Posted 12 Tháng 6, 2012 MỘT Không bàn về tư duy, mà bàn về cơ thể. Ở cơ thể con người thì cái Trong và cái Ngoài cho ta từ đối Dạ/Da. Cái Trong của cơ thể là Dạ, là cái chứa đựng lục phủ ngũ tạng, tức nó rỗng mới chứa được. Từ nguyên của Dạ là Ruột, nhưng từ nguyên của Ruột lại là Rô là con zero số 0 vì nó phải trống rỗng như chữ O mới dùng để mà đựng, nó là Rô vì nó là “Ra từ Ô”=Rô của lõi của NÔI: Ô=Rô=Ruột=Rà=Dạ=Dung=Cung=Cọng=Cống=Cuống=Quản, đều là những cái rỗng để có thể đựng. Ruột = Luột = Lòng= Lõi = Lượt = Hướt = Huyết = Tiết = Miết =Mải= Mạch=Máu, là những cái Trong, hoạt động không ngưng nghỉ của cơ thể (trâu bò ăn suốt ngày, đêm còn ợ ra nhai lại). Tiếng Thái thì “Lượt” nghĩa là Máu, tiếng Hán thì “Xuể” nghĩa là Máu. Dạ Con cũng là Cung Tử, từ “Tử Cung” là từ Việt-Hán vì nó có “từ nguyên” của Việt, ngữ pháp ngược của Hán. Cái Ngoài của cơ thể là Da, theo qui tắc Tơi-Rỡi: Da=Giáp=Giác, Giáp là cái để vệ ngoài như từ “áo giáp”, cũng gọi là cái Vè, như vè chắn bùn ở xe máy, “Vỏ Che”=Vè=Vệ; Giác là phần vỏ ngoài của thân cây gỗ, nó non hơn lõi gỗ nên không dùng đóng đồ. NÔI chính là cái dạ con, nó là RUỘT nên nó cũng là MÁU, bởi vậy NÔI=NÒI, là cái hòn máu để sinh ra con người. Nôi=Nõn=Noãn=Nòi là hòn Máu và là “Máu Ủ”= Mủ ở trong Nôi nên có thành ngữ “Máu Mủ Ruột Rà”. Cái “Ruột Máu”= Rau là cái Cuống nối thai với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng. Dạ con là cái đựng, tức NÔI=Cối, bên trong sự chứa là cái Chửa = = Chày = Chồi = Cồi = Cội = Con. Cái Chày ở trong lòng cái Cối sẽ cho ra sự sinh nở là thành Con. Nhưng Con lại là Kinh, dân tạo nên NÔI, tức khái niệm Âm Dương là của dân Chày Cối (như hình vẽ trên trống đồng). Một người Kinh cổ đại tự xưng mình bằng đại từ “Kinh” (lấy tên tộc người làm đại từ nhân xưng ngôi một, là hiện tượng phổ biến ở các sắc tộc), tự xưng là Kinh bởi do Kinh đẻ ra (truyền thuyết Kinh Dương Vương cũng nói rõ như vậy, do Kinh rồi mới sinh ra trăm trứng, đó là cái Kinh Vựa = Kinh Văn = Cung Vua = Dung Chửa = Dạ Con. Tự xưng là “Kinh” thì cũng như là tự xưng là “Con”). Tiếng Anh lại gọi “King” là Vua. Tiếng Việt: Vua=Chúa=Chủ (“Thằng đó là Vua ý tưởng”, nghĩa là mọi ý tưởng đều từ thằng đó mà ra). Lướt “Kinh Đẻ” = Kẻ = Con = Cu = Cò = Cao = Cau = Tau = Tui= =Tôi. “Con”, “Tau”, “Tui”, “Tôi” là những đại từ nhân xưng ngôi một mà người Kinh tự xưng, “Cò” là người Thái tự xưng, “Cao” là người Vân Kiều tự xưng, “Cau” là người Philippin tự xưng. “Tôi” là do xuất xứ “Từ Nôi” = Tôi. Mà NÔI = = NƯỚC nên Tôi cũng là từ Nước mà ra (khởi nguyên môi trường sinh vật), đó là chữ nước cổ nhất của tiếng Việt là từ Té, trong từ đối Té/Tá = Nước/Lửa. Nước là nguồn Năng nhiều nhất cũng như Nắng, qui tắc Nở trong nôi đã làm cho cái trứng Năng tách đôi Âm Dương thành Nước/Nắng. Qui tắc Tơi-Rỡi thì: Té=Túc=Tức(tiếng Khơ me)=Đức=Đầy=Đủ =(= “Zú” tiếng Hán)=Đắc=Đác(tiếng Tây Nguyên và tiếng Choang)=Lạc=Nác( tiếng Mường)=Nước=Nậm (tiếng Tày)=Nam(tiếng Thái Lan)=Lam (màu phản chiếu bầu trời của nước) = Lầm = Đậm = Đà = Đen = Phèn= = Thẻn = Than = Thâm (màu ngũ hành của nước) = Thủy (=”Suẩy” tiếng Hán). Hán ngữ dùng từ “Zú” nghĩa là đầy (tính nhiều của nước) và “Suẩy” (bản chất của nước) Từ đôi Té Nước nghĩa là nhiều nước (lễ hội cầu mong có nhiều nước của dân văn minh lúa nước phương Nam). Té cũng được dùng như động từ, nghĩa là lấy nhiều nước, Té =Tát = Tạt= Té Tát..Tức Nước cũng nhấn ý đầy nước. Túc nghĩa là đầy , là bản tính của nước luôn xu hướng Đầy=Đẩy về mọi hướng (thấm, lan, bốc hơi, nở khi nóng hoặc đóng băng). Hán ngữ dùng chữ Đức nhưng nâng thành trừu tượng (thực nghĩa của Đức là tính đầy và mát của nước, nâng ý lên thành tính thiện, tính “chu đáo” nghĩa là “vòng ngoài luôn đầy” để nói xử thế bằng tính thiện). Nước Nam cũng còn có nghĩa như từ đôi, nghĩa là vùng nhiều nước. Thời đã chuyển từ giáp cốt văn sang chữ khoa đẩu rồi đến có “vuông Chữ Nho nhỏ” mà qui tắc Vo đã vò rụng đầu ( “vuông” ) và đuôi (“nhỏ”) còn cái lõi giữa là “Chữ Nho”, người Việt gọi thứ chữ vuông ấy là chữ nho, thì người Việt đã có cái nền Rễ=Lễ rất nho nhã, nên thường xưng một cách tự tin và lễ phép là Tôi Ạ, và lướt “Tôi Ạ”=Ta và coi người đối thoại dù thuộc sắc tộc nào khác cũng vẫn là như Ta, là “Một Kinh”= Mình. Mình=Mày=Mừ (tiếng Tày-Thái). Khi Một là ngôi thứ nhất thì Mai là ngôi thứ Hai, Hai=Lai (như Tương Lai)=Lái (như Thương Lái). Mai=Mày=Mới=Mi=Nhì=Nhị [ Người Thái chào chia tay nhau: “Ta đi nghe, Mày cứng nghe !” là: “ Cò dù nư, Mừ còn nư !”. Nghe=Nè=Nê (tiếng Nhật)=Nư (tiếng Thái)=Hử=Hỉ=Nhỉ=Nhé=Nhá=Nhẩy=Hầy (tiếng Nghệ An, Quảng Đông)=Hày (tiếng Nhật). Cứng=Còn=Cường. Đi=Vi (như Hành Vi) = Vô=Dô (tiếng tộc Eve châu Phi)=Dù (tiếng Thái)=Du (như Du Hành)=Do (như Tự Do)]. Ca dao: “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về Ta nhớ hàm răng Mình cười”, đương nhiên là răng ấy “răng đen nhưng nhức hạt huyền” thì mới có Đen=Đẹp, cộng với làn da Trắng=Sắc để có từ đôi Sắc Đẹp theo như quan niệm của người xưa. Khái niệm sắc đẹp khi còn trong tư duy thì nó là từ đôi đối Sọi//Sắc.Trung Bộ dùng từ Sọi để nói người đẹp. (Hán ngữ phát âm từ Sọi này là “Soai” và Sắc là “Xưa”). Cái NÔI khái niệm giống như cái bầu hình cầu biểu tượng Âm Dương, nên còn nằm trong NÔI bao giờ cũng sẵn hai khái niệm 0 và 1: Là Mô rồi thì nó phải biến sang Một, còn ra ngoài NÔI thì đã thành Mai=Hai. Là Nỏ là 0 rồi thì nó phải biến thành Ni là 1, Ni=Nhí=Nhứt=Dứt=Dách (tiếng Quảng Đông nghĩa là 1), bởi vậy “nói Một là một” nghĩa là “nói Dứt khoát”, từ Khoát chẳng qua là một từ do lướt “Khứ mà Thoát” = Khoát, Dứt Khoát nghĩa là “Một cú bỏ quá khứ mà thoát” = “Dứt quá Khứ mà thoát” = Dứt Khoát. Ra ngoài NÔI thì đã thành vỏ nôi là cái Tơi=Tê (là Hai, tiếng Khơme, tiếng Mường). Một-Hai, tiếng Khơme dùng là Muôi-Tê, tiếng Mường dùng là Mọc-Tê, tiếng Việt chỉ dùng khi để chỉ vị trí là Ni-Tê như “bên Ni”, “bên Tê” (tiếng Trung Bộ). Một hệ các số đếm nữa của tiếng Việt là Nhứt-Nhị-Tam-Tứ-Ngũ…Thời kỳ đầu chỉ đếm đến 5 là hết vòng đếm, quay lại, như hệ đếm ngũ phân của người Khơme: Muôi-Tê-Bây-Buôn-Prăm , quay lại “ Prăm Muôi” là sáu (Một-Hai-Ba-Bốn-Năm), đến 5 là nhiều nhất của một vòng đếm nên Prăm là con số nhiều nhất trong một vòng đếm. Prăm=Rậm=Rắm=Dăm=Năm=Lắm=Lạm 濫 =Hám=Hấn 很= Ham = Tham 贪= Lam 婪 = =Lảm=Nhảm=Nhiều=Nhiêu 繞=Nhiên 然. Sau chuyển dần thành hệ đếm thập phân, thì hết con số Lắm tất phải đến con số nhiều hơn là Lâu (mà tiếng Hồ Nam phát âm là Lấu, tiếng Quảng Đông phát âm là Lục, Hán ngữ phát âm là “lìu”). Lâu=Sâu=Sáu. V.v. Hán ngữ mượn từ “Prăm”=Lắm và phát âm Prăm là “rán”, viết bằng chữ Nhiên然; mượn từ Nhiều và phát âm là “ráo”, viết bằng chữ Nhiêu 繞 để dùng trong các từ ghép Phì Nhiêu (“phấy ráo”) là nhiều độ béo, Thiên Nhiên (“thien rán 天 然”) là nhiều thứ của trời, Tự Nhiên (“zư rán 自 然”) là nhiều thứ của tạo hóa. Và bởi từ Lắm nghĩa là nhiều của tiếng Việt đã được mượn sang Hán ngữ thành chữ Nhiên, nên đi với động từ thì Nhiên (tức Lắm) toàn đứng sau động từ như ngữ pháp tiếng Việt, ví dụ: Hiển Lắm viết là Hiển Nhiên 显 然, Mạnh Lắm viết là Mãnh Nhiên 猛 然, những trường hợp khác lại viết theo ngữ pháp Hán thì phải ngược lại, ví dụ Tốt Lắm nói là “Hấn Hảo 很 好”, Hảo nghĩa là tốt. Tiếng Việt có cụm từ “hay gây hấn” tức “hay gây lắm”. Qui tắc Tơi-Rỡi thì: Ta=Ngã. Cái thể hiện lễ phép trong xưng hô là tiếng cuối mang nghĩa khẳng định: Ạ=Dạ=Dã 也= Là = Cà = Đã =Đấy= “Đê” (tiếng Nhật)=Yề (tiếng Hàn)=Tề=Ta=Đà=Đích 的 =Đó=Có=Cơ 的 (tiếng Quảng Đông)= “Tơ 的” (tiếng Hán). Ta là xưng một người. Từ đôi Người Ta là nhiều người. Một con người thì gọi là Người, nhiều con người thì dùng từ đôi Mọi Người hoặc Nhân Dân. Người=Nhân=Dân. Từ đôi Nhân Dân là nhiều người (từ đôi là theo cái lý có Âm có Dương mới Nở ra nhiều). Một người bình thường thì gọi là “Người thường” hay “Dân thường” hoặc dùng từ Việt-Hán là “bình Dân”. (Cái “Thẻ Căn Cước” của riêng cho mỗi công dân, mỗi người có dấu vân tay riêng dùng để căn theo dấu vân tay là cái cước. Hán ngữ cũng gọi chính xác là cái “Thân Phận Chứng”, VN lại gọi là cái “Chứng Minh Nhân Dân”, tức cái chứng minh của nhiều người, chứ không phải riêng ai dùng của người nấy, vì của riêng thì phải gọi là cái “Chứng Minh Công Dân” tức của riêng một công dân. Người ta chỉ dám tự xưng “tôi là một công dân” hoặc nói tắt “tôi là một người dân” là cho câu “tôi là một Người, và là một công Dân” chẳng ai dám tự xưng “tôi là một nhân dân cả”. Cái khái niệm “Chứng Minh Nhân Dân” nhằm trong “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” này đã xuất hiện và tồn tại năm chục năm nay, chẳng thấy các tiến sĩ ở Viện Ngôn Ngữ có ai ý kiến gì. Ba ngôi đại từ nhân xưng trong tiếng Việt đều là ra từ NÔI, và tạo thành các cặp đối ý tương thích 0/1 = Toi/Tôi (ngôi một)= Mô/Mày (ngôi hai)= Nỏ/Nó (ngôi ba). Toi=0, “mất toi” là mất không; Mô=0 (tiếng Trung Bộ, Nam Bộ); Nỏ=0 (tiếng Trung Bộ) = No (tiếng Anh)= không. Còn trong số đếm thì 0/1 = Nỏ/Ni, mà Ni=Nhí=Nhứt=Dứt=Dách (Dách là 1, tiếng Quảng Đông), người Hán mượn cái âm tiết Ni (là từ nguyên của chữ Nhứt) và phát âm là Yi (=1). Vì NÔI là cái dạ con, mà “Ruột Máu” = Rau, nên người Việt đã viết chữ nho biểu ý bằng hai người trong một cái Cung, đó là chữ 肉 Rau=Nhau=Nhục, hiểu nó là cái “rau bà đẻ”, theo nghĩa cụ thể, và là “cùng nhau” theo nghĩa nâng ý, vì có hai người, như chính xác biểu ý của nó. Người Hán mượn chữ Nhục 肉 ấy, phát âm là “râu” và lại hiểu là thịt thực phẩm. Theo biểu ý thì có Một và Một đứng bên nhau thì có nghĩa là cùng nhau. Như trên đã nói, người Kinh tự xưng là Ta, coi người đối thoại dù thuộc sắc tộc nào cũng bình đẳng thân thiện như là Một Kinh khác, nên gọi người đó là Một Kinh và lướt “Một Kinh” = Mình. Thế là có hai ngôi nhân xưng Ta, Mình để đối thoại “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về Ta nhớ hàm răng Mình cười”. Và rồi hai vợ chồng ai cũng nhường từ Mình cho nhau, nên họ gọi nhau là “Mình ơi”, rồi không tự xưng Ta nữa, nhiều khi cũng tự xưng là Mình, thành ra “Mình với Ta tuy hai mà Một, Ta với Mình tuy Một mà hai”, nên người Việt mới ghép hai chữ Một lại gần nhau và gọi đó là chữ Mình. Nhưng chữ khoa đẩu đã chìm sâu hàng ngàn năm trong bụi mờ lịch sử rồi, không còn con chữ cái ký âm nữa, đành phải lấy chữ nho có âm “một” để mà làm “giả tá”, đó là chữ Mộc 木 và chữ Mục 目 ghép với nhau như Một Một 相, nghĩa là Mình và đọc là “mình”. Nhưng cả hai người đều đã gọi đối tượng là “Mình ơi” rồi, nên Mình=Tình=Tình Thương=Tương. Và chữ Mình ấy cũng thành ra đọc là Tương 相, mặc dù hai âm của nó là Một Một chứ không hề có âm nào là “inh” hay “ương” cả . Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận (部首 目部, 拼音 mu4, 反切 莫六切, 解释 人眼。象形。重童子也。凡目之屬皆从目。部首 木部, 拼音 mu4, 反切 莫卜切, 解释 冒也。冒地而生。東方之行。从屮,下象其根。凡木之屬皆从木。徐鍇曰:“屮者,木始甲拆,萬物皆始於微。故木从屮。)giải thích chữ Mộc 木 nghĩa là Mọc từ đất lên, chữ này là chữ Cây 木 Mọc của tiếng Việt, Cây = Ki (tiếng Nhật). Chữ Mục 目 (chính là chữ Mắt của tiếng Việt) giải thích là Nhãn 眼 (chữ Nhãn này lại là do từ nguyên là Nhìn của tiếng Việt, Nhìn=Nhòm=Dòm=Dán=Nhãn, “dán mắt vào mà nhòm”). Người Việt chọn hai âm Một Một = Mộc 木 Mục 目 ghép thành một chữ lại gọi là Mình, bởi tuy hai mà Một, tuy Một mà hai, có Âm có Dương mới Nở ra nhiều, cũng như lướt “Tình Thương” = Tương 相, tình thương càng cho đi thì nó càng nở ra nhiều. Mà hai chữ ghép chỉ là cái Mắt 目 của Cây 木 tre. “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai” ý là “Dụng Nhân như dụng Mộc” // ”Dùng Người giống dùng Cây”. (Sử xưa: Hôn quân, bạo chúa dùng Cầy. Xuýt chó bụi rậm, đến ngày diệt vong). Share this post Link to post Share on other sites