Posted 18 Tháng 7, 2012 Hạ Vũ Từ thời nhà Hán về sau, thư tịch ghi lại truyền thuyết, và cho rằng Vũ 禹 là một người đàn ông, ghi theo phả hệ dòng bố như kiểu đích tôn cha truyền con trai nối, rằng Cổn 鯀 là bố của Vũ 禹 (Tư Mã Thiên viết về sử nhà Tây Hán trong “Sử ký. Hạ bổn kỷ 史 記.夏 本 紀”: Bố của Vũ là Cổn, bố của Cổn là “đế Chuyên Húc 帝 顓 頊”, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, bố của Xương Ý là “Hoàng đế 黃 帝”, “ Vũ giả, Hoàng đế chi huyền tôn nhi đế Chuyên Húc chi tôn dã 禹 者,黃 帝 之 玄 孫而 帝 顓 頊 之 孫 也” - Kẻ Vũ là cháu 5 đời của Hoàng đế, còn Chuyên Húc là cháu 3 đời của Hoàng đế” [ Đọc trong nguyên bản hành văn trên, thấy cú pháp lẫn lộn khi Hán, khi Việt. Tất cả dựa vào truyền thuyết, nhưng lại muốn qui cho ông Tổ đầu tiên là Hoàng đế, gọi theo cú pháp Hán, nhưng cháu nội đích tôn của ông ấy lại không gọi là Chuyên Húc đế mà lại gọi là “đế Chuyên Húc”, gọi theo cú pháp Việt; đến hàng mấy ngàn năm sau (theo như sử này nói Hoàng Đế là Tổ của người Hán cách nay 5000 năm), cái ông vua đang chỉ đạo viết sử này, chính ông ấy lại được gọi là Hán Vũ đế, gọi theo cú pháp Hán. Vậy chứng tỏ là sử cổ đại (truyền thuyết) trên Hán thư ghi lại là do người Hán chép lại và có xào nấu lại sử cổ đại của Việt. Cổn 鯀 được cho là bố của Vũ 禹. Vậy mà chữ Vũ 禹là chữ đơn thể, tự nó gốc gác là từ tượng hình trên giáp cốt văn, diễn tả hình người bắt rắn (Thuyết Văn đọc: lướt “Vương 王 Cụ 矩 = Vũ 禹, giải thích là loài 蟲 Trùng; Trùng = Trùn = Tròn = Trăn = Rắn (loài không có chân); nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Váng 王Chuy 矩” = Vuy, không thành Uỷ như pinyin “ Yu 禹 ” được). Trong khi chữ Cổn 鯀 là chữ ghép biểu ý, là kiểu chỉ có từ khi có qui tắc lục thư do soạn ra từ thời nhà Tần, chữ Cổn 鯀 này gồm chữ Hệ 系( từ nguyên là Họ) và chữ Ngư 魚là cá, ám chỉ dân sông nước, giải thích là một loài cá, ( Ngư 魚 Hệ 系 thì có thể hiểu là con Cá Hô . Thuyết Văn đọc: lướt. “Cổ 古 Bổn 本” = Cổn 鯀, nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Củ 古 Pẩn 本” = Cẩn, không thành Cun như pinyin “ Gun 鯀 ” được). Chữ Cổn 鯀 phát âm Hán là “Cun” (pinyin “gun”), nó có từ nguyên chính là từ Con của Tiếng Việt mà thôi, nhưng Con ở đây là Con Mẹ hay Con Mụ, tức là một Bà, vì thời cổ đại hàng vạn năm trước ấy vẫn còn là thời mẫu hệ gọi là Thị Tộc; U = Vú = Vũ = Mụ = Mẹ = Mẫu. QT Tơi-Rỡi: Cả = Con = Quan = Quân = Cun = Khun = Khôn = Khuông = Vuông = Vua = Văn = Vũ = Vương = Tướng = Hường = Hoàng = Voòng = Vàng = Lang = Lớn = Cổn = Cả. Pò Khun là Bố Cả hay Bố Cái. Sông Cả cũng gọi là sông Cái. Tên thường gọi trong truyền thuyết chuyện kể là “Đại Vũ” là do những cái tên Lang Vũ, Lớn Vũ, Cổn Vũ, Cả Vũ, Đà Vũ (chuyện cổ tích “ông Đùng bà Đà”), nên khi viết lại sử từ truyền thuyết dân gian, nghe tiếng Cổn Vũ thì dễ coi như bố Vũ là Cổn, hay nghe thấy tên Đà Vũ thì dễ coi như mẹ Vũ là bà Đà hay bà nữ Oa. Những từ có sau như Chu Văn Vương là ông Vua họ Chu, Chu Vũ Vương cũng là ông Vua họ Chu, Lưu Hướng là ông Vua họ Lưu, Hán Vũ Đế là ông “Đứa Vua nước Hán” hay “Đức Vương nước Hán” cũng là một. Ngôn ngữ dân gian thì nó là như vậy, dù là Vua hay Quân hay Vương hay Tướng thì cũng là Con, tức là từ đẻ cái chửa mà ra, mà lướt “Đẻ cái Chửa” = Đứa. Từ nguyên của chữ Đế là Nước, do Té = Tức = Tế = Đế = Đức = Đác = Nác = Nước. Người đứng đầu Vùng gọi là Vua hay Vương thì người đứng đầu Nước gọi là Đế hay Đức (tiếng Khơ Me gọi là Xăm Đéc). Thời Văn Lang lập Nước cách nay gần 5000 năm, đó là thời Đế Minh. Căn theo cái âm tiết, thì nguyên thủy từ Đế Minh chưa có nghĩa là Vua Sáng, nó có nghĩa là “Đức của Mẹ Kinh”, tức người đứng đầu quốc gia của người Kinh, Đầu Nước = Đầu Tức = Đức; Mẹ Kinh = Minh; chế độ là mẫu hệ; người đứng đầu nước là do cộng đồng bầu lên, là đàn bà hoặc đàn ông, thay đổi cũng là do bầu, gọi là Thiền nhượng (Thay Hiền = Thiền). Khái niệm “Sáng” khởi thủy là do từ Trời và từ Trăng. Trời = Rọi = Chói = Chiếu 照 = Triêu朝 = Diệu 耀 (Hán ngữ phát âm khái niệm Rọi là “Rừ” viết là chữ Nhật 日; phát âm chữ Nhiệt 热 có bộ hỏa là “Rừa”, do từ lướt của tiếng Việt là “Rực Lửa” = “Rừa”, nghĩa là nóng, mà Nóng = Nắng = Dàng = Dương = “ Yáng 阳 ” ); Trăng = =Rạng = Sáng = Láng = =Lượng 亮. Do người Kinh, cũng tức là người Việt, nên từ Mẹ Kinh = Minh người ta viết bằng hai chữ Việt ghép lại với nhau (để mang ý là nhiều, theo kiểu có âm có dương thì đẻ ra nhiều), hai chữ Việt đó là chữ Nhiệt 日 và chữ Nguyệt 月( QT Tơi-Rỡi: Việt = Nguyệt 月= Nhiệt = Nhật 日, để nói là dân xứ nóng, dân mặt trời), thành ra chữ Minh 明. Do ghép như vậy nên chữ Minh 明 gồm Nhật 日 và Nguyệt 月 mới đại diện cho cái nghĩa do biểu ý của chữ, nghĩa là Sáng, nó là có sau từ Sáng, chỉ có nghĩa trên mặt chữ, tức là dùng chữ Minh 明 cho ý văn học như từ minh chứng, minh bạch. Khẩu ngữ Hán ngữ chỉ dùng chữ Lượng 亮 (“liang”), khẩu ngữ Tiếng Việt chỉ dùng chữ Sáng]. Tham khảo thêm đoạn dưới đây,( nguồn: Viện Việt học): -Hồ Động Đình và Đại Hàn Khi nghe chúng tôi nói Long Vương Động Đình Quân là ông ngoại của Lạc Long Quân Lạc Việt, người hướng dẫn viên rất ngạc nhiên. Chị cho biết một số du khách Đại Hàn đến đây cũng bảo là Long Vương liên hệ với vua tổ của họ. Đúng vậy, Việt Nam và một vài tộc Đại Hàn có một tổ chung. Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tôi đã chứng minh rõ điểm này. Xin tóm lược vài điểm chính ở đây. “Đời Tây Chu các sử gia nhà Chu gọi người Korea là Lai Di. Sử ấy cũng cho biết Lai Di là rợ Tam Hàn trước kia” (Bình Nguyên Lộc, sđd). Ở chỗ khác Bình Nguyên Lộc viết “Sử đời Chu cho biết rợ Tam Hàn vốn là dân Lạc viết với bộ trãi, tức là dân Đông Di, gốc ở cực đông bắc Trung Hoa thời thượng cổ”. Ta thấy dân Đại Hàn có chi Lạc viết với bộ trãi y hệt chữ Lạc trong tên Lạc Long Quân cũng viết với bộ trãi. Trãi là con sâu không có chân tức thuộc dòng rắn. Theo tr=d (tràn = dàn) ta có trãi = dải, con vật giống như dải dây là con rắn. Cổ sử Đại Hàn và cổ sử của chúng ta cũng gặp nhau ở cái bọc Trứng Thế Gian. Các tộc phía nam của Tam Hàn cũng có huyền thoại cho rằng vua tổ của họ do trứng nở ra y hệt truyện Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra các vua tổ Hùng vương. Cổ sử Đại Hàn có nói tới vị vua huyền sử đầu tiên là Tankun hay Thankun đẻ ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Không có tài liệu nào nói rõ về thời vua huyền sử (legendary king) Tankun hoặc ngay cả giai đoạn Kija sau đó. Korea chỉ còn các tài liệu về ngôn ngữ trong và sau thời đại Samhan (Three Han States, Tam Hàn). Ta thấy -kun liên hệ với Mường ngữ Cun. Cun, kun, khun, cổ ngữ Việt khuấn và với Mông Cổ ngữ khan (Gengis Khan), Anh ngữ king… có nghĩa là người cầm đầu, người số một, vua. Tankun, Thankun là vua Tan, vua Than. Theo chuyển hóa t=s, th=s (thẹo = sẹo), ta có Tan, Than = San, Sáng. Vị vua tổ huyền sử của Đại Hàn là Tankun, Thankun là Cun Sáng, vua Sáng tương đương với Đế Minh. Ta có thể thấy rõ điều này qua cái tên Triều Tiên có nghĩa là ánh Chiêu Dương đầu tiên của ngày, tức ánh bình minh. Ngày nay người Đại Hàn dịch chữ Triều Tiên ra Anh ngữ là “Morning Calm” cho thấy còn mang dấu tích vua tổ của họ là vua Sáng Tankun liên hệ với Vua Ánh Sáng Đế Minh. Bình Nguyên Lộc cũng đã nhận ra sự liên hệ này: ”Nhưng người Tầu đã sai lầm mà phân biệt Đông Di và Nam Man vì cứ theo lời họ tả thì Đông Di giống hệt Nam Man cũng xâm mình và nhuộm răng đen và ta sẽ thấy… rằng rợ Đông Di, đích thị là Việt” (Bình Nguyên Lộc, sđd tr.136). Đại Hàn có một cái gốc chung với Việt Nam chúng ta. Tên nước Triều Tiên, ánh Chiêu dương gần cận với Hừng rạng. Họ cũng có Kinh Dương vương. Tankun tương đương với Đế Minh sinh ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Ki-ja chính là Ki-jang, Kì Dương! Kinh Dương vương, vua đầu tiên của Việt Nam và Ki-ja là vua đầu tiên của Đại Hàn. Như thế Tam Hàn Lạc bộ trãi và Lạc Việt Lạc Long Quân có Lạc bộ trãi có cùng vua Ánh Sáng Tankun-Đế Minh, cùng vua Ki-Ja, Kì Dương, có cùng bọc Trứng Thế Gian sinh ra các vua tổ Đại Hàn-Hùng Vương thì cùng có gốc tổ ở hồ Động Đình là chuyện tất nhiên. Đại Hàn có các tộc có gốc Bách Việt. Điểm này là điểm hết sức quan trọng vì nó chứng thực, xác quyết là nguồn cội của Bách Việt là ở hồ Động Đình không phải chỉ có trong truyền thuyết Việt mà còn thấy ở Đại Hàn. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites