Posted 29 Tháng 6, 2012 Lĩnh Nam xưa là đất của người Việt. Ngôn ngữ Việt là chủ đạo ở nam Dương Tử. Nó may mắn còn lại nguyên bản là ở Tiếng Việt của Việt Nam ngày nay. Nó còn trong các cộng đồng ngôn ngữ ở Lĩnh Nam ngày nay như Tiếng Quảng Châu (hệ Quảng Phủ), Tiếng Triều Châu (hệ Mân Ngữ) v.v. Triều Châu là một huyện ven biển bắc Quảng Đông, giáp Phúc Kiến. So sánh các từ tầng đáy của Tiếng Việt với Tiếng Triều Châu( Tr.C) và Tiếng Quảng Châu( Q.C), ví dụ: 3 = Ba =Sa(Tr.C)= Sam (Q.C)= Tam (Hải Nam). Múa = Vúa(Tr.C) = Vũ = Múa Vũ. Mắt = Mắt (Tr.C)= Mục. Krông = Khoỏng = =Dòng = Giang = Kang (Tr.C) = Kênh = Kenh (Tr. C)= Kinh. Vua = Chúa = Chủ = Chiêu (Tr. C)= Triệu. Trời = Trồi = Trội = Côi = Chôi (Tr.C). Lúa = Ló = Lo (Tr.C)= Lạc. Hố = Ho (Tr .C) = Hồ = Hà. Cả = Gia = Giả = Cha = Chiéa (Tr. C)= Tía =Tia (Hoa). Mọi = Man = Mằn(Q.C) = Mân = Dân = Dín (Tr.C) = Dằn (Q.C) = Nhân. In = Ín(Tr.C) = Ấn = Nhấn = Dận = Dằn. Núi = Non = Ngọn = Ngàn = San (Hoa)= Sơn = Soa (Tr.C) = Tòa. Yêu = Yêu (Tr.C)= Ái = Ái (Tr.C).Nghĩa = Nghĩa (Tr.C). Tim = Tim (Tr.C) = Tim (Choang). Chùa = Chùa (Tr.C). Kém = Kém (Tr.C). Buồn = Buồn (Q.C).v.v. Thời cổ đại của văn minh lúa nước, người Việt lấy vỏ loài nhuyễn thể sống ở Bãi Bùn Bồi gọi là vỏ Bối 貝 để làm tiền trao đổi gọi là đồng Bạc (giống như ở Thái Lan gọi là đồng Bạt), vì màu nó trắng, về sau trao đổi làm bằng Bạc kim loại vì màu nó cũng trắng như Bối , khi ấy người Việt không dùng vỏ Bối để trao đổi nữa mà dùng nó để nung Vôi . Bối = Bạc = Báu = Bảo 寶 nên mới có từ đôi Bảo Bối 寶 貝 và coi cái Báu nhất trong căn nhà sàn là cái Bếp ở giữa sàn nhà. Bếp làm bằng ba cục đất sét nặn được coi là cái thân thuộc nhất với gia đình nên gọi ba cục đó là cái Ruột Báu, lướt “Ruột Báu” = Rau, nên gọi là ba ông Đầu Rau. Vỏ trấu của hạt thóc dùng để đun giữ lửa cho Bếp đỏ suốt ngày đêm, gọi là vỏ Bổi. Thịt ưa ăn nhất là thịt Rùa, để còn lấy mu Rùa dành để khắc chữ. Con Rùa động tác nó chậm chạp nên động tác ấy cũng thành tên gọi nó: Rùa = Rù-Rà = Rù-Rì = Qui 龜 = Qúi 貴 . Bởi vậy từ cái Bếp Việt mà sau bữa nhậu hàng ngày còn thu nhặt lại được hai cái giá trị từ hai con Qui 龜 Bối 貝là hai cái Qúi 貴 Báu 寶 là Mu Rùa để viết chữ và vỏ Bối để làm đồng Bạc trao đổi (giống như ở Thái Lan gọi là đồng Bạt). Vì Rùa đối với người Việt là quí báu như vậy nên người Viêt yêu thương nhất nó “Thương thay thân phận con Rùa, ở đền đội hạc lên chùa đội bia”, tôn Rùa là thần Kim Qui . Người Việt coi vỏ các loài nhuyễn thể là cái nhà của chúng: Rùa = Rù-Rà = Rù-Rì = Rù-Rù = Mu (rùa) = Mai (cua) = =Mái(nhà)= Đội Mái = Đồi Mồi, Ốc = Ốc 屋 (Tiếng Quảng Châu, trong từ địa ốc, gọi cái nhà là cái Ốc 屋), Cua = Cáy =Cư 居 = Kua (Tiếng Triều Châu trong từ cư xá, gọi cái cư xá là Kua 居)= Khua = Khía (ba khía, một loài cua ở Nam Bộ thường làm mắm). Ốc = Lốc Nha Lốc Nhốc = “Lấy vỏ ốc làm Nhà” = Loa 螺 (Hán ngữ dùng chữ Loa , phát âm là “lúa”, chỉ con Ốc). Cư Ốc = Cổ Loa, vậy thời cổ đại , khắp nam Dương Tử, nơi người Việt sinh sống, đều có nhiều Cổ Loa, chẳng riêng gì ở vùng ven Hà Nội. Dựa thanh điệu cũng giúp tìm từ nguyên. Xét về 6 thanh điệu của tiếng Việt, tôi chia ra hai Nhóm: -Nhóm 0 = Âm, gồm: “Không” – “Nặng” – “Ngã”, định hướng ý cho Trong, cũng gọi là “tư duy tĩnh tại” -Nhóm 1 = Dương, gồm : “Huyền” – “Sắc” – “Hỏi” – , định hướng ý cho Ngoài, cũng gọi là “tư duy hành động” Ngã-Nặng-Không // Huyền-Sắc-Hỏi. Chia thành hai Nhóm như vầy, cái dấu hai xẹt // ở giữa như là cái mặt gương chia ra thế giới Trong và thế giới Ngoài. Càng vào Trong càng nặng và càng sâu thăm thẳm đến chưa biết gì là “ngã”, Ngã là Ta, nhưng khi nói “Ngã” tức Ta, nghĩa là Ta còn chưa hiểu được Ta là ai ?; càng ra Ngoài càng rộng mênh mông, càng nghiên cứu rộng thì càng sắc, nhưng rồi vẫn đến “hỏi” là chưa biết gì, vì vậy nghiên cứu vũ trụ vẫn còn là chưa biết gì nên vẫn sẽ đến cuối cùng là Hỏi? Theo ranh giới như cái mặt gương là dấu hai xẹt // này, ta như đi nghiên cứu theo hai chiều hướng là Quá Khứ (vào Trong) và Tương Lai (ra Ngoài), hai chiều hướng này hỗ trợ cho nhau: Trong có Loi kỹ thì Ngoài mới Lòi, Trong càng Lọi tốt thì Ngoài càng Lói, Trong đã đến được tận Lõi thì Ngoài nhất định là Lỏi tức đỉnh cao hàng đầu chứ không thể cào bằng “xấu đều hơn tốt lỏi” được. [ Chiều Hướng là một từ đôi của Việt. Chiều có từ nguyên là Góc (thường ký hiệu bằng mũi tên hoặc vạch thẳng khi độ góc bằng không), Góc=Gác=Giác角 = Gạc = Chạc = =Chiều = Triều 朝 = Siêu = Sang = Hạng = Hướng 向. Sừng nai làm thành nhiều góc nên còn gọi là Gạc Nai, cành cây làm thành góc nên gọi là Chạc Cây, rẽ Sang trái nghĩa là rẽ Hướng trái. Siêu = Sính = Khuynh, Sính ngoại là Hướng ngoại, từ đôi Chiều Hướng cũng như từ đôi Khuynh Hướng]. Ta có ví dụ: Lõi-Lọi-Loi // Lòi-Lói-Lỏi. Lõi là Trong tận cùng rồi, nên Lõi=Lý ( “Lõi tận cùng Ý” = Lý), muốn tìm được cái Lý đúng, thì phải tìm sâu đến tận cùng. Muốn vậy phải Lọi tức tìm sâu vào bên Trong, mới gọi là Lục Lọi (kiếm bên Ngoài chỉ gọi là Tìm Tòi). Mà muốn Lọi được thì tư duy của cái người đi Lọi đó phải là tư duy Loi, tức là tư duy độc lập, là lẻ loi, thì mới làm được [ Đây chính là cái đi của sư phụ THIÊN SỨ để tìm ra được cái Lý đúng, là thuyết Âm Dương Ngũ Hành đúng nguyên bản Lạc Việt, thể hiện ở dựng lên được Hậu Thiên Lạc Việt Phối Hà Đồ ]. Tư duy tìm tòi bên Ngoài thì nó là Lòi, càng lòi rộng ra thì nó càng Lói tức chói sáng, biết rộng tức biết nhiều thứ gọi là “Biết Các” = Bác, là bác học. Khi đã từ một cái Lý đúng để đi nghiên cứu ứng dụng rộng rãi cho mọi vấn đề của tương lai thì nhất định sẽ đạt đến Lỏi là hàng đầu đỉnh cao [ Đây chính là cái đi của TT LHĐP hiện nay trong nghiên cứu rộng nhiều vấn đề từ Thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Văn hiến Lạc Việt 5000 năm lịch sử]. Dấu hai xẹt // như là ranh giới giữa “tư duy tĩnh tại” (Trong) và “tư duy hành động” (Ngoài), hay như giữa Ảo và Thật. Từ đôi đối có dấu hai xẹt giữa như nói một thể gồm hai nửa đối nhau là Âm/Dương nhưng cân bằng nhau. Ví dụ Linh//Hồn là từ đôi đối, đôi về ý nghĩa vì Linh = Hồn, đối về Nhóm thanh điệu, gốc nguyên thủy của nó phải là Hôn//Hồn, Hôn là nửa Trong, thế giới đen (tĩnh lặng, thế giới ảo, như từ đôi Hôn Mê, vẫn là thể sống nhưng tĩnh lặng), Hồn là nửa Ngoài (sống động, thế giới thật, như câu gọi “hú hồn hú vía ở đâu thì về”, là thể sống động đang lang thang, người ta nói “thả hồn”, “gọi hồn” chứ không nói thả hôn hay thả linh, gọi linh). Nguyên thủy thì có nhiều từ đôi đối đồng nghĩa nhau nói về cái hồn người ở cả hai thế giới ảo và thật là Hôn//Hồn , Linh//Lình, Thinh//Thình, Thiêng//Thiềng, Thân//Thần, nó thể hiện rất rõ tư duy Trong và Ngoài. Nhiều tiếng trong những từ đôi đối đó dần dần ít được dùng, có thể mất đi hoặc chỉ thấy nó trong những từ ghép khác, người ta không để ý để tìm lại qui luật gốc của nó. Ví dụ Linh//Lình = Thinh//Thình là hoàn toàn đồng nghĩa nhau (dấu = ở đây là hoàn toàn bằng nhau về nghĩa chứ không đơn giản là biểu thị cùng nôi khái niệm). Nhưng chúng cũng đúng theo QT Tơi-Rỡi là Linh=Lình=Thinh=Thình=Thiêng=Thiềng=Thân=Thần đều là cùng một cái nôi khái niệm là “trạng thái tâm thần”. Linh là ở bên Trong, tĩnh, nhưng nó vẫn lang thang được, chỉ trong thế giới ảo, Linh=Lặng=Lăn=Lặn. Bàn thờ người chết nếu chưa có ảnh, người ta viết hai chữ Linh Vị có nghĩa là Hồn Người, nhưng Linh Vị là cái hồn người đã sang thế giới Âm, chứ không phải là còn ở thế giới Dương của người đang sống để được gọi là Hồn Người. Chữ Vị nghĩa là Người, thưa các Ngài hay thưa các Vị thì cũng đồng nghĩa nhau, chẳng qua là thích chữ thì người ta dùng quen là thưa quí vị. Lình là ở bên Ngoài, sống, người ta ít dùng nên quên dần, nhưng vẫn tìm thấy nó ở trạng thái Thình Lình và thường được dùng trong cụm từ “bất thình lình”. Lình là cái tư duy hành động nên nó còn dẫn ra Lình=Lính=Lỉnh=Lánh=Đánh=Đấu, Lính là ra chiến trường, Binh là nghĩa vụ, do lướt “Bắt đi Lính” = Binh, từ đôi đối Binh//Lính thể hiện rõ Trong/Ngoài, khi là từ đôi Binh Lính tức nhiều lính, cũng hàm cái ý có lúc là luyện tập (bài Binh bố trận) có lúc là Lính đánh ngoài chiến trường (“luyện Binh ba năm, đấu Lính một giờ”). [ Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 do Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý và bổ sung, in lần thứ hai, giả thích (trang 63) cụm từ “bất thình lình” là: ”chợt, bỗng, không ngờ”, và đưa câu ví dụ là: “Dân quân bất thình lình tấn công quân địch”. Nhận xét: (1) Giải thích như vậy cho thấy là làm từ điển mà chưa được công phu cho lắm, dù đã chỉnh lý bổ sung in lần thứ hai. Vì chưa giải thích cho đến từ nguyên, để học sinh từ cấp một có thể thấy gốc gác hồn Việt trong mỗi từ. Còn giả dụ nếu giải thích thêm từ “bất” trong cụm từ “bất thình lình” chắc họ sẽ giải thích rằng từ “bất” là một “từ Hán Việt”. Vậy hãy lấy “tư duy là do Trời phú” ra mà giải thích để thấy từ nguyên của Hán ngữ hiện đại là trong “cổ Hán ngữ”, từ nguyên của “cổ Hán ngữ” lại là trong Tiếng Việt : Trời=Trồi=NÔI, Nôi theo QT Nở chia đôi ra Nỏ=0 và Nói=1, Nỏ=0 vẫn dùng trong khẩu ngữ Việt ở miền trung, theo QT Tơi-Rỡi thì Nỏ=Bỏ, Bỏ là khẳng định “không”, Nỏ=Bỏ=Bố (Bố là tiếng Tày dùng, “bố chắc” là “không biết”), Nỏ=Bỏ=Bố=Bộ (Bộ là tiếng Nam Bộ dùng thường xuyên trong khẩu ngữ, “chớ bộ ?” nghĩa là “chứ không à ?”, “chớ bộ” nho viết là chữ “chi bất 之 不), Nỏ = Bỏ = Bố = Bộ = Bất = Thất 失 = Mất = Mô = Vô 無 = Vù. Sách “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận 2000 năm trước giải thích chữ Bất là một chữ tượng hình (có từ giáp cốt văn, tức của người Việt viết trên mu rùa)) ý nghĩa là “con chim bay liệng trên trời không hạ xuống nữa”: “điểu phi thượng tường bất hạ lai dã 鳥 飛 上 翔 不 下 來 也” (tức là nó Vù mất tiêu luôn rồi không quay về nữa). Vù = Phủ ( phủ định), Phủ = Pu, Pu là Hán ngữ hiện đại dùng, viết bằng chữ Bất 不. Hứa Thận hướng dẫn đọc chữ Bất 不 bằng cách “thiết” tức lướt hai chữ Phương Cửu 方 久, nếu theo âm của Hán ngữ hiện đại mà lướt thì là lướt “Fang Chỉu” = Phỉu, thì được một cái âm “Phỉu” không hề có trong Hán ngữ hiện đại, cũng không có ở ngôn ngữ nào. Nếu đọc lướt theo âm cổ của Tiếng Việt hay Triều Châu thì là lướt “Vuông Lâu” = Vầu, Già =Dai = Dãn = Dão = Lão = Lâu = “Cẩu” (Quảng Đông)= Cửu, Vầu với Vù thì như nhau, kiểu trái Bầu cũng là trái Bù (phát âm Trung Bộ), đúng là bay Vù mất rồi như nghĩa mà Hứa Thận giải thích. Hoặc lướt theo tiếng Quảng Châu hai chữ 方 久 là lướt “Mảnh Cẩu” = Mẩu thì đúng với âm Tiếng Quảng Phủ, “Mẩu” nghĩa là “không”, như Mô của Tiếng Việt. Từ “Mẩu” này của Tiếng Quảng Phủ thì Hán ngữ hiện đại phải phiên thành hai tiếng là “Mấy Dẩu”( mei you) nghĩa là “không có”. Toàn bộ cuốn Thuyết Văn Giải Tự cứ phải đọc lướt như Tiếng Việt hay Tiếng Quảng Phủ đọc thì mới lướt ra đúng, còn đọc theo âm Hán thì trật hết. Chứng tỏ thời Hứa Thận cách nay 2000 năm vùng Hoàng Hà (Trung Nguyên) vẫn còn là nói tiếng Việt, ngôn ngữ của Lĩnh Nam chiếm ưu thế. (2) Câu ví dụ mà từ điển nêu “Dân quân bất thình lình tấn công quân địch” cũng cho thấy là mấy cha nội làm Từ Điển (đề tài nhà nước cấp) mà vẫn bị ảnh hưởng tư duy chính trị thời sự, nên cũng giống các nhà viết sử. Đưa vào từ điển câu ví dụ thì phải chọn là câu có tính văn học, để nó còn lưu cả ngàn năm như câu Kiều của Nguyễn Du hay câu ca từ của Trịnh Công Sơn. Câu chính trị thời sự, thì như Phidel Castro trong cuốn hồi ký “Đời tôi” nói với ký giả người Pháp: “Một trăm năm sau thế hệ trẻ có làm khảo cổ sẽ nói thế hệ chúng ta là một nhân loại ngu xuẩn”. ] Thinh//Thình thì Thinh là tư duy hướng Trong, ít dùng nên mờ dần trong ngôn ngữ , giống như từ Đanh Long ít được dùng hơn từ Đành Lòng, Long hầu như bị quên hẳn, Đanh còn trong ý nghĩa lặng lẽ “như chùa bà Đanh” hay “ý chí Đanh thép” không đổi trong tâm. Thinh còn trong ý “tư duy tĩnh tại” như Lặng Thinh, Nín Thinh, Im Thin Thít, Thình còn trong “tư duy hành động” là hoạt động phản xạ rất nhanh Thình Lình. Thân//Thần thì tác động ra Ngoài là cái Thần thường được sử dụng nhiều. Thân chỉ còn ẩn bên Trong, như ở từ Thân Thuộc, hoặc lang thang trong tư duy cho đến già, Thân = Dẫn = Dãn = Diên = Già. Thiêng//Thiềng thì Thiêng dùng nhiều trong đơn tiếng hay ghép từ đôi Thiêng Liêng = Thinh Linh, Thiềng bị mờ trong ngôn ngữ, do nó bị phát âm là Thiền, Thiềng = Thiền, Thiền là một trạng thái tâm linh “tư duy hành động”, đang chuyển cái tư duy vào trong tâm cho đến tận cùng là trạng thái trống rỗng, tức mênh mông vô tận, lúc đó sẽ đạt trạng thái Thiêng. Share this post Link to post Share on other sites