wildlavender

Chiếc Cầu Thang Kỳ Lạ

2 bài viết trong chủ đề này

CHIẾC CẦU THANG KỲ LẠ

Cầu Thang Thánh Giuse

Tôi theo nhóm người trượt tuyết ngày 31/12/2011 từ Dallas trực chỉ hướng tây bắc tới thành phố Santa Fe, tiểu bang New Mexico, với chủ đích là kiểm chứng ‘Cầu thang Thánh Giuse’ tại nguyện đường Loretta. Đã từ lâu tôi đã nghe nói nhiều về chiếc cầu thang kỳ lạ này, được cho là chính Thánh Giuse kiến tạo, nay có dịp thuận tiện nên mặc dù mùa đông giá lạnh với đường xá nguy hiểm vì băng tuyết, tôi quyết định phải theo nhóm người, vượt ngàn dặm hiểm nguy để có thể tới chứng kiến tận mắt và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai bên Tây bán cầu này.

Nguyện đường Loretta tọa lạc tại số 207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và tới năm 1878 mới hoàn thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao 21 mét 3. Với kích thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretta được coi là một nguyện đường lớn nhất tại Santa Fe, thủ đô tiểu bang New Mexico.

Posted Image

Đức Cha Jean Baptiste Lamy, người Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là Projectus Monly từ Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng thời khuyến khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretta theo mô hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris mà họ đã tham gia trong công tác trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn vì cầu thang sẽ chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.Sau khi khánh thành nguyện đường và cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố thì thực tế đem lại một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ. Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc nới rộng nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giảp pháp này cũng không thể chấp nhận. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Trong cuốn niên giám của Dòng còn ghi lời phát biểu của Bà: “Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ tư hàng tuần để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can thiệp đầy quyền thế của Thánh Giuse”. Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ. Sau khi giao công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên lạc với ông và để mặc ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một phòng học để cầu nguyện và cử hành phụng vụ.

Sau thời gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu. Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu Loretta ở tiểu bang Kentucky, trong sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con lừa với túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây thước và 1 cái búa. Năm 1971, một trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh. Tuy nhiên, như một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề hấn gì. Sau hơn 8 giờ lái xe trong đêm với tốc độ trung bình 120 cây số/giờ, chúng tôi tới ranh giới Texas và New Mexico khi trời hừng sáng. Và kìa, trước mặt chúng tôi và hai bên xa lộ 40, trải dài những cánh đồng tuyết chạy mút tới chân trời. Thảm tuyết bao la phản chiếu ánh mặt trời tạo nên một phong cảnh kỳ ảo khiến chúng tôi có cảm tưởng như đang đi trên một hành tinh nào khác trong giải ngân hà. Quả thực, chúng tôi thật may mắn vì mặc dù vào mùa đông, bầu trời New Mexico lúc này trong sáng với mặt trời trên cao tỏa ánh sáng dịu hiền, làm ấm lòng khách viễn du, nhưng không đủ sức nóng để làm tan chảy những cánh đồng tuyết trải dài từ ranh giới Texas tới thành phố Santa Fe.

Posted Image

Chúng tôi tới nguyện đường Loretto kiến trúc theo kiểu Gothic lúc 4 giờ 30 chiều, đúng vào ngày đầu năm dương lịch và phải đợi khá lâu mới đến lượt vào bên trong nguyện đường vì nhiều đoàn hành hương đã tới trước. Có những đoàn từ các tiểu bang miền Bắc như Minnesota, Michigan, từ miền Đông như New York, Pennsylvania. Chúng tôi cũng gặp 1 đoàn người Việt từ California. Đặc biệt có 2 đoàn, 1 từ Canada và 1 từ Pháp. Điều này cho thấy ‘Cầu thang Thánh Giuse’ đã được biết đến khắp nơi, mỗi năm có khoảng 250 ngàn khách hành hương đến nguyện đường Loretta để xem cầu thang, và đúng như nữ tu Januarius, Giám đốc học viện Loretto năm 1960, cho biết du khách từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu, nghiên cứu và nói rằng họ không thể hiểu làm thế nào một chiếc cầu thang như vậy có thể tồn tại sau gần 1 thế kỷ sử dụng. Quả thực, cầu thang đã thách đố những phân tích khoa học cũng như khoa kiến trúc và ngành thủ công nghệ. Bước qua cửa vào cuối nguyện đường, du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ thuật:-Bàn thờ gỗ được làm từ bên Ý, chạm trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn cho giống màu đá cẩm thạch. Bàn thờ nguyên thuỷ này được đặt trong nguyện đường từ năm 1910 đến nay, hơn 100 năm vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc nổi hình Bữa Tiệc Ly của Leonardo da Vinci.Trong gian cung thánh, phía bên phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay trái cầm cây gậy, tay phải ẵm Chúa Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía bên trái gần bao lơn, có tượng Đức Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu con rắn, chân phải có chuỗi Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng đều có kích thước lớn hơn người bình thường.Hai tượng thiên thần bổn mạng đứng 2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên thần ngồi bưng bình nước thánh lớn là công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân M.M. K. Brokaw nổi tiếng đương thời.-Tượng Trái Tim Chúa Giêsu, đặt trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái Tim Cực Thánh, tay phải xuôi xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai đến với Người.

-Chặng đường Thánh gía hai bên tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân khi diễn tả được nỗi bi thương của Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của ‘quân dữ’. Thực ra, chặng đường Thánh gía là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ 13 nhằm giúp tín hữu, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành trình khổ nạn của Chúa khi vác Thập gía lên đồi Can-vê, nhờ đó những người không biết đọc cũng có thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người. Khởi đầu, người ta dựng những cây thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau và tín hữu dừng lại mỗi chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập gía Chúa đã đi qua. Sau cùng, các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động về chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh gía lên đồi để chịu đóng đinh. Phải chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh gía tại nguyện đường Loretta, chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng khi thực hiện những tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh gía Loretta hiện nay là một kho tàng nghệ thuật vô gía mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những bức tượng và chặng đường Thánh gía đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ vào khuôn, nung trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ bằng tay. Kỹ thuật sơn kính màu tại nguyện đường Loretta đã đạt tới mức hết sức tinh vi, không thua gì các thánh đường nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ Đào Nha, nhà thờ Thánh An-tôn Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường Thánh I-nha-xi-ô Loyola Tây Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame Paris ở Pháp, những nơi mà tôi có dịp viếng thăm trong chuyến hành hương Fatima-Lộ Đức tháng 10 năm 2011. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu tượng của Chúa Giêsu bằng 2 cây Thánh gía đặt chéo lên nhau với ánh hào quang màu xanh dương. Hai bên phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa Ki-Tô là khởi đầu và là sau hết. Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng lớn, được gọi là ‘Rose window’, vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào kính Đức Mẹ Maria vì khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại Kentucky, các nữ tu đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn, một vẽ ảnh Thánh Stanislas ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu nữ, một vẽ ảnh Thánh Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng các trinh nữ và các nữ sinh. Tuy nhiên, đích điểm của khách hành hương chính là ‘CẦU THANG THÁNH GIUSE’. Thật vậy, suốt thời gian ở trong nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này đến lớp khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên trên, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về sau khi đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.

Cầu thang nằm sát tường bên phải, phía cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi vòng 360 độ, không có cột chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác ca đoàn.Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực (law of gravity) khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh phải lên xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng xi-măng côt sắt. Cầu thang có 33 bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên các bậc thang không có song chắn an toàn khi lên xuống, cũng không có tay vịn. Một nữ sinh thời gian làm cầu thang mới 13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy tên Mary, kể lại rằng chính cô và các bạn là những người đầu tiên bứơc lên cầu thang, nhưng vì sợ qúa nên phải bò lên từng bậc, rồi khi xuống, phải cho hai chân xuống trước, rồi bám bậc phía trên,từ từ trụt xuống. Chính vì thế, sau 7 năm các nữ tu và nữ sinh phải ‘bò lên bò xuống’ các bậc thang để lên gác ca đoàn, Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà thờ chính tòa St. Francis, được mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu thang cũng như quanh gác ca đoàn. Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật. Cầu thang được ráp nối bằng 93 tấm gỗ, dài từ 0.9 đến 1.5 m, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía ngoài (nên có 9 đường nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm bậc thang, 33 tấm kê giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới chân cầu thang. Kỹ thuật ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói, ông thợ không dùng đinh, cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ hình vuông mà thôi. Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, làm thế nào có thể thực hiện được. Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Mặt các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây hơn 100 năm, nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho đây là một loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông vàng lá dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại New Mexico. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn. Chuyên gia Forrest N. Easley, sinh quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học Colorado ngành Lâm học và Mộc học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ và Hải quân Hoa Kỳ trong 40 năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với thành quả và công trình nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi tiếng, có uy tín và được mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra 15 tháng nghiên cứu và phân tích gỗ làm cầu thang Loretto. Ông lấy một mẩu gỗ cầu thang đem vào phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để quan sát, phân tích tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu trúc hình vuông, không giống bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Đây là loại gỗ vân sam (spruce) ‘có một không hai’, vì tất cả các loại gỗ vân sam khác không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ có thể phân loại gỗ này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni. Forrest đề nghị đặt tên khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ thông nên gọi là gỗ vân sam Loretto. Giáo Hội luôn luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu nhiên mà con người không giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu và Giáo quyền tại Santa Fe không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc cầu thang lạ lùng này, chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời cầu nguyện và sự phó thác của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghĩ Thánh Giuse chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng đó.Truyền thống tôn kính Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời các thánh Giáo phụ. Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh đã tỏ ra lòng sùng kính Thánh Cả Giuse cách đặc biệt. Tiêu biểu nhất, thế kỷ 13 có thánh Margaret Cortona, thế kỷ 14 các thánh Bridget Thụy Điển, thánh Vincent Ferrer, thánh Bernardine Siena. Đặc biệt thế kỷ 16 có thánh Teresa Avila, nữ tiến sĩ đầu tiên của Hội Thánh, là tông đồ nhiệt thành với lòng phó thác tuyệt đối vào Thánh Cả Giuse. Bà đã thành lập 17 tu viện và dâng kính 13 tu viện cho thánh Giuse. Qua kinh nghiệm bản thân của bà về những ơn đã nhận được từ Thánh Giuse, thánh Teresa quả quyết:”Tôi thấy không lần nào xin gì cùng Thánh Giuse mà không được. Dường như Thiên Chúa ban cho các Thánh giúp ta việc này việc nọ. Nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin lời tôi, hãy thử mà xem”. Sang thế kỷ 17, Mẹ Đáng Kính Maria Agreda, nữ tu Dòng Thánh Phan-xi-cô, trong mọi khó khăn cũng như nghịch cảnh, lúc nào bà cũng tín thác nơi Thánh Giuse. Trong cuốn sách Thành Trì Thiên Chúa (La mistica ciudad de Dios), bà viết: “Sự cầu bầu của Thánh Giuse thực là mạnh thế, để giúp chúng ta giữ đức trong sạch, gỡ mình khỏi tội lỗi, thêm lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành, khỏi quỷ ma cám dỗ, được sức khỏe phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh khó khăn”.Trong thời cận đại, chúng ta có 2 vị Thánh được coi là Tông đồ nhiệt thành hơn cả của Thánh Cả Giuse: Thánh Daniele Comboni và Thánh Andre Bessette. Cả hai có chung đặc điểm là cùng sinh vào thế kỷ 19 và được phong hiển thánh vào thế kỷ 21, nhưng thánh Daniele qua đời vào thế kỷ 19 và thánh Andre qua đời thế kỷ 20.

1. Thánh Daniele Comboni là một linh mục truyền giáo tại Phi châu, sau làm Giám mục, được phong thánh ngày 5/10/2003. Ngài đã sáng lập Dòng Thừa Sai gồm cả hai ngành nam tu sĩ và nữ tu. Ngay khi khởi đầu việc truuyền giáo tại Sudan, Cha Daniele đã phó thác sứ mạng này cho Đức Mẹ và Thánh Giuse. Trong một cuộc hành trình bằng lạc đà phải xuyên qua những cánh rừng rậm Phi Châu, Cha bị té gẫy nát cả bàn tay và cánh tay. Mặc dù vô cùng đau đớn, Cha Daniele vẫn phải leo lên lưng lạc đà, băng rừng tới bờ sông Nile để được đưa bằng thuyền tới tụ điểm truyền giáo. Sau 82 ngày nằm liệt trên giường điều trị vết thương, Cha trở lại công việc, và ngay lập tức, Cha viết hóa đơn gởi Thánh Giuse, yêu cầu Ngài phải lấy tiền từ ‘ngân hàng Thiên quốc’ bồi thường cho Cha tám mươi hai ngàn quan, nghĩa là mỗi ngày Cha nằm trên giường trị thương và không dâng Thánh lễ được, Thánh Giuse phải trả cho Cha một ngàn quan. Rốt cuộc, Thánh Giuse ‘đành’ phải chi ra số tiền ‘khổng lồ’ đó. Tiếp theo, không biết từ đâu đến, Cha Daniele nhận được những số tiền lớn, chẳng những Cha có thể trả hết những chi phí chuyên chở, chi phí điều hành 2 nhà ở Cairo, 2 học viện ở Verona và Bắc Ý, thanh toán lương bổng cho nhân viên địa phương và hoàn tất công việc xây cất ngôi nhà dành cho các nữ tu, gồm nhà ở, trường học và vườn trẻ. Đúng là Thánh Giuse quá rộng lượng, đã trả cho Cha Daniele cả vốn lẫn ‘4 lời’.

2. Thánh Andre Bassette là Thày trợ sĩ Dòng Thánh Gía. Ngài sinh ngày 9/8/1845 trong một gia đình lao động gồm 10 anh chị em (2 người mất sớm), mồ côi cha năm lên 9 và mồ côi mẹ năm lên 12. Thuở nhỏ Ngài ít được đi học, chỉ biết đọc biết viết, và để mưu sinh, cậu bé Andre suốt 13 năm phải làm nhiều nghề khác nhau: thợ thiếc, thợ rèn, thợ sửa giầy, thợ làm bánh, v.v. và có thời gian phải sang Hoa Kỳ kiếm sống. Tuy nhiên, cậu Andre rất có tâm hồn đạo đức. Khi nào có chút giờ rảnh, cậu đều qùy gối cầu nguyện trước Thánh Gía, và khi có cơ hội, cậu đem Thánh kinh nói chuyện với bạn bè. Ngoài ra, cậu có lòng kính mến Thánh Giuse đặc biệt. Năm 25 tuổi, nhờ sự giới thiệu của cha xứ và nhất là sự can thiệp của Đức Cha Ignace Bourget, thanh niên Andre được nhận vào Nhà Tập. Thày Andre khấn trọn đời ngày 2/2/1874 khi 28 tuổi. Trong suốt 40 năm, công việc chính của Thày là gác cổng trường College de Notre Dame Montreal. Thày thường nói đùa :“khi tôi đến, người ta chỉ cho tôi cái cổng và tôi ở đó suốt 40 năm”. Ngoài công việc chính, Thày Andre còn làm những việc không tên như lau nhà, lau đèn nhà nguyện, lau cửa kính, vác củi, chạy thơ, v.v. Thày cũng được giao nhiệm vụ đi thăm các học sinh bị bệnh, và cũng nhờ công việc này, không bao lâu, Thày nổi tiếng là ‘người làm phép lạ Montreal’, có khả năng chữa bệnh nhờ lời xin của Thày với Thánh Giuse. Khi đến thăm bệnh nhân tại nhà, Thày bảo họ cầu cùng Thánh Giuse rồi xức dầu Thánh Giuse cho họ (dầu lấy từ cây đèn luôn luôn thắp sáng trước bàn thờ Thánh Giuse trong nhà nguyện). Thế rồi càng ngày tiếng tăm Thày Andre, ‘người làm phép lạ’, càng loan truyền khắp nơi khiến hàng ngàn người từ xa kéo đến, và rất nhiều người được khỏi bệnh nhờ Thầy cầu nguyện với Thánh Giuse. Chỉ riêng năm 1916 đã có 435 trường hợp được báo cáo khỏi bệnh mà y giới không giải thích được. Thường ngày Thày Andre phải tiếp khách hành hương từ 8 đến 10 giờ và mỗi năm Thày nhận khoảng 80 ngàn thơ từ khắp nơi gởi đến xin khấn hoặc xin những lời chỉ dạy của Thày. Thày Andre luôn luôn nói với những người đến xin chữa bệnh: “Tôi chỉ là kẻ quê mùa. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi, chắc chắn Chúa sẽ chọn người đó thay tôi”. Câu nói này làm chúng ta nhớ tới câu nói của Thánh Bernadette được Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức: tôi là kẻ ngu dốt nhất trong các người ngu dốt. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi thì Đức Mẹđã chọn người đó rồi. Các Thánh sao mà khiêm nhường đến thế, chẳng bù cho chúng ta, có người còn cho mình ‘thay trời’ (thế thiên) hành đạo. Quả đúng như lời Chúa dạy: ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Khi có người được khỏi bệnh đến cám ơn, Thày Andre trả lời: “Đó là Thánh Giuse chữa. Tôi chỉ là con chó nhỏ của Ngài mà thôi”.Giấc mơ của Thánh Andre là xây một đại thánh đường kính Thánh Giuse. Khởi đầu, Thày Andre quyên góp được số tiền 200 Gia kim và mỗi học sinh trả cho Thày 5 xu tiền hớt tóc. Năm 1904, Thày làm được một nhà nguyện bằng gỗ dài 5,49m, rộng 4.57m gần địa điểm Vương cung thánh đường Thánh Giuse hiện nay. Giấc mơ của Thày Andre đã trở thành hiện thực năm 1924 khi thánh đường Thánh Giuse được xây trên sườn đồi Mount Royal bên cạnh nhà nguyện nhỏ bé của Thày. Năm 1955 thánh đường hoàn thành, cao 263 thước, cao nhất thành phố Montreal và được thánh hiến. Mỗi năm có trên 2 triệu người đến viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse, và nhiều người đến xin ơn đã được như ý nguyện.Thày Andre qua đời năm 1937 lúc 91 tuổi. Hơn một triệu người từ khắp nơi đến kính viếng và đi qua quan tài của Thày để được nhìn Thầy và vĩnh biệt Thày lần cuối. Thi hài Thày Andre được an táng trong Vương Cung Thánh Đường mà Thày đã có công khởi xướng. Thày Andre được ĐGH Gioan-Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 23/5/1982 sau phép lạ ông Carlo Audino khỏi bệnh ung thư năm 1958 nhờ lời cầu bầu của Thày. Ngày 17/10/2010 Chân phước Andre được ĐGH Bê-nê-đic-tô thứ 16 tôn phong hiển thánh sau khi phép lạ thứ 2 được công nhận.Nhân nói đến thời cận đại, không thể không đề cập đến biến cố vĩ đại ngày 13/10/1917 khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6 với ba trẻ tại Fatima và trên bầu trời có Thánh Giuse, Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ cùng xuất hiện bên cạnh mặt trời. Liền sau đó, chị Lucia la lên: trông mặt trời kìa! (Regardez le soleil), và trước sự chứng kiến của khoảng 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa. Từ xưa đến này, ít khi nghe nói đến việc Thánh Giuse hiện ra, nhưng trong thời cận đại, sự kiện Thánh Giuse xuất hiện trên bầu trời cùng với Chúa Giêsu và Đức Mẹ có lẽ nhắc nhở chúng ta rằng Người vẫn luôn luôn quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của mỗi người chúng ta, và sẵn lòngcầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa Giêsu và Đức Mẹ.

Trên đây là truyện các Thánh tôn vinh Thánh Cả Giuse. Đến đây xin độc gỉa lượng thứ cho vì chỉ muốn chứng minh rằng trong cuộc sống đời thường, nếu chúng ta thành tâm cầu khẩn Thánh Giuse, Người sẽ nhận lời. Xin được kể hầu qúy vị một kinh nghiệm mới xảy ra trong gia đình như sau: Tôi có người con gái thứ 3 tên là Trần-Nguyễn Thiên Hương Lan, gọi bằng tên Mỹ là Mary cho tiện và vắn tắt. Mary tốt nghiệp Đại học Dược khoa với cấp bằng Doctor of Pharmacy và đã hành nghề dược sĩ hơn 10 năm. Mới đây một bệnh viện trong vùng cần tuyển một dược sĩ có kinh nghiệm để bào chữa thuốc trị bệnh cho các trẻ em khuyết tật hoặc mắc những bệnh nan y. Mary muốn nộp đơn xin làm nhưng xem ra tiêu chuẩn rất khó. Tôi đã khuyến khích Mary và khuyên Mary cầu nguyện cùng Thánh Giuse. Một tuần sau khi phỏng vấn, Mary nhận được thư từ chối. Mary buồn rầu thông báo cho tôi và nghĩ là chuyện đã rồi nên tôi không quan tâm nữa. Bất ngờ tuần sau Mary gọi điện thoại báo tin vừa được bệnh viện cho hẹn đến làm thủ tục nhận việc. Mary cho biết ngay khi nhận thư từ chối, trong lòng không vui, lại thắc mắc vì sao đã cầu xin Thánh Giuse mà Người không nhận lời, nên theo đúng lời Mary kể, Mary hỏi Thánh Giuse TẠI SAO, sau đó ‘email’ cho bà Giám đốc phòng nhân viên của bệnh viện. Ngay chiều hôm đó, Mary nhận được hồi báo cho biết đã có sự lầm lẫn, và trong số những ứng viên đủ tiêu chuẩn, người được chọn chính là Mary. Mary tin rằng chính Thánh Giuse đã nhận lời cầu xin của mình mà chỉ cho họ nhận ra sự lầm lẫn. Để kết thúc bài viết, xin trích dẫn bài suy ngẫm ngày thứ sáu trong cuốn Tuần cửu nhật kính Thánh Giuse do nhà sách Trái Tim Đức Mẹ tái bản năm 1993 mà không thấy tên tác gỉa: “Muốn biết thế lực Thánh Cả trên Thiên Đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc Người đã làm xưa trong Nhà Nazarét. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Người đã xếp đặt mọi công việc cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng đã lấy làm hạnh phúc được vâng lời Người trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng cho bằng làm vừa lòng đẹp ý Người luôn. Ấy là thế lực Người ở trần gian, huống chi trên Thiên Đàng, quyền uy Người còn lớn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh quang, Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Người? Tất nhiên lời cầu nguyện của Người phải mạnh thế dường nào! Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi tay, suốt ba mươi năm, đã làm lụng vất vả để nuôi Mình, rày chắp lại van xin, thì cầm lòng sao được mà chẳng mau kíp ban ơn?”

Tháng Thánh Giuse 2012

Trần văn Huyến

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một ngày đầu tháng chạp năm 1878. Mặt trời mùa đông chiếu lấp lánh trên mái ngói đỏ tươi của ngôi nhà nguyện Đức Mẹ Ánh Sáng và trên cửa sổ trường học của các nữ tu Loretto. Bên trong tu viện, Mẹ Bề Trên đang bận sắp xếp đồ đạc để đi xa thì nghe tiếng gõ cửa. Mẹ nói "Cứ vào đi" nhưng có vẻ hơi bực bội vì phải ngưng công việc lại.

Sơ Frances Louise xin lỗi và bước vào:

- Thưa Mẹ, lại một người thợ mộc khác mới đến. Con bảo ông ấy là Mẹ sắp đi bây giờ, không có thì giờ nói chuyện với ông, nhưng ông ấy nói...

- Tôi biết ông ấy nói gì rồi, - Mẹ Magdalene trả lời - Chắc ổng nói ổng là thợ khéo nhất vùng New Mexico, ổng biết cái khó khăn của ngôi nhà nguyện mới cất của chúng ta, ổng chắc chắn là có thể làm được cái cầu thang lên gác đàn, mặc dầu cái ông kiến trúc sư giỏi giang ở mãi tận Paris đã vẽ họa đồ xây cất nhà nguyện mà lại đãng trí quên không để chỗ làm cầu thang, và có tới năm ông thợ cả đã đến thử mà làm không được. Sơ nói đúng đấy, tôi không có thời giờ nghe lại câu chuyện đó nữa đâu.

- Nhưng coi ổng thật tử tế, ổng đang ở ngoài kia cạnh con lừa... Sơ Frances Louise nói tiếp.

- Tôi biết chắc ổng là người tử tế rồi, và cả con lừa cũng dễ thương nữa. Nhưng bệnh đang hoành hành ở Santo Domingo, có thể là bệnh tả. Sơ Mary Helen và tôi phải đi bây giờ vì chỉ hai chúng tôi đã bị bệnh đó rồi nên được miễn nhiễm. Trong lúc chúng tôi đi xa, sơ ở nhà phải coi sóc trường học. Chỉ vậy thôi. Sơ nói với ổng trở lại trong khoảng hai hay ba tuần nữa.

Nói xong Mẹ cất tiếng gọi:

- Manuela!

Một cô bé da đỏ khoảng 12 tuổi, tóc đen láy, rón rén bước vào không gây một tiếng động. Cô bé bị câm nhưng có thể nghe và hiểu. Các dì phước đã cố dậy nhưng cô không nói được. Mẹ bề trên nói thật dịu dàng:

- Manuela, con mang đồ đạc của mẹ ra xe đi. Xe ở ngoài kia kìa.

Rồi bà quay sang sơ Frances Louise:

- Sơ ra nói với ông thợ mộc là tôi sẽ gặp ổng hai hoặc ba tuần nữa.

- Hai hay ba tuần. Vậy là chắc mẹ sẽ về vào dịp Giáng sinh?

- Còn tùy theo ý Chúa. Nhưng tôi cứ hy vọng như vậy.

Từ chỗ cỗ xe đang đậu, Mẹ bề trên nhìn thấy ông thợ mộc đứng kia. Đó là một người khỏe mạnh cao lớn hơn những người Mễ quanh vùng, ông để râu, đôi mắt đen trên khuôn mặt dạn dầy sương gió. Cạnh ông đứng thật nhẫn nại một con lừa nhỏ da màu xám tro lưng đeo đồ nghề thợ mộc và những khúc gỗ. Cô bé Manuela đang đứng vuốt ve cái mũi con lừa và nhìn người thợ mộc mỉm cười e lệ.

- Sơ nên giải thích cho ông thợ biết là con bé nghe được nhưng không nói được.

Sau những lời từ biệt vội vã, chiếc xe ngựa đi theo hướng tây nam trên con đường đầy bụi về phía những rặng núi. Bên trái là dòng sông Rio Grande như một giải lụa xanh. Chiếc xe chạy chậm chậm. Trong xe, Mẹ bề trên và sơ Mary Helen hát thánh ca và kể chuyện Giáng Sinh, người tài xế dạn dày sương nắng chăm chú nghe, thỉnh thoảng gật gù cái đầu ra vẻ thích thú.

Hai ngày sau họ tới San Domingo mới thấy không có bệnh dịch tả nhưng là bệnh sởi, nhưng cũng đã gây chết chóc cho bao nhiêu em bé da đỏ. Họ làm việc luôn tay để phụ giúp với cha Sebastian lúc đó đã mệt nhoài. Họ đến thăm các em bé bị sốt đang cố chống chọi với căn bệnh chết người trong các ngôi nhà tối tăm vách làm bằng đất nện.

Trở lại Santa Fe nơi tu viện mà sơ Frances Louise có nhiệm vụ phải báo cho ông thợ mộc những lời Mẹ bề trên đã dạy là hai hay ba tuần nữa hãy trở lại. Ông quay lại nhìn khi Sơ bước tới. Sơ cảm thấy thật nhỏ bé như một đứa trẻ dưới cái nhìn chăm chú của ông.

- Thưa ông, Mẹ bề trên phải đi Santo Domingo Pueblo vì đang có bệnh ở đó, hai ba tuần nữa Mẹ mới về, lúc đó ông hãy tới.

- Vậy thì tôi không trở lại được đâu, nhưng tôi đã coi nhà nguyện rồi và chắc sẽ làm được cái cầu thang lên gác đàn. Thang sẽ có hai vòng trôn ốc và 33 bậc.

Sơ Frances Louise cãi lại:

- Nhưng đã có tới năm ông thợ chính không làm được. Họ bảo không có chỗ để làm trụ cho cầu thang dựa vào, vậy tại sao ông lại chắc là ông làm được?

Một lần nữa đôi mắt ông nhìn Sơ chăm chú, nhưng rồi ông mỉm cười và nói:

- Thang tôi làm không cần trụ dựa, và tôi làm được. Cứ tin tôi đi.

Thật là chuyện trớ trêu đây. Sơ không có quyền cho người lạ mặt này làm cầu thang, nhưng thâm tâm lại tin chắc ông làm được. Sơ tin ổng. Mẹ bề trên chắc phải vui lắm nếu dùng được gác đàn hôm khánh thành nhà nguyện vào mùa xuân tới. Vậy Sơ nên làm gì bây giờ?

- Tôi không làm rộn ai cả. Ngay cả Sơ cũng không biết có tôi ở đây đâu. Nhà nguyện thật đẹp, chỉ thiếu cái thang lên gác đàn, mà tôi thì làm được.

Sơ nghĩ bụng: Hai ba tuần nữa thì ông ấy không trở lại. Vậy đây là cơ hội duy nhất để hoàn thành ngôi nhà nguyện theo đề án của một kiến trúc sư người Pháp nổi tiếng. Cứ tưởng tượng sau bao ngày bực bội mà nay lại dùng được cái gác đàn thật đẹp....

- Tôi không có quyền cho ông làm cầu thang đâu, nhưng bây giờ tôi bảo ông cứ làm đi.

Người thợ mộc mỉm cười nói:

- Sơ sẽ không phải ân hận đâu. Tôi bắt đầu ngay bây giờ đây.

Ông quay lại Manuela, đặt bàn tay lên đầu cô bé. Sơ vội nói là cô bé bị câm nhưng nghe và hiểu được. Ông trả lời:

- Vâng, tôi đã biết về Manuela rồi. Tôi phải đi làm đây. Nói xong ông hạ đồ nghề xuống khỏi lưng lừa.

Sơ Frances Louise bước những bước run rẩy trở lại tu viện, dường như không tin được những gì nàng mới làm. Mẹ bề trên sẽ nói gì với Sơ khi trở về? Quả thật người thợ mộc là người xa lạ nhưng nàng tin tưởng hoàn toàn nơi ông. Thâm tâm nàng tin rằng ông ấy nói được là làm được. Sơ quyết định không lo nghĩ gì nữa, phó mặc mọi sự nơi tay ông vì nàng nghĩ ông làm được. Công việc của Sơ bây giờ là lo điều hành trường học thôi. Nhưng Sơ thấy Manuela đang phụ giúp người thợ mộc đem đồ nghề vào nhà nguyện. Ông có vẻ quý mến con bé, và biết con bé bị câm ngay cả trước khi nàng nói cho ông hay. Ông quả thật là một người kỳ lạ.

Công việc ở trường và các việc khác chiếm hết thì giờ, làm nàng không có lúc nào rảnh rỗi. Sơ biết ông thợ mộc đang làm trong nhà nguyện vì mỗi khi đi ngang qua đó nàng nghe tiếng đục đẽo. Sơ cũng biết lúc nào không thấy Manuela là chắc cô bé đang ở trong nhà nguyện coi ông thợ làm việc. Con bé có vẻ quyến luyến người thợ lạ mặt này. Nhiều ngày trôi qua sơ mới có dịp thăm ngôi nhà nguyện và thấy công việc đã tiến hành.

Chiếc cầu thang bắc từ nền nhà đã lên tới gác đàn! Mặc dầu không biết gì về nghề mộc, nhưng Sơ cũng thấy không có trụ để thang bám vào. Cũng không có cả tay vịn, nhưng các bậc thang xoáy tròn vỏ ốc từ mặt đất lên tới gác đàn. Ông thợ mộc đã làm đúng như lời hứa. Sơ bước lên một vài bậc thang xem có chịu nổi sức nặng hay không. Các bậc thang quả thật rất chắc chắn. Thế sao ông ấy làm được trong khi bao nhiêu ông thợ giỏi đều chịu thua? Sơ không biết, nhưng ông ấy hình như có những hiểu biết và khả năng mà những người thợ mộc khác không có.

Sơ biết mình phải báo cho Mẹ bề trên biết rằng người thợ mộc đang làm ở nhà nguyện nhưng phải đợi đến lúc Mẹ về mới có thể giải thích mọi sự việc. Sơ bắt buộc phải viết một lá thư cho Mẹ. Sơ cảm thấy có lỗi vì đã tự tiện cho phép người thợ mộc làm cầu thang, nhưng cả ngày bận rộn công việc, tối đến thì mệt mỏi lăn ra ngủ khi đầu vừa chạm gối.

Sơ biết người thợ cần thêm gỗ nhưng không hỏi ông lấy gỗ ở đâu. Sơ viết một lá thư khác cho Mẹ bề trên, nói rằng công việc đang tiến triển khả quan. Sơ hy vọng Mẹ sẽ mau về vì cảm thấy cái lỗi của mình quá nặng không sao kham nổi, sơ sẽ thú lỗi với mẹ vì việc đã làm.

Thế rồi một ngày Manuela tới và dẫn Sơ ra nhà nguyện. Có điều gì không ổn chăng? Sơ do dự không muốn vô, nhưng Manuela lấy tay đẩy nàng đi vào cửa. Nhà nguyện trống vắng, nhưng khi ngước mắt nhìn chiếc cầu thang thì nàng dụi mắt như không tin ở đôi mắt mình: sừng sững trước mặt là một chiếc cầu thang xoáy trôn ốc từ nền nhà lên tới gác đàn đã hoàn tất! Nó rất đẹp khiến nàng tưởng tượng như có các thiên thần đi lên đi xuống cất cao giọng hát mà âm thanh đang văng vẳng đâu đây...

Ngày mai là giáp lễ Giáng sinh và như vậy năm nay các học sinh trong trường có thể từ cầu thang này đi lên gác đàn hát những bản thánh ca. Giọng của chúng sẽ trầm bổng như giọng các thiên thần ca hát từ trên cao. Và ôi, nếu Mẹ bề trên có mặt để mà nghe chúng ca hát . Dòng nước mắt vì quá vui chảy trên đôi má Sơ, nàng kéo Manuela đi ra khỏi nhà nguyện.

Nhưng người thợ mộc đâu rồi? Sơ phải tìm ông ấy. Sơ không biết tên ông, và cũng không có thỏa thuận phải trả ông bao nhiêu để làm công việc này. Tiền thì đã có quỹ trường học đài thọ. Nhưng phải tìm ra ông ấy đã.

- Manuela, con có thấy ông thợ mộc đâu không?

Con bé gật đầu, đưa tay ra dấu là ông ấy đi rồi.

- Ông có mang theo đồ nghề và dẫn con lừa theo không?

Con bé gật đầu.

- Ông ấy mới đi chiều nay à?

Một lần nữa, cô bé lại gật đầu. Bỗng dưng, sơ Frances Louise biết là sẽ không bao giờ gặp ông ấy nữa. Ông ấy đến làm xong một việc mà không ai làm được và rồi đi mất.

Tại San Domingo. Đêm xuống, cả Mẹ bề trên và dì phước Mary Helen đều mệt nhoài, nhưng đôi lúc Mẹ cũng nói chuyện với cha Sebastian về lễ khánh thành ngôi nhà nguyện mới xây dự tính vào khoảng tháng tư và Đức Tổng Giám Mục sẽ tới. Lẽ ra lễ thánh hiến sẽ sớm hơn nếu không có chuyện cái gác đàn không ai lên được trừ phi phải bắc thang mà trèo! Mẹ nói:

- Tôi đã nói với Đức Giám Mục Lamy rằng đề án mà vẽ mãi tận Paris là cả một lỗi lầm. Nếu có gì trục trặc thì chúng tôi biết làm sao? Nhưng ngài nói rằng nhà nguyện của chúng tôi ở Santa Fe là rập khuôn theo ngôi nhà nguyện Sainte Chapelle tại Paris, nên tôi là ai mà dám cãi lại ngài? Vậy là cái ông Mouly tài ba vẽ ra cái gác đàn quá cao ngay bên trên cái cửa sổ màu hồng làm chẳng ai trèo lên được.

Cha Sebastian thở dài nói:

- Có lẽ ông ấy nghĩ là để dành cho ca đoàn thiên quốc hát đấy. Loại ca viên có cánh ấy mà.

Mẹ bề trên đáp:

- Thật chẳng thú vị vậy đâu. Tôi đã cầu nguyện rồi cầu nguyện, nhưng không thấy có giải pháp nào cả. Đơn giản là vì không có chỗ trên nền nhà nguyện để làm nơi tựa cho một loại cầu thang như thế.

Ngày qua ngày, lễ Giáng sinh đã gần kề. Hai lần, người cỡi ngựa từ Santa Fe đến Alberquerque mang thư của Sơ Frances Louise tới. Mọi chuyện ở tu viện đều đâu vào đấy cả, nhưng Mẹ bề trên có thắc mắc về mấy đoạn trong thư: "Các em nhỏ đã sửa soạn mừng Giáng sinh. Cô bé Manuela và người thợ mộc rất thân thiện với nhau. Thật kỳ lạ là ông ấy hình như biết rất nhiều về chúng ta."

Mẹ tự hỏi: Ông thợ mộc làm gì ở đấy nhỉ?

Bức thư thứ hai đến cũng có đề cập đến người thợ mộc: "Mỗi sáng ông lại mang gỗ đến, rồi mỗi đêm ông ấy lại đi. Khi chúng con hỏi để trả tiền cây và công thợ, ông ấy chỉ mỉm cười không nói."

Không biết Sơ ấy nói chuyện gì đây. Hay là lại nhẹ dạ mà cho cái ông ấy làm ở nhà nguyện? Mẹ quyết định phải trở về xem sự thể ra sao. Lúc đó, bệnh tình ở San Domingo đã ổn định, và tuyết có thể rơi làm cản lối về trước ngày lễ Giáng sinh. Vậy là họ sửa soạn cho chuyến trở về.

Tuyết rơi xuống thật, làm chuyến về rất chậm. Khuya ngày giáp lễ Giáng sinh, mãi gần nửa đêm những con ngựa mệt mỏi mới ngừng lại trước cửa tu viện. Đèn vẫn còn thắp sáng. Manuela chạy vù xuống các bậc thềm, theo sau là dì phước Frances Louise. Mặc dầu thấm lạnh và mỏi mệt, Mẹ bề trên cảm thấy có nỗi nao nức gì quanh đây mà bà không hiểu nổi.

Và bà cũng không hiểu nổi khi họ dẫn bà, vẫn còn đang mặc áo choàng ấm quấn quanh người, xuống dãy hành lang đi tới ngôi nhà nguyện còn mới tinh khôi. Mấy ngọn đèn cầy leo lét cháy. Sơ Frances Louise thì thầm vào tai mẹ:

- Thưa mẹ, coi kìa. Nhìn coi kìa!

Trông giống như một cuộn khói, chiếc cầu thang đứng sững trước mặt họ như trong một giấc mơ. Đế thang nằm trên nền nhà nguyện, còn đỉnh thì sát vào gác đàn. Nó không tựa vào đâu, mà cứ như trôi trong không gian. Không có cả tay vịn. Thang có hai vòng tròn trôn ốc, màu gỗ sơn bóng loáng chập chờn dưới ánh bạch lạp. Dì phước Frances Louise thì thầm:

- Ba mươi ba bậc, mỗi bậc là một năm trong đời Chúa.

Mẹ bề trên bước tới như người đi trong mơ. Bà đặt một chân trên bậc thứ nhất, rồi bậc thứ hai và bậc thứ ba. Không cả một tiếng rung rinh. Bà nhìn xuống cô bé Manuela đang ngước mặt lên.

- Không thể được! Thời giờ đâu mà làm xong được!

Sơ Frances Louise nói:

- Ông ấy mới làm xong ngày hôm qua. Hôm nay ông không đến. Không ai thấy ông ở Santa Fe cả. Chắc là đi rồi.

- Nhưng ông ấy là ai mới được chứ? Sơ cũng không biết tên ông ấy à?

Dì phước lắc đầu, nhưng Manuela bước tới, gục gặc cái đầu ra vẻ quả quyết. Miệng cô bé há ra, nó hít một hơi thở mạnh và phát ra một thanh âm giống như tiếng hổn hển. Hai dì phước nhìn bé chăm chăm. Cô bé cố một lần nữa, và lần này miệng nó phát ra một vần, rồi một vần nữa:

- Jo--se

Cô bé níu lấy tay Mẹ bề trên và lặp lại cái tiếng đầu tiên mà bé nói được: "Jose"

Dì phước Frances Louise làm dấu thánh giá, còn mẹ bề trên thấy lòng mình thắt lại. Jose là tiếng Tây ban nha, có nghĩa là Giuse. Giuse Người Thợ Mộc. Giuse, Người Thợ Cả..

- Jose! Mắt Manuela ứa lệ. Jose!

Tất cả đều im lặng trong ngôi nhà nguyện dưới bóng đèn leo lét. Không ai cử động gì. Mẹ Magdelene nghe tiếng chuông nửa đêm vọng lại qua thành phố đầy tuyết trắng bao phủ. Bà đi xuống khỏi cầu thang, nắm tay cô bé. Bà thấy như được nâng bổng lên cao bằng nỗi bàng hoàng kỳ diệu, lòng tri ân và tình thương mến. Bà biết đó là gì rồi, đó là tinh thần của ngày lễ Giáng sinh đang tỏa ngập quanh ba người●

Ghi Chú:

1/ Đây là một truyện truyền kỳ, và giống như bao nhiêu truyện truyền kỳ khác, đều được kể đi kể lại mỗi lần lại thêm một ít chi tiết. Nhưng chiếc cầu thang này có thật, và vẫn còn ở Santa Fe, thủ phủ tiểu bang New Mexico.

Sơ Mary Magdelene là Mẹ Bề Trên đầu tiên của Nhà Nguyện Đức Mẹ Ánh Sáng (Our Lady of Light) và ngôi trường học do các dì phước dòng Loretto điều hành. Bà đến Santa Fe năm 1852 bằng tầu thủy và xe ngựa. Lúc đó Giám Mục Santa Fe là J.B. Lamy. Kiến trúc sư vẽ kiểu nhà nguyện là ông Projectus Mouly ở Paris. Hồ sơ trường học không thấy có ghi khoản tiền trả cho chi phí làm chiếc cầu thang, cũng không thấy ghi ai là người đã làm cầu thang đó nơi khoảng trống nhỏ bé tưởng không thể làm cầu thang được, khiến cho du khách đến thăm ai cũng lắc đầu và các kiến trúc sư ai cũng chăm chú nhìn và nói: "Không thể được!"

2/ Khi ngôi nhà nguyện sắp hoàn thành, thợ mộc mới thấy cái gác đàn cao quá, sát ngay trần nhà, và nếu làm chiếc cầu thang đi lên thì chiếm mất quá nhiều chỗ trên nền nhà nguyện. Trong cơn bối rối các dì phước hướng tới thánh Giuse, quan thày những người thợ mộc, và làm một tuần cửu nhật cầu xin Người. Đến ngày thứ chín, một người lạ mặt xuất hiện xin làm thử cầu thang. Mất từ 6 đến 8 tháng và chỉ dùng có một cái cưa, một cái búa, một thước thợ hình chữ T, một cái thùng để ngâm gỗ, người thợ hoàn thành kiệt tác thật lạ lùng này. Ông thợ đi mất trước khi mẹ bề trên Magdelene trả tiền công cho ông.

Cầu thang cao 22 feet (khoảng 7 mét). Các bậc thang không có điểm tựa ở trung tâm, kết thành hai vòng tròn 360 độ, tổng cộng là 33 bậc. Các đường vòng cung được ráp nối hết sức tinh vi, gỗ được nối ghép bẩy chỗ ở phía trong, chín chỗ ở phía ngoài, không dùng một chiếc đinh sắt nào mà toàn dùng những miếng chốt bằng cây. Gỗ làm cầu thang lấy từ cây thông loại cứng không thấy có tại New Mexico. Tay vịn cầu thang sau này mới được thêm vào để thêm an toàn cho người xử dụng.

3/ Nhà nguyện hiện nay đổi tên là Nhà Nguyện Loretto (Loretto Chapel), được coi là kiến trúc Gothic đầu tiên tại miền tây Mississipi. Một công ty tư nhân điều hành nhà nguyện cho khách hành hương và du khách. Nhiều đám cưới được tổ chức tại đây, cô dâu chú rể thích chụp ảnh đứng trên giữa cầu thang nhìn xuống.

Địa chỉ nhà nguyện: 207 Old Santa Fe Trail, Santa Fe, NM 87501. Số điện thoại: 505-982-0092

Phạm Hoàng Nghị

viết theo Arthur Gordon

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay