thaochau

Kết Quả Mới Nhất Thuyết Phục Nhất Về Cội Nguồn Phát Tích Của Việt Tộc

7 bài viết trong chủ đề này

Bài của tác giả Phạm Trần Anh

Posted Image

Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D

Chính vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn hoá Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Cận Đông và cả châu Mỹ nữa.

ĐẠI CHỦNG HOABINHIAN PROTOVIETS

Posted Image

Từ truyền thuyết cũng như căn cứ vào các Thần tích và Tộc phả được phối kiểm bởi khoa Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Chủng tộc học, Cổ nhân học, Dân tộc và Ngôn ngữ học được kiểm chứng bởi kết quả phân tích cấu trúc phân tử di truyền DNA của các tộc người trong vùng cho phép chúng ta xác định tính hiện thực của cộng đồng Bách Việt (Malayo-Viets). Kết quả của khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử kể cả truyền thuyết Rồng Tiên về thời kỳ dựng nước của Việt tộc là một sự thật lịch sử. Luận chứng khoa học mới nhất có tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc người khác nhau. Việt tộc có yếu tố đột biến di truyền đặc biệt của châu Á trong khi Hán tộc không có yếu tố này. Đồng thời xác định địa bàn cư trú của tộc người Malaynesian tức Malayo-Viets (Bách Việt) trải dài từ rặng Tần Lĩnh, hạ lưu sông Hoàng Hà ở Trung nguyên trải dài xuống tận vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực phía Nam sông Hoàng Hà, lưu, phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực 2 con sông Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang), phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt.

Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và giáo sư sinh vật học người Pháp Varcilla Pascale đã ứng dụng hệ thống DNA là hệ thống sinh học mới nhất cho chúng ta kết quả có tính thuyết phục nhất. Các nhà khoa học đã khảo sát y phục, mồ mả, ră ng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận:

1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung Việt Nam, Lào, Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc.

2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ sông Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.(9)

Năm 1998, giáo sư J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở Đại học Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Tân Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu. Kết qủa của công trình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống kê có tên là “Phân tích chủng loại” (Phylogetic Analysis). Nhà bác học Chu và 13 đồng nghiệp khác tại đại học Texas Hoa Kỳ và các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Quốc đã công bố một công trình thành công về di truyền học mang tên “Genetic Relationship of Population in China” được đăng trong Tạp chí Hàn lâm viện Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998) như sau:(10)

1. Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu”.

Posted Image

2. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía NamTQ”.

Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học “Hệ thống miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6 (chromosoms qua máu dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA năm 1998”, giáo sư Lý kết luận: “Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt, Thái và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc”.

Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật lịch sử là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.

Giáo sư Douglas C. Wallace ở đại học Emory, Atlanta và Georgia đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và tRNALYS).

Nhà nhân chủng học Tréjaut đã nghiên cứu về thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố một sự thật làm đảo lộn mọi nhân định từ trước đến nay về vấn để này:

1. Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15 ngàn năm.

2. Thổ dân Đài Loan cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai, dân Đa Đảo mà dân Tầu ở Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này.

3. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa Đảo.

4. Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ tRNA.(11)

Giáo sư Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở đại học Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền CO II tRNA LYS chứng minh dân Đa Đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.

Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1500-800TC) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo.(12) Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.

Tháng 3 năm 2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (Proceeding of the National Academy of Science,USA) đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: “Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawai và Polynesia thuộc Pháp. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và cho thấy hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ Việt Nam.

Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà Việt Nam là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương”.(13)

Sự thật lịch sừ này đã được Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều phát kiến để hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Họ mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.

Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng biển nước mênh mông nước rút dần để lộ ra những vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Tiền nhân chúng ta đã từ vùng cao nguyên Hi Mã Lạp sơn tiến xuống vùng đồng bằng, nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó để lập làng định cư khai phá đất đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước này được truyền thuyết diễn tả qua việc mẹ Âu cùng 50 con ở lại vùng cao, Bố Lạc dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J Loubet và P Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trung Khánh TQ bây giờ.

Như vậy, cư dân Hoà Binh Hoabinhian đã phải thiên cư mỗi khi có nạn biển tiến mà 3 lầm biển tiến cách đây khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm theo 2 hướng. Một nhánh theo hướng Đông Bắc qua cầu đất Béring vào Mỹ châu do nạn biển tiến cách đây khoảng 13.500 năm rồi trở thành thổ dân Bắc Mỹ.và nhánh khác theo hướng Nam xuống bán đảo Mallacca Mã Lai Malaysia) rồi vượt biển tới các hoang đảo sau này có tên là Nam Dương Indonesia, Phi Luật Tân (Philippine), Hawai, Đa Đảo, NZealand rồi sang tới California, Trung Mỹ và Nam Mỹ.

Trước đây, chúng ta thường nghĩ rằng truyền thuyết khởi nguyên dân tộc là hoang đường huyền hoặc và huyền thoại Rồng Tiên chỉ là sự hư cấu để điểm tô cho lòng tự hào dân tộc thì ngày hôm nay, tất cả đã sáng tỏ qua các công trình nghiên cứu, những kết quả khoa học thuyết phục nhất. Hình tượng Rồng Tiên được thần thoại hóa từ vật tổ biểu trưng Chim và Thuồng Luồng (Giao Long) của chi Âu Việt ở miền núi và chi Lạc Việt ở miền sông nước. Chữ Tiên gồm 2 chữ sơn và nhân hàm nghĩa người ở miền cao núi rừng mà thôi và địa danh “Thủy Phủ” được 2 thạc sĩ sử địa người Pháp là J.Gouron và P. Lubet tìm ra chính là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc bây giờ. Hai bản đồ Pacific Ocean và Atlas 1949 ghi rõ là SUIFU=Thủy phủ. Thế là truyền thuyết từ chỗ u u đã trở nên minh minh chứ không còn u u minh minh như trước nữa.Từ truyền thuyết khởi nguyên dân tộc, đối chiếu với nguồn sách sử của Trung Quốc, kiểm chứng qua các công trình nghiên cứu Dân tộc học, Ngôn ngữ học, Văn hoá Khảo cổ, Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Đại dương học và kết q ủa phân tích cấu trúc mã di truyền mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học đã xác định Việt tộc hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt có 1 tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền trong dân tộc (Intrapopulatinal genetic divergence 0.236% và về Hinc II/ Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.

Chính vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn hoá Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Cận Đông và cả châu Mỹ nữa.

Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là “Đột biến đặc biệt Á Châu= “9bp deletation bettween CO I I tRNA LYS genes” bp= base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Trung Quốc ở Hoa Nam, Đài Loan, Cư dân Đông Nam Á gồm Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa Đảo Polynesian, thổ dân Hawai, thổ dân Maya ở Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng Halogroup A, B, C, D và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS mà các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian Mitochondrial DNA) của Việt tộc. Thực tế này xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại.

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam – Bách Việt

Posted Image

Bàn về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một chủ đề không mới, đã có nhiều nghiên cứu công phu về đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi trong tinh thần muốn đóng góp một cái nhìn, xin gửi đến độc giả một số trích đoạn trong sách “nguồn gốc dân tộc Việt Nam” của học giả Đào Duy Anh, xuất bản năm 1950 về chủ đề này để những ai lưu tâm có thể có thêm cứ liệu suy xét. Có lẽ nguồn gốc truyền kỳ của dân tộc ta thì ai cũng biêt, và thông tin về thời đại nước Âu lạc của Thục An Dương Vương thì thiết tưởng chúng tôi không bàn thêm. Chúng tôi chỉ xin trích dẫn ở đây những cứ liệu về bước chuyển, xuất phát từ một lưu tâm: dân tộc Việt Nam vốn là một chi nhánh trong nhóm Bách Việt, tự khẳng định mình để không bị đồng Hóa bởi Hán tộc trong tiến trình hình thành quốc gia dân tộc.

Đề cập đến Bách Việt, chúng ta biết rằng khoảng thế kỷ 20 tcn, khi người Hán đang phát triển nền văn minh của họ ở lưu vực sông Hoàng Hà và Vị Thủy ở phía Bắc thì ở miền nam trên lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang), sông Hán và sông Hoài, có những bộ tộc khác đã sinh sống, và thư tịch cổ Trung Quốc gọi họ là Man Di. Dựa vào vùng đất trù phú của miền sông nước, họ đã phát triển kinh tế nông nghiệp, đánh bắt thủy sản để sinh sống. Nhóm Man Di này được nhìn nhận đều thuộc Việt tộc. Đến trước đờiChu(bắt đầu từ thế kỷ XII tcn), họ đã ở khắp lưu vực sông Dương Tử. Quá trình hình thành và thống nhất của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với quá trình hoặc đồng hóa các dân tộc nhỏ bé hoặc đẩy họ Nam tiến. Bách Việt là một ví dụ điển hình: một số chi họ trong Bách Việt đã dần nam tiến trong tiến trình Trung Quốc tiến hành thống nhất từ thờiChuđến Tần, và song song đó là quá trình họ bị đồng hóa, nhận lấy những yếu tố Hán tộc làm gia sản của mình. Tất nhiên, không điều gì lại không có ngoại lệ.

BÁCH VIỆT

Từ trước thời kỳ nước Việt đương cường thịnh ở Chiết Giang, người Việt Tộc ở miền lưu vực sông Dương Tử, riêng là người Giao Chỉ và Việt Thường đã có thể đi qua các đèo ở dãi Nam Lãnh mà di cư rãi rác đến miền nam, trong các thung lũng những sông lớn ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay. Chúng ta lại biết rằng hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đờiChu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miềnNam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương. Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà qúy tộc người Việt lập ở miền LãnhNam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Đại khái buổi đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang Phúc Kiến đều thần phục nước Sở, mà những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.

Cái vận mệnh lịch sử của các bộ lạc và quốc gia Việt tộc ấy là thế nào? Chúng ta không thể nào biết hết được. Có lẽ các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính, cho nên số các bộ lạc linh tinh một ngày một giảm ít đi, mà sử sách chỉ chép có năm nhóm quan trọng, sau này đã đạt đến hình thức quốc gia: Đông Việt hay Đông Âu, MânViệt,NamViệt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt.

Ở chương này, chúng tôi chỉ xin nói về ba nhóm Đông Việt, Mân Việt vàNamViệt là các nhóm sau này lần lượt bị đồng hóa theo Hán Tộc, còn nhóm Tây Âu và nhất là nhóm Lạc Việt, hai nhóm ấy sau này hợp thành ước Âu Lạc đã ghi dấu trên lịch sử lâu bền hơn, chúng tôi sẽ nói sau.

Đông Việt và Mân Việt, hai nhóm ấy có tự bao giờ, chúng ta chưa biết đích xác được. Chúng ta chỉ có thể đặt sự thành lập chính thức của nó vào thời gian sau khi nước Việt bị diệt ( năm 333 tcn) và trước khi nhà Tần chinh phục Bắc Việt (năm 218 tcn).

Sau cuộc nhà Tần thống nhất Trung Hoa thì cương vực của địa bàn người Hán Tộc có thể lấy dãi LãnhNamlàm giới tuyến phíaNam. Sau khi Tần đặt 36 quận ở đất Trung nguyên thì vào khoảng năm 218, Thủy Hoàng phát quân gồm những hạng người lưu vong rể thừa và lái buôn, chia làm năm đạo cho đi chinh phục Bách Việt. Trong 5 đạo ấy, đạo thứ năm tụ tập trên sông Dư Can, trong tỉnh Giang Tây ở phía nam hồ Phiên Dương là đạo quân nhằm đánh. Đông Việt và Mân Việt là hai nhóm người Việt đã có hình thức quốc gia phôi thai, vốn thần phục nước Sở, đã nhân cuộc nội loạn ở Trung Quốc mà độc lập.

Nhóm Đông Việt hay Đông Âu thì Trung tâm điểm là miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang ngày nay. Về phíaNamTam môn loan. Nhóm Mân Việt thì trung tâm điểm là miền Mân huyện, thuộc Phúc Châu trong tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

Có lẽ hai nước Đông Việt và Mân Việt thì tiếp cảnh với nhà Tần nên vốn đã sợ oai, nay thấy quân Tần kéo đến thì không dám chống cự kịch liệt nên quân Tần thắng lợi rất mau. Chỉ trong năm đầu, nhà Tần chinh phục được hai nước gồm lại mà đặt quận Mân Trung, hạ vua hai nước xuống làm quận trưởng (tù trưởng) để trông dân Việt.

Về sau, trong khi chư hầu phản nhà Tần, tù trưởng Đông Việt và Mân Việt đều theo chư hầu mà đánh Tần, rồi lại giúp Hán đánh Sở. Vì vậy đến năm thứ 5 đời Cao Đế (202) thì nhà Hán thưởng công, phong cho tù trưởng Mân Việt là Võ Chứ làm Mân Việt Vương, trị đất Mân Trung cũ, đô ở Đông Dạ (Mân huyện ngày nay). Năm thứ 3 đời Huệ đế (192), nhà Hán lại chia đất Mân Trung cũ mà đặt thêm ước Đông Hải và cũng để thưởng công phong tù trưởng Đông Việt là Dao làm Đông Hải Vương, đô ở Đông Âu (miền Vinh Gia), tục gọi là Đông Âu Vương.

Các nhóm Bách Việt vốn hay đánh nhau, đó chẳng qua là tác dụng của xu hướng thống nhất của các dân tộc. Cái thói tương tranh ấy vốn có thể cổ lệ cái lòng hiếu dũng cho dân tộc nhưng cũng có thể làm lưu tệ mà thành cái mối tự thân phân liệt được. Chúng ta nhớ lại, đương khi nước Việt quật cường thì cái hoài vọng của họ là phát triển về phương Bắc để xưng hùng với trung nguyên. Sau khi nước Việt diệt vong, cố nhiên người Việt không thể lăm le nhòm ngó trung nguyên như trước nữa, nhưng cái hoài vọng ngấm ngầm của các tù trưởng lớn tuồng nhưng cũng cứ chờ có cơ thời thì lại tung hoành về Bắc. Trong khi chờ đợi thời cơ thì cơ hội khuếch trương thế lực ở đồng tộc, cho nên trong các nhóm Bách Việt, người ta thấy diễn ra hiện tượng tương khuynh. Sự tranh giành giữa hai nhóm Đông Việt và Mân Việt là cái lệ chúng rõ ràng của hiện tượng ấy, mà chính là cơ hội rất tốt cho nhà Hán kiêm tính Bách Việt.

Ở buổi ban sơ, Đông Việt và Mân Việt tuy thần phục nhà Hán, nhưng cái chí nhòm ngó miền Bắc nếu có cơ hội thì cũng không ngại múa men. Khi Ngô Vương là Tỵ phản nhà Hán, Đông Việt và Mân Việt cũng có phát binh tiếp ứng: khi HoàiNamVương Lệ làm phản, cũng có câu kết với hai nước ấy. Trong hai nước thì Mân Việt đáng cho nhà Hán sợ hơn cả. Sau khi nhà Hán đã dụ được Đông Việt giết Ngô Vương Tỵ mà hàng phục Hán, con Tỵ là Tư Câu xui Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ 3 đời Vũ đế (năm 138). Mân Việt bèn phát binh hãm Đông Âu. Đông Việt cầu cứu với nhà Hán, tướng Hán là Nghiêm Trợ phát binh tiếp cứu nhưng quân Hán chưa đến nơi thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước bấy giờ họ có nội loạn. Nghiêm Trợ đến Đông Âu muốn diệt nước Đông Việt để trừ hậu hoạn, bèn lấy danh nghĩa di dân để cứu nạn đói mà dời một phần dân chúng Đông Âu đến miền Giang Hoài. Có lẽ một phần dân Đông Việt đã chống cự lệnh di dân ấy mà theo vua họ chạy xuống miềnNamở gần Tuyền Sơn tỉnh Phúc Kiến sau đó 15 năm thì họ bị nhà Hán diệt hết. Thế là nước Đông Việt mất hẳn.

Sua khi Mân Việt thất bại ở Đông Âu, năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), họ lại đem binh đánh nước Nam Việt ở miền Nam. Nước này cũng cầu cứu nhà Hán. Tướng Hán là Vương Khôi do đường Dự Chương và Hàn An Quốc, do đường Cối kê cùng tiến quân vào Mân Việt. Nhưng quân Hán chưa qua đèo mà Mân Việt lại vì nội loạn phải đầu hàng.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tác giả viết bài này chỉ chứng thực được một điều - hay nói đúng hơn là - làm rõ một cách chưa hoàn hảo một yếu tố là tính di truyền để xác định câu nổi tiếng trong sử ký của Tư Mã Thiên: "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở, có cùng chủng tính". Sở dĩ tôi cho rằng chưa hoàn hảo vì còn thiếu yếu tố về gen di truyền của dân tộc Nhật Bản. Điều này do chính các nhà khoa học Nhật Bản đã xác định trong những công trình nghiên cứu mới nhất của họ về vấn đề này trong những năm gần đây. Việc phát hiện ra sự khác biệt về di truyền giữa các chủng người ở Nam Dương tử và các vùng Đông Nam Á khác người Hán ở Bắc Dương tử là một chứng minh tính khoa học không thể chối cãi về địa bàn cư trú của Việt tộc theo truyền thống văn hóa sử Việt để lại và đã được chính thức ghi nhận trong Việt sử - phù hợp một cách hợp lý với các bản văn cổ liên quan , như Sử Ký Tư Mã Thiên.

Nước Văn Lang Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải.

Tôi được biết những người có quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt đã ngầm bác bỏ điều này. Họ cho rằng sự phát hiện ra tính di truyền của những nhà khoa học chưa phải là bằng chứng thuyết phục. Nhưng vì họ không dám công khai bác bỏ sự phát hiện tính di truyền của các nhà khoa học chuyên ngành nói trên liên hệ với một thực tại của cổ sử; mà chỉ ngầm ngầm nói sau lưng. Bởi vậy tôi cũng chưa chính thức lên tiếng chỉ ra sai lầm của họ.

Tuy nhiên, những nội dung miêu tả các công trình nghiên cứu về gen di truyền trong bài viết này, một lần nữa cho chúng ta thấy rằng:

Một hiện tượng khách quan cấu trúc di truyền được phát hiện của chủng người Việt ở Nam Dương tử và các vùng phụ cận hiện nay đã xác minh rõ ràng cho sự xác định của Sử ký: "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở, cùng một chủng tính". Và quan trong hơn nữa chính là tính di truyền của Việt tộc là yếu tố gen căn bản để đối chiếu tính đống nhất về gen với các chủng khác ở vùng đất Đông Nam châu Á lịch sử này - kể cà Nhật Bản. Điều này xác định một cách sắc xảo về cội nguồn của chủng tộc Việt - từ hàng ngàn năm trước - đã phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng đến một vùng địa lý rộng lớn ở Đông Nam Á từ Nam Dương tử xuống đến tân Indo và xa hơn đến tận Guam ở trên Thái Bình Dương....

Tuy nhiên - ngoài yếu tố cóp nhặt từ những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế và Việt Nam - thì các phần khác thể hiện những luận cứ của tác giả lại tỏ ra không nhất quán, thiếu tính hệ thống với những quan hệ hợp lý của các hiện tượng liên quan và gần như không đếm xỉa đến yếu tố thời gian với những lập luận rất chủ quan. Hay nói rõ hơn: Chẳng có một cái gì gọi là "cơ sở khoa học".

Chúng ta có thể thấy điều này qua một số lập luận sau đây:

- Cho rằng Lạc Việt , hay người Việt hiện nay ở Việt Nam chỉ là một nhóm thuộc Bách Việt. Lập luận này tôi đã bác bỏ và chứng minh rằng: Lạc Việt chính là danh xưng chỉ toàn bộ Việt tộc ở Nam Dương tử trong bài viết gần đây: "Lạc Việt và Bách Việt" - http://vn.360plus.ya...rticle?mid=1692 . Những danh xưng Đông Việt, Mân Việt, Điền Việt , Dạ Lang...vv... chính là những quốc gia chỉ xuất hiện sau khi Văn Lang sụp đổ vào thế kỷ III sau CN. Trước đó chỉ là địa danh vùng miền trên lãnh thổ Văn Lang.

Chu Dịch - Hệ từ viết: "Vua chạy ra đất Mân" - chính là vùng sau này có địa danh tương đương Phúc Kiến - Quảng Đông bây giờ. Việc đất Mân xuất hiện trong Chu Dịch chứng tỏ địa danh này đã có từ trước cả hiện tượng gọi là Khổng Tử "mần ra" cái Thập Dực - 500 năm BC - và vào thời mà chính các nhà nghiên cứu Hán cũng thừa nhận địa bàn cư trú của người Hán không vượt qúa bờ nam Dương tử.

Tính thiếu nhất quán và không mang tính hệ thống của tác giả còn thể hiện mà quí vị quan tâm có thể quán xét qua những đoạn trích sau đây:

Sự thật lịch sừ này đã được Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều phát kiến để hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Họ mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.

Như vậy, tác giả đã nhầm lẫn giữa hiện tượng khách quan về sự giống nhau của cấu trúc gen di truyền của các dân tộc vùng Đông Nam Á - bao gồm cả Nam Dương tử - với mối tương quan với những giá trị văn hóa sử. Những biến cố của thiên nhiên từ hàng chục ngàn năm trước không có liên quan trực tiếp với suy luận của tác giả về cổ văn hóa sử Việt với tư cách là quốc gia văn hiến , cội nguồn của Lý học Đông phương và những mối quan hệ lịch sử của các nhóm cư dân Đông Nam Á - bao gồm cả Nhật Bản và Đài Loan liên quan đến chủng tộc Việt....

Nhất là việc tác giả căn cứ vào những luận điểm của Đào Duy Anh:

Bàn về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một chủ đề không mới, đã có nhiều nghiên cứu công phu về đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi trong tinh thần muốn đóng góp một cái nhìn, xin gửi đến độc giả một số trích đoạn trong sách “nguồn gốc dân tộc Việt Nam” của học giả Đào Duy Anh, xuất bản năm 1950 về chủ đề này để những ai lưu tâm có thể có thêm cứ liệu suy xét.

Ông Đào Duy Anh vốn là một học giả nghiên cứu về Việt sử từ hơn nửa thế kỳ trước - mà những lập luận chủ quan , cũng như sự thiếu tính hệ thống và mâu thuẫn trong những luận cứ của ông ta đã bị tôi bác bỏ trong những sách và bài viết liên quan , trong nhiều lĩnh vực về cổ sử Việt và cả những định nghĩa không mấy sâu sắc về văn hóa của ông này (quí vị có thể tham khảo trong diễn đàn và trang chủ, trong sách "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập hoa giáp". Chương V).

Một thí dụ cho khả năng tư duy của ông Đào Duy Anh là định nghĩa về văn hóa của ông ta trong "Việt Nam văn hóa sử cương": "Văn hóa là sinh hoạt".

Như vậy khái niệm văn hóa thuộc phạm trù hoạt động của mọi sinh vật sống, chứ không phải của riêng trong xã hội con người có tổ chức và văn minh. Trong bài viết này của tôi về phần này, chỉ chứng minh một cách khái quát như vậy và không đi vào chi tiết liên quan đến ông Đào Duy Anh, vì tôi đã minh chứng điều này trên các bài viết và sách vở liên quan.

Nhưng tôi cần phải xác định rằng: Chính ông Đào Duy Anh với những luận điểm sai lầm của ông đã được không ít người trong đám "hầu hết" và "cộng đồng" căn cứ vào đấy để là chỗ dựa cho sự phủ nhận truyền thống văn hiến của Việt sử. Đương nhiên người ta không thể tìm ra cái đúng từ một cái sai.

Bây giờ quí vị xem lại toàn bộ phần tôi trích dẫn sau đây và cũng là đoạn kết của tác giả:

BÁCH VIỆT

Từ trước thời kỳ nước Việt đương cường thịnh ở Chiết Giang, người Việt Tộc ở miền lưu vực sông Dương Tử, riêng là người Giao Chỉ và Việt Thường đã có thể đi qua các đèo ở dãi Nam Lãnh mà di cư rãi rác đến miền nam, trong các thung lũng những sông lớn ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay. Chúng ta lại biết rằng hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đờiChu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miềnNam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương. Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà qúy tộc người Việt lập ở miền LãnhNam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Đại khái buổi đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang Phúc Kiến đều thần phục nước Sở, mà những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.

Cái vận mệnh lịch sử của các bộ lạc và quốc gia Việt tộc ấy là thế nào? Chúng ta không thể nào biết hết được. Có lẽ các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính, cho nên số các bộ lạc linh tinh một ngày một giảm ít đi, mà sử sách chỉ chép có năm nhóm quan trọng, sau này đã đạt đến hình thức quốc gia: Đông Việt hay Đông Âu, MânViệt,NamViệt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt.

Ở chương này, chúng tôi chỉ xin nói về ba nhóm Đông Việt, Mân Việt vàNamViệt là các nhóm sau này lần lượt bị đồng hóa theo Hán Tộc, còn nhóm Tây Âu và nhất là nhóm Lạc Việt, hai nhóm ấy sau này hợp thành ước Âu Lạc đã ghi dấu trên lịch sử lâu bền hơn, chúng tôi sẽ nói sau.

Đông Việt và Mân Việt, hai nhóm ấy có tự bao giờ, chúng ta chưa biết đích xác được. Chúng ta chỉ có thể đặt sự thành lập chính thức của nó vào thời gian sau khi nước Việt bị diệt ( năm 333 tcn) và trước khi nhà Tần chinh phục Bắc Việt (năm 218 tcn).

Sau cuộc nhà Tần thống nhất Trung Hoa thì cương vực của địa bàn người Hán Tộc có thể lấy dãi LãnhNamlàm giới tuyến phíaNam. Sau khi Tần đặt 36 quận ở đất Trung nguyên thì vào khoảng năm 218, Thủy Hoàng phát quân gồm những hạng người lưu vong rể thừa và lái buôn, chia làm năm đạo cho đi chinh phục Bách Việt. Trong 5 đạo ấy, đạo thứ năm tụ tập trên sông Dư Can, trong tỉnh Giang Tây ở phía nam hồ Phiên Dương là đạo quân nhằm đánh. Đông Việt và Mân Việt là hai nhóm người Việt đã có hình thức quốc gia phôi thai, vốn thần phục nước Sở, đã nhân cuộc nội loạn ở Trung Quốc mà độc lập.

Nhóm Đông Việt hay Đông Âu thì Trung tâm điểm là miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang ngày nay. Về phíaNamTam môn loan. Nhóm Mân Việt thì trung tâm điểm là miền Mân huyện, thuộc Phúc Châu trong tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

Có lẽ hai nước Đông Việt và Mân Việt thì tiếp cảnh với nhà Tần nên vốn đã sợ oai, nay thấy quân Tần kéo đến thì không dám chống cự kịch liệt nên quân Tần thắng lợi rất mau. Chỉ trong năm đầu, nhà Tần chinh phục được hai nước gồm lại mà đặt quận Mân Trung, hạ vua hai nước xuống làm quận trưởng (tù trưởng) để trông dân Việt.

Về sau, trong khi chư hầu phản nhà Tần, tù trưởng Đông Việt và Mân Việt đều theo chư hầu mà đánh Tần, rồi lại giúp Hán đánh Sở. Vì vậy đến năm thứ 5 đời Cao Đế (202) thì nhà Hán thưởng công, phong cho tù trưởng Mân Việt là Võ Chứ làm Mân Việt Vương, trị đất Mân Trung cũ, đô ở Đông Dạ (Mân huyện ngày nay). Năm thứ 3 đời Huệ đế (192), nhà Hán lại chia đất Mân Trung cũ mà đặt thêm ước Đông Hải và cũng để thưởng công phong tù trưởng Đông Việt là Dao làm Đông Hải Vương, đô ở Đông Âu (miền Vinh Gia), tục gọi là Đông Âu Vương.

Các nhóm Bách Việt vốn hay đánh nhau, đó chẳng qua là tác dụng của xu hướng thống nhất của các dân tộc. Cái thói tương tranh ấy vốn có thể cổ lệ cái lòng hiếu dũng cho dân tộc nhưng cũng có thể làm lưu tệ mà thành cái mối tự thân phân liệt được. Chúng ta nhớ lại, đương khi nước Việt quật cường thì cái hoài vọng của họ là phát triển về phương Bắc để xưng hùng với trung nguyên. Sau khi nước Việt diệt vong, cố nhiên người Việt không thể lăm le nhòm ngó trung nguyên như trước nữa, nhưng cái hoài vọng ngấm ngầm của các tù trưởng lớn tuồng nhưng cũng cứ chờ có cơ thời thì lại tung hoành về Bắc. Trong khi chờ đợi thời cơ thì cơ hội khuếch trương thế lực ở đồng tộc, cho nên trong các nhóm Bách Việt, người ta thấy diễn ra hiện tượng tương khuynh. Sự tranh giành giữa hai nhóm Đông Việt và Mân Việt là cái lệ chúng rõ ràng của hiện tượng ấy, mà chính là cơ hội rất tốt cho nhà Hán kiêm tính Bách Việt.

Ở buổi ban sơ, Đông Việt và Mân Việt tuy thần phục nhà Hán, nhưng cái chí nhòm ngó miền Bắc nếu có cơ hội thì cũng không ngại múa men. Khi Ngô Vương là Tỵ phản nhà Hán, Đông Việt và Mân Việt cũng có phát binh tiếp ứng: khi HoàiNamVương Lệ làm phản, cũng có câu kết với hai nước ấy. Trong hai nước thì Mân Việt đáng cho nhà Hán sợ hơn cả. Sau khi nhà Hán đã dụ được Đông Việt giết Ngô Vương Tỵ mà hàng phục Hán, con Tỵ là Tư Câu xui Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ 3 đời Vũ đế (năm 138). Mân Việt bèn phát binh hãm Đông Âu. Đông Việt cầu cứu với nhà Hán, tướng Hán là Nghiêm Trợ phát binh tiếp cứu nhưng quân Hán chưa đến nơi thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước bấy giờ họ có nội loạn. Nghiêm Trợ đến Đông Âu muốn diệt nước Đông Việt để trừ hậu hoạn, bèn lấy danh nghĩa di dân để cứu nạn đói mà dời một phần dân chúng Đông Âu đến miền Giang Hoài. Có lẽ một phần dân Đông Việt đã chống cự lệnh di dân ấy mà theo vua họ chạy xuống miềnNamở gần Tuyền Sơn tỉnh Phúc Kiến sau đó 15 năm thì họ bị nhà Hán diệt hết. Thế là nước Đông Việt mất hẳn.

Sua khi Mân Việt thất bại ở Đông Âu, năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), họ lại đem binh đánh nước Nam Việt ở miền Nam. Nước này cũng cầu cứu nhà Hán. Tướng Hán là Vương Khôi do đường Dự Chương và Hàn An Quốc, do đường Cối kê cùng tiến quân vào Mân Việt. Nhưng quân Hán chưa qua đèo mà Mân Việt lại vì nội loạn phải đầu hàng.

..

Qua phần kết được trích dẫn này và đối chiếu với các phần trên trong toàn văn bài viết mà Thảo Châu đã đưa lên thì một điều dễ nhận thấy là: Chúng không hể có một sự liên hệ nào đến cái gọi là "văn hóa Hòa Bình" và cái mà tác giả buộc phải thừa nhận về mối quan hệ cấu trúc gen của Việt tộc - là những hiện tượng khách quan - mà các nhà khoa học tự nhiên đã xác định, với những luận cứ mà tác giả nêu ra trong phần kết của bài viết với tựa Bách Việt mà tôi trích dẫn ở trên.

Qua đó thấy ngay tính thiếu hệ thống, không có sự liên hệ hợp lý và không nhất quán và có những mâu thuẫn trong bài viết của người này. Tất nhiên với những yếu tố đó đủ xác định tính phi khoa học của bài viết theo tiêu chí khoa học.

Từng đoạn một trong phần cuối có tựa Bách Việt của tác giả, càng thấy sự xuyên tạc Việt sử 5000 năm văn hiến của tác giả một cách rất chủ quan và thiếu tính hệ thống hợp lý trong việc liên hệ các sự kiện liên quan. Tôi trình bày với các bạn quan tâm lần lượt từng đoạn sau đây trong phần Bách Việt đã trích dẫn:

A -

Từ trước thời kỳ nước Việt đương cường thịnh ở Chiết Giang, người Việt Tộc ở miền lưu vực sông Dương Tử, riêng là người Giao Chỉ và Việt Thường đã có thể đi qua các đèo ở dãi Nam Lãnh mà di cư rãi rác đến miền nam, trong các thung lũng những sông lớn ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay. Chúng ta lại biết rằng hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đờiChu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miềnNam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương. Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà qúy tộc người Việt lập ở miền LãnhNam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Đại khái buổi đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang Phúc Kiến đều thần phục nước Sở, mà những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.

Cái vận mệnh lịch sử của các bộ lạc và quốc gia Việt tộc ấy là thế nào? Chúng ta không thể nào biết hết được. Có lẽ các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính, cho nên số các bộ lạc linh tinh một ngày một giảm ít đi, mà sử sách chỉ chép có năm nhóm quan trọng, sau này đã đạt đến hình thức quốc gia: Đông Việt hay Đông Âu, MânViệt,NamViệt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt.

Cá nhân tôi nhận thấy rằng: Tác giả hoàn toàn tự mâu thuẫn trong những luận điểm thể hiện. Ở đoạn trên tác giả viết:

Thực tế này xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại.

. Nhưng đấy cũng chỉ là phần tác giả lấy những công trình nghiên cứu khoa học của các học giả khác thể hiện một thực tế khách quan với những phương tiên và công cụ khoa học không thể phủ nhận về cấu trúc gen Việt trong các chủng tộc bao trùm Đông Nam Á. Chứ không phải là tầm nhìn của ông ta .

Chính đoạn Bách Việt viết ở phần cuối bài viết trên mới là những luận điểm của tác giả. Ông ta đã xác định một cách không cần chứng cớ khi cho rằng:

Chúng ta lại biết rằng hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đờiChu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miềnNam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương. Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà qúy tộc người Việt lập ở miền LãnhNam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Đại khái buổi đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang Phúc Kiến đều thần phục nước Sở, mà những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.

Như vậy, tác giả đã phủ nhận hoàn toàn một quốc gia Văn Lang tồn tại từ 2622 năm BC và cho rằng nó chỉ hình thành trên cơ sở khi nước Việt Câu Tiễn bị xóa sổ và di cư đến Nam Dương tử vào 333 năm BC. Qua đoạn này thì chúng ta dễ dàng thấy tác giả đã lờ đi rất nhiều những tư liệu lịch sử liên quan và một nền văn hóa ở Nam Dương tử qua những di vật được tìm thấy, như: Trống đồng, tục ăn trầu...vv...Ở đây chưa nói đến những tư liệu lịch sử liên quan đến chính Việt Vương Câu Tiễn - thế kỷ thứ VI BC. Tức là trước thời điểm mà tác giả cho rằng nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn bị sụp dổ 333 năm BC - được ghi nhận trong Việt sử lược, rằng - Đại ý: Khi Việt Vương câu Tiễn làm bá chủ Trung Nguyên, có sai sứ sang đề nghị Hùng Vương cùng liên kết tấn công nhà Chu để chiếm Trung Nguyên. Nhưng bị Hùng Vương từ chối.

Cũng qua đoạn trích dẫn A trên, các bạn cũng nhận ra rằng: Tác giả có ý đồ chứng minh rằng: Chính những người Việt của nươc Việt Câu Tiện tràn xuống Nam Dương tử mới tạo ra những chủng tộc Việt sau đó. Điều này thể hiện những mâu thuẫn sau:

- Thời Xuân Thu - thế kỷ V BC - có rất nhiều quốc gia như Tần , Sở, Tấn , Lỗ , Tế và Việt của Việt Vương Câu Tiện. Vậy Khi những quốc gia này bị xóa sổ như nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn thì các chủng này đi đâu? Hay chỉ có người Việt của Việt Vương Câu Tiễn mới là Việt, còn các chủng khác là Hán?

- Tác giả lập lờ khi xác định người Việt của nước Việt Vương Câu Tiễn với người Việt ở Nam Dương tử, mà chúng ta nhận thấy ngay ở đoạn này: "Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miền Nam". Vậy người Việt ở miền Nam Dương tử chỉ là những ngườin đồng tộc và thị tộc và thấp kém. Chỉ khi người Việt của Việt Vương câu Tiên xuống hòa nhập mới tiến hóa. Vậy cái bản chất Việt ấy nó như thế nào và liên hệ gì với cái mà tác giả buộc phải thừa nhận về "văn hóa Hòa Bình" từ 8500 năm trước? Vậy thì Việt nào đồng hóa Việt nào? Tại sao lại có nươc Việt của Việt Vương là Việt, còn các Việt khác ở Nam Dương tử thì lại phải chờ đến thế kỷ thứ IV mới "lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương". Rõ ràng những lập luận của ông ta hoàn toàn mang tính chủ quan và không hề có sự minh chứng nào gọi là khoa học khi xác định điều này. Tất nhiên nhưng cái gọi là luận điểm chủ quan của ông ta không có chỗ đứng trong một bài viết ở tầm nghiên cứu, dù chỉ là ở mức giả thuyết.

Tóm lại, xem từ đầu đến cuối bài viết thì chẳng có cơ sở nào để liên hệ giữa cái "văn hóa Hòa Bình" và cấu trúc gen của Việt tộc trải khắp vùng Đông Nam Á - mà tác giả viết ở đoạn trước - với cái liên minh bộ lạc. thị tộc Việt ở nam Dương tử được Việt hóa bởi nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn để trở thành Bách Việt như tác gỉa nói.

Vậy mà bài viết mao xưng là kết quả mới nhất về cội nguồn Việt tộc. Thực ra chỉ là một sự lập lờ trước những nghiên cứu khoa học không thể phủ nhận được gắn một cái nhìn chủ quan phản khoa học của tác giả.

Tôi hy vọng lần sau những bài viết mang tính phủ nhận Việt sử của đám tư duy "ở trần đóng khố" phải có chức danh kèm theo và nguồn gốc rõ ràng. Tôi sẽ xóa những bài phủ nhận truyền thống gần 5000 năm văn hiến sử Việt , nếu không có chức danh tác giả và nguồn trích dẫn.

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi có thói quen khi pots bài thường ghi rõ chủ đề ngay trong nội dung, ngoài việc ghi chủ để bắt buộc cho một chủ đề mới. Bởi vậy khi xem bài viết của Thảo Châu không xem kỹ chủ đề. Hôm nay xem lại thấy thật buồn cười. Cái chủ đề ghi như sau:

Trả lời cho "Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về cội nguồn phát tích của Việt Tộc"

Bài viết thì nội dung ý trước không ăn nhập gì với ý sau; lập luận thì hoàn toàn áp đặt ý kiến chủ quan, không cần luận cứ hoặc chứng minh. Vậy mà rêu rao là thuyết phục nhất?!Posted Image. Nội cách đặt tựa cho thấy bài viết của tác giả mang tính quảng cáo sản phẩm, hơn là một nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Ngày xưa khi tôi học vẽ, thày tôi nói: "Khả năng cảm thụ thẩm mỹ của các anh đến đâu thì các anh thể hiện trên tác phẩm đến đấy và luôn cho tác phẩm của mình là tuyệt tác. Theo kiểu 'Vợ người thì đẹp, văn minh thì hay'. Chỉ khi có những bậc thày chỉ ra sai lầm của mình thì mới thấy nó dở".

Thực ra điều này không chỉ giới hạn trong nghệ thuật mà cả nghiên cứu khoa học. Trình độ tới đâu thì khả năng tư duy đến đó và cũng cứ tưởng mình là đúng.

Trường hợp này là một thí dụ. Dở tệ, nhưng lại tự khen mình là đúng nhất?! So với các bài viết khác mà tôi xếp vào dạng tư duy "Ở trần đóng khố" thì bài này không thuộc đẳng cấp nào.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chú Thiên Sứ ơi, Chắc Thảo châu thêm vào đề đấy

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chú Thiên Sứ ơi, Chắc Thảo châu thêm vào đề đấy

Chẳng biết tác giả là ai? Cũng chẳng có nguồn. Chịu!

Nhưng tôi nghĩ Thảo Châu chỉ có thể thêm mấy chữ: "Trả lời cho". Còn đoạn "Kết quả mới nhất..." là của tác giả.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi có thói quen khi pots bài thường ghi rõ chủ đề ngay trong nội dung, ngoài việc ghi chủ để bắt buộc cho một chủ đề mới. Bởi vậy khi xem bài viết của Thảo Châu không xem kỹ chủ đề. Hôm nay xem lại thấy thật buồn cười. Cái chủ đề ghi như sau:

Trả lời cho "Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về cội nguồn phát tích của Việt Tộc"

Bài viết thì nội dung ý trước không ăn nhập gì với ý sau; lập luận thì hoàn toàn áp đặt ý kiến chủ quan, không cần luận cứ hoặc chứng minh. Vậy mà rêu rao là thuyết phục nhất?!Posted Image. Nội cách đặt tựa cho thấy bài viết của tác giả mang tính quảng cáo sản phẩm, hơn là một nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Ngày xưa khi tôi học vẽ, thày tôi nói: "Khả năng cảm thụ thẩm mỹ của các anh đến đâu thì các anh thể hiện trên tác phẩm đến đấy và luôn cho tác phẩm của mình là tuyệt tác. Theo kiểu 'Vợ người thì đẹp, văn minh thì hay'. Chỉ khi có những bậc thày chỉ ra sai lầm của mình thì mới thấy nó dở".

Thực ra điều này không chỉ giới hạn trong nghệ thuật mà cả nghiên cứu khoa học. Trình độ tới đâu thì khả năng tư duy đến đó và cũng cứ tưởng mình là đúng.

Trường hợp này là một thí dụ. Dở tệ, nhưng lại tự khen mình là đúng nhất?! So với các bài viết khác mà tôi xếp vào dạng tư duy "Ở trần đóng khố" thì bài này không thuộc đẳng cấp nào.

Bài này con copy & pase y chang mà. Con đâu có thêm bớt gì đâu Chú.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài này con copy & pase y chang mà. Con đâu có thêm bớt gì đâu Chú.

Oh! Thế thì ai trả lời cho kết quả mới nhất này - khi tôi chưa trả lời?

Trong bài viết không có trả lời, mà chỉ có tác giả đưa luận điểm của mình phần Bách Việt mà không hề có một luận cứ nào gọi là cho có?! Nội họ đặt cái tựa cũng thấy "dở hơi".

Share this post


Link to post
Share on other sites