Lãn Miên

Cái Nôi Văn Hóa (4)

1 bài viết trong chủ đề này

Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại thanh điệu định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại thanh điệu định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”).

Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong

Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài

Tóm lại từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 0” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Trong , chủ quan; từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 1” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Ngoài , khách quan. Tư duy, suy nghĩ (Nhóm 0) của con người khi ở trạng thái hướng Trong nó đang đi vào Tĩnh tâm (Nhóm 0), còn khi Tỉnh giấc (Nhóm 1) là ở trạng thái hướng Ngoài. Về tư duy có cặp từ đối Tĩnh/Tỉnh. Suy nghĩ ấy nếu chỉ giữ cho riêng mình, nó hoàn toàn đang ở bên Trong, gọi là Tâm Long (Nhóm 0, hướng Trong), nhưng nếu suy nghĩ ấy là để cho người khác bên ngoài tức suy nghĩ để hướng Ngoài, người ta gọi nó là Tấm Lòng (Nhóm 1, hướng Ngoài), chỉ cần nói “tấm lòng của mẹ” là đã hiểu đó là suy nghĩ tốt lành của mẹ chỉ để cho người khác (hướng Ngoài) mà không cần phải nói cái phần “Thuyết” sau cho cái “Đề” là “tấm lòng của mẹ” (Buồn riêng mẹ để trong Tâm, Cho con là cả Tấm Lòng mẹ đây), tiếng Việt quả không đơn giản chút nào để có thể chuyển tải hoàn hảo ý của câu nói Việt sang các ngôn ngữ khác, như cái câu đơn giản là “Tấm lòng của mẹ”. Có thể bạn thấy lạ về từ Tâm Long (Nhóm 0) này, vì thường chỉ nghe tắt là Tâm không thôi. Tôi đã thấy có văn bản cổ chỉ dùng một chữ Long 龍 để diễn tả Tâm Long (chữ Long 龍 là con Rồng này trong Hán ngữ không hề mang ý là Tâm, chữ Long 龍 là Rồng này trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là con rồng hoặc loài bò sát như khủng long, hoặc nâng ý lên chỉ vua và các thứ của vua như long bào, long sàng, và cũng có dòng họ mang họ Long 龍). Văn bản cổ ấy là bài “Quan Thánh Đế giáng bút chân kinh 關 聖 帝 降 筆 真 經” ở chùa Ông thờ Quan Vân Trường tại tỉnh Bình Dương, trong đó có câu diễn tả nỗi bực bội của Quan Vân Trường: “Long hận gian phu, dâm phụ 龍 恨 奸 夫 淫 婦” mà chữ Long 龍 không thể dịch là Rồng được, vì như vậy vô lý, đây là mượn (giả tá) chữ Long 龍 để chỉ Tâm Long, Tâm Long hận (thuộc Nhóm 0, là cái suy nghĩ hướng Trong),Tâm Long hay riêng Tâm hoặc riêng Long là chỉ suy nghĩ ở Trong, cũng như Hận là chỉ ở Trong mà thôi, nhưng Giận Hờn thì là có Trong và do Trong mà đã hướng ra cả Ngoài (Hờn thuộc Nhóm 1, khi Giận thuộc nhóm 0). Bởi vậy câu ca “Giận thì giận mà thương thì thương” là mới Giận thôi, chưa thể hiện thành cái Hờn ra bên ngoài, nếu cái Bực Bội (Nhóm 0) bên Trong mà đã thật sự thể hiện ra ngoài thì nó đã thành Bức Bối (Nhóm 1) là hành động nóng nảy dữ dội như ba tình huống diễn tả ở câu tục ngữ “Đau đẻ Ngứa ghẻ Hờn ghen”. Đây là từ Long chỉ cái tư duy thì nó trừu tượng như từ Tâm. Còn từ Long chỉ cái cụ thể như chỉ cái cán cuốc bị Long (Nhóm 0) thì là khi cán cuốc nó vẫn còn cắm trong cái chuôi cuốc, chỉ có là cắm không chặt mà thôi, còn khi đã Lỏng (Nhóm 1) thì nó nhất định là bị rớt ra ngoài, cặp từ đối Long/Lỏng. Chữ Long 癃 nữa mà trong y học cổ truyền dùng, nghĩa là “ốm yếu” hoặc chỉ sự “bí đái”, gọi là Long 癃 vì từ nguyên của nó là của Việt, do lướt “Lép Trong” = Long 癃, cái ống niệu mà nó không căng phồng được, nó bị Lép thì tắc đái là đương nhiên, cái phổi nó không tươi nhuận mà lại bị Lép thì ốm yếu hoặc ho lao là đương nhiên. Thợ mộc thì đẽo xong cái mộng Đực, gọi nó là cái “Lõi Trong” = Long, đục xong cái mộng Cái, gọi nó là cái “Lối Trong” = Long, lối để cho mộng đực đút vào, chỗ ghép mộng ấy gọi là chỗ hợp Long, hai cái Long ghép vào với nhau gọi là hợp Long. Khi đào mỏ, người ta khoét lối vào núi, cũng thành cái “Lối Trong” = Long 嶐, chữ Long 嶐 này để chỉ cái hầm lò, mà Hán ngữ gọi là chữ của “phương ngữ” , tức là của người Việt. Thời cuối Đông Tấn mà Hứa Thận viết Thuyết Văn Giải Tự, cách nay 2000 năm, cuốn sách ấy như là cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa, mới chỉ có 9353 chữ, nhiều chữ về sau xuất hiện đương nhiên là không có trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự, vậy mà những chữ xuất hiện sau vẫn là do người Việt đặt ra, vì muốn tìm “từ nguyên” của nó phải tìm trong tiếng Việt mới thấy ra. Như chữ Long 隆 có nghĩa là sâu sắc, sâu sắc là sâu sắc trong nội tâm, như trong từ ghép Long 隆 Trọng 重, từ nguyên của nó là của Việt, do lướt “Lớn Trong” = Long 隆. Chữ Long 隆 này cũng còn mang nghĩa là “thịnh vượng” để ghép thành từ ghép Hưng 興 Long隆, tức nó cũng vẫn là “Lớn Trong” = Long 隆, có lớn của cải tiền nong trong nhà thì mới là thịnh vượng chứ rỗng tuyếch thì sao gọi là thịnh vượng được. Như vậy từ đối Tâm/Tấm là cực kỳ chính xác trong ý nghĩa mà chúng chuyển tải. Đến đây mới hiểu rõ thêm một điểm nữa cái minh triết trong chuyện cổ tích “Tấm Cám” (Tại sao không đặt tên là cô Mè và cô Đậu, cũng nhỏ nhắn gần gũi cả, hoặc đặt tên cô Cà Pháo với cô Mắm Tôm, cũng đều là gần gũi cả, cà pháo chấm mắm tôm tức là “cà pháo ăn đứt mắm tôm” rồi còn gì ?). Đó là bởi vì Tấm (Nhóm 1), Cám (Nhóm 1) đều là đặt tên với thanh điệu như vậy ý muốn nói về tư duy của hai con người sẽ hướng ra ngoài như thế nào ( hướng ra ngoài gọi là xử thế), chỉ có điều một người như Tấm thì luôn muốn hướng cái Thiện (Nhóm 0) ra ngoài (gọi là tinh thần vị tha), một người như Cám thì luôn muốn hướng cái Ác (Nhóm 1) ra ngoài. Từ đối Tâm/Tấm đều là nói cái tư duy, nhưng Tâm là hướng Trong, còn Tấm là hướng ngoài. Cũng như từ đối Cam/Cám là nói cái tư duy, nhưng Cam là hướng Trong, là Cam Chịu, còn Cám là hướng Ngoài. Thiện (Nhóm 0 = Âm ) là cái Trong, luôn có sẵn, người xưa nói “Nhân chi sơ tính bổn Thiện”; Ác (Nhóm 1 = Dương) là cái Ngoài vào, do nhiễm từ Ngoài khi con người lớn lên trong môi trường xã hội, Cám đã tập nhiễm cái Ác từ mẹ nó từ khi nó còn nhỏ.( Người Hán mượn chữ “Thiện” “Ác” của người Việt, nhưng họ phát âm lơ lớ là “Sàn” “Ừa”, thanh điệu đều thuộc Nhóm 1, tức Ngoài vào, chứng tỏ họ đã du nhập văn hóa từ Ngoài vào, từ các dân tộc khác, và câu đầu tiên trong “Tam tự kinh” là “Nhân chi sơ, Tính bổn thiện” thể hiện là của người Việt. Cũng như thơ Đường, chỉ có đọc bằng giọng của người Việt Nam mới diễn tả được đúng sắc thái nội dung và đúng âm luật của nó – Thơ Đường đạt đến tính hàn lâm bác học của nó là ở các thi đàn, tao đàn phát triển phổ biến thời Đường, nhưng chủ nhân các thi đàn ấy lại là quần chúng “tiên hiền Bách Việt” - ).Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang quả là một cái NÔI vĩ đại ( Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Từ nguyên của “Vĩ Đại” là “Việt To”, thanh điệu cũng thuộc Nhóm 0, do thời cổ đại ở vùng Hoàng Hà, như sử thư ghi, là nơi tranh chấp giữa “nam phương Việt, bắc phương Hồ” mà vùng người Việt lại có đông dân hơn và có văn minh cao hơn, nên gọi là “Việt To”. Người Hán phát âm lơ lớ Việt To thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài. Điều này như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào). Ngày nay qua khảo cổ cũng thấy như vậy. Như ý kiến của Giáo sư Hàn Sâm. Bà Hàn Sâm 53 tuổi, người Singapore, giáo sư đại học Yale-NUS college, từng là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại đại học University of Pennsylvania Hoa Kỳ, khi nghiên cứu cổ sử Trung Quốc từ các văn vật khảo cổ, đã nói: “Rất nhiều người Trung Quốc đều cho rằng, Trung Quốc rất ít bị ảnh hưởng ngoại lai. Tôi lại có cách nhìn ngược lại, tôi cho rằng TQ đối mặt rất nhiều ảnh hưởng ngoại lai. Tôi đứng trên lập trường người nước ngoài, tôi rất hứng thú mặt này. Trong 1000 năm trở lại đây, phần lớn thời gian là TQ bị ngoại tộc thống trị, ví dụ từ triều Đường tới triều Thanh, miền Bắc, thậm chí cả miền Nam TQ là nằm dưới sự thống trị của ngoại tộc trong những thời gian khá dài. Trong lịch sử, TQ dùng từ “Hán hóa” là không chính xác, định nghĩa “Hán hóa” là rất mơ hồ. Nói “Hán hóa” hầu như là chỉ nêu một phát triển đơn hướng, chỉ xét đến ảnh hưởng của Hán tộc đối với các tộc khác, mà lại không nói đến, ví dụ như “Nữ Chân hóa”, “Khiết đan hóa” v.v, khi những ngoại tộc này từng thống trị toàn TQ. “Hán hóa” thông thường chỉ là nói về hiện tượng các tộc phi Hán hòa nhập thành văn hóa TQ”.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites