Lãn Miên

Chữ Khoa Đẩu Có Từ Trước Thời Tiên Tần?

4 bài viết trong chủ đề này

Chữ Khoa Đẩu có từ trước thời Tiên Tần ?

Đọc dưới đây đoạn văn của Hứa Thận viết trong cuốn sách “Thuyết Văn Giải Tự”, in năm 100, cách nay gần 2000 năm:

鲁恭王拆毁孔子住宅,(无意中)得到了《礼记》、《尚书》、 《春秋》、《论语》、《孝经》等古文典籍。(古文典籍)还有北平侯张仓所献的《左传》。一些郡县、诸侯国也往往从地下发掘出前代的宝鼎和器物。它们的铭文 就是前代的古文。(这些古文字资料)彼此多相似,虽说不能再现远古文字的全貌,但是先秦古文字的情况却能知道大概了。世人无知,极力否定、诋毁古文,认为 古文是好奇的人故意改变现行文字的写法,假托出自孔子住宅牆壁,伪造出来的不能知晓的文字;(认为古文)是诡变正字,搅乱常规;(认为拥护古文的人)是想 借它炫耀于世。

  很有一些儒生(喜欢凭着臆断)争着抢着解说文字和《经》义。他们把秦朝才有的隶书当做仓颉时代的文字,说什麽「文字是父子相传的,那裡会改变 昵」?他们竟然瞎说:「马字头作一人字是长。」「人握十是。」「虫字是屈写中字的一竖。」掌刑官解说法令,竟至于凭着拆析字形来臆断刑律,比如「苛人受 钱」(原义是禁止恐吓人犯,索取贿赂,「苛」是「诃」的假借字,可是)有人说,「苛」字(上为「止」,下为「句」),意思是「止句」。类似上文的例子多得 不胜枚举,(这些解说)都同孔壁中出土的古文字形不合,同史籀大篆的字体相违。粗俗浅薄的人,欣赏自己习见的东酉,对于少见的事物则格格不入,(他们)没 见过宏通的学问,不知道汉字的规律、法则,把古文典籍看成异端,把无稽之谈当做真理,把自己知道的东西看得神妙至极。(他们)探究圣人着述的深意,又看到 《仓颉篇》中有「幼子承诏」一句,便说《仓颉篇》是黄帝时代写的,说那句话寓有黄帝仙去,让幼子承嗣的深意。他们迷误不通,能不违背事理吗?

《尚书》记载,舜帝说;「我想看看古人绘製的图像。」这话表明舜帝制订制度,必按旧典行事,而不穿凿附会。孔子说:「我还能看到史书存疑的地 方。」又说:「(这种「存疑精神」)现在的人没有了啊!」(「存疑」)不是作者自己不懂就不闻不间,(而是担心)人若凭着自己的猜想去解释古史古事,那就 会弄得是非没有定准;巧言诡辩将给世上的学习、研究者造成疑团、困扰。文字是经史百家之书的根基,是推行王道的首要条件,前人用它记述自己的经验传示给后 人,后人依靠它认识古代的历史。孔子说「本立而道生」,这是因为(确立了根本)能使人懂得世上最深奥的道理,而不会再受困扰。

现在我叙列篆文,参照古文、 籀文,博採诸家之说,做到出言无论大小,都确凿有证,在考稽的基础上撰写出自己的说解。我想用这部书总编万物,剖辨谬误,使学习的人了悟(文字的本原), 通达文字的妙意。我採用分立部首、以部首系联字头的办法编排文字,使它们不相错杂。万事万物都能从本书裡见到,没有哪一样不涉及、不记载的。遇到读者不易 明瞭的事物,我就援用可资说明的东西比喻它。书中提到孟喜的《易经》,孔安国的《尚书》,毛亨的《诗经》以及《周礼》《左传》《论语》《孝经》等,都指古文版本。遇到我不知道的事物,就告缺不论。……

Lỗ Cống Vương dỡ bỏ phá hủy nhà ở của Khổng Tử, (trong vô ý) lấy được các điển tịch “Lễ Ký”, “Thượng Thư”, “Xuân Thu”, “Luận Ngữ”, “Hiếu Kinh” viết bằng cổ văn. (Điển tịch cổ văn) còn có “Tả Truyện” của Bắc Bình Hầu Trương Thương hiến tặng. Một số quận huyện, chư hầu quốc, cũng từ xưa đến giờ khai quật được từ dưới đất lên nào là bảo đỉnh, nào là các khí vật của đời trước. Minh văn của những khí vật đó đều là cổ văn thời xưa. (Những tư liệu chữ cổ văn này) đa phần giống nhau, tuy rằng không thể tái hiện được toàn mạo của văn tự viễn cổ, nhưng có thể biết được đại khái tình hình văn tự cổ của thời Tiên Tần. Người đời đương thời không biết, cực lực phủ định, thị hủy cổ văn, cho rằng cổ văn là do người hiếu kỳ nào đó cố ý viết bằng cách cải biến văn tự hiện hành, bịa ra chuyện lấy được cổ văn từ trong vách tường nhà ở của Khổng Tử, ngụy tạo ra thứ văn tự không thể hiểu nổi; (cho rằng cổ văn) là ngụy biến chính tự, quấy lộn thường qui; ( cho rằng những người ủng hộ cổ văn) là muốn mượn nó để huyền diệu với đời.Có rất nhiều Nho sinh đương thời ( thích dựa vào ức đoán) đua nhau giải thuyết nghĩa của văn tự và “Kinh”. Họ dùng Lệ thư, là thứ chữ chỉ mới có thời nhà Tần, coi là văn tự của thời đại Thương Hiệt, nói, nào là “văn tự là cái phụ tử tương truyền, đâu có cải biến được” ?...Họ trơ trẽn giải thích nhiều câu chữ của cổ văn rất lố bịch, hoàn toàn sai, nhiều đến nỗi không thể kể ra đây hết. được. Một ví dụ, câu “「苛人受 钱」” [ “ngừa người thụ tiền” - LM ] (nguyên nghĩa là “cấm chỉ hù dọa nhân phạm, mánh lấy hối lộ”, chữ 「苛」là giả tá của chữ 「诃」nguyên nghĩa, vậy mà họ giải thích là chữ 「苛」có bên trên là chữ “chỉ 止”, bên dưới là chữ “câu 句”, nghĩa của nó là “chỉ câu 止 句”- nghĩa là “dừng câu nói” - LM”) [ Ở đây Hứa Thận dùng chữ “nhân phạm 人 犯” là “người phạm tội” chứ không gọi là “phạm nhân”. Giả tá là mượn chữ có âm na ná , trường hợp ở đây là chữ 「苛」để phiên âm cho chữ 「诃」nguyên nghĩa. Chữ 「诃」này là một chữ Nho của người Việt, đọc là “Ngừa”, do lướt hai chữ Ngôn 讠và Khừa 可 thành chữ 「诃」, QT lướt: Ngôn Khừa = Ngừa ].((Những cách giải thuyết của họ) đều không phù hợp với hình chữ cổ văn khai quật được trong vách tường nhà ở của Khổng Tử, đều trái với thể chữ Sử Triện, Đại Triện. Người thô tục, nông cạn, hăm hở thưởng lãm đồ vật mình thấy, không nhập tâm được với những sự vật hiếm thấy, (bọn họ) chưa từng thấy học vấn hoằng thông, không biết qui luật, phép tắc của Hán tự, coi điển tịch cổ văn là dị đoan, đem những đàm luận không có căn cứ coi là chân lý, tự coi những cái mình biết là thần diệu cực kỳ. (Bọn họ) tham khảo nghiên cứu thâm ý của thánh nhân nói, lại xem đến trong “Thương Hiệt Thiên” có một câu “Ấu tử thừa chiêu”, thế là bèn reo lên rằng “Thương Hiệt Thiên” là được viết ra vào thời đại Hoàng Đế, reo lên rằng câu ấy ngụ thâm ý là khi Hoàng Đế qui tiên dặn ấu tử thừa tự. Họ mù mờ, sai lầm, không thông, sao tránh khỏi quay lưng với sự thật lịch sử ?

“Thượng Thư” ghi rõ, Thuấn Đế nói: “Tôi muốn xem xem cái đồ tượng mà cổ nhân đã vẽ chế ra”. Câu này biểu minh rằng Thuấn Đế định chế ra cái chế độ là dựa theo điển tịch cũ mà hành sự, chứ không phải chui xuống huyệt mà gặp.Khổng Tử nói: “Tôi còn có thể xem đến những chỗ còn nghi ngờ trong sử thư”. Lại nói: “(tinh thần nghi ngờ này) người bây giờ không có à nha ! ”. (Còn nghi) không phải là tự tác giả không hiểu thì không nghe, không hỏi, (mà là lo lắng), người nếu mà chỉ dựa vào đoán tưởng của mình để giải thích cổ sử, cổ sự, thì sẽ làm cho không định chuẩn được thị hay phi; xảo ngôn, biện luận, chỉ là sẽ làm cho những người học tập, nghiên cứu trên thế giới đâm nghi ngờ, bị trói buộc, bị nhiễu loạn. Văn tự là cơ sở của sách của bách gia đã kinh qua lịch sử, là điều kiện cốt yếu đầu tiên thúc đẩy thi hành vương đạo, người xưa dùng văn tự để ghi kể kinh nghiệm của mình truyền lại cho hậu thế, người sau theo đó mà nhận thức được lịch sử cổ đại. Khổng Tử nói: “Bổn lập nhi đạo sinh”. Đó là vì (xác lập được cái căn bản rồi) có thể khiến người ta hiểu được đạo lý thâm sâu nhất trên đời này, để mà sẽ không bị trói buộc, không bị nhiễu loạn.

Nay tôi liệt kê Triện văn, tham chiếu cổ văn, ứng dụng rộng rãi nhiều thuyết của chư gia, làm đến mức xuất ngôn vô luận to nhỏ, đều đào sâu xác thực có chứng cứ, trên cơ sở khảo kê, soạn viết ra thuyết giải của chính mình. Tôi muốn dùng bộ sách này tổng biên vạn vật, mổ xẻ, phản biện những luận cứ sai lầm, khiến người học tập ngộ được (bản nguyên của văn tự), thông đạt diệu ý của văn tự. Tôi ứng dụng phân lập bộ thủ, dùng biện pháp đầu chữ liên hệ bộ thủ để xếp đặt văn tự, khiến chúng không sai tạp lẫn nhau. Vạn vật vạn sự đều có thể xem thấy trong sách này, không có cái gì là không đề cập đến, không ghi ra. Gặp phải sự vật mà độc giả không rõ, tôi mượn vật tỷ dụ nó để thuyết minh. Trong sách đề cập đến “Dịch Kinh” của Mạnh Hỷ, “Thượng Thư” của Khổng An Quốc, “Thi Kinh” của Mao Hanh cùng các sách “Chu Lễ”, “Tả Truyện”, “Luận Ngữ”, “Hiếu Kinh”, đều là những bản viết bằng cổ văn. Gặp phải sự vật mà tôi không biết thì tôi cáo khuyết, không luận đến…

[ Trong đoạn văn trên Hứa Thận có viết: “Một số quận huyện, chư hầu quốc, cũng từ xưa đến giờ khai quật được từ dưới đất lên nào là bảo đỉnh, nào là các khí vật của đời trước. Minh văn của những khí vật đó đều là cổ văn thời xưa. (Những tư liệu chữ cổ văn này) đa phần giống nhau, tuy rằng không thể tái hiện được toàn mạo của văn tự viễn cổ, nhưng có thể biết được đại khái tình hình văn tự cổ của thời Tiên Tần”. Le lói thấy được nền văn hóa chung trên địa bàn rộng lớn Đông Phương thời Tiên Tần. Bảo đỉnh thì chắc chắn là di vật của thời đồ đồng. Cư dân nông nghiệp ĐỊNH (1) cư thành từng làng, làng có ĐÌNH (2) để thờ thần thành hoàng của làng, đồ thờ trang trọng là cái ĐỈNH (3), tất nhiên là có chữ viết từ xưa nữa mới có thể ĐÍNH (4) được văn tế cũng như hương ước của làng và luật của quốc gia. Có luật của quốc gia tất phải có tuyên ngôn ĐĨNH (5) ĐẠC của Vua Hùng trước bàn dân thiên hạ. Mỗi công dân của quốc gia (đã đến tuổi thành niên, tức đã được gọi là Đàn Ông hoặc Đàn Bà) gọi là một ĐINH (6). Đủ sáu thanh điệu của tiếng Việt từ thời Kinh Dương Vương rồi nha. Xã hội dân sự ấy bình đẳng quyền công dân - lướt: “Đàn ông Kinh” = Đinh, “Đàn bà Kinh” = Đinh. Đó là giải thích đúng nhất từ nguyên của danh từ “Đinh”. Lướt cả câu: “Bắt buộc phải cầm súng để giữ nước khi đã là Đinh” = “Bắt…Đinh” = Binh. Lướt cụm từ: “Làm Binh” = Lính (nếu không thì đã làm quan). Nên mới có từ đôi Binh Lính để chỉ nhiều quân. Tìm từ nguyên của tiếng Việt, chính xác nhất là từ cái “bia miệng” Việt ]

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Lãn Miên thân mến.

Sắp có semina về Chữ Khoa đẩu - Do TT LHDP phối hợp với TT MTV và Nxb Tri Thức của giáo sư Chu Đức đồng tổ chức. Anh có tài liệu nào minh chứng được chữ Khoa đẩu có từ lâu trong lịch sử Đông phương không. Rất nhiều sách nói: Khi Cung Lỗ Vương xây cung điện - thời Hán Vũ đế. Khi đập vách nhà của Khổng tử thì tìm thấy rất nhiều sách trong đó. Tất cả sách ấy đều ghi bằng chữ khoa đẩu (Sự tích này trùng với bài viết của anh ở trên. Nhưng bài viết trên của anh không thấy nói trực tiếp đến chữ Khoa Đẩu).

Tiếp theo sự kiên trên - Sau khi tìm được các sách của Khổng tử nói trên thì Hán Vũ Đế giao cho hai đại thần Là Khổng An Quốc và Lưu Bân (Tôi ko nhớ tên người này) san định lại và phổ biến. Từ đó Nho giáo phổ biến ở Trung Hoa.

Bởi vậy - từ những sự kiện này, chắp nối với Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt Nam - thì - có thể xác định rằng: Tất cả Ngũ Kinh và tứ thư, đều của người Việt cổ ở nam Dương Tử.

Thực ra thì về mặt tính hợp lý trong hệ thống lý luận thì quá đủ để chứng minh chữ Khoa Đẩu là chữ của nền văn hiến Việt. Nhưng với đám tư duy loại "tầm chương trích cú" thì cần phải có dẫn chứng: sách a nói, dòng mấy ...vv...nó mới thuyết phục và để cái đám tư duy hạng bét ấy đỡ thắc mắc lộn xộn anh ạ.

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Lãn Miên thân mến.

Sắp có semina về Chữ Khoa đẩu - Do TT LHDP phối hợp với TT MTV và Nxb Tri Thức của giáo sư Chu Đức đồng tổ chức. Anh có tài liệu nào minh chứng được chữ Khoa đẩu có từ lâu trong lịch sử Đông phương không. Rất nhiều sách nói: Khi Cung Lỗ Vương xây cung điện - thời Hán Vũ đế. Khi đập vách nhà của Khổng tử thì tìm thấy rất nhiều sách trong đó. Tất cả sách ấy đều ghi bằng chữ khoa đẩu (Sự tích này trùng với bài viết của anh ở trên. Nhưng bài viết trên của anh không thấy nói trực tiếp đến chữ Khoa Đẩu).

Tiếp theo sự kiên trên - Sau khi tìm được các sách của Khổng tử nói trên thì Hán Vũ Đế giao cho hai đại thần Là Khổng An Quốc và Lưu Bân (Tôi ko nhớ tên người này) san định lại và phổ biến. Từ đó Nho giáo phổ biến ở Trung Hoa.

Bởi vậy - từ những sự kiện này, chắp nối với Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt Nam - thì - có thể xác định rằng: Tất cả Ngũ Kinh và tứ thư, đều của người Việt cổ ở nam Dương Tử.

Thực ra thì về mặt tính hợp lý trong hệ thống lý luận thì quá đủ để chứng minh chữ Khoa Đẩu là chữ của nền văn hiến Việt. Nhưng với đám tư duy loại "tầm chương trích cú" thì cần phải có dẫn chứng: sách a nói, dòng mấy ...vv...nó mới thuyết phục và để cái đám tư duy hạng bét ấy đỡ thắc mắc lộn xộn anh ạ.

Khổng Bích Cổ Văn Thượng Thư (cuốn “Thượng Thư” bằng Cổ Văn trong vách tường nhà ở của Khổng Tử) – Số phận của “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu viết trên thẻ tre thời cổ đại.

Nguồn: mạng [hudong.com/wiki/kongbiguwenshangshu]

中国 汉景帝时在孔子故宅壁中发现用古代蝌斗(蝌蚪)文写的《尚书》,比汉文帝时伏生所传、隶书书写的《今文尚书》多16篇,故称《古文尚书》。相传孔子后人畏秦法峻急,藏《尚书》、《孝经》及《论语》等 于孔子故宅壁中。汉景帝子鲁共王刘馀,拆孔子旧居以扩建宫殿,于墙壁中发现许多书简,全用科斗文书写,有《尚书》及《论语》等儒家经典,称古文经,亦称壁 经。汉武帝末年在朝廷任博士的孔子十二世孙孔安国加以整理,与伏生所传今文经校对合并为58篇、46卷。魏晋时惟秘府有之,至永嘉之乱时佚失。晋元帝时豫 章内史梅赜奏上一部孔安国作传的《古文尚书》,比伏生所传的多25篇。此书流传颇久,到宋代吴棫、朱熹等对它有过怀疑,明代梅鷟竟直斥其伪。清代阎若璩作 《古文尚书疏证》、惠栋作《古文尚书考》,一一揭示其为伪书的证据。丁宽作《尚书余论》,进而论证其为曹魏王肃的伪造。

Thời Hán Cảnh Đế của TQ, trong vách tường nhà ở của Khổng Tử có phát hiện được cuốn sách “Thượng Thư” viết bằng chữ Khoa Đẩu cổ đại, so với cuốn “Kim Văn Thượng Thư” viết bằng chữ Lệ Thư thời Hán Văn Đế do Phục Sinh truyền, thì thấy cuốn “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu nhiều hơn 16 thiên, đương thời gọi cuốn “Thượng Thư” bằng chữ Khoa Đẩu cổ đại phát hiện trong vách nhà Khổng Tử là “Cổ Văn Thượng Thư”. Tương truyền, hậu nhân của Khổng Tử sợ phép Tần thúc gấp, nên đem dấu “Thượng Thư”, “Hiếu Kinh”, “Luận Ngữ” v.v. vào trong vách tường nhà ở. Con trai của Hán Cảnh Đế là Lỗ Cung Vương Lưu Dư khi dỡ bỏ nhà cũ của Khổng Tử để mở rộng cung điện, phát hiện được rất nhiều sách bằng thẻ tre dấu trong vách tường, toàn dùng chữ Khoa Đẩu viết thành, có “Thượng Thư” đến “Luận Ngữ” v.v. đều là kinh điển Nho gia, xưng là Cổ Văn Kinh, cách gọi khác là Bích Kinh ( tức Kinh tìm thấy trong vách Tường). Đến thời Hán Vũ Đế mạt niên, cháu đời thứ 12 của Khổng Tử là Khổng An Quốc nhậm chức Bác Sĩ (tiến sĩ) trong triều, chỉnh lý thêm và hiệu đối với cuốn viết bằng Lệ Thư mà Phục Sinh truyền lại, lồng ghép thành 58 thiên, 46 quyển. Thời Ngụy Tấn sách này có trong phủ coi là sách mật, đến thời Vĩnh Gia Chi Loạn thì mất mất. Thời Tấn Nguyên Đế, Mai Trách 梅 赜 là quan nội sử ở Dự Chương tâu lên một bộ “Cổ Văn Thượng Thư” do Khổng An Quốc làm và truyền lại, so với cuốn của Phục Sinh truyền lại thì nhiều hơn 25 thiên. Sách này lưu truyền khá lâu, đến đời Tống thì các vị như Ngô Vực 吴 棫, Chu Hy 朱 熹 v.v. có hoài nghi đối với cuốn sách này, đời Minh thì ông Mai Tộc 梅 鷟 thằng thắn phê phán tính ngụy tạo của cuốn sách đó, đời Thanh thì ông Diêm Nhược Cừ 阎 若 璩 làm cuốn “Cổ Văn Thượng Thư Thư Chứng”, ông Huệ Đống 惠 栋 làm cuốn “Cổ Văn Thượng Thư Khảo”, cuốn nào cũng vạch rõ có chứng cứ tính ngụy tạo của cuốn sách trên. Ông Đinh Khoan 丁 宽 làm cuốn ”Thượng Thư Dư Luận” tiến thêm một bước luận chứng rằng sách ấy là sự ngụy tạo của Tào Ngụy Vương Túc 曹 魏 王 肃.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cảm ơn anh Lãn Miên nhiều. Thế là đủ rồi. Tất nhiên sẽ có kẻ tầm tư duy "Ở trần đóng khố" sẽ vặn lại cho ra vẻ ta đây hiểu biết rằng:

Cần chứng minh chữ Khoa đẩu trong "Thương thư cổ văn" và chữ khoa đẩu của người Việt cổ là một.

Tôi sẽ bảo nó đi tìm cho tôi cuốn "Thương thư cổ văn" về cho tôi trước đã. Còn với tôi thì nó không phải chữ Trung Quốc. Hôm này nhất định có anh đi dự nhá.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites