Posted 14 Tháng 6, 2012 Chữ Tương Khi là công nhân hay sinh viên ở chung phòng cùng một người khác dù quốc tịch nào, chỉ cần treo một chữ TƯƠNG 相 để ngắm mà ngẫm, vì đó là chữ do người Việt biết ghép Âm Dương mà tạo ra MỘT MỘT = MỘC 木 MỤC 目 = TƯƠNG 相 = “Tình Thương” = Tương, để biết thẳng thắn, thương yêu, giúp đỡ nhau, tương trợ nhau (như người Mỹ), bởi có Mắt mới có thể Mọc ra cây Măng tre thẳng, vậy là Minh 明, Minh = “Một Kinh” = Mình. Chưa hết, chữ Tương không chỉ nhắc có chừng đó. Về âm tiết nó là hai chữ Một ghép với nhau là Một Một. Về ký tự nó là hai tượng hình là cái cây và con mắt. Tượng hình cây và mắt ở mọi tộc người cổ đại đều vẽ giống nhau, từ phương Đông cho đến Ai Cập, cho đến người da đỏ ở Mỹ. Tượng hình Vẽ cây, sau Viết thành chữ Mộc 木, Hứa Thận giải thích ý nghĩa đó là “Mọc lên từ đất”, mà về sau còn ra đời một chữ khác là chữ Mạo 冒 nghĩa là “đội lên” hay “bốc lên”. Tượng hình Vẽ mắt sau Viết thành chữ Mục 目, rồi thành Mặt 日, là mặt trời. Ánh nắng mặt trời đem đến cho sự mọc lên của cây là một tình thương bao la. Nhưng chỉ trong tiếng Việt mới có lướt “Tình Thương” = Tương. [Trong Hán ngữ chữ Thương 傷 không hề có nghĩa là tình yêu, nó chỉ có nghĩa là vết thương, là sự đau , như dùng từ “thương tâm 傷 心” nghĩa là đau lòng, Hán ngữ chỉ mượn chữ Ái 愛 của tiếng Việt (chữ Ái xuất phát từ cái Nôi khái niệm “con người” của tiếng Việt là: A = Ai = Yêu = Ái = Ngài = Người , trong tư duy là từ đôi đối Yêu//Ái) , Hán ngữ mượn chữ Ái để diễn đạt tình yêu và gọi là “ái tình” hoặc Hán ngữ mượn các biến thái khác của chữ Lòng//Long của tiếng Việt như mượn chữ Luyến 戀 để ghép thành Luyến Ái 戀 愛 (“từ nguyên” của Luyến Ái là “Lòng Yêu”), như mượn chữ Lân 憐 ghép thành Khả Lân 可 憐 để diễn đạt Lòng yêu thương, mà chữ Lòng là của tiếng Việt (Long = Lòng = Luyến = Lân ) , Hán ngữ còn mượn chữ Lâm Ly 淋 漓 để diễn đạt sự đau lòng, mà “từ nguyên” của chữ Lâm Ly là chữ “Ruột”, Ruột = Rầu Rĩ = =Râm Rỉ= Lâm Ly)] Chữ Tương do người Việt đặt ra, mang nghĩa là tình thương như tượng hình biểu ý của nó ghép bằng Cây và Mặt trời. Bản chất hoạt động sinh trưởng của cây là Mọc, nên người Việt gọi cái hình vẽ Cây ấy là chữ Mộc. Bản chất hoạt động của Mặt trời là như con Mắt lục lọi khắp mọi xó xỉnh trên mặt đất, nên người Việt gọi lướt con “Mắt Lục” = Mục, ghép hai vật thể đó lại với nhau là Một Một để đại diện hai người Kinh yêu nhau, mà “Một Kinh” = Mình, nên chữ Tương ấy cũng gọi là chữ Mình, mà hai Mình là cùng nhau nên về sau Hán ngữ sử dụng chữ Tương đó với nghĩa là Nhau. Do vậy trong tiếng Việt có từ Giúp Nhau, lại cũng có từ Tương Trợ là từ Việt-Hán. Bản thân chữ Tương trong tiếng Việt vốn diễn đạt Tình thương, đã là tình thương của hai người cùng nhau “Mình với Ta tuy hai mà một” nên Tương = Giường = Giềng = =Xieng (tiếng Hán), chữ Tương nhắc cảnh giác với chuyện ngoại tình với láng giềng. Bản thân chữ Lòng của tiếng Việt cho ra lòng thiện, Lòng = Long = Lương = Lành. Nhưng cái tư duy bản địa Lương vốn mộc mạc, chỉ thiếu giữ gìn là bị Ngoài nó phá hư thành ra Lường, là từ đối Lương/Lường. Nên chữ Tương cũng nhắc cảnh giác kẻo bị láng giềng nó lường gạt. Ở gần nhau thì Gần = Cận = Lân = Lờn = Láng = Lìn (tiếng Lào)= Chin (tiếng Hán)= Lín (tiếng Hán). Do từ nguyên “Gần” và “Tương” mà có từ ghép chỉ hai người ở cạnh nhau là Láng Giềng. Tiếng Việt có từ Lân Cận, Láng Giềng, Hán ngữ phát âm là Lín Chin, Xieng Lín. Chữ Tương là ghép hai từ “Một Kinh” “Một kinh”, cũng đọc là Mình.Từ “Một Kinh” tiếng Sài Gòn xưa vẫn nói là “Một Kây” để chỉ cái gì tốt nhất, người Mỹ học từ đó, nói là “Ô Kây”, viết là O.K. Share this post Link to post Share on other sites