Lãn Miên

Cái Nôi Văn Hóa (3)

1 bài viết trong chủ đề này

Bộ Thủ 部 首 nghĩa là bộ phận đầu , mà lại không gọi theo ngữ pháp Hán là “thủ bộ”- Thủ 首 là đầu, Bộ 部 là bộ phận – mà lại gọi theo ngữ pháp Việt là “bộ thủ” ?

Để xét xem “bộ thủ” là có gốc Việt như thế nào hãy xem vài bộ thủ qua ví dụ vài con chữ nho cụ thể:

1.Bộ Tủy 夊 nghĩa là chậm, là lướt “Từ từ tùy Kỹ” = Tủy. Xem chữ Giáo 教 gồm chữ Già 老 ở trên, chữ Con 子 ở dưới và bộ thủ chữ Tủy 夊 bên cạnh. Già thì ra Lão 老, trong cái Nôi khái niệm Già=Dài=Dai=Dãn=Dão=Lão=Lao=Lâu=Lớn=Lang=Lãnh, từ đôi “dài lâu” và “lớn lao” đều là nói về tuổi, quan Lang cũng là quan Lớn, là Lãnh đạo của một Lãnh thổ (nôm na thì Lãnh đạo là đầu Lớn, Lãnh thổ là đất Lớn). Con thì ra Tử子, trong cái Nôi khái niệm Kẻ=Con=Quan官=Quân君=Cái=Ko=Cu=Tu=Tí子=Tử子 ( Ko là người Nhật dùng, Tu là người Tày dùng, Tử 子 là người Hán mượn dùng nhưng họ phát âm lơ lớ là “dử”). Tủy夊 là tên một bộ thủ, có nghĩa là “chậm”, tượng hình giống như hai chân đi dọc theo trên một thanh cầu khỉ, đương nhiên là động tác ấy phải Từ Từ, phải Tùy, phải Kỹ; lướt cả câu có ba mệnh đề là câu “Từ từ-Tùy-Kỹ” thì thành Tủy 夊. Chữ Tủy 夊 này trong Hán ngữ không có đứng riêng một mình để mang nghĩa là gì cả, cũng như hầu hết các bộ thủ khác cũng vậy. Nhưng Từ từ-Tùy-Kỹ thì chính là nguyên tắc của giáo dục: Phải chậm Từ Từ, phải Tùy đối tượng học, phải Kỹ càng. Chữ Giáo, thuyết văn giải tự của Hứa Thận giải thích nghĩa của nó là “thượng thi hạ hiệu” tức cái hành vi thực thi của người trên sẽ là cái hiệu quả cho người dưới bắt chước (về sau suy diễn thành các câu thành ngữ “nhà dột từ nóc”, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”). Giải thích ấy của Hứa Thận cách nay 2000 năm cũng đúng như kết cấu bằng tiếng Việt của từ Giáo 教 là ở câu “Già làm mẫu cho trẻ Háo” được lướt gọn lại thành “Già…Háo”=Giáo.(Háo là do lướt “Học cho đến Thạo” = “Học…Thạo” = Háo). Cả kết cấu, hình tượng, cả ý nghĩa và nguyên tắc của chữ Giáo 教 đều thấy thể hiện đầy đủ trong câu ca dao Việt : “… Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mẹ dắc con đi. Con thi trường học, mẹ thi trường đời”

2.Bộ Thỉ 豕, trong Hán ngữ nó không đứng riêng để dùng là nghĩa gì, tra cổ, nghĩa là con vật thuộc động vật có vú, vậy “từ nguyên” của nó là con “Thịt” mà người Việt chỉ con thú săn về hoặc con gia súc.

3.Bộ Am 广, mang nghĩa là che chở, bởi “từ nguyên” của nó là cái “Ổ”, mà nôi khái niệm Ổ=Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu=Ủ, mẹ Âu Cơ ấp ủ vì mẹ là dòng Chim=Tim=Tiên.

3.Bộ Miên 宀 nghĩa là mái che, từ nguyên của nó là lướt “Mái Hiên” = Miên, tức là cái Vòm 宀 che . Xem chữ Vũ 宇 nghĩa là không gian tức là cái “Vòm Ủ = 宀 + 于 = 宇” = Vũ 宇. Cái Vòm 宀 ấy là bầu trời, nên thời gian là cái “Trời Du= 宀 + 由 = 宙” = Trụ 宙 . Có từ ghép Vũ 宇 Trụ 宙 nghĩa là không gian và thời gian.

4.Bộ Hãn nghĩa là Hang 厈 (Hán ngữ gọi hang là cái “động 洞”)

5.Bộ Tịch 夕 nghĩa là đêm, từ nguyên: Tịch=Tối=Tăm=Đắm=Đêm (Hán ngữ gọi đêm là “dạ 夜”)

Chỉ có trong tiếng Việt mới có từ NÔI (cái để đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru, dạy cho tập NÓI những từ đầu tiên của “Tiếng Mẹ Đẻ”, dịch sang tiếng Anh là “Tâng Ma Thơ” - “Mather Tong” – theo qui tắc “Tơi” và qui tắc “Rỡi” trong tạo từ của tiếng Việt mà tôi đã nêu trong những bài trước thì: Tiếng= “Tâng”= “Sâng”, “sâng” là phát âm của Hán ngữ, tức chữ “thanh 聲”. “Tâng” tiếng Anh nghĩa là Lưỡi, trong tiếng Việt thì lướt “Lưỡi Nói” = Lời. Tất cả đều từ Lõi mà ra, tức từ trong tư duy. Lõi = Lời = Nhời = Nhắn = “Yán”= Ngôn, “yán” là phát âm của Hán ngữ. Nhắn Gọi = Ngôn Ngữ 言 語, Hán ngữ diễn đạt là Ngữ Ngôn 語 言), NÔI ấy là cái Nôi khái niệm, tức Nơi sinh ra mọi khái niệm trong ngôn ngữ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết câu đầu tiên của sách dạy phổ cập chữ Quốc Ngữ là câu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Chữ O, nó là “Lõi” của chữ NÓI. Chữ Ô, nó là “Lõi” của chữ NỔI, chữ Ô ấy là cái Ổ của mọi khái niệm Âm (chữ N- thành phần của NÔI, là viết tắt của Negative tức Âm) và mọi khái niệm Dương (chữ I- thành phần của NÔI, là viết tắt của Innegative tức phủ định âm là Dương. Nhận định của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã được hội thảo quốc tế tại Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh Trung Quốc công nhận, rằng “khái niệm Âm Dương là của người Việt”). Chẳng phải ngẫu nhiên thì chắc là do tổ tiên run rủi. NÔI khái niệm của tiếng Việt cũng như cái NÔI văn hóa Việt, nó là cái NỖI túc trực bên trong mỗi con người Việt, gọi là Nỗi Lòng. Nó là cái tâm thức nặng sâu thăm thẳm bên trong là cái NỘI, gọi là Nội Tâm. Nó có ảnh hưởng rộng lớn ra ngoài từ thời quốc gia Văn Lang mênh mông (“bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn” như chính sử ghi) có nền văn hiến rực rỡ 5000 năm trước, gọi là NỔI tiếng, đó là sự Nở của văn hóa, một khi nó là đi đầu, như cái Đầu Gạo của hạt cây mọc ra Rễ trước khi mọc mầm để Lên thành cây ( lướt “Đầu Gạo” = Đạo 道, ở cái cụ thể như ở cái cây thì Đầu Gạo để mọc mầm là cái Đi Đầu, ở cái trừu tượng như ở tư duy con người thì cái Đầu Gạo = Đạo là cái Đi Đầu, chữ Đạo 道 viết bằng ghép hai chữ Đi 辶và Đầu 首, 辶+ 首 = 道, vậy chữ Nho này là của Việt hay của Hán ? mà Khổng Tử gọi chữ Nho là Nhã Ngữ ?, Nho Nhã nghĩa là “chữ nho của người Nhã” tức của nước Dã Lang 也 郎 = Dạ Lang 夜 郎 = “Duê” Lang 粵 郎 = Di Lang 夷 郎 = Du Lang 于 郎 = Vu Lang 于 郎 = Việt Lang 越 郎 = Văn Lang 文 郎, lướt ông “Lớn Làng”=Lang, Văn Lang là “cái Vuông tức cái Vùng của ông Lớn Làng”, lướt “Bản Làng” = Bang, Rộng Bang = Hồng Bàng 鴻 龐 . “Hồng” nghĩa là Rộng, nạn hồng thủy tức “nước rộng” hay Nước Ròng cũng là Nước Rồng vì họ thờ Rồng tức là người dòng Long, chữ Hồng 鴻 viết biểu ý bằng ghép chữ 江 Giang=Dòng=Sông=Rộng=Rồng=Long chỉ vùng ven biển là vùng sông nước nơi trồng lúa của Lạc Long Quân, với chữ 鳥điểu là Chim=Tim=Teen=Tiên tức là người dòng Tiên của mẹ Âu Cơ, 江 + 鳥 = 鴻, bản thân một chữ Hồng 鴻 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này đã bao hàm cả Rồng và Tiên; chữ Bàng 龐 cũng nghĩa là Rộng như trong từ ghép có về sau là từ “bàng đại”, chữ Bàng 龐 viết biểu ý bằng ghép bộ thủ 广 Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu nghĩa là “che chở ấp ủ” như chim mẹ Âu Cơ dòng Tiên, với chữ Long 龍 là Rồng của dòng Lạc Long Quân, 广+ 龍 = 龐, bản thân chữ Bàng 龐 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này cũng đã bao hàm cả Rồng và Tiên. Từ đôi Hồng Bàng gồm hai từ đồng nghĩa Hồng và Bàng đều nghĩa là “rộng” có nghĩa nhấn mạnh cái tính chất “rộng” như của qui tắc “từ đôi” trong tiếng Việt, có hai tức có Âm cùng Dương thì mới có nở để mà rộng. Cái khái niệm “rộng” này phải dùng từ đôi để diễn tả vì nó hàm hai ý: rộng về lãnh thổ là từ nam Dương Tử đến vịnh Thái Lan ngày nay và rộng về đa sắc tộc đến cả nghìn sắc tộc cùng văn hóa lúa nước cùng ngôn ngữ Nam Á của một gen Bách Việt. Chỉ có người Việt gọi mình là con cháu Tiên Rồng 仙 龍, thường hay đặt tên con trai là Long, con gái là Phụng. Người Hán về sau tiếp thu văn hóa của người Việt, cũng tự gọi mình là con của Rồng, nhưng lại không có Tiên, bởi chưa quen tư duy Âm Dương, nghĩ có Một là được rồi, người Việt có Một rồi phải nghĩ ngay để có Hai đã, rồi mới tính chuyện tiếp được, còn về sau thì phong kiến lấy hình tượng Rồng làm biểu tượng của quyền uy. Chính nền văn minh nông nghiệp trồng trọt của dân Bách Việt đã tạo nên nền tảng đầu tiên cho Văn minh Trung Hoa, chứ không phải nền chăn nuôi du mục của dân Hán tạo nên đầu tiên. Cái Rễ đầu tiên của nông nghiệp trồng trọt Văn minh lúa nước chính là cái Lễ, là cái đầu tiên con người phải học, như câu “Tiên học Lễ, hậu học văn”, con người cũng như cái cây, cây có Rễ trước mới thành được cây, người có biết Lễ trước đã rồi mới thành được người có nhân cách, khẩu hiệu của giáo dục bây giờ phải là: Nhân tình - Nhân tính - Nhân cách - Nhân tài, đó là những bước đi tuần tự cụ thể mà người Việt xưa đã dạy, chứ không phải đi học ở cái chủ nghĩa nào Ngoài vào cả). Cái Nở=Nổi của văn hóa Văn Lang 5000 năm trước thể hiện sự Nổi Trội hơn các nền văn hóa khác xung quanh. Khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử, những văn hóa vật thể vì nhiều lý do có thể bị tàn phá hoặc chôn dấu xuống lòng đất, lâu dần sẽ bị ăn mòn đến không còn gì, gọi là mất , nhưng những văn hóa phi vật thể thì không thể đem chôn được, nó lặn vào trong tâm thức, cho nên người Việt vẫn nhớ mãi mồn một về tổ tiên xưa của mình, và có tục thờ cúng Tổ Tiên. Từ run rủi là dùng trong lĩnh vực tâm linh, mà Tâm=0, Linh=0 nên Tâm Linh=0+0=1=Có (theo qui tắc số học nhị phân, xuất phát từ khái niệm Âm Dương của người Viêt); tâm linh là Có cho nên cũng Có run rủi thật.

Ngôn từ Việt tinh túy và chính xác, chỉ có thể giải thích bằng lịch sử văn hiến Văn Lang rực rỡ 5000 năm ở nam Dương Tử. Cái NÔI ấy là cái Nôi Văn Hóa. Tổ Tiên xưa chắc đã tiên đoán sẽ có bọn phủ nhận Văn Minh Lạc Việt nên truyền lại câu nhắc nhở trách nhẹ nhàng là “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu này chắc chắn là xuất hiện trước khi có Phật giáo Đại Thừa ở Trung Quốc. Vì cái thời ấy người Việt Nam vẫn gọi là Bụt, trong các chuyện cố tích đều có ông Bụt. Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang ấy là một cái NÔI vĩ đại . Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Vĩ Đại có “từ nguyên” của nó là cái âm tiết Việt To, do thời cổ đại ở vùng Hoàng Hà, như sử thư ghi, là nơi tranh chấp giữa “nam phương Việt, bắc phương Hồ” mà vùng người Việt có đông dân hơn và có văn minh cao hơn nên gọi là “Việt To”. Người Hán phát âm lơ lớ thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài. Điều này như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào. Hiểu rõ chữ NÔI, thanh điệu là dấu “không”, giống như Trung Dung, như Văn, như Giao, như Giữa đều là thuộc Nhóm 0 = Âm, tức TRUNG LẬP thanh điệu cũng thuộc Nhóm 0, mà chữ Văn 文 trong Văn Lang và chữ Giao 交 trong Giao Chỉ được Thuyết Văn Giải Tự giải thích rằng, nó chỉ là cách viết lệch đi của chữ Vuông 口. Cái Vuông ấy là hình tượng cái bánh Chưng, chuyện cổ tích “Bánh Dầy bánh Chưng” kể là nó biểu trưng cho trái đất, trái đất thuộc về quẻ Khôn trong Bát Quái của người Việt, Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn=Vựa=Giữa=Giao. (Chữ Giao trong từ Giao Chỉ). Tất cả các chữ từ Khôn đến Giao ở trên đều mang thanh điệu thuộc Nhóm 0 = Âm, cái NÔI khái niệm ấy đủ nói lên bản chất của người Việt của nước Văn Lang hay đất Giao Chỉ xưa là tính Âm và là Khôn. Là Khôn thì phải đứng Giữa tức là TRUNG LẬP chứ chưa từng bao giờ cực đoan đi theo một chủ nghĩa Ngoài vào nào cả. Chính tư duy tự chủ đó đã làm cho dân tộc Việt Nam quật cường giữ mãi được độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc từ 5000 năm trước cho đến ngày nay. Ngày nay cả Ngoài và cả Trong đang có đông đảo bọn gọi là “khoa học” dùng quyền uy chính trị để ra sức viết bài phủ nhận Văn Hiến Lạc Việt 5000 năm, những tình huống kiểu đó, tục ngữ Việt khái quát bằng câu “Cả vú lấp miệng em”. Phân tích câu tục ngữ trên theo định hướng ý của thanh điệu thì “cả vú lấp” thuộc Nhóm 1 tức tác động Ngoài, “miệng em” thuộc Nhóm 0, là cái Trong vốn sẵn từ xưa như một sự thực chân lý lịch sử, bởi “miệng” là cái “nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”, vậy thì cái “bọn khoa học” đó liệu có phủ định nổi lịch sử không? Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu khoa học nên phải có tư duy độc lập. Tục ngữ Việt cũng còn có câu “Xuýt chó bụi rậm”, phân tích theo định hướng ý của thanh điệu thì “xuýt chó” thuộc Nhóm 1 là tác động Ngoài, “bụi rậm” thuộc Nhóm 0 là Trong, là cái tồn tại sẵn từ trước, là “bụi rậm” vì đó là mớ luận thuyết hổ lốn mơ hồ rất sai lầm do sự xáo xào của thư lại những thời đại xưa. Cái từ “xuýt” của tiếng Việt thì tiếng Tàu lẫn tiếng Tây không tài nào dịch nổi, mà người Việt thì chỉ vừa nghe là cảm nhận được hết rồi. Nếu là “xúi” thì nó bình thường, ai muốn nghe thì nghe, không nghe thì thôi. Đây lại là “xuýt” thì buộc phải làm theo răm rắp. Vì “xuýt” là tiếng lướt của cả câu “Xúi giục bằng mưu đồ quỉ quyệt và mệnh lệnh áp đặt quả Quyết” = “Xúi…Quyết ” = Xuýt. Tội nghiệp con chó theo lệnh quan thầy cứ vậy mà lao vào bụi rậm, theo con đường sáo mòn là mặc nhận và toàn là “trích” với “dẫn”. Nói “tội nghiệp” là vì con chó có tính là trung thành với quan thầy và biết nhẫn để đợi quan thầy thí cho miếng ăn thừa, (mà chủ là người Kinh khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “cho nó !”, lướt “Cho Nó” = Chó, còn chủ là người Tày khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “mừ nhá ! lướt “Mừ Nhá” = Má, nên trong tiếng Việt có từ đôi Chó Má nhấn mạnh ý là nhiều loại chó, mà “má” là chó trong tiếng Tày; kiểu như Gà Qué là nhiều loại gà, mà “qué=cáy” là gà trong tiếng Hoa, Tre Pheo là nhiều loại tre mà “pheo” là tre trong tiếng Mường). Mà cứ theo lối mòn để lao vào bụi rậm xưa thì đâu phải là tư duy độc lập.

Ví dụ về một cách nhìn khác khi nghiên cứu sử: Bà Hàn Sâm 53 tuổi, người Singapore, giáo sư đại học Yale-NUS college, từng là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại đại học University of Pennsylvania Hoa Kỳ, khi nghiên cứu cổ sử Trung Quốc từ các văn vật khảo cổ, đã nói: “Rất nhiều người Trung Quốc đều cho rằng, Trung Quốc rất ít bị ảnh hưởng ngoại lai. Tôi lại có cách nhìn ngược lại, tôi cho rằng TQ đối mặt rất nhiều ảnh hưởng ngoại lai. Tôi đứng trên lập trường người nước ngoài, tôi rất hứng thú mặt này. Trong 1000 năm trở lại đây, phần lớn thời gian là TQ bị ngoại tộc thống trị, ví dụ từ triều Đường tới triều Thanh, miền Bắc, thậm chí cả miền Nam TQ là nằm dưới sự thống trị của ngoại tộc trong những thời gian khá dài. Trong lịch sử, TQ dùng từ “Hán hóa” là không chính xác, định nghĩa “Hán hóa” là rất mơ hồ. Nói “Hán hóa” hầu như là chỉ nêu một phát triển đơn hướng, chỉ xét đến ảnh hưởng của Hán tộc đối với các tộc khác, mà lại không nói đến, ví dụ như “Nữ Chân hóa”, “Khiết đan hóa” v.v, khi những ngoại tộc này từng thống trị toàn TQ. “Hán hóa” thông thường chỉ là nói về hiện tượng các tộc phi Hán hòa nhập thành văn hóa TQ”.

Ngoại tộc Mãn chỉ bằng con đường xâm nhập thâm cung triều đình mà thâu tóm để thống trị được toàn bộ TQ đến mấy trăm năm, bắt đàn ông TQ phải tuân theo phong tục Mãn là cạo trọc nửa đầu phía trán và tết tóc đuôi sam. Triều đình Mãn Thanh khi thống trị được TQ thì đầu tiên là dùng 10 năm trời và 300 học giả bị “xuýt bụi rậm” để chuyên gò lưng cạo sửa thư tịch xưa để lại, nặn ra cái gọi là “Tứ khố toàn thư” bóp méo lịch sử, mà chỉ có Lỗ Tấn, con người được người đời gọi là có tật “lưng không cúi được” đã thẳng tay vạch mặt chỉ tên những bóp méo trong “Tứ khố toàn thư” của nhà Thanh. Việt Nam thì Quang Trung Nguyễn Huệ khi đem quân đi đại phá quân Mãn Thanh xâm lược đã tuyên bố: “Đánh cho choa để dài tóc, đánh cho choa để đen răng, đánh cho chúng chiếc lăn bất phản, đánh cho chúng phiến giáp bất toàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ ! ”

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites