Lãn Miên

Cái Nôi Văn Hóa (8)

1 bài viết trong chủ đề này

Thanh điệu định hướng cho khái niệm:

Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong

Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài

Từ đôi đối là từ gồm hai tiếng đồng nghĩa nhau (nên chúng là đôi) nhưng thanh điệu thì một thuộc Nhóm 0 = Âm và một thuộc Nhóm 1 = Dương (nên chúng là đối). Từ đôi đối diễn tả quá trình tư duy trong óc, đầu tiên hình thành “tư duy tĩnh tại”, thể hiện bằng tiếng có thanh điệu Nhóm 0 (gọi là hướng Trong). Rồi tư duy tĩnh tại ấy chuyển ngay thành “tư duy hành động”, thể hiện bằng tiếng có thanh điệu thuộc Nhóm 1 (gọi là hướng Ngoài). Sau đó từ đôi đối được đem ra sử dụng bằng khái niệm của nó với nội dung là “nhiều” (như có Âm có Dương ắt nở ra nhiều) hoặc tách ra sử dụng từng tiếng với sắc thái riêng của nó.

Ví dụ: Ngoại/Ngoài, Trong/Trỏng, Bên/Bển, Na/Nói,Thệ/Thề, Qụi/Qùi, Cam/Cám, Tâm/Tấm, Long/Lòng, Đanh/Đành, Bậy/Bấy, Định/Đính, Đọng/Đóng, Dựng/Dứng, Đưng/Đừng, Đựng/Đứng, Ngưng/Ngừng, Nhen/Nhóm, Nhịn/Nhường v.v. Ngoại/Ngoài là từ đôi đối, trong khi Ngoài/Ngoải chỉ là từ đôi (thanh điệu hai tiếng đều thuộc một Nhóm, ở đây là Nhóm 1). Phân tích từ đôi đối Thệ/Thề : khi viết lời tuyên Thệ thì đó mới chỉ là tư duy Trong, nhưng khi đã hô ra thì là hô xin Thề, vì đó là tư duy hành động Ngoài. [ Hán ngữ chỉ có một từ Thệ, viết lời cũng gọi lời tuyên Thệ, khi hô cũng hô là xin Thệ, Hán ngữ không có dùng thanh điệu chia khái niệm ra chi ly Âm Dương, khái niệm Âm Dương không phải đầu tiên là của Hoa Hạ].

Phân tích ví dụ, lấy từ đôi đối Đập/Đánh và Qụi/Qùi. Phân tích câu 1: “Đánh đập chó suốt ngày”, nghĩa là: Đánh (hành động thật bên Ngoài) chó nhiều lần (diễn tả bằng “đánh/đập”) cả khi ở bên trong ( diễn tả bằng “đập”) cả khi ở bên ngoài (diễn tả bằng “đánh”) suốt ngày. Nguyên câu dài: “Đánh chó suốt ngày nhiều lần cả khi ở bên trong cả khi ở bên ngoài”, mà người Việt chỉ nói ngắn gọn “Đánh đập chó suốt ngày”. Phải hiểu triết lý Âm Dương của người Việt thì mới hiểu được hết cả, còn cái phần “ ý tại ngôn ngoại” của câu này. [ Dịch câu tiếng Việt ra tiếng nước ngoài quả là không dễ chút nào ]. Người ta nói “đi Đánh giặc” chứ không ai nói “đi Đập giặc” vì đánh là ra Ngoài chiến trường, nhưng người ta lại dặn: “ở nhà con nó có nghịch, cũng đừng có Đập nó mà tội nghiệp”, nghĩa là cả đến cái ý nghĩ bạo lực với con cũng không được có (diễn tả bằng “đập”, là tư duy tĩnh tại) chứ đừng nói đến hành động thật (“đánh”, tư duy hành động). [ Hán ngữ chỉ có một từ “tả” để dịch ba khái niệm Đập, Đánh và Đánh/Đập. Nhưng từ “tả” này là phát âm lơ lớ khi mượn từ Đả của tiếng Việt. Theo “qui tắc Tơi-Rỡi” thì: Đập=Đánh=Đả=Đấu=Đâm=Trẫm=Trảm=Chém =Chiến=Chặt=Cắt ( rồi mới thành từ “cut” của tiếng Anh). Người Việt đã theo “qui tắc lướt” (mà Hứa Thận cuối thời Đông Tấn cách nay 2000 năm từng vận dụng để hướng dẫn cách đọc một chữ bằng “thiết” hai tiếng đặt liền nhau, trong cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn “Thuyết Văn Giải Tự”) để lướt cả câu dài mà viết thành một chữ nho là Đả. Câu ấy là: lướt câu “Đập, Đánh đồng nghĩa Cả” = “Đập … Cả” = Đả ]. Nếu ai cho rằng câu lướt trên để cho ra từ mới là Đả, là do phịa, thì hãy giải thích câu: “Ngủ không được, cứ Trằn/Trọc Lăn/Lóc mãi suốt đêm từ chập tối tới sáng” thì Trằn Trọc là gì ? Lăn Lóc là gì? Chẳng lẽ “từ nguyên” của nó phải tìm ở tiếng Tàu hay tiếng Tây mới ra ? Trằn là lướt “Trở mình bằng Lăn” = Trằn, Trọc là lướt “Trở mình ngồi Dọc” = Trọc, rồi lại nằm xuống, vẫn không ngủ được, lại Lăn và “Lăn vào tận Góc” = Lóc, đó là từ đôi Lăn Lóc, chẳng qua Lăn và Lóc có sắc thái (kiểu động tác) khác nhau mà thôi. Phân tích câu: “Muốn Đập cho nó Qụi”, nghĩa là “Mình suy nghĩ muốn làm cho nó phải từ bỏ cái suy nghĩ của nó đi mà chịu thua mình”, chưa có tác động gì ra ngoài thật cả. Khác với câu: “Đánh cho nó phải qụi mới thôi”, đó là đánh thật cho nó phải chịu thua về ý chí. Khác với câu: “Đánh cho nó phải Qùi gối đầu hàng” đó là đánh thật và đầu hàng thật, nhưng nó bị bắt buộc đầu hàng chứ chưa chắc nó đã thua về ý chí, chưa chịu từ bỏ suy nghĩ của nó. Khác câu: “Đánh cho nó phải Qụi/Qùi” là đánh cho nó cả đầu hàng(diễn tả bằng Qùi), cả chịu thua về ý chí (diễn tả bằng Qụi). [ Hán ngữ chỉ mượn một từ Qụi để dịch cho ba khái niệm đồng nghĩa mà khác sắc thái là Qụi, Qùi và Qụi/Qùi. Vậy các chữ Đả 打, Qụi 跪 là từ gốc Việt hay “từ Hán-Việt” ? Hán ngữ chỉ có từ điệp, như dùng hai lần Qụi Qụi để nhấn mạnh Qụi; hoặc điệp hai lần Nhân Nhân để nhấn mạnh là nhiều người (không có phân biệt được người cũ người mới), nhưng tiếng Việt thì dùng từ đôi đối là Mọi/Người, ý nói “nhiều người, cả người cũ (Mọi hay già), cả người mới (Người hay trẻ)”; theo “qui tắc Tơi-Rỡi” : Mọi = Mèm = Man = Mằn = Mân = Cần = Dân = Nhân = Rấn (“Mằn” là người, tiếng Quảng Đông; “Cần” là người, tiếng Tày; vùng “Mân Việt” là vùng “người Việt” , “Rấn” là người, tiếng Hán, do mượn từ Nhân của tiếng Việt, mà phát âm lơ lớ là “Rấn”). Qui tắc từ đôi trong tiếng Việt là từ nào có trước trong lịch sử thì đứng trước, như từ Tre Trúc, Chè Trà, Mọi Người. Điều này phù hợp với nhận định của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ: “Hình như trong mỗi từ hoặc mỗi hình thức của từ, lúc nào cũng có một cái gì đó cũ và một cái gì đó mới”.

[ Mới chỉ phân tích có mỗi “Tính Âm Dương định hướng ý nghĩa của khái niệm trong sáu thanh điệu của tiếng Việt” đã đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt tinh túy và chính xác như thế nào, không có 5000 năm văn hiến Lạc Việt thì không có được một ngôn ngữ như vậy tồn tại nguyên bản đến ngày nay, cả phát âm cho đến ngữ pháp. (Đọc “thiết” để cho ra đúng âm của chữ như trong “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận hướng dẫn thì phải đọc như người Việt phát âm mới ra trúng luật như hướng dẫn, còn đọc theo phát âm của Hán ngữ thì trật). Văn bản bằng Hán tự của Việt Nam xưa chẳng qua là ngữ pháp bị bắt buộc Hán hóa hoàn toàn (để các quan cai trị đọc hiểu được), còn ngôn từ thì “từ nguyên” của nó là Việt hoàn toàn, phát âm là Việt hoàn toàn. Nguyễn Trường Tộ từng đề nghị, nếu dùng Hán tự thì cứ đọc như Việt, viết theo ngữ pháp như Việt, còn không thì dứt khoát dùng Chữ Quốc Ngữ cho dễ phổ cập. Tiếng Việt không thuộc cùng một nhóm gần gũi về cội nguồn với tiếng Hán, một bên lối nói xuôi, một bên lối nói ngược, động tác môi và miệng phát âm khác hẳn, nhiều phụ âm tiếng Hán (như ch-, c-, z-, p-) không có trong tiếng Việt, nhưng rất nhiều âm vận trong tiếng Việt lại không có trong tiếng Hán (tiếng Việt có 15.000 âm vận, trong khi tiếng Hán chỉ có 1.300 âm vận, tiếng Nhật thì lại không có âm vận lạ nào đối với người Việt). Trong quá trình tiếp xúc lâu đời, Hán ngữ đã vay mượn đưa vào vốn từ của mình khối lượng lớn ngôn từ của ngôn ngữ Bách Việt cổ đại. Tiếng Việt thuộc hệ Nam Phương, dòng Nam Á, ngành Môn-Khơme (trong dòng Nam Á còn có các ngành: Nahali, Munda, Nicoba). Ví dụ vài từ gốc:

Một (Việt)=Mộc (Mường)=Mual (Môn)= Muôi (Khơme)

Ba (Việt)=Pa (Mường)=Pi (Môn)=Bây (Khơme)

Nác (Việt)=Đác (Mường)=Đác (Môn)=Tức (Khơme)

Tay (Việt)=Thai (Mường)=Tai (Môn)=Dây (Khơme)

Trốc (Việt)=Tlốc (Mường)=Kđúc (Môn)=Kbal (Khơme)

Tóc (Việt)=Thác (Mường)=Sóc (Môn)=Sof (Khơme)

Mắt (Việt)=Mata (Mã Lai)=Mati (Hy Lạp)

Đặc điểm từ thì tiếng Việt là đơn âm tiết, giống Hán, Thái, và một số ngôn ngữ châu Phi. Ví dụ tộc Êvê ở châu Phi cũng có từ láy giống tiếng Việt: ( “Dô” là đi, cũng giống tiếng Việt , Dô Nam = Đi Nam)

Dô bô hô bô hô : Đi lặc lè lặc lè

Dô dê dê : Đi dững dàng

Dô bu la bu la : Đi bừa lên bừa lên

Dô pi a pi a : Đi rón ra rón rén

Dô gô vu gô vu : Đi gật gù gật gù ] .

Từ từ đôi đối Qụi/Qùi thấy rõ sự sợ hãi được diễn tả Trong “tư duy tĩnh tại” bên Trong có từ Qụi Lụy, nhưng sợ hãi ở “tư duy hành động” bên Ngoài là Qủi Lúy, cặp từ đôi đối là Qụi Lụy // Qủi Lúy. Người Việt khi lo lắng thì thán “Qủi thiệt ! “, các sắc dân bản địa Lĩnh Nam khi lo lắng thì thán “A Lúi ! “. Từ đôi đối Lo/Lắng nghĩa chung là Lo. Thường Lo thì chỉ giữ trong tâm nên ít khi phải dùng đến từ Lắng đứng riêng, chỉ có trong từ ghép Lắng Nghe, mà dịch sang ngôn ngữ khác phải dịch là “chú ý nghe với một sự hồi hộp trong lòng” chứ không phải đơn giản chỉ là “để tai chú ý nghe” như Từ điển Tiếng Việt giải thích. Còn Lo Nghe thì chưa phải là hành động, mới chỉ nghĩ thế thôi. Lắng trong từ Lo/Lắng là chỉ cái hồn, không phải là Lắng (đồng âm dị nghĩa) trong từ đôi đối Lắng/Đọng là chỉ cái cơ học.

Share this post


Link to post
Share on other sites