Posted 26 Tháng 3, 2012 Bốn loại lễ lạy Pháp Hạnh dịch từ Anh sang Việt Đọc bản tiếng Anh Thiền sư Thánh Nghiêm (Thuyết giảng vào buổi tối ngày 4 tháng 12 năm 1992 trong đạo tràng tu học) Lễ lạy có 4 loại. Loại thứ nhất là lễ lạy để cầu xin ước mơ được thành tựu. Khi chúng ta lễ lạy kiểu này, chúng ta cầu xin chư Phật và Bồ tát giúp đỡ mình. Chúng ta có thể lễ lạy theo cách này khi đối diện với khó khăn hay những việc không may mắn. Ta cũng có thể lễ lạy dùm cho người khác. Nếu ai đó không được khỏe, bạn có thể lễ lạy để xin sự giúp đỡ từ đức Phật. Loại lễ lạy này còn được thực hành để tránh chuyện tai nạn, bệnh tật, hay xin tăng tuổi thọ. Loại lễ lạy thứ hai được thực hiện bởi sự chân thành nơi nội tâm chứ không phải với tâm mong cầu. Bạn có thể lễ lạy với chiều sâu của trái tim để bày tỏ lòng tri ân lên ngôi Tam Bảo. Bạn cũng có thể lễ lạy vị giáo thọ hay các bậc sư phụ của mình. Sư phụ đại diện cho ngôi Tam Bảo, vì thế chúng ta lễ lạy quý Ngài với tâm chân thành để thỉnh cầu sự dạy dỗ và và hưóng dẫn. Ðiều quan trọng là bạn phải hiểu rằng chính bạn là người hưởng lợi từ sự lễ lạy như vậy, chứ không phải là vị sư phụ của mình. Qua hành động biết ơn và tôn kính này mà chúng ta có thể thay đổi chính mình và phát khởi chân thành nơi nội tâm.Loại lễ lạy thứ ba là lễ lạy sám hối. Ðể thực hiện được loại lễ lạy này, bạn cần phải có tánh khiêm cung và cảm giác hỗ thẹn. Không thể lễ lạy theo dạng này nếu bạn còn đầy rẫy sự kiêu căng. Ngay cả khi chạm đầu xuống đất, mà bạn vẫn còn suy nghĩ là mình đúng và người khác là sai thì không được. Cách lễ lạy này giúp bạn thay đổi bản tánh của mình trở nên biết tiếp thu và và thành thật hơn. Nó cũng sẽ giúp bạn trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Loại lễ lạy này giống như là giặt quần áo. Quần áo chúng ta hết bị dơ đi rồi lại dơ lại. Và mỗi khi chúng bị dơ lại, chúng ta lại tiếp tục giặt lại. Ngày nào chúng ta còn giặt, thì quần áo chúng ta còn được sạch sẽ. Thực hành động tác lễ lạy sám hối mà không thú nhận lỗi lầm hoặc thiếu sự thẳng thắn và chân thành thì cũng giống như mặc quần áo mà không giặt giũ. Chúng sẽ ngày một dơ thêm. Khi bạn còn thấy vết dơ nơi quần áo, thì hãy mừng vui vì chúng rõ ràng và dễ phát hiện. Nghĩa là quần áo của bạn vẫn còn không đến nỗi quá dơ. Nếu bạn không bao giờ giặt quần áo, bạn sẽ không nhận ra được những vết dơ mới. Không nhất thiết phải cảm thấy tủi thân khi mình tìm ra lỗi ở chính mình. Càng tìm nhiều lỗi, càng tốt. Có khả năng bạn sẽ tìm thấy chúng trước khi chúng khởi hiện. Hơn thế nữa, một khi bạn phát giác ra sự yếu kém của mình, bạn có thể sẽ thay đổi được chúng.Loại lễ lạy thứ tư tôi gọi nó là “lễ lạy không có hình tướng”. Tuy nhiên, vì khó có thể ngay lập tức đi tới sự không có hình tướng (vô tướng), nên chúng ta bắt đầu bằng hình tướng và dần dần tiến triển qua các giai đoạn cho đến khi chúng ta đến được vô tướng. Tương tự như vậy, đễ đạt đến vô ngã - vô thường, chúng ta bắt đầu bằng hữu ngã. Từ đó, chúng ta quán chiếu sự rỗng lặng cho đến khi chúng ta dần dần di chuyển đến mức độ vô ngã. Chúng ta cũng làm như vậy vói sự bám víu cố chấp: bắt đầu từ quán chiếu sự bám víu và từ từ đạt được mục tiêu của mình. Lễ lạy vô tướng đến từ quán chiếu bốn y điểm của chánh niệm: thân, cảm giác, tâm, và các hiện tượng (thân, thọ, tâm, và pháp). Bất kể y điểm của tâm nào mà chúng ta quán chiếu, chúng ta bắt đầu bằng hình tướng và kết thúc bằng vô tướng. Chúng ta có thể coi bốn y điểm này trong bối cảnh những giai đoạn của lễ lạy vô tướng mà tôi sẽ mô tả ngay đây. Giai đoạn 1 là khi chúng ta ra lệnh chính mình lễ lạy và cơ thể vâng lời mệnh lệnh này. Chúng ta kiểm soát cơ thể mình và ra lệnh cho nó lễ lạy một cách có ý thức. Khi thực hành sự lễ lạy, chúng ta liên tục hết sức chú tâm vào các cử động và cảm giác. Như vậy là chúng ta đã quán chiếu được hai y điểm đầu tiên là thân và cảm xúc rồi. Y điểm thứ 3, tâm, cũng được liên hệ vì sự trong sáng và nhận thức chính là tâm. Ở thời điểm này, tâm của chúng ta chắc phải là đã thuần và trầm lắng vì cử động của cơ thể được tiến hành một cách chậm rãi. Trong giai đoạn thứ hai, chúng ta biết mình đang lạy và cảm nhận được hành động lễ lạy, nhưng cơ thể chúng ta tự động lễ lạy. Chúng ta không còn cần phải ra lệnh hay kiểm soát cơ thể của mình nữa. Lúc này chúng ta là những chứng nhân. Ai đang lạy? Cơ thể đang lạy. Ở giai đoạn này, không còn suy nghĩ, “tôi đang lạy”, mà là lễ lạy đang diễn ra. Ở giai đoạn thứ ba, mọi người có thể thấy như là bạn đang lễ lạy, nhưng chính thực trong bạn, không còn những suy nghĩ về bạn đang lễ lạy hay lễ lạy đang xảy ra. Thân, tâm và cảm giác đã hòa nhập: không có sự chia cách.Như việc học cưỡi ngựa, thoạt đầu còn có người cưỡi và con ngựa, hai ý chí riêng biệt muốn đi theo đường của mình. Vì vậy, chuyến đi hết sức dằn xốc. Người c ưỡi ngựa có kinh nghiệm không cảm thấy có sự phân cách giữa chính họ và ngựa. Ngựa hồi đáp ngay tức khắc và vì thế chuyến đi trở nên thật êm ái và suông sẻ. Mức độ thứ 3 là giai đoạn của vô tướng, nhưng nó chưa phải là vô ngã. Khi chúng ta hoàn thiện giai đoạn thứ ba, sẽ không còn bất cứ một sự ảnh hưởng nào khác nữa. Chúng ta sẽ không còn bị chi phối bởi trạng thái nội tâm hay ngoại cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta phải luôn bắt đầu từ giai đoạn đầu tiên. Nếu chúng ta không thể ngay cả đạt đến đạt được trình tự sơ khởi của tâm an bình và nhẹ chuyển, thì không thể nào tiến triển đến giai đoạn kế tiếp được. Pháp Hạnh (The Buddhist Translation Group) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 3, 2012 CHUYỆN TU HÀNH Lạy PHÀM PHU TĂNG có bao nhiêu phước? - Thưa Thầy, tôi có thắc mắc như sau: Lạy Phật có bao nhiêu phước và lạy vị phàm phu tăng có bao nhiêu phước? - Tùy theo tâm của quí vị, không tùy theo đối tượng! - Tôi chưa hiểu? - Quí vị lạy Phật với tâm van xin cầu khẩn, tâm tham cầu, tâm phô trương biểu diễn hình tướng, thử hỏi có bao nhiêu phước? - Tôi nghĩ chắc là không nhiều! - Quí vị lạy một vị tăng với tất cả tấm lòng thành kính, tri ân, cầu mong học hỏi chánh pháp, không mong cầu vị đó là thánh hiền tăng, không mong cầu vị đó ban phước lành, không khinh thường vị đó là phàm phu tăng, thử hỏi có bao nhiêu phước? - Tôi chưa nghĩ ra! - Phước đức thực vô lượng! - Tại sao vậy? - Bởi vì khi đó, tâm quí vị đã thực hành pháp môn “bất tùy phân biệt” trong Kinh Lăng Nghiêm, tâm quí vị hết sức quảng đại khiêm hạ, kính người trọng mình. Với tâm thanh tịnh như vậy, quí vị sẽ gặp được chánh pháp để tinh tấn tu tập cho đến ngày trí tuệ khai minh, đạt được giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi, há chẳng phải là phước đức lẫn công đức vô lượng hay sao? - Kính đa tạ Thầy đã chỉ dạy. BAN BIÊN-TẬP PHTQ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 5, 2012 PHỔ HIỀN THẬP NGUYỆN Phổ Hiền Thập Nguyện Lời khai thị của Hòa Thượng Viện Chủ nhân ngày vía đức Phổ Hiền. Hôm nay, ngày 21 tháng 2 Âm lịch, là ngày vía đức Phổ Hiền. Thầy nhân cơ hội này, giảng cho quí vị một bài pháp về mười hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền. Đức Phổ Hiền là bậc Bồ Tát trong hàng thánh giả. Thánh giả là những vị hiện thân làm Bồ Tát để tế độ chúng sanh. Chẳng những Ngài mà các đức Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng v.v… đều là những bậc thánh giả. Trong sử không xác định rõ thời gian các ngài xuất hiện, mà chỉ nói “vô lượng kiếp về trước”. Sự ứng thân của các ngài mang ý nghĩa tượng trưng nhiều hơn. Không như lịch sử của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Do đó ta cũng nên hiểu qua ý nghĩa tượng trưng đó. Đức Phổ Hiền, tiếng Phạn gọi là Samantabhadra, Ngài tiêu biểu cho đạo hạnh tu trì. Hạnh là chính yếu, không hạnh không thành công. Các đức Phật, Bồ Tát thị hiện ra đời luôn để lại gương sáng hay các đại hạnh nguyện cho người đời sau noi theo, như đức Phật A-Di-Đà có 48 hạnh nguyện, đức Dược Sư có 12 lời nguyện, đức Quán Âm có 12 lời nguyện, còn đức Phật Bổn Sư thì “chúng sanh vô biên thề nguyện độ”. Riêng đức Phổ Hiền có 10 hạnh nguyện rộng lớn. Trong các hình vẽ, tượng tạc, ta thường thấy Ngài Phổ Hiền ngồi trên voi trắng, đức Văn Thù ngồi trên con Đề Thính (một loại sư tử hiền). Mỗi vị Bồ Tát đều cởi trên lưng một con vật. Con vật tượng trưng tánh hạnh của Bồ Tát. Nói tới tượng vương, ta phải biết oai nghi của nó như thế nào, rất siêu việt. Trong các loài thú, chỉ có voi đi đứng rất khoan thai. Chánh báo nào thì y báo đó, “đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan”. Sự đi, đứng của người tu là phải như vậy đó. Lắm khi chỉ nhìn vào cách đi, cách đứng của người tu là người ta muốn quy y, theo làm đệ tử. Đó thuộc về thân giáo hóa. Quan trọng ở chỗ đó. Hạnh tu là thế, cho nên người xuất gia, trong mọi trường hợp đi đứng nằm ngồi đều phải khoan thai, đường đường chính chính. Hôm nay, ngày vía của đức Phổ Hiền, thầy nhắc lại mười hạnh nguyện của hàng Phật tử. Hầu hết trong chúng đều thuộc lòng mười hạnh nguyện của đức Phổ Hiền : Nhứt giả lễ kính chư Phật ; Nhị giả xưng tán Như Lai ; Tam giả quảng tu cúng dường ; Tứ giả sám hối nghiệp chướng ; Ngũ giả tùy hỷ công đức ; Lục giả thỉnh chuyển pháp luân ; Thất giả thỉnh Phật trụ thế ; Bát giả thường tùy Phật học ; Cửu giả hằng thuận chúng sanh ; Thập giả phổ giai hồi hướng. Có nhiều vị thuộc bài kệ trên mà không hiểu nghĩa, cũng có vị hiểu đôi chút, nhưng không sâu sắc. Học Phật phải hiểu cả sự lẫn lý, khó nhứt là về lý đạo. Bởi lý đạo nói không được, không thể đem ra giảng như 2 với 2 là 4. Vậy ta làm sao đây ? Trước học về sự tướng, rồi nhờ tâm thiền, tâm định làm phát sinh trí tuệ, khi ấy lý đạo mới hiển bày. Nhiệm mầu là đây. Nếu lý không hiểu thì không tu tiến được, cũng như mình không thấy tánh thì sao thành Phật ! Mà thấy tánh là thấy thế nào ? Trong kinh thường nói “kiến tánh thành Phật”. Làm sao kiến tánh đây ? Trong những việc làm hằng ngày, từ việc nhỏ cho đến việc lớn, từ “vận thủy ban sài, gánh nước bửa củi” đến công phu tụng niệm đều đúng với pháp sự đạo tràng. Các pháp môn tu tập, các bộ kinh, luật và luận đều phải hiểu biết rõ ràng, đâu ra đó. Thế mới được gọi là kiến tánh. Hiện tại, trong chúng ta, việc gì cũng không biết, không biết đầu không biết đuôi, làm không tới nơi tới chốn, nếu quí vị suy nghĩ lại sẽ thấy tánh của mình ra sao. Tánh còn mê, còn quấy, không phải là tánh thấy của chư Phật. Bây giờ thầy giảng sự lý của mười hạnh nguyện ; Đệ tử chúng đẳng, Tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ Tát, Thập chủng đại nguyện, Nhất giả lễ kính chư Phật. ——————————————————————————– 1. Một là lạy kính chư Phật. Là Phật tử tại gia hay xuất gia, một khi lễ lạy chư Phật, lòng thành kính trong ta phát khởi. Đó là lẽ thường tình. Nhưng chư Phật đâu chẳng thấy chỉ thấy mấy ông Phật giả, làm bằng ciment, bằng gỗ, bằng giấy lộng khuôn v.v… để rồi đặt tên đặt tuổi, giả danh giả tướng, rồi ốp nhau mà lạy. Lạy dữ lắm, với tất cả lòng thành. Đó có phải là lễ kính chư Phật không ? Đứng về sự mà nói thì không ai cho là sai cả, nhưng lễ kính như thế vẫn chưa đúng nghĩa, chưa hoàn toàn, vẫn còn một ông Phật thiệt đâu đó mà ta chưa lễ kính. Làm thế nào để được lễ kính ông Phật thiệt ? Ông Phật đó ở đâu ? Ông Phật thiệt không ở đâu xa cả, mà ở trong chính con người chúng ta. Chữ “kính” là tôn kính ông Phật của mình. Chữ “chư Phật” trong câu “Nhất giả lễ kính chư Phật” hàm ý nói lên sự lễ kính Phật tánh của tất cả chúng sanh, không chỉ riêng của mình. Khi ta lập hạnh kính lễ chư Phật (Phật tánh của tất cả chúng sanh) thì có bao giờ ta làm trái lời thệ nguyện ấy không. Trái ngược nghĩa là gì ? Là không cung kính, bất cẩn, bất cập. Khi ta lễ kính cái Phật tánh của ta, là ta sống rất cẩn thận, nói ra những lời không ngược lại với tánh giác của chính mình và của mọi người. Chính vì vậy, mà trong Đại Thừa Phật giáo, các thầy khi gặp nhau, chắp tay xá chào. Có nhiều vùng ở bên Trung Hoa, các sư chào nhau bằng cách quỳ lạy lẫn nhau. Đó là lễ kính chư Phật. Bên Phật giáo Nguyên Thỉ thì không vậy, người ta cho rằng tăng là bậc đức hạnh cao trọng có đâu lại xá hạng phàm phu. Bên Đại Thừa, lễ kính lẫn nhau vì kính cái chánh nhơn Phật tánh của nhau. Điều này hay vô cùng, khi kính Phật tánh của nhau thì không thể nói nặng, buồn giận nhau, và điều quan trọng hơn hết là kính cả chính mình. Đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tôn kính ông Phật của mình, đó là hạnh tu. Thường Bất Khinh Bồ Tát gặp ai cũng “nguyện nhữ tương lai tác Phật”, nghĩa là tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài tương lai sẽ làm Phật. Có nhiều người giận tức, lấy đá lấy gậy đánh Ngài, Ngài vẫn tự nhiên. Ta kính lạy luôn luôn vị Phật trong ta, ông Phật thiệt trong ta. Tất cả các hình tượng Phật ta thờ ở ngoài đều là giả cả. Nói thế ta đừng móng tâm khinh thường, một khi các hình tượng Phật được làm lễ khai quang, an vị để thỉnh các điển quang nhập vào, thì hình tượng trở nên linh thiêng, vì đã tượng trưng cho Phật tánh của mỗi người chúng ta. Khi ta giữ được “Nhất giả lễ kính chư Phật”, ta không dám khinh thường ai, không dám nói nặng ai, bởi vì nói nặng người là tự nói nặng mình, vì ai cũng có Phật tánh cả. Làm được vậy, hạnh tu mới tiến. Tu mà không thấy Phật tánh nên cứ xài xể người cho đã miệng, cho đã tức v.v… thì đâu còn hạnh tu nữa. Lý đạo là vậy. Trong chúng đồng tu học, dù ta có bận rộn thế nào, gặp nhau cũng nên xá với câu niệm Phật A-Di-Đà, rồi nói chào cô, hay chào sư huynh, hay nói theo phương tây là “How are you ?” hay “Comment allez vous ?”. Khi Ngài Phổ Hiền “nhất giả lễ kính chư Phật”, Ngài không riêng chỉ lễ kính các đức Phật trong mười phương thế giới, mà là tất cả muôn loài chúng sanh. Hạnh của Ngài chỉ có ở hàng Bồ Tát, Bồ Tát tánh phải kính trọng Bồ Tát tánh, thế nên Ngài được gọi là đại hạnh Phổ Hiền vương Bồ Tát. Nhị giả xưng tán Như Lai Lời nguyện thứ hai của Ngài là luôn luôn xưng khen đức Như Lai. Xưng khen như thế nào ? Không lẽ ngồi đó xưng khen đức Phật này nọ. Nếu thế chỉ là bề ngoài của chữ nghĩa, lời nói. Thật ra, xưng khen như thế cũng là chuyện tự nhiên, vì đâu phải dễ thành Như Lai. Tuy nhiên, đừng quên cái Như Lai Tạng Tánh ở trong ta. Nhưng cái Như Lai Tạng Tánh của ta thì tại triền, trong sự ràng buộc, cột chặc. Đức Phật là Như Lai xuất triền, ra khỏi sự ràng buộc, cắt lìa sợi dây tình ái, sợi dây danh lợi. Ta phải nhìn lại Như Lai Tạng Tánh của chính ta. Làm sao sống trở lại với Như Lai Tạng Tánh để rồi được thành Phật, thành tổ. Trước hết, ta phải biết rằng trong ta có Như Lai Tạng Tánh, có viên ngọc Ma Ni. Như Lai Tạng Tánh hiện hữu trong mỗi loài chúng sanh, ngay cả các loài thượng cầm hạ thú, nhưng vì chúng không biết mà thôi. Trong chúng ta, lắm người đậu cả chục bằng tiến sĩ cũng chưa biết mình có viên ngọc Ma Ni, nếu biết họ đã xả bỏ những “thế trí biện thông” để tìm cầu cái siêu trí tuệ. Khổ nổi họ không biết điều đó. Cho nên, là Phật tử, hơn ai hết, ta phải hiểu, phải biết tôn trọng, xưng tán cái Như Lai Tạng Tánh của mình và của người. Còn thương, còn ghét, còn khen, còn chê là chưa phải xưng tán Như Lai Tạng Tánh. Đó là phàm phu tạng tánh. Như Lai là “như như bất động, lai thành chánh giác”, là tự như, sẵn có từ ngàn xưa. Như Lai Tạng Tánh cũng tức là Phật tánh vậy. Tam giả quảng tu cúng dường. Ba là rộng thực hành cúng dường. Đứng về sự, cúng dường là hướng ra bên ngoài, nó nằm trong “tứ vật dụng” ; ẩm thực, ngọa cụ, thang dược, và y phục, là bốn thứ cung cấp nuôi dưỡng chư Tăng Ni. Đứng về lý mà nói, “quảng tu cúng dường” là luôn luôn cung cấp, nuôi dưỡng tâm linh ta bằng những pháp vị cao thâm, giáo lý nhiệm mầu. Đó là những món ăn bồi bổ cho tinh thần, hầu giải tỏa những đói khát, bệnh hoạn, những điên đảo vọng tưởng của nội tâm. Nhiều vị tiền bối nghĩ rằng cúng dường các vật dụng vẫn chưa đủ, các vị phát tâm rộng lớn hơn bằng cách đốt một ngón tay, đốt trên đầu, nhiều khi đốt cả thân mạng để cúng dường, vì thấy rằng ân sâu của chư Phật quá rộng dầy, không thể nghĩ bàn. Đức Phật, trong vô lượng kiếp, đã vì chúng sanh tìm cầu chơn lý. Ơn đó ta lấy gì đền trả, lấy gì cúng dường để tạm cho là tương xứng. Ôi ! lời xưng dương tán thán nào mới đủ đây, chỉ có đốt thân này ra tro ra bụi, họa may ta đáp đền ơn trên trong muôn một. Hành động này có cả sự và lý. Sự thì khó nghĩ tưởng, lý thì huyên thâm vi diệu, sâu sắc nhiệm mầu. Sự của câu “quảng tu cúng dường” là cúng dường những gì ta có, tùy khả năng. Làm Phật sự cũng là một cách cúng dường, đem công sức ra phụng sự, sau đó hồi hướng cho pháp giới chúng sanh. Trong tất cả sự cúng dường, pháp cúng dường là thù thắng hơn cả. Một khi ta thông hiểu giáo lý của Phật, rồi đem ra giảng giải cho tất cả chúng sanh, bất cứ ngày nào, giờ nào. Đó là hoằng pháp lợi sinh. Đức Phật ra đời chỉ một mục đích chính là cứu độ tất cả chúng sanh. Chúng ta đi tu cũng vậy, chỉ có một mục đích duy nhất là độ tận chúng sanh. Trước là độ các chúng sanh trong ta, rồi mới độ tha. Thế cho nên có câu “Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ”, nguyện độ những phiền não, điên đảo trong ta, sớm chừng nào gần Phật chừng ấy. Vì vậy, thầy cố gắng khuyến khích quý vị cố tâm học kinh, luật và luận. Có học mới biết giáo pháp, mới mong tế độ chúng sanh. Nếu không, quý vị tế độ cách nào ? Không lẽ may y, may áo cho nhiều, lập chùa, lập chiền cho nhiều là tế độ chúng sanh sao ? Đã đứng trong hàng Tăng Bảo, lý ra giờ nào cũng thuyết pháp lợi sanh, ban cho chúng sanh những món ăn tinh thần, trường kỳ không gián đoạn. Với các Phật tử đến viếng chùa, sau những lời hỏi thăm xả giao, quý vị đem giáo lý ra giảng, họ quý lắm, thích lắm. Họ về tới nhà hay đi đâu xa vẫn không quên quý vị, nhứt là đối với những gia đình hữu sự (có thân nhân vừa qua đời). Họ đến chùa xin cầu siêu, mà ta giảng cho họ ý nghĩa cầu siêu, rồi từ đó dẫn đến Phật Đà. Thường trong bối cảnh như thế họ dễ dàng quy ngưỡng Phật pháp và dễ tỉnh thức. Quảng tu cúng dường cũng có nghĩa như thế. Cung cấp nuôi dưỡng chúng sanh bằng những món ăn tinh thần, vì họ đang thiếu thốn, đang đau khổ. Họ trở nên đói khát, ốm o, gầy mòn. Họ điên cuồng không biết gì là trái, gì là phải. Ôi ! có gì đáng thương bằng. Quảng tu cúng dường, nghĩa chính yếu là cung cấp nuôi dưỡng tâm linh, làm cho muôn loài chúng sanh đầy đủ yến sáng giác ngộ. Tứ giả sám hối nghiệp chướng. Ngài Phổ Hiền biết rằng chúng sanh sinh ra ở cõi đời này đều có nghiệp chướng. Nghiệp chướng ở loài người nhẹ hơn ở loài súc sanh. Ở địa ngục, ngạ quỷ thì nặng nề, đen tối bội phần. “Ngũ thú tạp cư địa” nghĩa là ta và các loài A-tu-la, điạ ngục, ngạ quỷ và súc sanh cùng nhau chung sống lẫn lộn. Ta không thấy các cõi A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ vì ta còn mắt phàm. Ngay cả người với người đôi khi ta còn không nhìn ra. A-tu-la là loài ưa giận hờn, gọi là A-tu-la tánh. Quý vị hãy gắng dẹp cái giận, cái hờn, là quý vị ra khỏi nhà lửa, còn giận còn hờn là chun vô nhà lửa. Chúng sanh có nghiệp chướng nhẹ, hay không còn nghiệp chướng sẽ không sanh về cõi “Nam diêm phù đề” này, mà sanh lên các cõi khác. Vì vậy, chúng ta nên thường sám hối nghiệp chướng. Hễ thấy tâm không yên, rắc rối, là phải tắm gội sạch sẻ, đắp y mặc áo lên sám hối. Nhất tâm sám hối, mỗi tiếng chuông là một cái lạy. Tiếng chuông tỉnh thức ; Tiếng chuông ngân ngợi trong đêm vắng, Thử hỏi hồn ai đã tỉnh chưa ? Sám hối cho hết nghiệp chướng. Không riêng gì hàng phàm phu chúng ta, ngay cả bậc A-la-hán vẫn còn vi tế hoặc, vô minh hoặc. Lên tới hàng Bồ Tát vẫn còn vi tế vô minh, trần sa vô minh. Hàng Thập Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, và hàng Duyên Giác vẫn còn vi tế vô minh. Trừ khi nào lên đến Viên Giác thì mới hoàn toàn trong sáng. Vì vậy, sám hối nghiệp chướng vô cùng cần thiết cho mọi tầng bậc tu chứng. Tiếc thay, có lắm người cho rằng họ đã tu lâu lắm rồi, đã bốn chục năm hơn, ngày nào họ cũng sám hối, tội đã diệt, không cần phải sám hối nữa. Họ có biết đâu, khi còn mang thân này, thì vẫn còn tội lỗi, chắc thật như thế. Sám hối có nhiều pháp, nào là Hồng Danh sám hối, Tác Pháp sám hối, Thủ Tướng sám hối. Các pháp sám hối này thuộc về sự. Về lý sám hối thì có Vô Sanh sám hối, nghĩa là luôn quán pháp vô sanh. Tâm niệm hiện tiền của ta không có sanh, không có diệt. Đối với ba thời gian tâm không có ; quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc và vị lai tâm bất khả đắc. Bởi vậy, những lúc rảnh rang, ta nên ngồi kiết già quán sám hối vô sanh. Quán cái tâm niệm hiện tại ra sao. Đó là hạnh tu của đức Phổ Hiền, thiếu nó thời hạnh tu không được viên dung. Ngũ giả tùy hỷ công đức. Tánh ganh ghét ai cũng có hết, thấy ai hơn thời không ưa. Trong giới xuất gia, thấy ai lập hạnh gì là không muốn, sợ họ sẽ thành Phật sớm hơn mình. Thấy người ta học khá một chút là không vừa lòng. Tánh chúng sanh là như thế đó. Vì biết căn bản tánh của chúng sanh, nên Ngài Phổ Hiền đặt ra hạnh “Tùy hỷ công đức”. Có lắm trường hợp, ta nên “A Di Đà Phật” mà tùy hỷ hết, dầu việc đó ta biết là sai, là bậy. Khi chưa gây được cảm tình với người, ta nên cười hòa thôi. Việc này rất sâu sắc và tế nhị. Trong buổi sơ giao, chớ nên chỉ chỗ sai của người, dễ tạo ác cảm không tốt. Một khi ta mất cảm tình thì khó thuyết phục người. Lần hồi ta sẽ giúp họ sửa chữa lỗi lầm. Ta phải làm việc này với cả khối trí tuệ và lòng tư bi vô lượng. Chớ có đem phiền não mà sửa, đừng dạy đời người ta, làm thế là làm với cái chúng sanh tánh, không phải tùy hỷ công đức. Thấy ai hơn ta, ta phải chấp tay tùy hỷ ngay, để đối trị lại lòng háo thắng, ganh ghét. Hãy dẹp tánh hơn thua vị kỷ, ai hơn mình một tí là chịu không được, ngay cả chị em ruột cũng không từ. Người như thế, sống triền miên trong đau khổ. Tùy hỷ là vui theo hay là hoan hỷ. Bất cứ việc gì ta cũng tùy hỷ công đức. Như thế ta mới đi vào tánh sáng, tánh Phật trong ta. Tất cả những gì người khác phát nguyện tu trì ta đều tùy hỷ. Tuy nhiên, có những khi ta không nên tùy hỷ mà phải phát lòng từ bi nhắc nhở đương sự ngay. Thí dụ, trong chúng có vị thầy đang khoẻ mạnh, nhưng hễ tới giờ học là tìm mọi lý do để thối thất, lại nhờ mình xin phép thầy quản chúng thay thẩy. Lúc đó ta nên thẳng thắn, với lòng từ bi, từ chối và nói với thầy đó rằng thẩy không bận việc, hay bệnh hoạn gì, thẩy chỉ sinh tâm lười biếng, mà thẩy lại bắt mình đi nói láo. Nếu trong trường hợp đó mà ta thân mật không nói gì, thì đó là chướng ngại cho ta lẫn vị thầy đó. Ta nên tìm một cơ hội nào đó, trong đạo tình với nhau, nói lại sự kiện vừa qua, chẳng hạn như “Hôm qua huynh biểu tôi xin dùm cho huynh vắng mặt trong thời công phu khuya. Tôi thấy huynh không phải không đúng, huynh khoẻ chớ không có bệnh hoạn chi, tại vì huynh muốn làm cái này, cái kia, theo vọng ý của huynh. Nếu tôi tùy hỷ thì nó ngược lại với hạnh nguyện của đức Phổ Hiền, huynh hoan hỷ hiểu cho, để chúng ta đồng đăng bỉ ngạn’. Không phải lúc nào cũng tùy hỷ, đó là vô minh. Trong sự tùy hỷ phải có đặc tính trí huệ. Có những việc người nhờ ta, nếu ta không nhận sẽ tạo sự bất mãn với nhau. Ta nhận, nhưng biết rằng việc đó là ” ba trời ba đất”, không khéo sẽ bị lôi cuốn vào. Nói thế, không phải ta bỏ mặc, mà phải khéo léo tìm cách sửa đổi đương sự. Tất cả những gì người khác làm mà xứng với Phật tánh, ta đều tùy hỷ cả. Người ta làm được việc lành hầu sớm đạt đạo bồ đề, ta càng phải vui mừng đón nhận. Tùy hỷ công đức, không phải tùy hỷ phước đức. Công đức là chuyện tu, chuyện tiến. Khi thấy người ta tu tiến, ta không những chỉ tùy hỷ, mà còn khuyến tấn họ luôn luôn. Tâm niệm của chúng sanh thì không thế, thường ganh tỵ. Ví dụ, có hai người cùng đi chùa, một người phát tâm cúng dường một số tiền lớn, còn người kia vì chưa biết đạo sâu sắc nên không đồng ý, sợ rằng bạn mình sẽ được chùa trọng vọng hơn, hay thấy ngại ngùng vì người ta cúng dường mà mình không cúng dường, rồi thốt lời trách cứ bạn mình. Lắm người có tánh phàm phu như thế. Thành ra, trong một nhóm bạn đạo năm bảy người, có người muốn cúng vật gì, số tiền gì lớn thì không dám, sợ bạn đạo sanh tâm ganh ghét. Lục giả thỉnh chuyển pháp luân Hạnh thứ sáu là luôn luôn cung thỉnh những vị quay được bánh xe chánh pháp. Việc lợi ích này không phải chỉ riêng ta hưởng, mà cho mọi loài chúng sanh. Chuyển pháp luân là đem thức ăn tinh thần đến cho ta và người, là dùng bánh xe pháp nghiền nát những rác rưới, cỏ dại trong tâm hồn ta. Tất nhiên, có nghe pháp, dần dà ta giải tỏa được các phiền não trong ta. Thành ra, nghe một thời pháp như thêm một món ăn tinh thần, ta không đói mà người cũng không đói, lợi lạc vô cùng. Đó là hoằng pháp lợi sanh, tục Phật huệ mạng. Bởi vậy, khi hiểu được Phật pháp, ta mới biết con đường tu ra sao, tiến thế nào, làm thế nào chuyển được phiền não. Không biết đường đi nước bước thì làm sao đến nơi đến chốn cho đặng. Mà đường không phải lúc nào cũng tráng nhựa hết đâu, hầm hố chông gai đầy dẫy, cọp beo, rắn rít v.v… Cho nên phải thỉnh chuyển pháp luân. Ngày nào có món ăn vật chất ngày đó phải có món ăn tinh thần. Trong thời khóa tu học, giờ công phu sáng, chiều, giờ ngồi thiền, giờ học v.v… đều là những món ăn tinh thần vô cùng cao quý. Một ngày quý vị ăn ba, bốn lần, còn tinh thần không có thời nào, nó sẽ đói cở nào, nó sẽ ốm o, gầy mòn đến cở nào. Cho nên, phải luôn cung thỉnh chuyển bánh xe pháp. Vì hiểu được lý này, nên có nghi lễ cung thỉnh pháp sư, có đèn, có nhang, có hoa có quả, đôi khi còn có hồng bao nữa. Đó là trọng pháp. Lòng tôn trọng pháp được biểu lộ qua hình thức trên. Người xưa diễn tả lòng tôn trọng pháp qua lời nói. Cung duy tôn giả, đại Phật tuyên dương, Thuyết pháp lợi sanh, báo Phật ân đức. Theo cổ lệ, người đại diện thay mặt toàn thể thính chúng, cung duy, đảnh lễ vị pháp sư ba lạy cúng dường. Có nhiều trường hợp người đại diện thính giả đã 82 tuổi ngoài, trong khi đó vị pháp sư chỉ mới ngoài 20. Lắm người không biết đạo, thấy thế cho rằng đạo Phật kỳ hoặc. Họ bảo thuyết pháp thì cứ thuyết, cớ sao lại phải cử một vị đại diện, mà vị đại diện đó tuổi đáng ông ngoại thầy pháp sư. Thế là họ sinh tâm hủy báng. Thật ra, sự cung kính lễ bái đó là đối với chơn lý, với chính pháp, không phải đối với cái xác thân tứ đại của vị giảng sư ! Thất giả thỉnh Phật trụ thế Về sự mà nói, Phật nhập niết bàn cách nay đã 25 thế kỷ. Nên nói “thỉnh Phật trụ thế” thế nào được ! Do đó, “trụ thế” ở đây nghĩa là tại mọi quốc độ, mỗi làng, mỗi xóm đều có được một ngôi đại hùng bữu điện, rồi thỉnh Phật thế gian về trụ. Chỗ đó mới có thuyết pháp dung thông. Nhờ đó có người tu tập, hành đạo và đạt đạo. Thực tế mà nói, thỉnh Phật về thờ, dĩ nhiên là phải có kinh pháp, mà đã có kinh pháp thì phải có tăng giảng kinh, pháp khắp độ chúng sanh. Ai ai cũng công nhận mình có Phật tánh, lấy Phật tánh ấy mà sống thì đâu có khác gì còn Phật trụ thế. Bát giả thường tùy Phật học Tám là thường tùy hỷ học Phật. Học làm Phật làm tổ. Người thế gian cho rằng “dĩ thực vi tiên”, không ăn không uống thì sanh bệnh sanh tật. Nhưng đối với người tu, việc tìm đạo, học đạo mới quan trọng. Không học không thể bước lên con đường đạo đặng, hầu đến nơi hoàn toàn an lạc, giải thoát. Cho nên, hạnh thứ tám là thường theo học Phật. Về sự mà nói, học Phật không được thiếu sót bữa nào. Trước giờ học phải chuẩn bị đâu vào đấy, xem lại bài củ, nếu có chỗ chưa hiểu, thời hỏi cho hiểu. Đến lớp trước giờ, đừng đến trể động chúng. Trong giờ học phải nhứt tâm nhứt đức lắng nghe, lấy tánh nghe để mà nghe, để thâm nhập kinh tạng, mà thâm nhập kinh tạng thì trí huệ mới như hải. Cái học bên ngoài là thế, cái học bên trong có khác. Học bên trong là “tự tánh pháp môn thề nguyện học”. Tánh đây là Phật tánh, ta học cái Phật tánh trong ta. Nhất thiết Phật pháp được gồm thâu vào trong tự tánh. Ta nguyện để học, học để tiến. Thế nhưng, ta phải học những gì ? Học phá chấp, học xả bỏ hoàn toàn cái giận, cái hờn, tiếng to, tiếng nhỏ. Ngay cả thân mạng này còn phải bỏ. “Xả” chỉ là một đức tánh trong muôn vàn đức tánh mà người con Phật phải noi theo, học theo. “Thường tùy Phật học” là thế, luôn luôn tiến trên con đường giác ngộ, giải thoát, đừng để gián đoạn, đình trệ. Còn biết bao nhiêu pháp môn của tự tánh ta phải học phải tu. Thế nên nói “Vô lượng pháp môn thề nguyện học” là vậy. Cửu giả hằng thuận chúng sanh Tại sao lại phải hằng thuận chúng sanh ? Vì chúng sanh với ta là một, chớ không hai. Có hai là trở ngại, không viên dung, làm đạo không thành. Trước ta hằng thuận chúng sanh, sau mới bàn đến chuyện độ chúng sanh. Chưa hằng thuận thì chớ mong độ người, đó là việc không tưởng, mơ hồ. Dầu có tài năng diễn thuyết thế nào đi chăng nữa, khi chưa thu phục được nhân tâm thì chớ mong nói người nghe. Không nghe lấy gì độ ? Cho nên, đây là một trong mười hạnh lớn. Vì vậy, ra làm đạo phải khéo léo, phải có trí hóa, nhất là quý vị rồi sẽ ra hoằng pháp. Hành đạo phải có hiểu biết, biết để hướng dẫn lớp sau, hơn nữa biết để mình làm, làm viên dung mọi việc. Nếu có trắc trở, thời công việc không tiến hành như ý muốn, thì đó là không hằng thuận được chúng sanh. Vì vậy, trí hóa rất quan trọng, ví dụ sau đây nói lên ý này. Như có người xin ban Hương đăng cử hành một lần ba, bốn cái lễ, mà trong chúng cần thời giờ tu học. Thời khóa tu học đã được phân định hẳn hòi, giờ nào ra giờ nấy. Nếu kéo dài giờ làm lễ, không khéo trở thành tiền lệ. Dần dà chùa mình trở thành nơi để cúng đám, làm cái nghề thợ tụng. Vì vậy, là người lãnh đạo, ta phải hiểu và giải thích cho phật tử biết rằng thời gian làm hai, ba cuộc lễ là ba, bốn tiếng đồng hồ. Trong khi đó, với trí hóa, ta cũng sẽ làm ba, bốn cuộc lễ trong một buổi lễ, một mà ba, ba mà một, kết quả đều như nhau, không có gì là chướng ngại hết, mọi người đều hoan hỷ. Thế mới thành công, thế mới hằng thuận chúng sanh. Muốn được thế phải học và hành đạo, nhờ học và hành đạo, sau này ra hóa đạo được dễ dàng hanh thông. Thập giả phổ giai hồi hướng Phổ giai hồi hướng là khi ta làm xong việc gì, đừng để trong lòng, mà hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sanh. Hồi tự hướng tha, Hồi nhơn hướng quả, Hồi sự hướng lý, Hồi tướng hướng tánh. Khi ta làm được điều đó, tâm ta trở thành đại đồng thế giới, trở thành cái vô lậu nghiệp, thành cái yến sáng toàn diện. Pháp giới lúc đó không hiện hữu. Không còn người cho người nhận, người bố thí kẻ thọ thí v.v… Tâm hồn ta bấy giờ nó thênh thang rộng lớn, hoàn toàn sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Nếu ta thực hành cho đúng các hạnh nguyện của đức Phổ Hiền thì ta sẽ trở thành Phật, thành tổ. Đức Phổ Hiền tiêu biểu cho mười hạnh lớn. Ta phải hiểu cả sự lẫn lý. Một khi lý đó được dung thông, ta không gặp trở ngại trên bước đường hành đạo. Hôm nay, nhân ngày vía đức Phổ Hiền, thầy nhắc lại những điểm đó, gắng khắc cốt ghi tâm, thực hành cho được mười đại hạnh của đức Phổ Hiền, rồi đến đại từ đại bi của Quán Thế Âm, các đại nguyện của đức Địa Tạng, đại trí của đức Văn Thù v.v… Phải thực hành tất cả, không phải chỉ thực hành đại hạnh mà bỏ đại nguyện, đại trí. Giáo lý tuy phân chia như thế, nhưng chỉ có một, một mà tất cả, tất cả quy về một, rồi cũng không còn một nữa, đó mới hoàn toàn giải thoát, giác ngộ và sáng suốt. nguồn thienlamtu.wordpress.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 5, 2012 NAM MÔ ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử. Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng Quan Đại thần là Bảo Hải thấy vậy, bèn khuyến thỉnh rằng: “Thưa Điện hạ! Trong sự tu phước có hai thứ: một là tu phước hữu lậu hai là tu phước vô lậu. Song phước hữu lậu dầu có to tát thế nào, thì chỗ cảm báo cũng chỉ ở trong cõi Nhơn Thiên hưởng phần khoái lạc mà thôi: chớ không thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn như phước vô lậu, thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng, kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại. Vậy xin Điện hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng “Nhứt Thiết Trí” đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì sự phước báu không khi nào cùng tận, mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa. Ni Ma Thái Tử nghe quan Đại Thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền chấp tay thưa với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là: Ba nghiệp của thân 1- Không sát hại chúng sanh, 2- Không trộm cắp của người và 3- Không tà dâm Bốn nghiệp của miệng. 1- Không nói láo xược 2- Không nói thêu dệt 3- Không nói hai lưỡi 4- Không nói độc dữ thô tục Và ba nghiệp của ý 1- Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục 2- Không hờn giận oán cừu 3- Không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai, mà Ngài đã thọ ký cho huynh trưởng tôi đó vậy. Khi Đức Phật ấy thành đạo, trước hết tôi ra khuyến thỉnh Ngài nói đủ Pháp Tam Thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh.Trong khi đó, tôi cũng còn tu Bồ Tát Đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình, mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ rồi, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà hóa độ chúng sanh. Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi, cùng là thời kỳ diệt độ và kiếp sơ trụ thế của Chánh Pháp tôi, đều nguyện y như công cuộc ứng hóa của Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai vậy”. Phật Bảo Tạng nghe mấy lời của Ni Ma Thái Tử nguyện, liền thọ ký rằng: “ Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, người sẽ được hoàn mãn các sự cầu nguyện ấy.Vì người có lòng mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế, nên ta đặt hiệu cho ngươi là “Đắc Đại Thế”, tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Sau khi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai nhập Niết Bàn rồi, người bổ xứ làm Phật, hiệu là: Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức”. Ni Ma Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi liền thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời Ngài thọ ký đó, tôi xin kính lễ Ngài và nhờ Ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các Đức Phật ở các thế giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa”. Ni Ma Thái Tử thưa rồi, vừa cúi lạy Phật, tức thì các thế giới mười phương, cả núi sông, cây cối, và những vật có hình chất, đều rung động ra thành tiếng vang rền khắp cả, còn giữa hư không lại có các thứ bông rất thơm tho và tốt đẹp rơi xuống như mưa. Các Đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng: “Tại cõi Tán đề lam, có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên là Ni Ma, con thứ hai của Vua Vô Tránh Niệm, có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trót ba tháng, đem công đức ấy mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm. Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật, sau khi Đức Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai đã nhập Niết Bàn” Ni Ma Thái Tử nhờ Phật Bảo Tạng và các Đức Phật mười phương thọ ký rồi, lòng rất vui mừng, hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa mãn những điều tâm nguyện. Từ đó về sau, Ni Ma Thái Tử mạng chung rồi đầu thai ra thân khác đời khác, kiếp nào cũng hằng giữ bổn nguyện, quyết chí tu hành, học đạo Đại Thừa, làm hạnh Bồ Tát, mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiễu ích, đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác. Hiện nay, Ngài Đại Thế Chí (tức là Ni Ma Thái Tử) đương làm một vị Đẳng Giác Bồ Tát, hầu gần Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ đương Phật hóa, tiếp dẫn chúng sanh, chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật. “If you can benefit people and make them happy, then no matter where you go, everyone will be influenced by your example”. (Spring Sun, Lotus Flower Pg 12) Share this post Link to post Share on other sites