Posted 10 Tháng 6, 2012 Cái Nôi văn hóa (9) Tất cả ngôn từ đều “sinh ra từ trong một”, đó là cái NÔI khái niệm, như tôi đã giải thích chữ NÔI: là cái Ổ, gồm những khái niệm Âm-Negative, và những khái niệm Dương-Innegative, của một NÒI dân tộc, để tạo ra NÓI của riêng mình (Riêng = Rẽ = Lẻ = Loi = Lỏi). Một “Gốc Lên” = Gen chung, lúc ban đầu ở thời tiền sử là có cùng chung một cái NÔI = Nói = Gọi = Gừ = Ngữ = Ngôn. Cái GỐC là cái lõi chữ Ô của NÔI. Chữ Ô, về mặt tư duy thì lõi của Ô là chữ O của ÓC, mà cái sân của chữ o này là “Sân O” = Sọ. SỌ là cái ỐC tức cái nhà của ÓC, giống như cái vỏ của con ốc bảo vệ (“Bao Vỏ Che” = Bảo Vệ) phần mềm của nó. [Khi học sinh lớp mẫu giáo hỏi cô giáo là sao đã nói “giữ gìn” lại còn có khi nói “bảo vệ”. Cô giáo giải thích rằng: Bảo Vệ (như sách của Bộ GDĐT hướng dẫn), gọi là từ Hán-Việt, nó là mượn của tiếng Hán đấy mà, bảo vệ cũng có nghĩa như là giữ gìn (!). Ví dụ: “Từ Điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng. Viện Ngôn Ngữ. Hoàng Văn Hành… NXB KHXH Hà Nội 1991” , trang 31: chữ Bảo, trang 472: chữ Vệ, giải thích nghĩa đều là là chăm sóc, giữ gìn (!). Còn “Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH Hà Nội 1971, in lần thứ hai có chỉnh lý và bổ sung” giải thích từ Bảo Vệ (trang 51): “1.Giữ gìn cho khỏi hỏng hay thất lạc: Bảo vệ của công. 2. Người có nhiệm vụ coi sóc một cơ quan hay giữ gìn an toàn cho một nhân vật” (!). Trong tiếng Việt thì Giữ//Gìn không đồng nghĩa hoàn toàn với Bảo//Vệ, sắc thái chúng khác nhau rõ ràng, do điều kiện của chúng là khác nhau. Giữ Gìn là tự mình lo chăm sóc để bền lâu, Bảo Vệ là đối phó với tác động phá hoại từ ngoài. Nói “giữ gìn sắc đẹp (do tự mình ăn uống, tô điểm), nhưng lại nói “bảo vệ da dẻ” (khỏi xâm hại của nắng nước). Hãy nhìn cái hình ảnh bền vững của văn hóa làng của VN thì rõ, qua câu tôi viết ra đây: “Lũy tre Bao Bọc xóm làng. Vỏ Che tên, đạn, chống làn xấu xa”. Bản thân văn hóa làng đã được giữ gìn bền vững nguyên vẹn suốt chiều dài lịch sử, trong khi nó luôn phải chống chọi với cái xấu xa từ ngoài vào muốn phá hoại nó. ( Một từ “làn” đủ hiểu là tác động ngoài vào như Sóng Tràn. Sóng = Lỏng = Lãng, “Lãng tràn” = Làn. Tiên Lãng//Tiến Láng thì Tiên Lãng là mới chỉ mong đứng đầu ngọn sóng, Tiến Láng thì mới là đang Lướt Sóng thật, Lượt//Lướt cũng như Mạu//Máu hay Mau//Máu, Lượt tiếng Thái có nghĩa là Máu. Mau chỉ là mong làm cho mau, Máu là muốn làm thật, rất Máu tức rất Chóng; từ đôi đối Mong//Muốn; gọi là cái Chong//Chóng chẳng qua vì có khi nó “tĩnh” có khi nó quay nhanh đến chóng mặt, tùy theo lúc ấy có gió hay không). Chẳng có cái gì là của gốc Hán cả, trong tiếng Việt. Lũy tre làng nguyện làm “cái Vỏ Che để Bao cho văn hóa làng khỏi lao đao//lảo Đảo” đã lướt thành hai tiếng “Vỏ Che” = Vệ và “Bao…Đảo” = Bảo thành cái vậtgọi là Vệ Bảo, và tạo nên từ đôi đối Vệ//Bảo, thường dùng là Bảo Vệ để nhắc chú ý trước tiên là ứng phó với cái phá hoại từ ngoài vào, rồi mới đến cái do trong gây (Bảo có thanh điệu thuộc Nhóm 1, trong khi Vệ có thành điệu thuộc Nhóm 0) vì cái ngoài vào nó phá văn hóa bản địa lẹ hơn là cái do mình lơ là giữ gìn]. Cái ỐC này ở con người là để chứa cái tư duy trong óc, tư duy của con người lại là do Trời phú, nên “Trời Ốc” = Trốc. (TRỐC nghĩa là cái đầu, là từ dùng chung trong ngôn ngữ Môn Khơme) . Khi đẻ thì Trốc là cái chui ra đầu tiên, là “Trốc Bước” = Trước. Bên ngoài Trốc còn có lông che chi chít nhiều như Tay của con sâu róm hay các loài côn trùng, gọi là “Tay Trốc” = Tóc [ tiếng Nhật Bản gọi Tay là “Tê”. Gốc của từ Tay nghĩa là cái bên ngoài, như là cái “Tay che nắng Trời” = Tơi ]. Tay = Tóc = Túc = Tu = Thủ. Một âm tiết tức một “tiếng” của tiếng Việt là có nghĩa nhất định, nên nó là một Lời. Cấu tạo thì một Lời gồm cái âm vận là cái Lõi, trước cái Lõi ấy có thể có thêm phụ âm, mà các nhà ngôn ngữ học gọi là “tiền tố” hoặc “tiếp đầu ngữ”, hoặc vắng phụ âm. Tôi gọi chung “cái có phụ âm đầu” và “cái vắng phụ âm đầu” là “Tay Lời” = Tơi, còn phần âm vận tức Lõi, tôi không gọi là “âm vận” mà gọi là cái “Ruột Lời” = Rỡi. Tơi và Rỡi đều phải nhờ Lưỡi tác động đưa ra thành Lời, "Lưỡi Nói" = Lời. Cách đặt “từ chuyên môn” này đúng với qui tắc về thanh điệu trong 6 thanh của tôi nêu là “Qui tắc thanh điệu định hướng cho ý nghĩa của từ theo tính Âm Dương” (chứ không chia theo “Bằng, Trắc” như các nhà ngôn ngữ học đã chia). Bởi nó khớp với từ đôi đối “tư duy tĩnh tại” // “tư duy hành động” của qui tắc thanh điệu tôi nêu, đó là Tơi//Tời = Tải (đưa lời ra), cái Tời là cái dụng cụ có dùng ròng rọc để chuyển tải vật nặng; Rỡi//Rời (đưa lời “Ra Đời” = Rời khỏi óc). Một trong những qui tắc của tiếng Việt nhằm tạo ra nhiều từ mới từ một từ gốc ban đầu mà tôi nêu là Qui tắc Tơi-Rỡi : “Khi thay Tơi hoặc Rỡi của một Lời, thì Lời ấy biến sắc thái nhưng ý nghĩa vẫn nằm trong cùng chung một Nôi khái niệm với Lời gốc”. Qui tắc này đúng khi đối chiếu với Qui tắc Lướt vốn có từ xưa trong tiếng Việt cũng nhằm tạo từ mới đơn âm tiết do lướt hai tiếng hay một câu dài, mà Hứa Thận đã vận dụng cách nay 2000 năm để hướng dẫn cách đọc mỗi từ đơn âm tiết . Ví dụ giải thích từ TÓC theo QT Lướt: “Tay Trốc” = Tóc, cũng từ TÓC giải thích theo QT Tơi-Rỡi: Tay = Tê (tiếng Nhật) = Tóc = Túc = Tu = Thủ = Chu = Chân = Chi = Châu = Râu, đều hợp lý như nhau, vì “tất cả đều là trong một”. Tất cả đều có một khái niệm chung là “cái ở bên ngoài của cơ thể”. Chu hay Châu có nghĩa là cái bên ngoài, “chu vi” là vòng ngoài. “Cổ Hán ngữ” dùng chữ Túc chỉ cái chân của côn trùng, chữ Tu chỉ râu, “tu mi” là mày râu, “xúc tu” là râu con mực như là tay để nó cảm xúc. Hán ngữ hiện đại dùng chữ Thủ chỉ cái tay mà phát âm lơ lớ là “sẩu”, dùng chữ Hồ phiên âm cho chữ Tu để chỉ cái râu, chẳng qua do phát âm lơ lớ chữ Tu của “Cổ Hán ngữ” thành “hú” là chữ Hồ; dùng chữ Chân mà phát âm lơ lớ là “chẻo” để chỉ bàn chân, chữ Thủ còn phát âm lơ lớ chệch đi là “thuẩy” để chỉ cẳng chân. Phát âm lơ lớ thì không thể đọc đúng âm luật của thơ Đường xưa để lại. Bởi vậy muốn tìm “từ nguyên” của Hán ngữ hiện đại thì tìm về “Hán ngữ cổ”, nhưng muốn tìm “từ nguyên” của “Hán ngữ cổ” thì tìm về sâu xa hơn tức về tiếng Việt Nam. NÔI khái niệm là một cái chung sinh ra ngôn từ Việt, tương tự, mọi sáng tạo văn minh tương lai của loài người đều từ con số nhị phân 0 và 1, như một nhà khoa học người Đức đã nói từ nhiều thế kỷ trước. Vậy mà chỉ có tiếng Việt là có hệ đếm nhị phân đầu tiên là con số 0 và 1 từ khái niệm Âm/Dương của mình, đó là con số đếm Mô/Một. ( Một là số đếm đầu tiên trong hệ đếm của ngôn ngữ Môn Khơme ). Khái niệm Mô/Một cho thấy hình ảnh của “cây tre Việt Nam”, thân cây tre có đặc điểm là vỏ ngoài cứng, ruột trong rỗng, nhưng mỗi đoạn ruột trong có phần đặc mỏng như màng chắn, chia thân tre thành nhiều Lóng = Tróng, và chỗ đó liền với vỏ thành cái Mố như mố cầu mà phần vỏ là như cái nền cầu, để Mọc ra những cái Mắt ra ngoài vỏ, để rồi Mắt sẽ Mọc lên thành cành tre hoặc Mọc thành cây tre con nếu giâm lóng tre xuống đất ẩm cho ra rễ. Ruột của tre là rỗng , về vị trí thì cái rỗng đó là bên trong , nó tuy rỗng nhưng do vị trí của nó mà nó gây ra cái từ đôi đối Long//Lóng tương tự như Trong//Tróng, mà cho ra cặp đôi đối Trong Long//Tróng Lòng Chính cái “tư duy hành động” của cây tre là ở chữ Tróng Lòng này, cái mà người ta sử dụng nhiều nhất cho tiện ích từ cây tre là Lòng tre (cật tre) mà nó lại nằm vị trí ngoài là cái vỏ ( khác với cây gỗ thì cái gỗ phần vỏ là cái Da = Giáp = Giác, giác gỗ phải rọc bỏ đi vì nó không cứng để làm được vật liệu cho sản xuất đồ dùng). Chính vì vậy người ta mới nhận xét cây tre như là “ruột để ngoài da” để ví với những người tính tình thẳng thắn (rồi bạn đọc sẽ thấy là không gì có thể bịt được cái Nói của con người, khi tìm hiểu cái lý trong từng âm tiết của tiếng Việt . Người ta chỉ có thể phản biện, tranh luận, để cho ra cái đúng mà thôi, nôm na gọi là “làm cho ra nhẽ”). [Ca dao: “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai”. Câu này là tiền đề của câu “Dụng nhân như dụng Mộc”. Cả câu này hoàn toàn thanh điệu Nhóm 0, nói cái suy nghĩ bên trong của người cầm đầu, để sang hành động thì Suy Nghĩ chuyển thành Ý Đồ, và khi đã hành động thật sự thì thành câu thanh điệu hoàn toàn thuộc Nhóm 1, là câu “Dùng người giống dùng Cây” ( Anh ta nghĩ: phải dụng nhân như dụng mộc rồi trong thực tế anh ta đã thực sự dùng người giống dùng Cây). Vậy mà trong câu tư duy hành động “Dùng người như dùng Cây” vẫn còn một từ Cây là thanh điệu thuộc Nhóm 0, bởi vì ý muốn nói là dùng cái tư duy (Nhóm 0) của con người, như Cây (Nhóm 0) , tức dùng cái chất xám của con người. Từ đôi đối nói về chất xám là từ Xam//Xám mà chữ Xam là cái tư duy tĩnh tại, nó chính lại là gốc của từ San trong tiếng Tây có nghĩa là Thánh (Nhà tiên tri ấy Thánh thật. Là nói cái tư duy siêu đẳng của ông ấy). Nhưng nếu kẻ cầm đầu dùng người mà quá “tư duy hành động”, tức là dùng kiểu chụp giựt, thì câu ấy biến thành hoàn toàn thanh điệu Nhóm 1, là câu “Dùng người giống dùng Cầy” thì lại thất bại, như bao hôn quân bạo chúa từng có trong lịch sử. Cái Mắt của cây tre VN thì dù có chiến tranh đàn áp khốc liệt mấy nó vẫn Mọc như Mặt trời vẫn Mọc. Cái Mắt của cây tre VN thì dù người ta có bưng bít, xuyên tạc lịch sử đến mấy nó vẫn thấy được cái đúng của lịch sử, như tám quẻ trong Bát Quái (“quai”) cũng chỉ là cùng (“đồng”) một mà ra, trong câu "Nồi đồng có quai"]. Vỏ = Bó = Mo = Mặt = MỘT = Cột = Cốt = Chốt = CHẮC = Chêm = Chặt = Chật = Cật = CẶC = Đặc = SẮC = Tắc = Tim = Tâm 心 = Tăm = Tức = Thực 實. Đó là tất cả những ứng dụng của thân cây tre nhờ cái cật cứng của nó, từ chức năng lớn như là làm cái Cột đến cái chức năng nhỏ như là làm cái Tăm. Ruột = Rỗ = Mố = Mắt = MÔ = Lỗ = Lóng = LÉP = Lỏng = LỒN = Rốn = Rỗng = KHÔNG = Ống = Cống = Quản 管. Cái rỗng của cây tre cũng có ứng dụng làm ống, cống, quản. Từ cái NÔI làm bằng cây tre Việt Nam, rất đơn giản và cụ thể, đã ra các cặp đối Âm Dương là: (1) MÔ/MỘT của số đếm nhị phân, (2) LÉP/CHẮC của số đếm thập phân từ con số Chắc cho đến con số Chục. [ “Chắc” tiếng Tày nghĩa là Biết, có 1 mới là biết, còn 0 là chưa biết gì. Ở khái niệm này, tiếng Việt có từ đối Bất/Biết như là 0/1. Chục=Chập=Xấp=Xếp=Xập (tiếng Quảng Đông)=Thập, là những từ dùng đếm vật liệu, như một chục trứng, một xấp giấy, một xếp tiền]; (3) LỒN/CẶC của sinh thực khí trong tư duy phồn thực; (4) KHÔNG/SẮC của Phật giáo. Hai cái Nôi khái niệm từ Vỏ tre và Ruột tre, người Hán chỉ mượn có ba chữ là Tâm 心, Thực 實, Quản 管. Nếu ta lấy một khúc ống sắt tròn dài 8 cm, đặt khúc ống ấy nằm quay mặt cắt tròn về phía ta nhìn, và một thanh sắt tròn cũng dài 8 cm để cùng làm “giáo cụ trực quan” dựng đứng bên cạnh, ta sẽ nhìn thấy rõ hình ảnh số 0 và số 1 do ống sắt đặt nằm và thanh sắt đặt đứng tạo nên. [Thanh sắt đặc như thế này thì người Đài Loan gọi là “Thiết Tâm 鐵 心” nghĩa là sắt đặc, kết cấu xuôi như tiếng Việt.; còn người Trung Quốc gọi là “Thực Thiết 实 铁” nghĩa thì cũng là thanh sắt đặc, nhưng kết cấu ngữ pháp ngược, Thực là đặc, Thiết là sắt. Còn từ “Thiết Tâm 铁 心” thì người TQ đặt dùng và hiểu đó là cái “lõi sắt” là cốt của cái biến áp. Tương tự, tiếng Việt có từ đôi đối Cam//Cám. Người Việt nói “Cám ơn”, người Đài Loan nói “Cam un”, người Hàn Quốc nói “Kham xa ham ni đa”, người Trung Quốc nói “Xie xie” (tạ tạ) ]. Từ đôi đối chỉ rõ “tư duy tĩnh tại” // “tư duy hành động” cho thấy rất rõ như Cam Canh//Cám Cánh . Cam Canh là giữ nguyên. Cám Cánh và Cám Cảnh mới là cái suy nghĩ đến cái gì đó bên ngoài. Cũng như Cữu Canh là suy nghĩ giữ bên trong, canh giữ lưu cữu ở bên trong, nhưng Cứu Cánh là “suy nghĩ để hành động” với vấn đề gì đó bên ngoài, như câu hỏi: “Đâu là cứu cánh cho vấn đề đó? “ (đừng lẫn với từ đồng âm dị nghĩa là từ “cứu” trong “giải cứu” và “cánh” trong “tung cánh bay”). Về sau từ Canh của tiếng Việt kết duyên thêm với từ Gác đồng nghĩa của tiếng Pháp để thành từ đôi Canh Gác (như đã nói nguyên tắc từ đôi là: tiếng có dùng trước thì đứng trước, tiếng mượn dùng sau thì đứng sau). Nỗi lo Canh/Cánh là nỗi lo luôn thường trực trong tâm chỉ chực bật ra, ngày nào cũng không rời nên nó cũng là lo Ngay/Ngáy . Ngôn ngữ phương Đông đã từ cái NÔI của tiếng Việt mà ra. Muốn truy tìm “từ nguyên” cho Hán ngữ hiện đại thì tìm về “tiếng Hán cổ” như người ta gọi và cho rằng đó là “những từ Hán-Việt có từ thời Đường” (vậy mà tại sao nó không tồn tại ở TQ, thực tế thì còn tồn tại không nhiều trong tiếng Quảng Đông, mà lại chỉ tồn tại nguyên vẹn ở VN cho đến ngày nay ?). Nhưng muốn tìm “từ nguyên” của “tiếng Hán cổ” thì lại phải truy về cái nguồn còn cổ hơn nó, đó là cái NÔI của tiếng Việt, thì mới ra, đúng và chính xác, còn cứ tìm từ nguồn gốc phương Tây thì sẽ không ra. Khi tôi ngẫm rằng tất cả từ vựng của tiếng Việt đều là bắt đầu từ Một cái NÔI mà ra, là do tôi nhìn vào chữ NÓI. Khái niệm là cái mà con người của mỗi tộc người qui định bằng cái âm tiết do họ phát âm, tức cái “tiếng” nói ra chứ không phải bằng ký tự. Chữ là do con người đặt ra, viết kiểu gì cũng được, cho dù viết bằng ký tự biểu ý thì cũng phải nói ra thành tiếng mới hiểu cái khái niệm đã được qui định để mà giao tiếp với nhau bằng lời. Còn khi ngẫm về 6 thanh điệu của tiếng Việt thì tôi không chia ra Trắc/Bằng như người ta đã chia (và dùng xưa nay để thiên về nghiên cứu thanh nhạc trong Nói); mà tôi chia ra thành Nhóm 0 (có ba thanh điệu: “không”-“Ngã”-“Nặng”) là thuộc tính Âm và Nhóm 1 (có ba thanh điệu: “Sắc”-“Hỏi”- “Huyền”) là thuộc tính Dương. Cái “đối” theo tôi chia không phải là đối theo Bằng/Trắc như người ta chia, mà là đối theo Nhóm 0/Nhóm 1. Từ đôi đối hiểu ngầm là quá trình diễn biến tư duy từ “tư duy tĩnh tại” (thanh điệu Nhóm 0) sang “tư duy hành động” (thanh điệu Nhóm 1). Bởi vậy khi nhìn vào thanh điệu như tôi chia sẽ thấy rất rõ là người Việt khi muốn nói thì trong óc đã hình thành “tư duy tĩnh tại” (Âm) rồi mới chuyển ngay thành “tư duy hành động” (Dương). Quá trình tư duy (suy nghĩ) trước khi nói đó tạo nên từ “đôi đối” (nay ký hiệu bằng hai xẹt // giữa, để dễ phân biệt với từ “đối” chỉ có một xẹt giữa, còn từ “đôi” thì không đánh xẹt). Ví dụ từ đôi: Tâm Long, Tấm Lòng. Ví dụ từ đôi đối: Long//Lòng, Tâm//Tấm. Ví dụ cặp từ đôi đối: Tâm Long//Tấm Lòng (cả bốn tiếng đều đồng nghĩa nhau). Khi người Việt muốn nói ra suy nghĩ của mình, thì sẽ xảy ra những trường hợp sau: (1) NÔI/NÔI=NÔI/Nơi, đây là một từ đôi, thanh điệu chỉ rõ là hoàn toàn tĩnh tại, bởi chảng đâu yên ổn bằng quê hương mình, là cái nơi chôn rau cắt rốn của người Việt. Chẳng thế người Việt gọi dụng cụ đặt trẻ sơ sinh nằm, để ru dạy nó phát triển tư duy, biết nói, là cái NÔI (Hán ngữ gọi từ có ý nghĩa tương ứng là “yáo lán” tức cái làn lắc). Cái NÔI đứa trẻ nằm chính là cái Nơi vào đời, là cái Nước tí hon của nó. Chẳng thế mà khi sơ sinh còn chưa biết gì nhưng hễ người lạ đụng vào vành NÔI của nó là nó khóc ré lên cực lực phản đối. Nơi ấy nó nằm nghe mẹ ru và mơ ước lớn lên tề gia, giữ nước, bình thiên hạ. Bởi đứa bé là “Người trong Nôi”=Ngôi, lớn lên nó sẽ làm vua, vì vua thì cũng là Ai=Ngài=Ngôi=Người. Và cái NÔI thì được đan bằng nan tre nhà, lướt “Nhà Tôi”=NÔI. Người Việt gọi xứ sở mình là Nước. NÔI=Nơi=Nước. (2) NÔI/NỘI là một từ đôi, thanh điệu chỉ rõ là hoàn toàn tĩnh tại, trong cái tĩnh tại đó có động của sự sống mới bắt đầu, đó là NỘI=Nõn=Noãn là cái noãn bào tức cái trứng bắt đầu thành hình và lớn lên trong cái dạ con của mẹ. Về độ quí của nó thì Trứng =Trân= =Nhân, nằm trong dạ con của mẹ là một cái Cung (tất nhiên có cửa hở để còn ra sau khi đủ ngày đủ tháng. Thành ngữ Việt: “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Đó là hòn Máu, “Máu Nội”=Môi=Phôi; đó là cái Thịt để lớn thành người, tức “Thịt Ai”=Thai. Cái NỘI ấy là cái Phôi Thai trong dạ con tức cái tử cung, chữ Nội viết bằng bộ thủ Cung và bộ thủ Nhân bên trong cung ấy 内. Cũng giống như thực vật, cái Gạo của hạt để rồi ra Gốc của cây. Cái Nội này là để hình thành con người trong cái dạ con hay tử cung Nội=Chồi=Chửa, nói “có chửa” hay “có thai” đều là nói tiếng Việt. Cung=Cuống là cái Ruột nối thai với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng, gọi là cái “Ruột nối con và mẹ cùng Nhau”= “Ruột…Nhau”=Rau. Rau là cái chung giữa mẹ và con nên chữ Rau viết bằng bộ thủ Cung có hai bộ thủ Nhân bên trong, mà một chữ Nhân thò đầu ra ngoài , biểu ý là mẹ. Chữ Rau 肉, Hán ngữ mượn chữ này, phát âm lơ lớ là “râu” nhưng lại dùng để chỉ thịt để ăn tức là thực phẩm. Chữ肉 ấy người Việt chỉ gọi là Rau=Nhau=Nhục, “tình cốt nhục” là để chỉ cái ý nghĩa huyết thống đó. Cái huyết thống này là NỘI=Nòi. NÔI//Nòi (là để xưng về dòng giống. Nòi=Dõi=Dòng=Giống=Trồng=Trủng=Chủng). Tất cả mọi tư duy khi đã ra thành tiếng đều bắt nguồn từ NÔI. (3) NÔI//NỐI, Nối=Nói là để thành tiếng phát ra , tức sự Nối tư duy bên trong với phương tiện phát âm để thành tiếng có nghĩa, nhờ “Lưỡi Nói”=Lời. NÔI//Nối cũng là để giao tiếp giữa hai người đối thoại với nhau. (4) NÔI//NỔI (là để lan tỏa, gọi là “nổi tiếng”). Nổi=Nở. Vì NÔI cũng là Nước. Mà đặc điểm của nước là Nở về mọi hướng: thấm, tràn lan, “chảy chỗ trũng”, bốc hơi, nở thể tích khi đóng băng. Con người đã lợi dụng tính làm Nổi của Nước để làm thuyền bè, lợi dụng tính làm Nở của Nước để làm vỡ lăn tảng đá to từ một khe nứt nhỏ có sẵn. NÔI là Nói, NÔI là Nước do đó theo cái lý của nó thì thấy rằng không gì có thể bịt được cái Nói. Nhưng chỉ tiếng Việt mới có từ NÔI viết là N-Ô-I. Giáo sư triết học Cao Xuân Huy nói rằng: “Cái lý của người Việt là Nước”. Vậy bưng bít, biển thủ cái Nói của người Việt là thủ tiêu ý tưởng hữu ích cho nhân loại. (5) NÔI/NỖI, là một từ đôi, chỉ cái tư duy tĩnh tại trong tâm. Khi muốn đưa cái suy nghĩ ấy ra ngoài để tỉ tê với ai hay để chuyển thành hành động thì gọi là Nỗi//Lòng. (6) NÔI//NỒI, cái Nôi là để đựng, cái Nồi cũng là dụng cụ để đựng, trong khái niệm “đựng” thì có từ đôi đối Nôi//Nồi. Nhưng về quá trình tư duy, khi người Việt định sản xuất cái Nồi, lập tức nảy tư duy tĩnh tại là Nôi, phác họa trong óc một cái Phôi, để có diễn biến tư duy Nôi=Phôi=Khối=Khuôn, mới ra Nôi thành Nồi được. (7) NÔI//Nước. Thường viết theo từ đôi Nước Nôi để nhấn mạnh ý là nhiều nước. Cái từ NÔI đặc biệt này chỉ ở tiếng Việt mới duy nhất có mà thôi, bởi nó là NƠI (Nôi=Nơi) bắt đầu sự sống trên trái đất này, đó là nguyên tố hóa học H2O . Nhìn vào chữ NÔI mà xem, O của H20 là nằm trong chữ Ô, Hydro là nằm trong chữ I do cái âm tiết “hy” của nó, 2 là nằm trong chữ N, nghĩa là Nhị [mà có Một rồi mới đến Mai, tôi đã giải thích rồi, Mai nghĩa là Mới, tiếng Lào gọi là May, tiếng Khơme gọi là Thmây, tiếng Thái Lan gọi là Mai, tiếng nhiều sắc tộc ở Lĩnh Nam gọi là Máy, Mạy; Mai=Hai=Lái=Nhái=Nhị, có người Xuất là Nhất rồi mới có Thương Lái là Hai, có hàng hạng Nhất rồi mới có hàng hạng Nhái]. NÔI=Nơi=Đời=Đại=Loại=Loài=Lòi=Nòi=NÔI, đó là toàn bộ đời sống của muôn loài, đều xuất hiện và tồn tại nhờ Nước. (8) NÔI//Người. “Người trong Nôi” =Ngôi = Ngai = Ai = Ngài = Người. Cho nên tự ngôn từ nó đã nói lên quan niệm của người Việt, hay gọi là văn hóa của người Việt là bình đẳng. “Hơn nhau tấm áo manh quần, Cổi ra bóc trần Ai cũng như Ai”. Hán ngữ đã mượn nhiều từ Việt trong cái Nôi khái niệm bình đẳng về con người của tiếng Việt (ở những từ có chữ nho): Kẻ = Cả = Con = Cái = Quân 君 = Quan 官 = Quân 軍 = Ko (tiếng Nhật) = Cu (tiếng Vân Kiều) = Tu (tiếng Tày) = Tí子 = Tử 子. Share this post Link to post Share on other sites