văn minh Lạc Việt, là một sự thay đổi hợp lý từ căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái, xuyên suốt cho đến tận những chi tiết trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Đây là một hiện tượng khẳng định nền văn minh Lạc Việt chính là cội nguồn văn hóa Đông phương. Chỉ có nền văn minh Lạc Việt và hậu duệ của nó là dân tộc Việt Nam hiện nay, mới có khả năng phục hồi lại một cách hoàn chỉnh một học thuyết lớn đã tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 9, 2012 Trò chơi dân gian: Thiên đường Địa ngụcĐây là TCDG mang tính chất diễn xướng và có hát đồng dao.Không gian chơi là một khoảng sân rộng; số lượng người chơi không giới hạn.Hai em trong nhóm tự đề cử mình làm quản trò. Hai em này cùng đi ra một chỗ khuất hay xa để bàn một chuyện bí mật không để cho những em khác biết. Sau đó, 2 em này đi ra, đứng đối diện, đan hai bàn tay vào nhau và dơ tay lên cao làm “cổng”.Những em còn lại nối đuôi nhau tạp thành một đoàn rồi chui qua “cổng”, đuôi hết thì lại đến đầu. Khi những em này chui qua cổng thì hai em vòng tay làm cổng kia hát đồng dao:Thiên đường địa ngục Ai khôn thì lên thiên đường Ai ngu thì xuống địa ngục.Khi câu hát vừa kết thúc thì cũng là lúc hai em đó hạ nhanh tay xuống để chụp lấy một (có thể là hai) em khác. Em nào bị chụp sẽ được hai em làm cổng hỏi:- Sầu riêng hay măng cụt? Khi đó em bị chụp sẽ phải lựa chọn một trong hai quả đó bằng cách trả lời:- Sầu riêng (hoặc Măng cụt), hay: Sầu riêng/măng cụt ngon hơn. Tao chọn sầu riêng/măng cụt. Trò chơi cứ thế tiếp diễn, em nào chọn măng cụt đứng sang một bên, em nào chọn sầu riêng đứng một bên. Khi tất cả các em kia bị bắt hết thì hai em làm cổng đó “dỡ” cổng ra và thông báo: - Ai ăn sầu riêng thì lên thiên đường, ai ăn măng cụt thì xuống địa ngục. Truớc đó, những em bị bắt kia rất hồi hộp lo sợ xem mình có bị xuống địa ngục không? Thì ra lúc trước, hai em làm cổng đi ra chỗ khuất là để bàn xem sẽ chọn loại quả nào mà ăn vào sẽ được lên thiên đường, loại nào sẽ xuống địa ngục.Em nào được lên thiên đường sẽ được chọn cách đi: đi kiệu, đi võng hoặc đi máy bay, và hai em kia có nhiệm vụ thực hiện sự lựa chọn đó.- Đi kiệu: hai em ngồi đối diện nhau, một em lấy tay phải gập lại 90 · ngang mặt rồi nắm vào tay trái, em kia làm ngược lại. Tay hai em đó ghép lại tạo thành ba hình vuông sát nhau như sau: Làm kiệu tay để công kênh nhauEm nào chọn đi kiệu thì sẽ bỏ hai chân của mình vào ô 1 và 3; hai tay ôm lấy cổ của hai bạn, còn hai em kia phải nhấc em đó lên đi một đoạn, vừa đi vừa đung đưa.- Đi võng: Hai em cầm hai tay song song với nhau, hạ thấp xuống cho người được lên thiên đường ngồi hay nằm ngửa lên trên đó. Hai em kia phải nhấc em đó lên đi một đoạn vừa đi vừa đung đưa như đi bằng võng thật.- Đi máy bay: Làm tương tự như đi võng nhưng người lên thiên đường sẽ nằm xấp.Sau khi đã đưa hết những bạn ăn sẫu riêng lên thiên đường rồi thì bây giờ đến lượt xử tội những người xuống địa ngục. hai em kia bắt chéo tay sao cho để trống một khoảng ở giữa. Ai bị xuống địa ngục sẽ phải để đầu mình vào đó để hai người kia “chặt đầu” (lôi đi kéo lại, quặt trước, quặt sau), rất chóng mặt. Sau khi đã “chặt đầu” xong thì “cái xác” vẫn phải đứng im đó trong khi hai em kia nhanh chóng nhả tay ra rồi lại đan tay lại song song với nhau. “Cái xác” ở trong vòng tay đó. Hai em “đao phủ” xoay tay 90 ·, một phía qua đầu “cái xác”, một phía đẩy ở đằng sau của “cái xác” đẩy nó ra ngoài.Những người bị xuống địa ngục khác thì cũng làm tương tự.Sau khi hoàn thành tất cả thì trò chơi hết một vòng. Nếu muốn chơi tiếp thì hai em khác tự xung phong ra làm, chọn ra hai loại quả khác với hai loại quả trước (ví dụ: bưởi – nho, …) và xác định trước ăn quả nào thì lên thiên đường, ăn quả nào thì xuống địa ngục.Chú ý: Đây là trò chơi dân gian của người Việt được các thế hệ trẻ em, thiếu niên thanh niên, phụ lão...truyền qua bao thế hệ không dứt và có những biến tấu theo thời đại. Ai trích lại thì nhớ ghi dòng:"Trò chơi của dân gian Việt Nam" 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 11 Tháng 9, 2012 Trò chơi Ném Còn Với người Việt cổ xưa, trò chơi này thường dành cho giới nữ, con nhà quý phái, xưa kia là các Mỵ nương, con gái Lạc hầu, Lạc tướng. Đối với các dân tộc Mường, Tày, H’mông, Thái... ném còn là trò tín ngưỡng hấp dẫn nhất của trai gái trong dịp hội xuân. cô gái dân tộc Tày đang ném còn Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc. Ném còn ngày xuân Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt. Vietbao (Theo: quehuongonline.vn) ném còn cầu duyên 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Vé tàu đi về tuổi thơ Ngày ấy "xưa" rồi chỉ...mươi nămLưu giấu bao nhiêu kỷ niệm thương Những lúc mơ về "thời xưa lắm"Buồn vui chan chứa lệ vấn vương Thiên Đồng ngẫu bút Hồi đó là 200đ/ "băng đạn" súng thì có 5 hay 7 nghìn thôi,có cả loại có ống giảm thanh Bây giờ thì...tuyệt tích rồi!!!Hồi nhà mình tân gia nhà,vẫn dc nổ hẳn 1 bánh bình đà năm 2-3 tuổi thì vẫn có bán pháo tépTruyện tranh ưa thíchLà "Bé ngoan" nên giữ rất kỹ cái này. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Dường như ai cũng thuộc cái này. Viết HERO, món hàng VIP, oách không thể tưởng khi đeo vào túi áo, nhưng cẩn thận... kẻo bị chôm! Cái này khỏi chuốt, nhưng viết mạnh tay thì nó thụt vào. Cục gom này xài từ lớp 1 đến lớp 12 vẫn còn tốt, vào đại học...vẫn gom tốt chán lun! Nhưng gom, tẩy không được...tình yêu! Bóp nổ lốp bốp...thay cho pháo! Tròn tròn, mềm mềm...nhờ vậy mà tay cũng mềm có kinh nghiệm... Kỷ vật của em còn sót lại nè! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Hàng này hiện nay là hàng cổ, hiếm. Ngày xưa bấm mãi quên ăn cơm. Cái này ngon hơn Hic, gà của em chết rồi, vì quên cho nó ăn. huhu, game nuôi gà! Cái này không có điện tử gì, chỉ là hơi và nước nước, nhưng cũng khó chơi lắm nha! Chơi thì phải có ăn, em thích ăn cái này nè: Bao bì không bắt mắt nhưng...ngon! Bi giờ tim không có đâu, hàng hiếm đấy! Kem chuối là món tuyệt cú mèo, nhưng giờ không làm bẹp như thế này. Nhưng em thích bẹp như thế này cơ. Cái này ăn không với bột nêm, nhai rôm rốp cho vui miệng. Bây giờ chắc không cạnh tranh nỗi với vô số mì ơi là mì! Món này em nào cũng hí hửng đây. Giờ cũng có khi đi quán...nhậu, đôi khi người bán trình diễn nhảy Mai Cồ xong rồi mới mời mua. Do ăn vặt như thế nên chúng em phải có cách ngừa...giun Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Cái truyền hình nhà em nó là hàng của Liên Xô, bền không thể tưởng, bây giò còn là không đụng hàng! Em tha hồ xem phim lúc 18g, nó có nhảy hình cà tưng hay "bi muỗi" thì vổ vài cái hay chỉnh ăng ten thì rỏ lại như xưa. Em nhớ bộ phim "Ngôi nhà trên thảo nguyên" Hắn bây giờ lớn thuộng và chắc có bồ rồi. Nhưng hồi đó thì hắn đóng trong phim "Đất phương Nam" trông ngáo ngáo thế nào ý! "Cô gái đại dương" này em thích lắm nha! Nữ ca sĩ- diễn viên lừng danh Mexico Verónica Castro khi trẻ, vai chính bộ phim "Người giàu cũng khóc". Em coi mà...cũng khóc. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Em hay rủ bọn trẻ cùng tắm sông. Nhảy ùm thật là khoái!!! Tụi mày theo phe tao! Canh chừng... thụt tụi nó!! Coi nè! Cho mầy chết! Ốc vít...ốc...tán!!! Ối trời! Mãi mê chơi nên quên cái bàn ủi Liên Xô còn ở nhà...Thôi về mau! Trò này em dùng để...bói. Bói xem em chạy về nhà có bị ăn đòn không? hix 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Cả phim Lu ca đi ta của Mexico với phim em bé người máy của Mỹ nữa đó chú Thiên Đồng, cháu còn nhớ rõ lắm :D có cả phim hoạt hình Hãy đợi đó và phim ohat5 hình bố đầu nhỏ con đầu to hehe Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2012 Đánh Khăng Một trò chơi của trẻ nhỏ. Hai bên đứng đối diện nhau. Một người cầm hai đoạn tre, một ngắn một dài. Đào một hố nhỏ, dài dưới đất, đặt đoạn tre ngắn lên miệng hố, lấy thanh tre dài hất đoạn tre ngắn lên cao đánh thật mạnh văng ra xa. Nếu người đứng đối diện bắt được thanh tre, người đó sẽ được vào chơi thay Đánh khăng, còn gọi là chơi khăng là một trò chơi dân gian của Việt nam. Đây là trò chơi tập thể ngoài trời chủ yếu dành cho các bé trai và được thấy ở nhiều sắc tộc trên khắp lãnh thổ Việt nam.Dụng cụ :Dụng cụ đánh khăng rất đơn giản, bộ khăng chỉ gồm hai thứ là cái và con hay là cọn, có nơi gọi là gà mẹ và gà con. Cái và con là những thanh gỗ hình trụ có kích thước và trọng lượng phù hợp với người chơi. Cái có độ dài vừa phải tùy theo người chơi và thường từ 30cm đến 40cm, đường kính khoảng 2cm đến 3cm. Con có chiều dài phổ biến trong khoảng từ 1/3 đến 1/2 chiều dài của cái. Dụng cụ đánh khăng thường được làm từ những loại gỗ không quá nhẹ để có thể bay xa nhưng không quá nặng dễ gây nguy hiểm khi chơi. Trẻ em thường kiếm những cành tre đực hay cành cây có đường kính và chiều dài thích hợp và chặt ra làm dụng cụ đánh khăng.Sân chơi :Đây là trò chơi tập thể nên sân chơi thường là bãi trống, đường đi...có mặt bằng tương đối phẳng. Sân chơi hình chữ nhật, kích thước linh hoạt và diện tích tùy thuộc số lượng người chơi để có mật độ hợp lý. Một đầu của sân chơi khoét một lỗ nhỏ hình chữ nhật có một cạnh ngắn hơn hướng về phía kia của sân chơi, gọi là lò. Trẻ em tường dùng chính dụng cụ chơi để khoét lò trên nền đất, nếu gặp nền sân chơi cứng thì hay dùng một hoặc hai miếng gạch, đá kê song song và sát nhau làm lò. Chiều rộng của lò hoặc khoảng trống giữa hai miếng gạch, đá...hơi nhỏ hơn con một chút để có thể đặt con nằm ngang lên trên lò. Cách lò một cự ly hợp lý (thường từ 2m đến 3m hoặc quy ước chặt chẽ hơn là 10 lần chiều dài của cái...) kẻ một vạch ngang để làm mốc. Trường hợp sân chơi có không gian quá rộng thì kẻ hai vạch biên dọc từ lò đến cuối sân để giới hạn chiều rộng. Những chỗ chơi có biên dọc sẵn có như đường đi, sân dài vừa phải rất thuận tiện cho đánh khăng.Kỹ thuật :Kỹ thuật đánh - Khấc: là kỹ thuật một tay cầm cái, tay kia đặt con tiếp xúc với cái sau đó buông tay giữ con ra đồng thời dùng cái hất con lên rồi đánh nhẹ cho con nảy trên không với mục đích càng được nhiều lần càng tốt cho đến khi con bị rơi xuống đất. Mỗi lần cái chạm vào con tính là một lần khấc. Trong kỹ thuật khấc có thể dùng cái đánh vào điểm bất kỳ của con hay yêu cầu cao hơn là chỉ đánh vào đầu mút của nó (nếu đánh theo yêu cầu này thì khi chuẩn bị phải để con theo chiều thẳng đứng, một đầu tiếp xúc với cái). - Cầy hay còn gọi là dích (ở miền Trung): là kỹ thuật để con nằm ngang trên lò rồi dùng cái đặt xuống dưới con để hất con bay đi. “Dân ta” hay gọi là con ki lô - Mắm hay phạt: là kỹ thuật cầm cả cái lẫn con bằng một tay sau đó tung con lên rồi dùng cái đánh con bay đi. - Gà: là kỹ thuật khó nhất của đánh khăng, con được đặt nằm dọc theo lò, một đầu (thường là đầu hướng về phía cuối sân), ghếch lên thành lò; người chơi dùng cái gõ vào đầu ghếch lên sao cho con nảy lên; trong khi con chưa chạm đất, dùng cái đánh con bay đi. Nếu dùng gạch, đá... làm lò thì kê con ghếch một đầu lên miếng gạch để thực hiện kỹ thuật này.Luật chơi Mục tiêu để giành chiến thắng: thực hiện lần lượt các kỹ thuật đánh để giành được càng nhiều điểm càng tốt hoặc đạt số điểm mục tiêu trước đối phương. Trò chơi này dành cho hai người trở lên, có thể chơi theo thể thức từng người thi đấu vòng tròn tính điểm hoặc chia thành hai đội chơi có số lượng người bằng nhau và tính điểm đồng đội bằng cách cộng điểm của các thành viên. Để xác định người chơi hoặc đội chơi được quyền đánh trước, những người tham gia thường thực hiện kỹ thuật khấc, người chơi có số lần khấc nhiều hơn được quyền đánh trước. Nếu chơi đồng đội thì mỗi đội cử ra một đại diện để khấc. Một cách xác định quyền đánh trước khác là thay vì thực hiện kỹ thuật khấc sẽ thực hiện kỹ thuật mắm, người đánh được con bay xa hơn có quyền đánh trước. Thể thức ghi điểm: người chơi khi đến lượt sẽ lần lượt thực hiện các kỹ thuật cầy, mắm cho đến gà để ghi điểm tích lũy. Khi đánh cầy hoặc gà, con đặt tại lò còn ở động tác mắm, người chơi cầm con đứng ở sát vạch ngang làm mốc để đánh. Khi một người tìm cách ghi điểm, đối phương sẽ cố gắng cản phá. Những người cản phá đứng ở phía trên vạch ngang làm mốc theo hướng đánh và bao gồm mọi người chơi còn lại nếu chơi theo thể thức cá nhân vòng tròn tính điểm hoặc toàn đội đối phương nếu chơi đồng đội. Điểm của một cú đánh chỉ có thể được tính khi con thoát khỏi sự cản phá và dừng lại trên mặt đất ở phía trên vạch ngang làm mốc theo hướng đánh. Trường hợp bên cản phá bắt được con khi nó chưa chạm đất thì người đánh không được tính điểm cho lần đánh đó và mất lượt chơi. Trường hợp những người cản phá bắt được con khi con đã chạm đất rồi nảy lên thì người bắt được sẽ thực hiện một cú nhảy ba bước về phía lò, điểm tiếp đất sẽ tính là điểm con dừng lại trên mặt đất (đương nhiên nếu điểm tiếp đất vượt quá vạch ngang làm mốc thì con cũng coi như chưa qua vạch). Sau khi đã thực hiện xong kỹ thuật có thể ghi điểm, người đánh đặt cái nằm ngang trên lò. Tại điểm con dừng lại trên mặt đất, một trong những người cản phá sẽ dùng con ném về phía cái sao cho nó bật ra khỏi lò hoặc con dừng lại càng gần lò càng tốt. Nếu cái không bị ném bật ra khỏi lò hoặc con dừng lại cách lò một khoảng dài hơn chiều dài của cái thì cú đánh mới được tính điểm cho người đánh. Trường hợp một trong những người cản phá bắt được con khi nó chưa chạm đất thì điểm lại được tính cho người bắt được. Cách tính điểm như sau: Ở động tác cầy và mắm: người đánh dùng cái để đo từ lò đến điểm con dừng trên mặt đất, được bao nhiêu lần thì ghi được bấy nhiêu điểm. Ở động tác gà: người đánh dùng con để đo từ điểm con dừng lại trên mặt đất về đến lò, được bao nhiêu lần thì ghi được bấy nhiêu điểm. Nếu trong bất kỳ lần đánh nào, người thực hiện không ghi được điểm thì phải nhường quyền đánh cho người kế tiếp.Một số tập quán của trò chơi - Khi người đánh chuẩn bị thực hiện một cú mắm hay gà thường hô to một khẩu lệnh có cấu trúc cơ bản là: KTD + SD!, trong đó KTD là kỹ thuật đánh mà người đó chuẩn bị thực hiện (mắm hay gà); SD là số điểm mà người đó đã ghi được. Ví dụ một khẩu lệnh đầy đủ là: Mắm 30!, người đánh chỉ bắt đầu thực hiện cú đánh khi những người cản phá đã đồng thanh hô trả lời với hàm ý đã sẵn sàng (như hô bắt hoặc bắt rồi, đón rồi). Khẩu lệnh cơ bản có thể được nối dài thêm như mắm 30, bắt chưa? hay mắm 32, đón chưa?... Nếu người đánh hô nhầm một trong hai thành phần cơ bản của khẩu lệnh có thể bị mất lượt. - Người ghi được điểm là người tiến hành đo để tính số điểm và cho đỡ tốn thời gian, người đó thường đo khá nhanh theo cách liên tục xoay đầu mút của cái hoặc con trên nền đất. Vì thực hiện đo nhanh như thế, con hoặc cái không tiếp xúc cả chiều dài với mặt đất mà chỉ có đầu mút chạm đất nên dễ xảy ra trường hợp khoảng cách đi qua sau một lần xoay ngắn hơn chiều dài của dụng cụ đo đo đó điểm được tính nhiều hơn thực tế. Kiểu đo này trẻ em gọi là đo chân chó. Để đảm bảo tính công bằng, đối phương sẽ giám sát việc đo và nhắc nhở hoặc yêu cầu đo lại nếu tình huống đo chân chó xảy ra. Một cách thuận tiện hơn là trước khi cuộc chơi bắt đầu, ngoài vạch kẻ ngang làm mốc, người chơi sẽ dùng cái đo một cách cẩn thận rồi kẻ tiếp một số đường song song và cách đều vạch mốc những khoảng tương đương với 5 hoặc 10 lần chiều dài của cái. Khi tính điểm chỉ cần đo đến vạch gần nhất rồi tính toán ra số điểm (điểm sau cú đánh gà được tính căn cứ vào tỷ lệ giữa chiều dài của cái và con hoặc quy ước một tỷ lệ nào đó cho dễ tính toán). - Phần thưởng cho bên thắng cuộc: những người thắng cuộc được nhận phần thưởng thỏa thuận từ trước và trong trò chơi này một phần thưởng rất thú vị hay được dùng là những người thua phải cõng những người thắng cuộc trên lưng. Đại diện những người thắng cuộc thực hiện một cú mắm không có cản phá, điểm con dừng lại trên mặt đất cho đến vạch ngang làm mốc chính là quãng đường những người thắng cuộc được cõng. Số lượt mà bên thua phải cõng bên thắng có thể thỏa thuận trước hoặc các đôi cõng nhau xuất phát đồng thời, khi về đến vạch ngang làm mốc, một đại diện bên thắng cầm con ném vào cái lúc này đã được đặt nằm ngang trên lò, nếu ném trúng thì lượt cõng lại tiếp tục hay bên thắng cuộc thực hiện một động tác mắm khác để xác định quãng đường mới.Biến thể Cũng như những trò chơi dân gian khác, đánh khăng có một số biến thể trong luật chơi: Khi người đánh thực hiện xong một động tác có thể ghi điểm, những người cản phá thay vì dùng con ném về phía cái đặt ngang trên lò sẽ ném về phía lò sao cho nó dừng lại càng gần lò càng tốt. Người đánh sẽ cầm cái đứng tại chỗ, sát vạch ngang làm mốc và tìm cách đánh vào con do đối phương ném nhằm đẩy nó ra xa lò để có thể ghi được nhiều điểm. Tuy nhiên thể thức này thường kèm theo điều kiện đối phương có quyền cản phá và nếu họ bắt được con thì điểm khi đó thuộc về đối phương. Khi thực hiện kỹ thuật gà, người đánh sau khi đã gõ cho con nảy lên có thể thực hiện động tác khấc không có chuẩn bị rồi mới đánh con bay ra xa. Số điểm (nếu có) sau khi xác định theo cách bình thường sẽ được nhân với số lần khấc để tính cho người đánh hoặc người bắt được con. Trong lần đánh gà, nếu người cản phá bắt được con khi con chưa chạm đất thì người đánh không những mất lượt chơi mà còn mất toàn bộ số điểm đang có trong lượt chơi đó. Khi đại diện bên thắng cuộc thực hiện kỹ thuật mắm để xác định quãng đường được cõng thì bên kia có quyền cản phá và nếu họ cản phá thành công, quãng đường sẽ bị rút ngắn lại hoặc việc cõng bị hủy bỏ. Các bài viết khác về đánh khăng -Về đồ chơi: Gồm "quân cái" dài tầm 30-35 cm (tại sao không chọn dài quá để tí nữa đến phần luật chơi em giải thích tiếp), và "quân con" dài 12-16 cm, cả cái và con to tầm ngón tay cái hoặc ngón chân cái người lớn (sau này theo lý thuyết "Sinh thực khí" thì nó cũng theo nguyên tắc "dùi trống"). Vật liệu thường dùng bằng tre hoặc gỗ (bằng gỗ thì phải nhà thằng nào có bố làm thợ mộc) và không thể thiếu một cái gọi là "lỗ khăng" - lỗ khăng này cũng theo nguyên tắc "Sinh thực khí" chứ không tả loằng ngoằng như cụ Sán. Thường ban đầu chỉ khoét hẹp hẹp - quá trình chơi nó sẽ "doãng" ra là vừa. Tiếp đến là tùy theo quy ước với nhau để vạch một đường các "lỗ khăng" là bao xa.-Cách chơi: Chia làm 2 đội, mỗi đội cử ra một thằng để "khấc" (dùng quân cái tâng quân con lên như kiểu tâng bóng), bên nào khấc được nhiều thì bên ấy chơi trước chứ không ai "oản tù tì" theo kiểu nhà quê thế bao giờ. Các động tác chơi gồm 3 động tác;+Đầu tiên là Cầy: Đặt quân con ngang miệng "lỗ khăng", người chơi khom lưng, chùng gối nửa xổm, nửa ngồi, hai tai cầm quân cái căn chính giữa 2 đùi, xiên xiên một góc 45o vào miệng "lỗ khăng" - nhẹ nhàng hay mạnh bạo tùy tính khí người chơi. Bắt đầu chơi thì người chơi miệng hô "lốc (không) cầy, chịu chưa", bên kia (bị chơi) chia quân đứng hàng ngang hay hàng dọc tính từ cái vạch trở đi để đón bắt quân con. Bên chơi hô xong, bên bị chơi đáp "chịu" thì bên chơi dùng hết sức bình sinh, mím môi, nín thở dùng lực từ bàn chân tiếp lên gối, dồn tới mông và hất (cũng có thể gọi là dập) mạnh một cái - lực từ mông sẽ ra chỗ giữa 2 đùi, truyền xuống quân cái và hất quân con đi, có người thì tì cái xuống lỗ là hất một nhát, có người thì nhấp nhấp vài ba nhát mới hất. Bên bị chơi đón nếu bắt được thì người chơi bị loại, không bắt được thì dùng quân con, đứng sát vạch kẻ và ném trúng quân cái người chơi đặt ngang "lỗ khăng" thì người chơi cũng bị loại. Không trúng thì người chơi tiếp tục chuyển sang động tác thứ hai là "Phạt". +Tiếp đến là động tác "Phạt": Người chơi đứng nghiêng với "lỗ khăng", quân cái nắm trên tay, ngón tay trỏ thò ra quặp lấy quân con, mặt xoay hướng với người bị chơi và hô "lốc phạt, chịu chưa" bên bị chơi hô chịu thì người chơi tung quân con ra rồi vụt quân cái vào quân con. Động tác này thường người bị chơi tìm cách né chứ không mấy khi dám thò tay ra bắt. Trúng tay có khi gãy ngón hoặc giả vào mặt, vào đầu thì cũng biêu đầu mẻ trán. Người bị chơi chỉ nhặt quân con lên rồi đứng sát vạch kẻ và ném tới chỗ người chơi, người chơi lại nhằm quân con đó vụt đi (hình như bọn Mỹ sang ta học mót món này về chế ra món bóng Chày), vụt đến đâu thì người chơi được đo bằng quân cái (vì thế không lên chọn dài quá) từ lỗ khăng đến đó. Tùy theo ban đầu quy ước với nhau bao nhiêu (50, 100, 150,....) là thắng để sang bước tiếp theo. Trong động tác này nếu người chơi vụt hụt trong lần 1 cũng mất quyền chơi, vụt lần do người bị chơi ném trả mà không lên được qua vạch, vọt về đằng sau lỗ khăng hoặc người bị chơi tóm được quân con cũng bị loại.+Tiếp đến động tác "Gà": cái này cụ Sán kể đúng chi tiết, động tác nhưng không có "hồn sinh thực khí" - đề nghị cụ vào kể lại. Và tất nhiên là lại đo, đủ số quy định thì chuyển sang "khấc" như lúc đầu để xác định món "thưởng" sau này. Khấc được bao nhiêu thì sẽ được "thưởng" bấy nhiêu. Số đo dư được chuyển tiếp sang động tác sau, tức là động tác "Gà" nếu đo đủ từ khi Phạt và "Cầy" nếu đo đủ sau khi Gà. Lúc này nếu người bị chơi bắt được quân con thì cả món thưởng, số dư đều mất hết và người chơi cũng mất lượt (chỗ này hơi giống giống quay phải ô "mất điểm" trong trò chơi "Chiếc nón ký diệu").-Về món "Thưởng" thì người chơi dùng động tác Phạt, vụt quân con đi đến đâu thì bên bị chơi phải cõng bên chơi số vòng từ quân con đến lỗ khăng bằng số bên chơi khấc được. Trò này trong Hội làng thường có cả trai, cả gái tham gia. Trai thì đóng khố, cởi trần, gái thì váy suông, yếm thắm.Biến tấu 01:Một đội chơi, đội còn lại dàn 1 hàng ra phía trước, sau vạch quy định để đón bắt con khăng.- Gẩy: Đặt con khăng ngang lỗ, dùng mũi quân cái gẩy đi càng xa vạch càng tốt. Bước này dễ bị đội bạn bắt được nhất, vì lực không mạnh.- Ngoài: Nắm quân cái giơ lên theo chiều thẳng đứng bằng ba ngón giữa, áp út và út, còn ngón trỏ và cái chĩa ra phía trước, đặt con khăng lên hai ngón này rồi tung lên dùng con cái đánh mạnh vào cho bay càng xa càng tốt.- Trong: Tương tự như ngoài, lúc này con khăng được đặt trên mu bàn tay, rồi cũng làm động tác tung lên oánh cho bay xa.- Mắm: Cầm con cái bằng ba ngón tay, ngón trỏ và cái giữ con khăng theo chiều chéo với con cái rồi cũng tung lên oánh thật lực.Trong 4 động tác trên, khi thực hiện xong đều phải đặt con cái nằm ngang lỗ dưới đất, đội bạn sẽ dùng con khăng ném, nếu trúng người chơi sẽ bị out. Trong trường hợp đội bạn bắt được con khăng ngay trên không, lập tức sẽ ném trả lại, người chơi lúc này phải cố gắng dùng con cái đánh trúng con khăng bật ngược lại, nếu không cũng sẽ bị out.Nếu qua được 4 bước trên, bạn sẽ tới bước sau:-Nhị: Cũng vẫn cầm cái bằng ba ngón tay, 2 ngón kia thì nắm một đầu con khăng, đặt theo chiều vuông góc với con cái, rồi cũng tung lên oánh cho bay thật xa. Bay xa cỡ nào thì đội bạn phải cõng mình xa chừng đó.Trong quá trình đánh, nếu đội bạn bắt được con khăng thì người chơi bị out, để cho đồng đội khác đánh, cứ thế cho hết lượt.Kiểu thứ hai chỉ có 2 bước là Gẩy, và Kề. Kiểu này 2 đội sẽ thoả thuận một con số cụ thể nào đó như cụ Hút đã trình bày.- Kề: Để con khăng xuống cái lỗ hướng lên trên một góc khoảng 30 độ, đầu nhô lên khỏi mặt đất một chút, dùng con cái đánh nhẹ vào đầu con khăng cho nẩy lên khỏi mặt đất mắm môi mắm lại phang một phát thật mạnh. Khi con khăng rơi xuống đất, người chơi sẽ dùng con cái đo từ lỗ tới điểm rơi (Thường thì ước lượng thôi, chứ ai mà cặm cụi đo như thế, trừ khi 2 bên không thoả thuận được, ví như em đánh đến khoảng cách ấy, em không đo mà ra giá 50 chẳng hạn, nếu đội bạn đồng ý thì chơi tiếp, còn không thì phải đo cho chính xác). Cứ thế hai bên thay nhau chơi, bên nào đạt đến con số ấy trước thì sẽ thắng.Biến tấu 02 "Ốc vít ốc tán" (ngoài bắc gọi là đánh khăng) hình như có phong phú hơn tí !!!.Gọi là Ốc vì khi khởi đầu trò chơi, chưa có điểm thì đọc là "ốc" (có nghĩa là zê rô, hay ốc tọt). Ví dụ như người chơi trước khi bắt đầu, thay vì phải hô (báo cho đội bạn chuẩn bị phản ứng) lung tung thì chỉ cần hô: "ốc vít" (zéro, vít nhé) hay "35 tán" (35 điểm, tán nhé).Đầu tiên: Cầy (chắc đọc trại của Gẩy)Nấc 2: mắm (cầm con tung lên rồi vụt). Nấc 3: gà. Chỗ này biến tướng đi nhiều thứ.Khi đạt tới số điểm qui định thì ngoài chặt gà còn được chặt chó, lợn, voi bằng cách đặt khăng con như gà nhưng phải luồn tay cầm khăng mẹ qua háng. Có 3 kiểu luồn: - từ sau ra trước, hệ số nhân 2, gọi là lợn; - từ trước ra sau, hệ số 3, gọi là chó; - vòng tay qua 2 chân mà chặt thì gọi là voi, quả này nhân 5, lại đo bằng khăng con.Khi tới điểm đối phương thua phải cõng thì có 2 cách kiếm số vòng thưởng:- Khấc khăng: dùng khăng mẹ khấc khăng con, bao nhiêu chạm thì bấy nhiêu vòng.- Chặt gà: (ai can đảm thì chặt lợn, chó, voi). Khăng không qua vạch thì coi như mất thưởng; nếu bị bắt thì còn bị phạt ngược, kiểu bị chặt tứ quí. Nếu đối phương không bắt được thì ném về lồ, bên chặt gà có quyền bảo vệ lồ; số gậy từ khăng con đến lồ sẽ là số vòng phải cõng.Kĩ thuật đo khăng cũng là cách chơi ăn gian. Phải ngoáy tay sao cho khăng bước ngắn hơn độ dài của nó thì sẽ được nhiều điểm hơn.Biến tấu 03:Các bước chơi gồm có:Vít: tức "cầy" hay "gẫy" hay "Tậm Tịt'Tán.Gà: Giống như các nơi khác cũng gọi là "gà".Lòn trôn: Hai tay cầm cả quân cái lẫn quân con, luồn tay qua háng vứt quân con qua đầu rồi dùng quân cái tán.Gác vai: Gác quân cái trên vai, lòn quân con qua háng, vứt qua đầu rồi chụp quân cái và tán.Đội đầu: Gác quân cái trên đầu.Xỏ mũi: Gác quân cái ngang lỗ mũi (phải ngửa mặt lên trời)Hết động tác xỏ mũi mà vẫn còn sống thì quay lại chơi từ đầu băng bước "vít".Riêng phần phạt thì nếu tán 3 lần, đối phương cõng ko nỗi, ko về tới đích được thì phạt bằng "u", cứ 3 lần tán, đối phương phải vừa chạy vừa "u", bị đứt hơi chỗ nào là cứ nhè chỗ đó mà tán tiếp (khi cõng cũng vậy).Ở mức Cầy, khi người chơi bên bắt mà bắt được coi như là out. Nếu không bắt được thì bên đánh đặt ngang con "mẹ" khăng trên miệng lồ, bên bắt cử người ném tài nhất dùng con "con" khăng ném vào con mẹ. Nếu ném trúng con mẹ văng ra thì bên đánh cũng thua, hoặc nếu ném con con chui trúng lồ cũng thua. Còn nếu không thì tùy vào độ dài của của đoạn ném không trúng cách lồ mà đo con "mẹ" tính điểm. Điểm lên "hạng" thì thỏa thuận lúc đầu, và đến đủ điểm nhưng phải đủ tất cả lượt người đánh qua thì mới được lên. Khi từ "hạng" O Cầy lên hạng O Mắm thì người đánh chơi như các cụ đã tả. Các tính điểm là ném về Lồ, càng gần Lồ càng tốt. Tính điểm là đo khoảng cách "con khăng" tới Lồ. Khi đã lên tới Gà thì cũng như các cụ đã nêu. Khi chơi có thể quy định chơi có tụt lồ hay không khi người bắt ném "con khăng" về Lồ và người đánh dùng "mẹ khăng" vụt "con khăng" bay đi. Nếu bằng ngang Lồ hặc tiến lên phía trước thì được cộng điểm theo cách đo. Còn tụt Lồ thì bị đo và trừ điểm trong số điểm đã có. Như vậy thì mới có cái kỹ thuật đo và xảy ra cãi nhau của các bên chơi. Khi cộng thì đo sao cho ngắn hơn "mẹ khăng", còn trừ thì sao cho dài hơn "mẹ khăng". Khi đã lên "hạng" Gà thì cũng phải dạt tới một số điểm thì bắt đầu được cõng.Các cách hô khi chơi:O cầy bắt chưa -----> bắtO Mắm bắt chưa -----> bắtO gà bắt chưa -----> bắtHoặc O tí cầy, mắm, gàKhi bắt được thì mất lượt chơi cũng như mất cả số điểm và quay về chơi từ cầy.Sưu tầm Share this post Link to post Share on other sites