Lãn Miên

Già Kén Kẹn Hom

1 bài viết trong chủ đề này

Già kén kẹn hom

Khi tìm những từ cùng Nôi khái niệm ta phải xét nôi lớn hay nôi nhỏ, để thấy mẫu số chung của những từ đó, thuộc nôi khái niệm lớn hay nhỏ. Ví dụ: (1) Mẫu số chung các đồ để chứa đựng , dù là đựng cái hữu hình (vật) hay đựng cái vô hình (tư duy), thì chúng đều chung một nôi khái niệm là cái Ruột:

Ruột = Rà = Rổ = Rá = Rọ = Lọ = Ly = Lò = Vò = Vỏ = Đó = Đanh = Đành = Đựng = Đồ = Hồ = Ổ = Tổ = Tô =

= Tâm = Tấm = Ấm = Am = Cạm = Cam = Cám = Cốc = Cóng = Lòng = Long = Võng = Lọng = Lồng =

= Trống = Rỗng = Ruột. (2) Mẫu số chung của những từ cùng Nôi khái niệm Mắt là: cùng một vị trí chung là tại cái đầu của cơ thể. Mắt = Mi = Mày = Mống = Màng = Mặt = Mũi = Mồm = Miệng = Môi. Hầu hết các tộc Nam Á phát âm tiếng “mắt” na ná nhau, ví dụ rút gọn: Mắt (Việt) = Mata (Mã Lai) = Mati (Hy Lạp). Người ta nói tiếng Hy Lạp phát âm na ná tiếng “mắt” là Mati chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, chứ ngôn ngữ Hy Lap không gần gũi ngôn ngữ Việt Nam, đúng. Cũng như tiếng Anh phát âm “cắt” (chữ Cut) ngẫu nhiên đồng nghĩa từ Cắt của tiếng Việt. Nhưng Nôi khái niệm Cắt của tiếng Việt là Cắt = Ngắt = Vặt = Xắt = Chặt = Chém = Trém = Trảm 斩(zhan) = Trảy = “Trai” 摘(zhai) = Hái = Thái - “Xải ”采(cai)= Tài- “Xái” 裁(cai), có nhiều sắc thái chi ly khác nhau. Nhưng truyện cổ tích Hy Lạp cũng có một chuyện giống VN là Dương sinh ra Âm: Thượng đế “bẻ” một xương sườn của Adam (như một kẻ liền “—“ là ký hiệu Dương) để nặn ra Eva (như một kẻ đứt giữa “- -“ do bị “bẻ” là ký hiệu Âm), nhất nguyên sinh nhị nguyên; VN: “Mẹ Tròn con Vuông”. Ký tự tượng hình vẽ con mắt của các tộc cổ đại đều giống nhau, từ phương Đông, đến Ai Cập , đến người da đỏ ở Mỹ. Mắt và Mặt cùng Nôi khái niệm, nên người Việt gọi con mắt của Trời là Mặt Trời. Mắt của Trời có thể thấy mọi chỗ, lục lọi vào mọi xó xỉnh trên trái đất (Tay nào che nổi mặt trời. Chạy nào thoát khỏi nắng nôi bủa tràn) nên con mắt lục ấy người Việt nói lướt “Mắt Lục” = Mục và viết ra là chữ 目.

Người ta nói, tiếng Việt thoạt đầu là không có thanh điệu, đúng, hàng chục vạn năm trước thì nó là như vậy. Sáu thanh điệu mà tôi chia ra hai Nhóm là “Nhóm định hướng cho tư duy tĩnh tại” và “Nhóm định hướng cho tư duy hành động” chỉ rõ như vậy, ví dụ chỉ một từ đối Trong/Ngoài, bằng cái thanh điệu có tính định hướng ý nghĩa của chúng, chứng minh điều đó đúng. Ví dụ khi muốn nói cái Kén tằm, người Việt đã chợt nghĩ là Ken, rồi nói ra là Kén, từ đôi đối Ken//Kén. Sau đó lấy ra dùng là được hai từ Ken và Kén đều có nghĩa là “sự đan dày bằng sợi hoặc nan”. Vậy “từ nguyên” của Ken là gì? Đừng vội đi tìm từ nguyên của nó ở tiếng Tàu hay tiếng Tây. Từ nguyên của Ken đương nhiên là phải ở vị trí sâu hơn tức nặng hơn, như từ đôi Sâu Nặng đã chỉ rõ. Vậy sâu nặng hơn Ken phải là Kẹn.

(Còn nở rộng hơn Kén đương nhiên phải là Kèn, nó nở ra rồi thì nó biết kêu to, gọi là Kèn, Kêu = Kèn. Tiếng Kèn vang rộng ra thì đương nhiên nó là Quảng, Kêu = Kèn = Quảng = Roãng = Rộng = Rải = Rãi = Lãi = lớn = Loa. Để dùng cho hợp qui tắc “thanh điệu định hướng ý nghĩa” thì: Khi “thuyết” cho cái “đề” là sự rộng bên Trong thì dùng từ đôi Rộng Rãi. Còn khi “thuyết” cho cái “đề” là sự rộng bên Ngoài thì dùng từ đôi Quảng Lớn đối với vùng đất, và từ đôi Quảng Loa đối với vùng âm thanh. Tất cả đều là từ thuần Việt hết, chẳng có tiếng nào gọi là “từ Hán Việt” cả, trong khi chỉ có mỗi chữ Quảng 廣 là viết bằng chữ nho. Loa là chỉ sự truyền lan rộng của âm thanh “Lớn vỡ Oà” = Loa. Từ thời cổ đại người Việt đã làm ra cái Loa hình thù giống cái Kèn, nhưng to hơn, không thổi thành tiếng nhạc như kèn, chỉ dùng để nói cho âm thanh phóng đại có định hướng hơn, để thông báo cho cộng đồng “Loa…Loa…Loa….đồng bào nghe đây…” Đến khi Pháp sang thì anh mõ làng dù không biết một chữ Pháp nào vẫn thay từ Loa bằng từ Alô, và đi rao gọi “Alô… Alô… Alô… đồng bào nghe đây…”. Không biết trong ngôn ngữ nhân loại thì từ Loa có trước hay từ Alô có trước).

Từ nguyên của từ Kẹn là gì? Đương nhiên nó phải sâu hơn nữa vào Trong, tức là nó phải Kín hơn nữa. Mà người Việt khi muốn định nói ra khái niệm Kín đã nghĩ theo diễn biến từ đôi đối Kin//Kín. Rồi lấy ra dùng riêng hai từ Kin và Kín đều có chung nghĩa là “đưa từ Ngoài vào Trong”. Người Thái Lan dùng từ Kin để nói cái động tác “đưa thực phẩm vào trong cơ thể”: Kin Nam là uống nước, Kin Khao là ăn cơm gạo. Người Việt khi vác ống luồng ra Ngoài sông suối lấy nước đem về Trong nhà dùng thì gọi là “đi Kín nước”. Ở đồng bằng Bắc Bộ đi trên đất bằng thì dễ hơn nên không phải vác đeo ống luồng nữa mà dùng đôi Bộng gốm, Bộng = Bồn, với đôi gióng và cái đòn tre, nên động tác đã diễn biến thành Kín = =Gín = Gính = Gánh, tùy theo mỗi vùng người ta phát âm. Từ nguyên của Kin//Kín là gì? Rõ ràng là nó phải nằm sâu hơn nữa, khi trong sâu ấy nó còn chưa có cái Tơi = Tay = Chạy = Chi mọc ra bên ngoài cái Rỡi của nó, đó là từ In. Để hình dung cái Nôi khái niệm của động tác là “đưa sâu vào trong” thì thấy: In = Ấn 印(yin) = Uống = Ăn = Ẩm 飲(yin) = Nhấm = =Phẩm 品(pin) =Thẩm 審 (shen)= Thực 食(shi) =Thôn 吞(tún) = Ngốn = Ngật 吃(chi). Hán ngữ hiện đại dùng chữ Ngật 吃, chứ không dùng chữ Thực 食 như Hán ngữ cổ. (Người Quảng Đông phát âm chữ Thực 食 là “Xực”). Trong ngoặc đơn sau chữ nho là từ của Hán ngữ dùng, viết theo phiên âm của Hán ngữ hiện đại, theo phiên âm của Hán ngữ hiện đại thì không thể xếp đúng qui tắc Tơi-Rỡi tôi nêu. Từ “Thẩm định dự án” dùng ngày nay là một từ chuyên môn khoa học cao siêu, không có trang bị kiến thức kinh tế tài chính thì không thể thẩm định được. Vậy mà nó cũng chỉ bắt đầu từ động tác người nông dân Nhấm một miếng từ củ khoai lang sống, Nhai và Phẩm rồi mới định được là củ khoai ấy có ngon hay không. Từ đôi In Ấn nói rõ nghề in là của người Việt đầu tiên. Đến hình ảnh hay sự việc từ cổ xưa vẫn còn “in sâu trong ký ức” hay “in sâu trong tâm thức” như cái Bánh In đổ vào khuôn. Bánh in là từ bột nếp đã chín rồi, chỉ việc in vào khuôn. Còn nếu là từ gạo nếp sống như bánh chưng thì công đoạn làm bánh vẫn phải là In = Chín = Chưng. Nhìn từ cái Nôi khái niệm

In = Ấn = Uống = Ăn = Ẩm = Nhấm = Phẩm = Thẩm = Thực = Thôn = Ngốn = Ngật này đã thấy rõ, như tôi nói là: Muốn tìm từ nguyên của “hiện đại Hán ngữ” thì tìm về “cổ Hán ngữ”; muốn tìm từ nguyên của “cổ Hán ngữ” thì tìm về ngôn ngữ Việt Nam (các nhà ngôn ngữ học thì cứ thấy từ nào có viết bằng chữ nho là giải thích “đó là từ gốc Hán”, vì giải thích kiểu theo sách như vzậy là “phẻ nhứt” rồi. Trong khi chính có người Trung Quốc du lịch sang VN, vào hiệu sách xem, đã nói với tôi: “Nhìn cuốn từ điển Hán-Việt đồ sộ mà thấy hãi, thực ra trong đó chỉ có khoảng 1000 từ là của Hán thôi, còn lại là từ của các tộc phi hán”.)

Người Việt cổ đại của nền văn minh lúa nước đã biết trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa. Vốn là dân sông nước, dòng giống Tiên Rồng, nên đã biết vượt biển làm nên con đường tơ lụa trên biển Đông hàng nghìn năm trước khi có con đường tơ lụa của dân Trung Á qua sa mạc đến Trung Đông. Cái Kén để lấy sợi tơ, tư duy là từ đôi đối Ken//Kén, vào càng sâu là Kẹn//Ken. Muốn dệt tơ loại đẹp phải chọn Kén kỹ càng. Từ Kén từ cái vật cụ thể được nâng ý lên thành nghĩa của từ đôi Kén Chọn. Già Kén là chọn cái Kén càng già càng tốt, vì con tằm sống lâu hơn nó chứa nhiều tơ trong bụng hơn. Rồi nó cũng hóa kiếp, như con người già thì xác gởi vô Hòm, hóa kiếp để cho hồn phiêu du. Khi định nói ra từ Hòm, người Việt đã tư duy từ đôi đối Hom//Hòm. Người Việt chỉ lấy hai từ đôi đối là Kẹn//Kén và Hom//Hòm mà có được câu tục ngữ mang vế so sánh là câu “Già Kén Kẹn Hom” để khuyên người ta đừng có kén chọn quá, cầu toàn quá, lý tưởng quá, vì đó không phải là tư duy hành động, hãy sống với thực tại, suy nghĩ giải quyết cái thực tại, đừng có viển vông với cái chủ nghĩa cao xa không có thực. Người nông dân của nền văn minh lúa nước cổ đại chỉ mong tự do, cơm no, áo ấm. “Quốc dĩ hòa vi quí, Dân dĩ thực vi thiên”. Mọi cái tàn phá con người, tàn phá thiên nhiên sẽ chỉ đưa đến diệt vong. Chỉ có thiên nhiên và nhân loại là còn mãi mãi, như Thi Nại Am trong lời Từ đầu cuốn Tam Quốc Diễn Nghĩa đã viết. (Mong có độc giả dịch sát ý hơn, còn dưới đây là tôi tạm dịch)

滾滾長江東逝遊水 Cổn cổn Trường Giang đông thệ du thủy

浪花淘儘英雄 Lãng hoa đào tận anh hùng

是非成敗轉頭空 Thị phi thành bại chuyển đầu không

青山依旧在 Thanh sơn y cựu tại

幾度夕陽紅 Kỷ độ tịch dương hồng

白髮漁樵江渚上 Bạch phát Ngư Tiều giang đỗ thượng

慣看秋月春風 Quán khán thu nguyệt xuân phong

一壺濁酒囍相逢 Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng

古今多少事 Cổ kim đa thiểu sự

都付笑談中 Đô phụ tiếu đàm trung.

Trường Giang nước cuốn trôi đi

Anh hùng cũng biến, khác chi bọt bèo

Thị phi, thành bại cũng vèo

Núi xanh kia mãi giàu nghèo vẫn nguyên

Niên hoa bao độ ngày đêm

Ngư, Tiều tóc bạc vẫn êm trên bờ

Quen nhìn gió sớm, trăng thu

Một bình rượu đục tạc thù có nhau

Cổ kim muôn sự thế nào

Đều làm mồi nhậu lộng trào cười chơi

Share this post


Link to post
Share on other sites