Posted 13 Tháng 6, 2012 Lời giới thiệu ở mạng tra online “Thuyết Văn Giải Tự” của tác giả Hứa Thận (Đông Tấn) viết: Hứa Thận căn cứ hình thể của văn tự, sáng lập 540 bộ thủ, đem 9353 chữ phân biệt qui vào 540 bộ. 540 bộ lại căn cứ hình hệ qui nạp thành 14 nhóm. Tự điển của Ông dựa 14 nhóm này mà chia thành 14 thiên, mục lục ở quyển cuối riêng thành một thiên, cộng lại toàn sách có 15 thiên. “Thuyết Văn Giải Tự” gồm 15 quyển, trong đó Tự Mục là 1 quyển. Trong cuốn sách, Hứa Thận trình bày 6 qui luật tạo chữ của Hán tự, gọi là lục thư. Đầu tiên “Thuyết Văn Giải Tự” trình bày Tiểu Triện. Nếu Cổ Văn và Tiểu Triện không giống nhau thì liệt ra ở mặt sau. Sau đó giải thích bổn nghĩa của chữ này, rồi giải thích quan hệ giữa hình chữ với nghĩa chữ hoặc âm chữ. Bộ thủ trong “Thuyết Văn Giải Tự” trình bày dựa theo nguyên tắc giống nhau về hình thể hoặc gần nhau về ý nghĩa. “Thuyết Văn Giải Tự” đã khai sáng việc đơn giản hóa bộ thủ, từ điển của hậu thế đa số là áp dụng theo cách này. Đoạn Ngọc Tài nói rằng sách này là “Thử 此 tiền 前 cổ 古 vị 未 hữu 有 chi 之 thư 书, Hứa 许 Quân 君 chi 之 sở 所 độc 独 sáng 创”- Từ cổ chưa có sách nào như vầy, đây là sáng tạo độc đáo của Cả Hứa” Trong câu trên của Đoạn Ngọc Tài, gọi Hứa Thận là “ Ông Hứa”, nhưng viết theo Hán ngữ là “Hứa Quân”, chữ Quân này ở Hán ngữ phát âm lơ lớ là “chuyn”, dùng để (1) là chỉ Vua, (2) là dùng để tôn xưng người đàn ông. Vậy “từ nguyên” của nó là từ “Con” của tiếng Việt. Qui tắc Tơi-Rỡi tôi nêu là: Thay Tơi hoặc thay Rỡi của một từ sẽ tạo ra từ mới đồng nghĩa với từ ấy. Ở đây cái Nôi khái niệm trong đó có từ “Quân” là cái Nôi của một từ gốc là của tiếng Việt. Để giải thích điều này, hãy đi từ dẫn giải sau: Mọi dân tộc đều phát âm chuẩn giống như nhau cái chữ A, nên chữ A được xếp đầu bảng Anphabet, từ A đến Z (chỉ có Bộ GDĐT VN là đã hoàn thành dự án “soạn lại, in, phát hành sách dạy lớp 1 bắt đầu dạy từ chữ E”, từ nhiều năm trước). Bắt đầu bằng chữ A. Vậy mà chỉ có tiếng Việt là chữ A đúng nghĩa của Tiếng và động tác mở Miệng (lướt: “Mồm nói thành Tiếng” = Miệng, con vật chỉ có “mồm”, không phải “miệng”) của đứa bé Việt chào đời: HÁ miệng khóc A...A…A…(Từ “mở” tiếng Anh là “ âu-pờn”, tiếng Nga là “ốt-krứt”, tiếng Hán là “khai”) để đứa bé khẳng định là nó vừa mới từ DẠ mẹ mà RA. Rồi cái dạy đầu tiên mà mẹ nó dạy cho nó ngay cả khi nó còn ẵm ngửa, chưa biết nói, là cách đáp lịch sự là Ạ ở cuối câu, mà Ạ = Dạ = Dã 也. Chữ Dã 也 của “Hán ngữ cổ”, và cũng chỉ có ở “Hán ngữ cổ”, cũng chỉ đặt cuối câu, như ngữ pháp Việt, ví dụ câu đáp: “Nó con gái ạ” hoặc “Dạ, nó con gái ạ” ( “tha nữ nhi dã”. Câu của Hán ngữ là “tha thị nữ nhi”). Ạ = Dạ = Dã = Là, và câu đáp sẽ là: “Dạ, nó là con gái ạ”. A = Ai = Ngài = Người. A = Ai = Ái = Yêu, có con người là có tình yêu (“Nhân chi sơ, tính bổn thiện) A – Cha – Mẹ . A – Cả = Kẻ = Ké = Con = Cái = Cò = Cao = Cau = Quân = Quan = Kô = Cu = Tu = Tí = Tử. Từ chữ Cả đến chữ Tử đó là những từ để chỉ một con người, trong chung một Nôi khái niệm của tiếng Việt mà từ gốc là từ Cả. Trong những từ ấy thì “Cao”, “Cu” là người Vân Kiều dùng, “Cau” là người Philippin dùng, “Ké”, “Tu” là người Tày dùng, “Cò” là người Thái dùng, “Kô” là người Nhật dùng (nói đầy đủ là “Kô-đô-mô”, nhìn cũng thấy bóng dáng từ “Kô-đô…” là “con đỏ …” = dân đen, trong tiếng Việt), “Quân 君”, “Quan 官”, “Tử 子” là người Hán dùng. Người Việt quan niệm bình đẳng nam nữ, tôn xưng một con người, đàn ông hay đàn bà đều gọi là Cả. Ai ở Sài Gòn đều biết quán cơm nổi tiếng từ xưa của bà Cả Đọi ở trung tâm quận Nhứt. Từ cái NÔI của Việt mà có NÓI là “thuyết phục được tất cả”, NÒI là “sáng tạo ra tất cả”. Chính cái NÔI mà tôi chọn gọi là Nôi khái niệm, nó cũng đã là cái Nòi đem lại sự sống trên trái đất, khi theo qui tắc Tơi-Rỡi mà dẫn thì sẽ thấy: Nôi = Côi = Lồi = Lời = Trời = Trên = Lên = Then = Thiên ( tiếng Tày dùng chữ Then, tiếng Hán dùng chữ Thiên 天), là của thế giới Dương. Còn của thế giới Âm thì: Nôi = Cội = Cối = Dội = Dưới = Diêm. ( Từ Thiên Vương và từ Diêm Vương là từ gốc Việt chứ không phải là “từ Hán Việt” ). Tiếng Việt cổ gọi đấng tối cao là Côi Lời (sách dịch Kinh Thánh có câu “Sáng danh Chúa ở côi lời”, có từ “Đức Chúa Lời”, côi lời nghĩa là trên trời, cấp côi nghĩa là cấp trên, do từ đối Cội/Côi như Dưới/Trên). Từ Cả của tiếng Việt còn có nghĩa là người lãnh đạo. Từ Cả của tiếng Việt còn có nghĩa là Thắng, “được ăn Cả, ngã về không” là hình ảnh trong đấu vật. Bởi vậy người có thể sáng tạo ra tất cả,lại thu phục được tất cả, tiếng Việt gọi là Cả Nòi (cái dốc cao hiểm trở nhất ở tỉnh Hòa Bình có tên là dốc Cò Nòi. Con đầu đàn súc vật gọi là Con Nòi). Từ Cả Nòi tiếng Nhật gọi là Ka Nai (nghĩa là cao thủ). Người Đài Loan gọi là Ta Nin (viết chữ là Đạt Nhân 達 人). Nam Bộ gọi Cả Nòi là Cha Nội vì tránh chữ Cả (mặc dù biết rằng “anh Cả, anh Hai, cả hai đều là anh cả”). Người được sùng kính gọi là Cha Cả. Vậy thời xưa thì Lão Tử là Cả Lão, Khổng Tử là Cả Khổng. Như trong văn trên thì Đoạn Ngọc Tài tôn xưng Hứa Thận là “Hứa Quân” tức Cả Hứa. Thi Kinh là Thơ của người Kinh, có câu đầu của bài đầu tiên là “Quan quan thư cưu… “, tôi đã phát hiện nó là tiếng Việt “Con con cù cu…” vì Hán tự “quan 官 quan 官…” là hai ông quan sóng đôi thì chẳng có nghĩa gì cả, rồi họ giải thích “thư cưu” là một “loài chim cổ, giống đại bàng, ăn cá (đại bàng có “bói” cá chăng?). Ở đây nói “con con” là hai con chim sóng đôi với nhau ( Bài thơ nói về tình nghĩa vợ chồng chung thủy như đôi chim cù cu). Do khái niệm Âm Dương là của người Việt, nên ngôn từ theo Qui tắc Nở: một từ như một Trứng trong Nôi sẽ nở ra hai Tiếng, một tiếng Âm có thanh điệu Nhóm 0, và một tiếng Dương có thanh điệu Nhóm 1. Những tên động vật (vì động vật đều nở ra từ trứng) đều có kết cấu là từ đôi đối như vậy. Ví dụ: Cù//Cu, Chiền//Chiện, Se//Sẻ, Cun//Cút, Cồng//Cộc, Cà//Cưỡng, Hồng//Hộc, Kền //Kên, Cà//Cuống, Cân//Cấn, Săn//Sắt, Nòng//Nọc, Niềng//Niễng , Châu//Chấu, Đòng// Đong, Chem//Chép v.v. Gọi chung tên chim là Cù Cu, nhưng một đôi chim Cù//Cu thì con đực là con Cu, Cu = Cưu, con cái là con Cù, Cù = Thủ = Thư (vì nó thủ giữ ấp trứng). Cũng như con gà còn gọi là con Cà//Kê, một đôi thì con Kê là con Mái, Mái = Thái = Thư (sau nâng ý có từ Thư Thái nghĩa là dễ chịu, cũng có nghĩa bóng là con mái nó dễ chịu cho con trống nó đạp), con Cà là con Trống, Trống = Hống = Hồng = Hùng ( núi Hồng Lĩnh còn gọi là núi Ngàn Hống, vì Núi = Non = Ngọn = Ngàn). Từ đó mà Hán ngữ có từ Thư Kê và Hùng Kê là Gà Mái và Gà Trống. Hán ngữ là dựa trên nền của “Hán ngữ cổ”, “Hán ngữ cổ” là dựa trên nền của tiếng Việt. Theo cách đọc như Hứa Thận “thiết” thì “Hán ngữ cổ” là tiếng Việt chỉ có ngữ pháp thì là Hán. Cha=Ta=Tía=Tia (“Tia” là người Hoa Nam dùng). Mẹ = Mệ = Mế = Mợ = Mự = Má. Lướt “Mẹ Âu” = Mẫu, đó là đạo thờ Mẫu của người Việt từ thời Lạc Long Quân - Âu Cơ. Khái niệm Âm Dương là của người Việt. Ở cái miệng phát âm nó chia rõ động tác Ngậm kín miệng và Dang há miệng, nên Ngậm = Âm, Dang = Dương. Hán ngữ phát âm Yin Yang thì miệng đều há hết. Thanh điệu Hán ngữ có 4, chia ra (1) là Âm (như thanh “không” tiếng Việt), (2) là Dương (như thanh “sắc” tiếng Việt, (3) là Thượng (như thanh “hỏi” tiếng Việt), (4) là Khứ (nằm giữa thanh “nặng” và “huyền” của tiếng Việt). Tuy trong 4 thanh điệu có một thanh tên “Âm”, một thanh tên “Dương”, nhưng Hán ngữ chẳng đề cập gì đến ngôn từ Hán có tính Âm tính Dương. Ngay Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, ông không đề cập tính Âm Dương của ngôn từ hay của thanh điệu, chỉ có giải thích liên quan của từ với ngũ hành, ví dụ giải thích chữ Thủy thuộc ngũ hành là màu đen. Do khái niệm Âm Dương là của người Việt nên hệ đếm nhị phân là của người Việt, mà hai con số nhị phân là Mô/Một = 0/1. Mô = Vô = Hố = Hư (bị Hố là bị không được gì), từ đó có tư đôi Hư Vô. Chữ Mô này chỉ có trong “Hán ngữ cổ”, nghĩa là không, Hán phát âm là “mua” viết là chữ Mạc 莫, còn Một thì Hán phát âm là “mu” hoặc phải phiên thành hai âm là Mô-Tờ (“mu-thừa”) vì họ không có âm tắc như –ôt, hoặc âm ngậm như -ôp, -ôm, - ông. Do tính Âm Dương mà người Việt chọn gì cũng phải có hai, bài trí đối xứng, ghép Một Một để mong có Âm có Dương mới thành Nôi-Nở-Nhiều. Đó là ý nghĩa khi ghép hai Một là Mộc 木 Mục 目 thành chữ Tương 相, mà nghĩa của tiếng Việt là lướt “Tình Thương” = Tương. Share this post Link to post Share on other sites