TheTrung

Hội Thảo Tưởng Niệm Lương Kim Định

25 bài viết trong chủ đề này

Thân gửi các thành viên của trung tâm,

Kế thừa từ thành công của hội thảo Chữ Việt Cổ và được sự đồng ý của Giám đốc trung tâm, Thế Trung và Dương đã thay mặt trung tâm liên kết với hội Minh Triết Việt tiếp tục tổ chức hội thảo "Tưởng niệm Lương Kim Định" với nội dung như sau:

-------------------------------------------------------------------------------------

TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM CỐ TRIẾT GIA

LƯƠNG KIM ĐỊNH (1997-2012)

Triết gia Lương Kim Định, một gương mặt văn hóa lớn của đất nước. Ông là Linh mục, giáo sư dạy Triết, nhà nghiên cứu cổ văn hóa Sử Việt Nam, từng để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực trên, đề xướng thuyết Việt Nho với những trụ cột triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong Làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý.

Năm nay, nhân 15 năm ngày mất của ông, lần đầu tiên trong nước, qua Trung tâm Minh triết phối hợp với trung tâm Lý Học Đông Phương, trân trọng giới thiệu về ông.

Vào hồi 8 giờ 30 phút ngày 14 tháng 7 năm 2012.

Tại Nhà Thái học Trung tâm Văn hóa Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội.

Diễn giả: 1/ Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy

2/ Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm

3/ Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ

-------------------------------------------------------------------------------------

Ngoài hội thảo chính thức sáng 14/07, trung tâm Lý Học Đông Phương sẽ tổ chức bữa ăn trưa giao lưu với khoảng 15 người trong đó có các diễn giả, và các nhà nghiên cứu của Trung tâm Minh Triết, của đại học Văn hóa ( như giáo sư Thêm, tiến sĩ Thơ ...), sau đó buổi chiều đoàn đi thăm chùa Nôm, sáng 15/07 sẽ có buổi họp nội bộ để bàn về các chủ đề nghiên cứu liên quan.

Chi phí bước đầu dự kiến sẽ do Thế Trung và Dương tài trợ, tuy nhiên mọi sự đóng góp đều được hoan nghênh để công tác tổ chức được tốt đẹp.

Với thông báo này, Thế Trung mong muốn gửi thông tin đến toàn bộ trung tâm và hi vọng Ban Giám Đốc sẽ lựa chọn đại biểu phù hợp tham dự để đóng góp cho thành công của hội thảo cũng như mở ra những cơ hội hợp tác mới.

Ngoài ra về hậu cần, rất mong có 03 người của Trung Tâm tham dự để hỗ trợ, mong có được sự xung phong của các thành viên, công việc gồm có: 1. Chuẩn bị và lễ tân cho hội thảo; 2. Công tác báo chí 3. Hướng dẫn đoàn tham quan 4. Chuẩn bị và phát tài liệu 5. Hỗ trợ các buổi họp, giao lưu. Xin liên hệ trực tiếp với Thế Trung để phối hợp tổ chức công việc qua PM.

Trân trọng

Thế Trung

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thông cáo:

TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM CỐ TRIẾT GIA

LƯƠNG KIM ĐỊNH (1997-2012)

Triết gia Lương Kim Định, một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, cổ sử Việt Nam…Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý.

Năm nay, nhân 15 năm ngày mất của ông, lần đầu tiên trong nước, trung tâm Minh triết phối hợp với trung tâm Lý Học Đông Phương, trân trọng tổ chức buổi tọa đàm giới thiệu về ông.

Nội dung cuộc tọa đàm:

1. Tiểu sử của triết gia và quá trình du học, nghiên cứu, giảng dạy triết học. Cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc.

2. Lập thuyết và giá trị học thuật của triết gia Kim Định. Ông đã có một dự đoán tài tình, ngày càng được những khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở.

3. Đánh giá những cống hiến về học thuật của triết gia Lương Kim Định.

4. Trao đổi xung quanh những vấn đề trên và đề xuất những việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mà ông đã nêu ra.

Vào hồi 8 giờ 30 phút ngày 14 tháng 7 năm 2012.

Tại Nhà Thái học Trung tâm Văn hóa Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội.

Diễn giả:

1/ Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy

2/ Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm

3/ Tiến sỹ Trần Ngọc Linh

4/ Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh - Thiên Sứ

Chương trình tọa đàm:

- 8h00 : Đón tiếp đại biểu

- 8h30 – 8h35 : Ông Nguyễn Khắc Mai - Giám đốc Trung tâm Minh Triết phát biểu khai mạc buổi Tọa đàm.

- 8h35 – 9h15 : Diễn giả Hoàng Văn Thùy – Bước đầu tìm hiểu sự nghiệp Triết gia Kim Định.

- 9h15 – 9h45 : Diễn giả Trần Ngọc Thêm – Lương Kim Định-Nhà văn hóa đáng kính.

- 9h45 – 9h50 : Giáo sư Sử học Trương Thâu phát biểu trao đổi

- 9h50 – 10h05 : Trao đổi

- 10h05 – 10h35 : Giải lao

- 10h35 – 11h05 : Diễn giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Giáo sư Lương Kim Định-Người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt.

- 11h05 - 11h35 : Diễn giả Trần Ngọc Linh – Suy nghĩ về phương pháp nghiên cứu lịch sử dân tộc của Lương Kim Định

- 11h35 - 12h05 : Phát biểu trao đổi

- 12h05: Bế mạc

- 12h30 - 13h30 : Ăn trưa tại Nhà hàng Long Vỹ 175 Nguyễn Thái Học, Đống Đa, Hà Nội

- 14h00 – 16h00 : Họp nội bộ để bàn về các chủ đề nghiên cứu liên quan và bàn về hợp tác nghiên cứu giữa các trung tâm.

Hà Nội, ngày 12 tháng 07 năm 2012

T/M Ban tổ chức

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn

13/07/2012 16:45 | Phóng sự - Khám phá |

(VTC News) - Mới đây, bên ấm trà đậm hương Việt, các nhà nghiên cứu cổ sử Việt Nam, trầm ngâm kể về một người, mà họ tôn vinh là triết gia bị quên lãng của nước Việt. Người ấy dành cả cuộc đời nghiên cứu cổ sử Việt, viết tới 46 đầu sách, chỉ để khẳng định rằng, nền minh triết Việt đã có từ mấy ngàn năm trước, trước cả người Trung Hoa. Chuyện này thật lạ!

Người Việt là một phần của cái nôi nhân loại

Người ấy là giáo sư Lương Kim Định, người trọn đời chỉ làm một việc, ấy là giải mã những thông điệp của người xưa, để tuyên bố với thế giới rằng, người Việt không phải là một dân tộc nhỏ bé, nước Việt cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại.

Posted Image

Cố GS. Lương Kim Định.

Cố GS. Lương Kim Định sinh ra và lớn lên ở Nam Định. Từng giảng dạy ở Việt Nam. Sau này, ông du học sáng Pháp, rồi Mỹ. Mấy chục năm sống ở nước ngoài, nhưng ông vẫn miệt mài nghiên cứu cổ sử Việt. Ông đã chứng minh cho thế giới này hiểu rằng, nền triết lý Việt đã có từ rất lâu đời, thậm chí có trước cả Trung Hoa.

Bằng những nghiên cứu của mình, ông khẳng định tổ tiên người Việt chính là người Viêm Việt. Dân tộc này vốn ngự trị ở giữa vùng châu thổ sông Dương Tử và đã làm nên văn hóa Việt Nho, một nền văn hóa tinh thần, lấy nhu thuận là cốt lõi, đại biểu cho văn minh nông nghiệp.

Posted Image

Posted Image

Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng từng chứng minh Kinh Dịch là của người Việt qua bãi đá cổ Sapa.

Sau này, bộ tộc du mục, ấy là người Hoa, đã tràn từ phương Bắc xuống. Họ mang tinh thần võ biền, đàn áp, đẩy người Viêm Việt xuống phía Nam. Người Viêm Việt di tản đến khắp vùng Đông Nam Á rồi phân hóa thành nhiều chủng tộc khác nhau.

Luận thuyết này được ông đưa ra từ rất lâu rồi, nhưng chẳng ai thèm đếm xỉa. 45 năm sau khi ra đời luận thuyết của ông, khi khoa học hiện đại phát triển, ngành khảo cổ nghiên cứu qua nhiễm sắc thể (ADN), đã chứng minh rằng, dân cư Đông Nam Á xuất phát từ một chúng tộc khác người Trung Nguyên.

Posted Image

Theo bản đồ di dân qua nhiễm sắc thể, được các nhà khoa học thế giới công nhận, thì con người hiện đại Homo Sapien, đã xuất phá từ châu Phi đi khắp thế giới. Một nhánh người đi qua Tây Tạng, một nhánh qua Bắc Mông Cổ, gặp nhau ở châu thổ Hoàng Hà, lập ra nền văn minh Trung Nguyên, khởi thủy nền văn hóa Trung Hoa bây giờ.

Một nhánh di chuyển theo ngả Ấn Độ, dừng lại ở châu thổ sông Hồng, và lập ra nền văn hóa Hòa Bình (20.000 – 5.000 năm TCN). Từ đây, họ di cư lên phương Bắc, đến tận sông Dương Tử, ra tận biển, định cư ở các đảo Đài Loan, Nam Dương, Mã Lai.

Lương Kim Định nhìn thấy Việt triết sống động trong đời sống hàng ngày của dân tộc. Nó là những nếp sống, những tư tưởng nằm trong tiềm thức được thấm nhuần qua tiếng nói, ca dao, lời ru, phong tục. Việt triết được thể hiện và phát huy qua những bước chân âm thầm của các bà mẹ Việt, những người bố Việt trên những nẻo đường mòn của dân tộc trong bao thế hệ.

Posted Image

Trống đồng là báu vật của người Việt.

Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, từ những phát hiện này, cùng hàng ngàn chứng cứ mà ông nêu trong các cuốn sách của mình, ông khẳng định rằng, người Việt đã xây dựng một nền văn hóa nông nghiệp Việt nhân bản và minh triết, mà ông gọi là Việt Nho.

Người Hoa đã học rồi thể chế thành kinh điển, đồng thời cũng làm sa đọa Việt Nho theo tư tưởng của văn minh du mục Mông Cổ.

Từ chứng lý rất mong manh, GS Lương Kim Định cho rằng, chính người Việt là chủ nhân của kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc... Không những thế, tiếng Trung Hoa và cả chữ vuông Hán ngữ cũng là của người Việt!

Đề xuất của GS. Lương Kim Định quả đã gây chấn động, như sấm giữa trời quang khiến những đầu óc yếu đuối hoảng hốt và chống trả ông quyết liệt.

Triết Việt trên trống đồng

GS. Lương Kim Định gần như cả cuộc đời nghiên cứu chiếc trống đồng của người Việt. Tinh hoa văn hóa của người Việt đều dồn tụ vào những hình ảnh trên mặt trống. Ông nhìn thấy cả lịch sử Việt, văn hóa Việt, triết lý Việt trên chiếc trống đó.

Theo GS. Định, những hình người có cánh trên mặt trống đồng đại diện cho Mẹ Tiên, còn hình ảnh vòng ngoài vận hành ở tang trống chính là Rồng Cha. Mẹ Tiên và Rồng cha hợp nhau biểu thị đất trời hòa hợp, là thứ minh triết uyên bác xa xưa.

Posted Image

Posted Image

Mặt trống đồng biểu trưng của nguyên lý thống nhất từ vũ trụ.

Nét dọc tang trống là Trời, nét ngang là mặt trống là Đất. Hai thứ ấy làm nên thực thể gọi là nhạc khí vũ trụ.

Vũ trụ thể hiện kích thước bao la của trời với đất. Cuộc hòa âm này chiếu giải lên toàn thân trống, tả lại một xã hội hạnh phúc tưng bừng đang ca múa gồm cả trời (mặt trời), đất (thuyền rồng, các con vật) và cả người.

GS. Lương Kim Định đã giành cả cuốn sách chỉ để mô tả triết lý Việt trên chiếc trống đồng. Đã có vô vàn phát hiện thú vị của ông. Thậm chí, những con số cũng đều theo quy ước bí ẩn của văn hóa cổ.

Mặt trời ở giữa mặt trống thay cho trời làm trung tâm lan tỏa sức sống. Mặt trời tỏa ra 14 tia sáng. Rồi đến các vòng ngoài đều chia ra 2 bên chẵn lẻ.

Bên chẵn thì trên nóc nhà có 2 con chim, 6 người, đàn chim 4 cặp. Bên lẻ thì trên nóc nhà có 1 con chim, đoàn người 7, đàn chim 3 cặp. Vòng ngoài cùng chia làm 4 chỉ 4 chiếc hoa quỳ 9 cánh: 4x9=36, cũng có thể chỉ 4 phương. Nhưng mặt trời ở giữa, còn gợi ra suy nghĩ là bông hoa.

Posted Image

Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người.

Hoa quỳ lại có 9 cánh. Số 9 là tiên thiên của huyền sử, dân Lạc Việt lấy số 9 làm quan trọng, nhân với 2 thành 18. 18 chim to, 18 chim nhỏ. Số 18 là huyền số như: 18 ngàn năm Bàn Cổ, 18 đời Hùng Vương, 18 thước cao của ngựa Thánh Gióng...

Từ những hình ảnh trên trống đồng, đã hiện ra đời thực. Trên các đình làng Việt Nam thể hiện rõ nhất triết lý đó. Ðình là cái nhà có ba tầng kiểu nhà sàn: Nóc có chim đậu chỉ trời, người ở sàn giữa, bên dưới là đất. Trong đình cũng có 3 tầng như vậy, tức gồm cả tế tự cho trời, hành chính chia ruộng đất, còn người thì vui sống đình đám chơi xuân.

Điều đặc biệt, là cả trên trống đồng và đình làng Việt, đều thể hiện vạn vật giao hòa, trời và người là một, chẳng có gì tục với thiêng mà phải riêng rẽ. Cuộc sống đời thường luôn tưng bừng đình đám, chấp nhận mọi sinh thú ở đời.

Từ hình ảnh trên trống đồng, có thể thấy cuộc sống sinh động của người Việt xưa. Người Việt có hàng trăm điệu hò, điệu múa, nào là múa sinh tiền, múa sắc búa, múa chai, múa trống, múa đèn, múa dậm, múa bông lau...

Rồi các trò đua thuyền, kéo chữ, đánh cờ người, rối nước, rối cạn… Đó là những cuộc vui bất tận tỏa ra khắp cả nước. Chỉ có một thứ văn hóa, ấy là văn hóa toàn dân, không hề có chiến tranh tôn giáo hay ý thức hệ. Hơn 50 sắc dân thiểu số với những tín ngưỡng rất khác nhau, mà vẫn sống bên nhau suốt bao nhiêu ngàn năm hạnh phúc.

Đó chính là nét đặc sắc của nền văn minh Lạc Việt, nền văn minh được khắc họa cụ thể trên mặt trống đồng. Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người. Đó có lẽ cũng là khát vọng mà người Việt hướng đến. Triết lý Việt chính là sự thăng hoa tột cùng của hạnh phúc loài người.

Tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS Lương Kim Định

Sáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Kim Định, Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông.

Triết gia Kim Định (tên đầy đủ Lương Kim Định, sinh ngày 15/6/1915, mất ngày 25/3/1997) là một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, đặc biệt là cổ sử Việt Nam… Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý.

Buổi tọa đàm có sự góp mặt của 30 nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, những người yêu sử Việt trong đó đáng chú ý sẽ có các tham luận của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, TS Trần Ngọc Linh, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Các nhà nghiên cứu đánh giá đúng công sức của triết gia Kim Định trong công cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc. Ông đã có những dự đoán tài tình, ngày càng được khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

CÁC BÀI VIẾT & TƯ LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN
TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH
Thư của cụ Vũ Khánh Thành, Tộc trưởng làng An Việt Anh Quốc


Posted Image
Tiến sĩ văn hóa học Tú Anh đọc thư của ông Vũ Khánh Thành An Việt Anh quốc

Thưa Giáo Sư Nguyễn Khắc Mai thân mến,
Tuần trước tôi được anh Hà Văn Thùy cho biết, giáo sư sẽ tổ chức thảo luận về Kim Định tại Văn Miếu Hà Nội. Đáng lẽ tôi phải viết thư cho Giáo Sư sớm hơn nhưng tôi phải nằm bệnh viện để giải phẫu cục u ở cổ nay mơi có vài dòng cảm ơn Giáo Sư được. Xin giáo sư thứ lỗi.

Tôi rất vui khi được tin này lại được tổ chức tại Văn Miếu nữa, như một chỉ dấu về sự phục hưng văn hóa Việt Nam. Anh Trần Ngọc Thêm, Hà Văn Thùy cũng cộng tác với Giáo Sư về việc này thì thật đáng quí. Xin.cho tôi gửi lời cảm ơn anh Thêm (tôi lạc mất email của anh Thêm rồi - Tôi đã gặp anh Thêm tại London và anh Thêm cũng đã nói chuyện về văn hóa VN cho đồng bào VN tại Trung Tâm An Việt).

Sự nghiệp của Kim Định cho văn hóa VN rất lớn lao. Tôi không biết nói gì hơn là lập lại lời của Gs Nguyễn Ngọc Bích, Giáo Sư Đại Học Geoge Maison Hoa Kỳ đã viết về Kim Định trong một cuộc Hội Thảo về Văn Hóa VN tại Washington năm 1989 như sau:

HỌC THUẬT VIỆT NAM HẢI NGỌAI
TRONG SỨ MẠNG ĐI TÌM CON ĐƯỜNG
VIỆT TỘC, NHÂN CHỦ, TỰ DO

Nguyễn Ngọc Bích
…. Trong nỗ lực đi tìm một con đường Việt tộc, nhân chủ, tự do thì chúng ta phải kể ở hàng đầu công trình đồ sộ của Linh Mục Kim Định. Ở đâu cũng thế, không phải sang đến Mỹ ông mới tìm “về nguồn”. Việc làm của ông, trong một tình cảnh mất mát vô biên, chẳng qua cũng chỉ là tiếp nối công việc của ông đã bắt đầu khi còn ở trong nước. .. Từ 1963 tới nay, ông đã hòan tất được 23 cuốn triết học, tương đương với khỏang 7,000 trang – một mảng tư tưởng mà không dễ mấy triết gia có thể so sánh được. Sự độc đáo ở nơi ông cũng đã là một chuyện quá rõ – dầu ta có đồng ý với ông hay không thì ta cũng không thể phủ nhận được tính cách độc đáo của tư tưởng ông. Có người đưa ra những thắc mắc như “nho học” thì rõ ràng là của Tàu, sao ông lại có thể quả quyết được là “nguyên nho” chính là “Việt Nho” (điều ông khẳng định trong sách Cửa Khổng) ? Có người lại bảo, chứng minh về triết lý Việt Nam mà sao ông lại dung tòan tiếng Hán (như quan niệm “tả nhậm”, “Lạc thư” v.v …) ? Đối với tất cả những câu chất vấn đó, ông đều đã có câu trả lời mạch lạc và khúc triết: Tàu nó sang đô hộ ta và tìm cách hủy hết cả những di tích của một nền văn minh văn hóa rạng ngời (như Mã Viện đem cho thu hết trống đồng để đúc hình ngựa cho hắn, như quân Minh thu hồi hết sách vở trong nước để hoặc đem về Tàu hoặc cho đốt sách), trường hợp đó thì lấy đâu ra chứng minh cái của mình, cái của Việt tộc nếu không đi tìm ở trong sách Tàu ? Thậm chí chính sự kiện Tàu tìm cách hủy diệt hết mà rồi cũng vẫn còn phải nhắc đến trống đồng, chẳng hạn, trong tiểu sử (“truyện”) của Mã Viện chính là bằng chứng hùng hồn của nền văn hóa trống đồng của ta. ...
Ngày nay, tham vọng cuối cùng của Linh Mục Kim Định là sẽ dựng xong một bộ kinh (hiểu theo nghĩa “Bible”) cho dân tộc ta. Để thực hiện tham vọng này, ông đã cho in lại hoặc đang in 5 cuốn thuộc bộ “Ngũ KInh Khải Triết”, đó là: Hùng Việt Sử Ca, Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc, Sứ Điệp Trống Đồng và Văn Lang Vũ Bộ (số lớn do nhà in H.T Kelton xuất bản). Nếu ai hỏi tôi rằng có nên đọc hay không thì tôi xin thưa ngay: Dứt khóat là có ! Tại sao ? Tại vì, nếu ta không nhất thiết đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta cũng sẽ được làm thân với một trong những bộ óc triết lý lớn nhất, nếu không của nhân lọai, thì cũng của Việt Nam. Tôi nói điều này trong sự cân nhắc, cũng không khác gì câu tôi sẽ trả lời cho người nào hỏi: Có nên đọc Platon hay Aristote không ? Đã nhất thiết gì ta đồng ý với Platon trong tác phảm La République nhưng ai không đọc tác phẩm đó thì chắc chắn là mất đi một mảng hiểu biết rất rộng lớn về triết học Tây Phương. Cũng như vậy, ai không đọc Kim Định cũng không sao, ông sẽ từ tốn mà “an vi” để chờ một ngày kia người nọ sẽ tỉnh mộng mà trông thấy hết cả cái mất mát của mình.

Chân thành cảm ơn và xin kính chào Giáo Sư.
Chúc buổi Hội Luận thành công.

Vũ Khánh Thành
Giám Đốc Hội An Việt tại Vương Quốc Anh

www.anvietuk.org
www.anviettoancau.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI KHAI MẠC

TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH

Gs. Nguyễn Khắc Mai

Giám đốc Trung tâm Minh triết Việt

Posted Image

Posted Image

Giáo sư Nguyễn Khắc Mai đọc lời khai mạc

Kính thưa các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà báo, các bạn thanh niên, sinh viên quan tâm đến lĩnh vực văn hóa của nước nhà,

Kính thưa các vị đại diện của Ủy ban đoàn kết Công giáo

Kính thưa TS Đặng kim Ngọc GĐ TTVHVMQTG,

Chúng tôi vinh dự được chào đón các quý vị trong cuộc Tọa đàm tưởng niệm cố Triết gia Linh mục Lương Kim Định.

Trong sách Thi thiên của Kinh thánh, quyển III, mục 75, câu 6 có nói: “Vì chẳng phải phương Đông, phương Tây. Hay là từ phương Nam mà có sự tôn cao đến”. Có thể câu này là của Thiên chúa dành cho một người con của ngài, mà chúng ta tôn kính và hôm nay họp mặt để tưởng nhớ, để tìm hiểu những đống góp nhằm tôn cao cổ văn hóa Việt từ phương Nam đến.

Cố triết gia linh mục Lương Kim Định sính ngày 15 – 6 – 1915 tại làng Trung Thành, Nam Định, tốt nghiệp Triết học tại Chủng viện Albert le grand. Từ năm 1944 – 1946 dạy Triết học tại Chủng viện Bùi Chu. Năm 1947 đi học ở Pháp tại Học viện cao học Trung Quốc học – Institut des Hautes e’tudes Chinoises – Paris. Năm 1958 về nước, dạy Triết học ở Học viện Lê Bảo Tịnh – Gia Định,và ỏ nhiều trường ĐH ở MN. Sau 1975, cụ định cư tại Hoa Kỳ, từ trần ngày 25 – 3 – 1977 tại Missouri Hoa Kỳ, hưởng thọ 82 tuổi.

Thưa các quý vị,

Triết gia Lương Kim Định, một gương mặt văn hóa lớn của đất nước. Ông là Linh mục, là triết gia, nhưng trước hết là nhà nghiên cứu cổ văn hóa sử Việt Nam, từng để lại một di sản văn hóa đồ sộ với 46 đầu sách về những lĩnh vực trên. Ông đề xướng thuyết Việt Nho với những cột trụ triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản ... Lập thuyết của ông từng có dư luận khen – chê mà ông từng đề cập trong các trước tác của mình. Tuy nhiên, nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng trân trọng.

Riêng về hai chữ Minh Triết thì có thể coi Lương Kim Định là người hiện đại đầu tiên đã cho sống lại khái niệm ấy và đã cho nó một hàm nghĩa khá có lý. Trước đó vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm đã đề cập đến khái niệm này trong bài phú Thiên quân thái nhiên.

Trung tâm Minh triết cho rằng việc tổ chức nghiên cứu những tác gia và tác phẩm của họ là một nhiệm vụ văn hóa, vừa là để tỏ lòng biết ơn vừa là sự trân trọng đối với những giá trị học thuật mà họ để lại cho đời. Với tinh thần ấy, hôm nay chúng tôi xin mời quý vị lắng nghe hai diễn giả: Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy và GsTs Trần Ngọc Thêm trình bày những kiến giải của mình về học giả Triết gia Lương Kim Định. Đồng thời là những ý kiến của Giáo sư Sử học Chương Thâu, của nhà Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh và của Ts triết học Trần Ngọc Linh. Ban Tổ chức cũng sẽ dành thì giờ để nghe những ý kiến trao đổi. Xin gửi cho chúng tôi phiếu đăng ký phát biểu.

Cuộc Tọa đàm này mở đầu cho những nghiên cứu tiếp theo về những vấn đề học thuật mà Triết gia Lương Kim Định đã đề xuất,

Tọa đàm sẽ kết thúc vào lúc 12 giờ phút sáng hôm nay.

Xin cảm tạ các quý vị

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP TRIẾT GIA KIM ĐỊNH

Hà Văn Thùy

Posted Image

Tôi xin trình bày ba vấn đề: Thứ nhất, Đôi dòng về cuộc đời triết gia Kim Định

Thứ hai, Bước đầu tìm hiểu sự nghiệp triết gia Kim Định

Và thứ ba, Thử đánh giá công hiến của triết gia Kim Định.

I. Đôi dòng về cuộc đời triết gia Kim Định.

Triết gia Kim Định sinh ngày 15.6.1914 tại Nam Định. Sau khi tốt nghiệp triết học tại Chủng Viện Giáo Hoàng Sait Albert Le Grand, ông dạy triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu (1943-1946). Từ năm 1947, ông sang Pháp 10 năm nghiên cứu về triết học tại Học viện Cao học Trung Hoa (Institut des Hautes Etudes Chinoise) để thu thập tài liệu xây đắp nền triết lý Việt Nam.

Trở về nước năm 1957, triết gia Kim Định dạy triết Đông tại Học Viện Lê Bảo Tịnh, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Đà Lạt. Từ năm 1960, ông bắt đầu xuất bản những cuốn sách về triết Việt: Dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, Cửa Khổng, Triết Lý Giáo Dục, Nhân Bản, Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam . . . Trong suốt 16 năm trời tại giảng đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, giáo sư đã ảnh hưởng sâu rộng cho cả một thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng hệ thống triết lý Việt Nho. Từ Đại Học Văn Khoa Sài gòn, ông mở rộng mặt trận tới Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân và An Giang. Chính trong giai đoạn này ông đã sáng lập chủ thuyết Việt Nho và An Vi.

Sau Tháng Tư năm 1975, ông di tản sang Hoa Kỳ. Tại đây, ông tiếp tục nghiên cứu, trước tác và xiển dương triết Việt cùng văn hóa Việt. Năm 1987, tại hội nghị Quốc Tế về “Khổng Học Với Thế Giới Ngày Nay” (International Symposium on Confucianism and the Modern World) tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan, qui tụ 400 học giả khắp thế giới, Triết gia Kim Định cùng với Lm Vũ Đình Trác đã thuyết trình đề tài “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” (A Tao-Field for South East Asia). Bài tham luận đã gây tiếng vang rất lớn trong giới Nho học Á Châu. Sau đó ông còn tham dự Hội Nghị Triết Học tại Brighton Anh Quốc năm 1988 (The World Congress of Philosophy) – Hội Nghị Triết Học Á Châu và Bắc Phi lần thứ 33 tại Toronto Canada năm 1990 (The XXXIII International Conference on Asian and North African Studies).

Do công khai thác và biên khảo, sáng tác của giáo sư, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn ông là Triết Gia Việt Nam. Ảnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của ông đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại văn hóa của mình. Các đồ đệ của ông đã đáp ứng nguyện vọng của Thầy để khai thác và phổ biến Việt Lý qua tổ chức An Việt. An Vi đã như một luồng gió mang tinh thần dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Ảnh hưởng của Triết Gia còn lan rộng tới các học giả, triết gia Âu Mỹ và Viễn Đông.

Triết gia Kim Định từ trần ngày 25 tháng 3 năm 1997 tại dòng Đồng Công hải ngoại, Carthage, Missouri, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi. Ông để lại bộ triết Việt Nho và An Vi, gồm 42 cuốn, với ngót 8000 trang in, mở ra kỷ nguyên mới cho văn hóa dân tộc.

II. Bước đầu tìm hiểu sự nghiệp triết gia kim Định

Những năm học ở Chủng Việt Giáo hoàng tại La Mã và Học viện cao học Trung Hoa tại Paris đã giúp ông có điều kiện thu nhận khối tri thức khổng lồ về văn minh nhân loại. Có thể nói là, ngay bước khởi đầu, Kim Định được trang bị năng lượng tri thức ở tầm mức hàng đầu của nhân loại. Trong khi phần lớn học giả trong nước phải lần mò chủ yếu trên những trang cổ thư Trung Hoa cùng một vài tài liệu phương Tây hiếm hoi thì Kim Định được bơi trong biển kiến thức mênh mông về phương Đông mà phần quan trọng đã được giải mã theo nhãn quan khoa học của các học giả phương Tây. Tiếp đó, trong suốt cuộc đời, Kim Định đã không ngừng tự học, trang bị cho mình những tri thức mới nhất của nhân loại từ khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học, ngôn ngữ học, phân tâm học, huyền học, hiện tượng học, cấu trúc luận và những kiến thức của khoa học vật lý hiện đại… Chính nhờ vậy, cái nhìn của ông không bị giới hạn trong phạm vị khu vực hạn hẹp mà là cái nhìn toàn thế giới với nhãn quan khoa học liên ngành. Trong khi phần lớn học giả người Việt chỉ biết văn minh Trung Hoa từ sau thời Tần Hán thì Kim Định có điều kiện để nhận ra rằng, cái khoảng trống trước Tần Hán mới là quan trọng, mới là quyết định cho văn hóa phương Đông. Khi kiên tâm cày xới mảnh đất còn hoang hóa đó, ông đã nhận được những tín hiệu mang ý nghĩa định hướng sáng suốt về những yếu tố làm nên nước Trung Hoa cổ: “Không nên nói nước Tàu mà phải nói những nước Tàu: có nuớc tàu mạn Bắc gọi là Cathay, có nước Tàu mạn Nam gọi là Manzi. Có nước Tàu mạn Bắc mặc áo len lông thú, uống sữa. Có Tàu xanh phương Nam mặc áo bông ăn gạo. Có Tàu đường sá, có Tàu sông ngòi, có Tàu ngựa xe, có Tàu thuyền bè.” (Paul David: Arts et Styles de la Chine, Larouse 1951). Không chỉ vậy, ông còn được những gợi ý về phương pháp luận tìm sự thực qua huyền thoại, truyền thuyết của Marcel Granet, Paul Mus… Triết gia Kim Định cũng là người rất sớm sử dụng cấu trúc luận trong nghiên cứu. Quan niệm triết là triệt - triệt để, nên ông luôn đặt nhiệm vụ khám phá tới chiều sâu tận cùng của mọi đối tượng nghiên cứu bằng cách truy tìm bốn tầng cấu trúc cùa chúng, bắt đầu từ thể tức thể chế - là tên gọi, hình thức tồn tại của đối tượng, đến từ - ngôn ngữ phản ánh đối tượng, rồi ý – tư tưởng của đối tượng và cuối cùng là cơ – cơ cấu của đối tượng. Chính nhờ vậy, sau nửa thế kỷ tốn tại, sách của ông không những không cũ mà vẫn nói với ta những gì sâu nhất không chỉ về tri thức mà cả trong chiều sâu thẳm của tâm linh Việt. Có thể nói, chính Kim Định là người mở đường đưa ta vào tận đáy sâu của minh triết phương Đông. Hôm nay, tôi xin trình bày hai cống hiến lớn nhất của triết gia Kim Định.

Từ nửa thế kỷ trước, ông tuyến bố:

Người Việt chiếm Trung Hoa trước người Tàu và người Việt đã xây dựng nền văn hóa nông nghiệp Việt nho nhân bản và minh triết. Người Hoa đã học rồi thể chế thành kinh điển đồng thời cũng làm sa đọa Việt nho theo tư tưởng của văn minh du mục Mông Cổ.

Từ chứng lý rất mong manh, Kim Định cho rằng, chính người Việt là chủ nhân của kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc... Không những thế, tiếng Trung hoa và cả chữ vuông Hán ngữ cũng là của người Việt! Đề xuất của Kim Định quả đã gây chấn động, như sấm giữa trời quang khiến những đầu óc yếu đuối hoảng hốt và chống trả ông quyết liệt.

Nhưng nay, khoa học đã làm phát lộ một thực tế còn hơn cả dự cảm của Kim Định: Người Việt chiếm lĩnh đất Trung Hoa trước nhưng không phải từ tây bắc xuống mà lại từ chính Việt Nam lên. Và do là cái nôi của dân cư Đông Á nên Việt Nam là cội nguồn văn minh phương Đông. Bằng những chứng cứ không thể tranh cãi, chúng ta đã chứng minh được rằng, không chỉ Dịch, Thư, Thi… là sáng tạo của người Việt mà tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng Trung Hoa. Không những thế, chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa...

Tuy nhiên thiên tài của Kim Định là trong văn minh phương Đông vô cùng đa tạp, ông lọc ra Việt nho là nền văn hóa cội nguồn do tộc Việt sáng tạo, gồm bốn thành phần:

1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa.

“Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy là sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái “đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu, không tồn tại! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông khôn ngoan đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5 vũ trụ! Dương + Âm = 5= con số vũ trụ! Nhưng vấn để đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2! Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên, là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương của Trời là 3 còn giành cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất. Nhận thức ra bí mật lớn này của vũ trụ nhưng phương Đông không cứng nhắc nói “tam thiên nhị địa” mà ghi nhận theo minh triết “tham thiên lưỡng địa”: đúng là 3 /2 đấy nhưng không phải là tương quan toán học bất định mà là tương quan biện chứng: lúc 3 nhưng có khi du di lớn hoặc nhỏ hơn 3 chút ít, đảm bảo sự năng động của phát triển.

Quan niệm như vậy của phương Đông khác hẳn quan niệm phương Tây. Vốn từ những người săn bắt hái lượm trọng động, chuyển sang du mục cũng trọng động, phương Tây quan niệm về một phương thức sống năng động, triệt để khai thác thiên nhiên cùng cạnh tranh với những bộ lạc khác. Trong con mắt của người phương Tây, vũ trụ cũng như cuộc sống vận hành theo tỷ lệ Dương 4 Âm 1. Đó là sự phát triển nóng, dẫn tới Dương cực thịnh, Âm cực suy, cuối cùng là phá vỡ cân bằng của thiên nhiên, của xã hội, gây ra thảm họa cho con người.

2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.

Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ 3 yếu tố: Thiên, Địa và Nhân, trong đó con người là trung tâm. Là chủ thể của vũ trụ, con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại. Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác.

3. Quan niệm kinh tế: Bình sản

Hai hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân chia tài sản thời cổ, đó là phép tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm 9 phần đều nhau. Tám gia đình cày cấy 8 phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần ruộng giữa, gọi là ruộng giếng (tỉnh điền). Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy.

4. Quan niệm sống: Đạo Việt an vi.

Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại, con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ, không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng và làm việc hết lòng nhưng không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự.

Bốn yếu tố kể trên là những thuộc tính của văn hóa Việt cổ, làm nên minh triết phương Đông, được hình thành từ xa xưa. Sau khi diệt nhà Ân của người Lạc Việt, nhà Chu, một bộ lạc Hoa Hạ, đã thấm nhuần văn hóa Việt, thực hành vương đạo, tập hợp được phần lớn tâm lực của người dân và trí thức Việt, xây dựng nền văn hóa Việt nho rực rỡ: Hoàn chỉnh chữ vuông tượng hình từ chữ khắc trên giáp cốt và đồng thành chữ viết trên thẻ tre và lụa; san định Ngũ kinh: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Chuẩn hóa tiếng nói theo ngôn ngữ phương Nam gọi là Nhã ngữ… Khoảng 500 năm TCN, khi nhà Chu tan rã, nền văn hóa này sụp đổ theo. Từ thời Tần Hán, văn minh du mục bộc phát đã làm đọa lạc văn hóa Việt nho thành Hán, Tống, Minh, Thanh nho... Suốt 2.000 năm nhân loại lầm tưởng toàn bộ gia tài văn hóa trên đất Trung Hoa là khối thống nhất mà chủ nhân duy nhất là người Trung.

Sự phân định của triết gia Kim Định giúp ta nhận ra nền văn hóa cội nguồn do tổ tiên Lạc Việt sáng tạo để học hỏi và áp dụng trong công cuộc xây dựng đất nước Việt trong tương lai.

III. Thử đánh giá công hiến của triết gia Kim Định.

Hàng nghìn năm nay, do không biết cội nguồn cùng văn hóa, lại bị cớm nắng dưới cái bóng khổng lồ Trung Hoa, nhiều người Việt đau buồn cảm thấy dân tộc như bầy trôi sông lạc chợ… Từ nửa thế kỷ trước, Kim Định như nhà tiên tri thấu thị tuyên bố: người Việt chiếm đất Trung Quốc trước người Hoa và xây dựng nền văn hóa Việt nho nhân bản, minh triết!

Cùng chung số phận những nhà tiên tri, suốt năm mươi năm Kim Định bị ghẻ lạnh và ném đá!

Nhưng ngày nay, thời gian và khoa học minh chứng cho Kim Định. Thuyết Việt nho và An vi của ông trở thành báu vật không chỉ giúp dân tộc Việt tìm lại bản thể của mình để xây dựng một dân tộc Việt Nam mới mà còn thắp lên ngọn lửa minh triết soi đường cho nhân loại.

Thế giới đang trong cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế chưa từng có. Truy nguyên sự cố này, triết gia phương Tây cho rằng do nam quyền lấn át nữ quyền. Và phương thuốc cứu chữa là trả lại quyền cho phụ nữ (!) Kim Định có cách nhìn khác. Biết rằng cuộc khủng hoảng như vậy tất phải nổ ra nhưng ông cho rằng, do 300 năm qua, chủ nghĩa tư bản phương Tây mang văn minh du mục duy lợi, đề cao chủ nghĩa cá nhân cực đoan, triệt để khai thác thiên nhiên, bóc lột đồng loại, nâng khoảng cách giầu nghèo lên quá xa, khuếch trương lòng tham và sự tiêu thụ quá mức… dẫn thế giới tới sụp đổ.

Nữ quyền bị chén ép chỉ là biểu hiện cụ thể của sự vận hành lớn lao bao quát hơn mà do thiếu minh triết, phương Tây không nhìn ra: đó là sự mất cân bằng Âm Dương.

Trong khi vũ trụ vận hành hài hòa là ba Dương hai Âm thì chủ nghĩa tư bản đẩy thế giới đi theo chiều bốn Dương một Âm khiến Dương cực thịnh Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Muốn cứu thế giới, chỉ có con đường là toàn thể loài người đồng tâm hiệp lực nắn lại chiều vận hành của thế giới theo minh triết phương Đông tham thiên lưỡng địa.

Trong cuộc khủng hoảng này, Việt Nam bị ảnh hưởng dữ dội. Là cái nôi của minh triết phương Đông, con người và xã hội Việt Nam giữ trong mình những kháng thể bền bỉ của văn hóa nông nghiệp Việt nho. Nhưng do tác động mãnh liệt và kéo dài của văn minh du mục ngoại lai, kháng thể của xã hội Việt bị hủy hoại, dẫn tới cuộc suy thoái không chỉ kinh tế mà còn văn hóa, xã hội, đạo đức…

Tuy nhiên, do là cội nguồn của minh triết phương Đông, nếu biết phát hiện lại mình, thực thi bốn đặc điểm của Việt nho, Việt Nam không chỉ cứu được mình mà còn là ngọn cờ dẫn đắt nhân loại trên con đường phục hưng.

Do lẽ đó, di sản của triết gia Kim Định là báu vật vô cùng quý giá mà chúng ta phải trân giữ, học hỏi và truyền dạy cho hậu thế.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng Sáu 2012

Share this post


Link to post
Share on other sites

GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH

NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT.

Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Giám đốc TTNC LHDP

www.lyhocdongphuong.org.vn

Posted Image

Kính thưa các vị đại biểu.

Kính thưa các vị khách quý có mặt nơi đây.

Những lời đầu tiên của bài tham luận này tôi xin được thể hiện sự thành tâm ngưỡng vọng tới anh linh giáo sư Lương Kim Định, người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt. Chính vì những giá trị của giáo sư để lại cho hậu thế về một nền minh triết Việt mà chúng ta có mặt nơi đây.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với ban tổ chức đã cho tôi có điều kiện thể hiện những suy tư của mình về những giá trị của cội nguồn minh triết Việt và giáo sư Lương Kim Định – một người mà tôi rất tôn trọng và quý mến, khi được biết đến những trước tác của ông.

Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn đối với các vị khách quí đã quan tâm đến chủ đề này và có mặt nơi đây.

Kính thưa quí vị.

Bài tham luận của chúng tôi xin được bắt đầu với phần thứ nhất có tựa là :

I - GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH

- NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT.

Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều biết đến câu ca dao nổi tiếng của nền văn hóa truyền thống Việt:

“Ta về ta tắm ao ta.

Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”.

Đây cũng chính là câu ca dao mà giáo sư Lương Kim Định nhắc tới trong lời tựa cuốn sách của ông : “Triết lý cái Đình”.

Câu ca dao tưởng như rất trực quan, rất bình thường, dân dã ấy, như chỉ là một ngạn ngữ khuyên con người Việt Nam hãy dùng những gì mình có. Vì nó là của ta. Cho nên nó tự do hơn và khoáng đạt hơn khi phải mượn tạm những gì của người khác.

Sâu xa hơn, vì nó là của ta, nên nó là những giá trị đích thực. Nhưng ai cũng biết cái “ao ta” ấy chỉ là một hình tượng cho sự sở hữu của ta. Và chỉ khi nó là của ta thì ta mới có tự do vùng vẫy trong cái “ao ta” ấy, “dù trong, dù đục”. Trong hay đục thì chưa biết. Nhưng đoạn chót của câu ca dao ấy đã khẳng định : “ao nhà vẫn hơn”.

Như vậy, nó đã xác định rằng: “Ao ta” hơn hẳn “ao người”.

Nhưng “ao ta” ở đâu và “ao người” ở đâu? Phải chăng để đi tìm cái “ao ta” ấy người xưa đã muốn nhắc nhở con cháu tìm về cội nguồn? Và cội nguồn của Việt tộc, chính là cái “ao ta” ấy sẽ hơn hẳn “ao người”!?

Một sự tương đồng, nhưng rõ ràng và thẳng thắn hơn với nội dung minh triết sâu xa của câu ca dao trên, chính là bài ca của cô Tấm. Mỗi khi cho cá ăn - tài sản ít ỏi và duy nhất của cô - để chia sẻ tâm tư khi phải sống chung với mụ dì ghẻ độc ác, cô Tấm lại cất tiếng gọi:

Bống bống bang bang.

Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta.

Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người.

Như vậy, đến bài ca của cô Tấm thì những cái gì của ta, nó không còn mơ hồ giữa “trong” hay “đục”. Mà nó đã là sự khẳng định giá trị đích thực của nền minh triết Việt:

Cũng là cơm. Nhưng cơm của Tấm là “cơm vàng, cơm bạc” là giá trị đích thực chói sáng của nền minh triết Việt. Còn cái giống như thế, cũng là “cơm”, nhưng là “cơm hẩm, cháo hoa nhà người”.

Nhưng những hạt cơm vàng, cơm bạc của cô Tâm từ ngày xửa, ngày xưa ấy, đã rơi vãi đâu đây trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc?

Có cái gì để thay thế phép lạ của Bụt sai khiến đàn chim đến nhặt hết những hạt sạn sỏi trộn chung với thóc , để trả lại một màu vàng óng, nguyên sơ của thúng thóc được tạo ra với bao công sức cần lao của con người?

Phải chăng đấy là những giá trị minh triết Việt, được mã hóa trong những câu chuyện cổ tích, huyền thoại gửi gấm lại đời sau?

Nhưng những hình ảnh minh triết ấy đưa chúng ta về đâu và nó muốn nói đến một giá trị đích thực gì ẩn chứa đằng sau của cái “ao nhà vẫn hơn”; của cái “cơm vàng, cơm bạc nhà ta” ấy?

Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm nữa qua đi với bao thăng trầm của Việt sử. Những ngọn lửa chiến chinh khốc liệt đã không chỉ một lần thiêu đốt, tàn phá nền văn hóa đầy minh triết của Việt tộc. Câu chuyện “cơm vàng cơm bạc nhà ta” của cô Tấm đã trở thành chuyện cổ tích thuộc về “ngày xửa, ngày xưa”. Cái “ ao nhà vẫn hơn “ ấy cũng lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống náo nhiệt, phồn vinh của nền văn minh kỹ thuật, Việt sử với 5000 năm văn hiến đã trở nên huyễn ảo từ nơi cội nguồn.

Đã không ít những học giả lóa mắt trước ánh sáng đèn của nền văn minh Tây phương, nên không nhìn thấy những gía trị đích thực của nền minh triết Việt. Cũng không ít những học giả cả trong và ngoài nước, đặt câu hỏi phản biện những giá trị văn hóa sử Việt 5000 năm văn hiến rằng:

Tại sao gọi là văn hiến mà nền văn hiến truyền thống đầy tự hào ấy, thiếu vắng những gía trị minh triết?

Tại sao những nền văn minh tồn tại ngắn hơn về thời gian, lại ghi nhận những gía trị minh triết với những triết gia tên tuổi và những di sản như là những kỳ tích của nền văn minh nhân loại?

Còn 5000 năm văn hiến Việt được ghi nhận trong lịch sử và truyền thống đầy tự hào ấy còn có gì đâu?

Vấn đề đã được đặt ra cho những con người Việt Nam đau đáu đi tìm cội nguồn minh triết Việt. Một trong những con người Việt Nam ấy là giáo sư linh mục Lương Kim Định.

Với hàng chục đầu sách nổi tiếng một thời , giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách sâu sắc về minh triết Việt. Ông đã nhìn thấy linh hồn của nền văn minh Việt trong những giá trị căn bản của văn hóa Phương Đông - Trong đó có Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Lạc Thư minh triết” và được nhắc lại trong nhiều tác phẩm khác của ông.

Trong “Lạc thư minh triết”, ông đã tìm thấy mối liên hệ tương đồng giữa những truyền thuyết về huyền sử Việt với những đồ hình biểu kiến mang tính căn để của Lý học Đông phương. Đó là Lạc Thư và Hà Đồ.

Ông cũng đã tìm thấy những điểm tương đồng của minh triết Đông phương bàng bạc, lưu truyền trong những di sản văn hóa truyền thống Việt. Từ đó ông đã đặt vấn đề về một “Cơ cấu Việt Nho” để xác định một nền minh triết Việt đầy nhân bản và tách ra khỏi Hán Nho.

Trong tác phẩm “Cơ cấu Việt Nho” – với một trí thức uyên bác, ông đã so sánh hầu hết những tư tưởng minh triết Đông Tây Kim cổ với những mảnh lấp lánh còn lại trong di sản truyền thống văn hóa sử Việt, qua những truyền thuyết , huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, trong những câu ca dao và so sánh với hầu hết những giá trị của Lý Học Đông phương, kể cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và với hệ thống Thi, Thư vốn được coi là của Hán tộc.

Trên những cơ sở đó ông đã mặc định về một hệ thống Việt Nho bàng bạc tương đồng từ thời cổ sử.

Trong tác phẩm “Triết lý cái Đình”, ông đã xác định ngay từ đầu: “Việt Nam đã có một nền minh triết”.

Có thể nói rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra một vấn đề trải rộng trên nhiều mặt của những giá trị văn hóa Đông phương - từ hàng thiên niên kỷ nay vẫn được mặc định thuộc về nền văn minh Hán – và ông đã tìm thấy một sự tương đồng đến

kỳ lạ ở nền văn hiến Việt. Ông đã khai phá trong sự hỗn độn, huyền bí của nền văn minh Đông phương để chỉ ra một gía trị minh triết Việt tương đồng.

Nhưng giáo sư Lương Kim Định vẫn chưa đạt được đến đích. Đây là cái khó của giáo sư. Cái khó ấy ông đã viết ngay trong mục I, phần thứ nhất của cuốn “Cơ cấu Việt Nho”. Ông viết:

1. Tại sao không Việt lại Nho?

Thưa vì Nho với Việt là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế.

Đây là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận. Vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt và nó xuất phát từ nước Tàu chứ có phải của vô thừa nhận đâu, để cho ai muốn kéo về với mình cũng được.

Vâng! Thưa quí vị.

Đây chính là điều cản trở gây khó cho giáo sư khi tìm về cội nguồn minh triết Việt. Mặc dù ông đã đặt vấn đề một cách hoàn mỹ và toàn diện về sự tương đồng giữa những di sản truyền thống của văn hiến Việt với những giá trị mình triết Đông phương. Nhưng điều cản trở ông, chính là ông vẫn cho rằng những giá trị cốt lõi của minh triết Đông phương vẫn thuộc về người Hán. Vẫn có một thứ Hán nho sừng sững bên cạnh Việt Nho. Một thứ “ao người” bên cạnh cái “ao ta” đầy huyễn ảo giữa hai dòng trong đục.

Tuy nhiên, đến đây tôi cũng cần phải nói rõ rằng: Bằng một sự mẫn cảm của một học giả uyên bác, giáo sư Lương Kim Định cũng đã đặt ra vấn đề cội nguồn lịch sử của Hán Nho. Ngay tiếp theo đoạn trích dẫn ở trên, ông đã viết:

Thế nhưng lại có thể trả lời rằng: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa? Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu.

Đến đây, quí vị cũng thấy rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách rất xác đáng: Lịch sử của nền minh triết Hán Nho – vốn được coi là cội nguồn của văn minh Đông phương – cũng rất huyễn ảo. Nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở đây và vẫn vì sự cản trở của quan niệm cho rằng có một nền minh triết Hán Nho xuất phát từ văn minh Hán.

Cội nguồn minh triết Việt vẫn còn đầy huyễn ảo.

Cái “ao ta” mầu nhiệm ấy vẫn còn chờ “gạn đục, khơi trong”, khi nó vẫn hỗn mang giữa hai dòng “trong”, “đục”.

Miếng “cơm vàng, cơm bạc” của cô Tấm ngày xưa vẫn còn trộn lẫn trong sỏi đá và chờ phép màu của Đức Phật.

Phép màu nói theo ngôn ngữ của thời “ngày xửa, ngày xưa”, nhưng diễn ra ngôn ngữ hiện đại thì chúng ta cần một phương pháp đúng để tìm về cội nguồn. Phần tiếp theo đây, chúng tôi xin được đề cập đến là:

II – TÌM VỀ CỘI NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT

Kính thưa quí vị.

Tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết đến những câu nổi tiếng của bài Bình Ngô Đại cáo, do đại danh nhân, anh hùng dân tộc Việt - Nguyễn Trãi viết:

Như nước Đại Việt ta thuở trước.

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Trải Triệu, Lê, Lý , Trần xây nền độc lập.

Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương.

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau.

Nhưng hào kiệt thời nào cũng có.

Và trong Hoàng cung Huế, một bức thi pháp của vua Minh Mệnh cũng viết:

Văn hiến thiên niên quốc.

Xa thư vạn lý đồ.

Hồng Bàng khai tịch hậu.

Nam phục nhất Đường Ngu.

Kính thưa quí vị.

Có thể nói rằng: Trong lịch sử văn minh nhân loại, chỉ duy nhất có Việt sử ghi nhận với niềm tự hào là quốc gia văn hiến. Vậy thì cội nguồn văn hiến đó từ đâu, khi mà chính nền văn minh Hán cũng khiêm tốn và chưa sốt sắng lắm khi nhận mình là một quốc gia văn hiến trong lịch sử?

Các văn bản còn lại trong chính sử, trong truyền thống văn hóa sử Việt, đã chỉ thẳng đến thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang - là quốc gia đầu tiên của Việt tộc - lập quốc vào năm 2879 trc CN và chính là cội nguồn của danh xưng văn hiến Việt.

Nhưng – như chúng tôi đã trình bày: Lớp bụi thời gian của hơn 1000 năm Bắc thuộc và tiếp đó là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của Việt sử, đã phủ dày lớp lớp rêu phong lên cội nguồn văn hiến Việt. Hàng ngàn năm không phải là con số để đọc trong một giây. Chỉ với ngay cuộc đời của những vị cao niên có mặt nơi đây, đã đủ chứng kiến bao nhiêu cuộc bể dâu trong cuộc sống của chúng ta.

Hàng ngàn năm đã trôi qua. Việc tìm về nguồn cội Việt tộc không thể dễ dàng.

Nhưng có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong nền minh triết Việt mà chắc tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết, mà nội dung của nó như đã an ủi những con người Việt Nam đau đáu tìm về cội nguồn; đó là câu truyện Trê Cóc.

Câu chuyện kể lại rằng:

Đàn con của cóc là bầy nòng nọc, bị vợ chồng cá trê vốn hiếm muộn thấy nòng nọc giống mình, nên đã bắt về làm con của Trê.

Mẹ Cóc thấy mất con và biết Trê đã lấy con của mình, bèn đi kiện. Nhưng trước hình thức khác hẳn Cóc và giống Trê của bầy nòng nọc, nên quan cá Chép đã xử cho Trê thắng kiện.

Cóc đau buồn trở về thì Nhái Bén khuyên Mẹ Cóc hãy chờ đợi. Thời gian sẽ làm bày nòng nọc tiến hóa và sẽ trở về với Mẹ Cóc, trở về với cội nguồn.

Kính thưa quí vị.

Theo cách hiểu hoàn toàn chủ quan của chúng tôi thì đây chính là một câu truyện đầy tính minh triết của Việt tộc. Nòng nọc – tức là nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc, bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó ở miền Nam sông Dương tử, nên đã mang một hình thức khác là văn tự Hán . Cho nên nó có một vẻ bề ngoài thuộc về văn minh Hán – đó là hình tượng trong câu chuyện Trê Cóc, khi nòng nọc có bề ngoài giống Trê. Với hình thức bề ngoài đó và sự mạo nhận của đế chế Hán , khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến ai cũng tưởng nó thuộc về văn minh Hán. Nhưng bản chất di truyền tế vi, mà không dễ ai cũng nhận thức được thì nòng nọc vẫn là con của Cóc.

Câu chuyện dân gian Việt Nam độc đáo ấy, muốn chuyển tải một thông điệp vượt thời gian đầy minh triết cho chúng ta thấy rằng:

Với sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại thì chính những tri thức của nền khoa học hiện đại, sẽ thấy được bản chất của cội nguồn nền minh triết Đông phương thuộc về nền văn minh Khoa đẩu. Bầy nòng nọc sẽ biến thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử. trong sự chờ đợi mỏi mòn của Mẹ Cóc.

Nhưng thời gian ấy là bao lâu trong sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miền nam sông Dương tử?

Kính thưa quí vị.

Có vẻ như là một lời mặc khải huyền vĩ - cách đây xấp xỉ 70 năm về trước - trong nhạc phẩm nổi tiếng của nền âm nhạc hiện đại Việt, như là câu trả lời cho vấn nạn thời gian của việc tìm về cội nguồn Việt sử. Đó là nhạc phẩm bất hủ “Hòn vọng phu” nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Thương.

Chắc nhiều quý vị lớn tuổi ngồi đây đều biết nội dung một đoạn lời nhạc này trong nhạc phẩm nổi tiếng nói trên:

Ta cố đợi ngàn năm.

Một ngàn năm nữa sẽ qua.

Đến khi núi lở, sông mòn. Mới mong tới hòn Vọng phu.

Kể từ khi Việt sử chìm trong bóng tối dưới sự thống trị của đế chế Hán, đến nay hơn 2000 năm đã trôi qua. Qua hơn hai ngàn năm ấy, sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những tri thức khoa học, kỹ thuật vượt trội. tri thức khoa học đã tìm thấy những cấu tạo tế vi của vật chất, cũng như sự vận động của những thiên hà khổng lồ. Nó đã tìm thấy được bản chất của sự di truyền. Nó đã kết nối các nền văn minh cổ xưa trong sự hội nhập toàn cầu vĩ đại. Nó đã soi ánh sáng của tri thức hiện đại vào những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ.

Phải chăng, đây chính là thời gian được mặc khải trong lời nhạc phẩm Hòn Vọng phu, để đàn nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và về với cội nguồn Việt sử?

Đến đây, chúng tôi cần nói rõ để mong được quí vị lưu ý rằng:

Chúng tôi không coi việc giải mã những truyền thuyết, truyện cổ, ca dao tục ngữ dân gian…vv….. làm bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Đấy không phải là phương pháp được khoa học công nhận - Chí ít là trong giai đoạn này hiện nay.

Bởi vì tri thức khoa học ngày nay, chưa có một tiêu chí để làm chuẩn mực, xác định một phương pháp giải mã những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được coi là đúng.

Chúng tôi cũng không dùng sự suy luận chủ quan, hoặc nhân danh ngoài khoa học để xác định luận điểm của chúng tôi, khi chứng minh cội nguồn minh triết Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử.

Kính thưa quí vị.

Chúng ta đang tiếp bước theo các bậc tiền nhân để đi tìm về cội nguồn văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, mà một trong các vị tiền bối khả kính ấy chính là giáo sư Lương Kim Định – là nguyên nhân để chúng ta có mặt ngày hôm nay - cùng chia sẻ những giá trị mà ông đã để lại, trong công cuộc tìm về cội nguồn văn hiến Việt.

Chúng ta có thuận lợi hơn so với thời đại của giáo sư Lương Kim Định đã sống. Đó chính là sự tiến bộ vượt bậc của những tri thức khoa học hiện đại, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.

Đó là những phương pháp luận khoa học, những tiêu chí khoa học , cùng với những thành tựu của khoa học hiện đại, để so sánh, đối chiếu thẩm định một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp ứng dụng được coi là đúng.

Từ những giá trị đó của tri thức khoa học hiện đại , chúng tôi coi như là những phương tiện hữu hiệu để tiếp bước các bậc tiền bối tìm về cội nguồn minh triết Việt và khám phá những giá trị thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ.

Phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày về:

III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN

NHỮNG GÍA TRỊ CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG.

Kính thưa quý vị.

Chúng ta đang sống trong một thời đại chuyển tiếp của sự hội nhập toàn cầu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những thành tựu khoa học tiên tiến nhất tính đến ngày hôm nay. Tất cả những gía trị của các nền văn minh từ thời cổ đại đến nay đều được chia sẻ và được biết đến qua mạng thông tin toàn cầu.

Nhưng có một nền văn minh cổ xưa vẫn sừng sững một cách huyền vĩ, thách đố tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại trong thời hội nhập. Đó chính là nền văn minh Đông phương huyền bí.

Phải chăng đó là vì người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Cái sai đầu tiên và cũng rất phổ biến trong tất cả các nghiên cứu về cội nguồn văn minh Đông phương - mà trong quá trình nghiên cứu về Lý học Đông phương, chúng tôi đã nhận thấy rằng:

Đó chính là sự mặc định nó thuộc về văn minh Hán .

Từ đó, khiến dẫn đến một hệ quả đương nhiên cho rằng: Những giá trị của nền văn minh Đông phương ghi nhận trong các bản văn chữ Hán là những thành tựu của nền văn minh này. Và đó chính là nguyên nhân khiến người ta sẽ không thể phục chế được một cách có hệ thống và tính nhất quán những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương. Mà nền tảng căn bản của là thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Đây cũng chính là điều mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề - tôi xin được nhắc lại như sau:

Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu.

Kính thưa quí vị!

Để xác định cội nguồn Việt tộc và phủ nhận sự mặc định phổ biến từ ngàn xưa về nguồn gốc Hán của nền minh triết Đông, chúng ta phải viện dẫn đến tri thức khoa học hiện đại và nhân danh khoa học.

Tiêu chí khoa học hiện đại đã xác định một học thuyết thuộc về nền văn minh nào đó thì nó phải thỏa mãn ba yếu tố sau:

1/ Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó.

2/ Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó.

3/ Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó.

Trên cơ sở tiêu chí khoa học này chúng tôi đã xác định:

Những minh chứng một cách chi tiết cho luận điểm này và mọi vấn đề liên quan, chúng tôi đã trình bày trong các tác phẩm đã xuất bản và trong các tiểu luận được trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Quí vị quan tâm có thể tham khảo ở website trên.

Trong phạm vi bài nói hôm nay, chúng tôi xin trình bày một cách tóm tắt như sau:

Yếu tố thứ nhất (1).

Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó.

Trên cơ sở này chúng ta xem xét lịch sử phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nền văn minh Hán.

Trước hết chúng ta hãy xem xét nội dung của cuốn Hoàng Đề nội kinh tố vấn. Đây là cuốn sách về lý luận căn bản của Đông y nổi tiếng với thời gian hình thành được xác định vào thời Hoàng Đế, hơn 3000 năm trước CN. Nội dung của cuốn sách này hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là hệ quả của một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Ở đây, nếu có vị nào đã một lần xem được cuốn Hoàng Đế nội kinh sẽ nhận thấy điều này.

Nhưng 1000 năm sau đó - Đây cũng không phải là con số được đọc trong một giây – thì vua Đại Vũ theo cổ thư chữ Hán mới tìm ra Lạc Thư và phát minh ra thuyết Ngũ hành.

Sau đó 1000 năm nữa cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Văn Vương nhà Chu mới sáng tạo ra Hậu Thiên Bát quái Văn Vương và làm ra cuốn Chu Dịch.

500 năm sau đó, theo cổ thư chữ Hán thì một vị danh sư được coi là Khổng tử mới bổ sung vào cuốn Chu Dịch và khái niệm Âm Dương trong văn bản cổ nhất xuất hiện vào thời kỳ này.

Tóm lại, thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán với một tiến trình ngược theo kiểu :

Sinh con rồi mới sinh cha.

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

Để xác định rõ hơn: Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử và Lý học Trung Hoa hiện đại cho đến tận ngày hôm nay - khi chúng ta gặp nhau ở đây - vẫn không thể xác định được Thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ nào trong lịch sử văn minh Hán. Đúng như giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề từ hơn 40 năm trước.

Yếu tố thứ hai (2):

Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó.

Về vấn đề này thì chúng tôi đã chứng minh rằng: Toàn bộ lịch sử của nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm nay không chứng tỏ được một nền tảng tri thức xã hội tạo nên thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ tính riêng sự phát triển bất hợp lý trong quá trình hình thành học thuyết này theo bản văn chữ Hán, đã cho thấy nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Còn những hệ quả ứng dụng của nó - tôi thí dụ như bảng Lục thập Hoa giáp – thì chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng phải phát biểu rằng: “Không hiểu từ cơ sở nào để các tiền nhân Trung Hoa đặt ra bảng Lục thập hoa giáp này? Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về nó, nhưng đến nay vẫn cứ là huyền bí, khó hiểu !” (Thiệu Vĩ Hoa. “Chu Dịch và Dự đoán học”& “Dự đoán theo tứ trụ”)

Tóm lại từ hàng ngàn năm nay, chính những người Trung Hoa cũng chỉ biết học thuộc lòng và ứng dụng. Họ không thể phục hồi lại được một học thuyết nền tảng của nền minh triết Đông phương – thuyết Âm Dương Ngũ hành – tiền đề cho các bộ môn ứng dụng là hệ quả của nó.

Nếu như nền tảng tri thức của nền văn minh Hán chính là cơ sở hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị của nó chính là thành tựu đạt được trên cơ sở nền tảng tri thức đó - cho dù giải thích bằng tính thất truyền - thì – người ta đã phục hồi được nó từ lâu. Chứ không thể huyền bí hơn 2000 năm nay cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi ở đây để tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định và bàn về những di sản của giáo sư tìm về cội nguồn minh triết Việt.

Nòng nọc về bản chất không phải con của Trê.

Yếu tố thứ ba (3) là:

Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó.

Về vấn đề này thì chúng tôi cần xác định rằng:

Cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong các bản văn chữ Hán thậm chí không thể chứng tỏ đó là một học thuyết hoàn chỉnh. Chưa nói đến tính hợp lý, tính hệ thông và nhất quán của nó. Chúng đầy rẫy những mâu thuẫn và có tính tự phủ định trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Hiện tượng này đã khiến cho những nhà nghiên cứu chuyên môn sâu của chính nền văn minh Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay, cũng mâu thuẫn nhau khi giải thích những vấn đề liên quan đến nó. Theo kiểu “thày bói xem voi”, mà một câu truyện nổi tiếng của nền minh triết Việt đã nói đến.

Những chứng minh rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này, quí vị có thể tham khảo tại website lyhocdongphuong.org.vn của chúng tôi.

Ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn chứng một số những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán, tương đối phổ biến.

Đầu tiên là môn phong thủy. Có lẽ hầu hết những người quan tâm đến phong thủy - được coi là xuất phát trong lịch sử văn minh Hán - đều biết rằng có đến 4 trường phái phong thủy lưu truyền. Những trường phái này có những luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau trong những ứng dụng cụ thể. Ông thày thuộc trường phái này thì phản đối phương pháp của ông thày theo trường phái khác. Và hệ quả của nó là nội cái bếp của gia chủ, nếu có nhiều ông thày theo cổ thư chữ Hán đến sửa thì nó quay đủ các hướng khác nhau.

Hoặc cụ thể hơn chính là câu chuyện được ghi nhận trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có tựa là “Nhật giả liệt truyện”. Trong câu chuyện này, Tư Mã Thiên đã miêu tả việc các thày bói Trung Hoa được Hán Vũ Đế triệu tập, để chọn ngày cưới vợ cho nhà vua. Nhưng các thày cãi nhau ỏm tỏi cả ngày, đỏ mặt tía tai, mà vẫn không thống nhất được ngày nào được coi là tốt để cưới vợ cho vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa.

Như vậy, với sự giới thiệu những luận cứ tiêu biểu, căn cứ vào tiêu chí khoa học , chúng tôi đã xác định rằng: Cội nguồn minh triết Đông phương không thể thuộc về văn minh Hán.

Tiếp theo đây, chúng tôi xin giới thiệu một cách nghiêm túc những cách giải thích khác cho sự bí ẩn của nền văn minh Đông phương, nhằm làm sáng tỏ them tính bế tắc khi xác định sai lầm về cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về văn minh Hán.

Kính thưa quí vị.

Cách giải thích thứ nhất, mà có lẽ các quí vị ít được nghe, cho rằng:

Thuyết Âm Dương Ngũ hành là do người ngoài hành tinh có một nền văn minh vượt trội đã đem đến trái Đất. Vì kiến thức vượt trội của nền văn minh ngoài trái Đất, nên chúng ta không thể hiểu nổi!?

Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này, vì những giá trị của nó phục vụ cho con người và xuất phát từ những thực tại khách quan trên chính trái Đất này. Do đó nó không thể là của người ngoài hành tinh ban cho trái Đất này.

Nhưng còn một giả thuyết nữa thì đã có từ lâu và có thể ít nhiều trong chúng ta được nghe nói tới. Đó là việc cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành do các bậc tiên thánh làm ra, nên người phàm không thể hiểu nổi.

Một câu “thành ngữ” thuộc về “ chuyên ngành bói toán” tồn tại từ cách đây mới ngót nửa thế kỷ trờ về trước, mà những vị lớn tuổi đều biết, đó là: “Theo quẻ này thì Thánh dạy rằng:….”. Và Thánh ở đây được hiểu là những bậc siêu phàm từ cõi trên, không thuộc về cõi trần gian này. Tất nhiên đây không phải cách giải thích nhân danh khoa học. Nhưng nó gián tiếp phủ nhận nền tảng tri thức của nền văn minh Hán không phải là cơ sở tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì nó thuộc về trí tuệ của tiên thánh.

Tất cả hai cách giải thích trên, cũng mặc nhiên xác định cội nguồn lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Và nó đã phản ánh sự bế tắc, khi không thể khám phá được những bí ẩn của lý học Đông phương bằng một tư duy khoa học. Bởi vì bản chất của nền minh triết Đông phương không thuộc về văn minh Hán.

Tiếp theo đây chúng tôi minh chứng sự xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trong phần III của bài tham luận này:

III .THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THUỘC VỀ VĂN HIẾN VIỆT

Kính thưa quí vị.

Khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương không thuộc về văn minh Hán, chúng tôi đã xóa bỏ được sai lầm ngay từ dữ kiện đầu vào của việc đi tìm cội nguồn minh triết Đông phương. Từ đó, chúng tôi xác định với một giả thiết có cơ sở là nó thuộc về nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử.

Đây cũng chính là vấn đề mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra trong các trước tác của ông.

Cũng trên cơ sở của giả thuyết này thì vấn đề hợp lý tiếp theo được đặt ra là:

Những gì được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể sai lệch và không phản ánh đúng nội dung nguyên thủy của nó – khi nền văn minh Việt đã sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Điều này đã phản ánh trên thực tế bằng những thất bại của những học giả nghiên cứu theo hướng này, không phải bây giờ, hoặc vài chục, vài trăm năm. Mà là đã hàng thiên niên kỷ.

Kính thưa quí vị.

Những tiêu chí khoa học được trình bày ở trên với những luận cứ phù hợp đã xác định rằng: Cơ sở nền minh triết Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh Hán. Đồng thời những tiêu chí khoa học đó , cũng chính là những yếu tố cần để xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương và tìm về cội nguồn minh triết Việt - một cách sòng phẳng, công bằng và nhân danh tính khách quan khoa học.

Nhưng để chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, còn cần phải đối chiếu, so sánh với nhiều tiêu chí khoa học khác với những luận cứ khách quan có thể kiểm chứng.

Cụ thể là:

*Sử dụng những tiêu chí khoa học hiện đại gồm những yếu tố cần và đủ cho việc xác minh tính khoa học của một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng.

*Những tiêu chí khoa học kết hợp với những thành tựu của tri thức khoa học hiện đại đã được kiểm chứng làm cơ sở so sánh, đối chiếu với những gía trị còn lại của nền minh triết Đông Phương . Đồng thời kết quả nghiên cứu phải phù hợp với tiêu chí khoa học.

Việc chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, chúng tôi cũng bắt đầu so sánh với ba tiêu chí xác định một học thuyết thuộc sở hữu của nền văn minh nào, đã trình bày ở trên.

Yếu tố thứ nhất (1).

Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó.

Chúng tôi đã xác định rằng :

Nền văn hiến Việt chính là cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây chính là giả thiết mà chúng tôi đặt ra nhân danh khoa học, sau khi bác bỏ cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán.

Những tiêu chí khoa học xác định rằng: Một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính hoàn chính, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri.

Đây chính là cơ sở cho những luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học của một giả thuyết nhân danh khoa học, xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt tộc.

Vấn đề lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt là một giả thuyết nhân danh khoa học. Do đó, chúng tôi phải chứng minh giả thuyết này phù hợp với tất cả những tiêu chí khoa học xác định một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thông qua hai yếu tố còn lại của tiêu chí xác định cội nguồn văn minh cho một học thuyết đã trình bày ở trên.

Yếu tố thứ hai (2):

Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó.

Chứng minh được giả thuyết này là một việc cực kỳ khó khăn. Vì lịch sử thăng trầm với hơn một ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và 1000 năm hưng quốc sau đó với bao cuộc chiến tranh xâm lược hủy diệt văn hóa Việt, đã xóa nhòa những dấu ấn của nền văn minh Việt tộc.

Nhưng chính bề dày của nền văn hiến có cội nguồn từ thời Hùng Vương dựng nước từ gần 5000 năm trước, đã để lại cho chúng ta những dấu ấn qua những di sản văn hóa phi vật thể - mà những dấu ấn đó chính là những phát hiện của giáo sư Lương Kim Định trong các tác phẩm của ông – đã được chúng tôi đã bổ sung, làm sáng tỏ hơn trong những luận cứ của mình.

Ở đây chúng tôi cũng xin được lưu ý các quí vị quan tâm là:

Vào tháng 5. 2002, cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã thống nhất xác định rằng: Những di sản văn hóa phi vật thể là những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử.

Như vậy, di vật khảo cổ, tư liệu văn bản cổ..vv… không phải là bằng chứng không thể thay thế chứng minh cho lịch sử.

Kính thưa quý vị.

Chúng tôi đã chứng minh một cách chi tiết nền tảng minh triết Việt là cơ sở phục hồi và phù hợp với sự hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các sách đã xuất bản với những tiểu luận được đăng tải trên website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể quen thuộc với tất cả những con người Việt Nam, trong kho tàng di sản văn hóa Việt còn lại qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử Việt tộc.

Xin quý vị xem bức tranh dân gian dưới đây:

Posted Image

Kính thưa quí vị.

Tôi tin chắc rằng bức tranh dân gian đầy chất dân dã này , quá quen thuộc với tất cả con người Việt Nam - Từ những đứa trẻ bắt đầu có nhận thức cho đến những vị cao niên. Tùy theo góc nhìn, chúng ta có thể hiểu nội dung bức tranh dưới nhiều góc độ. Nhưng chúng tôi xin lưu ý quí vị về biểu tượng chiếc vòng xoáy trên bụng con lợn mẹ trong tranh và so sánh với một biểu tượng gần giống cũng rất đỗi quen thuộc với chúng ta, là đồ hình dưới đây:

Posted Image

Tất cả chúng ta đều biết rằng đồ hình trên chính là biểu tương cho sự minh triết Hán nho thể hiện trong Kinh Dịch và những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nó có mặt ở khắp nơi và mang dấu ấn của nền văn hóa Hán. Nó ăn theo sự bí ẩn huyền vĩ của minh triết Đông phương và trở thành vật thiêng để trấn yểm trước của nhiều ngôi nhà ngay ở Hanoi này. Tất nhiên nó là sản phẩm của văn hóa Hán, trong quá trình nghiên cứu minh triết Đông phương . Bản quyền phát minh ra đồ hình này là Chu Đôn Di vào đời Tống cách đây ngót 1000 năm.

Nhưng như một sự mặc khải, cũng trong lời bài hát của nhạc phẩm nổi tiếng Hòn Vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương, chắc nhiều vị còn nhớ đoạn này:

Từ bóng cây, gốc rạ ven đường.

Từ mái tranh, góc đình trong làng.

Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống….

Nhưng trong di sản văn hóa truyền thống Việt – nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống ấy lại tồn tại một đồ hình minh triết khác hẳn cho đồ hình Âm Dương có nguồn gốc Hán trên. Đó chính là Đồ hình Âm Dương Lạc Việt thể hiện một nền minh triết Việt khác hẳn minh triết Hán nho. Xin quý vị so sánh hai hình như sau:

Posted ImagePosted Image

Rõ ràng chúng có một hình thức khác hẳn nhau , mặc dù bề ngoài có vẻ gần giống, như Trê với Nòng nọc vậy.

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt, không phải chỉ duy nhất thề hiện ở bức tranh Đàn lợn nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ. Mà chúng tôi còn thấy rải rác ở nhiều nơi đình chùa cổ và trên các di sản văn hóa khác trong kho tàng văn hóa truyền thống Việt. Dưới đây là những hình ảnh mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên các di sản mà chúng tôi sưu tầm được.

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Việt trong đền thờ Mẫu thân sinh ra Thánh Gióng tại Bắc Ninh

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Việt ở chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát - được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX 1801, tại Xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An).

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Việt trên chùa Vô Vi Tự.

Chùa nằm ở phía Bắc núi Tử Trầm, thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

Posted Image

Posted Image

Hình Âm Dương Lạc Việt ở chùa Bối Khê thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hanoi.

Posted Image

Đồ hình âm - dương Lạc Việt trên cái giá đặt văn tế (Đền thờ tướng quân Lê Thành - một vị tướng thời Lê Lợi , Làng Định Hòa - Đông Cương - Thanh Hóa)

Posted Image

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên văn bia "Khiêm Cung Ký" trong lăng Vua Tự Đức.

Kính thưa quí vị.

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt không chỉ có trong di sản văn hóa Việt,mà còn ở những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương tử, lãnh thổ của nước Văn Lang, cội nguồn nền minh triết đầy huyền vĩ của Việt tộc.

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội quán Phúc Kiến tại Hội An.

Posted Image

Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trong chùa cổ Trung Hoa trên đất Malaysia.

Trên đây, chúng tôi chỉ xin giới thiệu những Đồ hình Âm Dương Lạc Việt tiêu biểu sưu tầm được trong di sản văn hóa truyền thống Việt và các vùng lãnh thổ quôc gia lân bang. Việc thể hiện những đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở đây – vốn không hề có mặt trong bất cứ bản văn chữ Hán nào tìm được tính đến ngày hôm nay ,liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - để so sánh với Đồ hình Âm Dương Hán, chúng tôi muốn trình bày mấy vấn đề sau đây:

* Đồ hình Âm Dương nói chung là hình tượng biểu kiến của Thuyết Âm Dương Ngũ hành, một học thuyết nền tảng của Lý học Đông phương.

Như vậy, nền minh triết Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, đã có một đồ hình biểu kiến riêng tồn tại trong di sản văn hiến Việt, bên cạnh đồ hình Âm Dương biểu kiến của văn minh Hán. Điều đó chứng tỏ rằng nền minh triết Việt đã quan niệm khác hẳn về nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua hình tượng biểu kiến về học thuyết này, qua đồ hình Âm Dương Lạc Việt.

* Những di sản còn lại sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc, nhưng đủ để xác định bề dày của nền tảng minh triết Việt liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Hệ thống luận cứ chứng minh nền tảng tri thức của Lý học Đông phương có cội nguồn minh triết Việt – mà đồ hình Âm Dương Lạc Việt là chỉ là một thí dụ - chúng tôi không thể trình bày một cách hoàn chỉnh trong bài tham luận này. Nên cũng xin trân trọng kính mới quý vị quan tâm quán xét trên website lyhocdongphuong.org.vn.

* Lịch sử xuất hiện của Đồ hình Âm Dương Việt ở khắp các vùng lãnh thổ và trong nước Việt Nam hiện nay cho thấy một di sản văn hóa còn lại mang tính phổ biến ở Nam Dương tử và phải có trước đồ hình Âm Dương Hán - Vốn xuất hiện từ thời Tây Hán.

* Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi phát hiện trong quá trình nghiên cứu văn hóa cổ và Lý học Đông phương , chúng tôi đã xác định và chứng tỏ rằng:

Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành phải thuộc về cội nguồn văn hiến Việt và chính những di sản còn lại, dù tan tác với thời gian hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, cũng đủ phục hồi lại một cách có hệ thống, nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thành tựu của khoa học hiện đại và những tiêu chí khoa học. Đây chính là bằng chứng sắc sảo – nhân danh khoa học - xác định một cách chắc chắn - nền tảng tri thức Việt là chủ nhân đích thực của nền minh triết Đông phương.

Bây giờ chúng ta quán xét đến yếu tố cuối cùng theo tiêu chí khoa học để tìm về những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Dông phương.

Yếu tố thứ ba (3):

Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó.

Đây chính là vấn đề cực kỳ khó khăn. Sự bế tắc trải trên 2000 năm trong lịch sử khám phá những bí ẩn của Lý học Đông phương của tất cả các triết gia Đông phương từ cổ đại và cả trí tuệ của nền văn minh hiện đại , trong sự hội nhập của các nền văn minh đã chứng tỏ điều này.

Bởi vậy, khi những di sản còn lại của nền văn minh Lạc Việt được xác định chính là nền tảng tri thức còn lại của Lý học Đông phương – mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành được xác định thuộc về nền văn hiến Việt - thì nó phải chứng tỏ là một học thuyết có tính hệ thống, tính nhất quán và tính hợp lý trong cấu trúc nội dung và khả năng phục hồi một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lý thuyết này.

Nếu xác định đó là một học thuyết khoa học thì còn phải thỏa mãn những yếu tố về tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri….và còn rất nhiều những tiêu chí khoa học khác cho một học thuyết nhân danh khoa học, như: Khả năng phản biện, khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong việc giải thích các vấn đề liên quan đến nó…vv….

Kính thưa quí vị.

Đến đây, tôi cần xác định một yếu tố rất quan trọng nữa, mang tính đặc thù trong việc tìm hiểu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành - vì đây là trường hợp chưa có tiền lệ trong sự phát triển của lịch sử văn minh nhân loại.

Trên thực tế quá trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - thì - tất cả mọi học thuyết dù khoa học hay phi khoa học, duy vật hay duy tâm….vv…đều hình thành bắt đầu từ những nhận thức trực quan, được tổng hợp với tư duy trừu tượng và sau đó mới hình thành nên cấu trúc một học thuyết nào đó, để giải thích những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Đây là một quy luật.

Do đó, bất cứ một học thuyết nào - kể các các học thuyết mang tính tôn giáo, thần quyền, hay khoa học – khi hình thành trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại, đều có thể kiểm chứng được và xác định tính chân lý của trên cơ sở nền tảng tri thức xã hội của nền văn minh tạo ra nó,hoặc thẩm định được tính chân lý trong lịch sử phát triển tiếp theo của nền văn minh liên quan đến nó..

Nhưng ở đây thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã có sẵn. Mặc dù sự hình thành học thuyết này cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử và phát triển nội tai của nó . Và nếu như giả thuyết nó thuộc về nền văn minh Việt là đúng thì đấy lại là một nền văn minh đã sụp đổ bên bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Tất cả những nền tảng tri thức duy trì học thuyết này cũng bị vùi lấp trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó của Việt sử. Ở đây chúng tôi chưa nói đến nó còn có thể thuộc về một nền văn minh xa xôi hơn nữa, từ hàng vạn năm trước mà chúng tôi đã chứng minh sau này.

Đây chính là tính đặc thù rất quan trong của việc nghiên cứu Lý học Đông phương. Chính vì vậy mà việc chứng minh cho nội dung của học thuyết này khó khăn hơn rất nhiều . Một khó khăn dễ nhận thấy là những khái niệm, biểu tượng, ký hiệu, tiên đề, nguyên lý…vv…thuộc về thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà người xưa đúc kết từ những hiện tương khách quan và trên nền tảng tri thức của nền văn minh đã tạo ra nó nhận thức được và kiểm chứng được - thì - nó lại không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại.

Nhưng những tiêu chí khoa học đòi hỏi: Sự phục hồi học thuyết này phải chứng tỏ được tính hợp lý trong toàn bộ cấu trúc thuộc hệ thống của nó một cách nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này. Nếu không chứng minh được điều này và vượt qua được sự cách biết giữa nền tảng tri thức của các nền văn minh , thì hệ quả vẫn là dẫn đến sự bế tắc. Cho dù chúng ta đã bắt đầu từ một giả thuyết có cơ sở và đáng tin cậy là cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt, sau khí đã chứng minh tính mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử cội nguồn của học thuyết không thuộc về văn minh Hán.

Một yếu tố cần quan tâm và là hệ quả của tính chất đặc thù trong việc khám phá bí ẩn của nền Lý học Đông phương – chính là nó không đơn giản chỉ là tính thất truyền và những mảng còn lại đều chính xác là những thành tựu của nó - thì - người ta đã phục hồi được lý thuyết này từ lâu rồi. Nhưng ở đây đã hơn 2000 năm trôi qua trong lịch sử văn minh nhân loại, để cho đến tận ngày hôm nay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của văn minh nhân loại.

Như vậy, cần phải xác định rằng đã có những sai lệch cần phải hiệu chỉnh trong những giá trị còn lại của Lý học Đông phương - thể hiện trong những bản văn chữ Hán – khi xác định rằng: Nền văn minh Hán không phải là cội nguồn đích thức của Lý học Đông phương.

Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết và phương pháp khoa học, chúng tôi đã chứng minh rằng chính những di sản văn hóa truyền thống Việt – là nền tảng tri thức Việt qua những di sản văn hóa truyền thống còn sót lại - là những yếu tố quan trọng góp phần hiệu chỉnh nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý lý thuyết trên toàn bộ những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Những cơ sở của những luận điểm có tính hệ thống chứng minh cho vấn đề này, chúng tôi không thể chuyển tại trong nội dung một bài tham luận ngắn và có tính giới hạn về thời gian. Một lần nữa chúng tôi trân trọng mời các quí vị quan tâm tham khảo website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng ở đây tôi có thể minh họa qua một thành tựu của chúng tôi.

Kính thưa quí vị.

Cuộc Hội thảo “ Tính khoa học trong Phong thủy” do TTNC LHDP tổ chức thành công tại Hanoi vào ngày 15. 12 . 2009, trước khoảng 400 đại biểu với sự tham dự của nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Đây chính là một thành tựu xác định tính đúng đắn và khoa học của việc chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về lịch sử văn hiến Việt.

Những mảnh vụn còn sót lại thể hiện trong các phương pháp ứng dụng của ngành Phong thủy - được miêu tả trong các bản văn chữ Hán như là những trường phái và mâu thuẫn với nhau – đã được chúng tôi đã hệ thống hóa và chứng minh tính nhất quán và khả năng lý giải một cách hợp lý mọi vấn đề liên quan đến nó của ngành phong thủy học thuộc về văn minh Việt và xác định nó hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học hiện đại. Chính sự phù hợp với tiêu chí khoa học của Phong Thủy Lạc Việt xác định tính khoa học của ngành Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Việt.

Tuân thủ theo những tiêu chí khoa học cho việc thẩm định một lý thuyết, hoặc một giả thuyết, một phương pháp, một ý tưởng khoa học được coi là đúng – chúng tôi đã chứng minh và xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh và những ứng dụng của nó – miêu tả từ sự hình thành vũ trụ, từ những cấu trúc vật chất không khối lượng cho đến những thiên hà khổng lồ, những quy luật tương tác hoàn toàn khách quan trong sự vận động của vũ trụ ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống và con người.

Không chỉ dừng lại ở ngành phong thủy học, chúng tôi cũng xác định rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về cội nguồn văn hiến Việt là một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh và thỏa mãn đầy đủ những tiêu chí khoa học cho một học thuyết nhân danh khoa học. Tiến xa hơn nữa và cũng chứng tỏ sự phát triển tất yếu từ một giả thuyết ban đầu đúng đăn – Cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến – chúng tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học đang mơ ước.

Ra ngoài khoa học một chút - thì - thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nền văn minh trong tương lai của nhân loại, mà bà Vanga đã tiên đoán.

Kính thưa quí vị.

Đây chính là cái “ao ta” hơn hẳn “ao người”;, đây cũng chính là ”cơm vàng , cơm bạc” từ ngày xửa, ngày xưa mà tổ tiên đã để giành cho những hậu duệ của nền văn minh Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử.

Những gía trị huyền vĩ của nền văn minh đó đã bắt đầu tỏa sáng sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong cuộc bể dâu của lịch sử. Và chính sự phát triển theo những quy luật của tự nhiên, sự tiến bộ của tri thức khoa học hiện đại với sự xuất hiện của những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và đó cũng là sự tiến hóa của tự nhiên, để nền văn minh Khoa Đẩu, những con nòng nọc trở về với Mẹ Cóc , trở về với cội nguồn.

Kính thưa quí vị

Những thành tựu của chúng tôi có được ngày hôm nay. Chính là bắt đầu từ những sự nghiệp của các bậc tiến bối, đã đặt những viên gạch nền tảng cho công cuộc trở về cội nguồn vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt.

Bởi vậy, trước khi kết thúc bản tham luận này, chúng tôi xin được một lần nữa kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng ngưỡng mộ với những bậc tiên liệt của dân tộc Việt đã dày công tạo dựng nên một nền văn hiến sử huyền vĩ, trải gần 5000 năm và là cội nguồn của Lý học Đông phương.

Chúng tôi kính cẩn bày tỏ sự ngưỡng vọng trước công lao của giáo sư Lương Kim Định với những đóng góp của ông cho công cuộc tìm về cội nguồn Việt sử.

Chúng tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn với ban tổ chức và các quí vị có mặt ngày hôm nay, đã quan tâm đến công trình nghiên cứu của TTNC LHDP.

Xin trân trọng kính chào quí vị.

T/p HCM. 12. 7. 2012

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ảnh chụp hội thảo đã được đưa lên: https://picasaweb.go...gKimDinh1472012

Một số hình ảnh tiêu biểu:

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Văn Miếu và dòng chữ "TINH HOA HỘI TỤ"

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Thày giáo Nguyễn Khắc Mai phát biểu khai mạc

Posted Image

Đoàn chủ tịch: NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NNC Hà Văn Thùy, GS TS Trần Ngọc Thêm, Thày giáo Nguyễn Khắc Mai

Posted Image

Khách mời: GS Đào Vọng Đức, nguyên phó ban tổ chức TW Đảng Nguyễn Mạnh Can, Nguyên ủy viên bộ Chính Trị, PCT Quốc Hội Trương Quang Được

Posted Image

Giám đốc TT LHDP, NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh trên bàn chủ tịch

Posted Image

NNC Hà Văn Thùy phát biểu

Posted Image

Nhà báo Phạm Ngọc Dương

Posted Image

Ban Thư Ký: TS. Vũ Tú Anh và TS. Dương Thu Hằng

Posted Image

NNC, phê bình Đỗ Lai Thúy

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Posted Image

GS TS Trần Ngọc Thêm phát biểu

Posted Image

Nhóm thành viên TT LHDP

Posted Image

Posted Image

Posted Image

TS Vũ Tú Anh đọc thư gửi Tọa Đàm của Ông Vũ Khánh Thành.

Posted Image

Posted Image

NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh phát biểu

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Dương - ban tổ chức, nhà tài trợ

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy

Posted Image

Posted Image

Giải lao

Posted Image

Posted Image

NNC Triết học Phạm Khiêm Ích

Posted Image

Posted Image

Nhà nghiên cứu sử thi, ô Hùng, phát biểu ý kiến

Posted Image

Kỹ sư tin học Thuyết phát biểu ý kiến

Posted Image

Nhà sử học Tô Duy Hợp phát biểu ý kiến

Posted Image

PGS TS Trần Ngọc Vương phát biểu ý kiến

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ông Khắc Mai phát biểu kết luận

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Chụp ảnh lưu niệm kết thúc tọa đàm buổi sáng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ăn trưa

Posted Image

Tọa đàm buổi chiều về liên kết hoạt động giữa các trung tâm

Posted Image

Posted Image

Đại diện 04 trung tâm, Tiềm Năng Con Người, Lý Học Đông Phương, Minh Triết Việt, Văn Hóa Học

Posted Image

Bác Mai tiếp tục chủ trì

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Tiến sĩ CNTT Tuấn Hoa phát biểu

Posted Image

Ông Trương Quang Được phát biểu tâm huyết

Posted Image

Bà Thanh - phu nhân ông Khắc Mai phát biểu - chúng ta phải tiếp tục

Posted Image

GS TS Thêm trả lời các câu hỏi buổi sáng và định hướng ý tưởng liên kết

Hội thảo kết thúc lúc 4:30pm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Chụp ảnh lưu niệm kết thúc tọa đàm buổi sáng

Sao trong ảnh này không có Sư phụ nhỉ???

Mặc dù không thể đến dự được nhưng qua ảnh, phamhung cảm nhận buổi tọa đàm thật hoành tráng, quy củ và chuyên nghiệp. đây là một tín hiệu vui cho Trung tâm.

Vì buổi sáng phải đi làm, Đúng 14h00 chiều ngày 14/7/2012 phamhung đến Văn phòng của Trung tâm mà cửa khóa................ Posted ImagePosted ImagePosted ImagePosted Image .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sao trong ảnh này không có Sư phụ nhỉ???

Mặc dù không thể đến dự được nhưng qua ảnh, phamhung cảm nhận buổi tọa đàm thật hoành tráng, quy củ và chuyên nghiệp. đây là một tín hiệu vui cho Trung tâm.

Vì buổi sáng phải đi làm, Đúng 14h00 chiều ngày 14/7/2012 phamhung đến Văn phòng của Trung tâm mà cửa khóa................ Posted ImagePosted ImagePosted ImagePosted Image .

Hi> Lúc đó tôi đau lưng quá. Nên ra ngoài....hút thuốc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

KIM ĐỊNH VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM

GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm[1]

Đây là bài viết (có bổ sung) đã trình bày tại Tọa đàm tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS. Lương Kim Định do Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương tổ chức ngày 14-7-2012 tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội.

Bài viết gồm bốn nội dung:

(1) Hiện tượng Kim Định;

(2) Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định;

(3) Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định;

(4) Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta.

1. Hiện tượng Kim Định 1.1. Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, có bốn cái mốc quan trọng được tạo nên bởi bốn nhân vật.

Người đầu tiên viết sách về văn hóa Việt Nam là Lê Quý Đôn với “Vân đài loại ngữ” (9 quyển, 1773), và sách đó mang tính bách khoa thư.

Người đầu tiên viết chuyên luận về văn hóa Việt Nam và bảo vệ lấy bằng tiến sĩ tại phương Tây (Đại học Sorbonne, Paris, 1934) là Nguyễn Văn Huyên với luận án chính là “Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam” và luận án phụ “Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á”, hai luận án này được xếp loại xuất sắc và được xuất bản ở Pháp với sự hoan nghênh của giới dân tộc học châu Âu.

Người đầu tiên viết sách giáo khoa về văn hóa Việt Nam theo tiêu chuẩn phương Tây là Đào Duy Anh, và sách đó là “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938); ông cũng là một nhà bách khoa thư trong nhiều lĩnh vực.

Tất cả những sách bách khoa thư, sách chuyên luận, và sách giáo trình nêu trên đều được soạn thảo rất công phu và đều là những sách rất có giá trị (cho đến tận ngày nay), nhưng cả về hình thức và nội dung đều tuân theo những chuẩn mực của thời đại mình. Vì vậy các tác giả của chúng đều sống một cuộc đời suôn sẻ. Con đường quan lộ của Lê Quý Đôn có phần lận đận nhưng ông cũng từng nhiều lần giữ các trọng trách, khi mất được truy phong là thượng thư Bộ Công. Đào Duy Anh là một nhà giáo khả kính. Nguyễn Văn Huyên là người giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam lâu nhất (gần 29 năm).

Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, người đầu tiên làm nên một hiện tượng, gây nên một phong trào, và sống một cuộc đời không thể nói là suôn sẻ, ấy là Kim Định (1914-1997).

1.2. “Hiện tượng” là một sự kiện hay sự việc đặc biệtbất thường. Điều bất thường về hình thức nằm ở chỗ Lương Kim Định là người đầu tiên và cho đến nay là duy nhất viết nhiều sách nhất về văn hóa Việt Nam.

Nếu không kể 7 cuốn chưa in, 5 cuốn in rồi mà bị thất lạc, thì Kim Định có tổng cộng 32 cuốn mà ngày nay chúng ta có thể tiếp cận được[2]. Trong đó có 20 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1965-1975, và 12 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1979-2000. Có hai năm ông xuất bản tới 4 quyển mỗi năm (1970, 1973) và hai năm ông xuất bản 3 quyển mỗi năm (1969, 1987), x. bảng 1.

Bảng 1: Tình hình xuất bản sách của Kim Định

Giai đoạn 1 - 20 năm

Năm...............Số lượng.......Tên sách

1965..................1..............Cửa Khổng

1967..................1..............Chữ Thời

1969..................3............. Vũ trụ nhân linh; Định hướng văn học; Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây

1970..................4..............Tâm tư; Việt lý tố nguyên; Dịch Kinh linh thể; Hiến chương giáo dục

1971..................2...............Lạc Thư minh triết; Triết lý Cái Đình

1972..................1...............Cơ cấu Việt Nho

1973..................4...............Loa Thành đồ thuyết; Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam; Vấn đề Quốc học; Tinh hoa Ngũ Điển

1975..................1...............Triết lý giáo dục

1979..................1............... Hồn Nước với lễ Gia Tiên

Giai đoạn 2. 12 năm

1982.....................1................Văn Lang vũ bộ

1984.....................2................Hùng Việt sử ca; Sứ điệp trống đồng

1986.....................1................Hoa Kỳ và thế chiến lược toàn cầu

1987.....................3................Đạo trường chung cho Đông Á; Cẩm nang Triết Việt; Hưng Việt

1988.....................2................Gốc rễ Triết Việt; Việt Triết nhập môn

1997.....................1...............Thái bình minh triết

2000.....................1...............Phong thái An Vi

Không rõ năm....3...............Nhân chủ; Kinh Hùng khải triết; Pho tượng đẹp nhất của Việt Tộc

Trong 32 cuốn đó, cuốn dày nhất, cũng được chính ông đánh giá cao nhất, là “Chữ Thời” dày 700 trang. Có 2 cuốn dày 430 trang là “Việt lý tố nguyên” (430 tr.) và “Sứ điệp trống đồng” (431 tr.). Hai cuốn mỏng nhất là “Đạo trường chung cho Đông Á” (111 tr.) và “Cẩm nang Triết Việt” (80 tr.). 27 cuốn còn lại dày trung bình khoảng 200-250 trang.

1.3. Dù dày mỏng thế nào thì những gì Kim Định để lại cũng thực sự là một di sản vô cùng đồ sộ. Tuy là một di sản đồ sộ, nhưng điều làm nên HIỆN TƯỢNG KIM ĐỊNH không phải là ở hình thức số lượng và khối lượng, mà là ở nội dung: Trong những cuốn sách đó, Kim Định đã đưa ra những đề quyết động trời” (như người ta thường nói và chính Kim Định cũng thừa nhận). Ông khẳng định rằng giống người Việt một sắc tộc đã đến ăn ở trên khắp nước Tàu trước giống người Hoa. Người Việt từng là chủ nhân không chỉ của nước Tàu, mà còn là của phần lớn các giá trị văn hóa tinh thần quan trọng đã bị người Hán dần dần thâu tóm hết là Nho giáo và Ngũ kinh. Theo cách nói của Kim Định, tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa học theo và chiếm đoạt.

Nếu đang tự nhiên mà có người tuyên bố như vậy hẳn sẽ bị xã hội xem là kẻ không bình thường. Và cách ứng xử thông thường với kẻ không bình thường là không ai thèm để ý đến, nếu có nhắc đến thì là để đem ra chế diễu như người ta đã từng làm đối với ông đạo Dừa.

Với Kim Định cũng đã từng có cách ứng xử tương tự ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975. Song với một người điên bình thường thì sau đó sẽ là quên lãng, như người Tây Nam Bộ từng quên lãng vô số các ông đạo Đi, đạo Đứng, đạo Nằm, đạo Ngồi, v.v. đến rồi lại đi ở vùng Tây Nam Bộ trong các năm đầu thế kỷ XX. Nhưng với Kim Định thì tình hình không phải như thế mà tệ hơn rất nhiều. Giới học giả giễu cợt chê bai đã đành, người ta “đánh” Kim Định bằng lời nói và ngòi bút đã đành, ngay cả các cha bề trên trong đạo của ông cũng quay lưng lại với ông. Hà Văn Thùy nhận xét rằng “Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn” [Hà Văn Thùy 2011b]. Theo tôi, phải nói là “Kim Định sống giữa rất nhiều làn đạn” mới đúng!

Vì sao người ta lại sợ ông đến thế? Câu trả lời hình như rất đơn giản: Là vì ông có quá nhiều người theo. Mà số người theo này lại mỗi ngày một đông. Mà số người mỗi ngày một đông này lại không phải là người bình dân, gần như tuyệt đại bộ phận họ là trí thức (tuy phần nhiều là những người không chuyên sâu trong lĩnh vực này), và là sinh viên, tức những chủ nhân của tương lai.

Tất cả những cái bất thường đó đã làm nên “hiện tượng Kim Định”.

1.4. Lôi kéo được nhiều người theo, ấy hẳn là vì ông có những điểm mạnh. Bị nhiều người chống đối, ấy chắc là vì ông có những chỗ yếu. Những điểm mạnh sẽ là cơ sở để gặt hái các thành công. Những điểm yếu sẽ là nơi xuất phát dẫn đến những hạn chế.

Chúng ta hãy lần lượt xác định những điểm mạnh những thành công cùng những điểm yếu những hạn chế ấy của Kim Định.

2. Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định

2.1. Có thể thấy Kim Định có tất cả năm điểm mạnh.

Điểm mạnh thứ nhất của Kim Định là ông tốt nghiệp chuyên ngành Triết Tây; nghĩa là ông đã được đào tạo rất bài bản và có phương pháp.

Điểm mạnh thứ hai là ông lại còn học cao học chuyên ngành Trung Quốc học (ngành Đông phương học) tại Pháp: Nhờ đó mà ông am hiểu lịch sử và văn hóa Trung Hoa, tiếp xúc được với các tác phẩm nghiên cứu Trung Quốc của người phương Tây; trong ông tri thức Tây và Đông đã bổ sung khá hoàn hảo cho nhau.

Điểm mạnh thứ ba là Kim Định làm linh mục tại nhà thờ: do vậy dễ hiểu rằng ông là người ham muốn truyền đạo và rất có phương pháp, kinh nghiệm trong việc tổ chức truyền đạo, gây dựng phong trào.

Nếu chỉ hoạt động tôn giáo, chỉ truyền đạo, thì chỉ cần có một niềm tin. Nhưng ông còn có điểm mạnh thứ tư là tham gia giảng dạy triết học tại đại học; điều đó có nghĩa là ông có may mắn sống trong môi trường đại học khuyến khích tư duy sáng tạo. Trong ngành triết học, tư duy sáng tạo ấy đòi hỏi một năng lực suy luận, không loại trừ cả năng lực tưởng tượng phong phú nữa.

Điểm mạnh thứ năm nằm ở chỗ Kim Định là người sinh ra ở Bắc Kỳ, song lại sống ở Nam Kỳ. Sinh ra ở đất Bắc (Nam Định) nên trong con người ông có cái “máu” thích làm lý luận. Nhưng chính cái môi trường sống Nam Kỳ mới là yếu tố mang tính quyết định trong việc tạo ra “hiện tượng Kim Định”.

Nam Kỳ là nơi mà vào đầu thế kỷ XX từng có một công tử Bạc Liêu sắm máy bay để đi thăm đồng (lúc ấy cả nước chỉ có hai người có máy bay riêng là vua Bảo Đại và công tử Trần Trinh Huy), còn nay thì có những nông dân “Hai Lúa” to gan dám tự mình chế tạo máy bay (như Lê Văn Danh, Trần Quốc Hải ở Tây Ninh). Kim Định học được ở họ lối tư duy phóng khoáng, cách hành xử năng động và mạnh dạn, “dám nghĩ dám làm”.

Nam Kỳ lại là nơi ở xa Đất Tổ; mà người trí thức như Kim Định càng ở xa Đất Tổ bao nhiêu thì tấm lòng và tình cảm hướng về nguồn càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Nam Kỳ thời Kim Định còn là mảnh đất tư bản tự do. Cái chất “tư bản tự do” này nếu đặt trong môi trường phương Tây thì sẽ phát triển mạnh xu hướng quốc tế mà coi nhẹ dân tộc quốc gia; nhưng nếu đặt trong môi trường phương Đông thì ngược lại, lại tạo điều kiện cho việc phát huy tinh thần quốc gia dân tộc.

Tổng hợp của tất cả năm điểm mạnh ấy đã làm nên ba thành công lớn, cũng là những đóng góp của Kim Định.

2.2. Thành công và đóng góp lớn thứ nhất là trên lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học, Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc.

Trong một bài viết công bố năm 2005 nhân dịp 40 năm ngày thống nhất đất nước [Trần Ngọc Thêm 2005], chúng tôi đã nhận xét rằng phe Tư bản Chủ nghĩa hình thành trước ở khu vực phía Tây, nên mang đậm những giá trị đã định hình của văn hóa phương Tây là coi trọng cá nhân, phát huy dân chủphổ biến Kitô giáo. Phe Xã hội Chủ nghĩa thì hình thành muộn hơn ở khu vực phía Đông, nên tư tưởng của K. Marx cùng với kinh nghiệm của V.I. Lenin, được thực hiện bởi I.V. Stalin và Mao Trạch Đông đã kết hợp với những giá trị cổ truyền của văn hóa phương Đông mà thành ba cột trụ là coi trọng cộng đồng, tập trung quyền lực (“chuyên chính vô sản”), và đề cao vô thần luận. Bởi vậy mà ở các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây không có chỗ đứng cho các tư tưởng dân tộc, nếu có sẽ lập tức bị coi là “dân tộc hẹp hòi” (Nguyễn Ái Quốc đã từng bị Quốc tế Cộng sản phê phán như thế). Bởi vậy mà trong khi ở miền Nam, Tổng thống họ Ngô vẫn sử dụng trang phục khăn đóng áo dài trong các dịp quốc lễ, thì cán bộ miền Bắc giai đoạn này lại dùng bộ “đại cán” của người Tàu!

Chính trong bối cảnh ấy mà ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu văn hóa dân tộc như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Toan Ánh, Lê Văn Siêu, Kim Định... và đã xuất bản được nhiều công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc có giá trị. Trong khi đó, ở miền Bắc giai đoạn này duy nhất chỉ có ngành khảo cổ học gặt hái được nhiều thành công trong việc tìm về cội nguồn, còn những công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc tương tự như của các đồng nghiệp miền Nam thì hầu như vắng bóng.

Trong số những tác giả vừa nêu, Kim Định đã nổi lên một cách khác thường, nổi lên như một hiện tượng đặc biệt. Với thành công này, không ai có thể phủ nhận rằng ông là một người có tinh thần dân tộc đầy nhiệt huyết trong số những người yêu nước, yêu dân tộc.

2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng học thuật, với tất cả những thuận lợi và khó khăn vào thời đại của mình, trên cơ sở những tư liệu và tài liệu chưa phải là nhiều, Kim Định đã đưa được cái tinh thần phóng khoáng “dám nghĩ dám làm” của người Nam Bộ vào trong nghiên cứu khoa học để đưa ra những nhận định khái quát rất mạnh bạo, rất tiên phong, và, tuy còn chứa nhiều sai lầm mang tính bộ phận, nhưng về cơ bản và trên những nét tổng thể thì có thể nói là đúng hướng. Đó là nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa.

Những nhận định này đã góp công khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy nô lệ coi cái gì cũng từ Trung Hoa mà ra; chúng trở thành nguồn cảm hứng và động viên cho rất nhiều người tiếp tục bỏ công sức đi theo hướng này. Đó là thành công và đóng góp lớn thứ hai của Kim Định.

2.4. Thành công và đóng góp lớn thứ ba của Kim Định là trên lĩnh vực phong trào. Trong hơn 30 năm (1965-1997), với những sức chống phá dữ dội từ nhiều phía, nhưng Kim Định đã không chỉ nghiên cứu một mình, mà ông đã khởi tạo ra được một phong trào nghiên cứu văn hóa Việt, tư tưởng Vit..., ông đã khơi gợi lên được lòng yêu nước, yêu dân tộc trong một phạm vi rộng lớn trí thức và lớp trẻ. Hội An Việt tại Vương Quốc Anh (do ông Vũ Khánh Thành thành lập năm 1982), Hội An Việt toàn cầu, phong trào Hùng Việt là những minh chứng.

Đúng như GS. Trần Văn Ðoàn, nguyên trưởng khoa triết học tại Đại học Quốc gia Đài Loan, đã nhận xét: “Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa từng thấy. Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy [Trần Văn Ðoàn 1997]. Là người khá gần gũi với GS. Trần trong định hướng nghiên cứu (nên được ông mời làm một trong năm thành viên nòng cốt của Ủy ban Nghiên cứu Tư tưởng Việt [Trần Văn Đoàn 1999]) và cũng gần gũi với GS. Trần trong cách đánh giá về Kim Định, tôi chỉ có thể xin ký thêm một chữ vào nhận định rất xác đáng của ông.

Đóng góp này của Kim Địnhvô cùng lớn lao. Nếu chỉ đơn thuần là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học thì không dễ gì làm được. Đóng góp đó rất đáng tôn vinh, ca ngợi noi theo. Khơi gọi lên được tinh thần yêu nước ở mọi người, thì cái tinh thần ấy ở người khởi xướng phải lớn gấp chừng nào. Khơi gọi lên được nhiệt tâm của những người khác, thì cái nhiệt tâm ấy ở Kim Định phải lớn biết chừng nào!

3. Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định

3.1. Những cơ sở làm nên các điểm mạnh của Kim Định vừa nêu trên cũng chính là nơi bắt nguồn những điểm yếu của ông.

Thứ nhất, việc Kim Định đã ở xa đất tổ trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mọi thông tin (kể cả thông tin khoa học) bị ngăn chặn, thành ra rất thiếu thốn về tư liệu, lại cộng thêm đối tượng nghiên cứu là môn triết học trừu tượng rất dễ khiến ông sa vào tư biện.

Thứ hai, thập niên 1960 là lúc mà ở Sài Gòn gần như có một “phong trào” nghiên cứu về triết Việt với sự tham gia của một số người tự học triết, thậm chí là không chuyên về triết như Nguyễn Ðăng Thục, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thọ, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, v.v. [Trần Văn Ðoàn 2000]. Môi trường thiếu chuyên nghiệp này cộng với việc hành nghề tôn giáo (động, coi trọng phong trào) là những lý do dẫn đến khả năng làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, một người mặc dù đã được đào tạo triết học một cách bài bản.

Thứ ba, việc Kim Định thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo tạo nên chất văn hóa phương Tây quá mạnh rất dễ khiến ông sinh ra cực đoan.

Thứ tư, việc Kim Định nghiên cứu triết học (liên quan đến tư tưởng), nghiên cứu văn hóa (liên quan đến dân tộc), cộng với hoạt động phong trào (liên quan đến quần chúng) rất dễ khiến ông bị hiểu lầm là làm chính trị.

Bốn điểm yếu vừa nêu đã dẫn đến hậu quả là các công trình nghiên cứu của Kim Định mắc phải ba hạn chế: Dễ dãi, lãng mạn, tư biện; Cực đoan; và Bị coi là làm chính trị.

3.2. Hạn chế thứ nhất trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính dễ dãi, lãng mạn và tư biện.

Đây chính là hạn chế lớn nhất mà các nhà khoa học thực sự khó có thể chấp nhận được. Và đây cũng là lý do chính đáng dẫn đến sự phản ứng và quay lưng của nhiều người trong giới khoa học. Từ phản ứng dẫn đến mỉa mai châm chọc quá đà chỉ là một bước ngắn. Bài “Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam?” của Tạ Chí Đại Trường đăng trên mạng talawas.org (sau đăng lại trên tạp chí Xưa và Nay số 377, 378) tuy chứa đựng cái sự mỉa mai châm chọc (đáng tiếc là rất không nghiêm túc!) ấy ngay từ trong tên bài, nhưng một số sự kiện mà ông sử gia họ Tạ đưa ra phê phán không phải là sai.

Những suy luận kiểu như ngày giỗ tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 được đọc thành “Tam Miêu và Bách Việt”, vì “Tam Miêu là tháng 3, còn Bách Việt là mồng 10. Mười là số chẵn [chục nên] có thể thay số chẵn trăm” (Triết lí cái đình, mục “VII. Việt Hùng) rõ ràng là quá dễ dãi. Hoặc từ khẳng định “người Việt từng cư trú trên khắp đất Tàu” dẫn đến khẳng định Ðông Di (tổ tiên người Mãn Châu, Triều Tiên) là một chi của Việt; mặt khác, Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn, mà Thuấn là người Ðông Di, cho nên kết luận sách Khổng Tử là của Việt cả (Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc) [Tạ Chí Đại Trường 2008] thì rõ ràng là quá dễ dãi.

Không cứ gì Tạ Chí Đại Trường, Hà Văn Thùy cũng chỉ ra những trường hợp mà khi hăng hái quá đà, Kim Định đã sa vào tư biện, dẫn tới sai lầm. Quá say sưa với phương pháp của mình, ông đã viết cả một cuốn sách “Loa thành đồ thuyết” giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt. Khi khảo cổ học phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện đắp, hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành hình trôn ốc [Hà Văn Thùy 2011b].

Ngay trong bài viết tưởng niệm Kim Ðịnh vào năm ông ra đi (1997), Trần Văn Đoàn có viết một câu khiến tôi phải suy nghĩ mãi: “Kim Ðịnh vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong tinh thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Tôi cho rằng với cụm từ “vượt xa Trần Ðức Thảo” này, điều mà vị giáo sư triết học ở Đài Loan muốn nói chính là vượt xa về sự dễ dãi và lãng mạn. Ở một chỗ khác trong chính bài này, ông viết rõ hơn: tôi tuy khẳng định triết học của cụ, song cũng phê bình tính chất thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn trong nền triết học An Vi của cụ [Trần Văn Ðoàn 1997]. Trong “Việt Triết luận tập”, Trần Văn Đoàn đánh giá cụ thể hơn nữa: “Ngay các tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Ðăng Thục, Kim Ðịnh cũng đều vướng vào những lỗi lầm căn bản như thiếu hệ thống, phân tích rời rạc, lý luận thiếu vững chắc, đôi khi mâu thuẫn, sử liệu mơ hồ, vân vân” [Trần Văn Ðoàn 2000].

Cái tinh thần năng động “dám nghĩ dám làm” Nam Bộ thì quý thật, nhưng dù là để tư duy triết học sáng tạo ra triết Việt hay để thực hành kỹ thuật chế tạo ra máy bay, đều cần phải có một cơ sở lý luận vững chắc mang tính hệ thống chặt chẽ, phi mâu thuẫn như nhau.

3.3. Hạn chế thứ hai trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính cực đoan.

Như đã phân tích ở trên, việc Kim Định được thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo đã tạo nên trong ông chất văn hóa phương Tây quá mạnh. Một người ủng hộ ông rất mực, trong một bài viết đăng trên trang mạng “An Việt toàn cầu” cũng phải thốt lên rằng: “Lời văn trong sách [của Kim Định] chứa đầy tinh thần yêu nước mà cái gì Việt Nam cũng nhứt, và tôi sợ quan niệm quá cực đoan thì rất khó dung nạp trong các nước tự do phương Tây” [Lê Hùng 2012].

Trong cuốn “Việt lý tố nguyên” (và nhiều nơi khác) Kim Định từng viết rằng “hễ mình chống đối cái gì thì cuối cùng sẽ sa vào cái đó, trong triết quen gọi là nhị nguyên” (Việt lý tố nguyên, mục XIII). Bản thân Kim Định trong tư duy nghiên cứu, cả đời luôn có nhận thức rất đúng về vai trò tối thượng của sự “quân bình”, luôn có ý thức rất rõ về vai trò của tỷ lệ “tham thiên lưỡng địa”, luôn có chủ trương hành động hướng tới “thái hòa”, luôn mong muốn thông qua con đường “an vi” để tạo nên “An Việt”, thế nhưng nhiều kết luận khoa học của ông lại quá cực đoan.

3.4. Hạn chế thứ ba trong các công trình nghiên cứu cũng như trong cuộc đời của Kim Định là để người đời cho rằng ông “làm chính trị”.

Làm chính trị ở mức cao nhất là tìm cách tác động đến tư tưởng của một dân tộc nhằm tạo ra một phong trào quần chúng rồi vạch ra đường lối mà dẫn dắt họ. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, sự đan xen và hội tụ của những hoạt động khác nhau mà Kim Định đã thực hiện trong cuộc đời đã tạo nên một thứ rất giống với việc “làm chính trị”: Ông nghiên cứu triết học là cái liên quan đến tư tưởng, ông nghiên cứu văn hóa là cái liên quan đến dân tộc, ông tạo nên các phong trào là cái liên quan đến quần chúng.

Quan sát các tác phẩm của ông, một số người cảm thấy cái “chính trị” bao trùm hình như là tinh thần chống cộng. Lê Hùng nhận xét rằng “Kim Định thường lấy cái Duy Vật cộng sản ra diu cợt nhiều nhất” [Lê Hùng 2012]. Theo Tạ Chí Đại Trường thì “Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản” [Tạ Chí Đại Trường 2008]. Chúng tôi đã thử thống kê, chỉ trong một cuốn “Việt lý tố nguyên” (bản có bổ sung)[3], đã có 48 lần tác giả nhắc đến từ “cộng sản”. Nếu bỏ ra một bên những từ ngữ mang tính mỉa mai giễu cợt, thì có thể thấy ông chỉ đơn thuần coi đó là một mảng tài liệu thực tế được đưa ra phân tích dưới ánh sáng lý thuyết của mình.

Trong suốt cuốn “Việt lý tố nguyên”, Kim Định đã chỉ ra rằng người cộng sản đã đúng khi nhìn ra được vai trò của dân chúng nên không những đã dùng “tiếng dân” (ngôn ngữ bình dân) để tuyên truyền, mà còn trao vào tay thợ thuyền quyền lãnh đạo (mục VI). Theo Kim Định, người cộng sản đã “độc quyền chuyên chế”, “nghi kỵ tự do”, nhưng ông lại tỏ ý đồng tình: “nghi kỵ là phải, vì nếu ai cũng đòi tự do tự trị cả thì làm sao tổ chức xã hội cho mạnh được” (mục XI). Kim Định chỉ ra rằng sở dĩ “Trung cộng, Việt cộng” đã thắng thế là bởi, thay vì chỉ dựa vào thợ thuyền như cộng sản phương Tây thì họ dã biết dựa vào thôn dân: “Mao ... có lý vì đã giữ được y nguyên cái lương tri lành mạnh của thôn dân miền Giang Nam” mà “Tây Âu gọi sự thành công này là một sự Tàu hóa cộng sản (sinisation du coummunisme)”. “Thôn dân (trước kia là Viêm Việt) có một nền triết lý đặc trưng rất ơn ích cho con người và nhờ đó đã trở thành một sức mạnh ghê gớm không một bạo lực nào có thể đàn áp được”. Chính là nhờ biết “đi sát dân, đúng hơn là ở ngay trong lòng dân” mà người cộng sản đã phát động được tinh thần yêu nước của dân chúng, “đoàn kết để đánh bật ngoại bang”. Trong khi “phía quốc gia chỉ là mấy nhóm chính trị tuy thành tâm ... nhưng thiếu hẳn triết lý của quốc gia”, “ý thức thì lại là Tây: lơ mơ như thế ... thì có thua cộng sản cũng là chuyện bình thường” (mục XV).

Dù đúng hay sai, thì những phân tích như thế trong hoàn cảnh thông tin một chiều, rất thiếu thốn về tư liệu cũng như thực tiễn thực sự là những cố gắng suy tư khách quan của một người làm khoa học.

Cuối cùng, nếu nói rằng Kim Định “làm chính trị” (để phủ định những đóng góp của ông) thì phải chỉ ra được ông thuộc phe phái nào? Nhưng điều đó là không thể: “Làm chính trị” kiểu gì mà đứng ở giữa những làn đạn đến từ mọi phía? Sau năm 1975, tên ông từng bị đưa vào danh sách 10 tác giả bị cấm đọc ở Việt Nam. Những người xếp mình vào phái “quốc gia” thì “đánh” Kim Định từ trong nước (trước 1975) ra đến nước ngoài (sau 1975). Còn những người đồng đạo với ông thì đã giam lỏng ông trong những năm cuối đời tại một nhà tu ở nước Mỹ. “Học trò muốn gặp ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người giám sát. Lúc bị đột qụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất, trong đó có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hoàn tất để chờ xuất bản” [Hà Văn Thùy 2011b]. “C xúy duy trì nền Văn hoá Việt Nam trong cộng đồng hi ngoại và việc làm cuả Linh mục Kim Định trên phương diện văn hoá đã bị hiểu lầm là người làm chính trị, điều mà Giáo hội Thiên chúa giáo không muốn các vị tu sĩ công khai, sợ động chạm, hiểu lầm” [Lê Hùng 2012].

Đến đây thì việc Kim Định“làm chính trị” hay không, có viết sách theo chỉ thị của một phe phái nào hay không thiết tưởng đã đủ rõ: Cái “lỗi” từ phía chủ quan của ông chỉ là “tạo điểu kiện” để từ phía khách quan người ta vô tình hoặc cố ý “quy tội” cho ông là làm chính trị!

4. Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta

4.1. Hiện nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Khi mà yếu tố quốc tế gia tăng thì yếu tố dân tộc, quốc gia có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa dân tộc đang được chú trọng hơn bao giờ hết.

Kỷ nguyên toàn cầu hoá là kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật. Khi mà yếu tố khoa học kỹ thuật gia tăng thì yếu tố con người có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa nói riêng và chất nhân văn nói chung đang được đề cao.

Giới trẻ Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật mang tính toàn cầu thấy rất rõ nhu cầu trở về với truyền thống, với văn hóa, với dân tộc. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao mà những tư tưởng kiểu như của Kim Định hấp dẫn họ đến thế.

4.2. Trong bối cảnh đó, những gì mà Kim Định đã viết ra và đã tạo dựng là một di sản có giá trị; nó có ảnh hưởng trong một phạm vi công chúng trí thức khá rộng, thực sự không thể coi thường.

Liên quan đến di sản của Kim Định, chúng ta cần làm ba việc:

(1) Đánh giá đúng Kim Định. Đây là việc dễ mà khó. Dễ, vì mọi thứ khá rõ ràng. Khó, vì Kim Định cực đoan nên sinh ra những người ủng hộ và chống đối Kim Định cũng cực đoan, nhiều khi còn cực đoan hơn cả chính ông. Mà sự ủng hộ và chống đối một cách cực đoan thì sẽ có nguy cơ mắc phải những sai lầm của chính Kim Định ở một mức độ trầm trọng hơn. Cái khó không nằm ở việc xác định chân lý mà nằm ở sự đối kháng giữa những tư tưởng cực đoan chứa đựng sai lầm ấy.

(2) Khi đã đánh giá đúng rồi thì với những gì là đóng góp của Kim Định, chúng ta cần giới thiệu, phát huy. Cái cần giới thiệu ở đây là ý tưởng xác định những đóng góp của văn hóa Bách Việt trong nền văn hóa chung của Trung Hoa (việc này lần đầu tiên đã được chúng tôi thực hiện vào năm 1995, khi đưa 9 cuốn sách của Kim Định vào danh mục “Tài liệu tham khảo” trong bản in chính thức cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, x. hình 1). Cái cần phát huy ở đây trước hết là một ý thức dân tộc lành mạnh trên cơ sở một tinh thần đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, xếp lại quá khứ, cùng góp công sức hướng đến tương lai.

Posted Image Hình 1: Trích trang 490 cuốn “Cơ sở văn hóa ViệtNam” (1995)

(3) Và với những gì chưa rõ ràng, chưa chính xác ở Kim Định, chúng ta cần phải kiểm chứng, cụ thể hóa và chính xác hóa. Với những sai sót, hạn chế của Kim Định, chúng ta cần phải uốn nắn, chỉnh sửa. Công việc này cần tiến hành một cách chu đáo, thận trọng, với sự góp sức của nhiều người.

Từ phía mình, chúng tôi đã chỉnh sửa và chứng minh quan niệm về nguồn gốc Đông Nam Á (không phải Việt Nam) của triết lý âm dương và đã trình bày thành công tại Hội thảo quốc tế về Dịch học thời tảo kỳ tổ chức tại Đại học Sơn Đông (Trung Quốc) tháng 10-2011 [x.: Khoa Văn hóa học 2011]. Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học Trung Hoa là của người Việt đã được chúng tôi điều chỉnh và chỉ ra là có hai con đường phát triển của triết lý âm dương; có sự tích hợp văn hóa phương Bắc với văn hóa phương Nam trong Nho giáo nguyên thủy [Trần Ngọc Thêm 1996/2004: 118-121, 481-493]. Tương tự, tương quan “văn hóa nông nghiệp / văn hóa du mục” đã được chúng tôi phát triển thành lý luận về ba loại hình văn hóa trọng tĩnh, văn hóa trọng động, và văn hóa trung gian [Trần Ngọc Thêm 2010], v.v.

Thiếu sự thận trọng, cái dễ dãi của Kim Định sẽ có nguy cơ không những không được chỉnh sửa mà còn có thể bị nhân lên. Câu chuyện “người Việt vào nước Tàu trước” là một ví dụ. Nếu nói đơn giản rằng người nguyên thủy sau khi phát sinh tại châu Phi đã men theo bờ biển đi về phía Đông, tới Đông Nam Á thì rẽ ra làm hai nhánh, một nhánh đi lên phía Bắc, nhánh kia rẽ xuống phía Nam, thì hầu như không có gì phải bàn, cũng không cần phải viện dẫn đến những nghiên cứu di truyền học để chứng minh. Song nếu nói như Kim Định là “người Việt vào nước Tàu trước”, hoặc như Hà Văn Thùy [2007; 2011] rằng “con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc” thì lại không chuẩn xác; đơn giản là vì vào lúc đó (khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á) thì làm gì đã có “Việt Nam” với “Trung Quốc” hay “nước Tàu”? Làm gì đã có “tộc Việt” hay “tộc Hoa”? Kể cả “người Việt cổ” lúc ấy cũng chưa hề có. Gán ghép sai lệch về tọa độ giữa chủ thể với không gian và thời gian diễn ra sự kiện như vậy sẽ có nguy cơ kéo theo nhiều kết luận sai lầm khác, kiểu như “Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt” [Hà Văn Thùy 2011a; 2011b].

Đóng góp thực sự của Kim Định không phải ở những khẳng định cực đoan như thế, mà là ở việc khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy bị trói buộc. Vào thời của Kim Định, căn bệnh đề cao một chiều văn hóa Trung Hoa là tư duy nô lệ, phát ngôn dễ dãi là đáng trách. Còn vào thời điểm hiện nay 15 năm sau khi Kim Định đã ra người thiên cổ, những đóng góp của ông cần được đánh giá một cách bình tĩnh, khoa học, khách quan để phát huy những gì có thể phát huy được, trong những phạm vi và theo những cách thức phù hợp. Những hạn chế của ông cần được rút ra làm bài học để tránh lặp lại trong những nghiên cứu khoa học về sau. Tinh thần khoa học, khách quan đòi hỏi phải tránh không chỉ sự phê phán ông một cách cực đoan, mà cả sự ca ngợi ông một cách quá đà. Cần coi chừng quả lắc sau khi đã lắc quá mức sang tả sẽ rơi vào trạng thái ngược lại là vượt khung về bên hữu!

Tài liệu trích dẫn

1. Hà Văn Thùy 2007: Hành trình tìm lại cội nguồn. – H.: NXB Văn học.

2. Hà Văn Thùy 2011a: Tìm cội nguồn qua di truyền học. H.: NXB Văn học.

3. Hà Văn Thùy 2011b: Lần thứ ba thưa chuyện với ông Tạ Chí Đại Trường. - http://lethieunhon.c...ad.php/4987.htm

4. Khoa Văn hóa học 2011: Hội thảo quốc tế Dịch học 2011 - Sơn Đông, Trung Quốc. - http://vanhoahoc.vn/...trung-quoc.html

5. Lê Hùng 2012: Triết Gia Kim Định Dưới Ngòi Viết Sắt. - http://www.anviettoa...Itemid=99999999

6. Tạ Chí Đại Trường 2008: Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam? - http:// www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12188&rb=0302

7. Trần Ngọc Thêm 1995: Cơ sở văn hóa Việt Nam. - Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.

8. Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – NXB Tp. Hồ Chí Minh.

9. Trần Ngọc Thêm 2005: Quá trình hoà nhập văn hoá ở Việt Nam trước và sau 1975. - Tạp chí “Văn hoá Nghệ thuật”, số 4 (250), tr. 11-16.

10. Trần Ngọc Thêm 2010: Sự phát triển của Đông Á từ góc nhìn hệ thống - loại hình. - http://vanhoahoc.vn/...-loai-hinh.html

11. Trần Văn Ðoàn 1997: Tưởng niệm cụ Kim Định. - http://www.dunglac.o...v=detailarticle &id=90&ia=1417

12. Trần Văn Đoàn 1999: Chương trình nghiên cứu tư tưởng trong văn hóa Việt và Ủy ban nghiên cứu tư tưởng Việt. - http://www.dunglac.o...le&id=90&ia=355

13. Trần Văn Ðoàn 2000: Việt Triết luận tập, Thuợng tập: Truy nguyên bản chất của Việt triết. - http://www.catholic....t/viettriet.htm

<br clear="all"> [1] Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH và NV thuộc ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh.

[2] Danh mục toàn bộ sách và bản mềm toàn văn các tác phẩm hiện có của Kim Định có thể xem tại: http://anviettoancau...sk=view&id=1223 hoặc http://www.dunglac.o...id=71&m=module2

[3] X. tại: http://anviettoancau...ask=view&id=946

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Petrotimes) - Sáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Lương Kim Định, Trung tâm Minh triếtphối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương sẽ lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông.

Triết gia Lương Kim Định là một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, đặc biệt là cổ sử Việt Nam…

Posted Image

Triết gia Lương Kim Định (bên phải).

Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: An vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý. Phát biểu tại buổi tọa đàm có GS.TS. Trần Ngọc Thêm, TS. Trần Ngọc Linh, Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Các nhà nghiên cứu đã đề cao công sức của triết gia Lương Kim Định trong công cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc. Ông đã có những dự đoán tài tình, ngày càng được khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở. Buổi tọa đàm có sự góp mặt của 30 nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, những người yêu sử Việt. Đặc biệt, có sự tham gia của ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

P.V

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG Ý KIẾN GÂY CHÚ Ý TRONG HỘI THẢO

Posted Image

Phó giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Vương.

Ông Trần Ngọc Vương cho rằng giáo sư Lương Kim Định có mục đích chính trị khi phục hồi những gia trị văn hóa Việt. Và nhấn mạnh việc giáo sư Lương Kim Định là 1 trong 10 người đã bị cấm lưu hành các tác phẩm trong thời kỳ quân quản.

Ông Vương phát biểu dài và lâu hơn cả tôi. Nhưng đấy là ý kiến gây chú ý của cá nhân tôi hơn cả, còn các nhận xét khác của ông Vương về giá trị các tác phẩm của giáo sư Lương Kim Định tôi không cho là đáng chú ý.

Sau phát biểu của ông Vương, giáo sư Nguyễn Khắc Mai đã xác định rằng cần phân biệt giữa quan điểm chính trị và vấn đề văn hóa Việt. Giáo sư Mai nói - Đại ý:" Tinh thần văn hóa Việt mà giáo sư Lương Kim Định xiển dương là một phương tiện cho mục đích, chứ không phải là một yếu tố cấu thành mục đích chính trị của giáo sư Lương Kim Định". Giáo sư Mai nói rõ hơn - Đại ý: "Ông Lương Kim Định đã phát biểu cho rằng: Khi những người Quốc gia buông lơi những giá trị văn hóa dân tộc thì những người Công sản đã sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để xiển dương cuộc đấu tranh của họ như một mục đích vì dân tộc. Bởi vậy, việc xiển dương văn hóa dân tộc là điều cần thiết cho những người Quốc gia...".

Kính thưa quí vị quan tâm.

Sau phần phát biểu của các diễn giả chính là giáo sư Trần Ngọc Thêm, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy và tôi thì đến phần đặt câu hỏi phản biện của các đại biểu. Đấy là việc phát sinh trước giờ khai mạc. Mọi người trong ban tổ chức đều đồng ý. Vì tuân thủ tổ chức , nên sau khi tất cả diễn giả đã phát biểu xong, tôi cũng cố gắng lên ngồi trên hàng ghế chủ tọa với cái sống lưng đau như dần vì thoát vị đĩa đệm. Lạy Chúa! Tôi cố gắng nghe với sắc mặt chắc ngả màu xanh nõn chuối, đau toát mồ hôi trán. Nghe xong lời của giáo sư Vương tôi tỉnh hẳn.

Trong suốt buổi hội thảo, ngoài bài nói chính thức của tôi thì tôi không phát biểu câu nào - kể cả buổi giao lưu sau đó tại hội trường của một nhà hàng sang trọng. Một phần vì cơn đau hành hạ, phần nữa vì tôi không muốn gây tranh luận vô bổ.

Tôi chí xác định quan điểm nhất quán của cá nhân tôi trong bài viết này là:

Việc chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử hoàn toàn nhân danh khoa học, phi chính trị. Hoàn toàn vì chân lý tồn tại khách quan. Tôi chép lại một đoạn trong bài viết của tôi phản biện giáo sư Trần Trong Dương để nhắc lại quan niệm của tôi về vấn đề này:

Tôi cảnh báo các vị có quan điểm phủ nhận văn hóa truyền thống Việt rằng: " Các vị nhân danh khoa học thì hãy sử dụng những tri thức khoa học thật sự - nếu quí vị có đủ khả năng. Còn nếu quý vị mập mờ chen lấn những yếu tố trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến chính trị thì các vị hãy coi chừng. Cuộc tranh luận về cội nguồn Việt sử sẽ kết thúc một cách nhanh chóng hơn nhiều đấy! Hỡi các quí vị thân mến!

Bởi vì - nếu từ góc độ chính trị thì với bất cứ một nhà hoạt động chính trị nào , dù thật sự yêu nước, yêu dân tộc; hay chỉ là thủ đoạn mị dân, cũng phải mạnh mẽ ủng hộ và bảo vệ văn hóa sử truyền thống của dân tộc mà mình có tham vọng lãnh đạo hay đang lãnh đạo. Quí vị có hiểu điều đó không nhỉ?!

Posted Image

Giáo sư tiến sĩ Tô Duy Hợp.

Sau giáo sư Vương còn nhiều vị cũng tham gia phát biểu ý kiến. Nhưng với tôi thì sau phát biểu của giáo sư Trần Quốc Vương thì câu phát biểu của giáo sư Tô Duy Hợp rất ấn tượng. Tôi lúc này vì không còn cảm thấy đau nhức, cũng định có ý kiến, nhưng khi nhìn lại đồng hồ thì đã đến 12 giờ. Nếu phát biểu nữa thì không biết cuộc hội thảo lúc nào mới kết thúc. Ông Tô Duy Hợp nói: "Kinh Dịch không có tác dụng trong sự phát triển xã hội trong tương lai".

Theo sự hiểu biết của tôi thì đây là những nhận định khá phổ biến của các nhà nghiên cứu người Trung Quốc hiện đại. Không chỉ hệ thống thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch, mà họ đã sổ toẹt ngay cả hệ thống Đông Y với luận điểm tương tự như ông Tô Duy Hợp. Thậm chí họ còn đề nghị loại bỏ Đông y khỏi xã hội Trung Quốc vì nó đã không thể phát triển hàng ngàn năm nay.

Tôi không bình luận gì về câu này của ông Tô Duy Hợp. Nhưng theo lời kể của một tiến sĩ trẻ ngồi hàng thính giả - trẻ so với tôi, nhưng là phụ huynh của sinh viên Đại học - thì họ đã phát biểu rằng: Không lẽ một đẳng cấp giáo sư lại phát biểu đơn giản như vậy?

Còn tôi thì tôi luôn xác định rằng:

Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một hệ thống lý thuyết khoa học, mô tả từ sự hình thành vũ trụ và tất cả những hành vi liên quan đến con người, một cách có tính nhất quán, tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri. Bát quái và hệ biểu hiện của nó chính là siêu công thức toán học mô tả hệ thống lý thuyết này. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và bát quái có cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử.

Tôi cũng muốn xác định lại một lần nữa là: Mục đích cuối cùng của tôi là Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử phải được tôn vinh nhân danh một chân lý được xác định. Lý học Đông phương là phương tiên sắc sảo, nhưng không phải duy nhất của tôi để chứng minh cho mục đích đó.

Vài lời tường minh .

Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác Thiên Sứ ơi,

Theo cháu thì các bài viết bác chia nhỏ ra, đặc biệt bài nhiều ảnh. Như vậy dễ đọc hơn, load về ko bị treo và cũng dễ theo dõi.

Chúc mừng bác đã tổ chức hội thảo thành công và chúc bác sức khỏe

Share this post


Link to post
Share on other sites

NHỮNG Ý KIẾN GÂY CHÚ Ý TRONG HỘI THẢO

Posted Image

Phó giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Vương.

Ông Trần Ngọc Vương cho rằng giáo sư Lương Kim Định có mục đích chính trị khi phục hồi những gia trị văn hóa Việt. Và nhấn mạnh việc giáo sư Lương Kim Định là 1 trong 10 người đã bị cấm lưu hành các tác phẩm trong thời kỳ quân quản.

Ông Vương phát biểu dài và lâu hơn cả tôi. Nhưng đấy là ý kiến gây chú ý của cá nhân tôi hơn cả, còn các nhận xét khác của ông Vương về giá trị các tác phẩm của giáo sư Lương Kim Định tôi không cho là đáng chú ý.

Sau phát biểu của ông Vương, giáo sư Nguyễn Khắc Mai đã xác định rằng cần phân biệt giữa quan điểm chính trị và vấn đề văn hóa Việt. Giáo sư Mai nói - Đại ý:" Tinh thần văn hóa Việt mà giáo sư Lương Kim Định xiển dương là một phương tiện cho mục đích, chứ không phải là một yếu tố cấu thành mục đích chính trị của giáo sư Lương Kim Định". Giáo sư Mai nói rõ hơn - Đại ý: "Ông Lương Kim Định đã phát biểu cho rằng: Khi những người Quốc gia buông lơi những giá trị văn hóa dân tộc thì những người Công sản đã sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để xiển dương cuộc đấu tranh của họ như một mục đích vì dân tộc. Bởi vậy, việc xiển dương văn hóa dân tộc là điều cần thiết cho những người Quốc gia...".

...

Ông này là Trần Ngọc Vương, không phải Trần Quốc Vượng.

HungNguyen không ưa ông này chút nào, ông có nhiều phát biểu cực kỳ củ chuối cụ tỷ như

...Tôi cũng muốn sử dụng khái niệm “sự bành trướng đế chế” như là một thuật ngữ của khoa học lịch sử.

Chính vì điều này, ngay từ quá khứ lịch sử đã luôn đặt ra 1 tình huống, đó là: mất cân bằng.

Đối với nước nhỏ bé hơn, đây bao giờ cũng là hiểm họa. Điều này không có gì lạ, khắp nơi trên thế giới đều như vậy. Nói một cách lạnh lùng hơn, đây là một quy luật, có thể gọi là “chủ nghĩa Darwin xã hội”, đó là quy luật sinh tồn cạnh tranh về mặt xã hội.

Quy luật này chính các nhà kinh điển Mác – Lênin đã nhận thức và coi là quy luật bất di bất dịch: Quốc gia nào mạnh sẽ đi xâm lược, quốc gia nào yếu sẽ bị xâm lược. Không có một quốc gia đạo đức thuần túy nào từng xuất hiện trên trái đất. Chủ nghĩa bành trướng như là một lẽ đương nhiên của các nước lớn. Trung Quốc từ xưa đến nay, trừ những giai đoạn tự mâu thuẫn, tự đấu tranh nội bộ, khi họ đạt được sự thống nhất nhất định thì họ đều có tư thế nước lớn. Và khi có tư thế nước lớn, họ tự có thuộc tính bành trướng.

Khi bàn về đế chế Sa Hoàng, Lênin đã phải thừa nhận một thực tế khách quan, tất yếu: Khi nó đã là đế chế, là một quốc gia có quy mô lớn như đế chế Nga thì nó hút theo nó rất nhiều sự phụ thuộc, ép các cộng đồng dân tộc xung quanh nó trở thành vệ tinh.

Tôi xin nhắc lại, đế chế nào, quốc gia lớn nào cũng vậy. Sức ảnh hưởng, bành trướng của các đế chế này là sức hút nam châm, có xu hướng hút và cuốn các nước xung quanh vào bên trong nó. Nếu chống lại được lực hút đó thì được độc lập, còn nếu không li tâm được thì tất yếu sẽ bị phụ thuộc...

Chẳng khác gì mấy cái luận điểm cá lớn thì nuốt cá bé thôi có gì mà lạ của bọn bành trướng. Thế kỷ 21 là thế kỷ đa dạng sinh học, đa dạng XH, cá lớn thì phải dìu cá bé, bảo vệ nó cho nó tồn tại cùng với mình, kẻo không thì cả thế giới này chỉ còn tồn tại duy nhất 1 giống cá. Thế kỷ 21 mà phát biểu như ổng thì chết mẹ con bà bán ve chai rồi, khác gì cổ vũ chủ nghĩa bành trướng thời ăn lông ở lổ, tội nghiệp cho các cá thể lở sinh ra đời là kẻ yếu hơn... túm lại, không nên mời mấy ông kiểu này nói chuyện, có nói cũng không nên nghe.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ông này là Trần Ngọc Vương, không phải Trần Quốc Vượng.

HungNguyen không ưa ông này chút nào, ông có nhiều phát biểu cực kỳ củ chuối cụ tỷ như

Chẳng khác gì mấy cái luận điểm cá lớn thì nuốt cá bé thôi có gì mà lạ của bọn bành trướng. Thế kỷ 21 là thế kỷ đa dạng sinh học, đa dạng XH, cá lớn thì phải dìu cá bé, bảo vệ nó cho nó tồn tại cùng với mình, kẻo không thì cả thế giới này chỉ còn tồn tại duy nhất 1 giống cá. Thế kỷ 21 mà phát biểu như ổng thì chết mẹ con bà bán ve chai rồi, khác gì cổ vũ chủ nghĩa bành trướng thời ăn lông ở lổ, tội nghiệp cho các cá thể lở sinh ra đời là kẻ yếu hơn... túm lại, không nên mời mấy ông kiểu này nói chuyện, có nói cũng không nên nghe.

Trong cuốn "Câu Lạc bộ chính khách" - Tác giả Lê Tri Kỷ - Nxb Công An nhân dân. Tác giả đã miêu tả ông Ngô Đình Diệm phát biểu thế này:

"Dân tộc Việt Nam là một dân tộc nhỏ yếu. Nên nó phải lệ thuộc vào một sức mạnh của một cường quốc nào đó. Tức là nó phải chấp nhận sống trong một cái lồng. Nhưng phải kiếm cho nó một cái lồng bằng vàng".

Vế quan điểm này thì ông Trần Ngọc Vương và Ngô Đình Điệm giống nhau ở đoạn đầu - tư tưởng ông Ngô Đình Điệm ở thời chưa xuất hiện hội nhập toàn cầu. Còn ông Trần Ngọc Vương thì thậm chí ở thế kỷ thứ V - BC.

Còn chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI - giai đoạn mở đầu của thời kỳ hội nhập như một quy luật tất yếu. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu là một quy luật của sự lột xác để phát triển cho chính nền kinh tế toàn cầu.

Thế giới này trong một tương lai gần bắt buộc phải có một thể chế thống trị toàn cầu. Thể chế đó xuất hiện như thế nào sẽ rất phụ thuộc vào một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Lý thuyết đó xác định - như một thách thức tất cả tri thức của nền văn minh hiện đại cùng với sự hội nhập của các nền văn minh - rằng: "Không có Hạt của Chúa".

Share this post


Link to post
Share on other sites

...Tôi cũng muốn sử dụng khái niệm “sự bành trướng đế chế” như là một thuật ngữ của khoa học lịch sử.

Chính vì điều này, ngay từ quá khứ lịch sử đã luôn đặt ra 1 tình huống, đó là: mất cân bằng.

Đối với nước nhỏ bé hơn, đây bao giờ cũng là hiểm họa. Điều này không có gì lạ, khắp nơi trên thế giới đều như vậy. Nói một cách lạnh lùng hơn, đây là một quy luật, có thể gọi là “chủ nghĩa Darwin xã hội”, đó là quy luật sinh tồn cạnh tranh về mặt xã hội.

Quy luật này chính các nhà kinh điển Mác – Lênin đã nhận thức và coi là quy luật bất di bất dịch: Quốc gia nào mạnh sẽ đi xâm lược, quốc gia nào yếu sẽ bị xâm lược. Không có một quốc gia đạo đức thuần túy nào từng xuất hiện trên trái đất. Chủ nghĩa bành trướng như là một lẽ đương nhiên của các nước lớn. Trung Quốc từ xưa đến nay, trừ những giai đoạn tự mâu thuẫn, tự đấu tranh nội bộ, khi họ đạt được sự thống nhất nhất định thì họ đều có tư thế nước lớn. Và khi có tư thế nước lớn, họ tự có thuộc tính bành trướng.

Khi bàn về đế chế Sa Hoàng, Lênin đã phải thừa nhận một thực tế khách quan, tất yếu: Khi nó đã là đế chế, là một quốc gia có quy mô lớn như đế chế Nga thì nó hút theo nó rất nhiều sự phụ thuộc, ép các cộng đồng dân tộc xung quanh nó trở thành vệ tinh.

Tôi xin nhắc lại, đế chế nào, quốc gia lớn nào cũng vậy. Sức ảnh hưởng, bành trướng của các đế chế này là sức hút nam châm, có xu hướng hút và cuốn các nước xung quanh vào bên trong nó. Nếu chống lại được lực hút đó thì được độc lập, còn nếu không li tâm được thì tất yếu sẽ bị phụ thuộc...

Ông Trần Ngọc Vương xác định sự bành trướng và chinh phục của đế chế Hán như một quy luật lịch sử. Chưa hiểu ý ông này. Nếu suy nghĩ theo một phương diện khác thì phải chăng ông ta muốn những người Việt Nam nên cân nhắc trước khi chống lại quy luật lịch sử này, hoặc chấp nhập lệ thuộc theo quy luật?

Bây giờ không phải thế kỷ thứ III BC chỉ có đế chế Hán và dân tộc Việt. Và ngay cả vào thời gian đó cho đến 50 năm trước đây, người Việt luôn thể hiện tinh thần độc lập và tự do dân tộc.

Huống chi đây là thế kỷ XXI.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trung tâm tổ chức được một Hội thảo thật tốt. Chúc mừng chú Thiên Sứ, anh Thế Trung và mọi người.

Tiểu Phương biết muộn quá, tiếc là không thể góp thêm chút công sức giúp mọi người.

TP

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sau hội thảo, Thế Trung có gửi tài liệu cho một số bạn bè, và một người bạn (cũng đã nhiều tuổi) từ Mỹ đã gửi lá thư sau. Sau khi xin phép và được cho phép, Thế Trung chia sẻ nội dụng thư này để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm.

Trân trọng

Thế Trung

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Thân gửi anh Trung và các bạn,

Tôi đã được đọc sách của GS KĐ từ hồi 19 tuổi từ khi hiện tượng KĐ còn phôi thai. Kiến thức về Hán Văn, khảo cổ, và cổ thư của tôi không đủ để phê bình hay nhận xét đúng sai. Tôi chỉ cảm thấy có điểu mới lạ mặc dầu logic nhiều khi phóng túng.

Gần đây anh Trung có gửi các bài phóng sự về hội thảo chuyên đề sự nghiệp GS KĐ. Qua nhũng lời phê bình xác đáng, tôi nhận thấy là giới chuyên gia nhân văn VN có tầm hiểu biết vượt xa những gì tôi vẫn nghĩ về các hoạt động văn hoá đang được tiến hành trong nước. Tôi rất mừng là còn có những chuyên gia trình độ cao theo đuổi những nghiên cứu khó khăn trong hoàn cảnh thiếu thốn.

Không ít người cho rằng GS KĐ là người của chế độ cũ. Động lực chính của công trinh nghiên cứu của GS KĐ biết đâu là để chống cộng. Trước 75, chống cộng tức là chống Tầu nói chung, vì Tầu là người đỡ đầu miền Bắc lúc đó. Nay một hội thảo chuyên đề cho GS KĐ được tổ chức để vinh danh nhân ngày giỗ của ông cho thấy trình độ trưởng thành về phê phán. Ai đúng thì được khen, không để quá khứ hay những nghi ngờ chính trị làm mờ mắt.

Nghiên cứu khoa học thuần tuý rất nhiều khi dựa vào cảm tính, trực giác, hay kiến thức tiền khoa học. Nhiều nghiên cứu gia đã thú nhận là có một định kiến về chiều hướng của kết luận trước khi có đủ dữ kiện chứng minh. Với trực giác, khoa học gia có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức bằng cách loại bỏ những giả thuyết phụ. Tuy nhiên một kết luận được coi là co giá trị khoa học chỉ khi nào nó vượt qua các phê bình về logic và được kiểm nhận hay chứng minh bằng các công ước. Nghiên cứu khoa học nhân văn hay xã hội cũng phải tuân theo các quy luật tương tự.

Công trình nghiên cứu của GHS KĐ có tính cách đột phá và kết luận của ông đi trước thời gian đến 30-40 năm. Tôi tin rằng với số lượng nghiên cứu đò sộ, nếu loại đi những kết quả do phỏng đoán, những gì còn lại vẫn còn đủ để ta xếp hạng ông vào gương mặt lớn trong thế kỷ 20. Điều đáng khâm phục là với những bằng chứng tản mạn khắp trong những tài liệu rời rạc, ông đã dùng trực giác để kết liên chúng thành những hệ thống mà 30-40 năm sau khoa học mới bắt đàu chấp nhận những điểm chính. Thiên tài của GS KĐ là ở chỗ đó.

Quay trở lại giá trị của những công trình nghiên cứu về dân tộc học, tôi có vài giả thử để các bạn cùng suy nghiệm. Nếu các gỉả thuyết sau đây được chứng minh do các công trình nghiên cứu đế chúng ta có thể dậy trong hương trình gíáo khoa tiểu học và trung học trong tương lai, người VN có thể sẽ nhìn dân tộc mình với một tư duy mới:

1) Rằng chúng ta đã có một chữ viết kiểu khoa đẩu, và chữ viết đã tiến lên trình độ tượng thanh để diễn tả các tư tưởng qua 30-40 chữ cái trước khi bị người Hán đô hộ. Chữ khoa đẩu còn đặt nền móng cho chũ Hán vuông sau này. Điều này có thể dẫn đến sự phục hưng của mẫu tự khoa đẩu. Người Do Thái đã phục hưng tử ngữ Hebrew và dạy học tiếng này song song với tiếng hiện đại khi họ tìm ra được chữ viết cổ của họ.

2) Rằng từ Lạc Việt, một hệ thống nhân sinh quan kết chặt các liên lạc giữa trời đất, thiên nhiên và con người, vua tôi, vợ chồng, thày trò…đã lan toả ra vùng Lĩnh Nam, rồi lan đến Bách Việt. Văn minh này đã đươc những người Hoa Hạ sau này chấp nhận và phổ biến khắp châu thổ Hoàng Hà và Sông Dương Tử.

3) Rằng không phải là tình cờ hay may mắn về địa dư mà người Việt còn giữ được những tư tưởng về nguồn cội. Tinh thần độc lập ngày nay đã do cha ông dầy công bảo vệ, vun bồi bằng xương máu và đã tìm mọi cách để truyền lại cho đời sau. Tổ tiên ta đã hiểu biết sâu xa sự quan trọng của truyền thống và lịch sử trong sự hình thành một con người toàn diện.

Một cá nhân sẽ không thể tiến xa nếu người đó không có lòng tự trọng (self-esteem). Một dân tộc không thể tiến bộ nếu không thấy tự hào về nguồn cội. Tất cả các nước tiến bộ trên thế giới đều rất trân trọng bảo về truyền thống dân tộc họ, điển hình là người Anh. Trong lịch sử các nước thực dân, các cuộc thống tri tàn bạo thường bắt đầu bằng tiêu diệt lịch sử và truyền thống. Lịch sử của người Tây Ban Nha tiêu diệt văn hoá bản địa ở Nam Mỹ là một kỳ tích gần đây nhất. Cho đến bây giờ chỉ còn hai ba quyển sách trong hàng vạn quyển là còn tồn tại. Người Nam Mỹ bản địa hầu như không còn nhớ họ là ai, và họ thường hay thụ động, thiếu cầu tiến trong đua tranh nghề nghiệp. Tiêu diệt một con người chỉ cần giết người đó. Để tiêu diệt một dân tộc, cần phải đánh thật mạnh vào lòng tự hào dân tộc họ. Cần phải tiêu diệt ngôn ngữ, bóp méo lịch sử, thay đổi phong tục. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, người Hán tưởng đã thành công trong việc tiêu diệt Lạc Việt. Chúng ta được dạy trong trường chúng ta là con cháu những ngươi bại trận phải trốn về Nam. Chúng ta không có chữ viết và phải nhờ quan thái thú Bắc phương đến dạy mới biết hôn nhân, giáo dục, …Khi chiếm nước ta, việc đầu tiên là họ tich thu sách vở hoặc đốt, sau đó là thay đổi ngôn ngữ và phong tục, và cuối cùng là thay đổi huyết thống.

Sau gần một nghìn năm, dân Việt còn có thể thức dậy và dành lại chủ quyền. Biết được như thế mới thấy sự kỳ diệu của nền văn minh truyền thống Lạc Việt. GS KĐ là một trong những người hiểu sự quyến rũ của nền văn minh đó.

Vài giòng viết để giúp ý với anh Trung. Những đam mê của anh về nguồn cội có thể đã hằn trong tâm thức hay đã nằm trong các chủng tử di truyền. Có người còn gọi đó là cái nghiệp chung của nhiều người VN.

Thư đã quá dài, sẽ viết thêm sau để giúp ý kiến vấn đề kinh tài cho những công tác văn hoá này.

Thân chào,

Đồng

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một cá nhân sẽ không thể tiến xa nếu người đó không có lòng tự trọng (self-esteem). Một dân tộc không thể tiến bộ nếu không thấy tự hào về nguồn cội. Tất cả các nước tiến bộ trên thế giới đều rất trân trọng bảo về truyền thống dân tộc họ, điển hình là người Anh. Trong lịch sử các nước thực dân, các cuộc thống tri tàn bạo thường bắt đầu bằng tiêu diệt lịch sử và truyền thống. Lịch sử của người Tây Ban Nha tiêu diệt văn hoá bản địa ở Nam Mỹ là một kỳ tích gần đây nhất. Cho đến bây giờ chỉ còn hai ba quyển sách trong hàng vạn quyển là còn tồn tại. Người Nam Mỹ bản địa hầu như không còn nhớ họ là ai, và họ thường hay thụ động, thiếu cầu tiến trong đua tranh nghề nghiệp. Tiêu diệt một con người chỉ cần giết người đó. Để tiêu diệt một dân tộc, cần phải đánh thật mạnh vào lòng tự hào dân tộc họ. Cần phải tiêu diệt ngôn ngữ, bóp méo lịch sử, thay đổi phong tục. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, người Hán tưởng đã thành công trong việc tiêu diệt Lạc Việt. Chúng ta được dạy trong trường chúng ta là con cháu những ngươi bại trận phải trốn về Nam. Chúng ta không có chữ viết và phải nhờ quan thái thú Bắc phương đến dạy mới biết hôn nhân, giáo dục, …Khi chiếm nước ta, việc đầu tiên là họ tich thu sách vở hoặc đốt, sau đó là thay đổi ngôn ngữ và phong tục, và cuối cùng là thay đổi huyết thống.

Có lẽ tôi cần thấy phải nhắc lại một câu chuyện như sau:

Một vị nữ tiến sĩ có bằng do Tàu cấp ở Bộ Ngoại giao, hỏi tôi: "Vì sao cũng là những kẻ xâm lược, nhưng dân tộc Việt Nam lại căm ghét một dân tộc xâm lược này và không ghét một dân tộc xâm lược khác? ". Tôi trả lời ngay và không cần suy nghĩ: "Vấn đề là kẻ xâm lược nào mang tính hủy diệt văn hóa Việt thì đó là kẻ xâm lược bị căm thù nhất!".

Bởi vậy, lợi dụng sự hủy diệt văn hóa của bọn xâm lược phong kiến Tàu trong quá khứ lịch sử Việt - tôi viết đúng chính tả - những kẻ ngu ngục và nhắm mắt theo Tàu, ra rả phủ nhận truyền thống Việt sử 5000 văn hiến. Chúng ngụy trang dưới vỏ khoa học và không từ một thủ đoạn nào để bóp chết những ý tưởng phục hưng văn hóa dân tộc. Kể cả việc sử dụng những thủ đoạn chụp mũ chính trị đối lập cho những người nghiên cứu chứng minh quan điểm Việt sử 5000 năm văn hiến nhân danh chân lý và khoa học(*).

Nếu không có một bề dày của một tri thức văn hóa khoa học huyền vĩ của nền văn hiến thì dân tộc Việt không thể phục hưng với hơn 2000 năm Bắc thuộc và sự hủy diệt tàn khốc những di sản văn hóa của Bắc phương trong những cuộc chinh chiến sau đó. Trong lịch sử các nền văn minh trên thế giới thì sức sống văn hóa mãnh liệt nhất - vì bề dày và nội dung huyền vĩ của nó - phải kể đến dân tộc Việt, sau đó là dân tộc Do Thái. Ngoại trừ dân tộc Việt và Do Thái thì trong lịch sử chưa một dân tộc nào bị đô hộ và đàn áp văn hóa khốc liệt trong lịch sử hàng ngàn năm (Đây không phải con số được đọc trong một giây), mà còn phục hưng được cả. Nhưng sự phục hưng nền văn hiến Việt còn một ý nghĩa to lớn cho tương lai của văn minh nhân loại. Bởi vì, những bí ẩn của thuyết Âm Dương Ngũ hành. chính là học thuyết thống nhất vũ trụ, một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với văn minh nhân loại. Với những tri thức của nền văn minh Lạc Việt - hậu duệ của nền văn minh Atlantic - tất cả những thành tựu của khoa học hiện đại và cả trong tương lai gần, đều xếp vào lịch sử của thời kỳ tiền văn minh. Tức là chỉ tương đương với thời kỳ đồ đồng so với lịch sử văn minh hiện nay. Tôi có thể chắc chắn như vậy.

Nhưng tiếc thay! Đời người chỉ có 100 năm. Nên từng cá nhân, nhóm người đều có thể bất cần đến những giá trị tri thức cần cho cả một cộng đồng. Một bà ve chai hoặc một doanh nhân tài ba thì không cần đến thuyết Tương đối.

Rất tiếc!

==============

* Đây là chuyện mà tôi đã từng trải qua nhiều thời kỳ. Thâm chí cách đây vài ngày, ngay tại VPTT, có một bà "bạn" tôi, đã ông ổng tìm cách chụp mũ tôi. Tôi có rất nhiều "bạn" kiểu này và ngay cả trong các thành viên TTNC LHDP. Tuy nhiên, tôi vẫn đối xử với họ một cách bình thường theo nguyên tắc"Quân tử không trái lý". Tuy nhiên họ có vẻ không quan tâm đến điều này.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Việt học Le Viet Thuong vài cảm nghĩ về buổi tưởng niệm triết gia kim định tại văn miếu hà nội Posted Image Posted Image Posted Image

“Tưởng Niệm Người Gầy Dựng Nền TảngTriết Học Việt”

Sáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Kim Định, Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông….”

Quả đọc được bản tin này, chúng tôi Vui Thật! Nhớ lại 37 năm trước, ngay sau biến cố 30/04, sách của Cố Triết Gia đã “được” xếp ở vị trí Hàng Đầu trong cuốn “Sổ Đen” của nhà cầm quyền CSVN đương thời. Tuy nhiên, sau khi đọc hai bài tham luận của hai diễn giả chính trong buổi Tưởng Niệm này thì trong lòng chúng tôi, cảm xúc vui buồn trở thành lẫn lộn vì “sự đời’ thường không đơn giản như chúng ta tưởng lúc ban đầu !

Chúng tôi xin mạn phép gọi hai VỊ trên là “Diễn Giả I”(1)và “Diễn Giả II”(2)

I)DIỄN GIẢ I

Về diễn giả I, chúng tôi nhớ lại cách đây khoảng 6, 7 năm, khi lần đầu tiên có dịp đọc bài viết của Vị này, chúng tôi rất đổi ngạc nhiên khi trong bài viết, Vị này tự đề nghị “đặt căn bản khoa học” cho Chủ Thuyết của Cố Triết Gia Kim Định. Nay thì lời văn trong bài tham luận mới đây đã đổi khác nhiều, có thể nói là đã xoay chiều “gần như 180 độ”! Có lẽ sau nhiều năm tiếp cận với các công trình văn hóa của Cố Triết Gia, diễn giả đã hiểu rõ hơn xưa nội dung của Chủ Thuyết An Vi và Việt Nho chăng? Chúng tôi vui vì khía cạnh Tích Cực này. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn còn lại vài Ngộ Nhận đáng tiếc về phía diễn giả liên quan đến Cuộc Đời và Tư Tưởng của Cố Triết Gia.

A) KHÍA CẠNH TÍCH CỰC

Về phần Tích Cực, chúng tôi xin ghi nhận những lời tuyên bố sau đây của diễn giả:

“Do công khai thác và biên khảo, sáng tác của giáo sư, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn ông là Triết Gia Việt Nam. Ảnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của ông đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại văn hóa của mình…..An Vi đã như một luồng gió mang tinh thần dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Ảnh hưởng của Triết Gia còn lan rộng tới các học giả, triết gia Âu Mỹ và Viễn Đông”.

Hoặc “Trong khi phần lớn học giả người Việt chỉ biết văn minh Trung Hoa từ sau thời Tần Hán thì Kim Định….. nhận ra rằng, cái khoảng trống trước Tần Hán mới là quan trọng, mới là quyết định cho văn hóa phương Đông”

Hoặc “Chính nhờ vậy, sau nửa thế kỷ tồn tại, sách của ông không những không cũ mà vẫn nói với ta những gì sâu nhất không chỉ về tri thức mà cả trong chiều sâu thẳm của tâm linh Việt. Có thể nói, chính Kim Định là người mở đường đưa ta vào tận đáy sâu của minh triết phương Đông”.

Hoặc: “Từ nửa thế kỷ trước, Kim Định như nhà tiên tri thấu thị tuyên bố: người Việt chiếm đất Trung Quốc trước người Hoa và xây dựng nền văn hóa Việt nho nhân bản, minh triết!..... thời gian và khoa học minh chứng cho Kim Định. Thuyết Việt nho và An vi của ông trở thành báu vật không chỉ giúp dân tộc Việt tìm lại bản thể của mình để xây dựng một dân tộc Việt Nam mới mà còn thắp lên ngọn lửa minh triết soi đường cho nhân loại.”

Và diễn giả kết luận: “….. do là cội nguồn của minh triết phương Đông, nếu biết phát hiện lại mình, thực thi bốn đặc điểm của Việt nho, Việt Nam không chỉ cứu được mình mà còn là ngọn cờ dẫn dắt nhân loại trên con đường phục hưng.

Do lẽ đó, di sản của triết gia Kim Định là báu vật vô cùng quý giá mà chúng ta phải trân giữ, học hỏi và truyền dạy cho hậu thế”.(3)

Còn một lý do khác khiến chúng tôi vui là phần nội dung quan trọng trong bài tham luận của diễn giả liên quan đến các đề tài và lãnh vực mà chúng tôi đã có dịp đề cập trong các bài viết của mình trước đây.

Chẳng hạn về “ 1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa”, diễn giả phát biểu: ““Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy là sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái “đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu, không tồn tại! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông khôn ngoan đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5 vũ trụ! Dương + Âm = 5= con số vũ trụ! Nhưng vấn để đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2! Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên, là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương của Trời là 3 còn giành cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất”(4)

Về phần mình, chúng tôi còn nhớ cách đây khoảng 8 năm (2004) để đóng góp vào một buổi “Họp Mặt Văn Hóa”, chúng tôi chọn đề tài “Con Đường Nào Cho Viêt Nam Hôm Nay ?” mà sau đó chúng tôi có sửa chữa lại đôi chút để đăng trên các “Web” trong đó có mạng ‘Tinparis.net” chẳng hạn, có đoạn tương tự nội dung của diễn giả vừa nêu trên:

“Cơ Cấu NGŨ HÀNH chính là VIỆT ĐẠO do mối liên hệ thâm sâu giữa Huyền Sử Tiên Rồng và Dịch Lý.Ngoài ra, lý thuyết Ngũ Hành không chỉ là Suy Luận Triết Học suông mà có Nền Tảng KHOA HỌC hẳn hoi như khám phá gần đây của hai nhà Bác Học Trung Hoa Lý Chánh Đạo và Dương Chấn Ninh, nhờ đó hai ông được giải thưởng NOBEL cho thấy…... Dương điện tử di chuyển nhanh hơn Âm điện tử Trong Tỷ Lệ 3/2(Ba trên Hai), giống như Tương Quan Lý Tưởng «Tham Thiên Lưỡng Địa» (= Ba Trời, Hai Đất) hay 3 DƯƠNG 2 ÂM, của lý thuyết NGŨ HÀNH vừa đề cập ở trên.

Vì CƠ CẤU là một vấn đề tối quan trọng nên không chỉ là đề tài suy tư của các nhà Hiền Triết Viễn Đông, mà còn là mối bận tâm của nền Triết Học Ấn Độ cũng như của các Triết Gia Tây Phương Cổ Đại…..

Nếu Cơ Cấu của Vũ trụ, Vạn vật là Tứ Tố như Aristotle chủ trương, thì hai nguyên lý Âm Dương sẽ ở trạng thái Quân Bình TĨNH CHỈ (Static), Bất Động như (2 Dương + 2 Âm = 4) thì làm sao có Di động, Biến Hóa cũng như hoàn toàn trái ngược với Thực Tại mà Khoa Học ngày nay chứng minh là làm bằng một Vũ Trụ được điều hợp trong thế Quân Bình ĐỘNG ĐÍCH (Dynamic) là (3 Dương + 2 Âm = 5) như Cơ Cấu NGŨ HÀNH. Thật vậy, nguyên lý DƯƠNG đại diện cho Tinh Thần phải chiếm 3 phần, tức trội hơn nguyên lý ÂM đại diện cho Vật Chất chiếm 2 phần, thì Vũ Trụ, Vạn Vật, Con Người mới có BIẾN HÓA thăng tiến về phía TINH THẦN, giống như chủ trương của Sử Gia danh tiếng A. Toynbee quan niệm Lịch Sử con người là hướng tiến dần dần lên thế giới TINH THẦN (=Etherialization có nghĩa là «trở nên Tinh Khí, Thiêng Liêng»)”(5)

Về 2. "Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh", diễn giả tuyên bố: “Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ 3 yếu tố: Thiên, Địa và Nhân, trong đó con người là trung tâm. Là chủ thể của vũ trụ, con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại. Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác”(6)

Riêng về phần mình, từ lâu, chúng tôi đã có dịp viết về các đề tài nêu trên trong nhiều bài viết khác nhau như chẳng hạn:

NHÂN CHỦ: “Ngoài đức tính Thích Nghi, với thuyết TAM TÀI (số 3), Dịch Lý còn đặt con NGƯỜI như một TÀI ngang hàng với TRỜI cùng ĐẤT, nên cũng gọi là «Tham Thông» tức cả ba Tài đều tham dự: nếu Trời làm, Đất làm thì Người cũng làm nên gọi là NHÂN CHỦ”

THÁI HÒA: “Tuy đề cao Nhân Chủ tính nhưng Triết VIỆT Không có tính chất Duy Nhân (Anthropocentrism) như một trường phái Triết Học Tây Phương thời xưa chủ trương. Lý do là Văn Hóa VIỆT không dừng ở con người cá nhân, tiểu ngã, mà vươn lên tới con người Đại Ngã Tâm Linh nên có khả năng «Hòa Trời, Hòa Đất, Hòa Người», do đó đạt được Đạo THÁI HÒA.

TÂM LINH: “Ngoài các Hằng Tính vừa nêu trên như: Song Trùng Lưỡng Cực, Nhân Chủ, Thái Hòa, một nét Đặc Trưng khác của Văn Hóa VIỆT là tính chất TÂM LINH được biểu hiệu bằng số 5, mà ta có thể tìm thấy chẳng hạn trong cách đặt BÀI VỊ trong tục Thờ Cúng Tổ Tiên.(7)

Về “3. Quan niệm kinh tế: Bình sản”, diễn giả phát biểu: “Hai hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân chia tài sản thời cổ, đó là phép tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm 9 phần đều nhau. Tám gia đình cày cấy 8 phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần ruộng giữa, gọi là ruộng giếng (tỉnh điền). Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy”.(8)

Riêng về phần mình liên quan đến BÌNH SẢN, cũng trong lần “Họp Mặt Văn Hóa” (2004) và bài viết sau đó, chúng tôi có phát biểu như sau: “Một đặc điểm khác của Làng Xã VN khi xưa là chế độ BÌNH SẢN mà nét đặc trưng có thể làm nổi bật qua việc so sánh với hai chế độ Tư Bản và Cộng Sản.

Nói cách chung, chủ nghĩa TƯ BẢN thì quá Tư Riêng, còn CỘNG SẢN thì quá Công Cộng, mà điều trên là hậu quả của nền Văn hóa Một Chiều của Tây Phương, còn Văn Hóa VN vì chủ trương Hai Chiều như «Âm-Dương», «Thiên-Địa» nên với thể chế BÌNH SẢN chẳng hạn, Tiền nhân ta quan niệm là phải có sự QUÂN BÌNH giữa Đất Công và Đất Tư. Một mặt, người Nông Dân VN trước kia được quyền SỞ HỮU trên bình diện Pháp Lý, mặt khác, những thành phần Không có đất Tư thì cứ định kỳ được Làng Xã cấp cho một phần đất Công để cày bừa, trồng trọt và hưởng phần hoa lợi do công lao mình tạo ra, tránh được khủng hoảng do tâm lý tiêu cực bắt nguồn từ chủ trương của nhà cầm quyền Cộng Sản cái gì cũng cho là “của Chung” cả. Nhưng vì thông thường không ai dại gì bỏ hết tâm huyết vào cái gọi là “của chung” ấy nên có lẽ đó là một nguyên nhân chính yếu đã dẫn tới sự Thất Bại Kinh Tế và sự Sụp Đổ của đa số các nhà cầm quyền Cộng Sản trên khắpThế Giới.

Ngoài ra, cũng khác với TƯ BẢN Nguyên Thủy, vì quá đề cao cái TƯ RIÊNG, và với chủ trương quyền Tư Hữu Tuyệt Đối nên để thiểu số ưu đãi thống trị và chiếm hữu phần lớn tài sản của quốc gia, đã gây ra những bất công trầm trọng là nguyên nhân của sự ra đời của phong trào CỘNG SẢN, thể chế BÌNH SẢN đã dự trù những biện pháp TRÁNH tình trạng ĐỘC QUYỀN của giai cấp Thống Trị trên tài sản quốc gia, như cách thức được áp dụng dưới thời Vua Minh Mạng chẳng hạn, chính phủ Trung ương canh chừng giới Hào Mục tự tiện BIẾN đất CÔNG thành đất TƯ, hay phương thức mua lại số đất tư thặng dư của TƯ nhân để QUÂN BÌNH với số đất CÔNG hiện hữu hoặc như tập tục của Làng Xã VN trước đây nhằm khuyến khích giới Hào Phú Xã Thôn chia xẻ của cải giàu sang với các thành phần khác không được may mắn như họ.

Ngoài ra, CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ là một loại AN SINH XÃ HỘI (Welfare) nhằm giúp đỡ các thôn dân khi bị gặp tai ương như trường hợp các cô nhi, quả phụ, bô lão hoặc dùng làm một loại «học bổng» để khuyến khích các thư sinh ưu tú tiếp tục việc học hành”(9).

Về “4.Quan niệm sống: Đạo Việt an vi”, diễn giả tuyên bố: “Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại, con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ, không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng và làm việc hết lòng nhưng không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự.”(10)

Về Lối Sống AN VI, những gì chúng tôi viết về đề tài này bàng bạc trong nhiều bài viết. Nhưng trong “nhóm An Vi” có Đông Lan đã từ lâu có dịp viết nhiều về chủ đề này. Nữ Sĩ viết:

“Con người thường hành động từ ba nguyên do và mục đích chính: Hữu Vi, Vô Vi, An Vi.

Khi ta thấy thế giới này là có, mọi sự mọi vật là cụ thể, mọi giá trị của đời sống có thật thì đều dốc lòng dốc chí làm sao đạt được mọi tiêu chuẩn giá trị của đời sống hiện có. Học để tiến thân …..làm việc để cuộc sống thoải mái…..giúp người khác để sau này được trả công…..đó là hành động hữu vi. Tóm lại, hữu vi là tác động có ý thức rõ ràng về cái công của mình, về kết quả việc mình làm. Hành động có tư ý, tư lợi đó là Hữu Vi.

Ngược lại với hữu vi, thuyết Vô vi chủ trương không chấp nhận thế giới này và các giá trị của nó. Vô vi là không làm…..là không tham dự và can thiệp tích cực đến việc đời…..là sống trong cái ý thức từ bỏ đời sống. Nếu hữu vi cho rằng đời sống là có thực thì vô vi cho rằng không.

An Vi, nhìn thẳng vào sự thực của đời sống, để mà truy tầm ý nghĩa sống sao cho thích hợp với bản chất của con người, để trọn vẹn hóa một kiếp nhân sinh, để vạn hữu Thái Hòa.

Chúng ta sinh ra trong cuộc đời với những giới hạn của vật thể và những khả thể của nội tâm…..Con người không thể khước từ các yêu cầu của bản thân, vì đó là bản chất…..Người chủ trương vô vi cách mấy cũng vẫn không thể không thực hiện hữu vi như chăm lo cho bản thân, thân nhân trong cuộc sinh tồn…..Ðể chống lại chủ trương duy lợi của hữu vi, người ta đề cao vô vi. Nhưng người ta cũng không thể chối bỏ thân phận làm người, nên cũng không thể thực hiện chữ vô trong đời cá nhân hữu hạn.

An Vi, đưa ra nhận thức dung hòa giữa Hữu Vi và Vô Vi. Chấp nhận hữu thể giới hạn, chấp nhận phần vật thể, An Vi tìm cách thực hiện một đời sống thích hợp với yêu cầu thực tế của con người, và tìm về chiều hướng Tâm linh, để con người có đường về Bản Ngã Siêu Nhiên qua đường lối Qui Tâm.

Theo nhận thức An Vi, Người không chỉ duy vật hay duy linh. Người là một hòa điệu giữa những đối nghịch. Người là tiết nhịp đong đưa giữa Hữu và Vô. Người là An. An là không hữu, không vô, mà là dung hợp hữu vô, vươn lên, bao trùm hữu và vô…..

Ðông phương có câu: “Triết giả, triệt dã”. Triết là đi đến tận cùng, triệt để. Triết An Vi đã đạt được ý nghĩa của triết chưa? Xin thưa, đường đi lên, An Vi đã đưa con người tiếp cận Tâm Linh Huyền Nhiệm. Bước xuống cõi nhân sinh, An Vi đã có giải pháp tương dung, đạt chữ HÒA lên khắp cõi.

An Vi, không Tư Bản, không Cộng Sản, mà là Bình Sản.An Vi, không Duy Vật, không Duy Tâm, mà là Nhân Chủ An Vi, không Nhập thế ( duy vật hữu vi), không Xuất thế( duy tâm vô vi), mà là Xử thế.( Nhân Chủ An Vi). Do đó, người An Vi là một hành giảTự Do. Lý tưởng chính trị An Vi là Lý tưởng Nhân Chủ.

Tóm lại, Triết Lý An Vi là minh triết của lý tưởng Tự Do và Nhân Chủ theo đúng nghĩa sâu xa, toàn diện và chân chính của danh từ”(11)

Khi bàn về nội dung bài tham luận của diễn giả I, chúng tôi rất ý thức rằng VĂN HÓA tự bản chất có tính cách ‘lây lan’ và ảnh hưởng ‘qua lại’ trong địa hạt này là một chuyện bình thường ! Mục đích của việc trên là để ghi nhận một sự Thay Đổi lớn lao trong nhận thức của diễn giả I trong thời gian khoảng 6,7 năm sau khi đã có dịp tiếp cận với An Vi và Việt Nho. Và một cách nào đó, ‘chung vui’ với Vị này, cũng như luôn tiện đề cập đến một chút đóng góp của chúng tôi và những thân hữu trong “nhóm An Vi” cho Lý Tưởng chung.

B) MỘT VÀI NGỘ NHẬN

Như đã nói sơ qua ở trên, ngoài khía cạnh Tích Cực vừa mới trình bày, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn còn lại một vài Ngộ Nhận đáng tiếc về phía diễn giả I liên quan đến Cuộc Đời và Tư Tưởng của Cố Triết Gia. Vậy nên luôn tiện chúng tôi xin được đề cập ở đây đến một vài khía cạnh của vấn đề này.

1)Diễn giả I có đưa ra một số phân tích như sau: “Những năm học ở…..Học viện cao học Trung Hoa tại Paris đã giúp ông có điều kiện thu nhận khối tri thức khổng lồ về văn minh nhân loại. Có thể nói là, ngay bước khởi đầu, Kim Định được trang bị năng lượng tri thức ở tầm mức hàng đầu của nhân loại. Trong khi phần lớn học giả trong nước phải lần mò chủ yếu trên những trang cổ thư Trung Hoa cùng một vài tài liệu phương Tây hiếm hoi thì Kim Định được bơi trong biển kiến thức mênh mông về phương Đông mà phần quan trọng đã được giải mã theo nhãn quan khoa học của các học giả phương Tây. Tiếp đó, trong suốt cuộc đời, Kim Định đã không ngừng tự học, trang bị cho mình những tri thức mới nhất của nhân loại từ khảo cổ học, nhân chủng học, văn hóa học, ngôn ngữ học, phân tâm học, huyền học, hiện tượng học, cấu trúc luận và những kiến thức của khoa học vật lý hiện đại… Chính nhờ vậy, cái nhìn của ông không bị giới hạn trong phạm vi khu vực hạn hẹp mà là cái nhìn toàn thế giới với nhãn quan khoa học liên ngành. Trong khi phần lớn học giả người Việt chỉ biết văn minh Trung Hoa từ sau thời Tần Hán thì Kim Định có điều kiện để nhận ra rằng, cái khoảng trống trước Tần Hán mới là quan trọng, mới là quyết định cho văn hóa phương Đông…

..Không chỉ vậy, ông còn được những gợi ý về phương pháp luận tìm sự thực qua huyền thoại, truyền thuyết của Marcel Granet, Paul Mus… Triết gia Kim Định cũng là người rất sớm sử dụng cấu trúc luận trong nghiên cứu…..”(12)

Diễn giả không làm điều gì sai trái khi liệt kê một số yếu tố mà theo diễn giả có thể góp phần vào việc giải thích điều mà có người gọi là “hiện tượng Kim Định”. Tuy nhiên, đó là những điều Cần làm nhưng Không Đủ để giải thích “hiện tượng’ nêu trên. Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề này ở đây là vì chúng tôi e ngại rằng do thói quen giải thích mọi sự theo Duy Vật Sử Quan của các nhà nghiên cứu có khuynh hướng Mác-Xít quá nhấn mạnh đến các khía cạnh vật chất, ngoại tại, môi trường mà thường quên đi các khía cạnh tinh thần, nội tại, con người , khiến người ta có thể lầm tưởng rằng chỉ cần liệt kê tất cả các yếu tố nêu trên là có thể hiểu hết “hiện tượng Kim Định ?!

Thật vậy, trong thực tế, có những người, những du học sinh có thể hội đủ các điều kiện tương tự Kim Định về mặt phương tiện nghiên cứu, tiếp cận tài liệu,….., tuy nhiên, họ có thể trở thành nhà nghiên cứu , học giả…..trong một lãnh vực chuyên môn nhất định nào đó, nhưng không là một “triết gia An Vi hay Việt Nho” thứ hai được!

Trong bài tham luận của Cố Triết Gia tại Hội Nghị Quốc Tế về Nho Học tại Đài Loan (1984), Ngài có đề cập đến từ ngữ “ Kỳ Nhân” trong sách “Trung Dung” . Vậy “Kỳ Nhân” là Ai ? Thưa là triết gia Nho. Nói triết gia mà không là học giả cũng không cả triết học gia (ý hệ gia), mà phải là Triết Gia, triết gia Nho. Phải có “Kỳ Nhơn” đó thì Nho mới hiện lên những tư tưởng sống động để đi vào cõi người ta. Trong khi các nền Triết Học khác thường chỉ dừng lại ở đợt “Từ Ngữ” thì Triết gia Nho phải đi được cả bốn bước “Từ, Tượng, Số, Chế” hay “Dụng, Từ, Ý, Cơ”. Và Triết ở đây không chỉ có tính cách duy lý hay duy tình, hoặc duy chí mà tất cả Tình Lý Chí cùng tham dự. Còn trong Siêu hình là cả thiên lẫn địa, cả âm lẫn dương đều có phần. Tóm lại là không duy nào cả nhưng bao trùm hết, gồm có cả vào lẫn ra, cả trong lẫn ngoài, cả hữu lẫn vô, cả lý trí lẫn tâm linh”.(13)

Chỉ nền Văn Hóa nào đạt được đợt MINH TRIẾT với NHÂN CHỦ tính thì mới có loại “Kỳ Nhơn” nêu trên kèm theo một nền Triết Lý Nhân Sinh không chỉ để SUY TƯ, mà còn để CẢM XÚC và SỐNG THẬT nữa!

Tóm lại, việc liệt kê một số yếu tố như diền giả I đã làm ở trên là Cần nhưng KHÔNG ĐỦ để giải thích sự ra đời của “Kỳ Nhân” trong nền Minh Triết VIỆT!

2)Điểm thứ hai cần phải lưu ý là trong “Việt lý Tố nguyên” có hai đề thuyết: một là Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu, hai là chính người Bách Việt đã chủ xướng ra Nho giáo, người Tàu chỉ làm cho hoàn bị cũng như làm sa đoạ ra Hán Nho”.

Vì về phương diện đóng góp vào gia tài chung của Nho Giáo, câu tuyên bố trên có 2 vế: a) “Bách Việt đã chủ xướng ra Nho Giáo và B) “người Tàu chỉ làm cho hoàn bị cũng như làm sa đọa ra Hán Nho”, do đó điều quan trọng ở đây là phải thử XÁC ĐỊNH đâu là phần đóng góp của VIỆT Tộc và đâu là phần đóng góp của HOA Tộc ?

Về Kinh Dịch chẳng hạn, trước đây, hầu như ai cũng cho là của Tàu, nhưng nếu xét ngọn nguồn thì Cố Triết Gia cho là không phải như vậy, vì Dịch có năm giai đoạn gọi là:

Đạo dịch của Trời Đất

Đạo dịch của Phục Hy

Đạo dịch của ông Đại Vũ

Đạo dịch của Văn Vương

Đạo dịch của Khổng Tử

Và theo Ngài, Dịch là của TÀU chỉ ở 2 giai đoạn sau ở đợt HÌNH tức tuy đã có chữ nghĩa, nhưng chỉ gọi là “Hệ Từ” nghĩa là ‘chữ buộc vào sau’ mà thôi.

Còn Dịch là của VIỆT ở 3 giai đoạn trước tức ở đợt TƯỢNG.(14)

Có lẽ cần phải xác định như trên đối với Kinh Dịch cũng như các Kinh Điển khác của Nho Giáo hầu Tránh những Hiểu Lầm, Ngộ Nhận, Xuyên Tạc mà lời phát biểu sau đây của diễn giả I có thể bị người ta xử dụng như một cái cớ:

Bằng những chứng cứ không thể tranh cãi, chúng ta đã chứng minh được rằng, không chỉ Dịch, Thư, Thi… là sáng tạo của người Việt”(15)

3) Về Chữ Viết cũng vậy, cần có sự Xác Định tương tự. Cố Triết Gia viết:

“Trong sách ‘Thống Chí’ do Trịnh Tiều sưu tập có lưu truyền rằng “Vào đời Đường, nước Việt Thường có biếu rùa thần, sống một nghìn năm, lớn hơn ba thước, trên mu có chữ con Quăng, ghi việc từ khai thiên lập địa về sau. Đế Nghiêu ra lệnh ghi chép lại và gọi là Quy Lịch”.

Như vậy, chữ con Quăng đã có từ thuở rất xa xưa và là của Việt Tộc, gọi là con quăng hay nòng nọc vì có hình như con giun. Đó là ý nghĩa căn cứ vào hình thể bên ngoài. Còn ý sâu xa: đó là chữ của những dân đã nhận vật biểu Xà Long và Giao Long. Cả hai thuộc giòng bò sát, nên tượng hình chỉ bằng chữ “Trùng” mà ta thấy còn dùng để viết chữ “Man Di” là tên để chỉ Tổ Tiên ta….. Trong từ “OA” của tên Bà Nữ Oa là một trong Tam Hoàng của Bách Việt, có chữ viết “OA” với bộ “Trùng” và chỉ loài ếch nhái….. Những hình người Nhái đó đơn giản dần hóa ra loài bò sát được tượng bằng chữ “Trùng”, chữ “Trãi” trong một chữ “Lạc”. Nó cũng nói lên một gốc là Xà Long, nhưng khác về dạng tự. Đại để đó là ít điều về chữ Khoa Đẩu.

Về chữ “Chân Chim” (Điểu Tích Văn), đó là thứ chữ của dân nhận vật biểu “Chim” như chữ Hùng Việt và Lạc Việt. Cả hai chữ đều viết với bộ “Chuy” là Chim: Hùng và Lạc. Trên nữa là chữ “Hồng Bàng” thì cả hai chữ vừa viết với bộ “Thủy” (hay giang) chỉ loài sống dưới Nước, và “Điểu” chỉ loài bay trên Trời. Còn “Bàng” là nhà Rồng, tức Nhà lớn, có bộ “Long”.

Theo lưu truyền thì chữ “Chân Chim” có từ đời Thần Nông do ông Thương Hiệt sáng nghĩ ra. Lưu truyền này kiện chứng cho ý nghĩa trên là chữ “chân chim” thuộc Việt Tộc vì nhận vật biểu “Chim”, bởi cả hai tên Thần Nông và Thương Hiệt đều chỉ về Nông Nghiệp lúa Mễ của Việt Tộc.

Xem thế thì rõ ràng chữ Nho xưa bám sát hai vật biểu Nước là TIÊN (chữ Chân Chim) và RỒNG (chữ Con Quăng). Quyển Kinh Dịch cũng mở đầu với sáu thể Rồng ở quẻ “Kiền” và kết sách bằng ‘Thập Dực” (=10 Cánh Chim). Đó chính là con dấu Tác Quyền của Tổ Tiên ta đóng trên quyển Kinh nền tảng nhất của Viễn Đông.

Đó cũng là những Dấu Vết nói lên phần đóng góp của Việt Tộc. Sở dĩ ta coi chữ NHO là của Tàu vì đến đời Tần Thủy Hoàng thống nhất các chữ xưa kia lại một kiểu mới là chữ LỆ ngày nay, bãi bỏ chữ con Quăng và con Chim. Thế rồi lâu ngày ta quên gốc nên quy hết cho Tàu. Còn nếu xét toàn diện thì sẽ thấy rõ nguồn gốc VIỆT ở hai giai đoạn trước, Tàu chỉ ở giai đoạn ba.”(16)

Thiết tưởng những phân tích rõ ràng xác định như trên của Cố Triết Gia là Tối CẦN THIẾT hầu tránh những Ngộ Nhận đáng tiếc mà một câu tuyên bố tương tự cách phát biểu sau đây của diễn giả I có thể gây ra:

“mà tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng Trung Hoa. Không những thế, chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa...”

Tóm lại, Cần Phải Phân Biệt rõ ràng đâu là Phần Đóng Góp Của TÀU và đâu là Phần Đóng Góp Của VIỆT như Cố Triết Gia đã làm trong suốt Bộ Sách An Vi và Việt Nho hầu TRÁNH những Hiểu Lầm, Ngộ Nhận cũng như trường hợp người ta xử dụng nó như cái CỚ để XUYÊN TẠC Kim Định !!!

4) Còn về câu tuyên bố của diễn giả 1 sau đây: “Người Việt chiếm lĩnh đất Trung Hoa trước nhưng không phải từ tây bắc xuống mà lại từ chính Việt Nam lên”, (17)chúng tôi đã có dịp trả lời trong một bài viết trước đây như sau:

“Trước khi tiếp tục, chúng tôi xin bàn qua về giả thuyết "Thiên Sơn" mà có người đề cập đến. Nếu mới xem qua một cách HỜI HỢT thì chủ trương này của Sử Truyền Viễn Đông có vẻ "mâu thuẫn" với các khám phá gần đây của Di Truyền học với sự hỗ trợ của khoa Khảo Cổ liên quan đến sự thiên di lên phía Bắc của người Đông Nam Á cách đây khoảng 40.000 năm. Nhưng nếu nghiên cứu một cách NGHIÊM TÚC hơn thì có thể KHÔNG CÓ MÂU THUẪN GÌ CẢ!

Lý do thứ nhất là hai Lý Thuyết nói tới HAI LOẠI Dữ Kiện CÁCH NHAU MẤY CHỤC NGÀN NĂM. Lý do thứ hai là các khám phá Khoa Học gần đây có vẻ hỗ trợ cho chủ trương của Sử Truyền.”(18)

5) Diễn giả I còn đề cập đến Thái Độ của Cố Triết Gia cũng như cách thức người ta đối xử với Ngài trong khoảng thời gian Ngài sinh sống tại Miền Nam Việt Nam cũng như sau này bằng những lời phát biểu như sau:

- “Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng hệ thống triết lý Việt Nho”

hoặc

- “Cùng chung số phận những nhà tiên tri, suốt năm mươi năm Kim Định bị ghẻ lạnh và ném đá!”(19)

Mối quan tâm trên của diễn giả I cũng được diễn giả II đề cập đến, do đó chúng tôi xin mạn phép được trả lời chung Quý Vị ở phần dưới về vấn đề này.

KẾT LUẬN I

Đối với diễn giả I, Vị này vẫn còn một vài hiểu lầm, ngộ nhận đáng tiếc, như có một hình ảnh không được trung thực lắm về xã hội Miền Nam VN trước đây; do đó trong nhận định của ông đối với cuộc sống của Cố Triết Gia Kim Định chẳng hạn, có khuynh hướng BI THẢM Hóa những vấn đề, khó khăn thực ra là Bình Thường trong một xã hội tương đối Bình Thường là xã hội Miền Nam trước 1975 (mặc dầu trong tình trạng chiến tranh).

Sự Ngộ Nhận này có lẽ bắt nguồn từ Kinh Nghiệm Sống của diễn giả I đã từng chứng kiến lối đối xử Dã Man, Tàn Độc mà nhà cầm quyền CSVN đã giành cho giới Trí Thức Miền Bắc như Nguyễn Mạnh Tường, Trấn Đức Thảo…..; rồi từ đó suy luận ra về tình trạng của Kim Định ở Miền Nam VN mà ông nghĩ một cách chủ quan rằng chắc cũng không khá gì hơn số phận của Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo ở Miền Bắc VN. Nhưng diễn giả I ĐÃ LẦM như chúng tôi sẽ chứng minh ở phần dưới.

Còn về lề lối tiếp cận với dữ kiện của diễn giả I, có lẽ cũng cần điều chỉnh một chút xíu về mặt phương pháp luận để ít “duy vật” và nhiều “Nhân Chủ” tính hơn hầu đạt được một cái nhìn Quân Bình hơn về Thực Tại.

Về câu tuyên bố của diễn giả I sau đây: “Người Việt chiếm lĩnh đất Trung Hoa trước nhưng không phải từ tây bắc xuống mà lại từ chính Việt Nam lên”, chúng tôi đã trả lời ở phần trên.

Ngoài ra, có lẽ Cần Phải Phân Biệt rõ ràng đâu là Phần Đóng Góp Của TÀU và đâu là Phần Đóng Góp Của VIỆT như Cố Triết Gia đã làm trong suốt Bộ Sách An Vi và Việt Nho hầu TRÁNH những Hiểu Lầm, Ngộ Nhận cũng như trường hợp người ta xử dụng nó như cái CỚ để XUYÊN TẠC Kim Định.

Trên đây, chúng tôi liệt kê một vài Ngộ Nhận, Hiểu Lầm vẫn còn của diễn giả I sau 6, 7 năm tiếp cận (nếu chúng tôi không lầm) với các công trình về An Vi và Việt Nho.

Tuy nhiên, 6, 7 năm KHÔNG phải là một thời gian dài và nếu nhìn từ một góc cạnh khác, thì những Hiểu Lầm, Ngộ Nhận nêu trên , nhất là ở bước đầu, cũng chỉ là Chuyện BÌNH THƯỜNG mà thôi!!! Trái lại, chúng tôi xin được ghi nhận nhiều điểm Rất TÍCH CỰC về phía diễn giả I

.Chẳng hạn, nay thì ông có vẻ đã nắm một cách Khá Vững Vàng các Ý Tưởng Căn Bản của An Vi và Việt Nho như

1.Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa”,

2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh

3. Quan niệm kinh tế: Bình sản

4.Quan niệm sống: Đạo Việt an vi”,

Cũng như xử dụng những Phạm Trù nền tảng của An Vi và Việt Nho để đưa ra những nhận định về các lề lối Phát Triển Đông Tây và những Hệ Luận có thể rút tỉa ra từ các đường lối phát triển khác nhau đó. Diễn giả cũng không quên dùng các kiến thức nêu trên để Phân Tích tình hình của Thế Giới hôm nay, trưng ra những Nguyên Nhân gây ra Bế Tắc mà diễn giả tóm tắt bằng thuật ngữ “mất cân bằng Âm Dương”. Những nguyên nhân nêu trên tuy nằm ở bình diện VĂN HÓA, nhưng ảnh hưởng Tiêu Cực của chúng lại bao trùm khắp mọi địa hạt của cuộc sống thường nhật lẫn chuyên môn từ Kinh Tế , Tài Chánh đến Khoa Học, Kỹ Thuật lẫn Môi Sinh…..vvv…..

Sau khi đánh một “vòng chân trời” khắp “năm châu bốn biển” của Thế Giới hôm nay, diễn giả I tức nhà Nghiên Cứu Hà Văn Thùy đã kết luận :

“….. do là cội nguồn của minh triết phương Đông, nếu biết phát hiện lại mình, thực thi bốn đặc điểm của Việt nho, Việt Nam không chỉ cứu được mình mà còn là ngọn cờ dẫn dắt nhân loại trên con đường phục hưng.

Do lẽ đó, di sản của triết gia Kim Định là báu vật vô cùng quý giá mà chúng ta phải trân giữ, học hỏi và truyền dạy cho hậu thế.(20)

Tóm lại, đối với ông Hà Văn Thùy, chúng tôi nhận thấy các điểm TÍCH CỰC nhiều hơn các điều Tiêu Cực và quan trọng hơn cả là Nỗ Lực không ngừng trong việc Nghiên Cứu và Học Hỏi về AN VI và VIỆT NHO của Vị này.

Đó là lý do khiến chúng tôi cảm thấy VUI NHIỀU HƠN BUỒN và Xin Cầu Chúc Nhà Nghiên Cứu Hà Văn Thùy TIẾN XA hơn nữa trên con đường Học Hỏi và Nghiên Cứu về ĐẠO VIỆT.

II) DIỄN GIẢ II

A) DẪN NHẬP

1) Tới đây, chúng tôi mạn phép đề cập đến diễn giả II trước nhất về mối quan tâm mà Vị này cùng chia xẻ với diễn giả I liên quan đến Thái Độ của Cố Triết Gia cũng như cách thức mà người ta đối xử với Ngài .

Tuy nhiên, trước khi trả lời trực tiếp vấn đề nêu trên chúng tôi cũng xin liên hệ vấn đề này với một đề tài khác mà diễn gỉả II có đề cập đến, nhưng chúng tôi không đồng ý với lối lập luận của diễn giả II, mặc dầu Vị này xem nó như là “điểm Mạnh” của Kim Định. Diễn giả II phát biểu như sau:

a) “Điểm mạnh thứ ba là Kim Định làm linh mục tại nhà thờ: do vậy dễ hiểu rằng ông là người ham muốn truyền đạo và rất có phương pháp, kinh nghiệm trong việc tổ chức truyền đạo, gây dựng phong trào”.(21)

Vì Vị này có trích dẫn ông Tạ Chí Đại Trường (từ một bài viết của ông này, mà chúng tôi đã có dịp trả lời trước đây) ở phần dưới để viết bài tham luận của mình nên ở nhiều đoạn, có vẻ chịu ảnh hưởng của họ Tạ trong lối lập luận, xử dụng các dữ kiện và lẽ dĩ nhiên cũng bị mắc phải những sai lầm giống hệt họ Tạ.

Ông Tạ Chí Đại Trường viết : “Triết của ông đặt nền tảng trên “huyền sử” mà ông, vốn là một linh mục, đã quen với lối giảng giải huyền thoại của Cựu ước cho tín đồ, nay chỉ cần chuyển phương pháp vào đối tượng mới, quyển LNCQ, để từ đó bung ra. Ông linh mục Kim Ðịnh với Kinh Cựu ước thật dễ dàng chuyển sang ông triết gia huyền sử Việt với Kinh Hùng LNCQ.”.(22)

Nguyên nhân Sai Lầm của Quý Vị ở đây có lẽ là do THIẾU NGUỒN THÔNG TIN CHÍNH XÁC cũng như “thiếu thốn về tư liệu, rất dễ khiến” Quý Vị “sa vào tư biện”cũng là điều diễn giả II trách (OAN) Cố Triết Gia ở phần dưới. Chúng tôi xin được chứng minh dưới đây.

Sau đây là phần tóm tắt những gì chúng tôi biết về Cố Triết Gia qua sự tiếp xúc Trực Tiếp với Ngài lúc sinh thời cũng như Gián Tiếp qua những tài liệu khả tín về Cuộc Đời của Ngài:

Ngài “sinh ngày 15-06-1915 tại làng Trung Thành tỉnh Nam Ðịnh. Sau khi tốt nghiệp Triết tại Giáo Hoàng Chủng Viện Saint Albert le Grand, Ngài dạy Triết Tây Phương tại Ðại Chủng Viện Quần Phương, Bùi Chu từ năm 1943-46 và viết tác phẩm đầu tiên “ Duy Vật và Duy Thực” (Sách sau này bị thất lạc) . Sau đó, năm 1947 Ngài được cử đi du học ở Pháp nghiên cứu về Văn Minh Pháp, Xã Hội học, Triết Học và Nho Giáo tại Học Viện Cao Học Trung Quốc Học (Institut des Hautes Études Chinoises, Paris)”.(23)

Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam được ổn định, “các sinh viên du học nước ngoài lục tục kéo về xây dựng đất nước” Trong số đó có Cố Triết Gia Kim Định. Lúc đầu, Ngài dạy học ở Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh Gia Định từ 1958 do cha Trần Văn Hiến Minh làm Giám Đốc. Ba năm sau, các cha giáo sư tiểu chủng viện Bùi Chu phụ trách trường Nguyễn Bá Tòng thay cha Tường đã làm Hiệu Trưởng trước đó. Cha Tường lúc về Đắc Lộ ngã tư Bảy Hiền có mời Cố Triết Gia về giúp Cha tại đây,(24) nhưng đó chỉ là việc phụ, còn công việc chính của Cố Triết Gia ở giai đoạn này là đi Dạy Học tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn.

Và đó cũng là hình ảnh mà chúng tôi còn giữ lại về Cố Triết Gia trong khoảng thời gian 4 năm (1967-1971) mà chúng tôi có dịp theo học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn về hai bộ môn Văn Chương Pháp và Triết Đông. Và cứ vài tuần một lần chúng tôi lại ghé thăm Thầy mình tại trường Đắc Lộ ở ngã tư Bảy Hiền (Sài Gòn).

Vì Dạy Học là công việc chính của Ngài nên ngoài Đại Học Văn Khoa SG, Ngài mới có thể phụ trách thêm các giảng khóa ở các Đại Học khác như ĐH Vạn Hạnh [nơi đây Ngài là Giáo Sư đỡ đầu tiểu luận Cao Học của chúng tôi về đề tài “Cơ Cấu Luận và Việt Nho” (1971-72) mà chúng tôi không có thì giờ hoàn tất vì ngay sau đó chúng tôi thi đậu vào Ban Cao Học Ngoại Giao của Trường Quốc Gia Hành Chánh (SG khóa 1972-74) và sau đó nữa là biến cố 30/04/1975], và các ĐH Đà Lạt, Minh Đức, Thành Nhân, An Giang.

Tuy biết rằng “ cái ‘tôi’ đáng ghét” (do đó chúng tôi rất ái ngại mỗi khi phải đề cập đến bản thân mình), nhưng miễn cưỡng chúng tôi phải làm chuyện đó ở đây với mục tiêu duy nhất là làm sáng tỏ giai đọan này của Cố Triết Gia mà vai trò chính yếu của Ngài là của một TRIẾT GIA kiêm GIÁO SƯ ĐẠI HỌC chứ không phải của các công việc linh tinh khác mà người ta cố ý nhấn mạnh vào.

Vậy nên, các câu phát biểu như của diễn giả II “ Điểm mạnh thứ ba là Kim Định làm linh mục tại nhà thờ: do vậy dễ hiểu rằng ông là người ham muốn truyền đạo và rất có phương pháp, kinh nghiệm trong việc tổ chức truyền đạo, gây dựng phong trào” (25)

Hoặc của ông Tạ Chí Đại Trường “Triết của ông đặt nền tảng trên “huyền sử” mà ông, vốn là một linh mục, đã quen với lối giảng giải huyền thoại của Cựu ước cho tín đồ, nay chỉ cần chuyển phương pháp vào đối tượng mới, quyển LNCQ, để từ đó bung ra. Ông linh mục Kim Ðịnh với Kinh Cựu ước thật dễ dàng chuyển sang ông triết gia huyền sử Việt với Kinh Hùng LNCQ.”.(26)

KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ GÌ NHIỀU !!!

B) Chúng tôi xin được trở lại ở đây với đề tài chính là Thái Độ của Cố Triết Gia cũng như cách thức mà người ta đối xử với Ngài cách chung và cách riêng ở Miền Nam Việt Nam trước 30/04/1975 qua các lời phát biểu sau đây

của diễn giả I

:

- “Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng hệ thống triết lý Việt Nho”

hoặc

- “Cùng chung số phận những nhà tiên tri, suốt năm mươi năm Kim Định bị ghẻ lạnh và ném đá!” (27)

và của diễn giả II:

- “không ai thèm để ý đến, nếu có nhắc đến thì là để đem ra chế diễu như người ta đã từng làm đối với ông đạo Dừa”. “Với Kim Định cũng đã từng có cách ứng xử tương tự ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975…..”

hoặc

- “Nhưng với Kim Định thì tình hình không phải như thế mà tệ hơn rất nhiều. Giới học giả giễu cợt chê bai đã đành, người ta “đánh” Kim Định bằng lời nói và ngòi bút đã đành, ngay cả các cha bề trên trong đạo của ông cũng quay lưng lại với ông. Hà Văn Thùy nhận xét rằng “Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn” [Hà Văn Thùy 2011]. Theo tôi, phải nói là “Kim Định sống giữa rất nhiều làn đạn” mới đúng!”…vvv…(28)

Đúng là Quý Vị sinh sống lâu ngày trong một xã hội “bưng bít” như Miền Bắc Việt Nam nên có khuynh hướng BI THẢM Hóa những sinh hoạt xét ra là BÌNH THƯỜNG trong một xã hội Bình Thường như sự Cạnh Tranh trong lãnh vực nghề nghiệp, các cuộc tranh luận lý thuyết trong môi trường Đại Học.... Chỉ có thể lần này hơi Khác các lần trước một chút là vì với nhiều lý do khác nhau, Cố Triết Giả đã tỏ ra NỔI hơn so với đa số các bạn đồng nghiệp của mình, do đó gây ra phản ứng khó chịu từ nhiều người trong giới họ, nhất là với các khám phá của Ngài về AN VI và VIỆT NHO, Ngài đưa ra không những nhiều Tư Tưởng mà còn cả một Lề Lối suy tư MỚI MẺ nhằm đặt lại vấn đề đối với hiện trạng. Do đó, cuộc tranh luận lần này có thể trở nên Gay Gắt hơn thường lệ, nhưng cũng vẫn ở trong lằn mức Bình Thường của một xã hội tương đối Bình Thường là xã hội Miền Nam VN trước đây .

Và đó cũng là Cảm Tưởng CHUNG của chúng tôi cùng với một số bạn học trong thời còn là sinh viên tại ĐH Văn Khoa SG và cũng là khoảng thời gian quan trọng, sáng tạo, hào hứng, sôi nổi Nhất của cả Thầy lẫn trò trong việc hình thành Chủ Thuyết AN VI và VIỆT NHO. Riêng với chúng tôi, quả là một giai đoạn khó quên đã có một ảnh hường Quyết Định trên phần còn lại của đời mình. Tuy nhiên, vào thời điểm này, nhóm bạn bè chúng tôi không phải là nhóm duy nhất có may mắn tiếp xúc thường xuyên với Thầy mình như vậy. Chúng tôi còn nhớ rất nhiều lần có dịp “chạm trán” với những nhóm khác (hoặc tới trước hoặc tới sau nhóm chúng tôi để thăm Thầy, và họ có thể là sinh viên ĐHVKSG hoặc sinh viên các Đại Học khác như ĐH Luật hay ngay cả ĐH Khoa Học) tại chỗ Ngài cư ngụ là trường Đắc Lộ ở Ngã Tư Bảy Hiền. Đó là chưa kể ảnh hưởng hằng ngày của Ngài đối với giới Sinh Viên mỗi khi Ngài giảng dạy tại các Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh, Đà Lạt, Minh Đức, Thành Nhân, An Giang, còn đối với các giới khác là qua số lượng sách vỡ được in ra.

Và phần lớn nội dung của các buổi gặp gỡ giữa Ngài và các nhóm Sinh Viên khác nhau liên quan đến các Khám Phá Mới Mẻ Nhất của Ngài về An Vi và Việt Nho trong một bầu không khí rất là hào hứng cởi mở với một bên là Ngài qua hình ảnh một Vị Thầy Khả Kính luôn luôn Lạc Quan Yêu Đời với một lối sống Bình Dị dễ tiếp cận, nhưng đồng thời lại là một Triết Gia Sâu Sắc, Độc Đáo hiếm thấy đi Tiên Phong trong Mặt Trận Văn Hóa hướng tới mục tiêu Cứu Quốc và Kiến Quốc với bên kia là các môn sinh của Ngài thuộc tầng lớp Trẻ có Lý Tưởng , chứ nội dung gặp gỡ KHÔNG phải là những khó khăn trong nghề nghiệp, những gièm pha, đố kỵ, phát xuất từ các đồng nghiệp, như có người lầm tưởng! Lý do là Ngài xem các điều sau như là những chuyện thường tình trong các mối tương quan giữa người với người. Nhất là trong đồng văn của một xã hội tương đối Bình Thường là Miền Nam Việt Nam trước 30/04/75 (mặc dầu bị đặt trong tình trạng chiến tranh), thì càng không có gì đáng nói !

Về tương quan giữa Cố Triết Gia và các Bề trên của Ngài trước 30/04/1975, chúng tôi nghĩ là ở tình trạng Rất Bình Thường vì theo những gì Ngài ‘tâm sự’ với chúng tôi và một vài môn sinh khác, khi vào lúc chót một môn sinh trung nghĩa đến giúp Ngài ‘di tản’, Ngài không khỏi bật khóc khi nghĩ phải rời bỏ nơi cư ngụ bấy lâu nay cùng Cha Bề Trên ở trường Đắc Lộ.

Ở phần này (B) cũng như ở phần trên (a), nguyên nhân chính yếu của tình trạng Hiểu Lầm từ phía Quý Vị về Kim Định, tuy đã đề cập ở trên, nhưng có lẽ cũng nên lập lại ở đây là do THIẾU NGUỒN THÔNG TIN CHÍNH XÁC cũng như do “thiếu thốn về tư liệu, rất dễ khiến” Quý Vị “sa vào tư biện”!

Nhưng còn một lý do khác phát xuất từ tâm lý thường tình của con người là khuynh hướng “Suy bụng ta ra bụng người”. Ý nghĩ này đến với chúng tôi sau khi có dịp đọc những tài liệu gần đây về vụ ‘Nhân Văn Giai Phẩm” và những gì xảy đến cho các nhà Trí Thức nổi tiếng ở Miền Bắc VN như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường.

Trần Đức Thảo

Sau đây là lời thuật lại của Nguyễn Đình Chú, một sinh viên của ông Trần Đức Thảo:

“Chiều hôm đó, tôi nhớ là khoảng đầu năm 1958, bỗng nhiên trong cuộc họp công đoàn của Khoa Sử không có mặt hai giáo sư Trần Đức Thảo và Đào Duy Anh, nổi lên một không khí lên án giáo sư Thảo một cách vô cùng gay gắt..... Câu chuyện của anh V.H.T là muốn nêu cho mọi người thấy Trần Đức Thảo là một người đã được Bác Hồ, Đảng, Nhà nước trọng vọng hết mức như thế nhưng nay thì quay ra chống phá cách mạng..... Tiếp đó, cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm trong hai trường đại học Sư phạm và Tổng hợp đã diễn ra sôi nổi, dĩ nhiên là có lãnh đạo hẳn hoi….. Riêng giáo sư Trần Đức Thảo vì bị đau răng sưng cả má, phát sốt, nên hơn một tháng sau mới bị đấu tranh..... Trong những người đấu tranh, có giáo sư, có giảng viên, có trợ lý vốn là học trò giáo sư Thảo. Nội dung phê phán là đủ tội, nhưng nổi lên vẫn là vai trò lãnh tụ tinh thần của nhóm Nhân văn – Giai phẩm và các tội chính là:

- Dám phê phán Trung ương về triết học là duy tâm chủ quan, sai tinh thần của Mác, vì đặt quan hệ sản xuất lên trước lực lượng sản xuất.

- Dám phê phán Đảng sau ngày dành được chính quyền đã tạo ra bộ máy quan liêu.

- Dám chê Mao Trạch Đông dốt – chê Mâu thuẫn luận và Thực tiễn luận là sai học thuyết Mác.

- Đòi tự do dân chủ một cách vô chính phủ.

Tiếp theo đợt đấu tranh là việc xử lý kỷ luật.....”.(29)

Có lẽ nhà cầm quyền CSVN cố ý dấu nhẹm vụ này, do đó rất khó kiếm tài liệu liên quan đến những gì xảy ra cho Trần Đức Thảo sau vụ đấu tố nêu trên. Có điều chắc chắn là ông bị cho Nghỉ Dạy. Có tin đồn rằng ông Thảo bị đưa đi lao động cải tạo, Có tin đồn khác rằng ông bị bắt đi chăn bò một thời gian...vvv...

Cuối cùng, ông Thảo được tha về lại số 16Đ ngõ II, Hàng Chuối, Hà Nội

.

Nguyễn Mạnh Tường

Chuyện ông Nguyễn Mạnh Tường lại còn Bi Thảm hơn nữa do chính ông thuật lại trong tác phẩm cuối đời của mình viết bằng tiếng Pháp và xuất bản tại Pháp với tựa đề “Un Excommunié” (= Kẻ bị rút phép thông công). Ông viết:

“Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề..... Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa những kẻ thừa mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.....

Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm.....

Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số, trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở trường Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ Pháp. Nhưng sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân giáo viên ở một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có một chỗ ở Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy. Hai thí sinh được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái tôi được hội đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận, vì cha của cô ta là một đảng viên.....

Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tụy....

Sống trong một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tuỵ ốm tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền não, chỉ dám giấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên giường ngủ. Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa hơn một lần, phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dối trá không thể kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi phí.

Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như con nước tràn đê bao trùm lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm tưởng như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn của ý thức bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình đứng dậy làm một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm xuống trên chỗ nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn biến mất. Cùng lúc đó, cái bao tử co thắt từng chặp làm cho tôi vô cùng đau đớn. Cơn đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu đựng vừa nghỉ ngơi trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô thức, bất tỉnh không còn biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi cũng thoát được cơn đói đau thắt với cái lưng đau và một tâm hồn bầm dập quá đỗi. Tôi vừa xong bài học nhập môn về sự đói”(30)

Thật là KINH KHIẾP !!! Là người dân Miền Nam VN trước 30/04/75, chúng tôi không thể tưởng tượng nổi là người ta có thể đối xử với Trí Thức một cách dã man, tàn độc như vậy.

Nhất là đối với Trần Đức Thảo là người đã tử bỏ công danh sự nghiệp của mình bên Pháp để trở về “theo Bác đi kháng chiến”.

Cũng như đối với Nguyễn Mạnh Tường đã dâng “Bác và Đảng” gần hết gia tài của mình là 3 căn nhà của Bố Mẹ để lại trước khi ông “đi kháng chiến” và đã lập được nhiều Thành Tích cho nhà cầm quyền CSVN. Ngoài ra, Ông Tường thấy cần phải lập đi lập lại nhiều lần là ông không đòi Dân Chủ, mà chỉ xin được một chút Tự Do phát biểu những ý tưởng Xây Dựng của mình mà thôi!!!

Tóm lại, vì sống trong một xã hội KHÔNG BÌNH THƯỜNG là xã hội Miền Bắc VN trước 30/04/1975, Quý Vị đã chứng kiến cách đối xử TÀN BẠO, PHI NHÂN mà nhà cầm quyền CSVN giành cho các Trí Thức Miền Bắc như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, rồi “Chiếu Giải” thực trạng BI THẢM của Miền Bắc lên trường hợp Kim Định vì lầm tưởng rằng xã hội Miền Nam có lẽ cũng không hơn gì xã hội Miền Bắc. Điều này giải thích những câu phát biểu Bi Quan của Quý Vị đã đề cập ở trên.

Nhưng Quý Vị đã LẦM TO !!! So với Miền Bắc VN, xã hội Miền Nam VN trước 30/04/1975, TỰ DO, NHÂN BẢN hơn nhiều !!! Về mặt Tự Do TƯ TƯỞNG chẳng hạn, trong khi đang có chiến tranh giữa Miền Nam VN và Miền Bắc VN theo chủ nghĩa Cộng Sản, một tác phẩm nghiên cứu lý thuyết MÁC-XÍT như của Nguyễn Văn Trung vẫn được xuất bản tại Miền Nam: “Hành Trình Trí Thức của Karl Marx” (1966). Một Trí Thức Thiên Tả như Lý Chánh Trung cũng có sách xuất bản tại Miền Nam như: “Cách Mạng và Đạo Đức” (1966), “Ba Năm Xáo Trộn” (1967)...vvv... Và ngay cả Vũ Hạnh mà nhiều người Quốc Gia gọi là “Việt Cộng Nằm Vùng” và Chính Quyền VNCH trước 1975 cũng đã biết rõ gốc tích, có Sách xuất bản tại Miền Nam VN trước 1975 như sau: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Lửa Rừng (1972) Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974).....

Trong khi đó, ở Miền Bắc, một Nguyễn Mạnh Tường chỉ xin một chút Tự Do để phát biểu các ý tưởng Xây Dựng của mình không những không được phép mà còn bị “ trù dập”, bị bỏ đói một cách rất thê thảm !!!

Quý Vị cứ so sánh hai Hình Ảnh của một bên Kim Định luôn Lạc Quan, Yêu Đời ĐẦY SỨC SỐNG với bên kia Trần Đức Thảo hay Nguyễn Mạnh Tường Ủ Rủ, Héo Hắt, Gầy Mòn vì luôn luôn BỊ ĐÓI thì mới hiểu Thực Trạng của hai Miền Nam, Bắc VN trước 30/04/1975!!!

Và Quý Vị nên nhớ rằng chính trong bầu khí TỰ DO Tư Tưởng và Sáng Tạo của Miền Nam VN (chứ không phải Miền Bắc) mà Chủ Thuyết AN VI và VIỆT NHO bắt nguồn từ nền MINH TRIẾT VIỆT mới có thể ra đời được! Thiết tưởng đó là Thành Tựu Cao Quý Nhất của 21 năm Sống Còn của Miền Nam VN (1954-1975)!!!

Sau 1975, chúng tôi liên lạc lại được với Cố Triết Gia vào những năm đầu tiên của thập niên 1980 và tiếp tục liên lạc đều đặn từ đó và rất phấn khởi về những gặt hái rất tích cực, phong phú và đầy triển vọng trong các sinh hoạt của Ngài về cả hai mặt Lý Thuyết và Thực Tiễn ở hải ngoại. Và có dịp gặp lại Ngài 3 lần. Lần đầu tiên từ Pháp qua thăm Ngài tại San Jose (HK) vào Mùa Hè 1984. Lần thứ hai vào Mùa Hè 1988 cũng tại San Jose khi chúng tôi đang trên đường đi định cư lần thứ hai tại Úc. Và lần thứ ba khi Ngài sang Úc diễn thuyết theo lời mời của CĐNVTD tại Úc vào năm 1989.

Sau đó, vì bận bịu với các công việc mưu sinh trong bước đầu định cư tại Úc nên chúng tôi không liên lạc đều đặn được với Cố Triết Gia như trước. Tuy nhiên, vào năm 1995, tức hai năm trước khi Ngài mất, chúng tôi có nói chuyện được với Ngài qua điện thoại và có nhận xét là vào thời điểm này, Ngài vẫn tỏ ra Minh Mẫn, Tỉnh Táo và rất vui mừng khi nghe chúng tôi báo tin là sắp cùng với bạn bè ra một tờ Tuần Báo để truyền bá An Vi và Việt Nho.

Xin Quý Vị thứ lỗi cho chúng tôi đã hơi dài dòng trong phần trên cũng như nói hơi nhiều về cá nhân mình (mặc dầu như đã nói ở trên, đó là điều mà chúng tôi rất ái ngại). Lý do là để góp phần làm SÁNG TỎ Hành Trình thực sự của Cố Triết Gia về cả hai mặt Tư Tưởng và Cuộc Đời với những gì chúng tôi biết được về Ngài qua sự tiếp xúc Trực Tiếp với Ngài cũng như Gián Tiếp qua các tài liệu mà chúng tôi nghĩ là Khả Tín liên quan đến đề tài

B) KHÍA CẠNH TÍCH CỰC

Về khía cạnh Tích Cực, diễn giả II phát biểu:

“Lương Kim Định là người đầu tiên và cho đến nay là duy nhất viết nhiều sách nhất về văn hóa Việt Nam.....”

Hoặc “Vì sao người ta lại sợ ông đến thế? Câu trả lời hình như rất đơn giản: Là vì ông có quá nhiều người theo. Mà số người theo này lại mỗi ngày một đông. Mà số người mỗi ngày một đông này lại không phải là người bình dân, gần như tuyệt đại bộ phận họ là trí thức..... và là sinh viên, tức những chủ nhân của tương lai”

“Tất cả những cái bất thường đó đã làm nên “hiện tượng Kim Định”.

Diễn giả II tiếp tục:

“Có thể thấy Kim Định có tất cả năm điểm mạnh.

“Điểm mạnh thứ nhất của Kim Định là ông tốt nghiệp chuyên ngành Triết Tây; nghĩa là ông đã được đào tạo rất bài bản và có phương pháp”.

“Điểm mạnh thứ hai là ông lại còn học cao học chuyên ngành Trung Quốc học (ngành Đông phương học) tại Pháp: Nhờ đó mà ông am hiểu lịch sử và văn hóa Trung Hoa, tiếp xúc được với các tác phẩm nghiên cứu Trung Quốc của người phương Tây; trong ông tri thức Tây và Đông đã bổ sung khá hoàn hảo cho nhau.....”

“Nhưng ông còn có điểm mạnh thứ tư là tham gia giảng dạy triết học tại đại học; điều đó có nghĩa là ông có may mắn sống trong môi trường đại học khuyến khích tư duy sáng tạo. Trong ngành triết học, tư duy sáng tạo ấy đòi hỏi một năng lực suy luận, không loại trừ cả năng lực tưởng tượng phong phú nữa”

“Điểm mạnh thứ năm nằm ở chỗ Kim Định là người sinh ra ở Bắc Kỳ, song lại sống ở Nam Kỳ. Sinh ra ở đất Bắc (Nam Định) nên trong con người ông có cái “máu” thích làm lý luận. Nhưng chính cái môi trường sống Nam Kỳ mới là yếu tố mang tính quyết định trong việc tạo ra “hiện tượng Kim Định”.

“.....Kim Định học được ở họ lối tư duy phóng khoáng, cách hành xử năng động và mạnh dạn, “dám nghĩ dám làm

“Nam Kỳ lại là nơi ở xa Đất Tổ; mà người trí thức như Kim Định càng ở xa Đất Tổ bao nhiêu thì tấm lòng và tình cảm hướng về nguồn càng mạnh mẽ bấy nhiêu.”

“Nam Kỳ thời Kim Định còn là mảnh đất tư bản tự do..... tạo điều kiện cho việc phát huy tinh thần quốc gia dân tộc”.

Tổng hợp của tất cả năm điểm mạnh ấy đã làm nên ba thành công lớn, cũng là những đóng góp của Kim Định.

“Thành công và đóng góp lớn thứ nhất là trên lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học, Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc.”

“Chính trong bối cảnh ấy mà ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu văn hóa dân tộc như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Toan Ánh, Lê Văn Siêu, Kim Định.....”

“Trong số những tác giả vừa nêu, Kim Định đã nổi lên một cách khác thường, nổi lên như một hiện tượng đặc biệt. Với thành công này, không ai có thể phủ nhận rằng ông là một người có tinh thần dân tộc đầy nhiệt huyết trong số những người yêu nước, yêu dân tộc”.

“Trên lĩnh vực tư tưởng học thuật, với tất cả những thuận lợi và khó khăn vào thời đại của mình, trên cơ sở những tư liệu và tài liệu chưa phải là nhiều, Kim Định đã đưa được cái tinh thần phóng khoáng “dám nghĩ dám làm” của người Nam Bộ vào trong nghiên cứu khoa học để đề xuất những nhận định khái quát rất mạnh bạo, rất tiên phong.....Đó là nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa.

“Những nhận định này đã góp công khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy nô lệ coi cái gì cũng từ Trung Hoa mà ra; chúng trở thành nguồn cảm hứng và động viên cho rất nhiều người tiếp tục bỏ công sức đi theo hướng này. Đó là thành công và đóng góp lớn thứ hai của Kim Định.”

“Thành công và đóng góp lớn thứ ba của Kim Định là trên lĩnh vực phong trào. Trong hơn 30 năm (1965-1997).....Kim Định đã không chỉ nghiên cứu một mình, mà ông đãkhởi tạo ra được một phong trào nghiên cứu văn hóa Việt, tư tưởng Việt..., ông đãkhơi gợi lên được lòng yêu nước, yêu dân tộc trong một phạm vi rộng lớn trí thức và lớp trẻ.....

..... “Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa từng thấy”. “Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy”.....

Và diễn giả II kết luận: “Đóng góp này của Kim Định là vô cùng lớn lao. Nếu chỉ đơn thuần là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học thì không dễ gì làm được. Đóng góp đó rất đáng tôn vinh, ca ngợi và noi theo. Khơi gợi lên được tinh thần yêu nước ở mọi người, thì cái tinh thần ấy ở người khởi xướng phải lớn gấp chừng nào. Khơi gợi lên được nhiệt tâm của những người khác, thì cái nhiệt tâm ấy ở Kim Định phải lớn biết chừng nào!”(31)

C) NHẬN XÉT

1) Ở phần trên, chúng tôi trích dẫn những đoạn văn mà chúng tôi nghĩ là có tính cách Tích Cực từ bài tham luận của diễn giả II liên quan tới những điều mà hoặc chúng tôi đồng ý, hoặc nếu không hoàn toàn đồng ý thì phần không đồng ý cũng không quan trọng lắm nên có thể ‘thông qua’.

Tuy nhiên, đối với sự đời, ‘mặt phải’ nào cũng có ‘mặt trái’đi kèm theo, do đó cần có một cái nhìn Toàn Diện Hai Chiều mới mong tới gần Sự Thật hơn! Đó là lý do khiến chúng tôi phải lập lại dưới đây đối với diễn giả II những nhận xét tương tự mà chúng tôi đã nêu ra ở trên đối với diễn giả I.

“Diễn giả không làm điều gì sai trái khi liệt kê một số yếu tố mà theo diễn giả có thể góp phần vào việc giải thích điều được gọi là “hiện tượng Kim Định”. Tuy nhiên, đó là những điều Cần làm nhưng Không Đủ để giải thích “hiện tượng’ nêu trên. Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề này ở đây là vì chúng tôi e ngại rằng do thói quen giải thích mọi sự theo Duy Vật Sử Quan của các nhà nghiên cứu có khuynh hướng Mác-Xít quá nhấn mạnh đến các khía cạnh vật chất, ngoại tại, môi trường mà thường quên đi các khía cạnh tinh thần, nội tại, con người , khiến người ta có thể lầm tưởng rằng chỉ cần liệt kê tất cả các yếu tố nêu trên là có thể hiểu hết “hiện tượng Kim Định ?!

Thật vậy, trong thực tế, có những người có thể hội đủ các điều kiện tương tự Kim Định như sinh và lớn lên ở đất Bắc, di cư vào Nam, tốt nghiệp chuyên ngành Triết Tây , có cơ hội nghiên cứu thêm Đông Phương họcngoại quốc, có cơ hội tham gia giảng dạy triết học tại đại học cũng như có thể làm Linh Mục nữa và có những thuận tiện như Kim Định về mặt nghiên cứu, tiếp cận tài liệu,….. tuy nhiên, họ có thể trở thành nhà nghiên cứu , học giả, gíáo sư …..trong một lãnh vực chuyên môn nhất định nào đó, nhưng không là một “triết gia An Vi hay Việt Nho” thứ hai được!.....vvv.....với những lý do đã trình bày ở trên mà chúng tôi nghĩ không cần phải lập lại ở đây nữa.

2) Ở trên, chúng tôi có viết rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến Sai Lẩm của diễn giả II cũng như của ông Tạ Chí Đại Trường là do THIẾU NGUỒN THÔNG TIN CHÍNH XÁC cũng như do “thiếu thốn về tư liệu, rất dễ khiến” Quý Vị “sa vào tư biện”!

Diễn giả II trong bài tham luận của mình cũng đưa ra một lời phê bình đối với Cố Triết Gia hơi giống nhận xét của chúng tôi ở trên đối với Vị này cùng với họ Tạ. Diễn giả II phát biểu:

“.....việc Kim Định đã ở xa đất tổ trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mọi thông tin (kể cả thông tin khoa học) bị ngăn chặn, thành ra rất thiếu thốn về tư liệu, lại cộng thêm đối tượng nghiên cứu là môn triết học trừu tượng rất dễ khiến ông sa vào tư biện”. Có thật như vậy hay không ?(32)

Tức là diễn giả II cho rằng (theo lời ông) Cố Triết Gia “sa vào tư biện” mà hai lý do ông nêu ra là : thiếu thốn về tư liệu triết học trừu tượng

- Có thật Cố Triết Gia bị thiếu thốn về tư liệu liên quan đến các công trình Khảo Cổ ở miền Bắc hay không ? Diễn giả II không biết hay biết mà quên rằng không những liên quan đến các tài liệu, sách vỡ cách chung và của ngành Khảo Cổ cách riêng, mà còn cả về khía cạnh liên lạc Thân Nhân giữa hai miền Nam và Bắc về cả hai mặt Tinh Thần và Vật Chất (Tiền Bạc, Quà Cáp...), tuy hai miền Nam và Bắc bị chia cắt trong khoảng thời gian 1954-1975, nhưng còn nước Pháp ( thường tự xem là đứng Trung Lập giữa hai khối Hoa Kỳ một bên và bên kia là Nga-Tàu) là trung gian để hai miền liên lạc với nhau ở các lãnh vực nêu trên. Do đó, khi tiếp xúc với Cố Triết Gia, và nếu có dịp, Ngài chỉ cho chúng tôi xem những tài liệu sách vỡ của các nhà nghiên cứu miền Bắc mà Ngài có được qua trung gian của những thân hữu của Ngài đang cư ngụ tại nước Pháp ở giai đoạn này

Ngay ở điểm này, không phải Cố Triết Gia mà chính diễn giả II “sa vào tư biện” vì không nắm vững vấn đề Thông Tin Liên Lạc giữa hai miền Nam-Bắc VN trong giai đoạn 1954-1975

- Có thật triết học trừu tượng khiến Cố Triết Gia“sa vào tư biện” như diễn giả II ‘cáo buộc’ Ngài hay không ?

Thật ra, triết học trừu tượng là nét đặc trưng của nền triết học Cổ Điển Tây Phương mà điển hình nhất là Triết Học của Plato. Do đó, Cố Triết Gia có viết về ảnh hưởng của Plato trên nền triết học Tây Phương như sau: “Khỏi nói thì ai cũng biết là chủ thuyết của Plato đã ngự trị trọn vẹn vòm trời triết Tây đến độ Whitehead đã có thể viết rằng 25 thế kỷ triết Tây chỉ là những chú thích các trang sách của Plato. Vậy có nghĩa là triết học cổ điển Tây Âu đã bỏ sự thực trần gian như những mối nhân luân, lịch sử con người…vvv…để giồn hết tâm lực vào thế giới ý niệm rất xa vời thực tế..... nền triết học cổ điển Tây Âu quả là mắc bệnh nhục ảnh, tức là một nền siêu hình giả tạo vì xây trên ý niệm suông mà không trên thực tế khách quan. Bởi thế Kant gọi đó là một siêu ảo tưởng transcendental illusion.....”(33)

Do tính cách quá Trừu Tượng khiến Triết Tây tỏ ra bất lực trước thực tế của cuộc sống nên theo Cố Triết Gia, Nhân Loại hiện nay đang đi tìm một cái gì khác hơn để thay thế, và đó cũng là lý do ra đời của ANVI và VIỆT NHO nhằm đáp ứng với nhu cầu nêu trên. Qua An Vi và Việt Nho, Ngài “nghĩ là đã khám phá ra một nền Triết Lý hợp cảm quan thời đại cả về hình thức lẫn nội dung”

“Về Hình Thức là dùng rất nhiều Huyền Số, Huyền Thoại, cũng như Nghi Lễ Thói Tục. Đó là nền Triết Lý đang được thế giới mong cầu đến độ triết gia người Đức, ông Ernest Cassirer đã muốn định nghĩa người là con vật có khả năng biểu tượng (animal symbolicum). Đó là một sự phản đối lại nền triết học cổ điển Tây Âu quá khô khan trừu tượng, nên phải mở một hướng mới cho triết xuyên qua nghệ thuật và biểu tượng. Trong chiều hướng đó Việt nho sẽ là tay quán quân trong phong phú vì cái rừng huyền thoại mênh mông của cả Việt lẫn Nho, tha hồ khai thác.

Về Nội Dung, người ta mong cầu một nền triết lý gắn liền với Cuộc Sống, với Tác Hành, và hơn nữa một nền triết lý cho thế giới Đệ Tam, theo nghĩa không Cộng Sản cũng không Tư Bản, nhưng một nền triết Nhân Bản có tính cách phổ biến bao la. Cho tới nay biết bao thử thách đã được hiện thực nhưng có thể nói chung là chỉ đạt được những thành quả vụn mảnh phần mớ, ngoài ra chưa thấy xuất hiện đựơc nền triết nào có tính cách bao quát được như lòng mong cầu kia. Vậy đó là việc mà Việt Nho đã cố gắng đi theo từ hơn hai mươi năm”.(34)

Phần trình bày ở trên cho thấy là diễn giả II đã nhắm trật mục tiêu. triết học trừu tượng là đặc tính của triết Tây Phương, mà sở dĩ An Vi và Việt Nho ra đời là nhằm chữ cái bệnh Trừu Tượng của Triết Tây vậy! Một lần nữa, có lẽ vì không nắm vững vấn đề nên Vị này lại “sa vào tư biện”

3) Về đoạn văn sau đây,“..... thập niên 1960 là lúc mà ở Sài Gòn gần như có một “phong trào” nghiên cứu về triết Việt với sự tham gia của một số người tự học triết, thậm chí là không chuyên về triết như Nguyễn Ðăng Thục, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thọ, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng…vvv… [Trần Văn Ðoàn 2000]. Môi trường thiếu chuyên nghiệp này cộng với việc hành nghề tôn giáo (động, coi trọng phong trào) là những lý do dẫn đến khả năng làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, một người mặc dù đã được đào tạo triết học một cách bài bản”.(35)

Chúng tôi rất đổi ngạc nhiên về lối lý luận của diễn giả II trong đoạn văn nêu trên vì những lý do sau đây:

a) thứ nhất, những người khác không “được đào tạo triết học một cách bài bản” như Kim Định thì ‘ăn nhằm’ gì đến Kim Định, nhất là ở chính ĐHVKSG, không thiếu những người “được đào tạo triết học một cách bài bản” như Kim Định mà có thể đó là những Giáo Sư Triết gốc Pháp như linh mục P. Gauthier chẳng hạn....còn những Giáo Sư Triết gốc Việt được đào tạo tại ngoại quốc hay ngay cả tại Việt Nam về môn ‘Triết chuyên biệt’ không thiếu thì làm sao tình trạng trên lại dẫn đến khả năng “làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, một người mặc dù đã được đào tạo triết học một cách bài bản ”???!!!

Ngay trong danh sách liệt kê những người gọi là ‘tự học triết’ thậm chí ‘không chuyên biệt về Triết’ cũng có một thí dụ không được chính xác lắm: đó là trường hợp Phạm Công Thiện. Không biết PCT ‘tự học triết’ khi nào nhưng cuối cùng ông ta cũng tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Pháp.

Tóm lại, có lẽ diễn giả II không nắm vững tình hình Ban Giảng Huấn của ĐHVKSG trước 1975, nên một lần nữa lại “sa vào tư biện”

B) Riêng đối với bản thân diễn giả II, Vị này thường có vẻ muốn người khác biết về cái “background” Khoa Học trước kia của mình, mà nay ông ta lại ‘hành nghề’ trong ‘Văn Hóa học’ thì nếu quả đúng như vậy, thì không biết diễn giả II có “được đào tạo Văn Hóa học một cách bài bản” như Kim Định đã “được đào tạo triết học một cách bài bản” hay không ?!

c) Vì diễn giả II có vẻ quan tâm đến những yếu tố ngoại tại có thể làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, do đó, chúng tôi cũng xin đề cập một chút đến vấn đề này . Chúng tôi xin phép chia vấn đề trên làm 3 tiêu đề sau đây:

- TÍNH KHOA HỌC

Nhưng tính Khoa Học là gì ?

Từ ngữ này thường khiến chúng ta liên tưởng đến lãnh vực Khoa Học VẬT LÝ với tính KHÁCH QUAN trong công việc Quan Sát, đặt Giả Thuyết, lập Ðịnh Ðề và Thí Nghiệm để kiểm soát tính TRUNG THỰC của các dữ kiện được quan sát với định đề.

Và tính KHÁCH QUAN thường được hiểu là Nỗ Lực của đương sự nhằm Quan Sát sự kiện, biến cố như nó xảy ra, cũng như việc Tránh đem Thành Kiến, Ý Kiến CHỦ QUAN của mình vào công việc.

Thật ra, đó chỉ là Thái Ðộ của một nhà Khoa Học LÝ TƯỞNG !

Nhưng với các Khoa Học VẬT LÝ, nhờ đặc tính Cụ Thể, Hữu Hình gắn liền với các khoa này, nên người ta cũng đạt được một số kết quả, dữ kiện có Bằng Chứng, Kiểm Soát được.

Tuy nhiên, ngay ở lãnh vực Khoa Học Vật Lý, tiêu chuẩn KHÁCH QUAN đã bị đặt thành vấn đề với khoa LƯỢNG TỬ. Lý do là ở bình diện Hạ Nguyên Tử, sự vật được quan sát thay đổi theo vị trí và nhãn quan tức theo CHỦ QUAN của người quan sát, do đó tiêu chuẩn Khách Quan thông thường đã không áp dụng được ngay ở địa hạt Vật Lý Lượng Tử.

Huống hồ là ở lãnh vực Khoa Học NHÂN VĂN !

Do đó, tiêu chuẩn Tối Hậu của tính HIỆU LỰC (Validity) của GIẢ THUYẾT Khoa Học đối với Cộng Ðồng các Học Giả QUỐC TẾ ngày nay là tính KIÊN ÐỊNH, Phù Hợp ( Consistency) của Giả Thuyết khoa học nêu trên với tất cả các Khía Cạnh Khác của cái Khung Khoa Học (1)

Tiêu chuẩn Khoa Học có tầm Quan Trọng Bậc Nhất nêu trên của Cộng Ðồng của các nhà Nghiên Cứu QUỐC TẾ ngày nay đã được Cố Triết Gia Kim Ðịnh áp dụng từ lâu tức ít nhất 50 năm trước đây với khoa HUYỀN SỬ của Ngài qua cụm từ MẠCH LẠC NỘI TẠI (Cohérence Interne). Sau đây là lời giải thích của Cố Triết Gia về phương pháp Khoa Học nêu trên áp dụng cho khoa Huyền Sử là một khoa Nhân Văn như sau:

"Vậy cần lặn sâu mới tìm ra MẠCH LẠC NỘI TẠI là cái sẽ thay cho sự Minh Nhiên Khách Quan, một đặc điểm của Khoa Học Thực Nghiệm mà NHÂN VĂN không thể có; nhưng không phải vì vậy mà được quyền muốn nói gì thì nói, làm thế thì những điều nói ra thiếu giá trị. Muốn có giá trị, muốn cho HUYỀN SỬ đạt vinh dự của một nền KHOA HỌC thì phải nắm được Mạch Ngầm của một nền Văn Hóa. Vì thế, phải đưa ra QUY LUẬT để tìm ra cái Mạch Lạc nọ. Thiếu những quy luật đó thì huyền sử chỉ là tán dóc."

Các Quy Luật được đề cập ở trên là hệ thống “Từ, Tượng, Số ,Chế” hay DỤNG, TỪ, Ý , CƠ mà Cố Triết Gia đã áp dụng vào khoa Huyền Sử của Ngài, rất phù hợp với Khung Khoa Học (Scientific Framework) nằm trong tiêu chuẩn KHOA HỌC tối hậu của cộng đồng các Học Giả Quốc Tế vừa nêu trên.(36)

Phần trình bày trên đây cho thấy là trái với sự lo lắng có vẻ quá đáng của diễn giả II, các yếu tố ngoại tại có vẻ KHÔNG ảnh hưởng gì nhiều trên Cố Triết Gia. Bằng chứng là phương pháp HUYỀN SỬ của Ngài không những không bị “làm giảm tính khoa học” như lời đồn đãi, mà còn đáp ứng những đòi hỏi của các Tiêu Chuẩn MỚI NHẤT của khoa NHÂN VĂN ngày nay! Nhưng có lẽ vì người chỉ trích chỉ căn cứ trên những Thành Kiến về tính Khoa Học thường dựa trên các tiêu chuẩn của khoa học Thực Nghiệm nên có lẽ đó là nguyên nhân chính yếu về những NGỘ NHẬN về tính KHOA HỌC trong tác phẩm của Kim Ðịnh.

TÍNH HÀN LÂM

Một Ngộ Nhận khác là về tính HÀN LÂM của Kim Ðịnh. Những ai có may mắn tiếp cận Cố Triết Gia trong thời sinh tiền của Ngài có thể thấy những hòm lớn đựng những tài liệu, những tập 'Fiches' dày đặc mà Ngài ghi chép lại trong suốt cuộc đời, vốn 'gia tài' học vấn 'khổng lồ' của Ngài. Và nếu để ý thì sẽ thấy những lập luận của Ngài hầu hết đều có dựa trên các khám phá hay các tài liệu của các Học Giả QUỐC TẾ có tầm vóc trong nhiều lãnh vực nghiên cứu khác nhau.

Nhưng vì sức SÁNG TẠO của Cố Triết Gia quá Phong Phú: hết tác phẩm này đến tác phẩm khác ra đời với một vận tốc có thể gây 'chóng mặt' cho ai hằng theo dõi con đường sáng tác của Ngài, nên Cố Triết Gia không có nhiều thì giờ soạn một bản Thư Tịch đầy đủ về các NGUỒN TRÍCH DẪN.

Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối đời, khi cho xuất bản lại tác phẩm 'Cửa Khổng' vào năm 1997, Cố Triết Gia đã soạn lại một bản THƯ TỊCH rất đầy đủ của tác phẩm nêu trên và rất đúng tiêu chuẩn HÀN LÂM.

Trong tương lai, chỉ cần một nhóm nhà Nghiên Cứu họp lại đem áp dụng phương cách nêu trên cho các tác phẩm khác của Cố Triết Gia thì ta sẽ có một bản Thư Tịch đầy đủ, đúng tiêu chuẩn Hàn Lâm cho toàn bộ tác phẩm Kim Ðịnh”(37)

Về tính HÀN LÂM cũng vậy, diễn giả II có vẻ lo lắng hơi thái quá vì nếu xem xét một cách kỹ lưỡng hơn như đã làm ở phần trên, thì các yếu tố ngoại tại có vẻ KHÔNG “làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm” nơi Kim Định chút nào cả !

TÍNH DỄ DÃI, LÃNG MẠN

Nội dung các câu trả lời của chúng tôi đối với hai tiêu đề ở trên đã gián tiếp trả lời ‘cáo buộc’ về cái gọi là tính “Dễ Dãi” của Kim Định ở phần 3 này rồi. Diễn giả II vì nghĩ rằng Cố Triết Gia đã không áp dụng phương pháp Khoa Học và Hàn Lâm một cách nghiêm túc nên ‘trách’ Ngài về tính “Dễ Dãi”.

Nhưng chúng tôi đã chứng minh ở 2 phần trên rằng đó là một NGỘ NHẬN vì các lý do sau đây:

- thứ nhất vì Hiểu Lầm về nội dung và cách thức áp dụng phương pháp KHOA HỌC trong lãnh vực Nhân Văn, do đó diễn giả II tưởng Ngài không theo đúng phương pháp Khoa Học trong khi trên thực tế, Ngài đã áp dụng từ rất lâu các Tiêu Chuẩn Khoa Học Mới Nhất của Cộng Đồng Học Giả Quốc Tế

- Về phương pháp HÀN LÂM cũng vậy, Ngài đã áp dụng một cách Nghiêm Túc. Nhưng vì sức Sáng Tác của Ngài quá phong phú, nên lúc sinh tiền Ngài chỉ kịp làm một bản THƯ TỊCH cho lần phát hành chót của cuốn “Cửa Khổng” (tức ‘Nguyên Nho’) mà thôi. Người sau chỉ cần theo cách thức làm Thư Tịch của Ngài cho cuốn “Cửa Khổng” để áp dụng vào các Tác Phẩm khác của Ngài, thì chúng ta sẽ có một bản THƯ TỊCH đầy đủ cho Toàn Bộ Tác Phẩm.

Tóm lại, Ngài rất NGHIÊM TÚC trong lãnh vực Khoa Học và Hàn Lâm, chứ KHÔNG DỄ DÃI chút nào !!!

Còn về “Tính LÃNG MẠN” cũng là một NGỘ NHẬN khác vì lý do sau đây:

- Triết TÂY vì tính Trừu Tượng và Duy Lý của nó nên rất Khô Khan vì chỉ xử dụng Lý Trí, Lý Luận mà thôi nên ảnh hưởng rất hạn hẹp (chỉ giới hạn trong bốn bức tường của Đại Học mà thôi) không thể sống với được .

- Còn Triết VIỆT có tính cách TOÀN DIỆN tức xử dụng không chỉ có Ý ( tức Lý Trí) mà còn TÌNH và CHÍ nữa. Do đó Triết VIỆT là một nền Triết Lý Nhân Sinh mà người ta có thể Sống với. Vì SỐNG không chỉ có Suy Tư (Ý) mà còn biết Cảm Xúc (TÌNH) và hướng về Hành Động (CHÍ) nữa.

Do đó, khi so với Triết TÂY quá Khô Khan, thì Triết VIỆT có vẻ “Ướt Át” (vì có yếu tố Cảm Xúc) nên dễ bị gán cho “Tính LÃNG MẠN”

Để chứng minh cái gọi là “tính dễ dãi, lãng mạn và tư biện” của Kim Định, diễn giả II lại đi trích dẫn ông Tạ Chí Đại Trường trong một bài viết mà chúng tôi đã có dịp phê bình trước đây. Chúng tôi viết:

“Thử lấy thí dụ của «nhà Sử Học» Tạ Chí Đại Trường trong một bài «phê bình» gần đây về Phương Pháp HUYỀN SỬ của Cố Triết Gia.(16) Và sau đây là cách thức mà «nhà Sử Học» của chúng ta « hiểu» phương pháp Huyền Sử của KIM ĐỊNH kèm theo một đoạn văn giải thích có lẽ nhằm gợi cho độc giả cảm tưởng là tác giả bài viết «nắm rất vững vấn đề»!

Tác giả viết : «Phương pháp «huyền sử» đó không lấy gì làm mới, và căn bản cũng không có điều gì sai sót. Sử viết của triều đình vua chúa không nói đến sinh hoạt của dân chúng, xã hội bên dưới; với một vùng đất chưa có sử viết, thì người ta căn cứ vào sự làm chứng, có khi nghe ngóng của người nơi khác để có hiểu biết về tộc người, sinh hoạt nơi đó. Có điều, muốn trở thành tài liệu tìm hiểu quá khứ thì người ta vẫn phải chú trọng đến tính cách thời gian của tài liệu, biện biệt sắp xếp theo sự tuần tự xuất hiện của chúng để ghép với nhau, không nên lấy, ví dụ quyển LNCQ của thế kỷ XIV coi là có giá trị chứng cớ cho 4000 năm trước đó, ở một vùng cách nơi nó xuất hiện cả ngàn dặm!....».

“Có lẽ ở đây tác giả bài viết muốn Kim Định «làm» một loại Sử Gia của thời kỳ chuyển tiếp từ Sử Truyền Miệng qua Sử Viết chăng ? Nhưng đó không phải là mục tiêu của Ngài! Và hình như tác giả đã HIỂU SAI phương pháp HUYỀN SỬ của Kim Định rồi!

“Để làm sáng tỏ vấn đề, sau đây là một định nghĩa của Cố Triết Gia : «Huyền Sử là nền Minh Triết của một dân được trình bày bằng những mảnh vụn lịch sử của dân ấy». Xin nhấn mạnh chữ mảnh vụn có nghĩa là những sự kiện lịch sử được nhắc tới KHÔNG THEO ĐIỀU KIỆN THỜI KHÔNG NHƯ LỊCH SỬ. Lịch sử nói về những BIẾN CỐ, còn huyền sử nói về LÝ TƯỞNG trường tồn xuyên qua các đời, nên không mấy cần đến thời điểm không điểm». (18)

“…..Vì Huyền Sử KHÁC Lịch Sử và vì Kim Định không có nhu cầu «làm» loại lịch sử BIÊN NIÊN (như tác giả đề nghị) do đó Ngài không cần phải theo «lời dặn» của tác giả là «muốn trở thành tài liệu tìm hiểu quá khứ thì người ta vẫn phải chú trọng đến tính cách thời gian của tài liệu, biện biệt sắp xếp theo sự tuần tự xuất hiện của chúng để ghép với nhau”!

“…..Huyền Sử, Huyền Thoại đáng lẽ phải được hiểu theo Nghĩa Bóng vì nằm ở đợt Ý NGHĨA của Sử và liên quan đến các Linh Tượng (Archétype) hay Kiểu Mẫu Huyền Thoại , thì các người theo phái DUY SỬ như tác giả lại hiểu theo Nghĩa Đen vì họ TƯỞNG đó là «Sự Kiện Lịch Sử» hay «Nhân Vật Lịch Sử» !!! (38)

Tóm lại, cũng như ông Tạ Chí Đại Trường, diễn giả II có vẻ không hiểu rằng Huyền Sử KHÁC Lịch Sử nên “đòi” Kim Định phải theo các Tiêu Chuẩn của Lịch Sử trong khi Huyền Sử có những Quy Luật RIÊNG của nó ! Theo câu định nghĩa của Cố Triết Gia đã trích dẫn ở trên, thì Lịch Sử nói về những BIẾN CỐ, Sự Kiện và phải theo các Điều Kiện của THỜI KHÔNG (do đó cần sự Chính Xác), còn Huyền Sử nói về LÝ TƯỞNG trường tồn xuyên qua các đời, nên KHÔNG mấy cần đến thời điểm không điểm (do đó không cần phải theo tiêu chuẩn Chính Xác một cách gắt gao như Sử Ký). Là vì như đã nói ở trên, Huyền Sử có những Quy Luật RIÊNG của nó phải đáp ứng, cũng gắt gao không kém (nếu không nói là gắt gao hơn) nhưng ở bình diện KHÁC Sử Ký.

Và sau đây là cách thức đã được Cố Triết Gia áp dụng liên quan đến phương pháp HUYỀN SỬ.

Triết VIỆT như TOÀN THỂ “được chi tiết hóa thành bốn điểm để dễ xét thấu đáo. Bốn điểm đó là Từ, Tượng, Số, Chế.

Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất của nền triết Nho.

Tượng: là tượng hình tiêu biểu, những huyền thoại, truyền kỳ.

Số: là những số biểu tượng gọi là huyền số.

Chế: là những thể chế, thói tục, những phương thức sống, cách thức tu luyện.

“Đây là bốn khía cạnh được dùng để xét một nền triết lý nhân sinh xem có được TOÀN DIỆN chăng. Một nền triết có sống được nhiều hay ít, bao quát được hết cả bốn nấc thử thách nọ. Bởi thế bốn điểm trên có thể dùng như thước đo giá trị từng nền triết về phương diện vào đời. Phải công nhận rằng phần lớn triết học chỉ trải qua được có một vài chặng đầu. Nguyên Nho thì đã đi hết bốn bước”.(39)

TỪ

Chúng ta biết Văn Hóa, Minh Triết hay Đạo Học khi áp dụng vào Vương Nho có tên là TRUNG DUNG, vào Việt Nho thì gọi là AN VI.

Có câu sách giải thích “Trung Dung” như sau: “Chấp kỳ lưỡng đoan nhi dụng kỳ trung ư dân” [= cầm hai đầu mối và áp dụng giải pháp “trung độ” (= “ở giữa” ) vào việc cai trị quần chúng”].

Mạnh Tử giúp soi sáng thêm ý nghĩa của Trung Dung như sau: “ Tóm tắt một cuộc tranh luận giữa các trường phái, Mạnh Tử nói: một bên có những kẻ ca ngợi thuyết “tất cả vì mình”(Dương Tử) : “dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng không chịu làm”; bên kia là những người thi hành chủ nghĩa kiêm ái” (Mặc Tử): “dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh đầu cho đến gót chân, mà có lợi ích cho thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh”...Lại có những người thứ ba (Tử Mạc) “bảo thủ chủ nghĩa chấp trung” ở giữa những lập trường trái nghịch nhau trên kia…….”

Mạnh Tử một mặt khen chủ trương “chấp trung” của Tử Mạc là “gần với đạo lý”, nhưng mặt khác, lại chê Tử Mạc ở điểm “chấp trung mà chẳng biết quyền biến”, “cứ khư khư câu nệ một bề vậy thôi”. Và Mạnh Tử kết luận : “Ta sở dĩ chán kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố ý giữ ý kiến thiên lệch làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì làm hỏng cả trăm bề”.(40)

Tóm lại, Nho Giáo chủ trương CHẤP TRUNG nhưng phải ‘Biết Quyền Biến’( vì cuộc đời luôn luôn thay đổi) mà chúng ta có thể tóm tắt bằng một thành ngữ của thời nay: đó là nền “Quân Bình Động Đích”.

TƯỢNG

Cố Triết Gia viết: “Bây giờ xét đến TƯỢNG. Tượng là bước thứ hai sau Lời. Văn hóa nào bám vào lời thì thải bỏ hết các biểu tượng, nên Tượng chỉ có lác đác một cách cầu âu. Nhưng văn hóa muốn đi vào đời tất phải có Tượng, vì nó cụ thể gần với việc, nhất là nó mềm dẻo dễ uốn nắn theo hoàn cảnh là điều cần trong đời sống muôn mặt”.

“Tượng lớn hơn hết trong Nguyên Nho là những quan niệm về Trời, Đất, Người đựơc biểu tượng bằng hình tròn vuông. “Thiên viên địa phương”: trời tròn đất vuông. Biểu tượng này không hẳn riêng của Nho trong các nền văn hóa thời sơ khai người ta gặp hình tròn vuông lu bù, như mandala thí dụ…..” Tuy nhiên, “quan sát theo mấy ấn tích lớn đó, ta có thể nói hầu như không nơi nào có được tròn vuông hòa hợp”

Bên Tây Phương có bảng Tứ Tố gồm bốn tố là “đất, nước, khí , lửa” nên có thể biểu tượng bằng hình Vuông, còn Ấn Độ như thấy trong phái Sankhya, nhấn mạnh đến hình Tròn chỉ vô thể. Nên nếu kể Âu Tây là Hữu với siêu hình là Hữu thể học (ontology) thì bên Ấn là Vô với Vô nhị (advaita) hai bên giống nhau ở chỗ Tròn Vuông Không Giao Thoa. Vì thế có thể nói chung là cả hai nơi đều rơi vào Duy: Tây Âu là DUY HỮU, Ấn Độ là DUY VÔ

Riêng bên Nho thì Tròn Vuông Hòa Hợp và có đầy tang chứng: tiêu biểu hơn hết cả là đền Tế Thiên với nền vuông mái tròn. Xe vua đi thì thùng vuông mui tròn. Nho gia đi giầy vuông đội mũ tròn….”.(41)

Tóm lại, hai biểu tường TRÒN [chỉ Trời số 3] và VUÔNG [chỉ Đất số 4 (tức 2x2)] HÒA HỢP nếu nói theo ngôn từ của Cộng Đồng các Học Giả Quốc Tế ngày nay, Rất KIÊN ĐỊNH (Consistent) với thuyết TRUNG DUNG của Vương Nho hoặc AN VI của Việt Nho nhằm vượt lên Hữu Vi (Vuông) của Tây Phương và Vô Vi (Tròn) của Ấn Độ.

SỐ

Ngài viết tiếp: “Số là bước thứ ba sau Tượng. Số cũng là một thứ tượng, là kết tinh của tượng, là bước trừu tượng hóa của tượng. Thay vì nói tròn vuông thì đổi ra số Lẻ (Tròn) số Chẵn (Vuông) nhờ vậy mở rộng sự dùng tượng ra rất nhiều…. Số của Nho lấy từ câu Kinh Dịch rằng “Tham Thiên Lưỡng Địa Nhi Ỷ Số” câu này là sự phân tích của Ngũ Hành, mà Ngũ Hành là một cơ cấu uyên nguyên của Nho.

Vì Ngũ Hành bao gồm cả Có lẫn Không. Chính mối liên hệ giữa có với không này làm nên Cơ Cấu Uyên Nguyên. CÓ là bổn hành chung quanh, KHÔNG là hành Thổ ở trung cung, cũng gọi là “hành vô hành”, “địa vô địa”. Nhờ mối liên hệ then chốt nọ mà có cơ cấu uyên nguyên giữa HỮU là Dương thông hội với VÔ là Âm”(42)

Mặt khác, xin được tiếp tục phần phân tích về chủ trương CHẤP TRUNG của Nho Giáo trong đoạn văn về TỪ ở trên, “Câu hỏi được được đặt ra ở đây là tại sao Mạnh Tử phê bình không những các chủ trương có tính “Chấp Nhất” như thuyết Vị Kỷ của Dương Chu hay Kiêm Ái của Mặc Tử (có lẽ vì tính quá khích, cực đoan của chúng), mà ngay cả chủ trương “Chấp Trung” của Tử Mạc ?!

“Nhận xét đầu tiên là chủ trương “Chấp Trung” của Tử Mạc có vẻ gần giống quan niệm “Juste Milieu” của Aristotle có thể hiểu là điểm “trung độ đúng mực” ở giữa hai tính trái ngược như giữa sự “bất cập” và “thái quá”…vvv... Mà chúng ta còn biết rằng về vũ trụ luận, Aristotle chủ trương “Tứ Tố” là một loại Quân Bình TĨNH (2-2). Vậy nên quan niệm “Juste Milieu” về đạo đức học của Aristotle cũng có tính cách Tĩnh Chỉ giống như quan niệm “Tứ Tố” của ông về vũ trụ luận vậy !

“Mà Khoa Học ngày nay cho thấy là môi trường sinh sống của vũ trụ vạn vật con người có tính chất Quân Bình ĐỘNG ĐÍCH (3-2) như chủ trương “Tham Thiên Lưỡng Địa” của thuyết Ngũ Hành. Vậy nên trong một thế giới ĐỘNG, để giữ được Đạo Trung Dung hay thế Quân Bình Động Đích, đôi khi hành giả phải ‘nghiêng về một bên” như NHẤN MẠNH trên cực Dương (3) hơn cực Âm (2), hoặc ngược lại”.(43)

Một lần nữa, chúng ta có thể nhận thấy rằng cả hai mặt Lý Thuyết cũng như Ứng Dụng ở đợt SỐ này cũng rất KIÊN ĐỊNH (Consistent) với hai đợt TỪ và TƯỢNG ở trên . Thật vậy, nếu ở đợt TỪ, Nho Giáo chủ trương CHẤP TRUNG tức “cầm hai đầu mối và áp dụng giải pháp “trung độ” (= “ở giữa” ) vào việc cai trị quần chúng” nhưng với điều kiện là phải “Biết Quyền Biến”, nếu ở đợt TƯỢNG, Đạo TRUNG DUNG hay AN VI có biểu tượng là Tròn Vuông Hòa Hợp trong thành ngữ “Mẹ Tròn Con Vuông” với ý nghĩa ‘Mẹ Tròn’(3 số lẻ) phải bao bọc lấy ‘Con Vuông’(4 số chẵng và là bội số của 2 cũng số chẵng), chứ không phải ngược lại, thì ở đợt SỐ, tương quan lý tưởng của thuyết Ngũ Hành là ‘Tham Thiên (3 số lẻ) Lưỡng Địa (2 số chẵng)’.

Đó là 3 cách diễn đạt khác nhau ở 3 tầng TỪ, TƯỢNG, SỐ về một Chân Lý Duy Nhất liên quan đến VƯƠNG NHO hay VIỆT NHO mà Vũ Trụ quan và Nhân Sinh quan được dựa trên các Nguyên Lý của một nền QUÂN BÌNH ĐỘNG ĐÍCH (3-2).

CHẾ

“Để Ngũ Hành ở đợt SỐ có thể trở thành Khung chứa các Thể Chế thì Tiên Nho đã kép nép Ngũ Hành lên: trước hết kép thành ‘vòng Trong vòng Ngoài’….Với vòng Ngoài, tức vòng Thành thì Ngũ Hành đã trở thành sự vật đặc. Đây là vòng đi vào thế sự, đi vào thực hiện, nhưng vẫn lấy Tâm Linh làm gốc, như các số 6, 7, 8, 9 gốc từ số 5 vậy. Vòng Trong vẽ nét đứt chỉ Vô, chỉ Tâm, chỉ tiềm thức, làm nên phần Nội Thánh…..

Sau đó biến ‘vòng Trong-vòng Ngoài’ thành Hồng phạm Cửu trù bằng cách đưa các số của 2 vòng trên xếp vào khung Ngũ hành kép mà thành …..

Hồng phạm chính là cái khung tiên thiên đưa ra làm mẫu mực cho các thể chế khác mà quan trọng hơn hết là Nhà Minh Đường với thể chế Nguyệt lệnh.

Nhà Minh Đường hay là “nhà vũ trụ” vì có ba tầng chỉ Trời, Đất, Người. Đó không chi khác hơn là Hồng phạm Cửu trù nhưng có 12 trù (vì 4 trù góc chia đôi thành 8) để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu nào, ở phòng nào… Vì thế gọi là Nguyệt lệnh…..

Hồng Phạm còn là Khung cho nhiều thể chế khác như Hà Đồ, Lạc Thư được dùng nhất là cho việc suy tư Triết Lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động và phản động. Hành động trong Hà Đồ là đi RA ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư là đi VÀO hành NGŨ….

.

Tỉnh Điền chính là sự áp dụng Hồng Phạm vào Kinh Tế…..” (44)

Tóm lại, phần trình bày trên cho thấy là nhờ dựa trên các Nguyên Tắc của một nền Quân Bình Động Đích (3-2) 3 lối diễn đạt ở 3 đợt TỪ, TƯỢNG, SỐ, tuy khác nhau nhưng rất Kiên Định (consistent) và Thống Nhất với nhau nhờ có cùng chung một Nền Tảng. SỐ là đợt chót với thuyết Ngũ Hành và để có thể đi tiếp vào đợt Thể Chế, Ngũ Hành đã phát triển thêm lên thành ‘vòng Trong- vòng Ngoài’, rồi ‘Hồng Phạm-Cửu trù’ làm mẫu mực cho các Thể Chế khác như nhà Minh Đường và Nguyệt Lệnh cũng như Hà Đồ, Lạc Thư và phép Tỉnh Điền…vvv…Tất cả các diễn tiến trên đều xuất phát từ cùng một NỀN TẢNG và tiến hành một cách rất KIÊN ĐỊNH (Consistent) với nhau.

Do đó, theo Cố Triết Gia, nếu đa số các Triết Thuyết thường chỉ dừng ở chặng đầu tiên (Từ), một đôi thuyêt có thể tiến thêm một hai bước nữa (Tượng) hoặc (Số) thìNGUYÊN NHO hay VIỆT NHO có lẽ là triết thuyết Duy Nhất đã đi được 4 chặng “Từ-Tượng-Số Chế”. Do đó mới xứng danh là một nền Triết Lý Nhân Sinh TOÀN DIỆN.

d) Xin mạn phép trở lại với đề tài chính là lời ‘cáo buộc’ của diễn giả II về cái gọi là tính dễ dãi, lãng mạn và tư biện của Kim Định. Phần trình bày trên cho thấy là trái với lời ‘cáo buộc’ của diễn giả II, Kim Định rất NGHIÊM TÚC trong việc áp dụng các phương pháp Khoa Học và Hàn Lâm. Ngộ Nhận là do Quý Vị không hiểu rằng Huyền Sử KHÁC Lịch Sử nên “đòi” Kim Định phải theo các Tiêu Chuẩn của Lịch Sử. Mà không biết rằng Lịch Sử nói về những BIẾN CỐ, Sự Kiện trong cõi Hiện Tượng nên cần sự Chính Xác, còn Huyền Sử (cũng như Văn Hóa, Đạo Lý) nói về Ý NGHĨA, Lý Tưởng trường tồn nên không cần phải theo tiêu chuẩn Chính Xác một cách gắt gao như Sử Ký. Là vì Huyền Sử có những Quy Luật RIÊNG của nó phải đáp ứng, cũng gắt gao không kém (nếu không nói là gắt gao hơn nhiều vì hiếm có Triết Thuyết nào qua nổi 4 chặng: “Từ-Tượng-Số- Chế” như đã trình bày ở trên) nhưng ở bình diện KHÁC Sử Ký.

Chúng tôi xin đưa ra một thí dụ sau đây để xác nhận lập luận của chúng tôi ở trên rằng Huyền Sử, Văn Hóa, Đạo Lý KHÁC với Lịch Sử nên Tiêu Chuẩn áp dụng cũng phải KHÁC liên quan đến Vấn Đề THẬP DỰC trong Kinh Dịch.

Cố Triết Gia viết: “Một điểm thú vị nữa không ai dè mà lại rất nền tảng, đó là thập dực của Kinh Dịch được lưu truyền là của Khổng. Dù có là của Khổng hay do người ta gán cho Khổng thì điều đó vẫn có ý nghĩa…..Thập dực là 5 đôi cánh đi với 6 thể rồng cùng loại cơ cấu đêm 5 canh, ngày 6 khắc, cha rộng ngoại (số 6), mẹ tiên nội (số 5). Con số 10 (thập) quả là huyền số vì thực ra chỉ có 7 dực, vậy nói 10 là không có ý đo đếm nữa mà chỉ có ý dùng như huyền số”(45)

Nội dung của đoạn trên sẽ được xác nhận dưới đây bởi một nhận xét tương tự của Học Giả Nguyễn Hiến Lê: Ông viết: “Thật sự chỉ có Thất Dực,bảy truyện nhưng gồm 10 thiên nên gọi là Thập Dực…..Ngay cái điều gọi mỗi thiên là một truyện cũng vô lý rồi; mà đọc những trang sau, độc giả sẽ thấy sự chia ba truyện đầu mỗi truyện thành hai thiên cũng không theo một qui tắc chung nào cả”.(46)

Các điều VÔ LÝ trên cũng sẽ được lập lại ngay trong lãnh vực Khảo Cổ. Có lẽ để nhấn mạnh đến Ý NGHĨA của con số 3 biểu hiệu tính NHÂN CHỦ hay Đạo BA của VIỆT (tương đương Với ‘Tam Tài’ của NHO), Tiên Tổ chúng ta để lại những Cổ Vật mà người ta tìm thấy ở Đông Sơn thoạt trông có vẻ rất ‘Vô Lý’ như Cóc và Chim có miệng nhọn (tức ba góc), Gà 3 chân, Cóc cũng 3 chân…..

Vì các điều VÔ LÝ như trên lập lại nhiều lần dưới nhiều dạng thức khác nhau khiến chúng tôi phỏng đoán rằng có lẽ Các Ngài cố ý làm như vậy để cho hậu duệ hiểu rằng PHẢI đặc biệt lưu ý đến khía cạnh Ý NGHĨA, LÝ TƯỞNG ở đời chứ đừng để bị ‘chia trí’ bởi những chuyện vặt vãnh khác !

Đến đây chúng tôi hy vọng rằng diễn giả II cũng như ông Tạ Chí Đại Trường hiểu được rằng Tinh Thần Khoa Học CHÂN THỰC đòi hỏi chúng ta phải Tôn Trọng LUẬT CHƠI và

- Xin Đừng Ép người khác chẳng hạn áp dụng các tiêu chuẩn giành cho Lịch Sử vào lãnh vực Huyền Sử như Quý Vị đã làm, vì như đã nói ở trên, Huyền Sử và Lịch Sử là hai lãnh vực KHÁC NHAU và mỗi lãnh vực có Quy Tắc RIÊNG của nó.

- Và Xin Đừng vội phê phán ai khi mình chưa nắm vững vấn đề !!!

e) Do đó, tại sao Cố Triết Gia lại không thể có “Những suy luận kiểu như ngày giỗ tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 được đọc thành “Tam Miêu và Bách Việt”, vì “Tam Miêu là tháng 3, còn Bách Việt là mồng 10. Mười là số chẵn [chục nên] có thể thay số chẵn trăm” (Triết lí cái đình, mục “VII. Việt Hùng”)” nếu nội dung của các suy luận trên KIÊN ĐỊNH (Consistent) với các phần khác của Triết Thuyết ?

f) Giống như nhận xét của Cố Triết Gia liên quan đến Thập Dực của Kinh Dịch Con số 10 (thập) quả là huyền số vì thực ra chỉ có 7 dực, vậy nói 10 là không có ý đo đếm nữa mà chỉ có ý dùng như huyền số”, thì tại sao Ngài lại không thể viết tác phẩm "Loa thành đồ thuyết” giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt, mà theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn 3 vòng thành ? Thật vậy, như Cố Triết Gia đã giải thích ở trên, giống như con số 10 của Thập Dực, con số 9 của Loa Thành không có ý đo đếm mà chỉ có ý dùng như Huyền Số, mà huyền số thuộc lãnh vực Huyền Sử, Ý Nghĩa, Lý Tưởng, do đó không cần phải tuân theo tiêu chuẩn Chính Xác của Lịch Sử. Nhất là đề tài ‘Hình Trôn Ốc’ rất KIÊN ĐỊNH (Consistent) với các khám phá trước đây về nghệ thuật kỷ hà học với các vòng xoáy trôn ốc tại Ngưỡng Thiều và cả Long Sơn, và sau đó tại Non-nok-tha bên Thái Lào và Hang Thần bên Miến Điện. (47)

Và ngay cả diễn giả II, trong một cuộc phỏng vấn trước đây, đã dùng hình xoáy trôn ốc để hỗ trợ cho luận cứ của mình qua câu phát biểu sau đây: ‘từ nền dân chủ bộ lạc đến dân chủ hiện đại là một sự trở lại, nhưng ở một trình độ phát triển cao hơn (vòng tròn xoáy ốc) chứ đâu phải là vòng tròn khép kín không lối thoát? ”(48)

g) Còn về đoạn văn sau đây mà diễn giả II trích dẫn ông Tạ Chí Đại Trường: “Hoặc từ khẳng định “người Việt từng cư trú trên khắp đất Tàu” dẫn đến khẳng định Ðông Di (tổ tiên người Mãn Châu, Triều Tiên) là một chi của Việt; mặt khác, Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn, mà Thuấn là người Ðông Di, cho nên kết luận sách Khổng Tử là của Việt cả(Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc) [Tạ Chí Đại Trường 2008]”, diễn giả II cũng như họ Tạ quên đặt câu hỏi ‘VIỆT Nào ?’ Là Viêm Việt, là Bách Việt, là Lạc Việt, là Việt Nam …vvv…? Nếu là người có thói quen làm việc một cách Nghiêm Túc, trước khi đặt các câu hỏi nêu trên có lẽ Quý Vị cũng cần xác định ‘VIỆT là Ai ? Sau đây, Cố Triết Gia sẽ giúp Quý Vị trả lời câu hỏi trên.

Ngài viết: “ Chữ Việt dùng trong bộ sách này không có ý chỉ Việt Nam, nhưng chỉ cái học mà học giả Needham (II, 117) gọi là liên đoàn huynh đệ các dân thổ trước đã cư ngụ trong toàn cõi nước Tàu trước cả khi người Tàu xét như là một dân tộc xuất hiện. Liên đoàn này được người Tàu gọi bằng rất nhiều tên khác nhau tuỳ từng thời như:

Viêm tộc, Nhật Chủng,Tam Miêu, Cửu Lê, Man, Di, Nhung, Địch, hay Tứ Di hoặc Cửu Di hay Tứ Hải,và nhất là Bách Việt.Tên Việt này được dùng cuối cùng cũng như bao gồm nhiều địa vực và nhóm người như U Việt, Mân Việt, Bộc Việt, Lạc Việt v.v… nên tôi dùng tên này để chỉ toàn khối.” (49)

Thật vậy, , nếu định nghĩa từ VIỆT như trên thì vào thời kỳ này, Đông Di quả đúng là một chi của Việt, Viêm Việt! Quý vị nên đọc lại Cổ Sử để được xác nhận về điều trên.

Còn đoạn sau của Quý Vị có vẻ Rất KHẬP KHIỄNG “mặt khác, Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn, mà Thuấn là người Ðông Di, cho nên kết luận sách Khổng Tử là của Việt cả (Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc) [Tạ Chí Đại Trường 2008]” vì những lý do sau đây:

- Thứ nhất, đó là một câu phát biểu ẨU TẢ chứng tỏ Quý Vị chưa nắm vững vấn đề .Cố Triết Gia chưa bao giờ tuyên bố Tứ Thư Ngũ Kinh là của riêng Việt cả mà theo Ngài là của CHUNG Việt lẫn Tàu. Câu văn sau đây của Ngài liên quan đến chữ Nho cũng có thể áp dụng đối với Tứ Thư Ngũ Kinh

“Vậy Nho xuyên qua chữ Lệ quả là của Tàu và chúng tôi kêu là Hán nho. Nhưng Nho với chữ Khoa Đẩu và Điểu Tích là sản phẩm chung của văn hóa Việt tộc lẫn Tàu, thuộc giai đoạn hai, giai đoạn mà văn hóa đi với thôn làng, bước sang văn minh đi với thành thị mà dấu biệt lập là văn tự”.

- Kế đến, một trong những lý do của sự ra đời của chủ thuyết VIỆT NHO là tại người Tàu tỏ ra Không ‘Sòng Phẳng’ muốn chiếm đoạt hết công lao trong việc hình thành Nho Giáo hoàn toàn trái ngược với các Khám Phá Khoa Học ngày nay càng ngày càng nhiều và quy công ĐẦU TIÊN cho VIỆT.

Về nội dung câu văn “ tôi tuy khẳng định triết học của cụ, song cũng phê bình tính chất thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn trong nền triết học An Vi của cụ”, chúng tôi đã trả lời ở phần trên rồi.

Riêng đối với các bài viết của ông Trần Văn Đoàn mà chúng tôi đã có dịp phê bình nhiều lần trước đây , chúng tôi xin được trích dẫn dưới đây một đoạn trong bài viết của chúng tôi liên quan đến ông Đoàn:

“ Điều đáng ngạc nhiên là ở đầu thế kỷ 21 rồi mà có người vẫn còn tiếp tục tuyên dương tính chất TRỪU TƯỢNG, KHÁCH QUAN của Triết Học bằng những câu đại loại như :

“ Nếu chúng ta lẫn lộn tư duy, văn hóa và triết học, chúng ta khó có thể khách quan»

«Những tư tưởng theo đúng nghĩa là những tư tưởng trừu tượng».(50)

Thật vậy, ông Trần Văn Đoàn có vẻ không nắm vững Khuynh Hướng Triết Học Hiện Đại. Cố Triết Gia có thể giúp ông Đoàn về vấn đề này và sau đây là nhận định của Cố Triết Gia về Triết TÂY:

“ Vậy có nghĩa là triết học cổ điển Tây Âu đã bỏ sự thực trần gian như những mối nhân luân, lịch sử con người…vvv…để giồn hết tâm lực vào thế giới ý niệm rất xa vời thực tế..... nền triết học cổ điển Tây Âu quả là mắc bệnh nhục ảnh, tức là một nền siêu hình giả tạo vì xây trên ý niệm suông mà không trên thực tế khách quan”(51)

Và luôn tiện Ngài giải nghĩa lý do ra đời của AN VI và VIỆT NHO mà chúng tôi đã trình bày ở trên

Do đó, những nhận định của ông Trần Văn Đoàn về Cố Triết Gia KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ GÌ NHIỀU !!!

h) Diễn giả II còn viết:

“Thứ ba, việc Kim Định thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo tạo nên chất văn hóa phương Tây quá mạnh rất dễ khiến ông sinh ra cực đoan”(52)

Hoặc “Bản thân Kim Định trong tư duy nghiên cứu, cả đời luôn có nhận thức rất đúng về vai trò tối thượng của sự “quân bình”, luôn có ý thức rất rõ về vai trò của tỷ lệ “tham thiên lưỡng địa”, luôn có chủ trương hành động hướng tới “thái hòa”, luôn mong muốn thông qua con đường “an vi” để tạo nên “An Việt”, thế nhưng nhiều kết luận khoa học của ông lại quá cực đoan”.

Thử tìm hiểu tại sao diễn giả II ‘cáo buộc’ Kim Định về cái gọi là tính “Cực Đoan” ?

- Thứ nhất, câu này có vẻ trái ngược với một câu phát biểu khác ở trên của diễn giả II về Kim Định khi liệt kê một số yếu tố mà theo diễn giả có thể góp phần vào việc giải thích điều mà có người gọi là “hiện tượng Kim Định”:

“…..trong ông trí thức Tây và Đông đã bổ sung khá hoàn hảo cho nhau”. Do đó, qua lời phát biểu trên của diễn giả II, chúng ta có thể ngầm hiểu ở đây là Ngài Rất QUÂN BÌNH, chứ có ‘Cực Đoan’ chi mô !

- Kế đến, nên nhớ Ngài sinh ra, lớn lên và Dạy Học tại Quê Hương hơn cả nửa đời người trong tư cách là Triết Gia và Giáo Sư Đại học(khoảng 50 năm), chỉ phải đi du học 10 năm tại Pháp và 22 năm “lưu lạc” tại Hoa Kỳ vì “họa CS” nhưng cũng giữa các Đồng Bào Tỵ Nạn với nhau, nghĩa là phần lớn cuộc đời của Ngài là ở Việt Nam, và ngay trong 22 năm “lưu lạc” nước ngoài sau cùng, Ngài cũng ở trong môi trưởng Việt Nam, thì làm sao cái tính cách HÀI HÒA Đông- Tây mà chính diễn giả II đã nhận xét ở nơi Ngài, có thể bị ‘sứt mẻ’ chút nào được, nhất là ngoài tư cách chính yếu của Ngài là Triết Gia và Giáo Sư Đại Học (trước 1975 tại Miền nam VN), các việc làm linh tinh khác đối với Ngài chỉ là ‘thứ yếu’!

Do đó, lập luận của diễn giả II ở điểm này KHÔNG VỮNG !!!

- Ngoài ra, các ‘phao truyền’ về cái gọi là tính “Cực Đoan” của Kim Định cũng có thể có một nguồn gốc khác. Chẳng hạn, có một số người không nắm vững vấn đề do không cập nhật hóa vốn kiến thức của mình, vì cho tới gần đây sách vỡ thường cho Nho Giáo là của Tàu nên người ta cứ đinh ninh như vậy. Họ không hiểu rằng nhờ Khoa Học tiến bộ, ngày nay trong lãnh vực Cổ Sử Viễn Đông chẳng hạn, người ta có thể tiến xa hơn về quá khứ rất nhiều, vượt qua nhà Hán, nhà Tần mà hình ảnh bao trùm của một Đế Quốc rộng lớn và hùng mạnh là nguyên nhân chính yếu khiến người ta Ngộ Nhận về Nguồn Gốc của Văn Minh Viễn Đông.

Cố Triết Gia nhờ nghiên cứu thấu đáo trong nhiều lãnh vực khác nhau và với vốn kiến thức ‘khổng lồ’ và cập nhật của Ngài cùng với cái nhìn Thấu Thị của một Triết Gia đã khám phá ra chủ thuyết VIỆT NHO.

Ngay diễn giả II cũng phải công nhận:

-“Đóng góp thực sự của Kim Định…..là ở việc khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy bị trói buộc. Vào thời của Kim Định, căn bệnh đề cao một chiều văn hóa Trung Hoa là tư duy nô lệ, phát ngôn dễ dãi là đáng trách…..” Hoặc

-“Những gì mà Kim Định đã viết ra và đã tạo dựng là một di sản có giá trị; nó có ảnh hưởng trong một phạm vi công chúng trí thức khá rộng, thực sự không thể coi thường.”

Hoặc (cũng nói về Kim Định nhưng với những chi tiết sai sự thật như “trong hoàn cảnh thông tin một chiều, rất thiếu thốn về tư liệu cũng như thực tiễn” là vì trước 1975 Kim Định sinh sống ở Miền Nam chứ đâu phải Miền Bắc VN mà phải chịu những khó khăn, trở ngại nêu trên)

-“Dù đúng hay sai, thì những phân tích như thế – trong hoàn cảnh thông tin một chiều, rất thiếu thốn về tư liệu cũng như thực tiễn – thực sự là những cố gắng suy tư khách quan của một người làm khoa học”.(53)

i) Ngoài ra, ở trên, diễn giả II có ghi nhận Ảnh Hưởng lớn lao của Cố Triết Gia với câu hỏi sau đây:

“Vì sao người ta lại sợ ông đến thế? Câu trả lời hình như rất đơn giản: Là vì ông có quá nhiều người theo. Mà số người theo này lại mỗi ngày một đông. Mà số người mỗi ngày một đông này lại không phải là người bình dân, gần như tuyệt đại bộ phận họ là trí thức..... và là sinh viên, tức những chủ nhân của tương lai”. (54)

Lẽ dĩ nhiên, song song với sự chấp nhận của đa số Trí Thức như chính diễn giả II đã ghi nhận ở trên, thì vẫn có một thiểu số chống đối với nhiều lý do khác nhau trong đó có một lý do dễ hiểu là tại có người KHÔNG HIỂU vì QUÁ MỚI.

Và đó là chuyện bình thường. Nhưng điều làm chúng tôi thắc mắc nhất trong thái độ của diễn giả II đối với Cố Triết Gia trong bài tham luận của ông ta, là lời ‘cáo buộc’ Cố Triết Gia về cái mà ông ta gọi là tính “Cực Đoan” của Ngài với những lập luận rất bấp bênh mà chúng tôi vừa chứng minh ở trên là hoàn toàn KHÔNG ĐỨNG VỮNG.

Chúng tôi mới tự hỏi: hay là vì diễn giả II nương theo dư luận của thiểu số giới Trí Thức chống đối nêu trên (với nhiều lý do khác nhau) nên ông ta mới đưa ra lập luận về cái gọi là tính “Cực Đoan” của Kim Định! Thú thật về động cơ và mục tiêu của công việc này thì chúng tôi chưa nghĩ ra !

Mặt khác , hình như nhờ Ảnh Hưởng lớn lao của Kim Định trên giới Trí Thức hiện nay (trong đó có cả diễn giả II) mà chính ông ta đã ghi nhận ở trên, Vị này đã sáng tác được một hai tác phẩm trong chiều hướng của triết thuyết Việt Nho. Và tình cờ chúng tôi có đọc được một bài viết ghi lại câu hỏi và câu trả lời trong buổi phỏng vấn diễn giả II trước đây:

Hỏi: “Có ý kiến cho rằng tác giả ‘Cơ sở văn hóa Việt Nam’ và ‘Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam’ đã “lấy Việt Nam làm trung tâm” ?

Đáp: “Khi làm việc, chúng tôi luôn cố gắng khách quan tới mức tối đa. Mọi kết luận, tôi đều dựa trên những cứ liệu, những kết luận do nhiều hoặc những nhà khoa học có uy tín cung cấp cộng với sự phân tích lí giải của mình. Sự vật được chúng tôi xem xét trong sự vận động. Bên trong, mọi nền văn hóa có lúc thịnh, lúc suy, tính cách một dân tộc có tốt có xấu; bên ngoài, các nền văn hóa giao lưu , trao đổi, có đi có lại. Chẳng qua là lâu nay nhiều người mắc bệnh lấy Trung Hoa và châu Âu “làm trung tâm” nên nhìn vào văn hóa Việt nam, bên trong người ta thường chỉ thấy cái suy, trong quan hệ giao lưu chỉ thấy tác động một chiều từ ngoài vào; thành ra khi chúng tôi nói đến cái thịnh, cái ảnh hưởng từ Việt nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung ra bên ngoài thì có người thấy lạ và đã vội cho rằng như thế là “lấy Việt Nam làm trung tâm” rồi. Người đọc kỹ sẽ thấy rằng chúng tôi không chỉ nói đến cái hay mà còn phân tích rất kỹ càng và khách quan cả về nguồn gốc những cái dở của người Việt Nam như các thói tùy tiện, coi nhẹ cá nhân, dựa dẫm, cáo bằng; các bệnh bè phái, địa phương chủ nghĩa, tư hữu , gia trưởng…..”(55)

Trong đoạn trên, khi người phỏng vấn nói rằng diễn giả II “lấy Việt Nam làm trung tâm ”, thì đó chỉ là một cách lịch sự nhằm ‘cáo buộc’ ông ta về tính CỰC ĐOAN, do đó, ông ta đã biện minh như trên. Rồi lại tới phiên ông ta ‘cáo buộc’ Kim Định về cái gọi là tính “Cực Đoan” trong khi Ngài đã giải thích nhiều lần về vấn đề này; và chúng tôi nghĩ rằng diễn giả II đã đọc qua các lời giải thích của Ngài.

Sau đây là một thí dụ về các lời Giải Thích của Cố Triết Gia trong bài viết có tựa đề;

‘ĐẶNG CHẲNG ĐỪNG CHỈ ĐỂ LẤY LẠI NIỀM TIN CẦN THIẾT’

“Có một điều tôi rất ngại làm mà vẫn cứ phải làm, làm suốt qua bộ triết lý An vi: đó là ca ngợi nền triết này, mà chê nhiều nền triết khác. Tại sao đã ngại mà còn cứ làm. Thưa là vì những lý do rất trầm trọng mà tôi nghĩ cần một lần phải nói lên để tránh mọi sự bất tiện về sau. Sở dĩ tôi ca ngợi nền triết lý An Vi của dân tộc là mong cho ta lấy lại được niềm tin vào nền Đạo Lý của Tổ Tiên mình mà tôi nghĩ rất cần thiết để giữ nước. “Đạo mất trước, nước mất sau”. Nước thì nay đã mất…..muốn lấy lại nước thì nhất định phải lấy lại Đạo trước đã. Nước còn hay mất chính ở chỗ đó nhiều nhất. Đành rằng ta phải mở rộng cửa để đón nhận những cái hay của người. Nhưng trong phạm vi Triết chúng ta đã thấy rõ, những thuyết được đón nhận vào toàn là ngoại lai rất có hại hay ít nhất cũng không hợp cho môi sinh tinh thần của ta. Hiện ta đang phải trả giá rất đau thương về vụ này. Bởi thế tôi đã đem hết tâm lực vào việc phục hoạt nền triết dân tộc. Để làm việc đó tất nhiên phải có phần ca ngợi nền Triết ta…..Dầu vậy không bao giờ tôi ca ngợi triết Việt chỉ vì là dân tộc, nhưng trên hết vì tôi thấy nền triết lý đó hợp cho cả mọi con người như tôi quen nói cái may của văn hoá Dân tộc ta cũng chính là của Nhân tộc, cho nên vấn đề nào cũng tự dân tộc vươn lên đến vấn đề phổ quát chung cho cả nhân loại, và chữ Việt được hiểu ngầm là siêu Việt, từ gốc Việt nhưng siêu lên lan tỏa ra khắp hết mà không gặp ngăn trở nào cho thói tục riêng biệt. Nói vậy có nghĩa là triết Việt đã đạt độ phổ biến có thể hợp cho mọi thời mà cũng cả cho mọi nơi. Tôi dám nói thế là vì tôi theo sát nút phương pháp Cơ Cấu là phương pháp đi đến chỗ rốt ráo cùng cực và đem những điểm cùng cực đó đối chiếu với các cùng cực trong các văn hóa khác, tất cả đều bàn trên những điểm tổng quát hơn hết như Siêu Hình chẳng hạn. Siêu Hình Tây Âu căn cứ trên Hữu Thể, Ấn Độ trên Vô Thể, ta trên “Hữu Nhược Vô”, tức kiêm cả hai: cả Hữu cả Vô: “Thái Cực nhi Vô Cực”.

Đó là những điểm rốt ráo cùng cực không có vu vơ chút nào. Đã thế mà mỗi lời ca ngợi còn đến sau những phân tích tỉ mỉ, lý chứng hiển minh.

Dầu vậy mỗi khi nghĩ đến dịch ra ngoại ngữ tôi vẫn ái ngại sợ bị người ngoại quốc đổ cho mình cái tật quá khen mình mà đè người xuống chăng. Đó là điều làm tôi ngần ngại, muốn tước bỏ những chỗ khen chê đi, nhưng lại nhận ra là điều đó khó có thể làm được vì những lời khen chê có tính cách cơ thể, tức là do những cuộc phân tích thấu đáo, theo một phương pháp cùng tột và không những được biểu lộ bằng lời nói mà còn bằng cả lược đồ, cả số độ, cả huyền thoại nữa, nay nếu bỏ đi là bỏ mất phần căn bản hơn hết, khiến các chương sách sẽ trở nên què quặt thiếu sót, lộn xộn. Vì thế mà phải giữ lại hầu y nguyên.

Chỉ còn hy vong được người ta hiểu chỗ khổ tâm đó cho chúng tôi. Tức chúng tôi phải đi lối đó vì nó cần thiết để chúng tôi thấy được sự cần thiết phải tin vào Đạo Lý của Tổ Tiên. Điều này thiết yếu đến vận mệnh của chúng tôi, tư riêng cũng như chung cho cả nước: nước có lấy lại được và có giữ được cùng chăng thì phần sâu xa nhất ở tại trước có làm phục hoạt được Đạo Lý dân tộc hay chăng. Bằng chứng còn trờ trờ ra đó, hiện các triết ngoại lai đang tác hại quê nước chúng tôi, đang làm cho đồng bào chúng tôi phải quằn quại đau khổ muôn trùng, chứ chúng tôi không chê bai vì là của nước ngoài đâu, cho nên chữ ngoại lai ở đây phải hiểu là ngoại lai với con người, nó không hợp cho bản tính con người bất cứ ở đâu, nên chúng cũng đang bị đả kích ngay trên quê hương của chúng, tức triết Tây đang bị chính người Tây phương nỗ lực phá đổ, triết Ấn đang bị các phần tử thức giả của Ấn tẩy chay.

Như thế quả chúng tôi có lý để lên án các nền triết đó, nghĩa là những lời khen chê của chúng tôi có căn bản rất đích đáng chứ không phải do lòng ái quốc quá khích, mà là do chính lòng muốn phụng sự con người, mọi con người. Đấy là lý do rất trầm trọng bắt tôi phải làm một việc mà tôi cảm thấy rất ái ngại: đó là chê người khen mình, là vì sự thực ở đây chỉ là khen cái hợp cho con người và chê những cái có hại cho con người, hết mọi con người.

Riêng với đồng bào tôi thì có hai thái cực: một đàng thì một số người gán cho tôi óc quốc gia quá khích. Điều đó tôi có thể gác bỏ ngoài tai, khỏi cần trả lời. Nhưng ngược hẳn lại một số khác thì hoan nghênh lập trường của chúng tôi hết mình (minh nhiên thì ít, mặc nhiên thì nhiều) coi triết An Vi hầu như bảo chứng để tha hồ khen không sợ ai phản pháo nữa. Thế là mỗi khi nói đến văn hóa dân tộc thì không còn tiếc lời khen ngợi, dùng toàn những phẩm từ hạng siêu hơn hết khiến cho mỗi khi đọc phải tôi ngượng vô cùng. Bởi lẽ những lời khen đó không đến sau những phân tích đích đáng mà chỉ do suy luận hư cấu hay căn cứ trên những sự kiện lặt vặt bì phu, rồi ca ngợi thả dàn, khiến người đọc dễ có cảm tưởng là khen ẩu: đó chỉ là đề cao mình và hạ người cách lố bịch, tôi sợ tiếng oan này hơn hết nên phải viết mấy lời phân trần này để nhắn gửi đến những bạn nọ…..

Tóm lại khi khen văn hóa dân tộc thì bao giờ chúng tôi cũng căn cứ trên những điểm then chốt lớn lao, có thể minh chứng. Đã vậy lời khen cũng có chừng mực và thường là kết luận do một cuộc phân tích dài hơi. Đàng khác là đứng trên phạm vi Triết tức lý tưởng thì sự khen không hàm ngụ rằng hiện tại người Việt tốt hơn mà chỉ muốn nói rằng: ngày xưa người Việt có triết lý tốt hơn như vậy đó, có thể còn hơn triết người, sao không phục hoạt nền triết đó để làm cơ sở tinh thần giữ nước, lại đi rước những thuyết ngoại lai về giầy mồ.

Dân nước đang đau khổ cùng cực, lý do tại đâu, nếu không tại người mình đã mất ý thức về Đạo Tổ Tiên, rồi đi rước thuyết ngoại lai về thay vào chỗ bỏ trống, mới nhìn sơ qua thì tưởng là thuyết mới hay gấp mười của mình, nhưng khi thi hành ra mới rõ là nước mất nhà tan, dân con chết cả hàng triệu. Đấy! Sự khen chê của chúng tôi căn cứ trên những điều đích xác, cũng như kinh nghiệm đau thương của cả dân tộc như vậy đó. Thế thì sự ca ngợi triết Việt chỉ có nghĩa nói rằng người Việt cần nhận thức trở lại Đạo Lý Tổ Tiên mình hầu hiện thực cho mình cũng như cho nước vượt qua sự kém cỏi hiện nay. Đấy là khen khuyến khích, khen cổ võ chứ không phải khen khoe mẽ kiểu ta đây vậy”(56)

Ngoài ra, Cố Triết Gia đâu chỉ nói về các Tính TỐT mà Ngài còn đề cập đến các Tính XẤU của người Việt nữa trong tác phẩm “Vấn Đề Quốc Học” như “gian vặt hai là cẩu thả và ba là thiếu lòng chung” và giải thích tại sao chúng ta có những tật Xấu đó.(57)

Chúng tôi hy vọng rằng những ai vì Hiểu Lầm Cố Triết Gia trong quá khứ đã có những nhận định Sai Lạc về Ngài, sau khi đọc những lời Giải Thích của Ngài ở trên, Xin Quý Vị Chấm Dứt Giùm Cho những lời Phê Bình có tính cách ẨU TẢ về Ngài.

Riêng về diễn giả II, ông ta là người đã chịu ảnh hưởng Tư Tưởng của Cố Triết Gia, cũng bị người ta ‘cáo buộc’ là CỰC ĐOAN, đã có lối biện minh tượng tự Cố Triết Gia về lời ‘Cáo Buộc’. này. Thay vì ‘ra tay’ bênh vực Cố Triết Gia trong vấn đề này, ông lại hùa với người ta để ‘cáo buộc’ Ngài về cái gọi là tính “Cực Đoan” ?!

Thật tình, chúng tôi KHÔNG HIỂU NỔI ông ta !!!

j) Diễn giả II phát biểu tiếp: Hạn chế thứ ba của Kim Định là ông để cho các công trình nghiên cứu của mình mang màu sắc chính trị, còn trong cuộc đời thì để người ta cho rằng ông “làm chính trị”.

Rồi ông ta tiếp tục: “ Làm chính trị ở mức cao nhất là tìm cách tác động đến tư tưởngcủa một dân tộc nhằm tạo ra một phong trào quần chúng rồi vạch ra đường lối mà dẫn dắt họ. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, sự đan xen và hội tụ của những hoạt động khác nhau mà Kim Định đã thực hiện trong cuộc đời đã tạo nên một thứ rất giống với việc “làm chính trị”: Ông nghiên cứu triết học là cái liên quan đến tư tưởng, ông nghiên cứu văn hóa là cái liên quan đến dân tộc, ông tạo nên các phong trào là cái liên quan đếnquần chúng”.(58)

Thì Đúng Rồi, đâu có hạn chế gì đâu ! Kim Định đã “ Làm Chính Trị Ở Mức Cao Nhất” như diễn giả II trông chờ thì ông ta còn than vãn gì nữa ?!. Hay nói cho đúng hơn Kim Định “LÀM Chính Trị mà như KHÔNG LÀM Chính Trị” và đồng thời “ KHÔNG LÀM Chính Trị mà như LÀM Chính Trị” vậy!

Là vì An Vi và Việt Nho bắt nguồn từ nền Minh Triết VIỆT tự thân là một nền TRIẾT LÝ về CHÍNH TRỊ nhằm Dẫn Đạo Chính Trị đi đúng hướng phục vụ nhân quần kèm với các mục tiêu Tự Do và No Ấm cho mọi người, như Khổng Tử đã làm đối với Viễn Đông trước kia, mà ảnh hưởng vẫn còn đối với Nhân Loại hôm nay. Ngoài ra, TRIẾT VIỆT còn bàn đến Triết Lý trong các lãnh vực KHÁC nữa nhằm giúp con người đi đúng đường và đạt được Hạnh Phúc là tất cả Cứu Cánh của đời người vậy !

Diễn giả II phát biểu tiếp : “Quan sát các tác phẩm của ông, một số người cảm thấy cái “màu sắc chính trị” bao trùm hình như là tinh thần chống cộng…..Theo Tạ Chí Đại Trường thì “Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản” [Tạ Chí Đại Trường 2008]. Chúng tôi đã thử thống kê, chỉ trong một cuốn “Việt lý tố nguyên” (bản có bổ sung)[2], đã có 48 lần tác giả nhắc đến từ “cộng sản”. Nếu bỏ ra một bên những từ ngữ mang tính mỉa mai giễu cợt, thì có thể thấy ông chỉ đơn thuần coi đó là một mảng tài liệu thực tế được đưa ra phân tích dưới ánh sáng lý thuyết của mình”.(59)

Chúng tôi cũng xin được đóng góp một chút ý kiến về phần trên:

Rõ ràng là câu tuyên bố của ông Tạ Chí Đại Trường “Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản” là KHÔNG ĐÚNG. Lý do là Kim Định đã có tinh thần chống cộng TRƯỚC biến cố 30/04/1975 rồi mà bằng chứng là chính tài liệu tham khảo của diễn giả II mà theo đó, tác phẩm “Việt Lý Tố Nguyên” đề cập ở trên đã được xuất bản vào năm 1970, tức 5 năm trước biến cố 1975.

Thật ra, Kim Định LUÔN LUÔN có tinh thần chống cộng và chúng tôi thường nghe Ngài giải thích như sau: “ Điều cao quý nhất của Văn Hóa VIỆT là tinh thần TƯƠNG DUNG (Tolerance) như đã được chứng minh qua chủ trương “Tam Giáo Đồng Nguyên” của Tổ Tiên ta. Ngày nay chúng ta nên áp dụng Tinh Thần cao quý đó trong các sinh hoạt mà chúng ta có giữa các Khuynh Hướng, Tôn Giáo, Đảng Phái…..khác nhau ,TRỪ CỘNG SẢN. Lý do là vì Cộng Sản là một đảng phái CỰC TẢ mà chủ trương có tính cách ĐỘC HỮU (Excluvive) trên cả hai bình diện Lý Thuyết và Hành Động. Nếu chẳng may chúng ta để Cộng Sản ‘lọt’ vào, thì sẽ không còn một “mống” nào để chúng ta có thể áp dụng Đức TƯƠNG DUNG Cao Quý của Tổ Tiên ta với nhau nữa!”

Đó quả là một lời TIÊN TRI ‘Thần Kỳ’ của Cố Triết Gia được xác nhận bởi những gì xảy ra cho Miền Nam VN sau Biến Cố 30/04/1975”

Về Cộng Sản, diễn giả II phát biểu như sau: “Trong suốt cuốn “Việt lý tố nguyên”, Kim Định đã chỉ ra rằng người cộng sản đã đúng khi nhìn ra được vai trò của dân chúng nên không những đã dùng “tiếng dân” (ngôn ngữ bình dân) để tuyên truyền, mà còn trao vào tay thợ thuyền quyền lãnh đạo (mục VI)”. (60)

Đáng tiếc là ông ta chưa nói hết ý của Cố Triết Gia, vì Ngài còn viết thêm như sau: “Mong rằng như thế thì văn học sẽ bám sát đời sống, và không làm cho con người vong thân nữa. Nhưng giải pháp Cộng sản đã thất bại ít ra vì chưa được thi hành. Trước hết vì chưa trao cho thợ thuyền mà chỉ trao cho đảng viên đôi khi trá hình là thợ thuyền để dễ nắm vững giới thợ thuyền hơn; hai là các cán bộ phải tuân theo ý hệ Mác xít, mà Mác xít là một ý hệ trưởng giả theo nghĩa là sách vỡ, phản khoa học, mơ mộng về ngày chung thẩm và độc tài (eschatologique, autoritaire), do đó duy trì và phát triển cùng cực các sản phẩm của xã hội quý phái là giai cấp đấu tranh. Nuôi dưỡng giai cấp đấu tranh là đi ngược hẳn lại chủ trương nối hai mố cầu dân gian và trí thức. Vậy nên từ trong bản chất Mác xít chỉ là ý hệ nhằm đào sâu thêm hố chia li mà thôi chứ không sửa chữa lại được cái hỏng của triết cổ điển.”(61)

Ông ta lại viết tiếp: “Theo Kim Định, người cộng sản đã “độc quyền chuyên chế”, “nghi kỵ tự do”, nhưng ông lại tỏ ý đồng tình: “nghi kỵ là phải, vì nếu ai cũng đòi tự do tự trị cả thì làm sao tổ chức xã hội cho mạnh được” (mục XI)(62)

Thưa ông, Kim Định tỏ ý đồng tình ở chỗ nào ? Ở đây, rõ ràng diễn giả II CỐ TÌNH Xuyên Tạc chủ trương của Cố Triết Gia. Là vì cũng như ở thí dụ trên, ông ta chỉ trích dẫn NỬA CHỪNG nên không nói hết ý của Ngài. Thật vậy, đoạn văn “nghi kỵ là phải, vì nếu ai cũng đòi tự do tự trị cả thì làm sao tổ chức xã hội cho mạnh được” CHỈ là “Vế’ đầu mà thôi, nói lên chỗ yếu kém của Cá Nhân chủ nghĩa, chứ KHÔNG có nghĩa là đồng ý với Đoàn Lũ chủ nghĩa kiểu Cộng Sản như diễn giả II “lập lờ” muốn cho người độc hay người nghe hiểu như vậy.

Bằng chứng là ở khúc sau, Ngài viết tiếp “ Và ta nhận thấy trong dĩ vãng các xã hội ít khi thoát khỏi gọng kìm nhị nguyên đó được: không nghiêng sang tự do cá nhân như thế giới tự do thì lại nghiêng sang độc quyền chuyên chế kiểu cộng sản”(63)

Tức chủ nghĩa Cá Nhân và chủ nghĩa Cộng Sản đều có chỗ yếu kém. Theo Ngài, điểm yếu kém của Cá Nhân chủ nghĩa là Xã Hội không mạnh, còn điểm yếu kém của chủ nghĩa Xã Hội kiểu Mác-Xít là Thiếu Tự Do, Độc Tài Chuyên Chế.

Phần sau cũng vậy, diễn giả II chỉ ‘lượm lặt’ trong bài viết của Cố Triết Gia những chữ, những câu, những đoạn văn nào có lợi cho Trung Cộng và Việt Cộng, mà lãng bỏ những đoạn bất lợi. Chẳng hạn sau đây là những đoạn BẤT LỢI cho Trung Cộng hay Việt Cộng nên diễn gia II ‘lờ đi’: Cố Triết Gia viết: “ Bởi vậy khi đề cao giai cấp thôn dân thì gián tiếp cũng là đề cao dĩ vãng của Trung Hoa, và như thế vô tình Trung cộng nói lên một sự thực là cộng sản không đưa lại được gì mới mẻ mà có ơn ích cả. Bởi vì tất cả những gì họ đã làm, thì trong lịch sử Viễn Đông đều đã có người làm trước rồi mà điều rõ hơn cả là “việc quân phân điền sản”. Ngay cả đến việc họ lợi dụng thôn dân cũng chỉ là lặp lại điều các vua chuyên chế xưa đã làm, rõ rệt hơn hết là nhà Hán đã xuất thân từ nông thôn rồi cũng tổ chức thôn dân đi lật đổ nhà Tần xâm lăng, và một khi đã lật đổ xâm lăng thì lợi dụng thôn dân để củng cố chính quyền”

Hoặc “Thực ra thì không phải ý hệ Mác Lê thắng được triết lý của Nho giáo mà chính là họ Mao thắng họ Tưởng”

Hoặc “Vậy thì bên ta cũng giống bên Tàu không phải là Nho giáo thua chủ nghĩa Mác xít, mà chính là các phe Quốc Gia bị Cộng Sản được Thực Dân trợ lực tiêu diệt.”(64)

Trước đi sâu vào việc phân tích các đoạn văn của diễn giả II nhằm đề cao Trung Cộng và Việt Cộng, thật tình chúng tôi không ngờ ông ta lại xử dụng những “Xảo Thuật” NGỤY BIỆN như trên nhằm XUYÊN TẠC Tư Tưởng của Cố Triết Gia. Đến đây, không biết ông ta đã hiểu được chưa rằng trong Lãnh Vực TƯ TƯỞNG, “NỬA SỰ THẬT” KHÔNG PHẢI LÀ SỰ THẬT !!!

k) Diễn giả II phát biểu tiếp: “Thiếu sự thận trọng, cái dễ dãi của Kim Định sẽ có nguy cơ không những không được chỉnh sửa mà còn có thể bị nhân lên. Câu chuyện “người Việt vào nước Tàu trước” là một ví dụ. Nếu nói đơn giản rằng người nguyên thủy sau khi phát sinh tại châu Phi đã men theo bờ biển đi về phía Đông, tới Đông Nam Á thì rẽ ra làm hai nhánh, một nhánh đi lên phía Bắc, nhánh kia rẽ xuống phía Nam, thì hầu như không có gì phải bàn, cũng không cần phải viện dẫn đến những nghiên cứu di truyền học để chứng minh. Song nếu nói như Kim Định hoặc “người Việt vào nước Tàu trước”, hay như một người phát triển Kim Định rằng “con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc” thì lại không chuẩn xác; đơn giản là vì vào lúc đó (khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á) thì làm gì đã có “Việt Nam” với “Trung Quốc” hay “nước Tàu”? Làm gì đã có “tộc Việt” hay “tộc Hoa”? Kể cả “người Việt cổ” lúc ấy cũng chưa hề có. Gán ghép sai lệch về tọa độ giữa chủ thể với không gian và thời gian diễn ra sự kiện như vậy sẽ có nguy cơ kéo theo nhiều kết luận sai lầm khác, kiểu như “Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt”. Theo kiểu suy luận đó, người Ấn Độ, người Á-rập, người châu Phi đều có thể nói rằng họ “đến khai phá và cư trú ở Việt Nam và Trung Quốc”.(65)

Đến đây, diễn giả II có vẻ đã “Lạc Đề” vì trong tác phẩm “Việt Lý Tố Nguyên” mà diễn giả II căn cứ trên đó để phê bình Kim Định, khi đề cập đến Sử Truyền, Cố Triết Gia chỉ bàn về những vấn đề trong khoảng thời gian 10,000 năm trước đây mà thôi, chứ KHÔNG phải “khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á” như ông ta cố tình cho thính giả hay độc giả hiểu như thế ! Do đó, câu hỏi được đặt ra ở đây là nếu giới hạn vấn đề trong khoảng thời gian 10,000 trước đây như Cố Triết Gia đã làm trong “Việt Lý Tố Nguyên” thì Ngài có thể phát biểu “người Việt vào nước Tàu trước” hay không?

Như chúng tôi đã nói sơ qua ở trên là trước khi có thể bàn đến vấn đề này , chúng ta cần phải đặt câu hỏi sau đây : VIỆT là Ai ? Và theo Cố Triết Gia: “ Chữ Việt dùng trong bộ sách này không có ý chỉ Việt Nam, nhưng chỉ cái học mà học giả Needham (II, 117) gọi là liên đoàn huynh đệ các dân thổ trước đã cư ngụ trong toàn cõi nước Tàu trước cả khi người Tàu xét như là một dân tộc xuất hiện. Liên đoàn này được người Tàu gọi bằng rất nhiều tên khác nhau tùy từng thời như:

Viêm tộc, Nhật Chủng,Tam Miêu, Cửu Lê, Man, Di, Nhung, Địch, hay Tứ Di hoặc Cửu Di hay Tứ Hải,và nhất là Bách Việt.Tên Việt này được dùng cuối cùng cũng như bao gồm nhiều địa vực và nhóm người như U Việt, Mân Việt, Bộc Việt, Lạc Việt v.v… nên tôi dùng tên này để chỉ toàn khối”.(66)

Và Cố Triết Gia nhấn mạnh: “Đó cũng là theo lối nhiều học giả. Thí dụ sử gia Eberhard khi kể về sáu trung tâm văn hóa cổ sơ của Tàu thì có đến ba được đặt dưới tên Việt (Need I.89).(67)

Chính diễn giả II đã đồng ý với Lương Khải Siêu vì đã trích dẫn, trong một cuốn sách của chính ông ta xuất bản cách đây hơn 10 năm , câu tuyên bố sau đây của họ Lương “thừa nhận rằng tổ tiên của người Trung Hoa vốn là một sắc dân du mục ‘khởi lên từ phía Tây bắc, rồi tràn xuống chiến thắng giống MAN TỘC (chúng tôi nhấn mạnh ở đây) ở lưu vực sông Hoàng hà, và càng ngày càng tràn ra khắp cả trên cõi đất đại lục…..”.(68)

Câu trên có nghĩa là lúc ban đầu, và đại đa số các nhà nghiên cứu ngày nay đều đồng ý với nhau ở điểm này, như chẳng hạn học giả Trương Quang Trực trong một tác phẩm rất nổi tiếng ‘The Archaeology of Ancient China”, khẳng định rằng gốc của người Tàu hay văn minh Trung Hoa là ở ba tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây và Hà Nam, tức chiếm một diện tích rất ‘khiêm nhường’ so với cái khoảng không gian rộng lớn còn lại mà lúc đó, “liên đoàn huynh đệ các dân thổ” đang cư ngụ bao gồm hầu hết toàn cõi nước Tàu.(69)

Xin mạn phép được hỏi diễn giả II là câu trên của Lương Khải Siêu mà diễn giả đã đồng ý và trích dẫn, về Nội Dung có khác gì câu định nghĩa chữ VIỆT của Cố Triết Gia ở phần trên ?!

Ngoài ra, liên quan đến từ ngữ “VIỆT”, theo nhà Khảo Cổ Lê Văn Ẩn, “William Meacham, một nhà Khảo Cổ khác, có viết một bài với tựa đề ‘Defining the Hundred Yue’ (Định nghĩa Bách Việt) đăng trong tờ Hongkong Archaeological Society như sau: "The term Yue occurs fairly frequently in the oracle bone writings of the late Shang dynasty, ca 1200 BC" có nghĩa là danh từ "Việt" thường hay xuất hiện trên sấm ngữ vào cuối đời nhà Thương khoảng 1200 trước Tây Lịch. Ông William Meacham có liên lạc với ông Lefeuvre, cũng là một đồng nghiệp với ông, khi viết bài nầy, thì ông Lefeuvre có xác định với ông William là có một câu của sấm ngữ nhắc đến "vùng đất của Việt", đây là lời ông William Meacham viết: "Lefeuvre notes one inscription mentioning" the Land of Yue".Vậy cái tên Việt đã xuất hiện trên sấm ngữ vào thời nhà Thương.”(70)

Vì nhà Thương xuất hiện khoảng 1600 năm trước ngày nay, do đó, phần trình bày trên cho thấy là đã có những bằng chứng chắc chắn về sự hiện hữu của từ “VIỆT” về phương diện Lịch Sử, Khảo Cổ gần 4,000 năm cách ngày nay.

Ngoài ra, cũng theo nhà Khảo Cổ Lê Văn Ẩn, về Sấm Ngữ “Ngoài tài liệu cổ thư, nhà Thương còn để lại một tài liệu rất là quý giá. Đó là những chữ khắc trên xương và yếm rùa còn được gọi là "Sấm Ngữ" (Oracle bones), mà các nhà khảo cổ đã đào được rất nhiều tại An-Dương. Các Sấm Ngữ còn cho chúng ta biết rằng có sự liên lạc giữa nhà Thương và dân ở miền Nam Trung Hoa và đặc biệt là dân ở vùng sông Dương Tử tức là vùng của người Việt ngày xưa. Ông Tsuen-Hsuin Tsien, tác giả quyển "Written on Bamboo and Silk" (Viết trên tre và Lụa) do The University of Chicago Press xuất bản 1962,có viết như sau: "The oracle inscriptions also contain such divinations as "there will be tortoises presented from the south" or no tortoises will be presented from the south", có nghĩa là các lời khắc của sấm ngữ còn chứa đựng những câu chiêm đoán như "sẽ có rùa mang đến từ miền Nam" hay "không có rùa được mang tới từ miền Nam". Ông cho biết các câu như thế được lập đi lập lại khoảng 500 lần trên sấm ngữ. Ông còn cho biết là theo cổ thư thì rùa được mang tới từ vùng sông Dương Tử. Như thế ngày xưa đã có sự hiểu biết nhau và trao đổi giao dịch giữa nhà Thương và dân Việt”.(71)

Các tài liệu Lịch Sử. Khảo Cổ vừa đề cập ở trên có thể được liên hệ với truyền thuyết về “truyện cống rùa nhắc đến trong sách” Thống Chí” do Trịnh Tiều sưu tập. Truyện kể rằng năm thứ 6 Việt Thường cống vua Nghiêu con rùa lớn đã sống nghìn năm, bề vuông hơn ba thước, trên mu có 64 chữ khoa đẩu chép việc thiên hạ từ đời hồng hoang …vvv… (có thể là 64 quẻ Kinh Dịch)”. (72)

Và vì theo truyền thuyết, Đế Nghiêu sống cách đây gần 5.000 năm và tục Cống Rùa có lẽ đã có rất lâu trước đó cùng với sự hiện hữu của cái Nước có tên là ‘Việt Thường’, do đó, ta có thể suy ra rằng từ VIỆT (Yue) có lẽ đã hiện hữu ít nhất là 6 hoặc 7 ngàn năm trước ngày nay.

Cuối cùng, “ngay các Học Giả TRUNG QUỐC, cách đây hơn 12 năm, trong tờ ‘BEIJING REVIEW’, một trong những ‘tiếng nói’ chính thức của Chính Quyền Trung Hoa, trong số ngày 23-29/03/1998, ở phần «Culture and Science» (tr.31), trước những bằng chứng không thể chối cãi được của KHOA HỌC ngày nay, đã phải đi đến việc phủ nhận quan điểm Lịch Sử 5000 năm của Sử Gia Tư Mã Thiên để thay thế bằng chủ trương của giới Học Giả QUỐC TẾ về Lịch Sử 10,000 năm lập quốc Trung Hoa với sự đóng góp Nền Tảng của các bộ tộc BÁCH VIỆT trong một xã hội mà họ gọi là Đa Văn Hóa được thành hình vào thời kỳ này”(73)

Và từ VIỆT được dịch là “Yue” .

Với bao nhiêu bằng chứng và luận cứ vừa nêu trên, tại sao Cố Triết Gia lại không thể tuyên bố rằng cách đây khoảng 10,000 năm, “người Việt vào nước Tàu trước ???!!!

l) Còn về đoạn văn sau đây ;”Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học là của người Việt đã được chúng tôi điều chỉnh và chỉ ra là có hai con đường phát triển của triết lý âm dương; có sự tích hợp văn hóa phương Bắc với văn hóa phương Nam trong Nho giáo nguyên thủy”, thì về vế thứ nhất “các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học là của người Việt”(74) chúng tôi sẽ trả lời một cách chi tiết ở phần dưới, nhưng có thể phát biểu ngay đây rằng Kim Định luôn quan niệm NHO và DỊCH là của Chung của VIỆT và TÀU, chứ Ngài KHÔNG bao giờ nói là của Riêng người Việt như diễn giả có vẻ ngụ ý ở đây.

Còn về vế thứ hai: “…..đã được chúng tôi điều chỉnh và chỉ ra là có hai con đường phát triển của triết lý âm dương; có sự tích hợp văn hóa phương Bắc với văn hóa phương Nam trong Nho giáo nguyên thủy” thì có lẽ diễn tiến sự việc đã xảy ra như thế này:

Trong “Nguồn Gốc Văn hóa Việt Nam” và trong nhiều tác phẩm khác của Ngài, Cố Triết Gia có đưa ra nhận xét là người phương Nam thường thích dùng Số Lẻ, còn người phương Bắc trái lại thường thích dùng Số Chẳn. Nhận xét này của Cố Triết Gia có thể là khởi điểm để diễn giả II đưa ra giả thuyết là” “ngũ hành và bát quái có hai truyền thống văn hóa khác nhau tạo ra, còn bát quái là từ phương Bắc…..”

Kèm theo với những câu phát biểu khác như Ngũ Hành giống “Hà đồ và Lạc Thư với con số 5 ở giữa luôn chú trọng đến TRUNG TÂM…..trong khi bát quái thì trung tâm bỏ trống.” Hoặc

“…..còn ngũ hành và bát quái là những nhận thức về cấu trúc không gian của vũ trụ được xây dựng trên nền triết lý âm dương”(75)

Hoặc để liên hệ Ngũ Hành với phương Nam, diễn giả II có nhận xét là ‘người Việt rất coi trọng số lẻ (3,5,7,9) và những bội số của chúng (18,27,36).(76)

Hoặc theo diễn giả II “Quan sát thống kê cho thấy người phương Bắc dường như rất thích dùng những cách nói khái quát với những số chẵn 4,6,8.”

Có lẽ nhằm liên hệ điều trên với sự kiện “ Kinh Dịch trình bày nguyên lý hình thành vũ trụ dưới dạng: “thái Cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…” vvv…(77)

Chúng tôi có đem vấn đề này ra bàn với một người bạn thân rất uyên thâm về Dịch Lý để xem Vị này nghĩ gì về các lời phát biểu trên dây của diễn giả II. Và Vị thân hữu của chúng tôi có những nhận xét như sau:

“Thứ nhất, Thái Cực, Âm Dương, Ngũ hành, Bát Quái là một Hệ Nhất Quán.

Để tìm hiểu Dịch Lý, việc đầu tiên là phải nắm bắt được Luật Tắc căn bản của Dịch làTHỂ và DỤNG. Có lẽ vì không nắm vững luật tắc này nên không thấy diễn giả II phân biệt TIÊN THIÊN (hay THỂ) với HÂU THIÊN (hay DỤNG) liên quan đến Ngũ Hành lẫn Bát Quái trước khi thử so sánh chúng với nhau.

Tuy cả hai Ngũ Hành lẫn Bát Quái đều có hai phần Tiên Thiên (THỂ) và Hậu Thiên (DỤNG), nhưng trên thực tế khi nói đến Bát Quái, người ta thường nghĩ đến Bát Quái Tiên Thiên và khi nói đến Ngũ Hành, người ta nghĩ tới phần DỤNG(hay Hậu Thiên) với các áp dụng của hai loại Ngũ Hành: Tương Sinh và Tương Khắc.

Vì diễn giả II không nói rõ ý của mình, do đó chúng ta giả thiết là diễn giả II theo lối suy nghĩ thông thường và muốn so sánh Bát Quái Tiên Thiên (hay THỂ) với Ngũ Hành (phần DỤNG hay Hậu Thiên)”

Vị thân hữu nói tiếp: “Về sự Khác Biệt giữa THỂ và DỤNG, để cho dễ hiểu, chúng ta tạm so sánh THỂ với Thai Nhi và DỤNG với Hài Nhi. Trong trường hợp này, Tiên Thiên Bát Quái là THỂ mà biểu tượng là Thai Nhi, còn Ngũ Hành là DỤNG với biểu tượng là Hài Nhi”

Vị này tiếp tục “Thứ nhất, việc làm của diễn giả II khi so sánh Bát Quái Tiên Thiên với Ngũ Hành cũng chẳng khác việc ông ta kiếm ra tóc của Thai Nhi thì ngắn hơn tóc của Hài Nhi, mắt của Hài Nhi thì mở to mà mắt của Thai Nhi thì nhắm kín; và ông ta vui mừng kết luận rằng Thai Nhi và Hài Nhi xuất phát từ hai nguồn khác nhau (như Bát Quái có nguồn gốc từ phương Bắc, còn Ngũ hành có nguồn gốc từ phương Nam) trong khi Hài Nhi và Thai Nhi chỉ là MỘT chỉ khác THỜI mà thôi.

Tóm lại, ông ta đã làm một việc sai trái và vô ích do sự Thiếu Hiểu Biết về Dịch Lý.

Thứ hai, Dịch Học là một môn học về THỜI-KHÔNG (Space-Time Continuum), các Đơn Quái của Bát Quái và các Trùng Quái của Kinh Dịch luôn luôn diễn tả Thời-Không (Thời-Vị). Không thể tách rời Không Gian ra khỏi Thời Gian để nghiên cứu Dịch, tìm hiểu Dịch. Nếu làm công việc tách Không Gian ra khỏi Thời Gian thì cũng giống như để nghiên cứu về một Tổng Thể là “Gia Đình” chẳng hạn, lại tách người Vợ ra khỏi gia đình để nghiên cứu về cái gia đình ấy thì kết quả có tốt hay không ?

Xin lấy một thí dụ khác. Là LY ( file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.jpg) lúc 12 giờ trưa nhưng lúc 12 giờ đêm lại là KHẢM (file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image003.jpg ),chứ không phải là LY(file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.jpg nữa, như vậy LY( file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.jpg) và KHẢM( file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image003.jpg) là những trạng thái chứ đâu phải Sự Vật mà có cấu trúc Không Gian ? Thế mà diễn giả II lại dùng 30 trang giấy đề trình bày về cấu trúc Không Gian của Bát quái và Ngũ Hành, Ông ta thật là can đảm!!!

Thứ ba, có lẽ vì nghĩ rằng quẻ Dịch có cấu trúc Không Gian nên ông ta cho rằng các quẻ Dịch là TĨNH, CỤ THỂ, ĐƠN NGHĨA (xin xem bảng 7.4 trang 150 “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”). Có phải như vậy không ?

Không ai biết Dịch mà nói rằng quẻ KHẢM ( file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CVUKHAN%7E1%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image003.jpg) chỉ có Đơn Nghĩa là “Nước” chẳng hạn, tại vì KHẢM cũng như 7 Quẻ kia được xử dụng để diễn đạt biết bao nhiêu thứ trên cõi Trời, cõi Đất, cõi Người, Nếu chỉ có một nghĩa không thôi thì làm sao mà diễn đạt được tất cả các Luật tắc của Thiên Nhiên ?!

Ngoài ra, Tiên Thiên Bát Quái được tạo ra để diễn tả nhiều thứ. Mà một trong những điều quan trọng là diễn đạt sự Thăng Giáng của Âm Dương, Khi Âm ‘thăng’ thì Dương ‘giáng’. Khi Dương ‘thăng’ thì Âm ‘giáng’ thì làm sao mà TĨNH được

Thứ tư, trong bảng 7.3 và 7.4 (trang 149 và 150 cùng tác phẩm), diễn giả II cho rằng Trung Tâm của Bát Quái Tiên Thiên bị bỏ trống.

_ Không phải vậy! Trung tâm của Tiên Thiên Bát Quái là Thái Cực, Trong phần lớn các Tiên Thiên Bát Quái ĐỒ, người ta không ghi Thái Cực, nhưng không người nào hiểu Dịch mà không biết rằng giữa Tiên Thiên Bát Quái Đồ, có hình Thái Cực.

Thái Cực sinh Bát Quái.

Thái Cực luôn ở giữa TiênThiên Bát Quái để giữ cho Bát Quái được Quân Bình: Âm thăng thì Dương giáng. Nếu không có Thái Cực ở giữa thì mất hết ý nghĩa của sự Thăng Giáng của Âm Dương.

Và hơn nữa Dịch là Đạo ĐI VỀ tức Âm Dương (các quẻ Đơn) phải Trở Về với Thái Cực ở giữa

Cuối cùng, nếu theo Sách Vỡ trước kia, người ta cho Kinh Dịch là của người Tàu thì bây giờ chính người Tàu cũng không dám nhận nữa.Các tài liệu Khảo Cổ, Di Truyền học mới nhất chứng minh Văn Hóa Đông Á (trong đó có Kinh Dịch) là từ Phương Nam đi lên. Mà Trung Tâm là Hòa Bình nằm trên đất VIỆT.”.

Tóm lại, theo Vị Bạn Hữu của chúng tôi là một người rất Uyên Thâm về Dịch Lý, diễn giả II vì không nắm vững các vấn đề liên quan đến Dịch Lý nên có những phát biểu tỏ ra RẤT KỲ LẠ đối với những người Hiểu Rõ Dịch Lý!

m) Luôn tiện bàn về các vấn đề nêu trên, chúng tôi cũng xin đưa ra sau đây nhận xét về Cách Thức mà diễn giả II thường xuyên áp dụng để đặt vào miệng Cố Triết Gia những câu phát biểu KHÔNG phản ảnh một cách trung thực chủ trương của Ngài.

- Chẳng hạn, như vừa mới đề cập ở trên: “Song nếu nói như Kim Định hoặc “người Việt vào nước Tàu trước..... đơn giản là vì vào lúc đó (khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á) thì làm gì đã có “Việt Nam” với “Trung Quốc” hay “nước Tàu”?

Trong “Việt Lý Tố Nguyên “, Kim Định nói đến khoảng thời gian 10,000 năm chứ không phải “khoảng 7-8 vạn năm trước” như diễn giả II cố tình có thính giả học độc giả hiểu như vậy.

Hoặc

-“...kiểu như “Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt”. Thưa ông, Cố Triết Gia nói câu này KHI NÀO ?

Thật ra, về sách Dịch, theo Ngài, Dịch là của TÀU ở 2 giai đoạn sau ở đợt HÌNH tức tuy đã có chữ nghĩa, nhưng chỉ gọi là “Hệ Từ” nghĩa là ‘chữ buộc vào sau’ các Quẻ mà thôi

Còn Dịch là của VIỆT ở 3 giai đoạn trước tức ở đợt TƯỢNG.

Chứ Ngài KHÔNG bao giờ nói là Dịch hay các Kinh Điển khác là của RIÊNG người Việt cả !

Còn về chữ Nho, nguyên văn câu phát biểu của Cố Triết Gia như sau:

“Đó cũng là những Dấu Vết nói lên phần đóng góp của Việt Tộc. Sở dĩ ta coi chữ NHO là của Tàu vì đến đời Tần Thủy Hoàng thống nhất các chữ xưa kia lại một kiểu mới làchữ LỆ ngày nay, bãi bỏ chữ con Quăng và con Chim. Thế rồi lâu ngày ta quên gốc nên quy hết cho Tàu. Còn nếu xét toàn diện thì sẽ thấy rõ nguồn gốc VIỆT ở hai giai đoạn trước, Tàu chỉ ở giai đoạn ba.”(78)

Hoặc

- “Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học Trung Hoa là của người Việt....”...vvv...

Về Nho Học cũng vậy, vì trước Tần Hán, ngay ở thời Chiến Quốc, là giai đoạn chỉ còn lại Ngũ Bá: Tề Tấn, Sở, Ngô, Việt thì ba nước sau Sở, Ngô, Việt đều có gốc VIỆT, đó là lý do giải thích tại sao Cố Triết Gia gọi Nho trước thời Tần Hán là Việt Nho hay Vương Nho để phân biệt với Hán Nho tức Nho từ thời nhà Hán Tuy nhiên, Ngài luôn quan niệm NHO là của Chung của VIỆT và TÀU, chứ không phải như diễn giả II cố tình xuyên tạc với các lời phát biểu đại loại như “Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học Trung Hoa là của người Việt” mà diễn giả II có vẻ muốn gán cho Kim Định.

Thật ra, loại “Xảo Thuật” trên không phải mới mẻ gì đối với diễn giả II vì ông ta đã áp dụng TỪ LÂU, có lẽ ngay từ lúc đầu.

Ở đây cũng cần nhắc lại là nhờ chịu ảnh hưởng Tư Tưởng của Kim Định, nhất là nhờ xử dụng 2 khám phá của Cố Triết Gia là sự phân biệt 2 loại nguồn gốc Nông Nghiệp và Du Mục cùng với 2 loại Nho: Việt Nho và Hán Nho cộng thêm một số kiến thức Phong Tục học “kiểu Toan Ánh” của miền Nam VN trước đây mà diễn giả II mới viết được 2 cuốn sách. Một bằng chứng là những thân hữu theo dõi tình hình Văn Hóa VIỆT khi biết chúng tôi là môn sinh của Cố Triết Gia thường đặt câu hỏi về mối liên hệ giữa Kim Định và diễn giả II.

Sau đây là một thí dụ được trích dẫn từ cuốn sách mà diễn giả II đã xuất bản hơn 10 năm trước để xem cách thức ông ta áp dụng đối với người mà ông ta chịu ảnh hưởng về mặt Tư Tưởng. Ông ta viết:”Nho giáo có NGUỒN GỐC từ đâu ? Câu hỏi này xưa nay ít người đặt ra bời lẽ câu trả lời dường như đã quá hiển nhiên : Nho giáo là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa. Cá biệt cũng có người như linh mục kiêm triết gia Lương Kim Định đặt ra để rồi trả lời bằng thuyết “Việt Nho” mà theo đó thì “chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Việt khởi sáng, sau người tàu hoàn bị cũng như làm cho sa đọa thành ra Hán nho”.....Nói Nho giáo là của Trung Hoa thì quá chung chung và do vậy, không có sức giải thích, còn nói như Kim Định thì cực đoan và không có sức thuyết phục.”(79)

Vậy xin hỏi diễn giả II Kim Định Cực Đoan chỗ nào ? Không lẽ ông ta không thấy (hay giả vờ) không thấy là câu“chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Việt khởi sáng, sau người tàu hoàn bị cũng như làm cho sa đọa thành ra Hán nho”..... là có 2 ‘Vế’

‘Vế’ thứ nhất là : “chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Việt khởi sáng”

‘Vế’ thứ hai là:” sau người tàu hoàn bị cũng như làm cho sa đọa thành ra Hán nho”

Nghĩa là theo Cố Triết Gia, Nho Giáo là của CHUNG của Tàu và Việt:

- Việt khởi sáng Nho

- Tàu hoàn bị nhưng cũng làm sa đọa Nho

Câu tuyên bố của Cố Triết Gia Rất Quân Bình và Đúng Sự Thật, Chứ KHÔNG Cực Đoan chút nào cả ! Nhưng những câu phát biểu của diễn giả II (mà chúng tôi đã trích ở trên) cố tình cho thính giả hoặc độc giả cảm tưởng là Kim Định chủ trương Nho Giáo là của RIÊNG người Việt.

Tức là trong các phát biểu của ông ta về sau, ông ta làm như câu tuyên bố của Kim Định chỉ có

-‘Vế’ đầu: “Nho Giáo là của người Việt” , mà KHÔNG có kèm với

-Vế’ sau : Tàu hoàn bị nhưng cũng làm sa đọa Nho

Để có thể ‘cáo buộc’ Kim Định về cái gọi là tính Cực Đoan chăng ?!

Trong khi đó, cũng trong cùng một cuốn sách. dẫu rằng (đã trích dẫn ở trên), ông ta một mặt “chê” thuyết “Việt Nho” của Kim Định “không có sức thuyết phục”, nhưng mặt khác, ông ta lại xử dụng một cách rất ‘thoải mái’ khám phá của Kim Định về cặp phạm trù “Nông Nghiệp-Du Mục” để “giả vờ” làm như là người đầu tiên biết phân biệt “Nho Phương Nam” KHÁC với “Nho Phương Bắc” như thế nào , trong khi đó là điều mà Kim Định đã làm rồi với cặp phạm trù “Việt Nho” và “ Hán Nho”.

Cái “Xảo Thuật” của ông ta là nằm ở đó, Nhưng Không Che Mắt Được Ai Đâu !!!

Ngay về phương diện Dẫn Chứng, ông ta cũng không kiếm ra được các Thí Dụ mới, do đó phải “xài lại” thí dụ mà Kim Định đã dùng trong tác phẩm đầu tay của Ngài về Việt Nho là “Việt Lý Tố Nguyên” liên quan đến việc Tử Lộ hỏi Khổng Tử về quan niệm của Ngài về chữ DŨNG.

Đó là lý do là hễ có dịp, người ta thường đặt những câu hỏi tương tự câu hỏi sau đây:

-“Có ý kiến cho rằng Trần Ngọc Thêm lặp lại Kim Định ? "

Và sau đây là câu trả lời ĐIỂN HÌNH của ông ta:

“Mọi nhà khoa học đều phải “đứng trên vai của những người khổng lồ” (theo cách nói của Newton), tức là dựa vào những người đi trước. Để viết được Cơ Sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, chúng tôi đã phải tham khảo hơn 400 tài liệu. Kim Định là tác giả của 9 đầu sách trong số đó…..”.(80)

Nói như vậy sao được ! Những tác giả trong các lãnh vực như Phong Tục học có rất nhiều và nếu cần, ta có thể thay thế tác giả hoặc tác phẩm này bằng tác giả hoặc tác phẩm khác . Còn Kim Định như là Triết Gia chỉ có MỘT. Và điều mà ta có thể học hỏi ở Kim Định là Điều QUAN TRỌNG NHẤT. Và đó là ĐƯỜNG HƯỚNG Nhận Thức và Nghiên Cứu để có thể Tìm Về NGUỒN GỐC của Dân Tộc VIỆT nói riêng và của Nhân Loại nói chung.

Và hai cuốn sách của diễn giả II trên điểm Chính Yếu, cũng chỉ xử dụng cặp Phạm Trù NÔNG GHIỆP-DU MỤC cách chung và cặp VIỆT NHO-HÁN NHO cách riêng( khi áp dụng vào Nho Giáo) của Kim Định. Đến nỗi có nhiều người phát biểu như sau “ Khi đọc Trần Ngọc Thêm chúng ta có cảm tưởng đang đọc Kim Định cộng với Toan Ánh (ở đây xin đừng hiểu là cá nhân ‘Toan Ánh” mà là để chỉ bất cứ nhà nghiên cứu nào về Phong Tục học của Việt nam).

Thật ra xét cho cùng, câu tuyên bố trên KHÔNG làm giảm giá trị ông Trần Ngọc Thêm như là nhà Nghiên Cứu (trái lại là đàng khác) với điều kiện là ông ta phải có Thái Độ THẲNG THẮN, MINH BẠCH về phương diện này. Lý do là tính “SÒNG PHẲNG” là một trong những Đức Tính Quan Trọng Nhất của một người làm công việc Nghiên Cứu !

KẾT LUẬN II

Chúng tôi vẫn thường thắc mắc về Thái Độ của diễn giả II đối với Kim Định là người mà ông ta không những chịu ảnh hưởng về mặt Tư Tưởng, mà còn nhờ áp dụng Nội Dung và các Phạm Trù của Tư Tưởng đó, viết được hai cuốn sách. Ngoài ra, các điều trên có vẻ còn giúp ông ta rất nhiều trên con đường “Hoạn Lộ” ! Mà tại sao ông ta cứ ‘úp úp’, ‘mở mở’, không có thái độ rõ ràng, minh bạch, thẳng thắn để chân nhận ảnh hưởng đó. Mà chỉ công nhận kiểu NỬA VỜI, đưa ra những giải thích có tính cách ‘vòng vo’ không mấy thuyết phục! Chúng tôi tự hỏi: “Ông ta sợ gì?” Sợ “khen” Kim Định một cách thẳng thắn, minh bạch thì tự giảm giá trị mình hoặc đánh mất cá tính hoặc nét độc đáo của mình chăng ? Chúng tôi xin mạn phép đơn cử một thí dụ sau đây để chứng minh rằng điều ông ta sợ là Không Đúng !

Đó là trường hợp của Mạnh Tử . Chúng tôi nghĩ là khó có ai khi khen tặng Thầy mình vượt qua nổi Mạnh Tử với những lời sau đây giành cho Khổng Tử:

"Bá Di là thánh chi Thanh, để giữ tấm băng tâm thì xuất thế không chịu nhượng bộ. Y Doãn là thánh chi Nhiệm nhập thế, để hết toàn thâm tâm vào thời cuộc. Liễu Hạ-Huệ là thánh chi Hòa nhắm mắt cầu hòa với bất cứ giá nào. Cả bằng ấy ông đều có nét duy: duy thanh, duy nhiệm duy hòa. Khổng Tử tổng hợp lại cái hay của ba vị trên: Thanh Liêm của Bá Di, óc Trách Nhiệm của Y Doãn, óc Ôn Hòa của Liễu-Hạ-Huệ. Đó là những tiếng Nhạc lẻ loi được Tổng Hợp lại thành một Bản HÒA ÂM mà Khổng Tử là người đánh nhịp, tức được xưng là "Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư", mà tiếng Chuông Đồng dẫn đầu, còn tiếng Khánh Ngọc thì kết thúc. Tiếng chuông dẫn đầu là công việc của Bậc THÁNH. TRI đến"Trí Tri". THÀNH Sự đến chỗ "Cách Vật".(81)

Thật vậy, điều trên đâu có làm giảm giá trị của Mạnh Tử chút nào đâu vì đó là Sự Thật. Theo Cố Triết Gia Kim Định, nếu Khổng Tử đã đạt tới đợt Minh Triết thì những môn sinh của Ngài như Mạnh Tử , Tuân Tử...đã đạt được đợt Triết Lý. Tuy nhiên, theo thiển ý, không vì vậy mà Mạnh Tử đánh mất Vai Trò và nét Độc Đáo của riêng mình. Là vì nếu xét về nội tại, Triết Lý thấp hơn Minh Triết, “nhưng đối với quảng đại quần chúng thì nó có ích không kém Minh Triết vì giúp cho nhiều người hiểu được cái thâm thúy của Minh Triết”. (82)

Mà bằng chứng hỗ trợ cho lập luận của chúng tôi là hậu thế đã tôn Mạnh Tử thành bậc Á THÁNH, chỉ đứng sau Khổng Tử trong Vương Nho.

Phần phân tích ở trên không cản trở chúng tôi thấy được những Ưu Điểm nơi diễn giả II rằng ông ta là người đầu tiên trong nước sau 1975 (ít nhất cách chính thức) áp dụng các Phạm Trù của Tư Tưởng Kim Định vào Phong Tục học; nhờ vậy mà hai cuốn sách của ông ta tương đối có đường hướng hơn đa số các sách khác trong lãnh vực này. Ông ta cũng đã biết khẳng định rằng:

- “Lương Kim Định là người đầu tiên và cho đến nay là duy nhất viết nhiều sách nhấtvề văn hóa Việt Nam.....”

- “Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc”

- đề xuất những nhận định khái quát rất mạnh bạo, rất tiên phong.....Đó là nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa.”

- Kim Định…..đã khởi tạo ra được một phong trào nghiên cứu văn hóa Việt, tư tưởng Việt..., ông đã khơi gợi lên được lòng yêu nước, yêu dân tộc trong một phạm vi rộng lớn trí thức và lớp trẻ.....”…..vvv….

.Tuy nhiên, kèm theo đó là những XẢO THUẬT như:

- Trong “Việt Lý Tố Nguyên “ Kim Định nói đến khoảng thời gian 10,000 năm chứ không phải “khoảng 7-8 vạn năm trước” như diễn giả II cố tình cho thính giả hoặc độc giả hiểu như vậy. Hoặc

-Trong khi Kim Định luôn quan niệm NHO là của Chung của VIỆT và TÀU, thì diễn giả II với những câu tuyên bố có tính cách NỬA VỜI có vẻ cố tình cho thính giả hay độc giả hiểu KHÁC tức làm như Ngài chủ trương rằng Dịch hay các Kinh Điển khác hoặc chữ Nho là của RIÊNG người Việt ! Mà mục tiêu tối hậu có vẻ là để gán cho Kim Định cái gọi là tính “Cực Đoan” chăng! Hoặc

- Trích dẫn NỬA VỜI Kim Định trong “Việt Lý Tố Nguyên”nhằm mục đích gây hiểu lầm rằng Kim Định tỏ ý đồng tình với chủ trương của Trung Cộng hay Việt Cộng bằng cách chỉ ‘lượm lặt’ trong bài viết của Cố Triết Gia những chữ, những câu, những đoạn văn nào có lợi cho Trung Cộng và Việt Cộng, mà lãng bỏ những đoạn bất lợi. Hoặc

- Xem Kim Định như chỉ là một tác giả Tham Khảo bình thường trong khi các Khám Phá của Cố Triết Gia về hai cặp Phạm Trù NÔNG NGHIỆP-DU MỤC và VIỆT NHO-HÁN NHO đã được diễn giả II xử dụng như ĐƯỜNG HƯỚNG Dẫn Đạo trong việc Nghiên Cứu, Tìm Kiếm và Sắp Xếp dữ kiện và tài liệu đề hình thành 2 cuốn sách của ông ta…..vvv….

Tóm lại, đối với diễn giả II tức ông Trần Ngọc Thêm, chúng tôi có thể tóm tắt toàn bộ bài viết của chúng tôi bằng hai chữ ĐÁNG TIẾC. Đáng tiếc vì ông ta có thể có thái độ KHÁC hơn là thái độ hiện có của ông đối với Kim Định là người mà ảnh hưởng về mặt Tư Tưởng đã giúp ông rất nhiều trên bình diện Học Hỏi, Nghiên Cứu, Sáng Tác và ngay cả trên con đường “Hoạn Lộ” !

Đáng tiếc vì NẾU ông ta tỏ ra THẲNG THẮN, MINH BẠCH, THÀNH THẬT hơn trong việc Chân Nhận Giá Trị và Ảnh Hưởng của KIM ĐỊNH đối với cá nhân ông và đồng thời đóng góp một cách Tích Cực hơn trong việc Truyền Bá AN VI và VIỆT NHO trước tiên đến với các người VIỆT khác, sau đó đến với các Cộng Đồng không phải Việt, thì theo chúng tôi, ông ta còn có thể tiến xa hơn nữa trên con đường Học Hỏi.

Thiết nghĩ rằng như đã trình bày ở trên, tuy ông Trần Ngọc Thêm có những điểm Tích Cực đối với An Vi và Việt Nho nhưng vì nhiều lý do, ông ta KHÔNG làm tròn vai trò thực sự của mình, do đó đối với trường hợp ông Trần Ngọc Thêm, chúng tôi cảm thấyBUỒN NHIỀU HƠN VUI !

Một ý tưởng bất chợt đến trong đầu chúng tôi liên quan đến thắc mắc “Ông ta sợ gì? Và giả thuyết cuối cùng mà chúng tôi đưa ra ở đây là : “Hay ông sợ nhà cầm quyền CSVN không cho phép ông vượt qua giới hạn của việc “Tuyên Dương Kim Định” kiểu NỬA VỜI ???!!!”

Lê Việt Thường

CHÚ THÍCH

(1)HàVănThùy, “Bước Đầu Tìm Hiểu Sự Nghiệp Triết Gia Kim Định”“http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=3499&Itemid=76

(2)Trần Ngọc Thêm. “ Kim Định Với Việc Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam”

http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=3499&Itemid=76

(3) Hà Văn Thùy, Idem

(4) Idem

(5) Lê Việt Thường, “Con Đường Nào Cho Việt Nam Hôm Nay?”

http://www.tinparis.net/vn_index.html văn hóa/con đường nào cho việt nam hôm nay

(6) Hà Văn Thùy, Idem

(7) Lê Việt Thường, “Hằng Tính Của Dân Tộc Việt”

http://www.minhtrietviet.net/article/article3a.htm

(8) Hà Văn Thùy, Idem

(9) Lê Việt Thường, “Con Đường Nào Cho Việt Nam Hôm Nay?”,Idem

(10) Hà Văn Thùy, Idem

(11) Đông Lan, “Triết Lý An Vi Là Gì?”

http://www.minhtrietviet.net/article/article39.htm

(12) Hà Văn Thùy, Idem

(13) Kim Định, “Việt Triết Nhập Môn”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailbook&id=71&ib=121

(14) Kim Định, “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3075

(15) Hà Văn Thùy, Idem

(16) Kim Định, “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3081

(17) Hà Văn Thùy, Idem

(18) Lê Việt Thường, “Thái Độ Nghiêm Túc Khi Sử Dụng Dữ Kiện hay Lý Thuyết Khoa Học”

http://www.minhtrietviet.net/article/article71.htm

(19) Hà Văn Thùy, Idem

(20) Hà Văn Thùy, Idem

(21) Trần Ngọc Thêm, Idem

(22) Tạ Chí Đại Trường : “Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam?

http:// www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12188&rb=0302

(23) Đông Lan, “Tiểu Sử Cố Triết Gia Kim Định”

http://www.minhtrietviet.net/article/tieusu1.htm

(24) Vũ Khánh Thành,“Hành Trình Kim Định Và An Việt”

http://www.minhtrietviet.net/article/tieusu1.htm

(25) Trần Ngọc Thêm, Idem

(26) Tạ Chí Đại Trường, Idem

(27) Hà Văn Thùy, Idem

(28) Trần Ngọc Thêm, Idem

(29) Nguyễn Đình Chú, “Những Ngày Ấy”

http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song/cuoc-song-quanh-ta/4322-triet-gia-tran-duc-thao-nhung-ngay-ay.html

(30) Nguyễn Mạnh Tường, “Un Excommunié” (Kẻ Bị Rút Phép Thông Công)

http://www.minhtrietviet.net/

(31) Trần Ngọc Thêm, Idem

(32) Trần Ngọc Thêm, Idem

(33) Kim Định “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3074

(34) Kim Định “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3075

(35) Trần Ngọc Thêm, Idem

(36) Lê Việt Thường, “Những Sai Lầm Ngộ Nhận Về Cố Triết Gia Kim Định”

http://www.minhtrietviet.net/article/article40.htm

(37) Idem

(38) Lê Việt Thường, “Khi Nhà Sử Học Lạc Đường Vào Thế Giớ Văn Hóa”

http://www.minhtrietviet.net/index.htm

(39) Kim Định, “Việt Triết Nhập Môn”, Idem

(40) Lê Việt Thường, “Minh Triết Dẫn Đạo Chính Trị”

http://www.tinparis.net/vn_index.html văn hóa/minh triết dẫn đạo chính trị

(41) Kim Định, “Việt Triết Nhập Môn”, Idem

(42) Idem

(43) Lê Việt Thường, “Minh Triết Dẫn Đạo Chính Trị”. Idem

(44) Kim Định, “Việt Triết Nhập Môn”, Idem

(45) Kim Định “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=287&ict=3077

(46) Nguyễn Hiến Lê, “Kinh Dịch: Đạo Của Người Quân Tử”, NXB Văn Hóa,SG 1994, tr. 46

(47)Kim Định, “Loa Thành Đồ Thuyết”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailbook&id=71&ib=200

(48) Trần Ngọc Thêm, “Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”NXBTPHCM, 2001, tr.611

(49) Kim Định, “Hùng Việt Sử Ca”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=199&ict=185

(50) Lê Việt Thường, “Cần Cập Nhật Hóa Phương Pháp Và Nôi Dung Trong Lãnh Vực Suy Tư”

http://www.tinparis.net/vn_index.html văn hóa/cần cập nhật hóa phương pháp và nội dung trong lãnh vực suy tư

(51) Kim Định “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3074

(52) Trần Ngọc Thêm, Idem

(53) Idem

(54) Idem

(55) Trần Ngọc Thêm, “Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”Idem, tr.614-615

(56) Kim Định, “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=287&ict=3086

(57) Kim Định, “Vấn Đề Quốc Học” Nguồn Sáng, SG, VN, 1973

(58) Trần Ngọc Thêm. “ Kim Định Với Việc Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam”

http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=3499&Itemid=76

(59) Idem

(60) Idem

(61) Kim Định, “Việt Lý Tố Nguyên”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=301&ict=3302

(62) Trần Ngọc Thêm, Idem

(63) Kim Định, “Việt Lý Tố Nguyên”. Idem

(64) Idem

(65) Trần Ngọc Thêm, Idem

(66) Kim Định, “Hùng Việt Sử Ca”, Idem

(67) Idem

(68) Trần Ngọc Thêm, “Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”Idem, tr.64-65

(69) Chang K.C., “the Archaeology of Ancient China, New Haven, Conn,. 1968

(70) Lê Văn Ẩn, “Việt”

http://www.minhtrietviet.net/article6.pdf

(71) Idem

(72) Kim Định, “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3081

(73) Lê Việt Thường, “Hiện Tượng Ký Quái: ‘Tổ Quốc Ăn Năn”

http://www.minhtrietviet.net/article/article31.htm

(74) Trần Ngọc Thêm. “ Kim Định Với Việc Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam”, Idem

(75) Trần Ngọc Thêm, “Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”Idem, tr.151

(76) Idem, tr.609

(77) Idem. Tr.608

(78) Kim Định, “Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=287&ict=3081

(79) Trần Ngọc Thêm, “Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”Idem, tr.481

(80) Idem, tr.615

(81 )Kim Định, “Chữ Thời”

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=46&ict=2996

(82) Kim Định, “Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Đông Tây”,http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=145&ict=281

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay