Posted 12 Tháng 3, 2012 Hôm nay lang thang vào xem lại hình ảnh xưa về VN, đọc bài này thấy cũng hay! Rất mong bác Lãn Miên vào góp sức vì bài viết của tác giả cũng vận dụng những kiến thức về ngôn ngữ học và biến âm Hán - Việt, những kiến thức chuyên môn của ngôn ngữ học! Tảnmạn về bức vẽ ‘Hiếu-Ức-Quốc’ (phần1) (Họa phẩm cổ nhất liên hệ đến ViệtNam/Đại Việt) Họa phẩm bên dưới cho thấy hình ảnh các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc - dịch âm HánViệt/HV trực tiếp từ chữ Trung Hoa/TH bên góc phải - rất đáng chú ý từ nhiềuphương diện. Phần này tóm tắt cách nhìn từ quá trình phục hồi âm cổ để đưa ramột giải thích, hi vọng sẽ thấy được nghĩa chính xác hơn của cụm từ‘Hiếu-Ức-Quốc’ này. 1. Bức tranh này được đăng trên mạng ‘Việt Nam hìnhảnh xưa’ của Nguyễn Tấn Lộc1, trích lại từ cuốn “Đất Việt Trời Nam”của tác giả Việt Điểu Thái Văn Kiểm - xuất bản ngày 22-08-1960 tại Sàigòn. Theolời trích thì ‘…Một họa phẩm danh tiếng của Lý-Công-Lân hay Lý-Long-Miên, ngườiđất Chu, đại thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩalà nước của những người có lòng hiếu thảo, tức là nước Đại Việt…’. Đọc xong lờigiải thích, người viết rất thắc mắc vì có thể Hiếu-Ức-Quốc chỉ là dạng phiên âm(của một tiếng ngoại quốc dùng các âm Hán Trung Cổ) chứ không mang nghĩa đặc biệtgì cả, như những ghi nhận sau đây. 2. Hiếu2 HV đọc là xiào (theo pinyin/phiên âm Bắc Kinh/BK) bây giờ. Ức HV đọc là yì BK bây giờ, nghĩa là trước ngực -ngực với phụ âm đầu ng- và phụ âm cuối –c cho thấy một dạng âm cổ hơn. Quốc HVđọc là guó BK bây giờ, dạng HV vẫncòn duy trì âm cuối –c3. Hiếu/xiào có dạng âm Hán Cổ ra sao ? Thật ra hiếu HV đã là một dạng âm cổ còn duytrì trong tiếng Việt. Ta có thể tìm thêm vài manh mối trong các từ có chữ hiếulàm thành phần hài thanh/HT sẽ thấy rõ hơn. Hao HV viết bằng bộ khẩu hợp vớichữ hiếu HT là la hét, mà tiếng Việt còn có từ gào (thét), cũng như các từ HVkhác như khiếu (kêu to) . Thêm vào đó là liên hệ rất gần4 giữa haiphụ âm h và k để ta có thể khôi phục âm cổ của hiếu/xiào là *khjô/kjô – so vớidạng âm Hán Trung Cổ thường thấy là *kheo (phiên âm theo tiếng Việt). Còn ức/yìcó dạng âm Hán Cổ ra sao? Ta để ý yì cònlà giọng BK cho dịch/*diệt hay cũng là âm Hán Trung Cổ với phụ âm cuối –t :thành ra hai âm hiếu ức, ngược dòng thời gian hơn 1000 năm, có thể đọc như là *kjô *diệt. Hai âm này rất gầnvới hai âm CồViệt (đọc theo giọng Nam), tên của nước Việt Nam thời ĐinhBộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (968) – tên này được dùng nhiều năm sau đó – phù hợpvới khoảng thời gian bức họa của Lý-Công-Lân ra đời (thời Tống 960-1279 SCN).Đại trong Đại Cồ Việt chỉ là tiếng thêm vào cho oai vệ như các cách dùng (nước)Đại Hán, Đại Thanh, Đại Nam, Đại Việt, Đại Pháp, Đại nhân … Ngay cả trong tiếngAnh thuộc họ Ấn-Âu ta còn thấy nước Anh gọi là ‘Great Britain’ (nước Đại Anh). 3. Trong cách phiên âm của tiếng nước ngoài vào tiếngTH, ta nhận thấy những trường hợp như sau : nước Mĩ/Mỹ là Mỹ Quốc HV hay MĕiguóBK, mĕi là mỹ (đẹp); Nước Pháp là Pháp Quốc HV hay Făguó BK, fă là pháp(luật) …v.v… Các âm Mỹ hay Pháp đều là âm tương đương của me- (trong chữ America, dấunhấn vần thứ hai a-me’-ri-ca) và âm rút gọn của Pha-Lăng-sa (France, âmđầu). Nếu dựa trên các chữ mỹ để giải thích nước Mĩ/Mỹ có nhiều người đẹp, haynước Pháp có nhiều luật lệ thì e không được ổn cho lắm : ta đã lầm phiên âmthành ra phiên nghĩa…v.v… Đây có thể là trường hợp của “Hiếu-Ức-Quốc” ghi trongphần 1 ở trên. 4. Một lầm lẫn rất thường gặp là dùng hệ thống âmthanh hiện tại để gán ghép vào hệ thống âm thanh trong quá khứ, nhất là khikhoảng cách thời gian rất lớn (như cả ngàn năm đã qua chẳng hạn). Ngôn ngữ conngười luôn luôn thay đổi, theo thời gian để cho các tiếng cổ và theo không gianđể cho các tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ…). Sự thay đổi này còn đượcghi trên giấy tờ rõ ràng như tên thành phố Bắc Kinh, Nam Kinh : thế hệ bây giờthường đọc là Bây-Ching (theo giọng Phổ Thông BK, bĕijīng) hay Nan-Ching(Nánjīng BK), nhưng các báo chí sách vở từ trăm năm qua vẫn thường ghi làPeking, Nanking … và ta vẫn cứ gọi là Bắc Kinh, Nam Kinh khi nói chuyện hàngngày. Bắc HV còn duy trì âm cổ cuối –k (cũng như một số giọng miền Nam TH nhưQuảng Đông, Hẹ) và phụ âm cổ đầu k- của Kinh (thay vì ngạc hoá thành một dạngch-). 5. Cách dùng hiếu ức có vẻ gượng ép, so với những cáchdùng HV khác như hiếu tâm (lòng hiếu thảo5), hiếu tính (tính hiếuthảo của con đối với cha mẹ), hiếu đạo (đạo phụng dưỡng cha mẹ), hiếu thuận(hiếu thảo và phục tùng cha mẹ), hiếu nữ (người con gái có hiếu), hiếu tử (concó hiếu, con đang có tang cha mẹ) …v.v… 6. Cồ7 hay cù HV viết bằng bộ mục, giọng BKbây giờ là jù, qú, qū, jí, jī so với giọng Quảng Đông keoi4, geoi3, geoi6,geoi2 và âm Hẹ là ki1, gi5 … và âm Hán Trung Cổ phục hồi là *kuH (hay *gjuH),rất gần âm cù. Việt HV hay yuè BK có âm Hán Trung Cổ là *hjwot và âm Hán ThượngCổ6 phục hồi là *wjat (rất gần âm Việt, giọng Bắc môi hoá cao độ chora âm v-). Tiếng TH hiện tại không có phụ âm môi xát v- như tiếng Việt. Tómlại, ‘Hiếu-Ức-Quốc’ có thể là phiên âm của Cồ-Việt-Quốc (nước Cồ Việt), phù hợpvới tên nước Việt Namvào khoảng thời gian đó cũng như phù hợp với các cách đọc âm Hán Trung Cổ phụchồi. Phụ chú và phê bình thêm (1) địa chỉ mạng http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm : có nhiều hình ảnh xưa và nay cùng các tàiliệu ít gặp (cập nhật tháng 3 năm 2007 từ lúc lên mạng năm 2000). Bức tranh nàyđược lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris. (2) chữ hiếu viết bằng bộ tử (con), các hình khắc cổtrên giáp cốt văn, kim văn, tiểu truyện … cho thấy một đứa bé (ở dưới) dắt một ông già (râu dài) – nói lên sự tônkính/giúp đỡ người già hay cha mẹ nói riêng. Đây là một chữ mà trong tiếng Anhthuộc họ Ấn Âu không có một chữ hay nhóm chữ nào tương đương (‘filial piety’chỉ là một nhóm chữ dịch gần đúng, cũng như áo dài dịch là ‘long dress’ vậy).Chữ này tóm tắt truyền thống Á Đông chúng ta và có thể viết cả mấy bộ sách vềđề tài này mà vẫn chưa hết ý! Có tác giả (như G. D. Wilder và J. H. Ingramtrong “Analysis of Chinese Characters” 1974) cho rằng chữ hiếu viết bằng bộ tửhợp với chữ lão HT, nhưng bây giờ chữ viết đã thay đổi mà ta chỉ còn một nửachữ lão trong chữ hiếu. Điều này cũng có lý nếu ta để ý các liên hệ ngữ âmlão/khảo, cố, cổ, cũ, cụ, cựu, hủ … cho thấy phụ âm cuối lưỡi và thanh hầu chothấy dạng âm cổ của hiếu có thể là *cổ/cồ (3) các phụ âm cuối vô thanh (voiceless) và tắc (stop)-p/t/k thườnghiện diện trong các tiếng phía Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến,Tiều Châu … và âm Hán Trung Cổ khi phục hồi cũng có các dạng âm cuối này. GiọngBK thường có khuynh hướng mất đi các âm cuối này như các âm yì (ức) và guó(quốc) trên. (4) xem thêm liên hệ h-k trong bài “Nguồn gốc Việt Namcủa tên 12 con giáp - Hợi/cúi – heo (phần 5)” cùng tác giả. Chiều biến âm g/k> h có thể thấy rõ khi so sánh tiếng Phạn (Sanskrit) agama (kinh A-Hàm),ganga (sông Hằng Hà) …Các bài này đăng trên mạng khoahoc.net (các số lưu trữnăm 2006/2007) hay dunglac.net, anviettoancau.net (5) các định nghĩa trích từ cuốn “Hán Việt Tự Điển” –SàiGòn (1960), bản cập nhật (revised edition) – NXB DAINAM (1987), California(USA). (6) theo William Baxter trong cuốn “A Handbook of OldChinese Phonology” – NXB Mouton de Gruyter (1992). Theo Edwin Pulleyblank trongcuốn “Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, lateMiddle Chinese, and early Mandarin” – NXB University of British Columbia(1991), thì âm Hán Trung Cổ phục hồi có dạng wuat. Theo người viết, dạng*diệt/*juat (giọng Nam,môi hoá w- không nhiều) thành ra gần với âm Hán Trung Cổ của ức là *ik/*jiathơn, phản ánh qua cách đọc yì BK bây giờ. (7) Cồ là to lớn : chữ Nôm có những cách viết như cùHV (nghĩa là sợ, một họ người TH), cù HV hợp với chữ cổ, cù HV hợp với chữ đại… Ta có các cách dùng như gà cồ, vịt cồ … Trong “Cư Trần Lạc Đạo” (thế kỷ XIII)có câu ‘…mến đức cồ kiêng bùi ngọt…’. Tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi nhận (tênNôm) Đại-Cồ-Việt trong giai đoạn hình thành chữ Nôm, so với các tên gọi Bố CáiĐại Vương (Phùng Hưng, thế kỷ VIII) trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm” NXBNgày Nay (2002). Chữ cù HV còn được dùng làm thành phần HT trong quá trình cấutạo chữ Hán, hay để phiên âm Gautama (Cù Đàm, Cồ Đàm … một tên gọi của họThích/Sakya - họ của đức Phật Tổ). Link: http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 3, 2012 Hôm nay lang thang vào xem lại hình ảnh xưa về VN, đọc bài này thấy cũng hay! Rất mong bác Lãn Miên vào góp sức vì bài viết của tác giả cũng vận dụng những kiến thức về ngôn ngữ học và biến âm Hán - Việt, những kiến thức chuyên môn của ngôn ngữ học! Tảnmạn về bức vẽ ‘Hiếu-Ức-Quốc’ (phần1) (Họa phẩm cổ nhất liên hệ đến ViệtNam/Đại Việt) Họa phẩm bên dưới cho thấy hình ảnh các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc - dịch âm HánViệt/HV trực tiếp từ chữ Trung Hoa/TH bên góc phải - rất đáng chú ý từ nhiềuphương diện. Phần này tóm tắt cách nhìn từ quá trình phục hồi âm cổ để đưa ramột giải thích, hi vọng sẽ thấy được nghĩa chính xác hơn của cụm từ‘Hiếu-Ức-Quốc’ này. 1. Bức tranh này được đăng trên mạng ‘Việt Nam hìnhảnh xưa’ của Nguyễn Tấn Lộc1, trích lại từ cuốn “Đất Việt Trời Nam”của tác giả Việt Điểu Thái Văn Kiểm - xuất bản ngày 22-08-1960 tại Sàigòn. Theolời trích thì ‘…Một họa phẩm danh tiếng của Lý-Công-Lân hay Lý-Long-Miên, ngườiđất Chu, đại thần đời nhà Tống, miêu họa các sứ giả của Hiếu-Ức-Quốc, có nghĩalà nước của những người có lòng hiếu thảo, tức là nước Đại Việt…’. Đọc xong lờigiải thích, người viết rất thắc mắc vì có thể Hiếu-Ức-Quốc chỉ là dạng phiên âm(của một tiếng ngoại quốc dùng các âm Hán Trung Cổ) chứ không mang nghĩa đặc biệtgì cả, như những ghi nhận sau đây. 2. Hiếu2 HV đọc là xiào (theo pinyin/phiên âm Bắc Kinh/BK) bây giờ. Ức HV đọc là yì BK bây giờ, nghĩa là trước ngực -ngực với phụ âm đầu ng- và phụ âm cuối –c cho thấy một dạng âm cổ hơn. Quốc HVđọc là guó BK bây giờ, dạng HV vẫncòn duy trì âm cuối –c3. Hiếu/xiào có dạng âm Hán Cổ ra sao ? Thật ra hiếu HV đã là một dạng âm cổ còn duytrì trong tiếng Việt. Ta có thể tìm thêm vài manh mối trong các từ có chữ hiếulàm thành phần hài thanh/HT sẽ thấy rõ hơn. Hao HV viết bằng bộ khẩu hợp vớichữ hiếu HT là la hét, mà tiếng Việt còn có từ gào (thét), cũng như các từ HVkhác như khiếu (kêu to) . Thêm vào đó là liên hệ rất gần4 giữa haiphụ âm h và k để ta có thể khôi phục âm cổ của hiếu/xiào là *khjô/kjô – so vớidạng âm Hán Trung Cổ thường thấy là *kheo (phiên âm theo tiếng Việt). Còn ức/yìcó dạng âm Hán Cổ ra sao? Ta để ý yì cònlà giọng BK cho dịch/*diệt hay cũng là âm Hán Trung Cổ với phụ âm cuối –t :thành ra hai âm hiếu ức, ngược dòng thời gian hơn 1000 năm, có thể đọc như là *kjô *diệt. Hai âm này rất gầnvới hai âm CồViệt (đọc theo giọng Nam), tên của nước Việt Nam thời ĐinhBộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (968) – tên này được dùng nhiều năm sau đó – phù hợpvới khoảng thời gian bức họa của Lý-Công-Lân ra đời (thời Tống 960-1279 SCN).Đại trong Đại Cồ Việt chỉ là tiếng thêm vào cho oai vệ như các cách dùng (nước)Đại Hán, Đại Thanh, Đại Nam, Đại Việt, Đại Pháp, Đại nhân … Ngay cả trong tiếngAnh thuộc họ Ấn-Âu ta còn thấy nước Anh gọi là ‘Great Britain’ (nước Đại Anh). 3. Trong cách phiên âm của tiếng nước ngoài vào tiếngTH, ta nhận thấy những trường hợp như sau : nước Mĩ/Mỹ là Mỹ Quốc HV hay MĕiguóBK, mĕi là mỹ (đẹp); Nước Pháp là Pháp Quốc HV hay Făguó BK, fă là pháp(luật) …v.v… Các âm Mỹ hay Pháp đều là âm tương đương của me- (trong chữ America, dấunhấn vần thứ hai a-me’-ri-ca) và âm rút gọn của Pha-Lăng-sa (France, âmđầu). Nếu dựa trên các chữ mỹ để giải thích nước Mĩ/Mỹ có nhiều người đẹp, haynước Pháp có nhiều luật lệ thì e không được ổn cho lắm : ta đã lầm phiên âmthành ra phiên nghĩa…v.v… Đây có thể là trường hợp của “Hiếu-Ức-Quốc” ghi trongphần 1 ở trên. 4. Một lầm lẫn rất thường gặp là dùng hệ thống âmthanh hiện tại để gán ghép vào hệ thống âm thanh trong quá khứ, nhất là khikhoảng cách thời gian rất lớn (như cả ngàn năm đã qua chẳng hạn). Ngôn ngữ conngười luôn luôn thay đổi, theo thời gian để cho các tiếng cổ và theo không gianđể cho các tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ…). Sự thay đổi này còn đượcghi trên giấy tờ rõ ràng như tên thành phố Bắc Kinh, Nam Kinh : thế hệ bây giờthường đọc là Bây-Ching (theo giọng Phổ Thông BK, bĕijīng) hay Nan-Ching(Nánjīng BK), nhưng các báo chí sách vở từ trăm năm qua vẫn thường ghi làPeking, Nanking … và ta vẫn cứ gọi là Bắc Kinh, Nam Kinh khi nói chuyện hàngngày. Bắc HV còn duy trì âm cổ cuối –k (cũng như một số giọng miền Nam TH nhưQuảng Đông, Hẹ) và phụ âm cổ đầu k- của Kinh (thay vì ngạc hoá thành một dạngch-). 5. Cách dùng hiếu ức có vẻ gượng ép, so với những cáchdùng HV khác như hiếu tâm (lòng hiếu thảo5), hiếu tính (tính hiếuthảo của con đối với cha mẹ), hiếu đạo (đạo phụng dưỡng cha mẹ), hiếu thuận(hiếu thảo và phục tùng cha mẹ), hiếu nữ (người con gái có hiếu), hiếu tử (concó hiếu, con đang có tang cha mẹ) …v.v… 6. Cồ7 hay cù HV viết bằng bộ mục, giọng BKbây giờ là jù, qú, qū, jí, jī so với giọng Quảng Đông keoi4, geoi3, geoi6,geoi2 và âm Hẹ là ki1, gi5 … và âm Hán Trung Cổ phục hồi là *kuH (hay *gjuH),rất gần âm cù. Việt HV hay yuè BK có âm Hán Trung Cổ là *hjwot và âm Hán ThượngCổ6 phục hồi là *wjat (rất gần âm Việt, giọng Bắc môi hoá cao độ chora âm v-). Tiếng TH hiện tại không có phụ âm môi xát v- như tiếng Việt. Tómlại, ‘Hiếu-Ức-Quốc’ có thể là phiên âm của Cồ-Việt-Quốc (nước Cồ Việt), phù hợpvới tên nước Việt Namvào khoảng thời gian đó cũng như phù hợp với các cách đọc âm Hán Trung Cổ phụchồi. Phụ chú và phê bình thêm (1) địa chỉ mạng http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm : có nhiều hình ảnh xưa và nay cùng các tàiliệu ít gặp (cập nhật tháng 3 năm 2007 từ lúc lên mạng năm 2000). Bức tranh nàyđược lưu giữ tại viện bảo tàng Emile Etienne Guimet ở Paris. (2) chữ hiếu viết bằng bộ tử (con), các hình khắc cổtrên giáp cốt văn, kim văn, tiểu truyện … cho thấy một đứa bé (ở dưới) dắt một ông già (râu dài) – nói lên sự tônkính/giúp đỡ người già hay cha mẹ nói riêng. Đây là một chữ mà trong tiếng Anhthuộc họ Ấn Âu không có một chữ hay nhóm chữ nào tương đương (‘filial piety’chỉ là một nhóm chữ dịch gần đúng, cũng như áo dài dịch là ‘long dress’ vậy).Chữ này tóm tắt truyền thống Á Đông chúng ta và có thể viết cả mấy bộ sách vềđề tài này mà vẫn chưa hết ý! Có tác giả (như G. D. Wilder và J. H. Ingramtrong “Analysis of Chinese Characters” 1974) cho rằng chữ hiếu viết bằng bộ tửhợp với chữ lão HT, nhưng bây giờ chữ viết đã thay đổi mà ta chỉ còn một nửachữ lão trong chữ hiếu. Điều này cũng có lý nếu ta để ý các liên hệ ngữ âmlão/khảo, cố, cổ, cũ, cụ, cựu, hủ … cho thấy phụ âm cuối lưỡi và thanh hầu chothấy dạng âm cổ của hiếu có thể là *cổ/cồ (3) các phụ âm cuối vô thanh (voiceless) và tắc (stop)-p/t/k thườnghiện diện trong các tiếng phía Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến,Tiều Châu … và âm Hán Trung Cổ khi phục hồi cũng có các dạng âm cuối này. GiọngBK thường có khuynh hướng mất đi các âm cuối này như các âm yì (ức) và guó(quốc) trên. (4) xem thêm liên hệ h-k trong bài “Nguồn gốc Việt Namcủa tên 12 con giáp - Hợi/cúi – heo (phần 5)” cùng tác giả. Chiều biến âm g/k> h có thể thấy rõ khi so sánh tiếng Phạn (Sanskrit) agama (kinh A-Hàm),ganga (sông Hằng Hà) …Các bài này đăng trên mạng khoahoc.net (các số lưu trữnăm 2006/2007) hay dunglac.net, anviettoancau.net (5) các định nghĩa trích từ cuốn “Hán Việt Tự Điển” –SàiGòn (1960), bản cập nhật (revised edition) – NXB DAINAM (1987), California(USA). (6) theo William Baxter trong cuốn “A Handbook of OldChinese Phonology” – NXB Mouton de Gruyter (1992). Theo Edwin Pulleyblank trongcuốn “Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, lateMiddle Chinese, and early Mandarin” – NXB University of British Columbia(1991), thì âm Hán Trung Cổ phục hồi có dạng wuat. Theo người viết, dạng*diệt/*juat (giọng Nam,môi hoá w- không nhiều) thành ra gần với âm Hán Trung Cổ của ức là *ik/*jiathơn, phản ánh qua cách đọc yì BK bây giờ. (7) Cồ là to lớn : chữ Nôm có những cách viết như cùHV (nghĩa là sợ, một họ người TH), cù HV hợp với chữ cổ, cù HV hợp với chữ đại… Ta có các cách dùng như gà cồ, vịt cồ … Trong “Cư Trần Lạc Đạo” (thế kỷ XIII)có câu ‘…mến đức cồ kiêng bùi ngọt…’. Tác giả Trần Văn Giáp cũng ghi nhận (tênNôm) Đại-Cồ-Việt trong giai đoạn hình thành chữ Nôm, so với các tên gọi Bố CáiĐại Vương (Phùng Hưng, thế kỷ VIII) trong cuốn “Lược khảo vấn đề chữ Nôm” NXBNgày Nay (2002). Chữ cù HV còn được dùng làm thành phần HT trong quá trình cấutạo chữ Hán, hay để phiên âm Gautama (Cù Đàm, Cồ Đàm … một tên gọi của họThích/Sakya - họ của đức Phật Tổ). Link: http://nguyentl.free...sommaire_vn.htm Chữ Hiếu孝 Ức 臆 nếu căn cứ vào nghĩa chữ thì không logic với tên quốc gia là “Hiếu với Ngực” (?). Người viết chú bức vẽ có thể đã dùng chữ đồng âm để làm ký âm tên quốc gia đó mà thôi, chưa chọn ra chữ đồng âm nào để ký âm mà nó có vẻ logic một chút (ra một cái nghĩa dễ nghe nào đó) thì tạm lấy đại hai chữ đồng âm đó vậy, người đọc chỉ nghe cái âm chứ không cần để ý đến cái biểu ý của chữ ( cũng giống như kiểu ngày nay Hán ngữ vẫn dùng chữ có sẵn để làm ghi âm các tên riêng của các ngôn ngữ khác, ví dụ Marks thì phiên âm là Mã 馬 Khắc 克 Tư 斯, chớ có hiểu là ông ấy họ Mã 馬). Chữ Hiếu 孝 Ức 臆, tiếng Bắc Kinh phiên âm là Xiao Yi, cũng đồng âm như chữ Tiểu 孝 Dị 異(nhỏ lạ) cũng phiên âm là Xiao Yi. Vậy mượn chữ Hiếu 孝 Ức 臆 hay mượn chữ Tiểu 小 Dị 異 làm phiên âm hợp logic hơn ? để chỉ cái quốc gia nhỏ mà lạ lùng đối với họ là cái nước Việt Nam ? Thời Tống (960- 1279) thì ở Trung Hoa giọng phương Nam vẫn là áp đảo hơn so với giọng phương Bắc. Nhiều chữ giọng phương Nam bắt đầu bằng “H” thì giọng phương Bắc bắt đầu bằng “X”, như chữ Hiền 賢, tiếng Bắc Kinh đọc là Xián 賢 thì Mân ngữ ngày nay như ở Đài Loan vẫn đọc là Hền 賢 (có dấu huyền rõ ràng như người Việt Nam đọc là Hiền 賢). Chữ Tiểu 小 Dị 異 thời đó người Việt đọc là Hẻo Dị. Hẻo=Tẹo=Tiểu 小=Tíu=Xỉu=Xíu=Xiao 小. Tiếng Nam Bộ ngày nay vẫn nói khi chê bé chê ít là “sao hẻo vzậy”. Cái quốc gia nhỏ (Hẻo) mà lại đứng Riêng (Lánh) tức hẻo lánh đối với Trung Nguyên, lại lạ lùng , nên gọi là Hẻo Dị. Dị vốn là từ Việt: Lạ=Lai=Dại=Dã 野 =Dữ=Dị 異 = Kì 奇 (của lai là của lạ, của dã là của dại). Người Nam Bộ vẫn nói “mày làm gì dữ vzậy” nghĩa là “làm cái gì mà kì cục vậy”. Chữ Hiếu 孝, vào năm 100 Hứa Thận giải thích trong “Thuyết văn giải tự” đọc: lướt Hô 呼 Giáo 教 = Háo. Háo này rõ ràng là cái âm Việt đúng nghĩa Việt là yêu, Háo tình, Háo tiền, Háo sắc, Háo ăn (tiếng Tày thì Au nghĩa là Yêu, dòng Rồng - Lạc Long Quân và dòng Tiên – Âu Cơ thành con cháu Tiên Rồng, tiếng Việt có “Ham Au” = Háu = Háo = Hiếu = “Ham Yêu”). Giải thích ngôn từ ở đây không có nghĩa là ông Lạc Long Quân ở Hạ Long lên lấy bà Âu Cơ ở trên Cao Bằng (!). Cái ngôn ngữ tiếng Việt như người Việt Nam vẫn nói ngày nay đã từng tồn tại phổ biến ở nam Dương Tử 5000 năm trước. Chữ Hiếu 孝 của nền văn minh Văn Lang 5000 năm trước ở nam Dương Tử đã trở thành cái đạo trong nền văn minh Trung Hoa. Khổng Tử đã soạn sách có cả phần dịch Hiếu Kinh từ nguyên bản là chữ Khoa Đẩu tàng trong vách nhà Khổng Tử. Đến cuối thời Đông Tấn, Hứa Thận ở Trung Nguyên còn vận dụng các qui tắc trong tiếng Việt là “nói Lướt” (thiết) và “nói Lái” (phản thiết) để làm công cụ giải thích cách đọc chữ cho đúng âm. Chữ Ức 臆 là từ Việt chỉ cái Ngực ( Hán ngữ gọi ngực là Xiong 胸 Bu 部). Ức chỉ cái bên trong đầy đặn, nên Ức = Ngực =Dực 溢 = Nực = Bực =Bức 迫 = Bách, đầy lòng tức dực lòng, tức nóng lòng thì gọi là Bức Bách. Hứa Thận giải thích chữ Bức, đọc: Bác 博 Mạch 陌 = Bách. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 3, 2012 Đây là bức vẽ với tên tranh trên đó: Share this post Link to post Share on other sites