Posted 4 Tháng 7, 2012 Mọi nôi khái niệm khi truy từ nguyên đều có thể về đến Trời, vì theo QT Tơi-Rỡi có: Trời=Trồi=NÔI, mà NÔI thì ra Nói là sẽ ra mọi khái niệm, tư duy của con người là do Trời phú cho, tục ngữ “Cha mẹ sinh con , trời sinh tính”, người xưa giải thích về sự hình thành vũ trụ là “Khí trong nhẹ nổi thành Thiên, khí trọc nặng lắng đọng nên Địa mà” (Câu trong “Ấu học quỳnh lâm” là văn học dân gian cổ xưa, đến thời Tùy thì được ghi chép lại: 氣之輕清上浮者為天,氣之重濁下凝者為地 Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi thiên, Khí chi trọng trọc hạ ninh giả vi địa). Blơi = Trời = Tròn = Trên = Trồi =Côi= Nổi = Nắng = Dàng = Dương 陽 = Thượng 上 = Thiên 天 = Viên 圓 = Then = Lên = Lời = Blơi. Từ đôi Trên Trời = = Côi Lời, từ ghép Cấp Côi = Cấp Trên. Ngắn nhất thì NÔI = Nước nên có từ đôi Nước Nôi là nhiều nước, NÔI = Nắng nên có từ đôi Nắng Nôi là nhiều nắng. Về từ mặt vựng mà nói thì cái lý Việt nó là như thế đấy. Đơn giản thì là vì con người tiền sử: dân nông nghiệp trồng trọt họ phải động tay động chân nhiều hơn, “Trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm, trông cho chân cứng, đá mềm, trời yên, biển lặng mới yên tấm lòng, Coi sóc hết thảy côn trùng, trên cây, dưới đất, mới mong được mùa” cho nên từ vựng của họ có phong phú hơn. Dân du mục khỏe re hơn, rong ruổi theo bầy cừu, thả hồn nghe gió thổi vi vu trên đồng cỏ, ít phải giao tiếp với người khác, cho nên họ cũng chẳng cần phải có nhiều từ, từ vựng của họ không thể nhiều hơn được. Sự khác nhau duy nhất trong ngữ pháp Tiếng Việt và ngữ pháp Tiếng Hán là ở cái qui tắc của ngữ pháp Tiếng Hán gọi là “định ngữ”. Ngôn ngữ phương Nam thì nói theo lối xuôi, ngôn ngữ phương Bắc thì nói theo lối ngược, do xuất xứ là khác nhau giữa dân Nam trồng trọt và dân Bắc du mục. Đơn giản là vì dân trồng trọt gắn với đất đai hơn , có cách nhìn gần, nên đối với một vật thì từ cái mắt thấy tay sờ rồi mới xác định tính chất của vật, cầm được cái Hoa rồi mới xác định cái màu của nó là Hồng, nên gọi xuôi là Hoa Hồng 花 紅. Dân du mục trên đồng cỏ mênh mông, có cách nhìn xa, thấy cái vật màu Hồng phía trước rồi còn phải phóng ngựa chạy cả cây số đến tận nơi mong săn bắt được cái gì, đến nơi mới ờ cái Hồng đó hóa ra là cái Hoa, nên gọi ngược là Hồng Hoa 紅 花 (Tiếng Hán phát âm là “húng hoa”). Tư duy ấy là từ chi tiết rồi mới đến tổng thể ( như logic loài người từ lang thang rồi mới đến định cư, giống như xu hướng “đô thị hóa” đang diễn ra ngày nay trên toàn thế giới. Nhờ Tiếng Việt lướt mới có “Đông Hộ” = Đô, “Đông To” = Họ). Tư duy Việt lại nhìn tổng thể rồi mới ra chi tiết, nói xuôi, có Hoa rồi mới có màu của nó là Hồng, gọi xuôi là Hoa Hồng, có Họ rồi mới có Tên , tức có Tổ rồi mới có Tên, nên viết là họ trước tên sau (như họ và tên là Hò Văn Tèn). Thời cổ đại khi dân du mục chiếm được vùng Hoàng Hà của dân trồng trọt (như truyền thuyết “Hoàng Đế thắng Xuy Vưu” trong vụ chiến tranh “Trác Lộc quần hùng”) thì tộc du mục thống trị làm quan, nhưng văn hóa của tộc quan quá thấp nên quan phải theo ngôn ngữ văn hóa cao hơn của số đông là dân, mà bỏ dần đến mất gốc tiếng mẹ đẻ của quan, tức nói và ngữ pháp hoàn toàn theo Việt. Họ và Tên cũng đổi lại theo Việt là Họ trước Tên sau (như Hò Văn Tèn) chứ không như ngữ pháp Bắc là tên trước họ sau. Chỉ còn giữ lại cái quán tính của tên trước họ sau là khi gọi một cá nhân thì người Hán gọi bằng Họ, trong khi người Việt khi gọi một cá nhân thì gọi bằng Tên. Nhưng quan là thống trị nên giành phần lãnh đạo cả về văn hóa, cố đưa cái ngữ pháp ngược của ngôn ngữ “quan” áp đặt dần dần (bằng chế độ thi cử), vì vậy mà ở “cổ Hán ngữ” càng về sau dấu vết của lối nói xuôi của ngữ pháp Việt càng mất dần đi trong văn viết (bởi thầy chấm điểm là người quan tộc), nhưng ngữ pháp Việt vẫn còn đậm trong khẩu ngữ ở các địa phương. Khi tra mạng TQ mục “bách tính tộc phổ” tôi đã dẫn trường hợp ở mạng trên nói về họ Đinh, rằng có một nguồn họ Đinh, cũng mang họ Đinh mà gen không phải là bản địa, đó là do thời cổ đại, tộc du mục Trung Á có lối tên trước họ sau, mà đuôi kết của Họ là “- Stan” ( như kiểu tên các nước Kirgistan, Ydơbekistan). Vào Trung Nguyên được thư lại (thư lại là công chức cấp thấp, toàn là người Việt) dùng chữ nho thế âm tiếng đa âm của họ, “stan” tá bằng chữ Đinh. Khi người của lý trưởng cử đi “kiểm tra hộ khẩu” hỏi Đinh này là Tên hay là Họ ? Thưa là Họ. Vậy thì Họ phải viết vào đằng trước cho giống toàn dân đi. Vậy là từ đó người ta mang họ là “Đinh” (thực ra là “…Stan”). Nhiều đời sau cộng đồng đó cũng không còn giữ ngôn ngữ mẹ đẻ của họ nữa, trở thành người họ Đinh thực sự. (Đinh thật thì là một họ của người Việt bản địa, “Đẻ ra người Kinh” = Đinh, Đinh còn có nghĩa là nhân khẩu, “Đàn ông Kinh” = Đinh, “Đàn bà Kinh” = Đinh). Bà Từ Hy (người Mãn Thanh, tộc Nữ Chân) nếu viết tên thật của bà ta thì là một cái tên họ đa âm tiết, là “Ye-He-Na-La-Xing-Zhen”. Mãn Thanh thống trị Trung Hoa mấy trăm năm, cuối cùng người Mãn Thanh nay chỉ còn có 200 người là còn nói được tiếng Mãn (theo Dương Danh Dy). Chữ viết của người Mãn có từ năm 1561, giống chữ Mông Cổ. Dùng các QT Lướt, QT Nở, QT Tơi-Rỡi đã nêu sẽ thấy rõ bất cứ từ nào đang dùng trong tiếng Việt hiện đại, truy từ nguyên đến cùng thì vẫn là gốc Việt. Còn muốn tìm từ nguyên của Hán ngữ hiện đại thì phải truy về “cổ Hán ngữ” mà từ nguyên của “cổ Hán ngữ” thì lại là Tiếng Việt. Ví dụ từ Cao thì trong các phương ngữ TQ cũng như trong Hán ngữ hiện đại đều phát âm là “cao” và có nghĩa là cao. Nhưng từ nguyên của Cao là nằm trong Tiếng Việt ở từ Côi, do chỉ có Trời là cao nhất, mà Trời = Trồi = Côi = Cao 高. Côi Lời nghĩa là Trên Trời, cấp Côi nghĩa là cấp Cao. Từ Thấp thì Hán ngữ dùng là từ Đê 低, nhưng từ Đê 低 này có từ nguyên là từ Đất của Tiếng Việt, quan niệm con người là đứng giữa, cao nhất là Trời thì thấp nhất là Đất, QT Tơi-Rỡi chỉ rõ Đất = Địa = Đê (Hán ngữ dùng chữ Đê 低, phát âm là “ti”). Chữ Địa 地 có viết bằng chữ nho, nên những người không ngộ ra cái hồn Việt của nó thì cho rằng nó là “từ Hán-Việt”, như "Từ Điển Yếu Tố Hán Việt Thông Dụng" của Viện Ngôn Ngữ Học NXB KHXH HN 1991, Hoàng Văn Hành giải thích một cách khẳng định: “Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của Tiếng Việt” (!). Từ Dân cũng được Từ Điển trên giải thích như vậy “Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn…”. Nhưng tôi theo QT Tơi-Rỡi đã dẫn ra rằng: Mọi = Man = Mằn (tiếng Quảng Đông)= Dằn (tiếng Quảng Đông)= Mân = Cần (tiếng Tày)= Dân = Nhân = “Rấn” (tiếng Hán-“ren”). Những từ đôi như Mọi Người, Nhân Dân đều có nghĩa là nhiều người. Từ nguyên cốt lõi nhất của “Người” là con số “1”, là một sự khẳng định làm “Người” (khác với con số “0” là 0 = Mô = Vô là chưa xuất hiện; từ Vô theo QT Nở sinh ra từ dính là Vớ-Vẩn, cứ chịu dính mãi như vậy từ thời cổ đại đến bây giờ, là từ mang khái niệm Lấp-Lửng). Người là số 1, đó là từ 1 = Muôi (tiếng Khơme)= Người = Ngài = Ngôi = Mỗi 每 = Mọi = Mùi 位 = Vui = Vị 位( Hán ngữ mượn dùng chữ Vị 位, phát âm là “vây”) = Vị = Hi-Tô (tiếng Nhật). Người xưa ví một con người như là một cái cây (dụng nhân như dụng mộc) nên cũng lấy chữ Mọc 木 để tá con người, ví như mặt trời mọc (Việt = Vóc = Mọc = Mắt = Mặt, dân Việt là dân Mặt Trời). “Thuyết Văn Giải Tự” cũng giải thích chữ Mộc 木 nghĩa là chui từ đất lên, tức là Mọc (tục ngữ “Người Ta là hoa của đất”). Chữ Mọc木 cũng đọc là Một Cây, chữ này tiếng Nhật có ngữ cảnh đọc là Ki 木 nghĩa theo Nhật ngữ là Cây, có ngữ cảnh đọc là Mô-Cư, (tức là Một Cây), Mô-Cư tiếng Mỹ đọc là Ô-KÊ, người Sài Gòn vẫn nói “Một Cây” nghĩa là hạng nhất. Vậy tại sao trong Tiếng Hán chỉ có một từ Địa, còn trong Tiếng Việt có hai từ Đất và Địa, dùng cho những ngữ cảnh khác nhau. Đó là bởi vì từ nguyên của Địa là Đất. QT Tơi-Rỡi chỉ rõ Đất = Thật = Thổ nên mới có câu thành ngữ “hiền như đất, thật như ruộng”. Đất là chỉ cái ở thấp nhất, so với Trời là chỉ cái ở cao nhất. Đất = Thật = Thấp = Thổ 土, Đất = Đáy = Địa地 = Đê 低 = Để 底. Về từ thì Tiếng Việt đã sinh ra Đất, sao còn sinh ra Địa ? Bởi vì người Việt dùng Địa cho những ngữ cảnh khác, người Việt đi tìm Đất là để làm ruộng, nhưng tìm Địa là để làm nhà vì nó quan trọng hơn, phải kén chọn “đất để làm nhà kia ạ ! “ và đã lướt cả câu “Đất để làm nhà Kia Ạ” = Địa. Cái cách nói đặt từ Ạ = Dạ = Dã 也 = Là = =Mà = Cà = Kia = Cơ = Có = Co (tiếng Quảng Đông)= Đó = Đấy = Đês (tiếng Nhật )= Đích 的 = “Đơ 的” (tiếng Hán, phát âm là “tơ”) ở cuối câu là thông dụng trong Tiếng Việt từ cổ đại đến nay, mà ở “cổ Hán ngữ” còn thấy trong các câu giải thích trong “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận (2000 năm trước), câu nào cũng có chữ Dã 也 ở cuối câu. (Hán ngữ hiện đại chỉ dùng có một từ “Đích 的” phát âm là “tơ”, còn từ “Dã 也” phát âm là “dể” rất ít dùng và chỉ dùng trong văn viết, không dùng trong khẩu ngữ). Người Việt ngày nay vẫn nói như vậy. Ví dụ câu thán “Trái ớt này cay cay Là !” và câu phụ họa “Thì nó đúng Là giống ớt cay Mà !”. Từ Đất trong nôi khái niệm rộng hơn của nó còn có Đấ = Đìa = Địa = =Đai = Đầm chỉ các loại đất có thể canh tác được; từ đôi Đất Đai là nhiều loại đất; Đìa là đất trũng nước, diện tích nhỏ; Đầm = Đàm 潭 là đất trũng nước, diện tích lớn hơn, Đìa và Đầm là đất canh tác trồng loài thủy sinh như sen, súng, bèo, rau muống kết hợp nuôi cua cá thả tự nhiên. Đầm Đìa là một từ đôi, nghĩa là nhiều nước ,được nâng ý lên thành từ văn học, như câu “nước mắt đầm đìa”, Đìa// Địa là một từ đôi đối , một bên là còn có nước, một bên là khô. Những kẻ phủ nhận Văn hiến Lạc Việt 5000 năm thì mặc nhiên coi chữ Địa là “từ Hán Việt”. Dùng các QT đã nêu sẽ thấy rõ bất cứ từ nào đang dùng trong tiếng Việt hiện đại, truy từ nguyên đến cùng thì vẫn là gốc Việt. Còn muốn tìm từ nguyên của Hán ngữ hiện đại thì phải truy về “cổ Hán ngữ”, mà từ nguyên của “cổ Hán ngữ” thì lại là Tiếng Việt. Share this post Link to post Share on other sites