Thiên Đồng

Thủ Ấn Trong Bà La Môn, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo

11 bài viết trong chủ đề này

Th n trong Bà La Môn, Pht Giáo, Thiên Chúa Giáo

Thiên Đồng

Hãy quan sát kỹ, sẽ nhận thấy trong từng linh ảnh các vị Phật, Bồ tát, Chúa, các Thánh tông, được vẽ lại, đồ đều có chung thủ ấn, qua đó sẽ thấy được cả ba tôn giáo lớn dường như đều có cùng chung một mật pháp.


Bà La Môn giáo, Phật giáo đều có pháp hành trì thủ ấn, nhưng ít ai nhận ra Thiên Chúa Giáo cũng hành trì thủ ấn. Bởi mật pháp ở trong tôn giáo này không được phổ chúng phổ thông trong dân gian như Phật giáo và Bà La Môn Giáo, đến nỗi những hình ảnh của Chúa Jesus hay các Thánh Tông Đồ ở tư thế thủ ấn dường như không tìm thấy, không được để ý hay ít được nhận ra. May thay những hình ảnh đẹp ấy vẫn được vẽ lại bằng cả sự mến yêu của đức tin, nhưng hầu như tín đồ Thiên Chúa lại không biết đó là thủ ấn của mật pháp đầy huyền năng huyền diệu.

1.Bàn tay thuyết pháp:


Posted Image
Thần Vishnu với tay thuyết pháp

Posted Image
Thần Rama với bàn tay thuyết pháp

Posted Image
Phật với bàn tay giảng pháp

Posted Image
Jesus với bàn tay thủ ấn thuyết giảng

2. Thủ ấn : "Nhĩ Căn viên thông"
Quán thế Âm là nghe tất cả các tiếng khổ đau trong cõi Ta Bà, do vậy hình tượng Quán Thế Âm thường thấy với thế thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", dấu hiệu của nghe tất cả mọi tiếng khổ đau của chúng sanh.

Posted Image
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 67m tại Việt Nam với thủ ấn "Nhĩ Căn viên thông", nghe tất cả tiếng khổ đau của nhân gian.

Posted Image

Posted Image
Chúa Jesus với thủ ấn "Nhĩ Căn viên thông" và tay trái là cuốn Kinh Thánh, một hình ảnh hiếm phố biến.

Posted Image
Hình ảnh hiếm hoi còn lưu lại tại một thánh đường cổ ở Israel, thành phố cổ
Jericho 10.000 năm tui, Đức Jesus trong tư thế thủ ấn " Nhĩ căn viên thông" và tay kia là cuốn kinh thánh.


Posted Image
Thánh tông đồ Barnabas với thủ ấn " Nhĩ căn viên thông".

Posted Image
Thánh tông đồ Nicholas với thủ ấn " Nhĩ căn viên thông".

Thủ ấn là một nét thể hiện của mật pháp, nhằm phát huy công năng nào đó hổ trợ trong việc hành trì tu tập hay hành pháp. Do vậy sẽ không ngạc nhiên khi các vị Phật, Chúa , Bồ tát, Thánh Tông Đồ trong lúc thiền định hay thuyết pháp được ghi nhận lại trong các tư thế thủ ấn đẹp. Những hình ảnh tương đồng của các đấng giáo chủ hay bổn tôn của ba tôn giáo lớn Bà La Môn Giáo, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo trong tư thế thủ ấn chứng tỏ cả ba tôn giáo đều có cùng chung một pháp nhiệm mầu.

TTNC LHDP, ngày 15/6/2012

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đồng Một Pháp Thần Thông

Trích:
"Đến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển, và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca - bê - na - um. Trời chợt tối, mà Đức Chúa Giê - xu còn chưa đến cùng các môn đồ. Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội. Khi các môn đồ đã chèo ra chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch - ta - đơ, thấy Đứa Chúa Giê - xu đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi. Nhưng Ngài phán rằng: " Ấy là ta đây, đừng sợ chi!". Bấy giờ môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyện đậu vào bờ, là nơi định đi."

Sự việc Chúa Jesus đi trên mặt biển được ghi lại trong kinh thánh cho thấy Ngài đã thi triển thần thông (phép mầu), giống như Tổ Đạt Ma đã quẩy một chiếc hài, đứng trên cọng cỏ lau đi trên mặt biển về phương Tây trong truyền thuyết về tổ.

Posted Image
Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển

Thiên Đồng
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 6/15/2012 at 10:28, 'Thiên Đồng' said:

Đồng Một Pháp Thần Thông

Trích:

"Đến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển, và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca - bê - na - um. Trời chợt tối, mà Đức Chúa Giê - xu còn chưa đến cùng các môn đồ. Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội. Khi các môn đồ đã chèo ra chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch - ta - đơ, thấy Đứa Chúa Giê - xu đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi. Nhưng Ngài phán rằng: " Ấy là ta đây, đừng sợ chi!". Bấy giờ môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyện đậu vào bờ, là nơi định đi."

Sự việc Chúa Jesus đi trên mặt biển được ghi lại trong kinh thánh cho thấy Ngài đã thi triển thần thông (phép mầu), giống như Tổ Đạt Ma đã quẩy một chiếc hài, đứng trên cọng cỏ lau đi trên mặt biển về phương Tây trong truyền thuyết về tổ.

Posted Image

Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển

Thiên Đồng

chào huynh Thiên Đồng!!!

Theo ảnh trên: Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển bằng chân không, tay trái lần chàng hạt, tay phải giữ 1 cây gậy trên vai và lại có mỗi một cái giầy là sao nhỉ? 1 cái nữa đâu mất rồi???

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

3. Thủ Ấn " "

Ngón tay hướng xuống, lòng bàn tay ngửa ra, cánh tay xuôi xuống, thế ấn này như trấn an, như cứu vớt, độ sanh với cả lòng thương bao la mở rộng với cả chúng sanh, với cả nhân loại.

Posted Image

Phật A Di Đà với Đại ấn độ sanh

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Đức Mẹ Maria với thủ ấn như vậy.

Thiên Đồng

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

4.Thủ Ấn Niêm Hoa

Posted Image

Quán Thế Âm Bồ Tát với thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", giữ nhành trúc, dùng để vãy nước cam lộ cho thế gian.

Posted Image

Quan Âm Bồ Tát, tranh Tây Tạng, tay ấn niêm hoa.

Posted Image

Thánh Patrick tay thủ ấn "Nhĩ căn viên thông", cầm lá cỏ 3 nhánh tượng trưng 3 ngôi Thiên Chúa.

Posted Image

Thánh I Rê Nê với bàn tay bắt ấn.

5. Phổ Ấn

Posted Image

Quán Thế Âm Bồ Tát với tay Phổ ấn

Posted Image

Posted Image

Nữ Thánh Philomena Print trong tư thế Phổ ấn

Posted Image

Thánh Pedro de San José de Becantur với tay Phổ ấn

Thiên Đồng

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
  'phamhung' said:

1339811491[/url]' post='180682']

chào huynh Thiên Đồng!!!

Theo ảnh trên: Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển bằng chân không, tay trái lần chàng hạt, tay phải giữ 1 cây gậy trên vai và lại có mỗi một cái giầy là sao nhỉ? 1 cái nữa đâu mất rồi???

Chao ban, theo lich su thi chiec giay con lai cua Dat am to su van con luu giu tai Thieu lam tu.

Share this post


Link to post
Share on other sites

tiếp theo

6. Thủ Ấn Bảo An

Thủ ấn với lòng bàn tay mở ra hướng về phía trước, năm ngón tay mở rộng hoăc năm ngón khép hướg thẳng lên trên, đôi khi giữa lòng bàn tay có con mắt thiên nhãn hoặc chữ "Um" quyền năng. Thủ ấn này mang ý nghĩa ban phước lành, bình an, an lạc, ân phước, lợi lạc cho chúng sanh. Thật bất ngờ, thủ ấn này hiện hữu trong cả Thiên Chúa giáo, trong khi đó rất phổ biến trong Bà La Môn giáo và Phật giáo.

Posted Image

Thần Shiva với thủ ấn bảo an ban phước.

Posted Image

Thần voi Ganesha, con của thần Shiva, và là phúc thần của Ấn giáo, tương tự như Thần tài của người Việt, trong tư thế thủ ấn bảo an.

Posted Image

Thần Khỉ Hanuman với bàn thủ ấn ban phước.

Posted Image

Phật với thủ ấn bình an tâm

Posted Image

Phật A Di Đà

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Đức Jesu

Posted Image

Thánh Joseph the Betrothed với thủ ấn ban ân phước.

Posted Image

Thánh Joseph of Damascus với bàn tay thủ ấn ban phước lành.

Posted ImagePosted Image

Nữ thánh Elizabeth the Grand Dutchess với bàn tay bình an

Posted ImagePosted Image

Nữ thánh Alexandra với bàn tay thủ ấn.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 6/16/2012 at 01:51, 'phamhung' said:

chào huynh Thiên Đồng!!!

Theo ảnh trên: Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đi trên biển bằng chân không, tay trái lần chàng hạt, tay phải giữ 1 cây gậy trên vai và lại có mỗi một cái giầy là sao nhỉ? 1 cái nữa đâu mất rồi???

Chào bạn phamhung, mình xin được giải thích như này. Khi đó Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma 150 tuổi, ngài đang trên đường trở về Ấn Độ , sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ truyền Y Bát sang Trung Quốc cho tổ sư Huệ Khả. Nếu bạn muốn hiểu rõ thêm, bạn có thể xem tham khảo bộ Phim về Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma qua link này http://www.youtube.com/watch?v=peQ4z2HwuyM .Bộ phim này khắc hoạ lại gần đúng như cuộc đời thật của Ngài.

Thân

Share this post


Link to post
Share on other sites

MA ĐÓI (KHÚC SÁO ÂN TÌNH)


Ở Mỹ vào đêm thứ Bẩy cuối tháng 10 chuyển sang tháng 11 hằng năm thì phải vặn đồng hồ lại một tiếng. Vào mùa này đêm dài hơn ra, mới bốn giờ chiều mà trời đã tối sập xuống rồi.


Bóng đêm qua bao đời vẫn là hình ảnh của một thế giới khác, thế giới bên kia. Cũng vào dịp này, ở khắp các đường phố, người ta dựng những ngôi nhà ma với những cảnh rùng rợn kinh hồn. Chỗ này là một cái xác bị treo lên lè lưỡi thòng xuống phát rợn người. Chỗ kia là một con ma với khuôn mặt méo lệch kỳ quặc đến khủng khiếp, máu me bê bết, vừa đi vừa thở phì phì nhọc mệt như kiếm chác một thứ gì hiếm lạ... Còn các trẻ em thì đóng vai những con ma đói đi xin ăn khắp các ngả đường, không cho ăn thì sẽ bị phá phách. Có điều ma Mỹ đói mà đòi ăn sang lắm, chỉ đòi ăn kẹo loại ngon thôi, cho thứ rẻ tiền là ma chê liền.

CHUYỆN DÀI NHỮNG NGÔI NHÀ MA

Xã hội này thừa mứa đồ ăn mà có thể lại nhiều ma đói. Chuyện thật về những ngôi nhà có ma thì nhiều lắm, nơi nào cũng có. Nguyên ở New Orleans cũng có tới cả chục ngôi nhà ma được báo địa phương cho địa chỉ đàng hoàng để những ai tò mò có thể tìm đến. Tại số nhà 1113 đường Chartres đối diện với nhà dòng Ursuline cũ, lâu lâu người ta thấy hồn tướng Beauregard đi lại điều khiển trận đánh Shiloh với quân quốc rầm rập. Đây là địa điểm xảy ra trận đánh nhau chết nhiều người trước kia có ghi lại trong lịch sử.

Ở ngôi nhà ma số 1447 đường Constance thì thấy hai người lính nét mặt ủ rũ nhợt nhạt đi lại và hát nghêu ngao. Người ta kể lại câu chuyện về hai người lính này vốn là hai người giữ kho thời nội chiến Bắc Nam. Một hôm bị phát giác phạm tội biển thủ lớn nên phải ra tòa án quân sự lãnh án tử hình. Đêm đó hai tên liền rủ nhau kề súng vào nhau mà bắn để cùng chết một lúc.

Hiện tượng thật lạ là ma Hermann Grima ở số nhà 820 đường St Louis không hề phá phách làm ai sợ sệt, nhưng thường tỏa mùi hoa hồng thơm dịu; trời lạnh thì sưởi ấm cho nhà. Nhưng bọn ma LaLaurie Hona ở 1140 đường Royal thì ồn ào động đạc quá sức: chúng là hồn những người nô lệ bị hành hạ trước kia chết ở đây.

Ở ngôi nhà ma Garlette-LePretre ở đường Dauphine thì thường thấy hồn của cặp vợ chồng người Thổ Nhĩ Kỳ bị giết. Và còn nhiều địa chỉ khác nữa như ma Vodoo Queen Marie Lavean ở số 1020 đường St Ann; Ma ở nghĩa địa St Louis I, St Louis II, ma ở 514 đường Chartres; ma ở 739 đường Bourbon v.v.

LỄ VU LAN VỚI VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN

Ai cũng thấy rõ rằng sau khi chết, con người hoặc được siêu thoát, hoặc còn bị trói buộc cách này cách khác. Họ không tự cứu mình được, nhưng phải trông nhờ những người còn sống tu thân tích đức bù đắp cho. Những hành động ma phá phách là có ý nhắc xin cứu giúp, và khi được cứu giúp giải thoát thì yên ngay. Ma đói đúng là tình trạng của những người chết mà chưa được siêu thoát. Thì ra bên Tây cũng như bên Đông, bên Đạo Phật cũng bên Đạo Chúa... tất cả đều tin và thấy ma đói có thật.

Truyền thống Đạo Phật từ Ấn độ có lễ Vu Lan vào dịp rằm tháng 7 âm lịch, từ tích truyện Mục Kiền Liên chuyển hóa cứu khổ cho mẹ đã chết nhưng còn nhiều vướng mắc nên bị treo ngược ở địa ngục. Có lần Mục Kiền Liên được phép thần thông thấy mẹ bị đói quá liền thương mà dâng cơm cho mẹ, nhưng cơm vừa đưa vào miệng thì hóa thành lửa không ăn được. Quả thực ma đói cũng không ăn cơm ăn kẹo được, mà phải cho đồ ăn tinh thần là tu thân tích đức theo đúng truyền thống Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân, để những người còn bị giam trong vòng tăm tối được bước vào cõi sáng êm ả như trăng rằm. Vu Lan là chữ tắt bởi Vu Lan Bồn, phiên âm tiếng Phạn Ullambana.

Đạo Hiếu vốn đã ăn sâu trong máu người Việt, nên việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành nét đặc trưng của văn hóa người mình, có trước khi các tôn giáo du nhập vào Việt Nam. Quả thực mỗi tôn giáo đều có một hệ thống niềm tin riêng với cả một truyền thống nhằm mục đích giải thoát cứu khổ con người, nhưng đặc biệt khi vào Việt Nam, các tôn giáo đã có được một điểm gặp gỡ chung rất gần gũi thân thương, đó là Đạo Hiếu. Đây cũng chính là mẫu số chung để xây niềm tin chung tạo sức mạnh chung cho dân Việt như giáo sư Kim Định đã có lần đề cập đến trong “Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên”.

Căn bản của Đạo Hiếu là niềm tin vào hồn thiêng bất tử. Mỗi người nhận được sức sống từ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, như một dòng sức sống vẫn tiếp tục chảy. Cắt đứt dòng sức sống sẽ gây cho mình tự tắc nghẽn héo tàn như thằn lằn cụt đuôi giẫy chết và làm mồi ngon cho kiến. Như vậy Đạo Hiếu là hướng về, là nối vào được dòng sức sống này. Mỗi gia đình dòng họ là những nhánh sông nhỏ, lại cần nối vào một dòng sống lớn hơn, đó là tổ tiên của cả một dòng giống. Nhưng dòng sống không chỉ ngưng lại ở tổ tiên của một dòng tộc, một giống nòi, mà phải nối tới tột đỉnh Cội Nguồn là chính Đức Chúa Trời Nguồn Sống. Như vậy Đạo Hiếu trong tâm thức Việt rất gần với niềm tin Đạo Chúa.

Nguyễn Du đã diễn tả tài tình được niềm tin vào cuộc sống mai sau trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh:

Hương khói đã không nơi nương tựa

Phận bồ côi lần lữa đêm đen.

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.

Người mình không chỉ tin mà luôn thấy được rằng người chết vẫn còn sống. Khi được siêu thoát thì hiển linh phò trợ cho con cháu như truyện vua Hùng trong Bộ Truyện Thiêng Lĩnh Nam cầu khẩn với tổ tiên mà được ơn soi sáng đi tìm được nhân tài giúp nước là Phù Đổng Thiên Vương. Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa hoài không xong, cũng đã cầu khẩn thần linh.

"Ngày mồng bẩy tháng ba bỗng có một ông già tiến thẳng vào cửa thành, vừa đi vừa nói rằng: "Xây kiểu này thì bao giờ mới xong! Nếu không có sứ giả nhà Trời cùng xây thành, thì mọi cố gắng cũng thành uổng công. Thành xây xong lại bị sập là do ma quỉ quấy phá.”

Còn những người chưa được giải thoát mà trở thành những cô hồn, những con ma đói, thì mình có bổn phận lo cứu đói bằng đồ ăn tinh thần là những việc lành phúc đức và lời cầu nguyện.

TIN VUI GỬI NGƯỜI BIẾT BÁO HIẾU

Đạo Chúa khi vào Việt Nam đã gặp được một độ rung hài hòa rất nhuần nhuyễn trong Đạo Hiếu, như đã có sẵn trong mạch máu. Ngoài những ngày giỗ, Đạo Chúa dành cả tháng 11 hằng năm để lo “cứu đói”, gọi là tháng các linh hồn, cầu nguyện cho những người chết mà còn bị vướng mắc cần phải được thanh tẩy trong nơi luyện tội, nhất là các linh hồn những người trong gia tộc. Đúng là Mùa Báo Hiếu, mà cũng là mùa mỗi người dừng chân để nhìn vào cuộc sống của chính mình, để thấy rằng mình sẽ trở thành hồn sống siêu thoát hay phải chịu số phận ma đói lang thang kiểu “phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người”! Người theo đạo Chúa không chỉ dâng hoa thắp hương kính nhớ ông bà đã qua đời, mà còn hơn thế nữa, phải có bổn phận dâng lời cầu nguyện và thánh lễ, làm các việc từ bi bác ái trong ý nghĩa hiệp thông sâu xa nhất. Đó mới là những đồ ăn dâng cúng đúng nhất.

Nhìn xa hơn về bên kia thế giới, tự nhiên mọi giá trị về danh lợi cao thấp hơn thiệt ở đời đều trở thành tương đối. Và thấy rõ hơn cái gì thực sự mới làm cho mình no thỏa ở đời sau mà tội nghiệp cho những ai sống như không bao giờ phải chết, chỉ lo bon chen tích trữ bằng đủ mọi cách, mánh mung để có thêm chút danh hão, lên mặt lãnh tụ chỉ đường "chơi cha" thiên hạ. Mà cơn đói danh và khát lợi cứ theo đà thành chứng nghiện khốn khổ. Để rồi đến lúc chết ra đi chẳng mang theo được gì, mà trở thành những con ma đói thèm khát khủng khiếp.

Chính vì thấy được như vậy mà Chúa Giêsu đã loan báo Tin Vui: "Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên." (Mt 23:10-12)

PHÚT NHÌN CAO LÊN

Thử hình dung hôm nay là ngày mình chết. Sau bằng ấy năm tích trữ trên cõi đời này, mình sẽ mang theo được gì về đời sau?

Người Việt mình gọi giờ chết là sinh thì, là giờ bắt đầu sống. Đúng là "birthday", vì thế người Việt nhớ rất kỹ ngày giỗ của ông bà cha mẹ, chứ mấy ai nhớ ngày sinh vào đời này đâu. Sau một cuộc sống ăn ngay ở lành, tu thân tích đức, con người không lo sợ phải trở thành ma đói lang thang trong cõi đêm dài u tối, mà thực sự được bước sang một cõi sống mới đầy ánh sáng và âm thanh phúc lạc, như cái thấy của thi hào Hàn Mặc Tử:

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
Không u ám như cõi lòng ma quỉ
Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh.

Tác giả Trần Cao Tường, Lm. (Linh mục)
http://www.dunglac.org
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có Phải Chúa Giê-Su Đến Ấn Độ Để Học Phật Pháp, Vệ Đà?
Tuệ Uyển chuyến ngữ
Did Christ come to India to study Buddhism, Vedas?
By Madhusree Chatterjee, IANS, December 25th, 2009

Posted Image

Jesus ngồi thiền trong rừng (không rỏ nguồn)

New Delhi, India – Vấn đề nổi bật trở lại trên chúa Giê-Su Ki-Tô và sự liên hệ của ngài với Ấn Độ khi thế giới mừng Chúa Giáng sinh vào thứ Sáu. Một số nhà sử học tin rằng ngài đã dành 17 năm trong buổi thiếu thời – từ lúc 13 đến 30 - ở Ấn Độ học hỏi Phật Pháp và kinh Vệ Đà.

Có những sự nhắc đến rằng gia đình Giê-Su (cha mẹ) cư ngụ tại Nazareth, nhưng ngài xuất hiện lần kế ở Nazareth, khi Giê-Su 30 tuổi. Ngài được nói đã từng lớn lên trong tuệ giác và phát triển trong những năm vắng bóng, “nhà sản xuất phim Anh quốc Kent Walwin nói với IANS(1).

Ở đây để nhận phần thưởng Dayawati Modi vì nghệ thuật, văn hóa , và giáo dục năm 2009, dự án mới nhất của Walwin, “Tuổi trẻ của Giê-Su: Những Năm Vắng Bóng”, sẽ khám phá những năm đầu của chúa cứu thế, những điều không được diễn tả trong Thánh Kinh.

Theo Walwin, bộ phim của ông là “trên Phúc Âm Tông Đồ, nói rằng Giê-Su được thấy lần cuối cùng ở Tây Á khi ngài khoảng 13 – 14 tuổi”.

Phần thứ nhất của bộ phim sẽ căn cứ trên Phúc Âm và phần thứ hai của phim sẽ là “thuần phỏng đoán căn cứ trên dữ liệu lưu trử”, nhà làm phim nói thế.

Có một vài sự nhắc đến sự liên kết ở Ấn Độ. Vào năm 1894, một bác sĩ Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một quyển sách tựa để là “Cuộc đời không được biết của Giê-Su” căn cứ trên hành trình bao quát của ngài ở A Phú Hản, Ấn Độ, và Tây Tạng.

Trong một trong những chuyến du hành của mình, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở trong tu viện Phật Giáo, Hemis, một thời gian khi ngài bị gảy chân.

Tại tu viện, ngài được thấy hai tập tài liệu lớn màu vàng bằng Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Giê-Su được liên hệ như Issa – hay con trai của thượng đế - bởi một nhà học giả Vệ Đà, người dạy kèm ngài trong thánh kinh Vệ Đà.

Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ từ văn kiện ở phía sau nhật ký của ông mà ông giữ trong suốt chuyến du hành. Tài liệu sau này tạo thành một cơn giông bảo ở phương Tây.

Tu sĩ ở tu viện Hemis, tọa lạc khoảng 40 cây số bên ngoài Leh trên đỉnh một ngọn đồi, làm vững thêm huyền thoại của Giê-Su ở Ấn Độ.

Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất nước chúng ta và Kashmir để học hỏi Phật Pháp. Ngài được truyền cảm hứng bởi giới luật và tuệ giác của Đức Phật,” một lạt ma lão thành của tu viện Hemis đã nói với IANS. Thượng thủ của trường phái Phật Giáo Drukpa, Gwalyang Drukpa, tu viện trưởng tu viện Hemis, cũng tin tưởng vào huyền thoại.

Swami Abhedananda, một học giả tâm linh và nhà tiên tri của Bengal, đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm viếng Ân Độ”. Buổi nói chuyện của ông về một quyển sách mang tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng thăm tu viện Hemis ở Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal hai trăm đoạn kệ về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại.

“Mọi người yêu mến ông bởi vì Issa sống trong hòa bình với những người Vaishyas và Shudras, là những người ông đã chỉ dẫn và giúp đở,” Roerich nói trong sự trường thuật của ông.

Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trử, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.

Quyển sách của học giả Đức, Holger Kersten, “Giê-Su Đã Sống ở Ấn Độ”, cũng đã kể về câu chuyện những năm đầu của Giê-Su ở Ấn Độ.

“Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc theo sông Ấn Hà) cùng với những người buôn bán. Cư ngụ trong những người Arya với mục tiêu hoàn thiện chính mình và học hỏi những giới luật của Đức Phật vĩ đại. Người trai trẻ du hành rộng rãi qua những vùng đất của năm con sông (Punjab), ở lại một thời gian ngắn ngủi với những người Kỳ Na Giáo (2) trước khi tiến tới Jagannath,” Kersten nói trong quyển sách của ông.

Trong phiên bản tiếng Anh của Luận thuyết bằng tiếng Urdu được viêt bởi nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo Ahmaddiya, Hazrat Mirza Ghulam Ahmad (1835-1908), cũng kể về một “chuyến viếng thăm lần thứ hai của Giê-Su đến tiểu lục địa” (3) sau khi ngài “được báo cáo thoát khỏi Thánh Giá”.

Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm.
nguồn: http://www.phathoc.net/tieudiem


Kính gửi độc giả bộ phim tài liệu cho hãng BBC sản xuất với tựa đề: Chúa Giêsu từng là Tu sĩ Phật Giáo - Jesus was a Buddhist Monk

http-~~-//www.youtube.com/watch?v=-YbUEZfJJaQ




ĐÔI NÉT SƠ LƯỢC VỀ ‘CHÚA JESUS’

Jesus (Giêsu) là người sáng lập ra Thiên Chúa Giáo (Kitô giáo / Cơ Đốc giáo). Jesus là người Do Thái có tên là Yehoshua. Đối với người đương thời, Jesus còn được biết dưới tên 'Jesus người xứ Nazareth', hoặc 'Jesus con ông Giuse'.

Sơ Lược:


Jesus, theo các sách Phúc Âm, là một nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng ông bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.


Cuộc Đời Và Tư Tưởng:


Theo Tân Ước, Jesus sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của ông là Maria. Giuse (Joseph) chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Jesus, dẫn đến những suy đoán rằng Giuse qua đời trước khi Jesus bắt đầu đi thuyết giảng. Jesus trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Jesus theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Jesus 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ, đang tranh luận với các học giả. (Cuộc đời Jesus từ năm 12 tuổi đến khi ông 30 tuổi là một khoảng trống bỏ ngõ mà các sử gia và các nhà nghiên cứu đặt ra nhiều giả thuyết về giai đoạn này trong cuộc đời ông…)

Ngay sau khi chịu lễ rửa tội bởi Gioan Tẩy Giả (John the Baptist), Jesus bắt đầu đi rao giảng, khi ấy ông khoảng ba mươi tuổi. Theo Kinh Thánh, Jesus đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Jesus sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Jesus có mặt. Jesus có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (Thánh tông đồ), Phêrô (Peter) được Thiên Chúa Giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Jesus làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma…


Nhiều người xem Jesus như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt thành vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền thời bấy giờ xem Jesus như một thế lực mới đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời.


Bị Bắt và Bị Xét Xử:


Jesus cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp".

Sau đó, Jesus bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Jesus nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản Jesus để nhận được tiền.


Tòa Công luận cáo buộc Jesus tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate ra lệnh đóng đinh Jesus.
Sau khi Jesus chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn cất Jesus với sự chứng kiến của Maria (mẹ ông), Maria Magdalena (nhiều người cho rằng bà là vợ của Jesus, một số sách Thiên Chúa và Tin Lành mô tả Maria Magdalena là ‘một người phụ nữ theo Jesus’) và những phụ nữ khác.

Phục Sinh và Thăng Thiên:


Các tín đồ Thiên Chúa Giáo tin rằng Jesus đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ ‘sự Phục sinh của Jesus’, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh (Easter).


Mẹ, vợ của Jesus (Maria Magdalena) và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó. Theo ‘Phúc Âm Gioan’ thuật rằng khi vợ Jesus là bà Maria Magdalena - đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người xoay lại thấy Jesus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là ‘Đức Chúa Jesus’ (?). Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Jesus đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về ‘Trời’.


Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho đức tin của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ.


Di Sản của Jesus:


Theo hầu hết các giải thích của Thiên Chúa Giáo trong Kinh Thánh, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Jesus là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về ‘Thiên Đường’. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Jesus. Thiên Chúa Giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới phiên bản được biết đến như Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới.


Nhận Định Từ Một Số Tôn Giáo:


Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành tin rằng: Jesus là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Jesus là Thiên Chúa hóa thành con người, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Jesus đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Jesus đã sống lại từ cõi chết…

Do Thái giáo thì cực lực phản đối niềm tin nói trên. Họ không xem Jesus là Thiên Chúa xuống thế làm người, cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi Jesus là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng 'Messiah' từ trời xuống.


Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định nào về vai trò Jesus trong kinh sách Phật giáo. Đối với Phật tử, dựa theo lịch sử, Jesus chỉ là một con người. Tuy nhiên, một vài Phật tử - đứng trên tinh thần ngoại giao - trong đó có Đức Dalai Lama XIV (Tenzin Gyatso) xem Jesus như một vị Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc tha nhân.


Một người Nhật có tên Kōtoku Shūsui tác giả cuốn “Kirisuto Massatsuron” (
基督抹殺論 - Cơ Đốc Mạt Sát Luận) cho rằng Chúa Jesus chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.

Phật Giáo Đại Chúng tổng hợp (dựa theo Wikipedia Việt ngữ)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện Nhà thờ Thiên Chúa Giáo từng phong thánh cho Đức Phật

Lời giới thiệu của người dịch:

Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vào ngày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "Câu Chuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôn giáo", (có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khi lùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấn đề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp những ngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêu lên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôn giáo nói chung. Quả hết sức lạ lùng là một chuyện như thế lại có thể xảy ra được: Nhà thờ Thiên Chúa Giáo và Chính Thống Giáo lại tôn thờ Đức Phật như một vị Thánh của họ dưới danh hiệu là Thánh Josaphat ...! Chuyện này đã xảy ra từ lâu thế nhưng hầu như chẳng có ai hay biết cả!

Câu chuyện về Thánh Josaphat và Thánh Barlaam bắt nguồn từ thuở xa xưa ở Ấn Độ, thế nhưng mãi về sau này mới trở thành một câu chuyện "ăn khách nhất" ("best seller" trong nguyên bản) vào thời Trung Cổ (tại Âu Châu). Vào thời đó Thánh Josaphat nổi danh đến độ Giáo Hoàng Sixte Quint đã phải chính thức đưa vào danh sách những người "Tử Đạo" (Martyrology) vào năm 1583. Lễ tưởng niệm vị Thánh này được nhà thờ Thiên Chúa Giáo La Mã ấn định vào ngày 27 tháng 11, trong khi đó thì nhà thờ Chính Thống Giáo Hy Lạp lại chọn ngày 26 tháng 8 và Chính Thống Giáo Nga Sô thì chọn ngày 19 tháng 11.

Mãi đến năm 1860 thì mới có hai học giả là Labourlaye và Liebrecht cùng chứng minh một lượt cho thấy là Thánh Josaphat và Đức Phật chỉ là một nhân vật duy nhất, tuy rằng cả hai học giả này trước đó đã nghiên cứu biệt lập với nhau. Thế là tức thời nhiều khảo cứu gia khác thi nhau đổ xô vào vấn đề này để nghiên cứu thêm, và cũng nhờ đó mà mọi người mới biết đến quá trình diễn biến thật lạ lùng của câu chuyện trên đây một cách chính xác hơn...

Posted Image

Thánh Josaphat đang thuyết giảng (bản chép tay của Hy Lạp, thế kỷ XII)

Từ Ấn Độ đến Địa Trung Hải...

Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo ghi chép sự tích Đức Phật một cách quy củ. Các mẫu chuyện rời rạc được ghi chép trước đây trong các Kinh (Sutra) và các bộ Luật tạng (Vinaya), tức là các tập sách ghi chép những lời giáo huấn của Đức Phật và các luật lệ quy định cho đời sống xuất gia, đã được gom góp lại để tạo thành những tác phẩm thật quy mô và đầy đủ, trong số này có thể kể ra các tác phẩm quan trọng nhất như tập Phật sở hạnh tán (Buddha-carita - thế kỷ thứ II) do nhà thơ Mã Minh (Asvaghosa) trước tác và tập Phổ diệu kinh (Lalita Vistara - thế kỷ thứ III-IV).

Vào các thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, Phật giáo nhờ vào vương quốc Kushan đã bành trướng nhanh chóng trong toàn vùng Trung Á. Lãnh thổ rộng lớn của vương quốc này trải dài từ thung lũng sông Hằng đến những vùng biên giới tận cùng của sa mạc Tukla-Makan, đã tạo ra một cửa ngõ quan trọng giúp cho "con đường tơ lụa" nối liền Trung Quốc và nước Ba Tư (I-ran ngày nay). Dọc theo con đường này và rải rác trong các vùng ốc đảo, đã phát triển nhiều đô thị lớn góp phần không nhỏ vào việc vận chuyển hàng hóa... và luôn cả tôn giáo cũng như các huyền thoại đủ loại của toàn vùng Á Châu!

Trong tỉnh Tourfan (còn gọi là Turfan hay Turpan, Việt dịch là Thự Quang, ngày nay thuộc tỉnh Tân Cương - Xinjiang - của Trung Quốc; Tân Cương có nghĩa là biên giới mới) người ta đã khám phá ra một mảnh bản thảo kinh sách của đạo Thiện Ác (Manicheisme, Manichaeism - một tôn giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ III, chủ trương nhất thiết phải phân loại tất cả mọi hiện tượng thành Thiện và Ác, tôn giáo này phát triển tại Tây Á và đã từng ganh đua với Thiên Chúa giáo mãi cho đến thời Trung Cổ) viết bằng cổ ngữ Ba Tư ghi lại một mẫu đối thoại giữa hai nhân vật mang tên là Bylwhr và Bwdysf (Budasf). Mẫu đối thoại này trùng hợp với một đoạn trong huyền thoại rất quen thuộc sau này nói về Thánh Barlaam và Thánh Josaphat.

Sự kiện các tín đồ của đạo Thiện Ác quan tâm đến sự tích Đức Phật không phải là một chuyện lạ, vì vị sáng lập ra đạo này là một người Ba Tư tên là Mani (216-273) đã từng du hành sang Ấn độ..., và tại đây người ta đã từng xem ông ngang hàng với Đức Phật trước kia! Thật thế, vị này quả là một con người khác thường, nguyên trước đó ông theo Thiên Chúa giáo, và tin rằng một người tông đồ của Chúa là Thánh Thomas (theo huyền thoại thì thánh Thomas đã từng sang Ấn Độ thuyết giáo) giao cho ông sứ mạng kết hợp cả ba tôn giáo là Thiên Chúa giáo, Phật giáo và đạo Dô-rô-át (Zoroastrism, còn gọi là đạo Mazdéisme, là một tôn giáo của xứ Ba Tư, xuất hiện từ thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, chủ trương thế giới là một môi trường tranh đấu giữa cái Xấu và cái Tốt, sự chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về cái Tốt). Tuy người ta khó có thể biết được là vị này đã có dịp tiếp xúc với trường phái nào của Phật giáo hay không (vì vào thời kỳ đó nhiều học phái Phật giáo xưa và cả Đại Thừa Phật giáo cũng đã phát triển rộng rãi trong vùng Trung Á), dù sao đi nữa thì rất có thể ông ta đã có dịp nghe kể lại sự tích về cuộc đời của Đức Phật, rất phổ biến tại các nước theo Phật giáo thời bấy giờ, nhất là đối với những đoạn thuật lại tuổi thiếu thời của Đức Phật và thiên hướng tầm đạo của Ngài - và đấy cũng là những gì mà người ta đã tìm thấy trong huyền thoại về Thánh Josaphat.

Vị sáng lập đạo Thiện Ác là Mani tỏ ra rất thán phục lý tưởng tu tập khổ hạnh và chủ trương xa lánh những giá trị thế tục của Đức Phật, và thật ra thì giáo lý của Mani cũng chủ trương phải chối bỏ những giá trị đó. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa tăng đoàn Phật giáo và tăng đoàn của đạo Thiện Ác: mối tương quan giữa các vị tỳ kheo (bhikkhu) và các vị ưu-bà-tắc (upasaca, tức các vị cư sĩ) trong Phật giáo cũng tương tự như sự tương quan giữa các vị "được bầu" và các vị "nghe giảng" trong đạo Thiện Ác. Nói chung các vị "tỳ kheo" và các vị "được bầu" phải lo việc tu tập và thuyết giáo, còn các vị "ưu-bà-tắc" và các vị "nghe giảng" thì có bổn phận phải trợ cấp các phương tiện sinh sống cho các vị tu hành trên đây. Ngoài ra vị giáo chủ Mani cũng đưa ra năm "lời khuyên" mà các vị "được bầu" phải noi theo, và năm lời khuyên này cũng khá tương tự với ngũ giới của Phật giáo. Ngoài các điểm tương đồng trên đây thì cũng cần nêu lên là giáo lý của đạo Thiện Ác chủ trương phải khinh thường thân xác vì đấy là nguyên nhân mang lại mọi thứ tai hại cho linh hồn, quan điểm giáo lý này hoàn toàn không có trong Phật giáo!

Sự tích Đức Phật sau đó lại được truyền đi từ Trung Á và Ba Tư sang đến tận các vùng bờ biển Địa Trung Hải: một số tư liệu bằng ngôn ngữ Á Rập cho biết là vào hậu bán thế kỷ thứ VIII, quyển sách bằng tiếng Ba Tư nói về Đức Phật đã được cộng đồng những người theo giáo phái Ismailism (Ismaélisme, tức một giáo phái của Hồi Giáo) tại Xiri (Syria, Syrie) chuyển dịch sang tiếng Xiri và sau đó sang tiếng Á Rập, với tựa đề là "Quyển sách nói về Bilawhar và Yûdâsaf" (Kitab Bilawhar wa-Yudasaf). Lý tưởng khổ hạnh không thu hút được người Hồi giáo, vì thế họ vẫn tiếp tục giữ truyền thống tu tập của người Ba Tư trước đây, và đối với các kinh sách dịch thuật thì họ chỉ thêm vào một vài chi tiết nhằm nêu lên tính cách độc thần trong tôn giáo của họ, do đó sự tích Đức Phật trong các kinh sách dịch thuật này không bị biến dạng nhiều.

Posted ImagePosted Image

Tranh trên gỗ của Nga Sô và tranh in từ một bảng khắc trên gỗ của Pháp do Jaques Caillot thực hiện (1630),

cả hai bức tranh đều trình bày Thánh Barlaam và người đệ tử là Josaphat


Câu chuyện về Bilawhar và Yûdâsaf

Ngày xưa tại Ấn độ, có một vị vua tên là Abénès theo tà giáo, tôn thờ thần linh. Ông rất đau buồn vì không có con trai để thừa kế ngai vàng, tuy nhiên sau đó thì ông cũng sinh được một đứa con trai và đặt tên là Yûdâsaf. Chẳng may một vị tiên tri lại cho biết sau này đứa bé sẽ không nối ngôi để trị vì xứ sở, bởi vì đứa bé sẽ trở thành một "Vị hướng dẫn vĩ đại trên con đường đưa đến Sự Thật". Nhà vua rất thất vọng liền ra lệnh tống cổ tất cả các vị "phục vụ Trời" ra khỏi vương quốc của ông và giam con ông trong một lâu đài thật nguy nga, biệt lập hẳn với những cảnh tượng khổ đau của thế gian. Ông cấm mọi người không được nói đến "cái chết, sự già nua, tật nguyền và sự nghèo đói", và nếu như có một người hầu cận nào ốm đau thì phải được thay thế ngay.

Khi Yûdâsaf trưởng thành thì thường hay than vãn về cảnh sống biệt lập đó. Vua cha đành phải cho tổ chức các cuộc rong chơi, nhưng không được để cho hoàng tử trông thấy các cảnh tượng không hay, hoặc buồn khổ. Thế nhưng làm thế nào tránh khỏi được những chuyện ấy, một hôm hoàng tử trông thấy một người cùi và một người mù và ý thức được bệnh tật là gì, và sau đó lại trông thấy một người già, da dẻ nhăn nheo, lưng còng và không còn một chiếc răng nào, vị hoàng tử lại có dịp hiểu thêm sự già nua là gì. Chưa hết tò mò Josaphat còn hạch hỏi thêm các người hầu cận và họ đành phải cho biết thế nào là cái chết. Những khám phá đó đã làm cho vị hoàng tử trẻ phải suy tư...

Posted Image

Hình minh họa trong một bản thảo thời Trung Cổ cho thấy Josaphat ra khỏi thành (đang cưỡi ngựa)

và gặp một người cùi (mặt có chấm đen) và một người mù (đang chống gậy). Bên trong thành thì vua cha đang nhìn ra để canh chừng.

Những lời giảng dạy của Bilawhar cho Yûdâsaf được dựa vào sự đối nghịch giữa Hiện thực và Ảo giác, và các câu chuyện ngụ ngôn thì mang hậu ý khuyên nên tạo ra các thứ "nghiệp" lành! Bilawar nêu lên những gì thật quan trọng mà người ta thường không nghĩ đến, hay nói cách khác đấy là những gì mà thoạt nhìn thì không thấy và không cần phải quan tâm, thế nhưng thật ra thì đấy lại là những gì hết sức quan trọng. Sau đây là một đoạn trích dẫn từ một câu chuyện ngụ ngôn khác mà Bilahwar đã thuyết giảng cho Yûdâsaf:

"Một người biết yêu thương thế giới cũng tương tự như một người có ba người bạn. Đối với người bạn thứ nhất thì hắn yêu thương hơn cả chính mình, với người bạn thứ hai thì hắn yêu thương ngang hàng với mình và với người thứ ba thì hắn yêu thương kém hơn mình. Bỗng một hôm hắn bị nhà vua gọi vào triều và hắn cảm thấy vô cùng sợ hãi vì e rằng mình sẽ bị trừng phạt. Hắn bèn chạy đi tìm người bạn thứ nhất, người này thoái thác rằng mình rất bận và biếu tặng hắn một ít vải để may quần áo. Hắn đành tìm đến người bạn thứ hai, người này cũng lại thoái thác và cho hắn biết rằng mình đang có nhiều chuyện lo buồn, tuy nhiên vẫn chấp nhận đi theo hắn đến tận cổng thành. Hắn vô cùng thất vọng và tìm đến người bạn thứ ba. Hắn tạ lỗi trước và xin người bạn này giúp đỡ cho mình. Không ngờ người bạn thứ ba lại tiếp rước hắn thật ân cần, luôn miệng gọi hắn là người bạn thân thiết nhất của mình, và cho biết là trước đây hắn đã từng giúp đỡ mình từng li từ tí nên không thể nào quên ơn được. Chẳng những người bạn này đi theo vào tận bên trong thành mà còn hết lòng bênh vực cho hắn nữa. Người bạn thứ nhất tượng trưng cho của cải trong thế gian này, của cải ấy không thể giúp đỡ gì cho hắn ngoài việc sử dụng để mua một tấm vải liệm trước ngưỡng cửa của cái chết, người bạn thứ hai tượng trưng cho gia đình và bạn hữu, thế nhưng chính họ thì cũng đang bận tâm với những đau buồn của họ và họ chỉ đủ sức ngồi bên cạnh hắn trong giây phút cuối cùng mà thôi. Người bạn thứ ba tượng trưng cho những hành động từ thiện, và đấy là những gì mà hắn có thể trình ra trước sự phán xét cuối cùng".

Sau đó Bilawhar còn đưa ra thêm các lời dạy bảo khác nữa, và trước khi từ giã Yûdâsaf, Bilawhar còn bảo với Yûdâsaf rằng hắn còn phải vượt qua nhiều thử thách khác trong một thời gian nữa trước khi được gặp lại ông ta.

Posted ImagePosted Image

Hai hình minh họa trong các bản thảo thuộc thời Trung Cổ, kể lại huyền thoại Barlaam và Josaphat

(một người rơi xuống vực sâu với được một cành cây, con kỳ lân một sừng húc vào người này, con rồng thì há miệng để chờ cắn xé)

Posted Image

Tranh minh họa in từ bản gỗ của Boetius Adam Bolswert [1580-1634]

(một người đang rơi xuống giếng sâu, trên miệng giếng có một con kỳ lân, vách giếng thì có bốn con rắn đang phun nọc độc,

dưới đáy giếng có một con rồng đang phun lửa)

Posted Image

Điêu khắc trên vòm cổng phía nam của nhà rửa tội tại Parma (nước Ý)

tác phẩm của nhà điêu khắc Benedetto Antelami (thế kỷ XIII)

(xin chú ý hình chạm nổi ở giữa: bên trên có một người với được một bụi cây, bên dưới là một con rồng....)

Thật vậy, sau "bốn lần gặp gỡ" (người mù, người cùi, người già và Bilawhar) Yûdâsaf đã phải chịu đựng đủ mọi thử thách. Vua cha nhận thấy tánh tình con mình bỗng dưng đổi thay, bèn dọ hỏi và biết con mình đã cải đạo. Vua cha liền sử dụng đủ mọi xảo thuật để làm cho con mình đổi ý: trước hết ông tổ chức một buổi tranh luận về thần học, thế nhưng Yûdâsaf đã thắng! Sau đó thì ông xúi bẩy con mình ham muốn xác thịt..., thế nhưng Yûdâsaf chỉ bị cám dỗ có một phần, có nghĩa là sau đó Yûdâsaf đã thoát ra được sự cám dỗ, thế nhưng cũng đã sinh được một đứa bé trai. Thấy có người thừa kế, Vua cha vui mừng trở lại và sau đó ông đã cải đạo theo Yûdâsaf...

Cũng khá tương tự với trường hợp của Đức Phật có một người con trai là La-hầu-la (Rahula), Yûdâsaf sau khi có con vẫn tiếp tục lưu lại trong lâu đài của Vua cha, tuy nhiên lúc nào cũng nuôi mộng rời bỏ thế tục để sống cuộc đời khổ hạnh đúng như những gì mà Bilawhar từng đề cao! Một hôm có một vị thiên thần hiện ra và khuyên Yûdâsaf hãy bỏ trốn... Vị hoàng tử bèn rời bỏ lâu đài: đấy là một cuộc "Ra đi Trọng Đại"! Yûdâsaf cởi quần áo để trao đổi với một người ăn mày và sống cuộc đời khổ hạnh mà mình hằng mơ ước. Sau vài năm sống cô đơn "trong sa mạc", Yûdâsaf được thụ giáo về "sự hiểu biết Tối Thượng và Độc Nhất!", và ngay sau đó thì quay lại vương quốc của cha mình để cải đạo cho toàn thể dân chúng, an ủi Vua cha trên giường bệnh và sắp lìa đời. Yûdâsaf phong người giám hộ của con mình làm nhiếp chính, và sau đó thì ra đi vĩnh viễn...

Posted ImagePosted Image

Hai bức minh họa thuộc thế kỷ XV

Tranh bên trái diễn tả cảnh hoàng tử đang than khóc vì bị nhốt trong lâu đài.

Tranh bên phải là cảnh hoàng tử Josaphat ra đi, góc phải phía trên của tấm tranh

cho thấy hoàng tử đang cởi áo để trao đổi với một người ăn mày.

Thật rõ ràng trên đây là các tình tiết nhắc lại những gì xảy ra từ khi Đức Phật ra đi cho đến khi quay lại kinh đô Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu) nơi sinh thành của mình. Vào dịp trở về này Đức Phật cũng đã thuyết giảng cho nhiều người trong vương quốc của Vua cha và sau đó thì họ đã trở thành các vị tỳ kheo..., trong số này có cả con trai của Ngài là La-hầu-la. Thật vậy, hình như các người Á Rập và kể cả những người Ba Tư trước họ nữa, (tức là những người "sáng chế" ra câu chuyện Yûdâsaf và Bilawhar) tất cả có thể đã không hề biết tí gì về các sự kiện trên đây!

Đối với chuyện có một thiên thần hiện ra để thúc dục Yûdâsaf rời bỏ lâu đài Vua cha thì cũng không phải là chuyện do người Hồi Giáo tự bịa đặt thêm, vì nhiều kinh sách Phật giáo cũng kể lại là khi hoàng tử rời bỏ lâu đài Vua cha thì có nhiều vì thần linh hiện ra để nâng bốn chân con ngựa của hoàng tử lên, hầu tránh không gây ra tiếng động khiến có thể đánh thức những người hầu cận trong lâu đài.

Sau đó thì các tập sách bằng tiếng Á Rập kể lại các câu chuyện trên đây đã được chuyển dịch sang ngôn ngữ của xứ Georgia (thuộc Liên Sô cũ).

Đức Phật trở thành thánh Josaphat như thế nào...

Xứ Georgia nằm giữa vùng biên giới chia cách Âu Châu và Á Châu và đồng thời cũng nằm giữa Hắc Hải và biển Caspian, là quốc gia đầu tiên trong toàn vùng đã ngả theo Thiên Chúa giáo, và hơn nữa còn đưa tôn giáo này lên hàng quốc giáo vào thế kỷ thứ VI. Do đó chính trên quê hương này câu chuyện về sự tích Đức Phật đã biến thành một huyền thoại Thiên Chúa giáo. Người ta được biết có tất cả ba văn bản bằng tiếng Georgia khác nhau về câu chuyện này, và các nhân vật thì được gọi là Balawhar và Iodasaph. Một văn bản "dài" được lưu lại đến nay là một bản chép tay vào thế kỷ XI, một văn bản khác thuộc loại "ngắn" là một bản chép tay thuộc vào thế kỷ XII, bản thứ ba là bản xưa nhất thuộc thế kỷ thứ IX rất gần với các bản trước tác bằng ngôn ngữ Á Rập trước kia và cũng là bản ít bị Thiên Chúa giáo hóa hơn cả...

Các người Thiên Chúa giáo bị thu hút mạnh hơn so với những người Á Rập về lối sống khổ hạnh nêu lên trong câu chuyện. Họ xem đấy là lối sống lý tưởng và gần nhất với cuộc đời của Chúa Giê-Xu - cũng có nghĩa là lối sống của Đức Phật đã được Thiên Chúa giáo hóa. Lối sống khổ hạnh đó đã trở thành một thứ khuôn mẫu cho thiên hướng của những người Thiên Chúa giáo: một thứ động cơ thúc dục họ hãy tìm lấy cho mình sự tuyệt đối trong cảnh cô đơn, biểu trưng cho một sự thách đố trước mọi khó khăn và thèm khát - nhất là thèm khát xác thịt! Dù một vài chi tiết trong huyền thoại trước đây đã bị "sửa đổi" và câu chuyện đã được hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa, thế nhưng nhân vật Iodaphat vẫn là biểu trưng cho một con người cưỡng lại được sự cám dỗ của phụ nữ mà Vua cha đã cố tình tạo ra, và Iodaphat đã rời bỏ lâu đài không cần nghĩ đến vợ con và cả ngai vàng...

Sự tích cuộc đời Đức Phật sau khi được truyền bá vào các vùng lãnh thổ Thiên Chúa giáo đã được dịch ra nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau và được sửa đổi để thích nghi với các giáo lý mới. Trong hậu bán thế kỷ thứ X, một nhà dịch thuật nổi danh người Georgia là Euthyme ngụ tại tu viện Ivoron trên ngọn núi Athos của xứ Hy Lạp (Athos là một ngọn núi thiêng của xứ Hy Lạp, vào thế kỷ thứ X nơi đây đã từng có 20 tu viện được xây cất và có đến 2.200 tu sĩ, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng đã từng thăm viếng nơi này) đã dịch câu chuyện này từ tiếng Georgia sang tiếng Hy Lạp, và nhân vật Iodasaph trở thành Ioasaph. Bản dịch này còn lưu lại đến nay dưới dạng một bản chép tay năm 1021. Bản này cũng là bản gốc được sử dụng để dịch sang các ngôn ngữ khác nữa, chẳng hạn như các tiếng Ác-mê-ni (Arménien - Amenian), tiếng Slavia và tiếng La Tinh. Trong bản tiếng La Tinh thì Iosaphat lại trở thành Josaphat, và sở dĩ có sự thay đổi đó là vì tiếng La Tinh không phân biệt giữa hai chữ i và j.

Vào khoảng năm 1047 hay 1048, có một tu sĩ "thích phiêu lưu" đã đến tận Constantinople (ngày nay là kinh đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) và theo lời của chính ông kể lại, thì ông "rất say mê tìm tòi các sách viết bằng ngôn ngữ Hy Lạp và hy vọng sẽ khám phá ra một thứ gì đó để lưu lại ngàn đời"! Và rồi bỗng nhiên có một người tên là Léon đã trao tận tay ông một quyển sách. Trong quyển sách do ông dịch sau này ông có viết thêm một đoạn như sau:

"Vị này (tức người trao quyển sách), nhân danh Chúa Trời và để tôn vinh vị tối thiện Barlaam, đã khẩn cầu tôi dịch tác phẩm này của thời Cổ Đại từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, một thứ tiếng được nhiều người biết hơn. Quyển sách này trước đây bị vùi sâu trong quên lãng và chưa hề có ai dịch, [...]. Tôi tự hứa sẽ dịch thật trung thực từng chữ một, đúng theo cách diễn đạt của người xưa, thế nhưng sau đó thì tôi cũng lại nghĩ rằng trong công việc dịch thuật này, tôi sẽ phải trả cái giá thật đắt vì tôi sẽ sửa đổi một vài chỗ nhằm mục đích giúp cho bản dịch thu hút mạnh hơn những ai có nhiều đức tin..."

Đấy là bản dịch đầu tiên sang tiếng La Tinh và bản này đã được lưu hành trên khắp các quốc gia Thiên Chúa giáo trong thế giới Tây phương thời bấy giờ. Thế nhưng sự thành công vô song của câu chuyện Josaphat thật ra là nhờ vào một tác phẩm của Jaques de Voragine (1225-1298), một nhà thần học thuộc dòng tu Đô-mi-ních, và cũng là vị tổng giám mục địa phận Genova (một thành phố của nước Ý). Tác phẩm này được trước tác vào năm 1264 nhằm ghi lại "Cuộc đời của các vị Thánh" và mang tựa đề là "Huyền thoại Vàng son" ("Légende Dorée"). Quyển sách đã thành công rực rỡ! Câu chuyện về Thánh Barlaam và Thánh Josaphat kể lại trong quyển sách này đã trở thành một câu chuyện ăn khách nhất ("best seller" trong nguyên bản) vào thời Trung Cổ... Thật nhiều các tác phẩm khác, gồm cả văn xuôi lẫn văn vần, đã được trước tác dựa vào bản gốc trên đây, trong số này có cả một số phóng tác dưới dạng kịch bản để trình diễn trên sân khấu, và hầu hết các tác phẩm này vẫn còn được lưu truyền đến nay. Ngoài ra bản gốc trong quyển sách của Voragine trên đây còn được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ Âu Châu như: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ngôn ngữ Provence (ngôn ngữ địa phương thuộc miền nam nước Pháp), Ái Nhĩ Lan, Đức, Anh, Hòa Lan, Na Uy và Thụy Điển!...

Phần đọc thêm:

Tài liệu trên đây còn đưa ra một vài thư tịch giúp người đọc tìm hiểu thêm:

* Hai bài viết của tác giả Serges Leclerc trong tạp chí "Tao Yin" với tựa đề "Đức Phật, Josaphat và Barlaam: “Huyền thoại Vàng son” và thông điệp do tập sách này gửi gấm" (Bouddha, Josaphat : La légende dorée et son message):

http://wusong.free.f...i0/josaphat.htm
http://wusong.free.f...i0/josapha2.htm

* Nhà xuất bản Editions Gallimard phát hành vào năm 1993 một bản dịch từ tiếng Georgia sang tiếng Pháp về cuộc đời của Thánh Josaphat, do hai dịch giả là Annie

Posted Image

và Jean-Pierre Mahé thực hiện. Quyển sách mang tựa đề là "Trí tuệ của Balawhar - Cuộc đời của Đức Phật được Thiên Chúa giáo hóa" (La Sagesse de Balahvar. Une vie christianisée du Bouddha), quyển sách này được xếp vào bộ sách "Tìm hiểu Đông Phương" của nhà xuất bản. Ngoài phần dịch thuật ra, quyển sách còn gồm thêm một phần giới thiệu thật xuất sắc. * Nếu muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của Thánh Josaphat dưới dạng hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa thì có thể xem trang web của Thụy Sĩ. Trang web này đã đưa lên toàn bộ tác phẩm "Huyền thoại Vàng son" của tu sĩ dòng Đô-mi-ních là Jaques de Voragine:

http://www.abbaye-sa.../tome03/181.htm

Ngoài ra thì bài viết trước đây của người dịch về câu chuyện Barlaam và Josaphat cũng đã được đưa lên một số trang web:

http://www.thuvienho...15-2_10-2_12-1/

http://www.quangduc....oasaph-_R1_.pdf

Saint Géniès de Magoirès, 24.09.11

Hoang Phong chuyển ngữ

* Câu chuyện về Thánh JOSAPHAT
hay là chuyện Nhà thờ Thiên Chúa Giáo từng phong thánh cho Đức Phật
Tài liệu của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu
(http://www.bouddhismes.net/node/189)
(Hoang Phong chuyển ngữ)

http://phathoc.net/thoi-su/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay