Lãn Miên

Cái Nôi Văn Hóa (7)

1 bài viết trong chủ đề này

Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”).

Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong

Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài

Dùng “qui tắc: Thanh điệu định hướng khái niệm”, “qui tắc: Tơi=Rỡi” và “qui tắc: Lướt” để tôi tìm “từ nguyên” của từ Nhân Đạo xem nó có gốc từ khái niệm “Ren Dao” của Hán ngữ hay có gốc từ khái niệm “Humanite” của Pháp ngữ.

Nhân (Nhóm 0) sẵn bên trong:

1.Nhân là Lõi của hạt cây, là cái “Gốc Lên” = Gen để thành cây. Nhân, Lõi, Gen đều thuộc thanh điệu Nhóm 0 là chỉ cái bên Trong. Con người nguyên thủy sống bằng hái lượm biết Ăn cái lõi của hạt cây, loại hạt nhỏ và vỏ khô không cứng lắm thì người ta chỉ việc Cắn và Nhằn cái vỏ ra bỏ đi, ăn cái Lõi bên trong nên gọi cái Lõi đó là cái Nhân, Ăn=Cắn=Nhằn=Nhân, đó là khi nhằn cho hết vỏ bỏ đi thì phát hiện ra cái Nhân, rồi Nhai nuốt vào trong gọi là Nhận. Hán ngữ mượn chữ Nhân mà phát âm lơ lớ là “rấn”, mượn chữ Nhận mà phát âm lơ lớ là “rần”, trong khi chữ Ăn họ gọi là “Sư”, chữ Cắn họ gọi là “Yảo”. Cắn=Kin, như tiếng Thái Lan gọi “Kin” là ăn. Đến con khỉ còn biết đập vỡ hạt cây để ăn cái nhân lõi bên trong, nó suy nghĩ (bên Trong) là sẽ Đập Vỡ (tư duy tĩnh tại) và chuyển tư duy đó ra Ngoài thành (tư duy hành động) là Đấp Vở=Đánh Lở=Đánh Nở cái vỏ hạt ra để Moi /Móc cái nhân bên trong mà ăn. Đánh/Đập là một từ đôi đối, có suy nghĩ sẽ Đập (tư duy tĩnh tại) rồi mới chuyển thành (tư duy hành động) ra Đánh. Người ta nói “đi đánh giặc” chứ chẳng ai nói “đi đập giặc” cả. Đập=Đánh=Đả. Hán ngữ mượn từ Đả và phát âm lơ lớ là “tả”, và nói “suy nghĩ Đả”, “hành động Đả”, tư duy tĩnh tại cũng là “tả” và tư duy hành động cũng là “tả” đều được diễn đạt bằng một từ “tả” như nhau chứ không phân biệt Đánh/Đập = Dương/Âm như người Việt, chứng tỏ họ không có khái niệm Âm Dương ngay từ trong tư duy, tức khái niệm Âm Dương là của người Việt chứ không phải thuộc về văn minh Hoa Hạ. Cái Vỏ hạt chỉ là cái “Vỏ Che” = Vệ, để Vệ cho cái nhân mà thôi, không có tác dụng gì trong việc lên thành mầm, nó chỉ là cái Bao để che cho cái Óc của hạt cây tức cái Đầu tiên để lên mầm thành cây, “Bao Che” = Be, như từ “be bờ”, “Bao Óc” = Bọc, “Bao Đầu” = Bầu; cái tử cung để bao cái Đầu mầm của Con Người cũng gọi là cái “Bao Đầu” = Bầu. Cái “Đầu mầm” để hình thành con người chính là cái “giọt máu Đào”, nên “Bầu Đào”=Bào và có từ “bào thai” (Thai là cái Thịt đầu tiên để hình thành một con người, tức “Thịt Ai”=Thai, từ Ai nghĩa là Người, vua Hùng còn gọi vợ là “Ai ơi” tức “Người ơi”). Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy Bí cùng” chẳng phải chỉ đơn thuần là mượn hình ảnh quả Bầu và quả Bí để nói về các sắc tộc, mà nó còn có thể hiểu nữa là thành câu “Mẹ ơi thương lấy Con cùng”, bởi cái Bầu đang che cho cái đang Bí ở trong, là cái “Bây-Bí” (“babe” tiếng Anh) ở bên trong nó, Bí=Bế, để sẽ ra đời cho mẹ Bế Bồng như con Bống Bồng Bông rất được Cưng/Chìu của mẹ. Thực tế dù con ấy có là con lai Tây đen hay Tây trắng thì mẹ Việt Nam vẫn thương yêu nó vô bờ bến cùng con thuần giống là như nhau. Tư duy không có khái niệm kỳ thị ấy ở người Việt thể hiện rất rõ trong xã hội Việt Nam ở chữ “thân thiện”, ví dụ như xã hội Sài Gòn thì từ xưa đến nay vẫn thế, người ta đâu có quan tâm gốc gác, giàu nghèo, “lý lịch thành phần” hay “hậu duệ”, mà chỉ quan tâm có mỗi một chữ Nhân là cái tính cách con người, “thằng đó, con đó chơi được” là xong. Vậy mà từ nguyên của từ Nhân ấy chỉ đơn thuần là cái Nhân tức Gạo của hạt lúa, là cái Gốc để ra Rễ. Cái Gạo ấy là của người Kinh, người trồng lúa đầu tiên: Gạo=Khao=Đạo=Đào=Cao=Keo=Dẻo=Dính=Dinh=Kinh=Cơm=Kome=Mễ. Người Thái Lan gọi Gạo là “Khao”, đồng thời gọi người Kinh là người “Keo”, người Nhật Bản gọi Gạo là “Kô-mê”, người Hán gọi Gạo là Mễ mà phát âm là “mỉ” hoặc Đạo Mễ mà phát âm là “tao mỉ”. Thời tiền sử thì cư dân của nền nông nghiệp trồng trọt lấy tên thực vật làm tên của Họ hay tộc người như Lê, Lý, Đào v.v., rồi lấy tên vùng đất hoặc đặc điểm vùng đất làm tên cho Họ. Cái Dẻo của Gạo là chất Keo/Kết làm Dính mọi sắc tộc gen Bách Việt vào sự lãnh đạo của một “Lớn Làng” = Lang của người Kinh, tôn xưng là Kinh Dương Vương, là thân sinh của các thời đại Hùng Vương, như chính sử ghi. Nơi Keo/Kết nhiều dân cư là nơi người Kinh có đông dòng họ, Họ=Hộ, “Đông HỘ” = Đô, nên nơi đó gọi là Kinh Đô, kinh đô có Dinh Cao = Dinh Cơ, nên cũng có họ Dinh, họ Doanh, họ Cao, họ Cơ v.v.

Nhân là Con Người ( Con - thanh điệu Nhóm 0, là cái tư duy bẩm sinh, bản năng có sẵn ở Trong; Người - thanh điệu Nhóm 1, là tư duy chực ra Ngoài, để thành Người. Về hướng của tư duy thì từ Con Người có thể viết theo xẹt đôi đối là Con/Người hay Nhân/Người) . Nhân cũng là Người. Nhân cũng là cái tính thiện vốn có sẵn trong con người như cái nhân gạo của hạt lúa. Nhân của vật thể là cái Lõi Nhân của hạt. Ở hạt lúa thì “Đầu Gạo” = Đạo là cái để lên mầm thành cây. Hai từ cụ thể chỉ thực vật đã được người Việt trừu tượng hóa thành chỉ tư duy thể hiện cái “Thời đầu Tiên” = Thiện của con người là tính thiện, nên có câu “Nhân chi sơ, Tính bổn thiện”, hai từ ấy là từ Nhân Đạo. Nhân Đạo đều thanh điệu Nhóm 0, chỉ cái tư duy tĩnh tại luôn sẵn trong con người. Nếu bị tác động làm xấu đi thì Đạo thành ra không còn nguyên bản, thành ra Đảo, từ đôi đối Đạo/Đảo. Để bao che cho giá trị phi vật thể là cái Đạo khỏi bị Đảo, thì lướt “Bao cho khỏi Đảo” = Bảo, nó khác với từ Vệ (có từ nguyên là Vỏ) là cái “Vỏ Che” = Vệ để bao che cho cái vật thể. Vì vậy mà từ Bảo Vệ là một từ đôi đối, viết là Bảo/Vệ, như nói “bảo vệ văn hóa”, thì đã hiểu rõ là giữ gìn cái vật thể và cái phi vật thể của văn hóa. Vậy mà thông tin đại chúng vẫn hô khẩu hiệu “Chúng ta phải Bảo/Vệ văn hóa vật thể và cả văn hóa phi vật thể của dân tộc” thì rõ là câu viết quá thừa. Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có lấy một thạc sĩ hay tiến sĩ ngôn ngữ học. Vậy mà dùng từ rất chính xác, như “lính Bảo An”, nghĩa là “Bao cho khỏi lảo Đảo” cái an ninh là cái cần giữ yên bên trong; “lính Vệ Quốc”, nghĩa là làm cái Vỏ che chắn ngoài biên giới và ngoài biển xa cho đất nước; không gọi là Binh vì Binh chỉ là khi đang ở Trong, tức đang luyện Binh trên Mặt Trận ( là cái bản đồ giả định), từ đôi đối Binh/Lính đã chỉ rõ khi hành động Ngoài thì gọi là Lính tức ở trên Chiến Trường. Ngày nay thì cái nón Vệ Đầu tức cái Vỏ cứng che cho cái Gáo, khác với nón bình thường, lại gọi là cái “mũ bảo hiểm” (Hán ngữ gọi là “mũ an toàn”). Một từ đôi đối Giữ/Gìn đã nói lên quá rõ, như trong câu Kiều “gìn Vàng giữ Ngọc”, Gìn là bảo vệ cái giá trị Ngoài, còn Giữ là bảo vệ cái giá trị Trong, người ta ví người quí như Ngọc, chẳng ai ví người quí như Vàng.

2. Nhận là đã tiếp thu cất ở Trong (Tiếp là tác động từ Ngoài còn Thu là đã ở Trong, cũng dùng từ đôi đối Tiếp/ Nhận).

3.Nhẩn là tư duy hướng Ngoài nhưng là loại tư duy không sắc sảo, không có đích để nhắm. Nhẩn=Lẩn=Thẩn=Bẩn, tức bị nhiễu loạn. Cũng giống như phát Bắn là có đích rõ ràng, nhưng phát Bẳn là nhắm vu vơ. “Nhẩn vu Vơ” = Nhơ, nên có từ đôi Nhẩn Nhơ. Nhẩn Nhơ ở bên Ngoài thì nó trôi đi theo thời gian, có yếu tố Thời nữa thì đó là từ Nhần.

4.Nhần là sự Nhẩn Nhơ Nhẩn Nha theo thời gian, Nhẩn Nha đã biến thành Dần Dà, qua láy mà thành Dần Dà Dần Dần. Nhật ngữ mượn từ Dần Dần này mà phát âm là “đan đan” , Hán ngữ không mượn từ này. Nhưng Dần Dà cũng láy thành Dần Dà Dần Dừ là sự trôi đi theo thời gian để rồi chậm dần mà đến thời điểm “Dần Đứng” = Dừng, quá trình này giống như cái đầu tàu Dừ của con tàu Dần Dà Dần Dừ ấy đang giảm tốc độ cho đến dừng hẳn, đó là Dừ = Từ Từ = Chừ = Giừ = Dừng = Giờ, mà Giờ là một thời điểm cố định, như “bây giờ” (“bây giờ” là nói cái thời khắc, một thời điểm, không giống như một Giờ là 60 phút khi chia ngày đêm ra 24 giờ, Giờ trong 24 giờ ấy là những khoảng “Giữa Chờ” = Giờ). Hán ngữ mượn từ Từ Từ mà phát âm là “xúy xúy”. Khi đã dừng lại ở Giờ tức thời điểm cố định, thì đó là một sự Chờ lâu, thì phải tại một vị trí cố định, đó là Chờ = Ở, cố định đương nhiên là Yên và Ổn, Ở = Yên = Ổn = An. Hán ngữ mượn từ An và phát âm là “an”, Miến Điện mượn từ Yên Ổn mà phát âm là “yan lôn”, địa danh Yan Lon là thành phố ở giữa nước Miến Điện, nghĩa của nó là yên ổn, nên nay được chọn làm thủ đô.

Yên Ổn như một sự tĩnh tại lâu bền vốn có sẵn, tức Ổn = Bổn = Bản = Bền = Bàn = Bằng = Đẳng = Đứng = Dừng = Vững= Cứng = Cương, từ đôi Vững Bền là nhấn mạnh ý Ổn, khi lập chữ nho người ta đọc lướt “Vững Bền” = Vển mang nghĩa là Ổn. Hán ngữ mượn chữ Vển này và phát âm lơ lớ là “vuẩn” nghĩa là Ổn, mượn chữ Bổn mà phát âm lơ lớ là “pẩn”, mượn chữ Bản mà phát âm lơ lớ là “pản”, mượn chữ Bàn mà phát âm lơ lớ là “pán”, mượn chữ Đẳng mà phát âm lơ lớ là “tẩng”, mượn từ Cương mà phát âm lơ lớ là “cang”. Bền là ổn định lâu dài, Bền = Biền = Kiên, Biền Biệt là lâu dài cho đến khi lặn. Hán ngữ mượn từ Kiên mà phát âm lơ lớ là “chen”. Kiên là giữ nguyên lâu dài, tức “Cứng Biền” = Kiên

5.Nhấn (Nhóm 1) là tư duy chực ra Ngoài thành tác động ngoài, nó nhấn mạnh ý như là dấu ấn để in sâu, Nhấn = Ấn = In, từ đó mà có từ dùng cho nghề In của người Việt gọi là nghề In Ấn. Nhấn = Ấn = Dấn = Dấu = Dán = Dính = Đính = Định = Đọng = Đóng, từ đó mà có thêm từ Dán Dính cho nghề thủ công bồi bìa và từ Đóng Dấu Ấn cho nghề của các thư lại ở văn phòng. Vậy mà tất cả những từ trên đều có “từ nguyên” là cái Nhân gạo của hạt lúa.

6.Nhẫn là chịu đựng ở bên Trong, khi đã ra Ngoài thì tư duy ấy thành Nhẩn, như từ Nhẩn Nhơ, tức không chịu yên nữa, từ đôi đối Nhẫn/Nhẩn. Cái Cà Rá là cái vòng ngọc nhỏ đeo ngón tay có từ xưa là đồ trang sức của người Việt, như ở di chỉ Sa Huỳnh, Óc Eo, đó là thứ trang sức đeo chơi. Còn cái vòng trang sức đeo ngón tay của đôi vợ chồng trao nhau khi đính hôn lại gọi là cái Nhẫn. Gọi là cà rá thì thanh điệu nó đúng là nhóm 1 của cái vật thể bên ngoài, vậy mà người Việt lại gọi nhẫn cưới là cái Nhẫn (từ tuy duy là thanh điệu Nhóm 0 là Trong) để chỉ một vật thể Ngoài, điều đó để có ý nhắc nhở đôi vợ chồng phải tư duy Trong Tâm, hay Tâm Long, hay Cam Tâm,hay Đanh Long rằng đã thương yêu nhau thì phải chịu đựng gìn giữ tình yêu, có trách nhiệm nghĩa vụ với nhau đến hết đời, như Cưới = Kết = Hết. Bởi vậy ở trên mảnh đất Việt Nam có rất nhiểu hòn đá ngắm ra biển được dân gian gọi là Hòn Vọng Phu, như một di tích văn hóa vật thể. Mà cái di tích văn hóa phi vật thể tuyệt đẹp tương ứng chỉ cô đọng trong 6 câu vọng cổ tuyệt vời của nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở đất Cà Mau.

Share this post


Link to post
Share on other sites