Posted 2 Tháng 6, 2012 Xét về thanh điệu của tiếng Việt, tôi chia ra hai Nhóm: -Nhóm 0 = Âm, gồm các “thanh”: “Không” – “Ngã” – “Nặng”, định hướng ý cho Trong. -Nhóm 1 = Dương, gồm “thanh”: “Sắc – “Hỏi” – “Huyền”, định hướng ý cho Ngoài. Nếu dàn trải ngôn từ Việt ra, sẽ thấy Nhan Nhản các từ vừa Đôi về ý nghĩa vừa Đối về thanh điệu (mà các nhà ngôn ngữ học VN giải thích là “những từ hai âm tiết ấy không phải là từ láy, cũng chưa xác định là từ kiểu gì, chúng thường là có một âm tiết đã rõ nghĩa còn âm tiết kia chưa rõ nghĩa, gọi là âm tiết chờ” – sách Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành). Những từ mà tôi gọi là “vừa đôi vừa đối” ấy thể hiện rõ ràng là cái suy nghĩ ở Trong và sắp sửa hướng Ngoài để hành, đúng theo “qui luật thanh điệu có định hướng cho ý của từ” mà tôi nêu ở trên, ở đây tôi chỉ ký hiệu bằng một gạch xẹt giữa hai tiết cho dễ thấy, ví dụ: Bụt/Bút, Việt/Viết, Biệt/Biết, Sẵn/Sàng, Mong/Mỏi, Cho/Chẩn, Chia/Chác, Bạn/Bè, Phe/Phái, Nỗi/Nói, Làm/Lụng, Chiều/Chuộng, Hận/Hờn, Thương/Thí, Bực/Bức, Nóng/Nực, Đau/Đáu, Nông/Nổi, Căm/Cáu, Ngặt/Nghèo, Ôm/Ấp, Ít/Ỏi, Nhiều/Nhặn, Lăm/Lắm, Một/Mất, Được/Đắc, Thiệt/Thất, Gọn/Gàng, Bạch/Bẩm, Gom/Gồm, Vơ/Vét, Chuộc/Chuốc , Lời/Lãi, Lỗ/Lố, Lặng/Lắng, Im/Ắng, Nghe/Ngóng, Rình/Rập, Non/Nớt, Bại/Bấy, Bi/Bét, Thối/Tha, Thum/Thủm, Phưng/Phức, Bèo/Bọt , Trong/Trẻo, Véo/Von, Mùi/Mẫn, Lo/Lắng, Nặng/Nề, Bê/Bối, Rỗi/Rảnh, Thảnh/Thơi, Nhàn/Nhã, Hên/Hời, Hẻo/Huông, Xui/Xẻo, May/Mắn, Đầy/Đặn, Nhọc/Nhằn, Leo/Lẻo, Xoay/Xở, Dặn/Dò, Rủ/Rê, Nặn/Nắn, Trau/Truốt, Moi/Móc, Châm/Chọc, Sọ/Sỏ v.v. Thậm chí nếu tư duy đang ở Bên thì nó cũng sắp sửa có phần hướng ngoài là Bển thành từ Bên/Bển, thậm chí tư duy đang ở Ngoại hơn cái vị trí trong thì nó vẫn có cái Ngoài hơn nó để nó thành là trong như từ Ngoại/Ngoải, thậm chí tư duy là đang ở vị trí Trong thì vẫn còn cái trong hơn nó để cái ấy thành ra là ngoài của cái Trong về phía sâu hơn như từ Trong/Trỏng, người ta chỉ cần nói “Trỏng” mà không cần phải nói hai âm tiết là “Trong Ấy”. “Không có âm tiết nào trong tiếng Việt mà không có nghĩa cả, nó phải mang một ý gì đó” (nhận định của Giáo sư ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo), “ngôn ngữ Bách Việt là đơn âm thành nghĩa” (nhận định của các học giả Trung Quốc).[bởi vậy mà càng thấy tính đúng trong câu nói của người xưa “dụng nhân như dụng mộc”, từ đơn âm tiết nào của tiếng Việt cũng có giá trị, như con người thì người nào cũng có giá trị, không thể bịt miệng người ta “Nói” được, mà phải Phản Biện (Phản có thanh điệu thuộc Nhóm 1, là tác động Ngoài, còn Biện có thanh điệu thuộc Nhóm 0, là cho thấm vào Trong tâm người ta)], mà “nhiều khi Hán ngữ phải phiên âm một âm tiết của tiếng Việt bằng hai con chữ” (nhận định của Đỗ Thành, blog Nhạn Nam Phi, khi ông giải mã bài “Quân huấn lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn). Những từ kiểu vừa ĐÔI về ý nghĩa vừa ĐỐI về thanh điệu là để diễn tả cái suy nghĩ vốn có ở Trong và đang sửa soạn hướng Ngoài để thi hành. Chúng đều là kết quả của sự Nở ở trong cái NÔI khái niệm từ một cái “tế” ban đầu như là một cái “Trứng” để thành hai “Tiếng”, mỗi tiếng hay gọi là tiết đó là một “từ”, như sự sinh sản tự tách đôi của tế bào, qui tắc này tôi đã nêu gọi là “qui tắc Nở”. Ví dụ: Sẵn/Sàng là do cái tế Sọ tức là trong óc, Gom/Gồm là do cái tế Gọn, Nhen/Nhóm là do cái tế Nhỏ, Vơ/Vét là do cái tế Vun, Vồ/Vập là do cái tế Vui, Buồn/Bã là do cái tế Bực, Mời/Mọc là do cái tế Muốn, Biệt/Biết là do cái tế Bụt. Từ Bụt (mà ngày nay khoa học gọi là “tiềm năng con người” ) này đã có trong tiếng Việt hàng mấy ngàn năm trước khi ra đời Thích Ca Mầu Ni. Khi ấy tín ngưỡng của người Việt là đạo Sa Môn (thờ Mẫu) và khi ấy người Việt còn gọi thân sinh là Bọ Mẹ, coi Bọ Mẹ như là Bụt Mọc.[ Nếu truy ngược về thời nguyên thủy của tư duy phồn thực, sẽ thấy bóng dáng của cái từ trang nghiêm là “Bụt Mọc” này chỉ là kết quả của hành động cụ thể của cặp từ đối Đút/Mở của cặp đôi sinh thực khí diễn đạt bằng cặp từ đối Nõn/Nường ]. Khi Budism truyền từ Ấn Độ vào, âm tiết Bụt=Phụt=Phật mà dẫn đến gọi là “Phật”, nhưng tín ngưỡng nguyên thủy không mất đi, khi hội nhập nhiều nguồn tư tưởng lại với nhau thì đương nhiên mỗi bản thể sẽ có chút Sa/Sút. Bản thân từ Đạo Phật mà người Việt dùng đã nói lên ý Đạo giáo và Phật giáo đứng chung với nhau trên đất Việt. Sau có Nho giáo nữa thì là “Tam Giáo đồng môn”. Share this post Link to post Share on other sites