Posted 22 Tháng 3, 2012 Bài thơ Thư Cưu 关关雎鸠,在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。 参差荇菜,左右流之。窈窕淑女,寤寐求之。求之不得,寤寐思服。悠哉悠哉,辗转反侧。 参差荇菜,左右采之。窈窕淑女,琴瑟友之。参差荇菜,左右芼之。窈窕淑女,钟鼓乐之。 Thời Tiên Tần, “Thi Kinh” chỉ gọi bằng một tiếng là Thơ=Thi, có tới hơn 1000 bài sưu tầm trong dân gian, bao gồm Phong (phong dao) là ca dao nói về phong tục tập quán của dân cư thuộc 15 quốc; Nhã là những bài ca của nhã nhạc trong triều đình; Tụng là những bài nhạc ca cúng vua (lướt “Tế Cúng”=Tụng). Tất cả đều viết theo thể thơ 4 chữ (thể 4 chữ kiểu này thì đầy rẫy trong thành ngữ, tục ngữ, đồng dao của Việt Nam, như: Nhất nước nhì phân, Tam cần tứ giống; Tốt giống tốt má, Tốt mạ tốt ló; Chi chi chành chành, Cái đanh thổi lửa, Con ngựa chết chương, Ba vương ngũ đế, Bắt dế đi tìm, Ú tim ù ập v.v.). Sau chỉ còn có hơn ba trăm bài, gọi là “Thi” hoặc “Thi Tam Bách”, Khổng Tử chỉnh lý lại. Sau, Hán Vũ Đế giao cho Đổng Trọng Thư và các học giả, độc tôn Nho thuật, giải nghĩa, tôn “Thi” thành kinh điển, nên gọi là “Thi Kinh”, gồm 305 bài, là của sưu tầm từ thời đầu Tây Chu đến thời giữa Xuân Thu, dài hơn 500 năm. 包括 : 周南、召南、邶、鄘、卫、王、郑、齐、魏、唐、秦、陈、桧、曹、豳(邠)十五国 Theo giải thích trên mạng này (http://www.ccview.net) thì 15 quốc, đều là “chư hầu quốc” của nhà Chu gồm: Bội 邶 (ở Hà Nam), Đường 鄘 (ở Hà Nam), Vệ 卫 (ở Hà Nam), Vương 王(ở Hà Nam), Trịnh 郑 (ở Hà Nam), Tề 齐 ( ở Sơn Đông), Ngụy 魏 (ở Sơn Tây), Đường 唐 (ở Sơn Tây), Tần 秦 ( ở Thiểm Tây), Trần 陈 (ở Hà Nam – An Huy), Cối 桧 (ở Hà Nam), Tào 曹(ở Sơn Tây), Mân 豳(邠) (ở Thiểm Tây - khác với Mân 闽 có về sau là ở Phúc Kiến). Loanh quanh chỉ ở vùng Thiểm Tây - Sơn Tây - Hà Nam - An Huy - Sơn Đông. Trong đó có hai quốc không giải thích là nằm ở đâu, đó là Chiêu Nam 召 南 ( vậy quốc Chiêu Nam 召 南 này chính là Nam Chiếu 南 召 ở Vân Nam), và quốc Chu Nam 周 南(Chu Nam 周 南 này chính là Văn Lang ở Lĩnh Nam). Chu Nam nó không còn là quốc nữa mà là Nước của các quốc còn lại nêu trên, các “chư hầu Quốc”, tức các “thứ hai Của Nước”. “Của Nước”=(lướt)=Quốc. Hứa Thận giải thích “Quốc” nghĩa là “khu vực”. Chữ Chu Nam chỉ là dùng chữ để dịch nghĩa mà thôi. Chu 周 nghĩa là cái Vòng (chu vi), tức cái Vùng, cái Vuông 口, mà về sau viết lệch đi thành chữ Văn 文 (người Triều Châu vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Vuông”, còn người Quảng Đông vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Mảnh” vì cái Vuông ấy nó Vuông Vắn mà Vành Vạnh như cái Mủng nên đọc nó là Mảnh, cái âm tiết “Văn” ấy cũng do từ dính Vuông- “Vắn” của tiếng Kinh mà ra). Hứa Thận giải thích chữ Văn 文 nghĩa là vuông, viết cách sai nét đi. Chu Nam 周 南 có nghĩa là Vùng đất của người Nam, ở Lĩnh Nam. (Lang=Nang=Nam chỉ là sự biến âm). Chu Nam cũng có nghĩa là Đông Đúc ở phía Nam. Chữ Chu 周(=Châu 周) trong Việt ngữ còn có nghĩa là Trọn Vẹn (chu toàn, châu đáo) là một khái niệm mang nghĩa Âm Dương hài hòa, bản thân chữ Trọn Vẹn nói lên điều đó, bởi nó là hình ảnh của cái bánh Dầy trên chốc bánh Chưng, tức Tròn trên Vuông, Tròn Vuông đã được nâng lên nặng ý (đổi thành hoàn toàn dấu nặng) thành Tròn Vuông = Trọn Vẹn. Đúng như Hứa Thận giải nghĩa chữ Chu 周 nghĩa là: Mật dã 密 也 “Mật ạ”, tức đông đúc, mà đông đúc là kết quả của Âm Dương hài hòa (theo tư duy phồn thực), cách đọc nó là: lướt Chức 職 留 Lưu = Chưu. Chưu=Chu=Châu=Chậu=Chứa=Chửa, là kết quả của sự giao hợp, tức Chung Đậu = Châu, Chung Đụ = Chu. Tượng hình trong cổ văn của chữ Chu là giống hình Âm vật và Dương vật cùng nhau, có Tròn, có Vuông (để sẽ cho ra cái Trọn Vẹn). Về sau Nho viết đẹp hơn, chữ Chu 周 gồm bộ Cung bên ngoài, tượng trưng cho cái tử cung, bên trong gạch chia đôi trên dưới hai phần, bên dưới là Vuông 口 tượng trưng Trứng (cái) Âm, bên trên là hai gạch tượng trưng Tinh Trùng (đực) làm thành dấu cộng + Dương. Trứng và Tinh Trùng cùng chen nhau Chung Đậu = Châu trong tử cung nên mang nghĩa là Mật (khi ở bên trong), để rồi có thể đẻ ra một lúc chục con hay trăm con, là “mẹ tròn con vuông” tức Trọn Vẹn và đương nhiên là đông đúc, tức Mật (khi đã ở bên ngoài). Các bài thơ trong “Thi Kinh” từ thời Xuân Thu, đã được người nay chú giải, nếu không thì không ai hiểu. Bởi nó là thơ của người Việt. Để xem thơ trong “Thi” có phải là thơ của người Kinh hay không, ta xem bài đầu tiên là bài “Quan Thư” (“Con Cu”, tức con chim cù cu hay còn gọi là con chim gáy, con nào có lông lốm đốm đẹp thì còn được gọi là con cu cườm). Chim cù cu sống có đôi, rất chung thủy “trống”- “mái”, một “chồng”- một “mợ”. Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu lưu chi. Ngô muội cầu chi. Cầu chi bất đắc, Ngô muội tư phục. Du tai Du tai, Triển chuyển phản trắc. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu thái chi. Yểu điệu thục nữ, Cầm sắt hữu chi. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu mao chi. Yểu điệu thục nữ, Chung cổ lạc chi. Dịch: Con Con Cù Cu, Ở ổ chỗ cao. Yểu điệu thục nữ, Cu Tí ham nhau. Ngắn dài bông sen, phải trái lay chen. Ngỏ muồi cầu chứ , Cầu mà không được, Ngỏ muồi lại nhớ. Dài dài dài dài, trằn trọc lăn lóc. Ngắn dài bông sen, Phải trái lay chen. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt tình chứ. Ngắn dài bông sen, Phải trái ngắt lên. Yểu điệu thục nữ, chuông cối vui chứ. 【注释】(chú giải) 01、关关:指雌雄两鸟相对鸣叫 02、雎鸠(JuJiu):一种鱼鹰类的水鸟,传说此鸟雌雄终生相守。 03、洲:水中陆地 04、窈窕(YaoTiao):娴静端正的样子 05、淑女:贤德的女子。淑,善 06、君子:对男子的美称 07、好逑:好的配偶 08、参差:长短不齐的样子 09、荇(Xing)菜:一种根生水中、叶浮水面的可食用植物 10、流之:随着水流而摇摆的样子 11、寤寐(WuMei):指日夜。寤,睡醒;寐,睡着。 12、求:追求 13、悠:长久 14、辗转反侧:躺在床上翻来覆去睡不着 15、芼(Mao):采摘 Xem chú giải: 01.Quan关 quan关: Chỉ trống mái hai chim hót mừng đối đáp nhau. Chữ Quan 关 này theo nghĩa chữ là “đóng” (bế quan) nhưng cái âm của nó là âm Việt: Cu=Con=Quan=Quân, dù có viết bằng chữ gì thì cái âm tiết “con” vẫn hiển hiện trong từng chữ khác nhau đó, dù Quan 官 là ông quan, hay Quân 君 là ông vua, hay Quân 军 là ông bộ đội thì vẫn là Con. Quan 关 Quan 关 chính là Con Con, đó là hai Con (chim) 02.Thư cưu 雎 鸠(JuJiu): Một loài chim nước giống chim ưng ăn cá (?), truyền thuyết nói rằng giống chim này trống mái chung thủy với nhau đến cuối đời. Từ điển Hán Việt (nxb KHXH –HN 1997) giải thích Thư Cưu là: chim gáy trong sách cổ (điều này đúng). Có lẽ do người ta đọc chữ Tại Hà Chi Châu nên nghĩ nó là chim nước. Âm tiết Thư, ngoài chữ Thư 雎 bộ chuy 隹 là chim, còn có chữ Thư 狙 mà Từ điển trên giải thích là: chỉ “người” thời Xuân Thu, như Phạm Thư, Đường Thư. Vậy gọi theo kiểu Việt là Thư Phạm, Thư Đường, tức Cu Phạm, Cu Đường (hoặc cả như Cu Tí là Câu Tiễn, vua nước Việt từng đóng đô ở Cối Kê). Cu = Cụ = Cử = Thư đều là cách người Việt gọi người. Người Vân Kiều hay người Kinh ở nông thôn vẫn gọi người là Cu, nặng kính trọngg thì gọi là Cụ. Cu Trai = Chài (Chài tiếng Tày là Anh, “noọng ơi noọng au Chài mí ?” là “nàng ơi nàng yêu Anh mấy?”, “mấy ?” là dấu hỏi, nghĩa là “không?”), Cu Gái = Cái, Cu Hòn = Con (con trai mới có hòn giống), do đó mà có từ “Con Cái” trong tiếng Việt, Hán ngữ gọi là “Tử Nữ”. Cu = Cụ = Cử = Cưu. Thư Cưu là Cù Cu, con Cù Cu là con chim gáy. Loài chim nữa cùng loại, cũng sống đôi chung thủy, được lấy làm biểu tượng đôi lứa là chim Câu, mà người Việt gọi đôi theo mái trống là Bà Cu = Bồ Câu. 03.Châu 洲: Lục địa trong nước. Chữ Châu mang nghĩa lục địa là về sau mới có. Thời cổ đại chữ Châu này là Chỗ Đậu = Châu. Châu=Cầu=Cao=Cồn=Hòn (do thời Nghiêu có thiên tai biển dâng, người Việt đò đến những đỉnh núi đã thành chơ vơ giữa biển nước, gọi đó là Cồn Đậu (Cồn Đậu = Côn Đảo). Cồn Đậu = Cầu, nên quần đảo Đài Loan và Nhật Bản xưa gọi là Lưu Cầu. Hà, xưa là chỉ nơi đựng nước: Ổ = Hố = Hồ = Hà. Ổ = Ao = Áo = Âu = Au = Yêu đều là những cái đựng, dù là đựng người (cái Ổ, cái Áo, “yêu nhau cổi áo cho nhau”), đựng nước (cái Ao, cái Âu, cái bát chiết Yêu), hay đựng tình cảm ( cái Yêu, cái Au “Au chài mí ?”). Bài thơ viết “Tại Hà Chi Châu” là dùng hình tượng đảo giữa nước nhưng là để nói ý cái ổ trên cao, vừa nhắc điển tích trận biển dâng thời Nghiêu, ý nói đôi chim Cù Cu đã phải qua bao gian lao mới có được cái ổ để nên vợ nên chồng 04.Yểu Điệu 窈 窕(YaoTiao): Dáng nhuần tịnh đoan chính Chữ này phải chú phiên âm, vì chỉ có trong “Hán cổ”. Nhưng tiếng Việt thì dễ hiểu, là “đáng Yêu mà lại Điệu đàng”, tức rất nữ tính mà lại sang trọng, có tri thức. 05.Thục nữ 淑 女: Người con gái hiền đức. Thục,Thiện Các cặp từ đối Âm/Dương theo phồn thực trong tiếng Việt là Nường/Nõn, Nọc/Nái, Nòi/Nụ , từ đó mà có từ Nữ. Thật Đức =Thục, Thật Hiền = Thiện. 06.Quân Tử 君 子: Mĩ xưng đối với nam tử Đơn giản Quân 君 Tử 子 là do từ Cu Tí của tiếng Việt cổ 07.Hảo Cầu 好 逑: Phối ngẫu tốt Việt ngữ không gọi là phối ngẫu mà gọi là “Cùng Nhau” = Cầu. Hám Cùng Nhau thì viết là Hảo Cầu. 08.Sâm Sai 參 差: Dáng ngắn dài không bằng nhau Đây là chữ mượn âm để ký âm: Sâm=Ngâm=Ngắn, Sai=Dài. 09.Hạnh Thái 荇(Xing)菜: Một loại thực vật ăn được, rễ ở dưới nước, lá nổi trên mặt nước (rau hạnh: nymphides peltalum – Từ điển Hán Việt nxb KHXH 1997) Chữ của sách cổ nên ngày nay phải phiên âm, chẳng biết nó là rau gì. Đơn giản hiểu là loại rau ao nhà, người con gái tần tảo hái nấu hàng ngày lo cho bữa ăn gia đình. Nhưng lá nó cọng ngắn dài khác nhau, chen nhau chao động theo sóng nước, nên tôi nghĩ nó là cây sen. Bông sen biểu trưng cho đức hạnh của người con gái “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” nên con dâu thường hái bông sen ngày một, ngày rằm thắp nhang cúng tổ tiên nhà chồng để tưởng nhớ, tỏ lòng hiếu thảo, xin chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình 10.Lưu Chi 流 之: Dáng dao động theo sóng nước Lắc lư chớ, viết bằng chữ Lưu 流 Chi 之. Chữ Lưu 流 trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là nước chảy. Chẳng qua mượn chữ Lưu 流để phiên âm chữ Lắc Lư 11.Ngô Muội 寤 寐(WuMei): Chỉ Ngày Đêm. Ngô là ngủ tỉnh, Muội là ngủ say Chữ này phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Thực ra nó là âm tiết Ngỏ Muồi của tiếng Việt. Ngỏ là ngủ mà mở mắt thao láo vì không ngủ được, còn có từ ghép Mở Ngỏ. Muồi là ngủ say (“Ru tam, tam thẹc cho muồi. Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu”- Bài ru con xứ Huế, “tam” là gọi tránh, mẹ, cha rồi đến con là thứ ba) 12.Cầu 求: Truy cầu Kêu xin ơn Sâu=(lướt)=Cầu 13.Du 悠: Trường cửu Trong thơ viết là Du Tai, đó là phiên thiết của từ Dài (lướt Du Tai = Dài; lướt Dài Lâu = Dâu) 14.Triển Chuyển Phản Trắc 辗 转 反 侧: Nằm trên giường lật qua lật lại, ngủ không được Hán ngữ chú giải cụm từ “trằn trọc lăn lóc” của tiếng Việt nghe mà thấy khó nhọc cho họ wá xá. Tiếng Việt chỉ có cụm 4 từ đó thôi mà hình dung được hết rồi, biết là ở trên giường luôn và ngủ không được: Trằn là kết quả lướt của Trở Lăn,Trở Lăn = Trằn; Trọc là kết quả lướt của Trở Dọc, Trở Dọc = Trọc; Lóc là kết quả lướt của Lăn đến Góc, Lăn đến Góc = Lóc. Lăn đến góc giường rồi tất nhiên phải lăn trở lại nếu không thì rớt xuống đất, nên từ đôi Lăn Lóc là đã nói lên cái sự lăn đi lăn lại đó mà vẫn là ở trên giường (các nhà ngôn ngữ học VN thì nói: những từ như kiểu từ Lăn Lóc không phải là từ Láy, cũng chưa định nghĩa được là từ gì, trong đó Lăn là rõ nghĩa, còn Lóc chưa rõ nghĩa, gọi nó là từ “chờ chưa sử dụng”). Hán ngữ đã phiên âm từ Trằn Trọc bằng mượn âm từ Triển Chuyển, Triển 辗 là cán bằng trục xoay, Chuyển 转 là chở bằng xe, còn phiên âm từ Lăn Lóc bằng Phản Trắc. Dịch được ngôn từ của Nhã ngữ đã khó ( Người Việt thì mới có khái niệm “khó nhọc với việc bên ngoài” thì gọi là Vất-Vả, còn “khó nhọc với chính bên trong bản thân” thì gọi là Vật-Vã, đều cùng tơi “V” với Việt. Người Hán hay người Anh chẳng có kiểu đặt tên khái niệm được như vậy), dịch ý thơ của Nhã ngữ còn khó hơn. Trên mạng này chỉ thấy chú giải, không thấy dịch ý thơ. 15.Mao 芼(Mao): Thái Trích Hái=Thái, Tách=Trích. Chữ Mao phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Mắn Vào = Mao, có nghĩa là Ngắt. Mắn=Ngắn=Ngắt. Mắn là sự cắt ngắn, cả đối với cọng rau (Mắn Vào = Mao nghĩa là Ngắt đem về), cả đối với thời gian (ví dụ từ Mắn Đẻ là rút ngắn thời gian giữa hai lần đẻ). Trong bài thơ này tôi coi cây Rau Hạnh chỉ là do Nhã ngữ muốn ám chỉ cái đức hạnh của người con gái đi làm dâu, mà chồng đang đi xa, ở nhà nhớ nhung, trằn trọc không ngủ được, vẫn cầu mong tốt lành cho chồng và nhà chồng, hiếu thảo thờ phụng gia tiên. Tôi nghĩ Rau Hạnh đó là ám chỉ Bông Sen. Người con gái hiền thục đó khi nhớ chồng đem đờn ra gẩy. Cuối cùng thì họ cũng đến lúc sum vầy “Chuông Cối vui chứ”, Chuông = Chung (tượng trưng người chồng), Cối = Cổ là cái trống đồng hình giống cái cối úp (tượng trưng người vợ). Bài thơ lấy bối cảnh ổ chim Cù Cu để ca ngợi tình nghĩa vợ chồng. Thời Việt Nho còn rất hồn nhiên, tự do yêu đương cũng như tự do tư tưởng, không bị gò ép như thời Hán Nho về sau, phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” gái bó chân, nhốt trong lầu hồng, như nô lệ của đàn ông. Người phụ nữ Việt của Nhã ngữ đoan trang đức hạnh lại tự do bình đẳng, vui vẻ chủ đọng trong hạnh phúc, tình dục và trách nhiệm gia đình chồng, qua hình ảnh đôi chim Cù Cu. Ca dao Việt còn có câu: “Thương chồng nấu cháo cù cu. Chồng ăn chồng đụ như tru phá ràng”. Hình ảnh ngắt bồng sen đem về cúng cầu gia tiên, đúng là vai trò đảm đang của người con dâu: Con trai có hiếu thường tình. Con dâu có hiếu làm vinh gia đàng. 5 people like this Share this post Link to post Share on other sites