Lãn Miên

Cái Nôi Văn Hóa (5)

1 bài viết trong chủ đề này

Xét về thanh điệu của tiếng Việt, tôi chia ra hai Nhóm:

-Nhóm 0 = Âm, gồm các “thanh”: “Không” – “Ngã” – “Nặng”, định hướng ý cho Trong.

-Nhóm 1 = Dương, gồm “thanh”: “Sắc – “Hỏi” – “Huyền”, định hướng ý cho Ngoài.

Cái Vuông là hình tượng cái bánh Chưng, chuyện cổ tích “Bánh Dầy bánh Chưng” kể rằng bánh chưng vuông nó biểu trưng cho trái đất, trái đất thuộc về quẻ Khôn trong Bát Quái của người Việt, Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn=Vựa=Giữa=Giao. (Chữ Giao trong từ Giao Chỉ). Tất cả các chữ từ Khôn đến Giao ở trên đều mang thanh điệu thuộc Nhóm 0 = Âm, cái NÔI khái niệm ấy đủ nói lên bản chất của người Việt của nước Văn Lang hay đất Giao Chỉ xưa là tính Âm và là Khôn. Là Khôn thì phải đứng Giữa tức là TRUNG LẬP chứ chưa từng bao giờ cực đoan theo một chủ nghĩa Ngoài vào nào cả. Chính tư duy tự chủ đó đã làm cho dân tộc Việt Nam quật cường giữ mãi được độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc từ 5000 năm trước cho đến ngày nay. Đất Giao Chỉ là nước Văn Lang ( “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn”, như chính sử ghi ). Văn Lang = Việt Lang, cái âm tiết Việt ấy “từ nguyên” của nó là từ cái Vuông (cũng tức là Khôn), là từ cái công cụ lao động đầu tiên của con người là cái “xẻng đá” hình Vuông, là cái lưỡi rìu bằng đá từ thời đồ đá mới, cái “xẻng đá” hình Vuông ấy con người mài Dẹt đi thành sắc cạnh, là cái công cụ lao động đầu tiên, lướt “Vuông Dẹt”=Vẹt. Cái công cụ lao động đều tiên bằng đá gọi là cái Vẹt ấy (theo nhận định của Hà Văn Thùy), đã chỉ rõ rằng âm tiết “Vẹt” chính là từ nguyên của “Việt”. Bởi vì khi đã làm ra được công cụ lao động, con người đã trở thành con người Khôn, tức đã Biết. Cái Biết này là cái tư duy hướng Ngoài, còn khi nó đang là tư duy ở Trong, tức đang suy nghĩ (Nhóm 0) để sẽ ứng dụng thì nó là đang Biệt (Nhóm 0) tức đang so sánh phân biệt nhờ vào cái năng lực tinh thần ẩn sâu nhất trong tâm con người là cái Bụt (Nhóm 0 = Âm), từ đối Biệt/Biết là nói tư duy ở Trong và đang sửa soạn phát tiết ra Ngoài. Cũng như cái “công cụ tinh thần” khi đang còn ẩn sâu nhất Trong Tâm con người là cái Bụt (Nhóm 0 = Âm) [cái “Bụt” ấy của thời Văn Lang, ngày nay khoa học gọi là “tiềm năng con người”] , nhưng khi ra Ngoài thì nó là cái “công cụ cụ thể” để sáng tạo là cái Bút (Nhóm 1 = Dương), từ đối Bụt/Bút là diễn tả cả một quá trình từ Sẵn cho đến Sàng của mỗi con người đem Tuệ Huệ (Nhóm 0) ra để Cống Hiến (Nhóm 1). Nếu có cái Sẵn mà chẳng đem ra Sàng, tức có cái Tuệ Huệ mà chẳng đem ra Cống Hiến, tức là không chịu Bụt/Bút thì cũng chẳng có ích gì cho xã hội, bởi vậy phải “Nói”, phải “Hành”, tiếng Việt có từ đối Học/Hành, nó chính xác hơn là Hán ngữ chỉ dùng từ Học Tập, bởi Học là cái đang ở Trong còn Hành là cái đã ra Ngoài. [Khẩu hiệu của Hướng Đạo Sinh Việt Nam thủa xưa là “Sẵn/Sàng phụng sự Tổ Quốc”]. Công cụ Vẹt ấy của con người thể hiện cái Khôn, tức Biệt/Biết, nên mới lướt “Vẹt Biệt” = Việt là cái tư duy bên Trong, để làm nên sáng chế hướng Ngoài là “Việt Biết”= Viết, (Không thể nói rằng người Việt không có chữ tượng hình trên mu rùa, rồi đến có chữ Khoa Đẩu ký âm, trước khi hội tụ lại thành chữ Nho Việt được, để rồi chữ Nho Việt thành nền tảng của Hán tự về sau, có cấu trúc chặt chẽ cách lục thư hoàn hảo và rất nghệ thuật). Nhờ cái công cụ Vẹt là cái “xẻng đá” đầu tiên ấy mà con người lướt qua được mọi trở ngại để lao động và tiến hóa, nên “Vẹt Lướt”= Vượt. Chính nhờ lao động Khôn trải hàng vạn năm, người Việt đã làm nên một nền văn hóa lúa nước và trống đồng, tỏ rõ tính ưu việt. Đừng mất công tìm ở đâu cái từ nguyên của từ “Ưu Việt”, nó chính là “Âu Việt” đấy, khi Tây Âu hội nhập vào với Lạc Việt. Di tích khảo cổ tìm ra “xẻng đá” của thời đồ đá mới có Nhan Nhản từ Việt Nam, Vân Nam, Thái Lan, Miến Điện, Lưỡng Quảng, Hồ Nam, Triết Giang đã góp thêm minh chứng cho Vuông=Vùng văn hóa chung của nền văn minh Văn Lang cổ đại 5000 năm văn hiến. Chỉ nội một cái từ Nhan Nhản của tiếng Việt đã nói lên tất cả cội rễ của nền văn minh sinh ra cái từ đó. Từ Nhan Nhản, sách Từ điển tiếng Việt (NXB KHXH 1977, tr.565) giải thích Nhan Nhản là “nhiều lắm, chỗ nào cũng có”, đúng nhưng chưa đủ ý và không nêu được nguồn gốc của từ Nhan Nhản là của Việt - nền văn minh chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ Hành. “Chỗ nào cũng có”, đúng, vì câu đó là nói thay cho từ “tràn lan”, văn minh lúa nước của người Việt hàng vạn năm trước đã “tràn lan” từ di chỉ Hòa Bình đến di chỉ Hà Mẫu Độ ở Triết Giang (ở di chỉ Hà Mẫu Độ cũng có “xẻng đá”, có hạt lúa, có nhà sàn) chủ yếu bằng con đường sông biển. Tràn=Trùm, “trùm” là bao gồm cả vùng rộng lớn, Tràn=Trùm=Tùm, “tùm” là nhiều về chủng loại. Lan=Lùm, “lùm” là nhiều về lượng, Lan=Lùm=Lum. Tràn Lan = Tùm Lum, “tràn lan” là nhiều chỗ, “tùm lum” là nhiều thứ có chủng loại và lượng khác nhau. Vậy mà không nói là “tùm lùm” mà lại đổi thành “tùm” (thanh điệu Nhóm 1 = Dương) và “lum” (thanh điệu Nhóm 0= Âm) ghép thành “ tùm lum” để nói thêm ý rằng trong đó có cả sản phẩm Âm ( xưa, hoặc nội địa) và cả sản phẩm Dương (mới, hoặc ngoài vào). Tràn Lan = Tùm Lum, cùng mẫu số chung là “nhiều”, một bên là nhiều chỗ, một bên là nhiều thứ. Nhiều Tràn Lan đã lướt “Nhiều tràn Lan” = Nhan. Từ đôi sẽ là Nhan Nhan có tác dụng nhấn mạnh ý là càng nhiều, nhưng chưa có định hướng bằng thanh điệu để có “nhiều” cả Âm cả Dương tức có cả Xưa Cũ (Nhóm 0 và Nhóm 0 tức hoàn toàn cũ) và cả Mới Mẻ (Nhóm 1 và Nhóm 1 tức hoàn toàn mới), bởi vậy phải diễn đạt bằng thay đổi thanh điệu đi thành Nhan Nhản để có là Nhan (Nhóm 0) Nhản (Nhóm 1) mới nói lên đầy đủ ý có Âm có Dương mới sinh nở được thành ra nhiều: viết là Nhan Nhản như từ đôi, hoặc viết là Nhan/Nhản như từ đối. Đây là một từ ĐÔI, đồng thời cũng là một từ ĐỐI, đều là do cái NÔI mà Nở ra (Nếu vận dụng “qui tắc Nở” như tôi đã nêu mà soi rọi thì thấy chính là cái “Trứng” có tên là “Nhiều” đã như cái tế bào trong nôi, nó tự tách ra thành hai tế bào đang còn dính nhau là “Nhan-Nhản”). Bởi vậy nên tôi viết là Nhan Nhản cũng được, mà viết là Nhan/Nhản cũng được. Từ Nhan Nhản cũng giống như một cơ thể sống, nó chỉ là Một “từ”, cũng giống như một “tế” là cái tế bào, nhưng trong nó bao giờ cũng tồn tại hai phần cân bằng nên gọi là ĐÔI, nhưng một là phần Âm và một kia là phần Dương nên nó cũng gọi là ĐỐI. Khó có ngôn ngữ nào dịch được đầy đủ ý của từ Nhan Nhản, giỏi lắm chỉ dịch hết ý “nhiều lắm chỗ nào cũng có” (các từ khác của tiếng Việt cũng đều như vậy cả). Một tộc người mà ngôn từ (thể hiện cái tư duy) có cấu trúc chặt chẽ minh bạch Âm Dương như vậy thì đã hiển nhiên họ chính là chủ nhân của khái niệm Âm Dương và thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

Share this post


Link to post
Share on other sites