Posted 29 Tháng 2, 2012 Phong Thủy Lạc Việt và Nhà Thờ Thiên Đồng - Bùi Anh TuấnThành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc ViệtTrung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Ghi lại sau một Phong thủy giúp cho nhà thờ T vào những ngày cuối năm Kỷ Sữu 23 tháng chạp năm Kỷ SữuCâu chuyện có nguyên do từ bốn tháng trước, đồng môn Phongphongthay than với tôi rằng con của anh đi học ở nhà trẻ nhưng sức khỏe của bé cũng như những trẻ khác đều không được tốt và anh cảm giác có sự khác lạ gì đó ở tại Trường mẩu giáo X về mặt phong thủy. Vốn cũng thường gặp gỡ cô hiệu trưởng trường nên anh cũng đề cập về chuyện phong thủy. Cô M, hiệu trưởng trường, tỏ vẻ quan tâm và cho biết mặc dù cô là người đạo Công Giáo nhưng vẫn tin phong thủy là vấn đề khoa học. Được sự gợi mở, anh Phongphongthay, sắp xếp một cuộc hẹn cho tôi và anh gặp cô M để bày tỏ ý định muốn giúp nhà trường về mặt phong thủy nhằm cải thiện sức khỏe các bé. Cô M liền bày tỏ sự nhiệt tình muốn cải tạo theo phong thủy. Và tôi đã đưa ra các phương án cải tạo, cô M triệt để làm theo ngoài mong đợi của tôi. Kết quả như ý, chỉ sau hơn 3, tuần các trẻ đều ổn định được sức khỏe rỏ rệt, mạnh khỏe và năng động, hơn nữa công việc của nhà trường cũng trở nên ổn định hơn trước. Từ hiệu quả này, cô M đã một lần nữa nhờ Thiên Đồng đến giúp Cha xứ nhà thờ T cải thiện về mặt phong thủy, sau khi đã thuyết phục Cha với bằng cớ hiệu quả phong thủy tại trường của mình.Tôi gặp Cha trong sự hoan hỷ, đón tiếp giản dị của người tu, kẻ tục. Qua câu chuyện tôi hiểu mục đích của việc cải tạo theo phong thủy nhằm một là cải thiện sức khỏe cho Cha Sứ, hai là sự bình an và ba là giải quyết về một vấn đề hơi nhạy cảm về tâm linh, đó là di chuyển nhà thờ hài cốt đến nơi mới sao cho thích hợp và an lạc. Theo lời cha thuật, các đời cha sứ đến đảm nhiệm ngôi nhà thờ này đều không được an lạc, luôn có chuyện bất thường xảy ra và các cha đều bị bệnh hoạn đau yếu, cũng như hiện nay Cha đang bị bệnh về tim mạch và huyết áp. Sau lời thuật như lời trần tình, tôi xem sơ đồ mảnh đất do Cha đưa, ngạc nhiên thay, rỏ ràng mảnh đất mang hình con dao phay và theo đúng quan niệm “Hình Lý Khí” thì chính hình thể đất là nguyên nhân cho cớ sự. Tuy mảnh đất đều có sổ đỏ sổ hồng, nhưng sự bất an luôn thường trực. Vậy là kế hoạch cải tạo theo phong thủy được vạch ra và “tổng đạo diễn” cũng như ngươi trực tiếp đưa tay chỉ việc, hướng dẫn thực hiện là cô M, được Thiên Đồng chỉ định và Cha xứ tinh tưởng giao “trong trách” cho, góp phúc thiện cho nhà thờ. Bởi, một mặt cô M đã có kinh nghiệm trong việc chỉnh sửa tại trường của cô, mặt khác cũng thể hiện phong thủy không phải là bùa chú, cúng kiến, hay lễ nghi tôn giáo phải do các thầy “thổi phù phù”, mà ngược lại, vấn đề ở đây đơn thuần chỉ là kiến trúc mà thôi. Tuy vậy, về phương diện “cộng đồng xã hội”, việc chỉnh sửa vài chổ trong nhà thờ cũng cần phải mang “lý do hợp lý” và có nhiều sự hạn chế, vì vậy việc thực hiện cũng rất nhẹ nhàng và có những vấn đề như chuyển hướng bếp, cải tạọ phòng ốc phải được sự đồng ý của “ý kiến chung” và phải có “lý do hợp lý” nên vài ý định không thực hiện được, cho nên chỉ giới giới hạn trong việc có thể và rất “kín kẻ”. Mặt khác, một lý do khách cũng gây khó khăn cho việc cải tạo sửa chữa nhà thờ là tài chánh. Khi đi quan sát một vòng nhà thờ, Thiên Đồng hỏi Cha: - Có phải sự đóng góp về tài chánh của giáo dân ở đây rất nghèo và giáo dân đến với nhà thờ cũng ít, mặc dầu nhà thờ tọa lạc nơi thành phố dân cư đông đúc, dân cư xung quanh cũng khá giả? Cha xác định: “Đúng vậy!”.Phân tích địa thế Nhà Thờ Nhà thờ được hướng Phúc Đức trạch theo trục Càn Khôn, Tây tứ trạch, theo Phong thủy Lạc Việt. Cha xứ mạng Khôn cũng chuẩn trạch Phúc Đức. Tuy nhiên Càn cung bị khuyết hãm, do trên thực tế từ cổng vào đến cửa nhà thờ đã trở thanh lối đi chung của khu phố, do vậy Càn cung bị khuyết, chứng tỏ sự ủng hộ hay trợ giúp của giáo dân hay những mạnh thường quân cũng như sự nâng đỡ của các Cha bề trên đối với nhà thờ rất kém. Hình thể của mảnh đất một cách vô tình đã tạo thành hình con dao phay, do vậy theo quan niệm “Hình nào khí đó” thì tính sát của con dao phay này đã và đang phát tác rất mạnh, vì vậy mà các đời Cha xứ đảm nhiệm ở đây đều vướng phải những chuyện không hay về tinh thần cũng như sức khỏe. Thêm nữa con dao phay này lại thêm một cán ở hông, tức hẽm hông, theo như Cha xứ cho biết thì đây cũng là một lối đi chính của giáo dân khi viếng lễ nhà thờ, tạo cho thế đất thêm phần xấu. Do vậy nhiều chuyện rối rấm là hợp lẽ. Ngoài ra, đất có hẽm hông đâm vào là chủ về việc dễ dính dán chuyện thị phi, quan sự hay kẻ tiểu nhân ám hại, có thể chính lẽ đó mà tuy nhà thờ có sổ hồng sổ đỏ nhưng vẫn vướng chuyện không yên. Khởi thủy khu đất có hình như trên ,nhưng dân cư phát triển đất đai thu hẹp lại, nhà thờ đành chừa một khoản sân làm lối đi chung cho khu phố để vào con hẻm bên hông tay Long của nhà thờ và vòng ra sau hậu sơn. Chính bởi cách này mà khu vực nhà thờ bị thoái khí qua con hẻm bên tay Long. Và cũng lại thêm con hẽm hong chọc nách nhà thờ cũng là một yếu làm thoái khí một lần nữa, từ lý do này mà Thiên Đồng xác định số lượng giáo dân ở đây không đông đúc và về mặt tài chánh cũng như quyên góp của giáo dân đều “bèo”, như đã khẳng định, bởi dương khí vận chuyển vào nhà thờ đều thoái đi hết qua các lối này. Toàn thể khu đất được thế nghiêng Càn Khôn nên được cách Phúc Đức theo Bát Trạch Lạc Việt, do vậy toàn khu đất xét trên mặt trệt, mặt sàn sẽ là thừa khí Phúc Đức Vũ Khúc Dương Kim tinh, theo quy luật Lạc Việt Bát Biến Phiên Tinh, khi lấy sơn phối hướng, bởi do tính chất công sở công cộng của công trình. Theo lẽ đó, tầng lầu một của công trình thừa khí Lục Sát Văn Khúc Thủy Tinh và tầng lầu 2 của nhà thờ là Sinh Khí Tham Lang Dương Mộc Tinh quản lý, vì vậy công trình nhìn chung được cách “Thượng hạ cát tinh, Phúc Đức bát trạch”, tuy nhiên về mặt Phiên Tinh tầng sàn từ ngoài vào tới hậu sơn thì không được tốt, bởi khu vực nhà nguyện và nhà việc là khối công trình liền kề thừa hưởng Hung tinh Ngũ Quỷ Liêm Trinh Dương Hỏa tinh tọa thủ, chủ hại chuyện phiền toái bất ổn và tai ương.Cải tạo nhà thờ theo Phong Thủy Lạc Việt. Do nhà thờ có hạn chế về mặt điều kiện khách quan nên các phương án cải tạo đưa ra cũng rất hạn chế. Về mặt xã hội thì việc sửa chửa phải sắp xếp bằng việc “ngụy trang kiểu…nhà thờ” sao cho bàng quan chỉ nhận biết đó là việc sửa chửa vụn vặt bình thường về mặt kiến trúc hay ý thích thẩm mỹ và về mặt tài chánh thì hạn chế mức thấp nhất trong kinh phí eo hẹp của một nhà thờ khó khăn. Do vậy các phương án đập phá, xây dựng hay thiết kế thêm đều không khả thi mà chỉ thực hiện 3 mục đích chính là sức khỏe Cha xứ được khá hơn, nhà thờ không bị xáo trộn nữa và chọn vị trí thích hợp để an vị nơi lưu hài cốt của giáo dân cho an ổn về mặt tâm linh. Đầu tiên, ưu tiên cho việc ổn định sức khỏe Cha xứ, Thiên Đồng cho điều chỉnh lại dòng khí vào nơi Cha ở và làm việc bằng các biện pháp chận các ngạch nơi thích hợp. Việc này khá đơn giản và không ai nhận ra rằng nhà thờ làm…phong thủy. Tiếp đến Thiên Đồng đưa ra một giải pháp bịt và bán đi phần đất hẽm hông nhà thờ. Nhưng chủ ý này không được vì theo Cha, đó là lối vào thường xuyên của giáo dân khi đi lễ nhà thờ và việc bán bỏ đi một phần đất công thì vượt quá khả năng trách nhiệm trong công việc nên ý định này là không khả thi. Do vậy Thiên Đồng đành sự dụng biện pháp khác nhằm tránh thoái khí. Để an ổn về chuyện nhà thờ, Thiên Đồng cho dùng cách án sát, gọi là “Tam sơn án sát đao”. Cuối cùng là chọn vị trí thích hợp để là nơi lưu hủ cốt của giáo dân. Việc này là phần quan tâm và lo lắng nhất của Cha vì liên quan đến mặt tâm linh mà Cha lại không muốn có chuyện chẳng lành. Đầu tiên tôi nghĩ đến việc di dới đến vị trí khu nhà việc, nhưng khi hỏi lại với Sư Phụ Thiên Sứ thì Sư Phụ bảo nơi ấy không được. Bởi vậy Thiên Đồng chọn phương án khác là chọn đưa lên tầng lầu cho vẹn cả đôi bề là không cần phải cơi nới hay xây mới gì thêm chỉ cần chuyển đến đó là gọn ghẽ. Vậy là các phương án đều đơn giản, kinh tế và ổn thỏa, riêng phần bếp cũng quan trọng, Thiên Đồng có gợi ý nhưng ý định không thực hiện được vì lại vướng đến chuyện phải hội ý trong nội bộ nhà thờ, vậy là thôi. Qua việc được may mắn tư vấn giải pháp phong thủy cho nhà thờ, có thể nói đây là việc ít có, Thiên Đồng nhận thấy rằng Phong thủy là một yếu tố độc lập đứng ngoài các niềm tin và tôn giáo, bởi yếu tố phong thủy là sự phản ánh thực tại khách quan tương tác trong vũ trụ với tính quy luật của nó, nằm ngoài ý thức chủ quan của con người và ngoài cả ý thức của thượng Đế, nếu có. Điều này đủ để nhận biết tính khoa học của phong thủy trong hiệu quả tương tác thường hằng của nó, dù muốn hay không. Và tiêu chí để xác định vấn đề là khoa học thì lý thuyết xác định cho vấn đề đó phải có tính khách quan, tính quy luật, có thể giải thích mọi hiện tượng liên quan và có khả năng tiên tri thì Phong Thủy Lạc Việt thỏa mãn hoàn toàn tiêu chí này. Thiên Đồng Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 Điêu Tàn Sự Nghiệp – Tang Thương Gia Đình Achau - Nguyễn Mạnh CườngThiên Đồng - Bùi Anh TuấnThành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc ViệtTrung tâm nghiên cứu Lý Học Đông PhươngGhi chép lại từ một chuyến đi “Phong thủy cứu trợ” của Thiên Đồng và Achau tại Ban Mê Thuột, thượng tuần tháng Chạp năm Kỷ Sữu.Công ty sản xuất bia chai và nước suối tinh khiết hoạt động chưa đầy hai năm đã nợ nần, hàng hóa không tiêu thụ được, sản phẩm chất lượng kém do lỗi và yếu kém chuyên môn trong quy trình sản xuất, thế là vốn hàng trăm triệu bỏ ra mất trắng, sự nghiệp tiêu tan như làn khói bay. Nhưng điều mất mát đó không đau đớn bằng một mất mát người thân…Người vợ tự tử đã ra đi, bỏ lại hai đứa con gái, một 6 tuổi, một 2 tuổi với người cha, người chồng còn quá trẻ. Đó là câu chuyện của hơn nửa năm trước. ***“Anh Tuấn đó à? Anh khỏe không?”“Ừ, vẫn khỏe, em sao rồi?”“Vợ em mất rồi. Vợ em tự tử mất rồi anh ơi…”Tiếp đó là giọng đầu dây bên kia nghẹn lại. Tôi chợt sững người trước tin dữ…“Anh nói với Sư Phụ giúp em.”“Vài giờ nữa Sư Phụ lại đi Đà Nẳng, rồi ra Hà Nội, chắc lâu. Thôi vậy! Nếu Sư Phụ không có thời gian rảnh thì anh giúp em vậy. Nhưng để anh xin phép Sư Phụ trước đã.”“Dạ, anh cố gắng giúp em. Em rối trí quá rồi.”Tôi báo cho Sư Phụ tin dữ ấy, nhắc lại câu chuyện nửa năm trước, người này cũng nhờ sư phụ xuống xem Phong Thủy. Nhưng sư phụ lại không đi được. Đã giao cho Vothuong đến giúp. Nhưng gọi điện thoại cho anh ta thì không bắt máy. Cấu chuyện đã qua, nay nhắc lại, Sư Phụ chỉ biết thở dài. Tôi xin phép sư phụ Thiên Sứ thay thầy đi giúp người bạn đó. Sư Phụ bảo “Việc này nên hết sức cẩn thận, nếu có đi thì cũng phải có một người đi theo hổ trợ.”Vậy là tôi được phép và cơ duyên đưa đẩy thể nào ngay hôm đó, có anh Achau và anh Hatgaolang đến chơi. Tôi gợi ý cho hai người, anh Hatgaolang bận việc nên từ chối, còn anh Achau nhận lời ngay cho một chuyến “đi bụi”. Tôi hẹn với Achau đi vào tối chủ nhật 24/01/10, anh bảo lùi lại ngày khởi hành sang chủ nhật tuần sau. Nhưng ngay chiều hôm ấy anh Achau gọi lại đổi ý, chuyển đi ngay vào chủ nhật 24/01 như đã định. Thế là hai anh em khăn gói quả mướp đi trong đêm.9 giờ tối chủ nhật khởi hành, 6 giờ sáng thứ hai thì tới nơi. Cảm nhận cái gió lạnh của vùng cao Ban Mê Thuộc bên ly café, sau khi đã lót dạ tô bún bò, để chờ khổ chủ đến, hai anh em vẫn nghĩ ngợi về cái phong thủy chưa biết đến.7g thì anh M đến, tiều tụy hơn với gương mặt lộ thần sắc xám xanh biểu hiện sức khỏe thể chất yếu kém và tinh thần không mấy sáng hơn. Sau vài câu trao đổi, chúng tôi tống ba lên xe chạy về nhà M.Trước cổng vào, cây cỏ đã xác sơ tự lúc nào. Mở cánh cửa ra, khung cảnh điêu tàn bày ra trước mắt.“Đất của em đây, trước là nhà, sau là nhà xưởng.”, M nói.Ba người đi thẳng qua khoản sân rộng đến cánh cửa chắn ngang lưng chừng khu đất, tôi chợt giật mình, bèn nói với anh Achau:“Xuyên tâm sát rồi anh ơi, chắc chắn phía sau sẽ thông tuột!”Vừa dứt lời, M mở cánh cửa ra, trước mắt hiện ra ngay một con đường giữa mảnh đất dài hun hút thông tuột từ trước ra sau, kết thúc bằng hai cánh cổng sắt to lớn. Quang cảnh xuống cấp và điêu tàn càng rỏ ràng hơn với hai dãy công trình hai bên là nhà xưởng, khu sản xuất và bồn chứa bia chỉ còn lại trống trãi, xơ xác, tiêu điều, không khí của sự mục nát nặng nề khó tả xốn xang lòng người.Tiếp theo sau cánh cửa cổng cuối là một khoản đất trống khá rộng lớn, cuối mảnh đất ấy là con suối chảy ngang từ phía Bạch Hổ qua phía Thanh Long. Do địa thế vùng cao, cao thấp chập chùng nên khu đất nhà V cũng trong thế ấy, nghĩa là thế đất từ mặt đường vào tới cổng thấp dần, xuống dốc, trôi tuột đến tận cửa cổng sau chót và lại thấp xuống một lần nữa ở bãi đất sau cùng. Thế đất quá rỏ ràng cho sự thoái khí trầm trọng không giữ lại được chút nào cho hai dãy công trình nhà xưởng hai bên. Một thế xuyên tâm kiệt lực báo trước sự sụp đỗ một cơ nghiệp trong giai đoạn ngắn ngủi. Tiếc thay gia chủ lại không biết gì về kiến trúc hay phong thủy.V hỏi tôi có sửa lại để làm khu vực cho thuê phòng trọ được không. Tôi bảo được và lên phương án cải tạo theo phong thủy theo hướng chuyển khu vực nhà xưởng thành nơi cho thuê ở trọ. Một hồi suy tính, anh Achau đề nghị chuyển hướng tư vấn vì xét thấy trên thực tế khổ chủ không còn khả năng tài chánh để cải tạo theo phong thủy và nếu có cải tạo thì khả năng hoàn vốn rất nhiêu khê trong một thời gian dài. Anh đề nghị một giải pháp cấp thời, bỏ hẳn khu nhà xưởng phía sau bằng cách xây chận hẳn một bức tường chặn ngang khu đất với mục đích chỉ tụ khí phần trước mảnh đất nhằm cải tạo sức khỏe của bố con và cải tạo kinh tế tạm thời, bởi trên thực tế M cũng không còn tiền để tính đến những việc lớn hơn mặc dù ý nghĩ kinh doanh vẫn còn nung nấu.Vậy là phương án chận bức tường là khả thi nhất với chi phí thật thấp phù hợp với khả năng, song song đó là việc tư vấn chỉnh sửa trong nội thất nhà M đang ở với vợ và hai con từ trước đến nay. Vậy là giải pháp gọn nhẹ và trơn tru.Gần chiều, M đề nghị vào nhà mẹ của M tư vấn phong thủy cho cái nhà vừa xây xong. Ba anh em lại chở nhau trên một xe đến nhà mẹ M sau khi đã qua vài con dốc gập ghềnh khúc khuỷu.Sau việc tư vấn ở nhà M, tôi và anh Achau đi bộ ra đầu thôn nhâm nhi vài ly bia nghĩ ngợi. Anh Achau hỏi xét xem yếu tố nào của phong thủy dẫn đến việc người vợ tự tử không? Tôi võ đoán trả lời rằng “Có thể là hai yếu tố phạm nặng là giếng ở cung Khôn (Đông Nam) và trung cung bị xuyên tâm sát phần âm trạch do con mương thông dài đến cuối đất băng ngang trung cung. Vì cung Khôn và trung cung là tượng cho người nữ, người mẹ, nay bị phạm phương đào giếng và trung cung bị dương khí xâm hại, có thể đây là lý do chủ yếu nặng nhất”. Việc này đưa đến một suy nghĩ và quyết đinh nhanh chóng trong đầu Achau là nên khuyên bán mảnh đất đó đi, vì xét thấy rỏ ràng mảnh đất quá xấu về mặt phong thủy và có thể không tốt cho người con gái sau này. Vậy là anh em nhất trí.Trở lại nhà M sau vài ly bia, trời Ban Mê đã sập tối, cùng lúc ấy có mẹ của V ở nhà, anh Achau lại một phen dùng lời thuyết phục như một thuyết khách cho phương án chỉnh cho ở tạm và khi thấy ổn rồi thì bán. May thay cả mẹ M và khổ chủ đồng tình với ý ấy.Một buổi nhậu đơn sơ trong gió lạnh của Ban Mê trước giờ chia tay. Nhiều tâm sự và nhiều lời tư vấn sâu sắc của anh Achau về cuộc sống làm quên đi cái lạnh của những cơn gió thốc vùng cao. Có lẽ đây cũng là một duyên số cho cuộc hội ngộ muộn màng trong một hoàn cảnh không thể khác. Chúng tôi lại từ giả trong cái lạnh của đêm cao nguyên với nỗi niềm còn trĩu nặng về số phận và đời người. Tôi chợt nhớ lại cách đây hơn ba tháng, trong một chuyến đi công tác ở Ban Mê của Vothuong, tôi có nhắn Sư đệ này đến giúp đỡ M hòng gỡ gạt được gì không, Vothuong đồng ý, nhưng không hiểu sao các số điện thoại liên lạc đều không liên hệ được. Vothuong cũng đành buông câu “Chắc chưa tới duyên”. Cho đến khi tôi nhận được hung tin thì đã quá muộn. Sự mất mát lớn, cho dẫu là tài sản hay kim hoàn của thế gian thì không gì bằng một người thân. Một tài sản không bao giờ có lại được.Đêm cao nguyên cùng chuyến xe lao vút trong màn đêm bất tận…Cổng trước vào nhàSân trong nhà bên màu xanh là nhà V...Từ trong nhìn ra cổng, chú cẩu giữ nhà. :P Cửa vào xưởng sản xuấtThông thẳng tuột! Cổng sau nhàMột góc sânThiên Đồng và Achau vừa đi bụi vừa đi Phong Thủy cứu trợ :lol: Phân Tích Phong Thủy "Mảnh đất điêu tàn" Toàn khu đất có hình một lưỡi đao hoặc có thể nhìn ra là một con cá bị cụt phần đuôi.Khu đất bị thế xuyên tâm sát với con đường chạy gần như thẳng tuột ở giữa từ cửa trước thông ra cửa sau. Chính vì lý do này nên dương khí ở đây bị thoái hoàn toàn, không giữ lại được tí nào cho các công trình hai bên trái phải.Hơn nữa do địa hình Buôn Mê Thuộc là đồi núi chập chùng, đường đi lên đồi xuống dốc nên địa thế khu đất có thế xuống dốc dần so với điểm cao là mặt đường và nền nhà phía sau đến cửa cổng cuối thấp hơn so với mặt đường gần hơn 1,2m. mặt khác do địa lý vùng cao gió thổi rất mạnh và gió lộng nên khí dể bị tán đi, tản mác. Vì vậy thế "Xuyên Tâm Sát" của khu đất càng trở nên cực xấu khi dương khí bị thế đất thấp làm trôi tuột nhanh hơn cộng thêm đặc điểm khí hậu gió thổi mạnh thì lực phản khí hay tán khí càng mạnh. Vô khí.Thế bên trong thì thoái khí, còn bên ngoài cũng bị thoái khí mất.Từ trong khu đất nhìn ra, con đường trước khu đất thấp dần, trượt dốc từ trái qua phải, trong khi đó khu đất nhà hàng xóm bên tay Hổ có thế thất hơn tạo thành địa hình giống như một con hẽm, do vậy dương khí từ con đường đổ đến, chưa kịp đổ vào cổng của khu đất nhà Vinh thì đã thoái qua nhà hàng xóm.Đấy là phần dương trạch bị sát. Còn lại phần âm trạch vừa bị phạm phương và vừa bị sát không kém. Phương kiêng kị đào giếng là phương khôn thì nay lại có giếng ngay phương ấy. Một con mương, cũng là đường cống thoát nhước cho khu vực được đào thành một đường thông tuột giữa khu đất, xuyên qua trung cung cắt đứt trạch đất thải nước ra khu đất phía sau. Nghĩa là địa khí cũng một đường thông tuột trôi đi mất. Có thể tưởng tượng một con cá bị cắt phần thân đuôi, khí huyết và tinh tủy từ xương sống tuông ra chẳng giữ lại, nghĩa là sinh khí chẳng có gì. Khí mạch tiêu tán đến cạn kiệt đi hết không giữ lại được.Trung cung và phương Khôn đều là tượng thổ, đều tượng trưng cho người phụ nữ, nay bị phạm tất cả, đều là yếu tố nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của nữ chủ nhân. Dương trạch và âm trạch đều bị phạm sát một cách khốc liệt tránh sao bại vong?Phía sau khu đất là một bãi đất cỏ rộng dài hơn 40m và cuối mảnh đất này là một con suối nhỏ chạy từ hướng Hổ sang hướng Long góp phần tạo thêm yếu tố xấu cho phong thủy khu đất nhà V. Yếu tố này cũng có thể gọi là “Thượng sơn hạ thủy” theo Loan Đầu. Dương khí trôi tuột ra sau đi trôi đi và tản đi càng nhanh hơn do dòng suối đưa đẩy.Xét theo Bát trạch, khu đất được hướng Phúc đức trạch theo Phong Thủy Lạc Việt, nhưng cũng không đỡ nỗi bởi thất bại về yếu tố dương trạch và Loan Đầu. Xét trên Lạc Việt Bát Tinh Biến Hóa thì cách của khu đất không bị thế “Nhị quỷ phù tang xa” (Hai quỷ kéo xe tang) nhưng Phần đất trước là Phục Vị Tả phù kim tinh, phần đất sau khu nhà xưởng là Họa Hại Lộc Tồn Tinh, nghĩa là đã phạm cách xấu theo kiểu “Hậu viên tàn họa”. Tuy vậy theo Thiên Đồng xét thấy thì khu này bị phạm thế tạm gọi là “Nhị Quỷ hầu Ma Đao”. Bởi theo Lạc Việt Bát Tinh Biến Hóa, con đường ở giữa ứng vào sao Phục Vị Tả Phù âm Kim đới Thủy tinh, dãy công trình bên Tay Long bị sao Họa Hại Lộc Tồn Tinh hãm chiếu, ẩn tàn tai họa bất ngờ, rủi ro rình rập, dãy công trình bên Tay Hổ bị cách Tuyệt Mạng Phá Quân kim tinh chủ quản hưng bại, tự ải. Con đường ở giữa khu đất hiển hiện ra như thanh Đại Ma Đao với tính sát khí nặng nề, theo nguyên lý “Hình Lý Khí”, hiển nhiên tính sát của thanh Đại Ma Đao này càng lớn không kém khi hai bên là hai Hung Tinh luôn hầu cận, vì vậy tính sát của thanh đao do Nhị Quỷ hầu cận càng trở nên nguy hiểm và kết cuộc là sự bại vong cho một cơ nghiệp chỉ tồn tại chưa đầy hai năm.Giải Pháp Phong Thủy Lạc ViệtĐây là giải pháp được đưa ra dựa trên thực tế gia cảnh của gia chủ đang rất hạn chế và yếu kém về tài chánh, khả năng tái đầu tư là không có và do tính chất xấu của hiện trạng khu đất.Anh Achau đưa ra giải pháp chận bức tường ngăn, bỏ hẳn phần đất trước nhằm tụ khí cho nhanh giải quyết về mặt sức khỏe và ổn định công việc hoặc kinh tế cá nhân nếu có thể.Lợi dụng thế ấy Thiên Đồng cho cho hoán chuyển địa cuộc bằng một bức tường ở giữa ngay vị trí của vào khu nhà xưởng cùng với việc bịt hẳn cổng sau. Vậy là thế đất trở lại với tinh vận tốt do Phục Vị Tả Phù Kim tinh quản thủ tiên phong, khống chế Ác Tinh Họa Hại Lộc Tồn Mộc Tinh không cho gây tác hại, cùng với việc quản chuyễn cát tinh Thiên Y Cự Môn tinh yểm trấn và khống chế hậu đài của toàn khu nhà xưởng.Để kích hoạt tụ khí cho nhanh và hiệu quả, Thiên Đồng cùng khổ chủ ngay trong ngày thực hiện “Cẩu Ngọa Yếm Pháp” nhằm mau chống tụ địa khí thay cho phần dương khí tiêu tán. Phần trước cổng, bên tay Hổ cho xây một bức tường cao và dài ra gần đường nhằm đón khí của con đường dốc từ hướng Long chảy qua hướng Hổ vào khoản sân trước cổng nhà đất gia chủ để không bị thoái sang bên nhà hàng xóm. Đồng thời những cây mục nát tiêu đều trước cổng đều phải được dọn sạch để đón khí cát lành.Tuy vậy, điều đáng phải nghĩ tới là khi chặn tường bỏ hẳn phần đất sau thì chỉ còn xét yếu tố Bát trạch Lạc Việt ở phần đất trên như hình vẽ, lúc này Giếng sẽ rơi vào phương Càn, phương kiêng kị và sẽ hại chủ nhà về mặt sức khỏe, Quý nhân hay đau đầu. Do vậy giải pháp tình thế để tụ khí cải thiện tạm thời được đưa ra rồi sau đó phải bán toàn khu đất đi là rất hợp lý.Sau đó là việc chỉnh sửa bếp và cầu thang và một vài tiểu tiết trong nhà V, cái nhà cũng mang hình thể thiên thẹo lệch lạc bên ngoài và lệch tầng bên trong. Phàm những nhà thiên lệch, tâm tư tình cảm của gia chủ dễ khiến bất an, chưa kể đến chuyện khuyết cung hay thừa phương chênh lệch.Đó là những giải pháp tình thế chẳng thể nào khác hơn mà Thiên Đồng cùng Achau đưa ra theo quan điểm Phong Thủy Lạc Việt nhằm giải quyết cho một hoàn cảnh mà toàn phương thất bại. Chắc hẳn đây chưa phải là một giải pháp hoàn hảo , do vậy cũng nhằm trau dồi và học hỏi thêm nhiều điều quý báu, chúng mong các anh chị em quan tâm, yêu thích học thuật cùng các cao nhân trao đổi và chỉ dạy thêm.Kính bút,Achau - Thiên Đồng Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 BÍ ẨN CỦA HÌNH TƯỢNG NGỰA CỤT ĐUÔI TRONG PHONG THỦY Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông PhươngHình tượng ngựa trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc là hình ảnh đẹp và hùng dũng, thể hiện sự mạnh mẽ, linh hoạt, năng động và tự do. Cũng hình tượng ngựa, nhưng lại trong cổ học Phong Thủy, hình tượng đó trở thành biểu tượng đầy năng lực, siêu nhiên và đôi khi mang yếu tố bí ẩn.Trong một chuyến du lịch tại Hoa Kỳ, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Tuấn Anh chợt phát hiện một chi tiết lạ và khá thú vị khi thấy một đôi tượng ngựa lớn được bố trí trấn ở hai bên hông cửa chính của một nhà hàng lớn và nổi tiếng PF CHANG 3 China Bistro, tại bang Bantimore. Trước cửa nhà hàng này có một đôi ngựa có dáng to lớn, mạnh mẽ, rất khí thế, nhưng lại có cái đuôi …ngắn và cụt. Điều này đã gây nên sự chú ý của nhà nghiên cứu Lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ông đã chụp ảnh và đưa hiện tượng này vào trong lớp Phong Thủy Lạc Việt để nghiên cứu và tìm lời giải đáp bí ẩn này. Reduced: 71% of original size [ 898 x 674 ] - Click to view full imageNhà Nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh và toàn cảnh mặt tiền nhà hàng PF CHANG 3 China Bistro. Reduced: 85% of original size [ 748 x 999 ] - Click to view full imageTượng ngựa "cụt đuôi" Reduced: 71% of original size [ 898 x 674 ] - Click to view full imageCận cảnh cái đuôi cụt Với tư cách là một người thầy truyền đạt lại kiến thức Phong Thủy Lạc Việt, ông thường khuyến khích các học viên: "Để phục hồi những giá trị đích thực của Phong Thủy, phải tham khảo, tìm hiểu và sưu tầm tất cả những kiến thức liên quan đến phong thủy còn lưu truyền trong dân gian và hiệu chỉnh nó theo nguyên lý căn bản của Phong Thủy Lạc Việt". Người viết bài này, chỉ là một học viên mới theo học lớp Phong Thủy Lạc Việt, nhưng được thày Nguyễn Vũ Tuấn Anh giao trách nhiệm và hướng dẫn tìm hiểu hiện tượng này. Sau khi đã tham khảo nhiều ý kiến khác nhau với các anh chị em trong lớp Phong Thủy Lạc Việt, tôi đã sưu tầm tài liệu và viết về đề tài này với sự ủng hộ và khuyến khích của thày. Trên cơ sở những tư liệu và tri thức tiếp thu được từ Phong Thủy Lạc Việt, tôi nhận thấy rằng việc trấn yểm bằng vật khí trong Phong Thủy đều phải dựa trên một nguyên lý nào đó của sự tương tác với thực tại hoặc dựa trên ý nghĩa biểu trưng. Ví như muốn thăng quan tiến chức, người ta có thể dùng hình tượng “ Mã thượng phong hầu” (tượng một con khỉ trên lưng con ngựa) đặt vào bàn làm việc hay vị trí thích hợp thì sẽ được như ý. Lý do của việc dùng hình tượng này là chữ “hầu” nghĩa là khỉ cũng trùng âm với chữ “hầu” trong “vương hầu”. Cặp từ “ Phong hầu” có nghĩa là lên chức, tiến chức, còn chữ “Mã thượng” mang ý nghĩa là ngay lập tức. Do vậy hình tượng con khỉ ngồi trên lưng con ngựa là hình ảnh hàm ý cho câu “ Mả thượng phong hầu” thể hiện chủ ý cầu mong sự thăng quan tiến chức nhanh chóng. Trở lại câu chuyện ngựa cụt đuôi, tôi lần tìm mãi vẫn biệt vô âm tín cho ý nghĩa cái đuôi cụt. Có người cho rằng hình tượng ngựa cụt đuôi cũng tồn tại trong thời nhà Tần. Nhưng lần tìm trong các tư liệu cũng như hình ảnh về thời nhà Tần cũng không có được hình tượng ngựa cụt đuôi mà trái lại qua những dấu tích khai quật mộ Tần thủy Hoàng thì tất cả hình ảnh ngựa được thể hiện là ngựa chiến với chiếc đuôi còn nguyên vẹn và uy phong của tượng ngựa thật tráng kiện và hào hùng của những con ngựa chiến, khác hẳn với vẽ “dịu dàng” và nhã nhặn của ngựa cụt đuôi. Reduced: 76% of original size [ 837 x 673 ] - Click to view full imageTượng ngựa và chiến binh bằng đất nung thời Tần. Chợt nghĩ rằng có thể trong hội họa, hình ảnh ngựa cụt đuôi họa chăng cũng thể hiện ít nhất một đôi lần. Tôi liền đến hỏi một họa sĩ chuyên nghiệp trong nghệ thuật hội họa tranh Thủy Mặc thì một sự bất ngờ khác làm tôi lấy làm vô cùng thú vị ở câu đầu tiên ông nói ngay “ Không phải ngựa cụt đuôi mà đúng ra là ngựa…cột đuôi” (!). Hình ảnh này xuất hiện từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Sự đính chính này càng làm thêm bất ngờ. Tôi hỏi vị họa sĩ ấy vì sao lại là “cột đuôi” và ý nghĩa ra sao thì ông cũng chỉ lắc đầu cũng không biết lý do. Dẫu vậy cũng là một chi tiết khá thú vị khi truy nguyên ý nghĩa của cái sự “cột đuôi ngựa”. Lần tìm mãi cuối cùng cũng được một chi tiết quan trọng, đó là một bức tranh vẽ cảnh "Quắc Quốc và Hàn Quốc Phu nhân cùng các cung nhân và thị nữ cưỡi ngựa đi chơi dã ngoại vào mùa xuân ở bên ngoài thành Trường An”. Hai bà này là hai bà chị ruột của Dương Quý Phi, và đồng thời cũng là Phi tần được Vua Đường Huyền Tông sủng ái. Trong bức tranh, tác giả của bức tranh thể hiện bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ngựa, cả người lẫn ngựa đều phục sức và được trang sức hết sức sang trọng, nhìn vào đó người xem có thể mường tượng được phần nào nếp sinh hoạt cự kỳ xa hoa hưởng lạc của giới quý tộc thời Thịnh Đường. Cương ngựa thì bằng bạc hoặc vàng có nạm ngọc, yên ngựa thì được bọc gấm thục tố nhiều màu và thêu thùa cầu kỳ, bờm ngựa được thắt thành ba chùm có trang sức gọi là Tam-hoa, còn đuôi ngựa thì được tết thành bím chung với những sợi tơ óng ả nhiều màu, có khi được cột lại phía dưới như kiểu búi tó. Nguyên bản của tranh này do Lý Tư Huấn vẽ vào thời kỳ Thịnh Đường, về sau lại được vua Huy Tông nhà Tống vẽ lại (phiên bản của Tống Huy Tông hiện do Viện bảo tàng Liêu Ninh cất giữ). Reduced: 62% of original size [ 1024 x 539 ] - Click to view full imageQuắc Quốc và Hàn Quốc phu nhân đi dã ngoại mùa xuân (Tranh của Tống Huy Tông [TK thứ 12] vẽ dựa theo tranh gốc của Lý Tư Huấn [TK thứ 8] – Viện bảo tàng tỉnh Liêu Ninh) Như vậy, từ chi tiết trên có thể hiểu hình ảnh ngựa cột đuôi, ngựa đuôi bím hoặc là ngựa đuôi tó là hình ảnh của sự giầu sang, phú quý xa hoa thịnh đạt. Sang giầu là tham vọng và ước mơ của con người cho nên hình tượng con ngựa cột đuôi là hình tượng thể hiện hoài vọng ước muốn may mắn, ước mơ phát phú phát quý được dùng trong phong thủy, có lẽ đã được xuất phát từ đây. Thử trở lại nhìn những tượng ngựa dùng làm vật phẩm may mắn trong phong thủy, dễ dàng tìm thấy đuôi ngựa không phải bị cụt mà được thể hiện thành một đoạn ngắn bó lại hoặc là một tó dài. Và có thể lâu dần trong quá trình sản xuất, người sản xuất cũng không biết tại sao phải tó lại nên từ từ vô tình làm teo đuôi hoặc ngắn cụt đuôi ngựa đi. Một số tượng gốm cổ tam sắc của thời nhà Đường cho thấy người cưỡi trên con ngựa cột đuôi là hình hảnh có thể là người quyền quý thượng lưu hay những người thuộc hàng trung lưu hay chí ít cũng là văn nhân thuộc giới văn sĩ. Một lẽ tất nhiên hoặc đồng bộ rằng dáng vẽ của con ngựa một cách tự nhiên trở nên mềm mại văn tao không còn thấy được nét võ dũng như hình ảnh ngựa truyền thống với đuôi dài bung xòe mạnh mẽ khí thế. Reduced: 85% of original size [ 750 x 1024 ] - Click to view full imageMột số hình ảnh ngựa trong mộ Tần Thỉ Hoàng, vật phẩm may mắn và tượng ngựa men tam sắc (cổ vật) thời nhà Đường Nếu theo truyền thống, ngựa được thể hiện qua tranh tượng là hình tượng của sự dũng mảnh, tự do, hoang dại hay chiến thắng cho nên từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây với chiếc đuôi dài dũng mãnh, đi kèm với nó là hình ảnh người anh hùng hoặc chiến binh thì ngược lại một chiến binh cưỡi trên một con ngựa bị cụt đuôi hay cột đuôi thì đó lại là một hình ảnh phảm cảm và tuyệt nhiên không giá trị. Do vậy hình ảnh ngựa cột đuôi hay ngựa đuôi tó là hình ảnh của sự ước mơ sang giầu, phú quý bắt nguồn từ hình của lối sống xa hoa dư dật của các bật vua tôi, vương giả quan quyền, quý tộc của thời nhà "Đường đại thịnh vượng”, một trong các triều đại Trung Hoa cổ. Từ đây có thể thấy rằng việc dùng hình tương ngựa đuôi tó hay cột đuôi làm vật phẩm cầu may trong phong thủy hay dùng làm những vật khí hình tượng trấn yểm trong phong thủy từ trước tới nay là thể hiện mang tính biểu trưng hay ước lệ cho sự cầu mong, hoài mong sự may mắn trong cuộc sống, ước mong giầu sang, phát phú phát quý, tài lộc cường thịnh dồi dào và các vật khí tượng ngựa như là một phương tiện cầu tìm sự trợ giúp, khai thác hiệu ứng của hình tượng trong tương tác với thực tại của phong thủy.Tp HCM, ngày 27/8/2009Thiên ĐồngTham Khảo:-Cẩm nang phong tục dân gian Ngũ Phúc Lâm Môn, tg Nguyễn Huy Cố, NXB Lao Động Xã Hội.-Phong Thủy trong bất động sản, tg Jo Incheol, NXB Tổng hợp TP HCM.-web vietsciennce.free.fr-web.google.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 Ông Khiết - Một biểu tương minh triết của văn minh Lạc Việt. Sự xác định phát minh ra la bàn thuộc về văn minh Việt cổ. Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Hướng dẫn: Thiên SứBiên soan: AchauBổ sung: Thiên Đồng Trong hội thảo "Tính khoa học của Phong thủy", do Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tổ chức tại Hanoi, ở khách sạn La Thành ngày 15 - 12 - 2009, Hoàng Triều Hải là một thành viên nghiên cứu và hiện là trưởng đại diện Văn Phòng Hanoi của Trung tâm đã giới thiệu "Ông Khiết" - một vật trấn yểm độc đáo của Phong Thủy Lạc Việt. Ông Khiết chính là một món quà tặng của Trung Tâm cho các vị khách quí tham dự hội thảo. Đây cũng chính là một biểu tượng đầy tính minh triết của nền văn Lạc Việt, một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.... Ông Khiết - quà tặng của Trung tâm trong hội thảo.Ảnh: TTNCLHĐPTính minh triết Việt qua biểu tượng Ông KhiếtCó lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền". Hoặc trước những bất công xã hội, những sự ức chế thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở miệng". Hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua, người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc đó. Đã từ lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa những câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam, những giá trị văn hóa phi vật thể của nền văn hiến Việt liên hệ đến hình tượng "Ông Khiết", qua những tác phẩm của ông: "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…nhằm phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ phía Nam Dương Tử. Có thể nói rằng: Trong suốt lịch sử trải gần 5000 năm đó, hình tượng "Ông Khiết" - cụ Cóc - luôn gắn bó với nền văn hóa truyền thống Việt. Chúng ta có thể nhận thấy ngày hình ảnh "Ông khiết" Việt trong nền văn hiến Việt qua những di sản khảo cổ từ hàng ngàn năm trước:Đây là những di vật khảo cổ của người Việt, đã làm thế giới phải ngạc nhiên và thú vị trước một nền văn minh và kỹ thuật phát triển thể hiện một đỉnh cao không những trong kỹ thuật đúc đồng mà ngay cả trong nghệ thuật khắc nổi và hình họa. Những chi tiết trên trống đồng phản ánh một hình thái xã hội với chiều sâu của nó, xác định một nền văn minh Văn Lang rực rỡ của Việt tộc. Một trong những chi tiết độc đáo, được đắp nổi trên tang trống Lạc Việt từ hàng ngàn năm trước là những những con vật bình dị, nhưng rất thân thuộc trong xã hội văn minh lúa nước, đó là hình ảnh con Cóc.Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II, trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam.Trống đồng Đông Sơn và hình tượng cóc - Ông Khiết. Tượng cóc trên trống đồng Đông SơnTượng cóc trên mặt trống Heger IIĐã có nhiều học giả có những cách lý giải khác nhau về con Cóc trong các nghiên cứu khoa học. Có thuyết cho rằng Cóc là biểu hiện cho tình trạng thời tiết trong mùa màng, như “Cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa”. Những hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể (!). Nhiều học giả có ý kiến cho đó là biểu trưng cho tính ngưỡng phồn thực cổ xưa của văn hóa Việt!? Tượng 3 cóc giao phối.Không chỉ ở nhưng di vật khảo cổ xác định hình tượng Ông Khiết đã tồn tại từ lâu trong nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, mà hình tượng này còn tồn tại trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam cho đến tận bây giờ. Những chuyện liên quan đến Cóc là nhân vật chính có thể kể ra đây là: Chuyện Trê Cóc, Cóc kiện trời, Thày đồ Cóc...Trong văn học dân gian Việt thì có thể nói ông Cóc có một vị trí đặc biệt được tôn trong:Con cóc là cậu ông trời.Ai mà đánh nó thì trời đánh choÔng Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Câu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào! Không những thế, cóc còn là thầy dậy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Lão Oa độc giảng - Thày Đồ Cóc - Tranh dân gian làng Đông Hồ.Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, cóc là Cậu ông Trời và là độc quyền giảng dậy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đểu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc. Trong ca dao tục ngữ Việt, còn những câu thành ngữ liên quan đến ông Cóc và đặc biết là Ông Khiết - một biểu tượng cách điệu của con Cóc - một cách kỳ lạ, mà chúng tôi lần lượt trình bày với bạn đọc dưới đây:"Ngậm miệng ăn tiền".Một câu thành ngữ độc đáo của nền văn hóa dân gian Việt. Các nhà nghiên cứu, phê bình cho rằng câu thành ngữ này có một nội dung ích kỷ, thiếu tính đấu tranh, chỉ biết lợi cho mình....Nhưng kỳ lạ thay! Đây chính là biểu tượng của Ông Khiết:Hình tượng Ông Khiết - "Ngậm miệng ăn tiền". Thế gian này chẳng ai có thể ngậm miệng ăn tiền cả. Câu thành Ngữ Việt "Ngậm miệng ăn tiền" chỉ mang tính hình tượng, nhằm miêu tả một nội dung khác. Nhưng với hình tượng "Ông Khiết" thì đúng cả đến nghĩa đen. Các thày bà còn khuyên thân chủ mua Ông Khiết về để thờ và cứ phải" sáng quay ra, tối quay vào" để ông mang tiền về cho gia chủ. Hàng ngàn năm đã trôi qua - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, hình tượng Ông Khiết "ngậm miệng ăn tiền" vì có khả năng "mang tiền về cho thân chủ" - nên mãi mãi lưu truyền đến ngày nay - phải chăng đã hàm chứa sự gìn giữ những bí ẩn của nền văn minh Khoa Đẩu? Hình tượng Ông Khiết nguyên thủy thì đồng tiền trong miệng có thể tháo rời ra được. Nhưng ngày nay, để tiện vận chuyển và sản xuất, người ta đã hàn dính đồng tiền vào miệng Ông Khiết, hoặc đúc dính liền đồng tiền và mình Ông Khiết thành một khối. Tuy nhiên, vẫn còn có những nơi làm hình tượng này theo đúng truyền thống - họ không đúc liền đồng tiền vào miệng Ông Khiết. Và điều này lại liên quan một cách kỳ lạ đến câu thành ngữ "Cóc mở miệng".còn tiếp Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 "Cóc mở miệng" Câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam này có nội dung nói đến những chuyện hy hữu, bất khả kháng. Cả đời, hiếm khi ai nghe được tiếng cóc. Có đánh chết, cóc cũng im, không một tiếng kêu. Các cụ gọi là "gan cóc Tía". Nhưng với hình tượng Ông Khiết, nếu rút đồng tiền ra khỏi miệng cóc thì ta thấy ngay "Cóc mở miệng". Ngậm miệng ăn tiền...và..... Cóc mở miệng! Chính vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình tượng của Ông Khiết và những câu thành ngữ trong văn hóa dân gian Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã tiến hành dùng con lắc cảm xạ kiểm tra và phát hiện ở miệng Ông Khiết, khi bỏ đồng tiền ra, có một hiệu ứng bức xạ rất mạnh. Hiện tượng này được nhà cảm xạ Dư Quang Châu - Trưởng ban cảm xạ Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người - dùng máy đo xác định: Ở các bộ phận khác nhau trên mình Ông Khiết, đèn báo không sáng toàn phần.... Trung bình có bẩy đơn vị đèn sáng..... Chỗ ít nhất chỉ có ba đơn vị đèn sáng...... Nhưng tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh ở đây. Một hiện tượng cần lưu ý là: Nếu ta để đồng tiền trở lại vào miệng Ông Khiết thì hiện tượng bức xạ yếu hẳn. Hiện tượng "Cóc mở miệng" nói lên điều gì? Phải chăng những điều gần như không tưởng trở thành có thể? Trong thành ngữ dân gian Việt Nam có câu "Bao giờ cóc mọc râu". Một câu thành ngữ có tính ví von với hình tượng so sánh với những việc gần như không tưởng. Cóc thì chẳng bao giờ mọc râu cả, vậy thì những việc làm sẽ chẳng bao giờ thành công ví như chờ đến khi "cóc mọc râu" vậy. Nhưng kỳ lạ thay! Một lần nữa câu thành ngữ dân gian Việt này lại liên hệ rất cụ thể với hình tượng Ông Khiết: Bạn đọc hãy nhìn kỹ xem: Ở hai bên mép Ông Khiết có hai sơi râu thật..... " Cóc mọc râu" đúng cả nghĩa đen với hình tượng Ông Khiết. Phải chăng, chính hình tượng Ông Khiết muốn nhắc nhở hậu thế rằng: Những điều không tưởng vẫn có khả năng trở thành hiện thực?! Trong bài "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương có câu: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua.... Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác bài hát nổi tiếng này của ông, khi mà tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa sử Việt còn sống ngày nay chưa sinh ra ở trên đời..... Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, ông Khiết đã "Ngậm miệng ăn tiền". Đến nay, Ông Khiết đã mở miệng và thể hiện những điều mà trước đây gần như không tưởng - "Cóc mọc râu". Qua hình tượng Ông Khiết, đã xác định một nền văn hiến huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - nền văn minh Khoa Đẩu - đã sở hữu một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ông Khiết và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ngay trên đầu ông Khiết, đã đội Âm Dương, cho chúng ta thấy hình tượng Ông Khiết có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó hình tượng này phải là một sự lựa chọn liên quan mật thiết đến học thuyết này. Nếu chúng ta có thể cách điệu hóa hình tượng ông Khiết ba chân đầy huyền bí này thành hình kỷ hà thì sẽ có hình tam giác cho thân ông Khiết với đỉnh ở miệng Ông Khiết và một hình tam giác khác có đỉnh là chân sau ông Khiết. Và đây chính là biểu tượng của Do Thái giáo - một tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại và nay chính là lá cờ của quốc gia Isarael. Đồng thời đây cũng chính là biểu tượng của đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt với sự kết hợp hai quái Đoài Tốn và Cấn Chấn thành đồ hình tam âm, tam Dương. Xin xem hình minh họa dưới đây: Không ai có thể phủ nhận sự liên quan giữa bát quái với Ngũ hành trong ứng dụng. Biểu tượng của ông Khiết liên quan đến Thuyết Âm Dương Ngũ hành là việc rất rõ ràng không cần phải bàn cãi, ít nhất với xoáy Âm Dương mà Ông Khiết mang trên đầu. Nhưng vấn đề cũng chưa dừng lại ở đấy, mà biểu tượng này còn liên quan mật thiết với những tri thức vũ trụ và xác định: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là sự tổng hợp của những tri thức vũ trụ, khi mà trên lưng Ông Khiết chính là hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh - Chòm sao Thiên cực Bắc của bầu trời Thái Ất trong lý học Đông phương. Bạn đọc có thể so sánh hình dưới đây: Chòm sao Đại Hùng tinh trên bầu trời Thái Ất hiện nay (Chấm đen trên hình minh họa). So sánh với các chấm trên lưng ông Khiết...... Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (Con ông Khiết chính là nòng nọc - Khoa Đẩu tự - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: Đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó. Nhưng vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, hình tượng Ông Khiết còn xác định rằng: La bàn chính là sản phẩm có từ lâu trong nền văn minh cổ nhân loại và không phải do người Trung Quốc phát minh. Biểu tượng Ông Khiết - Xác định la bàn là phát minh của người Việt cổ. Từ hàng ngàn năm nay, cả thế giới này vẫn ngộ nhận la bàn là phát minh của nền văn minh Hoa Hạ, cũng như cho rằng Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành của người Trung Hoa vậy. Có thể nói rằng trên hầu hết những website nghiên cứu đều thống nhất nói về điều này. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem: "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13). Còn theo sự khảo cứu của Châu Âu cho rằng la bàn từ dùng kim nam châm được các nhà hàng hải Trung Hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Theo học giả Alexander Neckam viết trong sách Desutensilibus (Nói về các dụng cụ) thì các thủy thủ Anh,vào năm 1190, đã từng dùng la bàn cho những chuyến hải hành trên cách đại dương. Khoảng từ năm 1220 người Arập đã bắt đầu dùng la bàn và khoảng 1250 thì người Viking cũng đã biết dùng loại công cụ định hướng này một cách thường thức. Họ còn trưng ra nhưng cái gọi là "di vật khảo cổ" để xác định la bàn là phát minh của người Hoa Hạ: Chiếc thìa chỉ Nam - một di vật được coi là phát minh của người Hoa Hạ vào thế kỷ II BC. Thế giới theo thói quen nhận thức đó, mặc nhiên ngộ nhận sự phát minh La Bàn là của người Trung Quốc. Nhưng một bí ẩn còn chưa được giải thích, một câu hỏi còn đang bỏ lững, khi đặt cho câu hỏi rằng những công trình kim tự tháp của Ai Cập, Hy Lạp, Inca, Maya, Zoque ở Trung Mỹ, được xác định phương hướng để xây dựng hay các cấu trúc công năng của tháp cũng thể hiện khả năng, công dụng xác định được phương hướng, xác định được sao Cực Bắc, các hướng chính Bắc, chính Nam, chính Đông, chính Tây - với độ sai biệt siêu việt hơn độ sai biệt lý tưởng cho phép của xây dựng thời hiện đại - thì thời đó các nền văn minh hơn 5000 năm này họ xác định hướng bằng gì? Nếu cho rằng: Các nền văn minh cổ xưa đã dùng sao Thiên Cực Bắc để tìm hướng Bắc, thì chúng ta đều biết rằng: Hướng Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc không hoàn toàn trùng khớp với phương Bắc của Địa cầu. Sự chính xác của các công trình kiến trúc nổi tiếng thời cổ đại, như Kim Tự Tháp Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa. 1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu. 2- Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước.Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn. Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Huyền thoại thì không phải là cơ sở để tin cậy như một chứng cứ thuyết phục, nếu không giải thích được những vấn đề liên quan đến nó. Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán.Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện", nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Những chứng cứ trên xác định việc phát minh la bàn không thuộc về văn minh Hán cổ. Cóc với đôn cố định. Hình tượng Cóc thật sự là bình dị và phổ thông như đã thấy, nhưng kết cấu lại đưa đến những sự trùng hợp mang tính tương đồng hay định hướng cho một sự suy nghiệm hợp lý giữa các hiện tượng liên quan. 1 - Ông Khiết được đặt trên đôn tròn có thể xoay các hướng tương làm cho miệng nhọn của hình tượng như một mũi tên chỉa về các phương tương tự mũi kim nam châm luôn xoay tít và chỉ hướng Bắc Nam khi đã ổn định. Do vậy, đôn đế thường được thiết kế tròn và bằng vật liệu không phải là kim loại, tương đồng với việc thiết kế vỏ la bàn bằng vật liệu không tạo sự nhiễm từ. 2 - Miệng Ông Khiết ngậm một đồng tiền tròn - theo quan điểm Lý học Đông Phương thì tượng tròn thuộc kim - Hình tượng này cho thấy tính hút kim loại - tiêu biểu là sắt - của La bàn. Những hình ảnh tiền bạc mà tượng cóc ngồi lên, cũng có thể tượng trưng cho tượng Kim, kim loại bị từ trường hút giữ. Như vậy tính từ lực được thể hiện qua hình tượng ẩn dụ mang tính thường thức phổ thông qua ý nghĩa cầu tài chiêu lộc. Nhưng đó là ẩn ngữ nhằm miêu tả một tri thức bị che lấp bởi hàng ngàn năm Hán hóa. Cấu trúc của miệng Ông Khiết hơi nghiêng chếch lên, nên khi ta chỉ cần cho đồng tiền vào đúng miệng là tự nó vào sâu tiếp trong miệng Ông Khiết, nói lên khi cho kim loại tới gần nam châm sẽ hút được nó. 3 - Lưng ông Khiết mang chòm sao Bắc Đẩu và nhìn lên trời, cho thấy ông nhìn về hướng Bắc..... 4 - Chân ông Khiết có nhiều đồng tiền nhỏ xung quanh, hình tượng thuộc kim một lần nữa được tái hiện, cho ta thấy nam châm có thể hút được kim loại từ rất nhiều chiều. Trong khi đế lại được chế tác hình tròn và bằng loại vật liệu khác và tách rời với ông khiết, muốn nói rằng, vỏ của la bàn phải được làm bằng loại vật liệu khác mang dáng dấp của hình tròn và không phải là kim loại, không phải là nam châm thì la bàn mới hoạt động được. 5 - Qua tác nghiệp đo xung khí bằng máy RFI của Nhà cảm xạ học Dư Quang Châu, cũng như sử dụng đo xung xạ bằng con lắc của nhà nghiên cứu lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho thấy rằng: Khi Ông Khiết ngậm đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn chịu sự tưong tác của thiên văn. Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất Đương nhiên ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang tính chiêu tài để lưu truyền, ông cha ta thêm chùm sao Đại Hùng tinh trong tranh dân gian Việt in hình của chòm sao trên lưng trong tượng ông Khiết. Trong buổi hội thảo về "Tính khoa học của phong thuỷ trong kiến trúc và xây dựng", nhà tổ chức đã trao tặng các đại biểu tượng Ông Khiết trên đế tròn. Đây cũng là biểu tượng và mong muốn phổ biến một hình tượng minh triết Việt đến với mọi người. Chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc: Không sử dụng sử giải mã những biểu tượng, truyền thuyết làm bằng chứng khoa học để minh chứng cho Việt sử 5000 năm vắn hiến. Nhưng, chúng tôi vẫn trân trọng giới thiệu một cách nhìn về tính minh triết Việt qua di sản của tổ tiên Lạc Việt để lại. Ẩn truyền của ông cha ta khi nói: “Con cóc là cậu ông Trời” thật là ý nghĩa. Và một điều thú vị khác nữa là: Trong cuốn "Cội nguồn trăm họ" của giáo sư Bùi Văn Nguyên, tác giả cho rằng - Kinh Dương Vương tên húy là Nguyễn Minh Khiết. Như vậy, danh từ "Khiết" chính là thủy tổ khai sáng nền văn minh Lạc Việt - Nền văn minh Khao Đẩu một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử.. Achau Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 PHONG THỦY LẠC VIỆT VỚI KIẾN TRÚC ĐƯƠNG ĐẠI Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương.Kiến trúc đương đại trên thế giới đã đi từ Kiến trúc Hiện đại sang phong cách Hậu hiện đại và nhờ vào kỷ thuật khoa học tiến bộ thì Phong cách Kỹ thuật công nghệ cao (Hitech) như một xu hướng mới nhưng chưa thật sự phổ biến. Dù thế nào đi nữa thì việc ứng dụng trong xây dựng đa phần hiện nay đều theo nếu không là phong cách Hậu hiện đại thì cũng là phong cách Hiện đại. Dựa trên những cơ sở hay điểm chung của các phong cách mà Phong thủy Lạc Việt nhận định và đánh giá sự tốt xấu hay thành bại của các công trình cụ thể theo phương pháp luận của phong thủy và trên cơ sở khoa học. Bài này chỉ xét trên vài nét đặc trưng của Kiến trúc Hậu hiện đại và Kiến trúc Hiện đại trên quan điểm của Phong thủy Lạc Việt. I KIẾN TRÚC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ CÁI NHÌN HÌNH LÝ KHÍ 1.Từ Triết Lý Đến Kiến trúc Hậu Hiện Đại: Trong bối cảnh đầy biến động của thế giới vào giữa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa Hậu hiện đại (postmodernisme) xuất hiện như một mảnh lực của một cá nhân bị bó buột và rào chắn bởi những quy cách, định chế, nội quy…vực dậy nói lên tiến nói phá bỏ luật lệ. Những Heiddegger, Derrida, Foucault, Nietzsche .v.v. gióng lên hồi chuông khai tử cho sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Hiện đại và văn hóa Tây phương, đó là hồi chuông chống lại sự đồng nhất về văn hóa, tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ủng hộ bảo nguyên tính đa dạng của từng nền văn hóa khác nhau, phản ứng lại uy quyền của lý tính, chống lại nền tảng, phê phán sự thống trị của lý tính, đẩy mạnh sự cách tân, phá cách và vượt qua chuẩn mực, vượt qua truyền thống. Từ lý tưởng triết học, chủ nghĩa hậu hiện đại đi vào thơ ca văn chương, hội họa, kiến trúc…như một phương thức hành động, sự bày tỏ thái độ rỏ ràng đối với thời cuộc. Và, nếu coi kiến trúc là một phương tiện thể hiện duy nhất và hữu hiệu cho sự thể hiện của mọi chủ nghĩa trong thời đại của sự phát triển vũ bão của kỷ thuật thế giới thì Kiến trúc Hậu hiện đại là một phương tiện phổ biến và đầy đủ sự đa dạng. Bắt đầu những thập niên 1950 cho đến thời hiện tại, tiếp nối trào lưu Kiến trúc hiện đại, Kiến trúc Hậu hiện đại hình thành thành một trào lưu mạnh mẽ và tầm ảnh hưởng lớn trong mọi thời đại kiến trúc. Để mở đầu cho thời kỳ Kiến trúc Hậu hiện đại, tác giả Charkes Jencks đã “khai tử” cho nền Kiến trúc Hiện đại bằng câu nói nổi tiếng như cắm một cây thập tự cáo chung: "Kiến trúc Hiện đại đã chết ở Saint Louis, Missouri ngày 15 tháng 7 năm 1972 vào hồi 15h32". Đó cũng là lời mở đầu cuốn sách "Ngôn ngữ của kiến trúc Hậu hiện đại" của chính ông. Cuốn sách này đã gây tiếng vang lớn trong giới kiến trúc và được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nó báo hiệu một trào lưu kiến trúc mới ra đời: Kiến trúc Hậu hiện đại. Nếu Kiến trúc Hiện đại chối bỏ những chi tiết trong kiến trúc được cho là rườm rà, phủ nhận truyền thống, không xem xét đến bối cảnh mà có thể đặt công trình ở bất kỳ môi trường nào, bất kỳ nước nào thì Kiến trúc Hậu hiện đại cho xuất hiện lại các chi tiết trang trí, phát triển thêm tính đa nghĩa của biểu tượng trong kiến trúc, chú ý đến mối quan hệ của kiến trúc đến môi trường, phát huy và hài hòa với tính bản địa của kiến trúc để tạo thành phong cách. Kiến trúc Hậu hiện đại đề cao tính biểu trưng lịch sử khi hòa trộn những nét thảm mỹ cổ điển với nét thẩm mỹ chủ đạo mang tính quốc tế nhằm đưa đến một cái nhìn chấp nhận và đầy cảm tưởng. Kiến trúc Hậu hiện đại mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường văn hóa, sẳn sàng hòa nhập với tính bản địa để tạo sự hài hòa. Đặt biệt, kiến trúc hậu hiện đại vận dụng tối đa tính ẩn dụ và trừu tượng, đẩy mạnh tính biểu trưng dẫn đến sự tự do thể hiện trong hình thể kiến trúc và nhấn mạnh cách bố trí không gian kiến trúc, đề cao đến trật tự trong kiến trúc, đôi khi đưa đến sự dàn trải không gian, tạo cảm giác một không gian vô hạn, không rõ ràng, thậm chí nhập nhằng với nhau hay chú trọng thể hiện cấu trúc theo hình học sơ cấp và đơn giản nhất mà ở đó người ta dể tìm thấy những khái niệm cổ điển như trục chính hay tâm nhà. Và kiến trúc Hậu hiện đại, luôn khuếch đại tính biểu tượng, biểu trưng, thể hiện chủ nghĩa chiết trung mạnh mẽ và đa dạng một cách triệt để. 2.Những Kiến Trúc Hậu Hiện Đại Tiêu Biểu: 2.1 Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên. 2.2 Được xem như là dấu son tiêu biểu cho Kiến trúc Hậu hiện đại, Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại, đề án này đã được giới thiệu tại triển lãm kiến trúc danh tiếng Biennale tại Venice (Ý) năm 2004 và hiện nay công trình được coi là niềm tự hào của Singapure. Lasalle tọa lạc trên con đường Joseph Menally chỉ có số 1 duy nhất tòa nhà Lasalle để bày tỏ lòng kính trọng vị hiệu trưởng đầu tiên Joseph Menally. Nhóm thiết kế học viện Lasalle là sự kết hợp giữa RSP Architects và Huger Dutton Associates (HDA). Tập đoàn Nhật Bản Takenaka phụ trách xây dựng - HDA từng tham gia cố vấn, thiết kế và xây dựng nhiều công trình nổi tiếng thế giới như Kim tự tháp tại Bảo tàng mỹ thuật Louvre - Paris. Với 6 block chính từ ý tưởng “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ - Lasalle chỉ toàn bằng kính kết hợp với màu đen của nham thạch, xiêu vẹo, quặn vỡ nhưng được nối kết tuyệt vời bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà. Khái niệm “Kiến trúc thân thiện” cũng được thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, khách bộ hành có thể băng qua học xá để qua con đường sau lưng hay trước mặt Lasalle. 2.3 Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee với kiến trúc đặc trưng đã trở thành biểu tượng cho thành phố lớn nhất của tiểu bang Wisconsin. Đây là công trình hoàn chỉnh đầu tiên ở Mỹ và cũng là viện bảo tàng “đầu tay” của kiến trúc sư nổi tiếng người Tây Ban Nha Santiago Calatrava. Với công trình này, Calatrava đã chứng tỏ được “quyền năng” của kiến trúc, tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng. Với tổng diện tích toàn bộ là 341.000m2, đây có thể được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20. Bảo tàng từng được tạp chí Condé Nast Traveler đánh giá là một trong những "kỳ quan mới của thế giới Chính thức mở cửa vào tháng 10-2001, trung bình mỗi ngày bảo tàng chào đón hơn 5.000 lượt du khách đến tham quan, cá biệt có những buổi triển lãm lớn, con số này có thể nhảy vọt lên đến 32.000 người ". Hàng loạt công trình qui mô lớn mang tính Hậu hiện đại được dựng lên tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc thể hiện sự dứt khoát hướng về cái mới của ngày mai. Những công trình này mang một thông điệp của ý chí vượt xa hơn phương Tây, do đó các công trình thường gắn liền với tên tuổi của các nhà thiết kế hàng đầu thế giới hiện nay. 2.5 Công trình mang dáng dấp của một chiếc tổ chim và thiết kế dựa trên ý tưởng bảo vệ môi trường sinh thái. Sân vận động do hãng Herzog & DeMeuron (Thuỵ Sĩ) từng giành giải thưởng Kiến trúc Pritzker danh tiếng, cộng tác với Arup Sport và nhóm kiến trúc Trung Quốc, thiết kế và thi công. Với kinh phí đầu tư 430 triệu USD, sân vận động có chiều dài 330, rộng 220m, cao 69,2m và được xây dựng trên tổng diện tích là 250.000 m2. 2.6 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại này xuất hiện giữa một Bắc Kinh cổ kính đã từng gây nhiều tranh luận sôi nổi. Được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Hình tượng “bầu trời” (thiên) thể hiện qua vòm kính và nền vuông “mặt đất” (địa) là một diện tích mặt nước vuông rộng lớn muốn bật ý niệm “Trời tròn đất vuông” kinh điển. Cái độc đáo của công trình này là lối vào nằm dưới hồ nước, tạo cảm giác toàn khu phức hợp trình diễn nghệ thuật nằm dưới mặt đất. Ba cơ sở chính là nhà hát Kinh kịch trung tâm, phòng hòa nhạc và nhà hát kịch nói được bố trí nằm gọn trong khối “vỏ trứng”, không gian còn lại là nơi giao lưu nghệ thuật. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 (tiếp theo) 2.7 Sân bay quốc tế thủ đô Bắc Kinh sắp hoàn tất do KTS hàng đầu về công nghệ cao thế giới người Anh là Norman Foster thiết kế, mang dáng dấp “rồng bay” (phi long). Ông là người mới đoạt giải kiến trúc Pritzker cao quí (tương đương giải Nobel ngành kiến trúc). Nó trông giống hai chữ Y ghép lại, thể hiện hình tượng hai chữ “nhân” (người). Một đầu là nơi đón đưa của các phương tiện vận chuyển trên mặt đất (xe lửa và xe hơi), còn đầu kia là để đón nhận máy bay đến từ các vùng trời khác nhau trên thế giới. 2.8 Trụ sở Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, do KTS thời danh người Hà Lan Rem Koolhaas, từng đoạt giải kiến trúc Pritzker năm 2000, thiết kế. Tháp truyền hình cao 230m gồm hai tháp gắn kết nhau ở phần đế dưới cũng như phần trên đỉnh bằng hai cánh hình chữ V sắp ngược nhau. Ông đã chọn giải pháp thực hiện một lớp vỏ bọc bằng kính bên ngoài, sử dụng vừa làm kệ sách vừa che chắn ánh nắng, đồng thời trang trí màu sắc vui tươi. 2.9 Và một công trình mang tầm tham vọng cao hơn: tòa nhà REN. Với thiết kế hình chữ "Nhân" (người) đặc biệt, toà nhà REN bao gồm hai toà nhà trong một. Tòa nhà thứ nhất, nhô lên từ mặt nước dành để vận động thân thể và làm một trung tâm văn hóa dưới nước. Tòa nhà thứ hai, mọc lên từ đất liền dành cho hoạt động tinh thần, khai sáng và dùng làm trung tâm hội nghị và bố trí các chỗ họp hành. Lên trên, hai toà nhà gộp lại thành một khách sạn có tới 1.000 phòng và tạo thành hình chữ "nhân" (tiếng Trung Quốc). Được biết REN sẽ có một mái vòm, nơi đó tạo ra một quảng trường để công chúng tụ tập và đây sẽ là khu vực chính của cuộc triển lãm trông ra sông HuangPu. Các kiến trúc sư đã thiết kế quảng trường này không bị mưa ướt nhưng ánh sáng mặt trời vẫn chiếu qua được từ phương Đông vào buổi sáng và từ phương Tây vào buổi chiều. Tóm lượt: REN - Peoples Building Địa điểm:Khu vực tổ chức triển lãm thế giới, Thượng Hải, Trung Quốc Thời điểm hoàn thành:2010 Giá trị đầu tư ước tính: €1,100m (một tỷ một trăm triệu euro) Quy mô: Tòa nhà REN : 50.000m² Các tòa nhà phụ: 500.000m² Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. 2.10 Vài công trình kiến trúc tại Việt Nam: khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản). Với diện tích xây dựng khoảng 4,3 ha, ngay cạnh Trung tâm hội nghị Quốc gia ở xã Mễ Trì, dự án khách sạn Lotus có vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD, với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng và dự tính khi hoàn thành sẽ trở thành khách sạn lớn nhất Hà Nội. 2.11 Cao ốc Thuân Kiều Plaza. Một trong những cao ốc được hình thành sớm nhất của TP HCM, ở một nơi thuộc vị trí thuận lợi và năng động với sức đầu tư lớn. 2.12 Và những công trình Kiến trúc Hậu hiện đại khác… đi vào kiến trúc dân dụng một cách tự nhiên và vui nhộn. 3. Cái Nhìn Của Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí: Mọi trào lưu nghệ thuật, trào lưu kiến trúc đều dựa trên một lý thuyết, một chủ nghĩa để làm mục đích thể hiện và cái này phủ định cái kia, cái sau phủ nhận cái trước. Riêng Phong thủy Lạc Việt, chỉ dựa trên một lý thuyết duy nhất là Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất và bao trùm của người Việt, trường tồn với thời gian, làm kim chỉ Nam đánh giá tính tốt xấu của kiến trúc, xác định sự tương tác tích cực hay tiêu cực của kiến trúc cũng như môi trường lên đối tượng quán xét chủ yếu là con người. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành nếu được xem là một triết học định hướng tính sáng tạo và thẩm mỹ cho kiến trúc thì vẫn là một cơ sở lý thuyết định hướng thẩm mỹ có tính bao hàm cao, dĩ nhiên nó không phải là một lý thuyết triết lý nhằm làm phương thức thể hiện tư tưởng phản kháng lại thời cuộc hay môi trường mà nó là một phương thức triệt để nhằm một mục đích duy nhất suy xét sự thịnh suy của công trình kiến trúc, sự thành bại của đối tượng tồn tại và chịu sự tác động trực tiếp của kiến trúc đó, đối tượng đó là nhân sinh. Như vậy lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà phương thức ứng dụng của nó là Phong thủy mang một mục đích duy nhất rỏ ràng là phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của nhân sinh, nhắm thẳng đến tính chất duy nhất, quyết định lên nhân sinh là sự tốt xấu và thịnh suy như một tôn chỉ cho sự thể hiện. Nếu Kiến trúc Hiện đại phủ nhận sự gắn bó với môi trường, sẳn sàng tồn tại độc lập với môi trường thì Kiến trúc Hậu hiện đại đi ngược lại chiều hướng ấy, nó mang tính linh hoạt, thích hợp với mọi môi trường sẳn sàng hòa nhập và hài hòa với môi trường chịu sự tương tác của môi trường, đó là môi trường giới hạn địa lý cụ thể và môi trường văn minh văn hóa của một địa lý cụ thể. Phong thủy có phần như vậy, nhưng cũng khác, không khu biệt trong một môi trường mà thể hiện sự bao trùm của tính tương tác của vũ trụ lên vạn vật, vận dụng tính tương tác đó để xác định xu hướng tồn tại của kiến trúc tạo nên tính vững bền cho kiến trúc, vì vậy nó không phân biệt địa lý hay văn hóa, tiếng nói hay màu da và cũng không thể nói là nó hòa nhập hay thích hợp với môi trường trong khi mà chính bản thân Phong thủy đã thể hiện quy luật tương tác. Một cách rỏ ràng hơn rằng Phong Thủy không khu biệt do tính đặc trưng về văn hóa hay quan niệm kiến trúc của một cộng đồng hay một quốc gia, ngược lại chính bởi tính đặc trưng về kiến trúc của từng khu vực cộng đồng lại chứng minh cho sự tương tác trong phong thủy. Ví dụ, so sánh giữa 2 vùng, một ở cao nguyên Hoàng Thổ ở Trung Quốc, sống trong nhà hầm, đào trong lòng đất và một ở Hồ Nam sống trên nhà sàn thì sẽ thấy rỏ sự tương tác của con người với môi trường thiên nhiên rỏ ràng khác nhau. Phương pháp phong thủy chỉ quan tâm mối quan hệ tương tác giữa nhân sinh với kiến trúc và với môi trường xung quanh trải dài đến xa thẩm của vũ trụ để đi đến một hiệu quả của sự quán xét được gọi là vận mệnh. Điều nổi bật ở Kiến trúc Hậu hiện đại là tính biểu trưng, biểu tượng trong kiến trúc. Có thể chính bởi tính chất này mà Kiến trúc Hậu hiện đại mang lại sự tự do trong sáng tạo và là nguồn khơi gợi cho sự thể hiện các ý tượng sáng tạo vượt qua mọi rào chắn của những tiêu chuẩn, quy định của Kiến trúc truyền thống hay cổ điển và vượt qua mọi sự khác biệt về quan niệm kiến trúc theo từng văn hóa vùng miền để đi đến sự tự do thể hiện sức mạnh tư duy thông qua những hình tượng kiến trúc. Bởi vậy sự đa dạng đến nỗi phức tạp hay kỳ dị về hình thức trong các mô hình Kiến trú Hậu hiện đại là vô vàng. Chính bởi đặc điểm này mà sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt lên các mô hình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện một cách linh hoạt, phong phú, ưu việt và giầu tính tưởng tượng phóng khoán để đi đến sự nhận định tốt xấu của công trình kiến trúc. Mỗi một kiểu mô hình kiến trúc được tạo ra đều mang tính hình tượng và ý nghĩa biểu trưng nhằm diễn tả ý tưởng chủ đạo, nội dung nhắm đến theo một hệ tư tưởng sẳn có, được gọi là phong cách và dừng lại ở đó với ý nghĩa biểu trưng được thỏa mãn, công năng sử dụng được giải quyết, yếu tố thẩm mỹ được công nhận theo một phạm trù, thì hơn nữa, chính tính mình tượng và biểu trưng đó lại là cơ sở cho sự suy xét tốt xấu thành bại cho mỗi kiến trúc cụ thể dựa trên một hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngủ Hành mà phương pháp vận dụng của nó là Hình Lý Khí. Có thể nói Hình Lý Khí là phương pháp quán xét hay đánh giá hoàn toàn phù hợp đối với kiến trúc Hậu hiện đại thông qua tính biểu trưng, tính hình tượng của mô hình kiến trúc nhằm tiên lượng sự tốt xấu của công trình trong sự tương quan đa chiều. 4. Vậy Hình Lý Khí là gì? Giả thích cho phạm trù này, nhất thiết phải quay về sự giải thích Khởi nguyên vũ trụ bằng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân đích thực là giống nòi Rồng Tiên Bách Việt với nền văn hiến 5000 năm, một thời rực rỡ dãy phía Nam sông Dương Tử. Con người đang tồn tại trong thực tại Hậu Thiên so với thể bản nguyên của vũ trụ gọi là Thái Cực. Một trạng thái vô định của không không gian, không thời gian, không cực lớn cũng không cực nhỏ, nói nhanh cũng không nhanh nói chậm cũng không chậm, không có cái không để nói tới cái có, không sáng không tối, không có sự phân biệt nên không thể dùng mọi danh từ để nói về nó, chẳng có đối đãi, viên mãn trong giây 0 tuyệt đối. Và nếu trạng thái này vẫn giữ nguyên như thế thì không có con người và vạn vật tồn tại trong thế giới như ngày nay, vì vậy Thái Cực viên mãn trong trạng thái tuyệt đối đến một lúc nào đó đã xuất hiện một trạng thái đối đãi tương đối có sau so với nó. Cái đối đãi có sau gọi là Âm – ngay từ khởi nguyên vũ trụ và như vậy cái tuyệt đối – Thái Cực có trước sinh ra cái tương đối có sau thì Thái Cực trở thành Dương. Vậy là hai khí Âm Dương xuất hiện, khí Dương nhẹ trong thì bay lên, khí Âm nặng đục thì rớt xuống tụ lại thành hình. Vạn vật cứ tiếp nối trùng trùng duyên khởi. Phong thủy Lạc Việt Hình Lý Khí vận dụng nguyên lý cho rằng khí tụ thành hình, hình nào khí đó, có hình là có khí để xác định sự thịnh suy, thành bại của vạn vật. “Hình nào khí đó” được xác định như một định đề. Khi vật chất tụ thành hình với muôn ngàn hình tượng thì bản thân nó đã có khí. Theo như định nghĩa về Khí trong Phong thủy Lạc Việt của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh thì “Khí” là một dạng tồn tại của vật chất, được hình thành bởi sự tương tác của các vật thể và chịu sự chi phối bởi sự tồn tại của các vật thể, đồng thời tác động lên các vật thể ấy. Như vậy "khí" ở đây không phải là không khí, ánh sáng, gió, nước…và mọi vật khi có hình thì đã có khí. Cũng như trong Đông Y, khái niệm “khí” không chỉ đến huyết, dịch, hiệu điện thế nhân thể hay năng lượng tỏa ra thành nhiệt lượng cơ thể mà đó là phản ánh một thực tại tương tác tế vi, nếu là Tiểu vũ trụ con người thì ngay trong chính nó, nếu là Đại vũ trụ vô cùng tận thì trong chính sự tương tác của vũ trụ này. Có hình là có khí, không thể tách rời và “Lý” được xem như phát ngôn của chiều tương tác “Hình Khí” đưa đến một sự nhận định tốt xấu. Vì vậy Hình Lý Khí nếu được xem là tiêu chí duy nhất để đi đến sự nhận định mang tính vận mệnh thì chính tiêu chí đó tự phản ánh một quy luật khách quan vượt lên trên những tiêu chí mang tính duy thức hay chủ nghĩa nhất thời mà giá trị nhận định tính nghệ thuật hay tính hình tượng dựa trên kinh nghiệm luôn thay đổi theo chiều vận động của xã hội. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 (tiếp theo) 5. Nhận xét theo quan niệm Hình Lý Khí đối với một số kiểu kiến trúc hay công trình: 5.1 Tòa nhà Royal College of Physicians Tòa nhà Royal College of Physicians thiết kế bởi Denys Lasdun ở Regent Park được cho là công trình Kiến trúc Hậu hiện đại đầu tiên, nếu xét trên cái nhìn Hình Lý Khí thì sẽ được miêu tả như hình tượng miệng một con cá sấu đang hả miệng nhưng lại bị chống bởi ba cây gậy và nếu xét sự vững chãi của tòa nhà theo cảm quan thì công trình tỏ ra bị mất cân đối ngay phần đầu, hai khối kiến trúc trắng phía trên như hai miếng phô mai để chênh venh trên một nền và được chống chỏi bằng ba que tăm bé tí. Một hình tượng đầy khó khăn hay trở ngại. 5.2 Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Học viện Nghệ thuật Châu Á Lasalle Sia - College of the Arts tại Singapore, được chọn thay mặt cho phong cách kiến trúc Hậu hiện đại. Ý tưởng xây dựng một cộng trình từ hình tượng của sự “tan vỡ” của một tảng băng trôi khổng lồ đã là một hình tượng mang ý nghĩa không tốt trong phong thủy. Nếu theo chiều cảm quan khác trên tổng thể mô hình thì kiến trúc như một khung cảnh của một góc chiến địa với 3 tường chắn và những lổ châu mai, những khe núi để luồn lách ẩn mình và những đường chiến hào dọc ngang phía sau. Hoặc cũng có thể hình dung kiến trúc như một con hổ bị nhốt trong tường đá và bị căng ra tư phía để lột da và cuối cùng là mảnh da căng dưới đất. đi vào phần bên trong của công trình thì kết cấu toàn bằng kính với những khu đà một màu đen của nham thạch, kết cấu xiêu vẹo tạo cảm quan thiếu sự vững chắc, tuy vạm vỡ và được nối kết bởi những cầu nối giữa 6 khối nhà, nhưng cũng thấy vẽ trống trãi và hình tượng “lộ xương” bên trong, hơn nữa cũng vì việc thể hiện bằng sự rộng mở của không gian, không có cổng trường, các lối đi thông suốt tạo nên những cách của sự thoái khí. Xét tổng thể hình tượng và kết cấu thì học viện Lasalle thì công trình này mang hình tượng âm khí nặng nề và dương khí suy thoái. Ý nghĩa và cũng như hình tượng cấu trúc đều dẫn đến nhưng ý nghĩa không tích cực và như vậy xét theo quan niệm Hinh lý Khí trong Phong Thủy lạc Việt thì tất nhiên cũng không thuộc cách tốt. 5.3Công trình Bảo tàng Milwaukee Công trình Bảo tàng Milwaukee - “Đôi cánh hải âu quyền năng”, nằm kề bên hồ Michigan, được cho rằng đã tạo một bước đột phá trong thiết kế kiểu dáng và công năng và được xem là tác phẩm đỉnh cao của loại hình kiến trúc động ảo, một phong cách Kiến trúc Hậu hiện đại do chính Calatrava khởi xướng từ cuối thế kỷ 20, đem lại thành công lớn và là biểu tương cho tiểu bang Wisconsin. Công trình bằng kiến trúc động ảo với đôi cánh bay lên là một hình tương đẹp mang ý nghĩa đẹp và cũng do sự vận động của đôi cánh nên đây là một công trình duy nhất tự tạo được dương khí chế ngự được phần âm khí và sát khí nặng nề của tổng thể kiến trúc lộ cốt bên trong và hình tượng lối vào như hàm cá mập hả họng nuốt chửng mọi thứ. 5.4 Sân Vận Động Bắc Kinh. Đây là một công trình điển hình cho hình tượng “lộ cốt” (trơ xương) mà Phong thủy Lạc Việt thường đề cập. Một hình tượng hoàn toàn xấu về mặt hình thể kiến trúc theo quan niêm phong thủy. Có lẽ vì thế báo chí thường đề cập đến sân động tổ chim này thường gọi nôm na là “cái bát trống rỗng”. Nếu nhìn với một cảm quan khác thì công trình như chiếc nón chẳng những thủng ở đỉnh đầu mà còn bị rách bươn hay có đường chỉ vá chằn vá đụp. Công trình này lúc đầu gây được sự chú ý của dư luận và công chúng cả nước, thu hút khách tham quan, nhưng sau đó và cho đến nay lượng khách tham đã không được như mong muốn của nước chủ nhà tưởng tượng và hy vọng như ban đầu. “Sân vận động Tổ chim - với chi phí xây dựng 450 triệu USD - giờ cần đến 15 triệu USD bảo trì hàng năm. Tuy nhiên, nguồn thu duy nhất là từ khách du lịch, với 9 USD/người cho mỗi lần vào chụp ảnh chiếc "bát" trống rỗng. Số du khách tới đây đã giảm từ 80.000 người/ngày trong tháng 10/2008 xuống chỉ còn 10.000 vào tuần cuối tháng 3. Với tình trạng này, các nhà chức trách ở Bắc Kinh khó có thể đạt được doanh thu 30 triệu USD/năm như mục tiêu đã đề ra đối với sân vận động này.” Trích báo điện tử baomoi.com (11/4/2009) 5.5 Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh Nhà hát lớn quốc gia tại Bắc Kinh của kiến trúc sư (KTS) Paul Andrieu, chuyên gia hàng đầu người Pháp, được chọn trong một cuộc thi quốc tế, công trình Kiến trúc Hậu hiện đại được thể hiện là khối bán cầu bằng kính vĩ đại đặt trên một mặt nước vuông nằm ở vị trí trung tâm quảng trường Thiên An Môn. Công trình muốn thể hiện ý tưởng “trời tròn đất vuông”, nhưng trên thực tế mô hình kiến trúc lại dẫn đến một cảm quam khác. Toàn bộ phần vuông thể hiện là đất lại được thiết kế thành thủy, phần công trình tròn ở giữa dẫn đến hình tượng như một đĩa bay bị nạn ngập dần trong nước hay bị mắc cạn và người phương Tây thì gọi công trình này tên là “The Egg”, tức là quả trứng chim, nhưng tiếc thay quả trứng này lại bị úng ngập trong nước hay cũng có thể liên tưởng như một trứng trứng khủng long bị úng trong vũng nước tù. Do thiết kế mái vòm trong suốt và nước xung quanh, nên công trình mang nét vượng của dương khí phù hợp với những nơi mang tính chất cộng đồng hay hoạt động văn hóa nghệ thuật, nhưng tổng thể hình tượng lại không thể hiện được ý nghĩa tích cực nên sự phát triển cũng hay mong muốn hiệu quả cho nhiều lợi ích khác chắc hẳn cũng hạn chế hay trì trệ, bởi hình tượng một quả trứng trong nước không dẫn đến sự hình thành một sự sống hay sự phát triển. 5.6 Sân bay quốc tế Bắc Kinh “Một biểu tượng mới của Bắc Kinh-Sân bay quốc tế thủ đô với hệ mái vòm không gian lớn được lấy ý tưởng từ hình ảnh Rồng bay…”. Đó là miêu tả của báo giới cho một hình tượng. Phong thủy Hình Lý Khí cũng có cái nhìn tương đồng và sâu sắc hơn, nghĩa là một con rồng với thân bị đoạn thành ba khúc. Nhìn dưới góc độ khác, tổng thể công trình như một bộ xương cá bị đứt đoạn hay một ngọn “thiết hỏa trường thương” bị đứt khúc. Bản thân công trình như thể một cách vô tình tạo ra sát khí cho môi trương xung quanh và chính tính hình tượng của công trình đã tạo nên một trường khí xấu có tác động đến vận mệnh của công trình và sự tồn tại và phát triển của công trình sẽ như thế nào thì còn dựa trên nhiều tiêu chí quán xét khác của Phong thủy Lạc Việt. Tuy vậy theo website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Sân bay Bắc Kinh cay mũi vì bị dán nhãn 'dở ẹc' Thành phố chủ nhà của Olympic 2008 bực bội phản bác thông tin trên website của tạp chí Forbes cho rằng sân bay quốc tế Bắc Kinh là tồi tệ thứ nhì thế giới, xét về chuyện muộn chuyến. Tổng giám đốc sân bay Dong Zhiyi cho biết các số liệu chính thức của họ cho thấy 86,28% số chuyến cất cánh từ đây đúng giờ, cao hơn nhiều so với mức mà Forbes nêu ra là 33%. Trên trang web của mình, tạp chí Mỹ viết: "Tại sân bay quốc tế ở thủ đô Bắc Kinh - nơi đang mở rộng để đón Olympic mùa hè tới, chỉ 33% số chuyến bay cất cánh đúng giờ năm 2007. Sân bay này chỉ kém Brasilia một bậc xét về mức độ tồi về chuyện muộn chuyến". Forbes đã khảo sát hơn 100 sân bay, lấy số liệu từ FlightStats - một cơ quan chuyên theo dõi thông tin về các chuyến bay. Các sân bay được khảo sát đều thuộc loại có thể phục vụ ít nhất 10 triệu hành khách trong năm 2006 trở lên. Ông Dong nói sân bay Bắc Kinh không đáng bị xếp hạng xấu thế. Theo con số mà ông đưa ra, thì sân bay của thành phố này tốt hơn nhiều so với ga hàng không tệ nhất châu Âu - Charles de Gaulle - với 50% số chuyến đúng giờ. Tuy thế, nó vẫn phải ngượng ngùng trước sân bay Osaka Itami của Nhật, với 97% đúng giờ. Trung Quốc đang nỗ lực cải thiện hạ tầng các sân bay để chuẩn bị đón lượng khách dự kiến sẽ tăng vọt trong hè này. Tuy thế hành khách vẫn thường phải chờ hàng giờ ở nhà chờ và chỗ lấy hành lý. Nhà chức trách cũng ra một loạt quy định nhằm buộc các hãng hàng không và nhà ga phục vụ hành khách tốt hơn. Sân bay Bắc Kinh đã phục vụ hơn 50 triệu khách trong năm ngoái, sẽ mở thêm cổng thứ ba vào cuối tháng hai này. T. Huyền (theo Reuters) 5.7 Trụ sở truyền hình Bắc Kinh, Trung Quốc (CCTV) Ảnh chụp trụ sở mới của CCTV (trái) và tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental sau khi bị cháy - Ảnh: AFP Công trình được xây dựng theo hình thế hai chữ V ngược nhau. Toàn bộ công trình đều phạm cách “lộ cốt” (trơ xương), nếu liên tưởng đến một cái rọ thì đây là cái rọ bắt cá hình ống vuông. Khối kiến trúc tạo ra cảm giác mất cân bằng như có xu hướng đổ ập về phía trước. Thông thường hình dạng lộ cốt thể hện cho một kết cuộc không mấy tốt đẹp, báo trước sự thất bại và những khó khăn bất ngờ, những biến cố têu cực hay có hại cho công trình đó, nghĩa là những ai tồn tại trong công trình trình đó đều phải chịu sự tương tác có trường khí tiêu cực. Và đây là thông tin liên quan đến TTCV: Trích từ nguồn: www.baomoi.com Một cán bộ đài CCTV bị bắt trong vụ cháy KS Mandarin Oriental TTO - Cảnh sát Bắc Kinh ngày 12-2 cho biết đã bắt giữ một nhân viên cấp cao của Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) và 11 người khác do có liên quan đến vụ đốt pháo hoa bất hợp pháp làm cháy khách sạn Mandarin Oriental. Trong số những người bị bắt, còn có Xu Wei, 50 tuổi, phụ trách xây dựng trụ sở mới cho CCTV, nằm cách khách sạn Mandarin Oriental khoảng 200m. Trong khi đó, dẫn nguồn tin cảnh sát, Tân hoa xã cho hay ba nhân viên khác của CCTV và 8 người nữa cũng đã bị tạm giữ, tuy nhiên không cung cấp thêm thông tin chi tiết. Vụ cháy lớn tối 9-2 đã thiêu hủy gần như toàn bộ tòa nhà khách sạn Mandarin Oriental, dự kiến sẽ là một trong những khách sạn hạng sang bậc nhất Bắc Kinh, khiến một nhân viên cứu hỏa thiệt mạng và bảy người khác bị thương. Tranh Cãi Về Logo của CCTV Nguồn: www.xaluan.com Một cuộc tranh cãi đang nổi lên khắp Trung Quốc sau khi một quan chức cấp cao yêu cầu Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) phải thay đổi logo đã được CCTV sử dụng từ 30 năm qua vì nó phá vỡ nhiều nguyên tắc trong bộ luật của nước này. Wang Dengfeng, Vụ trưởng Vụ ứng dụng và Quản lý Ngôn ngữ tiếng Trung, cho rằng những logo mà 20 đài truyền hình, trong đó có 12 kênh của CCTV, “đang vi phạm nhiều quy tắc, do đó cần phải được thay đổi”. Các logo này hoặc là dùng tiếng Anh viết tắt hoặc là sự hòa trộn của tiếng Anh và tiếng Trung. Luật về Ngôn ngữ viết và nói tiếng Trung được ban hành hồi tháng 1/2001 quy định rõ các logo điện ảnh và truyền hình nhất thiết phải mang ngôn ngữ cơ bản của Trung Quốc, tức là tiếng Quan thoại. "Ngôn ngữ được sử dụng trên các logo truyền hình nên tuân theo luật để quảng bá văn hóa quốc gia", tờ Beijing Times trích đăng lời ông Wang. Nhưng một quan chức của CCTV cho rằng, đài truyền hình đang sử dụng logo rất dễ nhận biết và biểu tượng đó đã quen thuộc với khán giả từ hàng chục năm qua, thế nên “sẽ khó khăn nếu thay đổi” và “logo này sẽ chỉ được thay đổi nếu như các nhà chức trách cấp cao hơn thấy cần thiết phải làm như vậy”. Ông Jiang Zhipei, nguyên Chánh án của Tòa án Nhân dân Tối cao, cũng nhận thấy logo của CCTV không cần phải thay đổi. “Đài truyền hình Trung ương đã sử dụng nó trong 30 năm và bộ luật được ban hành sau đó rất lâu. Nhiều logo truyền hình, trong đó có cùa CCTV, có những giá trị thị trường nhất định. Nếu không được phép sử dụng thì các logo đó sẽ bị mất đi giá trị mà chúng đã tạo nên”. Tuy nhiên, có nhiều người lại ủng hộ việc thay đổi logo. Một cư dân mạng có nickname là Minshanxue viết rằng: “Là một đài truyền hình Quốc gia thì logo nên dùng hoàn toàn tiếng Trung vì nó ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia”. Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc được thành lập vào năm 1958 và tên viết tắt tiếng Anh là CCTV được sử dụng từ năm 1978. 5.8 Tòa nhà REN: Tòa nhà REN được đề xuất làm khách sạn, trung tâm hội nghị và giải trí vào dịp Triển lãm thế giới World Expo tổ chức năm 2010 tại thành phố Thượng Hải. Đây là một công trình tầm cỡ của Trung Quốc. Công trình này cũng được nhà thiết kế cố giải thích theo hình tượng Ngũ Hành trong nguyên lý học thuật cổ đông phương ở mọi góc độ nhìn. Tuy vậy những giải thích hay gợi ý đó không thật sự phù hợp với cai nhìn Hình Lý Khí. Tổng thể công trình như một nửa dưới con người bị dựng thành bia đỡ đạn với hậu quả là trên thân hằng lên những vết lổ chổ của vết tích bị đạn băm và thân thể bị kiệt lực với đôi chân không đứng nỗi, chuẩn bị ngập sâu và chìm dần trong biển nước. Có thể nhìn ở một cảm quan khác thì công trình như một mảnh vải bị xé toạc ra làm đôi. Một mảnh vải cũ rách loan lỗ. vì vậy đậy cũng là một hình tượng mang khí vận không mấy khả quan cho một công trình được trù tính là nơi vui chơi giải trí, trung tâm hội nghị hay khách sạn cao cấp trong tương lai. 5.9 Khách sạn 5 sao Lotus – Hoa sen của Tập đoàn Riviera (Nhật Bản), tại Mễ Trì. Công trình khách sạn 5 sao Lotus tại Mễ Trì là sự hoài vọng của các chủ đầu tư. Nhưng với một Hình Lý Khí tiêu cực, ngay từ đầu tiến độ đầu tư và hiện quả kinh doanh đã có nhiều trắc trở. Tổng thể công trình được thể hiện theo phong cách Hậu hiện đại, nhưng bằng cái nhìn cảm quan Hình Lý Khí trong Phong thủy Lạc Việt thì đây như hình tượng của một đoàn xa lửa với những toa tàu bị chìm trong biển cả hay có thể liên tưởng đến một hình tượng rỏ hơn, như một cổ quan tài bị chìm trong biển nước. Và dù cho nhìn ở cảm quan nào hay dù là hình tượng đơn giản nhất với mái nhà lượn sóng hình tượng của thủy và khối công trình bên trong vuông dài tượng hình Mộc thì mộc này bị chìm ngập trong nước cũng đã thể hiện tính xấu trong ý nghĩa của Ngũ Hành. Và hiệu quả của nó được kiểm chứng qua các thông tin liên quan sau: Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc sẽ là chủ đầu tư dự án khách sạn Hoa Sen Theo Kinh tế đô thị - 23/10/2009 KTĐT - Chiều ngày 21/10, tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Tổng công ty CP XNK Xây dựng VN (Vinaconex) và Công ty Sản xuất thương mại và xây dựng Thiên Thanh đã xin rút lui khỏi dự án khách sạn 5 sao Lotus (Hoa Sen). Như vậy, chỉ còn lại Công ty CP phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC) là nhà đầu tư duy nhất được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội lựa chọn để trình UBND Thành phố Hà Nội quyết định. Dự án khách sạn Hoa Sen (cạnh Trung tâm Hội nghị Quốc gia, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có diện tích khoảng 4,3 ha với thiết kế gồm 550 phòng sang trọng. Vốn đầu tư dự kiến khoảng 500 triệu USD. Đây là dự án khách sạn lớn nhất tại Hà Nội. Theo yêu cầu của thành phố Hà Nội, nhà đầu tư cần phải chứng minh được tài chính. Cụ thể, phải nộp bảo lãnh thực hiện dự án bằng 10% tổng mức đầu tư (25 triệu USD) trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được quyết định lựa chọn chủ đầu tư; 30 ngày sau khi nhận giấy chứng nhận đầu tư - chủ đầu tư nộp 5,5 triệu USD tiền ủng hộ không hoàn lại cho ngân sách TP Hà Nội. Trước đó, Tổng công ty CP Kinh Bắc đã làm việc với nhà đầu tư Nhật Bản để nhận lại tài liệu thiết kế và các tài liệu liên quan và có nhiều cam kết trong đó có cam kết về nộp ngay tiền bảo lãnh và tiền thuê đất. Đây là dự án qui mô đầu tư lớn, thuộc lĩnh vực Thành phố chủ trương khuyến khích kêu gọi đầu tư, thuộc danh mục đăng ký khuyến khích hoàn thành đúng dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, có vị trí thuận lợi, giá trị thương mại cao vào bậc nhất hiện nay tại khu vực cửa ngõ phía Tây vào trung tâm Thủ đô - nếu trì hoãn lâu không triển khai sẽ lãng phí tài nguyên đất đai. V.B 5.10 Tòa nhà Thuận Kiều Plaza. Tọa lạc ngay trung tâm quận 5 Tp HCM, nơi hoạt động kinh tế nặng động và sầm uất nhất Sài Gòn. Vậy mà cho đến hiện nay, các hoạt động nơi đây đều kém hiệu quả. Riêng đa phần các căn hộ của ba tòa nhà đều như bỏ hoang. Tổng thể công trình như hình ảnh con tàu Titanic nổi tiếng với 3 cột khối tàu quá khổ cao vút và con tàu bị cắt đôi bởi con đường băng ngang ngay đoạn giữa thân tàu. Ba ống khói lớn hơn tổng thể thân tàu thể hiện sự mất cân đối, lại thêm con đường cắt ngang thân thể hiện một hình tượng không mấy tốt đẹp. Nếu nhìn bằng một cảm quan khác, ba tòa nhà như ba nén nhang to tướng cắm trên mộ bia. Mặt khác nếu chỉ xét riêng ba tòa nhà thì hình thể cả ba đều thuộc cách xấu, vì không những khuyết góc mà còn bị phạm vẻ góc cạnh xương xẩu. Ba khối công trình lớn ở giữa cân đối với khối công trình nằm ngang có hai đầu nhô tạo cách “ Nhị quỷ đài kiện” (hai con quỷ chửi nhau). Và khi nhìn bên trong tòa nhà thì một lối chi chính ở giữa giao với các lối đi ngang tạo thế “Bại hổ phân thây” ( như con hổ bị căn ra lột da xẻo thịt). Hoặc có thể tưởng tượng được hình ảnh của ba mũi khoan khoan vào một khối bê tông giữa chừng bị đứt đoạn và dính chặt. Tóm lại, đây là một công trình còn có khá nhiều yếu tố khác và nhiều điểm khác thất bại về mặt phong thủy. 5.11 Dự án cao ốc văn phòng - trung tâm thương mại - căn hộ cao cấp tại 289 Trần Hưng Đạo, Quận 1. Đây là một công trình dân dụng tư nhân, theo dự án sẽ khởi công vào ngày 1/11/2009. hình thể công trình mang phong cách Hậu hiện đại thể hiện một ý tưởng táo bạo và lạ lẫm trong hình tượng kiến trúc. Hai khối kiến trúc hình tam giác chồng lên nhau thuộc hỏa hình thể hiện một ý chí mạnh mẽ muốn đạt được mọi thành quả trong kinh doanh khi công trình này hoàn tất. Hai khối tam giác chồng lên nhau thành hình ảnh như một cây búa hay lưỡi rìu với đầu rìu bên trên chém về một hướng hể hiện ý chí san bằng mọi thử thách và cản trở trên bước đường kinh doanh, vô hình trung tạo một luồng sát khí đủ lớn và đủ mạnh làm phương hại cho môi trường phong thủy mà hướng lưỡi rìu này chém tới, chứng tỏ một tinh thần độc đoán và ít khi tạo được sự thân thiện với môi trường xung quanh hay những đối tác xung quanh. Hơn nữa, tổng thể khối kiến trúc tạo một cảm quan mất thăng bằng khi phần dưới, tầng trệt, không thể hiện được sự vững chãi với cấu trúc chênh vênh. Và nhìn như thế nào đi chăng nữa thì khối kiến trúc cũng phạm phải cách “lộ cốt” giơ xương trên toàn diện công trình thể hiện những gian truân có thể đưa đến một thất bại nặng nề khi khí vận xấu phát tác. Nếu xét với một cảm quan nhẹ nhàn hơn thì khối công trình như hai phần bánh bông lan hay hai phần phô mai bị chuột gậm được xếp chồng lênh nhau rất chênh vênh. Đây là sự phân tích các yếu tố xấu đối với bản thân công trình, nhưng đều nguy hại không kém là chính hình tượng công trình tạo một trường sát khí lớn ảnh hưởng đến môi trường xung quanh mà khí sát của công trình này hướng tới. 6. Tạm kết Qua những nhận định và phân tích trên theo quan niệm Hình Lý Khí trong Phong Thủy Lạc Việt, cho thấy rằng sự thể hiện bằng hình tượng của công trình kiến trúc mang yếu tố của tính dự báo cho xu hướng tồn tại của thực thể đó trong không thời gian và sự đo lường về mức độ nhanh chậm nặng nhẹ của tương tác còn phải dựa trên những yếu tố khác của phong thủy. Cho dù có sự nghi ngờ về tính xác thực cũng như phương pháp luận của Hình Lý Khí so với các trường phái khoa học thực nghiệm hay thí nghiệm thì tính vận mệnh được quán xét trên đối tượng tương tác theo lý “hình nào khí đó” vẫn tồn tại theo quy luật khách quan. Trong khi kiến trúc Hậu hiện đại xem tính hình tượng chỉ như sự thể hiện ý tưởng trong thiết kế kiến trúc để thỏa mãn tính sáng tạo, thỏa mãn tiêu chí gọi là phong cách và dừng lại ở mục đích này thì quan niệm Hình Lý Khí luôn xét đến ý nghĩa đó có mang lại ý nghĩa tích cực hay không và hình tượng đó có tạo ra khí vận xấu hay không đó là tiêu chí hàng đầu cũng như mục đích cuối cùng khi tư duy hình tượng. Bởi vậy hình khí mang ý nghĩa quan trọng trong kiến trúc, vì đây là một trong những yếu tố tạo nên tiêu chí gọi là Tốt, cát tường trong phong thủy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 (tiếp theo) II. CÁI NHÌN PHONG THỦY LẠC VIỆT VỀ KÍNH TRONG KIẾN TRÚC HIỆN ĐẠI CỦA ĐỨC 1.Trào Lưu Phát Triển và Phong Cách Kiến Trúc Bằng Kính. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trào lưu kiến trúc hiện đại ở các nước Châu Âu được khai sinh và bùng nổ, mở ra một “kỷ nguyên mới” đoạn tuyệt với kiến trúc truyền thống cổ điển với nhiều chi tiết rườm rà với những quy định chặt chẽ về không gian kiến trúc, đưa kiến trúc nhân loại tiến đến một bước phát triển mới. Trào lưu kiến trúc hiện đại có thể được xem là luồng sinh khí mới tạo điệu kiện cho tư duy sáng tạo kiến trúc được bay bổng và tự do hơn về khả năng sáng tạo những giải pháp hữu hiệu về mặt không gian kiến trúc, khai thác tối đa về phương pháp sử dụng vật liệu, biện pháp thi công, đa dạng trong quan điểm thẩm mỹ, khởi sướng một một kỷ nguyên rực rở của kiến trúc hiện đại vào những thập niên đầu của thế kỷ XX. Giữa những sự đa dạng về loại hình kiến trúc của trào lưu Kiến trúc hiện đại thì vật liệu kiến trúc cũng được đưa lên thành đối tượng chính quyết định cả về cấu trúc, xây dựng, thẩm mỹ và biểu tượng. Đó là những công trình như Tháp Eiffel do hai kiến trúc sư Koechlin và Nouguier thiết kế, Biệt Thư Gạch Đỏ (The Red House) của Phillip Wedd thiết kế, Cung Thủy Tinh (Crystal Palace) ở Hyde Park, (London, Anh) năm 1851 do Joseph Paxton thiết kế, Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế, Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier thiết kế, Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế…đã tạo nên những ấn tượng đậm nét, đầy tính cách và tạo ảnh hưởng mạnh mẽ trong trào lưu kiến trúc thế giới. Tháp Eiffel xây dựng năm 1889 Biệt thự Gạch đỏ (The Red House) Cung Thuỷ Tinh (Crystal Palace) Biệt thự Savoye ở Poissy, Pháp- Le Corbusier Trường Bauhaus, Đức do KTS Walter Gropius thiết kế Toà nhà Quốc hội của Brasil do Oscar Niemayer thiết kế Và sự ảnh hưởng lang tỏa đó tạo hứng khởi sáng tạo kiến trúc cho việc vận dụng vật liệu bằng kính trong kiến trúc hiện đại, một phong cách kiến trúc mới tại Đức. Kính được dùng làm vật liệu phổ biến trong phong cách kiến trúc hiện đại tại một quốc gia công nghiệp với những nét vừa lạ lẫm vừa hoàng tráng, xuất hiện rất nhiều cao ốc văn phòng với kết cấu thép và kính gần như trong suốt. Nhìn từ bên ngoài, có thể thấy rõ sự đi lại, hoạt động, của các nhân viên của từng con người trong tòa nhà. 2. Những kiến trúc tiêu biểu: Mái vòm bằng kính của toà nhà quốc hội Đức (Reichstag). Đây là tác phẩm của kiến trúc sư Anh, Norman Foster, có chiều cao 23,5 m, làm từ 800 tấn thép và 3.000 m2 kính. Bên trong mái vòm còn có 360 tấm gương để phản chiếu ánh sáng tự nhiên vào phòng họp chính. Người dân có thể tự do leo lên thăm mái vòm và theo dõi các nghị sĩ họp bên dưới: Reduced: 98% of original size [ 583 x 843 ] - Click to view full image Bahn Tower, trụ sở hiện đại của hãng đường sắt Đức Deutsche Bahn trên Quảng trường Potsdamerplatz ở Berlin. Toà nhà có kết cấu bằng thép và kính cao 94 m với 26 tầng được khánh thành vào năm 2000. Cao ốc văn phòng có hình tam giác trong suốt này là một trong những biểu tượng của Berlin hiện đại: Một góc của quần thể hiện đại Sony Center bao gồm cả tháp Bahn Tower. Tổ hợp do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế có trị giá xây dựng 800 triệu USD gồm nhiều cửa hiệu, nhà hàng, văn phòng, trung tâm hội nghị, khách sạn, rạp chiếu phim và cả bảo tàng về điện ảnh. Toàn bộ phần bên trong tổ hợp này được hỗ trợ Wi-Fi miễn phí. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 (tiếp theo) Bên trong các toà nhà có kết cấu bằng kính và thép ở Đức, các kiến trúc sư luôn chú ý đến các khoảng cây xanh, nhằm tạo cảm giác thư thái và cố gắng giảm bớt tính “lạnh” của chất liệu kính. Ảnh chụp bên trong tổ hợp Sony Center ở Berlin: Toà nhà bằng kính mang tên Pei-Bau là phần mở rộng của Bảo tàng Lịch sử Đức, được thực hiện theo ý tưởng của kiến trúc sư mang hai dòng máu Mỹ-Trung I.M.Pei, tác giả toà kim tự tháp bằng kính ở bảo tàng Louvre Paris. Công trình có phần cầu thang cuốn trong suốt này là nơi diễn ra các triển lãm đương đại của bảo tàng: Nhà ga chính của Berlin được đưa vào sử dụng toàn bộ hai ngày trước lễ khai mạc World Cup năm 2006. Công trình có dáng vẻ hiện đại với kết cấu kính và thép này cũng là nhà ga đường sắt lớn nhất châu Âu, mỗi ngày đón 1.800 lượt tàu và khoảng 350.000 hành khách. Đây là đồ án đoạt giải nhất trong cuộc thi tìm thiết kế nhà ga của nhóm kiến trúc sư Gerkan, Marg và Partners đến từ Hamburg: Trụ sở của Bộ Nội vụ Liên bang Đức soi bóng xuống dòng sông Spree ở thủ đô Berlin. Công trình có dáng vẻ vững trãi như một pháo đài, nhưng vẫn tạo được sự thanh thoát nhẹ nhàng nhờ ứng dụng chất liệu kính ở bề mặt: Hai toà nhà văn phòng của quốc hội Đức cách nhau bằng dòng Spree. Tòa bên trái mang tên Paul Löbe House dành cho các uỷ ban và Marie Elisabeth Lüders House (bên phải) dành cho thư viện và các hoạt động nghiên cứu. Cả hai đều nằm sát trụ sở quốc hội Reichstag và được nối với nhau bằng những cây cầu mảnh mai để người đi bộ và xe đạp qua lại: Toà nhà Victoria Haus cao 108 m ở thành phố Duesseldorf. Toà nhà văn phòng hình tròn có kết cấu bên ngoài bằng kính và thép này gồm 29 tầng được hoàn thành vào năm 1998 và là toà nhà cao thứ ba tại thành phố công nghiệp Duesseldorf: Khách sạn Park Inn trên quảng trường Alexanderplatz. Công trình cao 125 m này khi khánh thành vào năm 1970 đã trở thành toà nhà cao nhất ở cả hai phần đông và tây Berlin thời điểm đó. Sau khi nước Đức thống nhất, toà nhà này đã được thay đổi chủ và được thiết kế thêm phần ngoại thất bằng kính hiện đại: Phòng đọc của thư viện Anna Amalia ở Weimar, nơi lưu giữ nhiều tài liệu quý của nền văn học và lịch sử Đức với hơn một triệu đầu sách. Sau vụ hoả hoạn nghiêm trọng năm 2004, thư viện được xây dựng lại, trong đó nổi bật là phòng đọc có mái vòm bằng kính, giúp độc giả có thể đọc bằng ánh sáng tự nhiên ngay cả khi ngồi dưới tầng hầm: Tổ hợp World Trade Center ở Dresden rộng 80.000 m2, bao gồm các văn phòng, phòng hội nghị, khu vực triển lãm và cả khách sạn. Đây là một trong những nơi thường diễn ra các hoạt động quan trọng của thành phố cổ Dresden: Hai mảng đối lập về kiến trúc tại thành phố tài chính Frankfurt am Main. Các cao ốc bằng kính và thép của những ngân hàng lớn nhất thế giới nhìn từ phía một con phố tương đối cổ nằm gần nhà ga chính của thành phố (Hauptbahnhof): Tổ hợp văn phòng, trung tâm thương mại và giải trí Neues Kranzlereck ở Berlin do kiến trúc sư Helmut Jahn thiết kế. Công trình có phần ngoài bằng kính này được xây dựng trong hai năm từ 1998 đến 2000: Kính được ứng dụng làm cả tường ngăn (hàng rào) rất ấn tượng. Đây là ý tưởng thiết kế độc đáo thuộc tổ hợp văn phòng của quốc hội Đức Jakob Kaiser Haus, nằm cạnh sông Spree: 3. Nhận Xét Của Phong Thủy Lạc Việt Đối Với Những Kiến trúc Bằng Kính. Bằng cái nhìn của Lý học Đông Phương và trên quan điểm của Phong Thủy Lạc Việt thừa hưởng những tri thức của Văn hiến 5000 năm của tổ tiên Lạc Việt, dù kiến trúc xây dựng thay đổi đa dạng về hình thức hay phong cách kiến trúc cũng không nằm ngoài phạm vi quán xét của Phong Thủy. Dựa trên hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Phong thủy Lạc Việt có thể nhận xét những mặt tích cực và tiêu cực của các công trình kiến trúc từ truyền thống đến hiện đại, miễn sao đó là kiến trúc. Trong một phạm vi nhỏ hẹp, người viết chỉ dùng một phần nhỏ của tri thức Phong Thủy Lạc Việt để nhận xét mô hình Kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức, một trào lưu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đương đại. Theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cho rằng do sự vận động và tương tác từ khởi nguyên của vũ trụ, tự nhiên phân ra thành hai loại khí Âm và Dương. Hai loại khí này tương tác lẫn nhau tạo nên sự phát triển của vạn vật. Vạn vật lại tương tác và trùng trùng khởi sinh. Phong Thủy Lạc Việt khẳng định rằng sự tương tác của vật chất tạo là Âm động tạo ra Dương khí và sự vận động nội tại của vật chất là Dương tịnh tạo ra Âm khí. Mỗi loại khí đều có mặt tích cực và tiêu cực trong từng trường hợp và trong mục đích cụ thể. Quán xét trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, ánh sáng mặt trời được gọi là Dương quang, thuộc về khí Dương. Kính do tính chất trong suốt và thấu thị, tạo điều kiện cho ánh sáng đi qua, xuyên qua, nghĩa là ánh sáng đi qua một môi trường trong suốt và ít nhiều bị gãy khúc hoặc biến tính tạo một trường năng lượng dương. Cơ sở thực nghiệm khoa học cũng xác nhận rằng ánh tác động lên thấu kính sẽ tạo nên năng lượng dương. Đó là tương tác. Học thuyết thuyết âm dương Ngũ hành xác định sự tương tác của vật chất tạo nên khí Dương. Từ đây có thể nhận thấy rằng các kiến trúc hiện đại bằng kính tại Đức được kiến trúc và xây dựng trên phương tiện vật liệu chủ yếu là kính với khung sường kết cấu bằng sắt thép là những mô hình kiến trúc mang khí dương rất dồi dào và cường thịnh, điển hình cho các kiến trúc cần có khí Dương vượng. Mặt khác, cũng theo học thuyết âm dương Ngũ Hành, những khái niệm thuộc về tinh thần là Dương. Do vậy tư duy, ý thức, khả năng sáng tạo, tuy duy logic, ý chí phấn đấu, nhiệt huyết năng động, nói năng diễn thuyết, tư tưởng bay bổng, tinh thần hướng thượng, chủ nghĩa sáng tạo…thuộc Dương. Theo như Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, khái niệm rằng Phong Thủy là sự tương tác, đó là sự tương giữa con người và môi trường, mà sự tương tác trực tiếp nhất, tế vi nhất là Khí, Dương khí và Âm khí. Vì thế với những công trình kiến trúc làm bằng kính, như kiến trúc tại Đức thì đó là môi trường mà khi con người hoạt động và làm việc tại đó, sẽ chịu sự tác động chủ yếu và hầu hết cúa khí Dương. Cũng như đã nói ở trên, do sự tác động của Dương khí lên đối tượng là con người nên con người ở đây trở nên luôn tích cực, năng động, nhạy bén, sáng tạo, hoạt động, hành động, suy tư, tư duy…tóm lại luôn trong trạng thái hoạt động của cả thể chất lẫn tinh thần. Do đó, những công trình kiến trúc làm bằng kính luôn là mô hình lý tưởng cho một môi trường cần sự hoạt động về tinh thần và năng động về thể chất, một môi trường hữu ích cho việc đầu tư, trau dồi khai thác trí tuệ, tìm năng của con người đưa vào phục vụ lợi ích xã hội. Vì thế, mô hình kiến trúc làm bằng kính luôn thích hợp cho làm nơi hoạt động trí tuệ như công nghệ thông tin, văn phòng kinh doanh, văn phòng dịch vụ, những nơi diễn thuyết họp hành, bảo tàng nghệ thuật mỹ thuật, thư viện, triễn lãm…bởi những nơi đây cần có sự hoạt động chủ yếu của tinh thần và cũng bởi do tính chất dương khí của công trình nên nó cũng thích hợp với công năng sử dụng để làm nơi trụ sở công quyền hay là cơ quan hành chánh quốc gia, cho nên, kiến trúc làm bằng kính, có thể nói là mô hình kiến trúc hữu ích trong việc khai thác năng lực và năng lượng của con người , đáng là những kiểu trúc tiêu biểu. Tuy vậy, cũng theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, khi Dương khí hay Âm khí quá vượng thì bao giờ cũng sinh bất cập. Sự vượng phát thái quá của khí Âm hay khí Dương đều dẫn đến hiện tượng mất cần bằng Âm Dương, lại trở nên tiêu cực. Trong trường hợp cụ thể đối với kiến trúc làm bằng kính này thì do chính bởi cấu trúc vật liệu làm cho công trình tạo nên nhiều dương khí và Dương khí quá dồi dào, do vậy dể dàng đưa đến những thái quá trong hoạt động. Điều này thật dể dàng nhận thấy qua những con người hoạt động và làm việc lâu dài trong những công trình kiến trúc bằng kính này là thường dể bị căng thẳng, mỏi mệt, cáu gắt, uể oải, suy nhược về tinh thần và thể chất. Cũng do tính chất Dương khí thái quá nên môi trường ở những khu kiến trúc làm bằng kính thường có bầu không khí khí làm việc dưới những áp lực căng thẳng vô hình, những áp lực luôn tạo sự năng động cho con người hoạt động và làm việc nơi đây nhưng thường thì thời gian gắn bó của các cá nhân ở nơi đây không được lâu dài và bền vững. Sự thái quá của Dương khí thể hiện sự mất cân bằng cơ bản, xét trên quan điểm Lý học, do đó thông qua những hoạt động sống của con người thì từ cơ sớ lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành có thể đưa đến một nhận xét, cũng như một sự tiên tri rằng đây là một mội trường mà trong đó mọi hoạt động luôn biến đổi trong sự mất cân đối và sự biến đổi đó là do sự tác động trực tiếp bởi Dương khí, cho nên tính bất an hay đột biến được biểu hiện cụ thể qua thực tế hoạt động hay hiệu quả của sự hoạt động là hiển nhiên, phản ánh đúng tính quy luật khách quan của cơ sở Lý Thuyết Âm Dương. Mặt khác, do vật liệu chủ yếu là chính nên thường vật liệu kết cấu chính là sắt thép tạo khung sường, vì vậy các kiến trúc làm bằng kính thường có hình thể mà trong phong thủy gọi là “lộ cốt”, có thể là lộ cốt trong hoặc cũng có thể là lộ cốt ngoài. Thêm nữa, các kiến trúc đôi khi có hình thù tổng thể lạ mắt hay kỳ dị, cho nên theo quan điểm xấu – tốt của Hình Lý Khí thì cũng góp phần vào làm tăng thêm tính chất xấu của công trình. Tính tự do sáng tạo trong kiến trúc hiện đại và việc vận dụng đầy sáng tạo vật liệu làm bằng kính để tạo một phong cách đặc thù kiến trúc dể đưa đẩy các mô trình kiến trúc đến những hình thể xấu theo quan điểm Phong thủy Lạc Việt. Hơn nữa, bởi kính là vật liệu chủ yếu thay tường vách bằng bê tông nên ít nhiều cũng tạo những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người hoạt động trong đó, do tính phản quan một phần hay tính thấu thị của kính. Do vậy, chính hiệu ứng giữa ánh sáng và kính dể làm cho con người bị bệnh mất ngủ, căng thẳng, tress, dẫn đến những bệnh về tiêu hóa, bao tử hay tim mạch. Có thể nói rằng kiến trúc làm bằng kính là một trong những phong cách kiến trúc đặc thù của trường phái kiến trúc hiện đại (modernisme) với chất liệu chủ yếu là kính và sắt thép tạo nên một phong cách tiêu biểu đặc biệt và ấn tượng. Tuy nhiên, khi quán xét trên quan điểm Phong thủy Lạc Việt thì do chính yếu tố thiết kế kiến trúc bằng kính đã tạo nên những hiệu ứng tốt xấu lên đối tượng là con người hoạt động trong các công trình kiến trúc này. Dù cho sự phát triển, biến đổi về mặt kiến trúc, cũng như kết cấu trong xây dựng thì kiến trúc xây dựng cũng vẫn là đối tượng quán xét của phong thủy và cũng chỉ là một phần trong nhiều yến tố của phong thủy. Kiến trúc xây dựng phát chuyển theo từng thời kỳ cũng chỉ thực hiện và đáp ứng bốn (4) tiêu chí chính là Bền Bỉ - Kinh Tế - Tiện Ích – Thẩm Mỹ, nhưng không thể đáp ứng một tiêu chí có tính tiên quyết là Tốt và chỉ có Phong thủy và chỉ với Phong Thủy Lạc Việt mới đáp ứng thỏa mãn tiêu chí này. Như đã nói trên, phong thủy không phải yếu tố riêng phần đối lập với kiến trúc mà ngược lại kiến trúc là một bộ phận của phong thủy. Vì vậy phong thủy là sự tổng hòa của các yếu tố nhằm mang lại Chân - Thiện - Mỹ phục cho mong muốn an lạc và phát triển của con người, của cộng đồng và xã hội. III. Kết Luận: Tóm lại, việc xây dựng các công trình trong trào lưu kiến trúc đượng đại thì đa phần hoặc chọn phong cách kiến trúc Hiện Đại hoặc theo phong cách kiến trúc Hậu hiện đại hoặc đôi khi Hitech (Kỹ thuật công nghệ cao) đều lấy tính hình tượng hay chú trọng việc vận dụng vật liệu kết cấu là phương tiện thể hiện ý tưởng hay phong cách, đều không những không ngoài sự quán xét của Phong thủy Lạc Việt mà còn là cơ sở cần xét đến để xác định chiều tương tác tích cực tốt xấu đi đến sự nhận định thành bại hay thịnh suy của một công trình. Xét cho cùng, khi một công trình kiến trúc được dựng nên không chỉ đơn thuần hướng đến sự tồn tại bền bỉ, công năng sử dụng tiện lợi tiện nghi, yếu tố thẩm mỹ thu hút và giá trị hiện kim đáng quan tâm của công trình mà tất cả đều nhắm đến sự phát triển thành hay bại, thịnh hay suy, cho dù đó là sự tâm huyết hay đầu tư hướng đến lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì sự phát triển hay không phát triển của một thực thể kiến trúc là mối quan tâm trong tâm khảm và hàng đầu. Phong thủy Lạc Việt với ý nghĩa là sự tổng hòa các mối tương tác, bao hàm yếu tố kiến trúc thì mọi cơ sở quán xét đều đi đến nhận định tốt xấu bảm bảo tính định hướng của sự phát triển của công trình đem lại lợi ích phục vụ xã hội. Viết xong, ngày 16 tháng 11 năm 2009 Thiên Đồng =========================================== Tham Khảo: -Phong thủy trong Bất động sản, tg Jo Incheol, NXB Tổng Hợp Tp HCM. -Hà đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 -Phong thủy Lạc việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. -Kiến trúc hiện đại, tg Tôn Thừa Nguyên, NXB Xây Dựng. -Nguyên lý thiết kế nhà dân dụng: Nhà ở và nhà công cộng, tg Gs, Ts, Kts, Nguyễn Đức Thiềm, NXB Khoa học kỹ thuật. -www.google.com Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN, BÍ ẨN THIÊN MÔN ĐỊA HỘ VÀ SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương.Tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.” Trong những tri thức liên quan đến phương pháp của học thuật cổ Đông phương, cụ thể là phương pháp Bát trạch trong phong thủy, tồn tại những khái niệm bất biến như Thiên Môn, Địa Hộ, Quỷ Môn, Nhân Môn, Nam Quỷ Môn, Nữ Quỷ Môn…nhưng đi kèm với những định danh này thì không có sự tương hợp, tương xứng cho từng định vị hay sự tương thích trong cùng mối liên hệ để tạo nên sự nhất quán cho một hệ thống lý thuyết mang tính hoàn chỉnh. Do vậy, điều nghịch lý tồn tại hằng ngàn năm được mặc khải như một chân lý cần được giải linh, khơi sáng nỗi tồn nghi. 1. NGHỊCH LÝ TRỤC QUỶ MÔN VÀ BÍ ẨN THIÊN MÔN - ĐỊA HỘ: Sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, nhà xuất bản Thời Đại ấn hành năm 2009, trang 128, hướng dẫn về cách xem tướng nhà và phương vị nhà cửa, có tái hiện phương vị la bàn bằng đồ hình như sau: Trang 176, sách cùng tựa, có đoạn như sau: "Các đường nối Đông và Tây, Nam và Bắc, Đông Nam và Tây Bắc, Đong Bắc và Tây Nam có đường trung tâm. Đường nôi giữa 45 độ của Đông và Bắc, Tây và Nam là đường Quỷ môn. Mặt khác, đường nối giữa 45 độ của Đông và Nam, Tây và Bắc, Nam và Bắc, Tây và Nam gọi là đường tứ ngung. Trong đó, đường tứ ngung nối 45 độ của Đông và Bắc, Tây và Nam chính là đường Quỷ môn. Đơn giản mà nói, tuyến chính giữa là đường trung tâm cùa phương vị sao sinhnhu7 Tý (Bắc), Ngọ (Nam), Mão (Đông), Dậu (Tây), đường tứ ngung vẫn là đường xuyên suốt Cấn (Đông Bắc), Khôn (Tây Nam), Càn ( Tây Bắc), Tốn (Đông Nam)." Cuốn Phong Thủy Toàn thư của Thiệu Vĩ Hoa. Nxb Thời Đại 2009. Đây là lời giải thích trong sách của tác giả Thiệu Vĩ Hoa cho việc xác định đường Tứ ngung, đường Trung tâm, đường Quỷ môn. Người viết một lần nữa ghi nhận rõ hơn rằng: Đường trung tâm, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 0 độ qua tâm đến 180 độ và đường kéo dài từ 90 độ qua tâm đến 270 độ. Người viết gọi là Trục trung tâm. Đường tứ ngung, nghĩa là đường bốn góc, có hai đường, được xác định trên la bàn, là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ và đường kéo dài từ 315 độ qua tâm đến 135 độ. Người viết gọi là Trục tứ ngung. Trong đó, đường Quỷ môn là đường kéo dài từ 45 độ qua tâm đến 225 độ, người viết gọi là Trục Quỷ môn. Xin xem hình sau: Cũng sách Phong Thủy Toàn Thư, tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 33, 34 có đoạn giải nghĩa như sau: "…Dưới đây là giải thích của trạch Kinh đối với 24 lộ mênh tọa và cát hung của Dương trạch: Càn là Thiên Môn, đứng đầu dương, kiến trúc vật nên bình, ổn, thực, không nên cao rộng, có thể ảnh hưởng không tốt đến cha mẹ. Hợi là Chu tước, đầu rồng, chủ mệnh tọa của bố, người phạm phải hại đến mệnh, còn liên lụy đến người khác. Nhâm là Đại họa, chủ mẫu mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, còn liên lụy khiến người khác có họa do nói năng. Tý là Tử tang, long tả thủ, chủ trưởng tử phụ mệnh tọa, , người phạm phải hại mệnh, liên lụy đến người khác thất hồn, thương mắt, thủy tai, họa do nói năng. Quý là Phạt ngục, câu trần, chủ thứ tử phụ mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, làm người khác tai họa do nói năng. Sửu là quan ngục, chủ thiếu tử phụ mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, có tai họa của quỷ quái, đạo phỉ, hỏa quang. Cấn là Quỷ môn, khí trong phòng, nhà thiếu, mỏng, không khí hoang cát. Người phạm phải không tốt. Dần là Thiên hình, long bối, Huyền vũ, chủ dưỡng tử phụ và trưởng nữ mệnh tọa, phạm phải, thai bị thương, tù ngục, bị trộm, vong bại. Giáp là Trạch hình, chủ thứ nữ là tôn nam mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, liên lụy đến người nhà bị tai họa vỡ đầu, tổn thương thần kinh. Mão là Long hữu thủ hình ngục, chủ thiếu nữ và tôn mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, liên lụy người khác bị tai họa hỏa quang, khí mãn, hình thương, thất hồn. Ất là Ức xà, tụng ngục, chủ khách mệnh tọa, người phạm phải hại mệnh, liên lụy người khác có tai họa yêu quái, chết chóc, do nói năng. Thìn là Bạch hổ, long hữu túc, chủ nô tì và lục súc mệnh tọa, phạm phải, có tai họa bị thương khủng hoảng, não cấp, chủ nhân cung bị khủng hoảng. Tốn là Địa hộ, cũng là Phong môn. Vị trí này nên là ao tròn, hàng rào trúc, không có nhà. Nên bình, phía bên ngoài mỏng, không nên cao lớn, lấp chặt. Tỵ là Thiên phúc, cũng gọi là trạch cực, kiến trúc vật nên to chắc. Bính là Minh đường, Trạch phúc, vị trí này có thể an môn, làm chuồng trâu nhà kho. Ngọ là chỗ đất may mắn, Long túc thủ, kiến trúc vật nên bền chắc, cấm kị phòng khách cao, hình đầu rùa. Đinh là Thiên thương, nên xây dựng nhà kho và chuồng nuôi lục súc, kiến trúc vật to bền chác có thể thêm may mắn. Mùi là Thiên phủ, nên xây nhà cao, lầu lớn. nếu để nô tì, bò dê sống ở đây thì sẽ sinh sôi. Nếu xây nhà kho, nhà vệ sinh thì cũng thu được lợi. Khôn là Nhân môn, ruột rồng, còn có tên là phúc tương, kiến trúc vật nên mở rộng vững chắc, nặng mà khiêm thực đại cát. Thân là ngọc đường, chủ bảo bối, kim ngọc, vị trí này nên đặt chuồng trâu, ngựa, ngoài ngọ đường nên làm từ đường và phòng cho lang quân, cháu nhỏ thì sẽ cát. Nhà lấy to chắc để tăng cường cát. Có phòng quan trọng, có cây lớn có thể gọi đến vàng ngọc. Canh là Đại Đức, An môn. Vị trí này nên đặt nhà xe, chuồng chim và nhà giã gạo, kiến trúc vật nên mở rộng, liên tiếp to lớn, tinh khiết sẽ có may mắn. Dậu là Đại Đức, Long tả trợ, khách mệnh, chỗ này nên đặt nhà chính. Ngoài vị trí trạch đại đứcnên rộng rãi, thường xuyên quét dọn, mới mẻ, yên tĩnh may mắn. vị trí này có thể tổ chức các việc ăn uống, âm nhạc, có thể gặp quý nhân tăng tài phú, là cho đức vọng dài lâu. Tân là Kim quỹ, Thiên tỉnh, vị trí này nên đặt cửa, lầu cao phòng lớn. ở vị trí này lý tài và làm bất kỳ việc gì đều có may mắn. ngoài kim quý nên làm nhà kho dự trữ sẽ có may mắn, cũng có thể làm phòng ở cho con cháu, có thể kết thông gia với nhà giàu có, dòng dõi đế vương. Tuất là Địa phủ, Thanh long tả thủ, chủ tam nguyên. Vị trí này có thể cho con cháu sống, có thể kết thông gia với nhà giàu có, dòng dõi đế vương, nhưng phải làm cho nó duy trì được thanh tịnh thì mới may mắn. cũng có thể làm nhà kho dự trữ, lầu cao nhà to." Từ những chú giải trên, trích từ sách, một tư liệu còn ghi lại từ cổ thư chữ Hán mà chính tác giả Thiệu Vĩ Hoa đã trưng ra và dẫn giải, người viết vẽ lại đồ hình tổng hợp sau: Dễ dàng nhận thấy rằng hai đường trung tâm (Trục trung tâm) vuông góc của bốn phương vuông góc là Nam – Bắc và Đông – Tây, còn lại là hai đường tứ ngung (Trục tứ ngung), nghĩa là đường bốn góc, như cái tên của nó, vuông góc nhau ở bốn phương góc Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam. Từ đây, đều nghịch lý và những bí ẩn được trưng như từng được chấp nhận như một lẽ đương nhiên trên bát quái Hậu Thiên cổ thư, thường gọi là bát quái Hậu thiên Văn Vương. Phương Cấn – Đông Bắc gọi là Quỷ môn với danh cụ thể là Nam quỷ môn chứng tỏ được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Tây Nam có chủ quái là Khôn lại không đồng danh vị với danh Nữ quỷ môn. Bởi lẽ, hai định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn đã thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Quái Cấn tượng là thiếu nam, trai út hợp với định danh Nam quỷ môn, nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Khôn tượng là mẹ, đàn bà, bà lão, là lão âm và chính quái Khôn cũng không thể tương hợp với định danh Nữ quỷ môn. Lẽ ra phải gọi là Lão quỷ môn thì mới hợp với danh và quái. Nhưng như thế cũng không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Đông Bắc và Tây Nam, tức giữa Cấn và Khôn, tức giữa lão bà và con trai út (con nít!). Vì thế, dĩ nhiên là không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Cấn - Khôn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Cũng như vậy, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên môn có sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch. Nhưng ngược lại, phương Đông Nam có chủ quái là Tốn lại không đồng danh vị với danh Địa hộ. Hai định danh Thiên môn và Địa hộ trong mối quan hệ đồng trục, thể hiện sự đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan đối xứng trên bát quái, nhưng về quái khí thì hoàn toàn không có tính đối xứng, cân bằng âm dương và không mang tính đối lập đồng đẳng. Bởi, quái Càn tượng là trời với định danh Thiên môn (cửa trời), nhưng không đồng đẳng hay đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng trưởng nữ, người con gái cả và ngay cả chính quái Tốn cũng không thể tương hợp với định danh Địa hộ.Như thế, có việc không đồng đẳng với mối tương quan so sánh giữa hai phương Tây Bắc và Đông Nam, tức giữa Càn và Tốn, tức giữa lão ông và con gái cả, giữa trời và gió! Do vậy mà cũng không có sự đối xứng âm dương, cân bằng âm dương thể hiện qua từng hào của quái, nghĩa là đối lập âm dương giữa các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Tốn hoàn toàn không có thể hiện để tạo sự đối lập, đối xứng nào. Xin xem hình. Tuy vậy, ở hai trục trung tâm thì sự đối lập đối xứng âm dương giữa tượng quái Khảm – Ly, Chấn – Đoài thể hiện một mối tương quan hài hòa cân đối giữa 2 phương đối lập, cùng trục, thể hiện một quy luật rỏ ràng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể 8 quái, mối tương quan của từng cặp về quái khí và danh tính của phương vị thì tổng thể bát quái Hậu thiên cổ thư không thể hiện được tính nhất quán trong quy luật, do vậy mà sự bất hợp lý cũng như bí ẩn về hai cặp phạm trù đối lập Thiên môn và Địa hộ, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn vẫn tồn tại một cách khó hiểu. Tính thiếu nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch và Dương trạch tam yếu về phần Phiên tinh phối quái. Phương pháp Bát trạch cổ thư, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy, xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Đông trạch gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Đông Nam tương ứng quái khí Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Theo đó người mệnh cung Ly nhà hướng Khảm hay ngược lại người cung mệnh là Khảm nhà hướng Ly thì đều phương Phúc đức. Cũng tương tự như vậy, theo phương pháp Phiên tinh phối quái thì nhà hướng Ly, sơn hậu là Khảm hay ngược nhà hướng Khảm mà sơn hậu là Ly thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng đều được Phúc Đức, gọi là Phúc Đức trạch. Như vậy, đều đương nhiên trên bát quái 8 phương tồn tại một trục tốt nhất của phe Đông trạch gọi là trục Phúc Đức. Điều này dễ nhận biết ngay trên bát quái với trục Bắc - Nam, chính trục từ 0 độ đến 180 độ, gọi là trục trung tâm, tức trục Khảm – Ly, tức là Phúc Đức trạch hay gọi là trục Phúc đức, bởi Phúc đức là phương vị tốt nhất đứng đầu trong các phương còn lại là Thiên Y, Sinh Khí, Phục Vị, Ngũ Quỷ, Lục Sát và Tuyệt Mạng, cho nên một trục chính với hai quái tượng đối xứng, đối lập âm dương, tương quan đồng đẳng về hình tượng Trung nam đối Trung nữ, tạo một trục đồng khí Đông trạch, đương nhiên gọi là trục Phúc Đức. Bát quái cổ thư do vậy vẫn thể hiện được một trục Phúc Đức với đường trung tâm, của phe Đông trạch. Tuy vậy, ở phe Tây trạch, chính ở tương quan Tây trạch xuất hiện sự bất nhất, bất hợp lý được hiển hiện ngay trên đồ hình tám cung quái. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Khôn là trục Quỷ môn với định danh nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, tuy vậy theo phương pháp Bát trạch của cổ thư, mệnh cung Khôn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Khôn thì đều được Sinh Khí. Vẫn như vậy, nếu hướng nhà là Cấn, sơn hậu là Khôn hoặc là nếu hướng nhà là Khôn mà sơn hậu là Cấn thì theo nguyên tắc lấy sơn phối hướng thì đều đước Sinh Khí, gọi là Sinh Khí trạch hay là trục Sinh Khí. Rỏ ràng, có sự không đồng nhất giữa định danh phương trục và tính chất của phương vị, cung quái của hai phương Cấn – Tốn này, bởi gọi là trục Quỷ môn nhưng khi xét tính chất phối quái hai phương đồng trục thì lại được trục Sinh Khí, tính bất nhất là ngay ở điểm này. Đồng một lý như vậy với trục tứ ngung, trục Thiên – Địa, Càn – Tốn; nếu nhà hướng Càn, mệnh cung Tốn hoặc dã, nhà hướng Tốn mà mệnh cung Càn thì đều được phương Họa Hại; cũng như vậy với phối quái phiên tinh, nếu hướng là Càn, sơn hậu là Tốn hay hướng là Tốn mà sơn hậu Càn thì đều được Họa Hại, gọi là trục Họa Hại hay Họa Hại trạch. Từ những điểm trên, xét một cách tổng quát về phân bố trạch quái của bát quái Hậu thiên cổ thư dễ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì tương quan quan ngũ hành giữa hai phương đối xứng đồng trục là tương khắc Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) và Kim (Đoài) – Mộc (Chấn) theo tính chất hành quái, nghĩa là theo lý tương khắc của ngũ hành thuộc hành quái. Với trục tứ ngung là Thiên – Địa, Càn – Tốn thì với tính chất hành quái của Càn là kim đới thủy đối xứng với Tốn thuộc hành quái Mộc, theo cổ thư, thì tính chất tương quan đồng trục giữa hai phương Càn – Tốn là tương sinh về ngũ hành. Trong khi đó, với trục Quỷ môn Đông Bắc và Tây Nam, Cấn đối Khôn thì tương quan của ngũ hành là tương hòa với Cấn và Khôn đều thuộc hành thổ theo cổ thư. Như vậy, ở bốn trục cho tám phương thì quan hệ ngũ hành đồng trục về tương khắc biểu hiện hai lần, về ngũ hành tương sinh đồng trục biểu hiện một lần và tương hòa thì biểu hiện một lần, xét một cách tổng thể thì ngay ở điểm này, các trục quái của Hậu thiên cổ thư không thể hiện một tính quy luật và nhất quán trong cách bố trí cung quái và phương trục, bởi tính chất ngũ hành tạp loạn. Hơn nữa, với cái nhìn tổng quan, trạch Phục Đức là trạch tốt nhất trong điều kiện Bát trạch và Dương trạch thì theo đồ hình tổng thể trên thấy rằng chỉ có phe Đông trạch mới có Phúc đức trạch hay trục Phúc Đức, ngược lại phe Tây trạch chỉ có Sinh Khí trạch hay trục Sinh Khí. Do vậy đây cũng chính là sự biểu hiện tính không đồng đẳng, tính mất cân xứng và tính bất cân bằng trong quy luật Âm Dương. Từ những phân tích trên về hai cặp khái niệm Thiên - Địa, Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn với tính chất bất tương hợp và không nhất quán của nó về định danh và quái khí cho thấy một sự nghịch lý hay một bí ẩn trong quy luật sắp xếp của tám quái cần phải được chỉnh lý hay hiệu chỉnh để trở về với một trật tự hoàn hảo và nhất quán của bát quái. Bởi vậy, bát quái Hậu thiên cổ thư không thể là một nguyên lý hoàn chỉnh mà ngược bộc lộ những căn cứ mơ hồ, bất nhất đầy tồn nghi. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 2, 2012 (tiếp theo) 2. SỰ HOÀN CHỈNH CỦA HẬU THIÊN LẠC VIỆT PHỐI HÀ ĐỒ Trên cơ sở phân tích những bất hợp lý về hai trục Thiên Địa và Quỷ Môn từ đồ hình và tư liệu ghi lại từ cổ thư chữ hán, được dịch ra chữ Quốc ngữ ngày nay, người viết đi tìm một sự hợp lý cho những vấn đề tồn nghi. Và, người viết nhận thấy rằng những bí ấn, nghịch lý và tồn nghi được giải trừ, thay vào đó bằng sự lý giải hoàn toàn hoàn chỉnh trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, một nguyên lý được hiệu chỉnh dựa trên các cơ văn hóa phi vật thể thuộc nền văn hiến Việt có bề dày lịch sử 5000 năm huyền vĩ, nguyên lý ấy được giải thích và công bố trong các tác phẩm “ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch”, “Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam”(*)…tác giả công trình nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Với sự phục hồi hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã công bố một nguyên lý lý thuyết được hiệu chỉnh và phục hồi, từ những mật ngữ tồn tại trong văn hóa phi vật thể của Việt tộc, đó là nguyên lý căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Theo tiêu chí khoa học hiện đại quyết định rằng: “Một giả thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhât quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính khách quan, tính quy luật và có khả năng tiên tri.”. Nguyên lý lý thuyết căn để Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ chứng tỏ tính nhất quán và hợp lý của nó trong việc giải mã những bí ấn và nghịch lý của khái niệm trục Thiên – Địa và trục Quỷ Môn. Đầu tiên, hãy xem qua đồ hình Hậu thiên Lạc Việt với sự hoán vị hai vị trí Tốn – Khôn, đã được luận giải và chứng minh trong các tác phẩm đã nêu (*), xin miễn chứng minh, cùng với đồ hình Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ như sau: Hậu thiên Lạc Việt với hoán vị Tốn - Khôn. Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Từ đồ hình Hậu thiên Lạc Việt do nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh phục hồi, người viết họa lại đồ hình với hai trục khái niệm Thiên – Địa và Quỷ Môn như sau: Một sự phân hơp lý có thể nhân ra rằng phương Cấn – Đông Bắc vẫn là Quỷ môn với định danh là Nam quỷ môn có được sự đồng nhất giữa danh và quái khí là Nam quỷ môn với quái Cấn là tượng thứ nam trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch, đồng thời đối lập, đối xứng cân bằng trong mối tương quan cân đối Âm dương với phương Tây Nam là quái Tốn, đăng đối với danh vị Nữ quỷ môn, bởi quái Cấn tượng là thiếu nam hợp, con trai út với định danh Nam quỷ môn lại đồng đẳng và đối xứng âm dương với quái khí Tốn tượng là trưởng nữ, con gái cả. Tiếp theo, xét cặp khái niệm Thiên Môn - Đại Hộ với căp quái Càn - Khôn trong Hậu thiên Lạc Việt. Giống như thế, phương Càn – Tây Bắc gọi là Thiên Môn nghĩa là cổng trời đồng nhất giữa danh và quái khí là Càn, tượng là trời là cha là lão ông trong nghĩa về tượng quái của 8 quái dịch môn đăng hậu đối với phương Đông Nam chủ quái là Khôn, được hoán vị hoàn toàn tương hợp với danh vị là Địa Hộ. Hai định danh Thiên Môn và Địa Hộ trong mối quan hệ đồng trục với ngôi nhà mới là Hậu thiên Lạc Việt đã cho thấy rỏ ràng tính đối lập, đối xứng, cân bằng âm dương trong mối tương quan trên bát quái thể hiện chặt chẻ tính đồng đẳng tương quan, bởi quái tượng Càn là trời, là cha, là lão ông với định danh Thiên môn đăng đối với quái khí Khôn tượng là đất, là mẹ, là lão bà hoàn toàn xứng hợp với định danh Địa hộ. Vì vậy tính đồng đẳng, tương quan so sánh được thể hiện ngay và hoàn chỉnh hợp lý với phương trục Thiên Địa mà cổ thư chữ không thể hiện được điều này! Ở phần chi tiết hơn, tính đối xứng, cân bằng âm dương thể hiện rỏ ràng qua từng hào của quái, ở các hào sơ, hào trung, hào thượng giữa hai quái Càn – Khôn. Bản thân ngay tượng quái Càn và Khôn cũng đã thể hiện đối lập âm dương và cũng hiển nhiên cũng là một cặp phạm trù thể hiện tính âm dương. Còn lại, ở hai trục Khảm – Ly, Chấn – Đoài thì không cần phải bàn đến, bởi đã thể hiện đầy đủ tính tương quan cân đối âm dương. Với nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ, tính nhất quán còn thể hiện ngay trong quy luật tương phối quái khí thể hiện trong phương pháp Bát trạch Lạc Việt và Phiên tinh Lạc Việt. Theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt, một phần ứng dụng của khoa Phong thủy Lạc Việt, cũng xác định phi cung mệnh chủ của con người được chia thành hai phe, phe Đông trạch và phe Tây trạch. Nhưng do sự hoán vị Tốn – Khôn nên Đông trạch sẽ gồm bốn phương tốt là Bắc, Nam, Đông và Tây Nam và quái khí không đổi là Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ngược lại Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây tương ứng với quái khí không đổi là Càn, Khôn, Cấn, Đoài thuộc Tây trạch. Từ đồ hình, vẫn nhận thấy trục Phúc Đức của phe Đông trạch vẫn là trục Khảm – Ly, Bắc – Nam theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt và sơn hướng phối quái của phiên tinh Lạc Việt. Chính do sự chuyển đổi Tốn – Khôn, Hậu thiên Lạc Việt cho thấy sự xuất hiện trục Phúc Đức của người Tây trạch, ngay ở trục Thiên – Địa, trục Càn – Khôn, thể hiện một trục đồng tính chất quái khí tốt nhất của người Tây trạch mà Bát quái cổ thư không thể hiện được điều này. Một sự hoàn chỉnh hơp lý khác được mở ra khi quán xét hai trục còn lại trên đồ hình Hậu thiên Lạc Việt. Trục Đông Bắc – Tây Nam với hai quái Cấn – Tốn là trục Quỷ môn với định danh Nam quỷ môn và Nữ quỷ môn, khi được xét theo phương pháp Bát trạch Lạc Việt thì mệnh cung Tốn nhà hướng Cấn hay mệnh cung Cấn mà nhà hướng Tốn thì đều được Tuyệt Mạng và theo phương pháp Phiên tinh Lạc Việt, sơn hướng phối quái sơn hậu Cấn phối Tốn hướng hoặc sơn hậu Tốn phối Cấn hướng đều là Tuyệt Mạng, gọi là Tuyệt Mạng trạch và rỏ ràng đây là trục Tuyệt Mạng. Khái niệm trục Quỷ Môn đến lúc này trở nên thật tương xứng với tính chất nội tại của nó là trục Tuyệt Mạng và như vậy giữa danh và tính đã có sự hợp lý hoàn hảo mà Bát quái cổ thư cho đến thời điểm này vẫn không có thể nào tỏ rỏ tính hợp lý như vậy. Cùng một cách như vậy, trục Đông – Tây , Chấn – Đoài vẫn thể hiện là trục Tuyệt Mạng trên Bát quái Hậu thiên Lạc Việt. Một cách tổng thể nhận xét Hậu thiên Lạc Việt, lúc này phối với Hà đồ về việc phân bố trạch quái sẽ thấy rằng: Với hai trục trung tâm, hay gọi là đường trung tâm thì trục Thủy (Khảm) – Hỏa (Ly) hợp thành trục Phúc Đức vuông góc trục trung tâm Đông – Tây, Chấn – Đoài là trục Tuyệt Mạng thể hiện tính đối lập âm dương giữa một trạch – trục mang tính chất tốt nhất với một trach – trục mang tính chất xấu nhất. Cũng như vậy với trục tứ ngung Thiên – Địa là trục Phúc Đức vuông góc, đối lập với trục trục tứ ngung, là trục Quỷ môn với nội tính là trục Tuyệt Mạng thể hiện sự đối lập âm dương trên tổng thể đồ hình. Mặt khác, xét về tương quan quan ngũ hành giữa từng cặp phương đối xứng đồng trục thì tất cả đều tuân thủ theo nguyên lý ngũ hành tương khắc, như Thủy ( Khảm) – Hỏa (Ly), Kim (Đoài) – Mộc (Chấn), Cấn thuộc Mộc tương khắc với Tốn thuộc Kim, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt và Càn là âm kim đới thủy tương khắc với Khôn là âm hỏa đới thổ vẫn thể hiện lý tương khắc cho một căp hành quái trên nguyên lý bát quái Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ. Và chính ngay khi phối các các quái lên cung vị của Hà đồ thì tính chất tương khác về ngũ hành cung vị Hà đồ vẫn thể hiện được tính đồng nhất và tương hợp với bát quái, một cách tổng quát các quái khí đồng trục đều theo một lý tương khắc hoàn toàn nhất quán và hoàn chỉnh. Tính quy luật cân đối âm dương còn thể hiện trên Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ khi cho thấy hai trục, âm Phúc Đức với độ số Hà đồ là 6-2 và dương Phúc Đức với độ số là 1-7 cho phe Đông trạch và Tây trạch, cùng với hai trục âm Tuyệt Mạng với độ số 8-4 và dương Tuyệt Mạng với độ số 3-9 cho hai phe Đông – Tây trạch. Đây là thể hiện tính cân đối âm dương, có cặp có đôi trong nội hàm Phúc Đức và Tuyệt Mạng và cũng thể hiện lý âm dương trong ngay trên cặp phạm trù Phúc Đức và Tuyệt Mạng. Như vậy sự hoàn chỉnh tuyệt vời cho việc giải mã bí ẩn, nghịch lý trục Quỷ Môn và trục Thiên Môn – Địa Hộ tồn tại từ trong cổ thư và sư phân bố tổ chức hợp lý các phương quái thì không nguyên lý nào bằng nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ. Hơn nữa, xét theo trục từ trường Trái Đất, trục Khảm - Ly trùng với trục từ trường Bắc - Nam của quả đất dành riêng cho phe Đông trạch. Trục Tây Bắc - Đông Nam tương hợp với trục nghiêng của Trái đất cũng thể hiện là một trục chính với chiều tương tác quan trọng đồng chất dành riêng cho phe Tây trạch. Một lần Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ thể hiện tính ưu việt của nó. 3. LỜI KẾT Để hiệu chỉnh một nguyên lý đã có sẳn thì cần phải đi từ một lý thuyết hoàn chỉnh và nếu như thế thì chỉ có chủ nhân đích thực của hệ thống lý thuyết đó mới thực hiện được điều này, với sự phục hồi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm rực rỡ thì việc giải quyết tính bất hợp lý của những khái niệm như trục Thiên – Địa, trục Quỷ Môn cho thấy tính hoàn chỉnh của nguyên lý lý thuyết Hậu thiên Lạc Việc phối Hà đồ, được công bố bởi nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, thể hiện tính nhất quán, tính quy luật và có thể giải thích được nhưng hiện tượng hiên quan đã cho thấy sự hoàn chính và phù hợp với tiêu chí khoa học của nguyên lý lý thuyết ấy. 19 tháng Dậu năm Tân Mẹo (2011) Thiên Đồng ================================= Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006. - Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996. - Phong thủy toàn thư, tg Thiệu Vĩ Hoa, NXB Thời Đại, 2009 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 6, 2012 Truyện cổ tích Việt Nam và sự liên hệ Bát Trạch Lạc Việt Thiên Đồng Bùi Anh TuấnThành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc ViệtTrung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương.Trong tác phẩm, công trình nghiên cứu như: “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch"; "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp"; Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam" của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông đã lấy những câu truyện cổ tích, truyền thuyết và huyền thoại để làm cảm hứng cho sự giải mã và phân tích những bí ẩn của nguyên lý học thuật cổ Đông Phương (gọi tắt là Lý Học Đông Phương) thuộc nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Sự giải mã phân tích ấy, mặc dù ông không coi là bằng chứng chứng minh cho những sự liên quan, nhưng cũng đặt ra nhiều chiêm nghiệm thú vị. Lấy cảm hứng theo cách tiếp cận và giải mã của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh và được sự hướng dẫn gợi ý của ông, người viết xin đưa ra đây thêm một vài trường hợp trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, để trả lời câu hỏi: “Phải chăng những di sản văn hóa dân gian Việt là những chiếc chìa khóa giải mã những hiện tượng bí ẩn của Lý Học Đông Phương?” Xin tham khảo qua hai câu truyện cổ tích sau đây. Câu truyện thứ nhất: Hổ và Mèo"Ngày xưa, muông thú đều tôn Mèo là Thầy, vì Mèo rất tài giỏi, dạy cho muông thú các môn võ nghệ để phòng thân và tồn tại. Như trâu biết húc, gà biết mổ và đá, ngựa biết chạy và lúc gặp kẻ thù nguy hiểm thì biết đá hậu…Khi ấy Hổ chưa biết ngón nghề võ nào, thấy muông thú đều được học thì cũng muốn lắm, ngặt nỗi không biết làm sao, bèn tìm cách học lén khi những con thú học với Mèo. Mèo một lần bắt gặp, Hổ thấy thế xin:-Xin Thầy thương tình mà truyền cho các ngón nghề võ nghệ phòng thân.Nghe thế Mèo đồng ý nhận Hổ làm học trò mà ngày ngày truyền dạy võ nghệ, truyền tất cả các ngón nghề. Mỗi lần học, Hổ lại nài nỉ:-Thầy còn tuyệt nghệ nào xin truyền hết đi.Thế là Mèo lại truyền môn “ra oai” bằng những chiêu gầm gừ, gầm rống và xù lông làm đối phướng khiếp vía kinh hải.Ngày qua ngày, Hổ đã học được hết tất cả các môn võ nghệ. Muông thú đều sợ hãi và đều thất bại dưới móng vuốt của Hổ mỗi khi tỉ thí. Tính tham lam và cao ngạo lên cao, nhìn lại thấy chỉ còn Mèo là Hổ chưa tỉ thí và nghĩ Mèo quá nhỏ thó so với Hổ, nếu thắng Mèo nữa thì sẽ là Chúa tể muôn loài. Vậy là Hổ thẳng thừng thách đấu với Mèo.Mèo nghe tin ấy không tỏ vẻ sợ hải hay ngạc nhiên. Đến ngày thi đấu, Mèo đến, Hổ đã chờ sẳn. Không nói không rằng, Hổ liền bất ngờ tấn công Mèo. Mèo biết trước, nhanh nhẩu né tránh và trèo thoăn thoắt lên cây cao. Hổ bị bất ngờ nên tức lắm, ở dưới gốc cây gầm rống vang cả núi rừng. Mèo ở trên cây cười và bảo:-Meo mẻo mèo meo, ta còn võ trèo, ta chẳng dạy cho.Hổ càng tức điên, nhưng cố bình tĩnh, nhại lại Mèo, nghiến răng nói:-Meo mẻo mèo meo, ta bắt được Mèo ta ăn cả cứt!Từ ấy, Hổ tuy mạnh mẽ nhưng lại không biết leo trèo, cũng từ ấy dòng dõi nhà Mèo đều phải đào hố và giấu phân của mình." Câu chuyện kết thúc với hình ảnh một con hổ dưới gốc cây đang ấm ức trước con mèo trên cành cây. Dường như nội dung duy nhất chuyển tải của câu truyện, xét trên quan niệm truyền thống ngàn đời của người Việt Nam, là muốn nhắc nhở người đời rằng phải biết “tôn sư trọng đạo”, “uống nước nhớ nguồn”. Điều này dường như đã đủ đối với bao nhãn quan xã hội nhân văn. Nhưng lạ lùng thay, khi bằng nhãn quan của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc nền Văn Hiến Việt thì sự trùng khớp mang tính ngẫu nhiên thú vị.Trong mười hai cung Địa Chi, người xưa quy định, Dần Mão thuộc mùa Xuân, thuộc Mộc, câu chuyện kết thúc với hình ảnh gồm 3 yếu tố Hổ - Dần, Mèo – Mão và Cây – Mộc, môt sự trùng khớp với quan niệm Dần – Mão – Mộc thuộc Đông phương. Khi quán xét thêm ba yếu tố này trên nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ trong 24 sơn hướng Bát trạch Lạc Việt sẽ thấy như sau:Mão trụ tại phương chính Đông thuộc Dương Mộc, độ số là 3 Dương trên Hà Đồ và quái Chấn chủ quản chính Đông phương. Hình ảnh con Mèo trèo lên cây cao trùng khớp với Mão trụ ở Đông phương và cây cao to đã phát triển là Dương Mộc. Vì ý nghĩa Mèo có khả năng trèo lên cây cao to lớn trong câu chuyện nên có thể chứng tỏ sự biểu đạt ý nghĩa của việc gắn kết mật thiết hiễn nhiên Mão – Mộc, chính Đông phương. Còn lại là hình ảnh con Hổ ngồi dưới gốc cây, vì không học được khả năng leo trèo. Hổ là Dần, thuộc phương Đông Bắc âm Mộc thuộc thứ phương, độ số là 8 Âm trên Hà Đồ. Hổ và Mèo tạo thành sự đối lập Âm Dương rỏ rệt trong cùng hành Mộc, Mão – Mèo đại diện cho chính Đông phương dương Mộc, Hổ - Dần đại diện cho thứ phương Âm Mộc. So với sự tương quan Hổ - Dần, Mão – Mèo thì Dần đứng hàng thứ 3 trong 12 địa chi, cũng tương ứng với sơn Dần là sơn Dương và Mão đứng hàng thứ 4 trong 12 địa chi, tương ứng với sơn Mão Âm trong 24 sơn Bát Trạch Lạc Việt. Theo nguyên lý “Âm đi lên, dương đi xuống”, “ Âm cao dương thấp” thì Mão – Mèo là Âm thể hiện trong câu chuyện Mèo có khả năng trèo lên cao, Hổ - Dần thuộc Dương thể hiện trong câu chuyện là không học được khả năng trèo lên cao và phải ngồi ở dưới dốc cây, ở dưới thấp. Câu truyện Hổ và Mèo kể chuyện Hổ đi học võ nghệ để có được khả năng và sức mạnh , đó là muốn nhấn mạnh sức mạnh và tri thức, cũng như sức mạnh của tri thức. Lạ lùng thay sự trùng lấp ý nghĩa này khi xét trong Mệnh Cung Bát Trạch truyền bao đời nay thì 2 cung Tri Thức và Sức Khỏe nằm liền nhau Tri Thức thuộc Cấn âm Mộc, cung có Dần ở, Sức Khỏe (Sức Mạnh) thuộc Chấn dương Mộc, cung có Mão trụ. Có sức khỏe chưa chắc đã mạnh, điều này chắc chắn đúng và được thể hiện ngay trong nội dung câu truyện, Mèo không thể thắng được sức mạnh võ biền của Hổ nên đã nhanh nhảu trèo lên cây. Đây là sự thể hiện của sức mạnh trí tuệ linh hoạt khi tri thức chỉ là phương tiện để nhằm mục đích đạt được cái cao hơn.Vậy cái cao hơn là gì? Câu truyện chắc hẳn không chỉ chuyển tải ý nghĩa đạo lý “tôn sư trọng đạo” mà ở chiều sâu còn gửi gắm hàm ý thâm trầm hơn khi quán xét theo lý Dịch. Sách “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 46 có đoạn:“Tượng ChấnChấn là sấm, là đế vương, là con trai cả, là chủ, là tổ, là tông, là ông, là chư hầu, là bách quan, là kẻ sĩ, là chồng, là hành nhân, là đồ vật chính, là vương thần, là quân tử, là trăm thứ ngũ cốc, là tiền đồ rộng lớn, là đường bằng phẳng, là cỏ dại, là cây thấp, là lăng, là ngựa, là hưu lộc, là cái làn, là gót chân, là ngón cái, là dày, là đâm vào, là trống, là ra, là sống, là ban đầu, là bên trái, là dần dần, là đi, là làm, là khởi đầu, là bôn ba, là sống lại, là phấn chấn, là dơ lên, là kính trọng, là cấm, là đầu, là uy, là nhân nghĩa, là kinh sợ, là nói, là cười, là kêu, là âm thanh, là lời cáo, là vui, là kế giữ, là xuất chinh.” Cùng trích từ sách “ Nhập môn Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 47 có viết: “Tượng CấnCấn là núi, là đá, là cát, là miếu thờ, là môn đình, là cung thất, là thành trì, là nhà trọ, là ngõ hẻm, là đường tắt, là huyệt, là gò đồi, là thung lũng, là khô, là thiếu nam, là quân tử, là hiền nhân, là người thâm trầm, là đệ tử, là tiểu nhân, là cô đơn, là trẻ thơ ngây, là chúa, là lỗ mũi, là tay, là ngón tay, là lưng, là ngày cuối tháng, là đêm, là đuôi, là da, là hổ, là báo, là chuột, là ngôi sao nhỏ, là ngày kết thúc, là gỗ nhỏ, là quả to, là ngô, là hoa lệ, là ngừng, là thận trọng, là tiết lễ, là chấp chính, là dẫn dắt, là chọn lấy, là cầu tìm, là đưa dắt, là nạp vào, là nắm lấy, là nhiều, là dày, là trung thành thật thà, là tích đức, là biết nhiều, là tin, là nhớ đến, là nhỏ là xấu hổ, là nghỉ, là nhàn, là ở, là thôi, là đề phòng, là ngôi thứ.” Hình ảnh Mèo trên cây và Hổ dưới đất đại diện cho quẻ Chấn bên trên và Cấn bên dưới, xét theo cảm ứng tượng quẻ. Theo nội dung và hoàn cảnh câu chuyện thì trong nhiều nghĩa của tượng Chấn thì nghĩa là tổ, là quân tử, là nhân nghĩa là phù hợp với nội dung và hoàn cảnh câu chuyện, vì mèo là người dạy cho muôn loài võ nghệ, đem cái tri thức, kiến thức, sở học của mình mà giúp cho muôn loài tồn tại và tiến triển và chỉ có người có cái tâm bao dung rộng lớn đầy nhân nghĩa mới làm được đều đó luôn cả đối với học trò, dù biết trước sẽ là phản đồ. Điều này rỏ ràng hơn khi nghĩa của quẻ Cấn là hổ, là đệ tử,là tiểu nhân, là cầu tìm, là tích đức. Hổ đã tìm điến để cầu học với Mèo và được Mèo truyền thụ võ nghệ, là truyền thụ tri thức, nhưng Hổ lại không chịu tích đức, không hiểu ra được điều nhân nghĩa mà luôn dùng võ lực, oai danh, những điều đã học được để đe dọa trấn áp thiên hạ, muôn loài, một khi tham vọng lợi ích, quyền lực che mờ cả lý trí thì sẳn sàng quay trở ngược lại đánh người thầy, phản thầy một cách thẳng thừng. Tham vọng của kẻ nghịch đồ càng cao, càng mờ mắt vì danh, vì lợi, vì quyền hạn thì tất yếu dẫn đến những hành động bỉ ổi xuất phát từ tư tưởng hèn kém mà mọi việc hạ cấp hay ti tiện nào cũng có thể làm, đó là:“-Meo mẻo mèo meo, ta bắt được Mèo ta ăn cả cứt!” Rõ ràng và đích thật, đây là hạn tiểu nhân. Quẻ Cấn bao gồm hai nghĩa song song là “tiểu nhân” và “quân tử”, nhưng cũng hàm chứa nghĩa “tích đức”, do vậy tiểu nhân hay quân tử chỉ khác nhau một chữ “Đức” mà thôi. Khi lấy hai tượng Chấn chồng lên Cấn thì được quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá, một sự trùng lấp lại hiện ra so với nội câu truyện, khi xét nghĩa quẻ sau đây: Trích từ sách “ Chu Dịch dự đoán học” của tác giả Thiệu Vĩ Hoa, trang 52:“Tiểu quá, Quá tức là vượt qua. Có thể vượt qua điều thường tình mới đủ sức làm việc lớn.” Hổ muốn thị oai, muốn làm chúa tể muôn loài, nghĩa là muốn mưu cầu việc lớn, nhưng Hổ không thể vượt qua được điều rất bình thường là thu phục lòng muôn loài, không chịu tích đức, không hiểu ra được cái tuyệt chiêu tối thượng cần phải cầu học là Nhân Nghĩa, do vậy mà Hổ phải chịu thất bại trước Mèo, trước sức mạnh linh hoạt của tri thức, của lòng Nhân Nghĩa. Và Mèo được muôn loài tôn và trọng không phải vì tài nghệ hay sức mạnh võ biền mà là vì cái tâm Nhân Nghĩa truyền thụ đạo học. Trích từ sách “Dịch học ngũ linh”, tác giả Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, trang 678 có đoạn:Lời quẻ“Tiểu Quá, hanh lợi, trinh, khả tiểu sự bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát” (Quá nhưng việc nhỏ, hanh thông hợp đạo chính thì lợi, có thể làm việc nhỏ, không thể làm việc lớn. Con chim bay để tiếng kêu lại, không nên lên cao mà nên xuống thấp, được vậy thì đại cát.) Hổ không thể đánh bại được Mèo đã thể hiện cái “không thể làm việc lớn”. Vì Tiểu Quá là vượt qua những việc nhỏ, những chuyện thường tình thế sự thì mới có thể nghĩ đến việc lớn hơn. “bất nghi thượng, nghi hạ đại cát” ý chỉ người nào việc náy mà tùy theo khả năng của mình vậy. Phải chăng câu chuyện ngoài việc muốn chuyển tải ý nghĩa nhắn nhủ rằng tri thức của nền văn minh phương Đông chỉ truyền lại cho những ai học được điều Nhân Nghĩa và nền tảng của tri thức phương Đông này lấy Nhân Nghĩa làm chủ đạo, mà còn chuyển tải hàm ý xác định tính chất hai cung Cấn và Chấn là hai cung Tri Thức và Sức Khỏe (sức mạnh) trong Mệnh cung Bát Trạch, muốn nhấn mạnh núi tri thức phương đông là phương tiện hướng đến một sức mạnh lý trí linh hoạt của Đông phương dựa trên nền tảng Nhân Nghĩa sâu sắc. Truyện thứ 2, tựa: Trí khôn ta đây!(hay là sự tích bộ lông vằn của hổ, hàm răng trên bị khuyết của trâu)"Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Ðến trưa, mở cày, Cọp liền đi lại gần Trâu hỏi:- Này, trông anh khỏe thế, sao anh lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?Trâu trả lời khẽ vào tai Cọp:- Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ!Cọp không hiểu, tò mò hỏi:- Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào?Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt:- Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân và hỏi:- Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không?Anh nông dân suy nghĩ một lát rồi nói:- Trí khôn tôi để ở nhà. Ðể tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần, tôi sẽ cho anh một ít.Cọp nghe nói, mừng lắm.Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì bèn nói:- Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn mất trâu của tôi thì sao?Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp:- Hay là anh chịu khó để tôi buộc tạm vào gốc cây này cho tôi được yên tâm.Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy dây thừng trói cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong anh lấy rơm chất chung quanh Cọp,rồi châm lửa vừa đốt vừa cầm gậy nện Cọp tới tấp và quát:- Trí khôn của ta đây! Trí khôn của ta đây!Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào.Mãi sau dây thừng cháy đứt, Cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoái nhìn lại.Từ đó, cọp sinh ra con nào trên mình cũng có những vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả." Câu truyện cổ tích này được truyền khẩu từ bao đời nay, đã làm cho biết bao tâm hồn trẻ thơ, luôn cả những người lớn lấy làm thú vị vì cách giải thích một nguyên do lông cọp bị vằn và hàm răng trâu không có hàm trên, qua đó cũng diễn đạt ý nghĩa sâu hơn của câu truyện là trí khôn chỉ có ở con người và trí khôn không phải là điều gì lớn lao lắm mà chỉ đơn giản là việc ứng xử với thiên nhiên với môi trường xung quanh một cách linh hoạt. Đây là điều thật lý thú và thú vị đem đến từ câu chuyện. Điều này chỉ dừng lại ở đây thôi thì sẽ không còn gì đáng nói, nhưng bất ngờ thay đằng sau nó dường như chuyển tải một bí ẩn khác, khi nhìn dưới nhãn quan Lý học đông phương. Câu truyện vỏn vẹn chỉ có 3 nhận vật: Cọp, Trâu và Người, trong đó Người và Cọp là hai nhân vật chính, còn Trâu là nhân vật phụ, nhân vật trung gian. Điều trùng hợp ở đây là Cọp và Trâu là hai hình tượng trùng lấp với Sửu và Dần khi liên hệ trên 24 sơn Bát Trạch Lạc Việt, cung Cấn, thuộc phương Đông Bắc, Âm Mộc trên Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt.Bát quái mệnh cung từ cổ thư chữ HánBát quái mệnh cung Lạc ViệtNội dung chính của câu truyện kể về việc Hổ thắc mắc muốn hiểu biết trí khôn là gì. Lạ lùng thay, ngay trên Bát quái mệnh cung được lưu truyền bao đời nay, cũng như đồ hình Bát Quái mệnh cung được một một Phong thủy gia người Đài Loan công bố thì cung Tri Thức lại ở ngay cung Đông Bắc, gồm 3 sơn Sửu – Cấn – Dần. Và theo sự phục hồi trên cơ sở Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ thì Sửu – Cấn – Dần thuộc phương Cấn âm Mộc, vẫn là phương Đông Bắc.Tri Thức là Trí Khôn là khả năng cao cấp nhất chỉ có con người mới có được, và yếu tố con người xuất hiện trong câu truyện không phải là dư thừa hay không hợp lý khi trong cố thư có câu:“Thiên sinh ư tý, địa sinh ư sửu, nhân sinh ư dần” Tạm dịch là trời sinh ra ở hội tý, đất sinh ra ở hội sửu và người sinh ra ở hội dần. Vì vậy vấn đề “trí khôn là cái gì? ở đâu?” được giải quyết trong phần cuối câu truyện xảy ra giữa Cọp và Người, hình ảnh của Dần và Nhân. Sự trùng lấp Trâu - Cọp với Sửu – Dần và nội dung câu truyện giải thích trí khôn là gì với tương đương nghĩa của tính chất cung Đông Bắc là Tri Thức là một sự trùng họp tuyệt vời, có thể là một bí ẩn chuyển tải trong kho tàng truyện cổ tích của người Việt, trong văn hóa của người Việt lưu truyền một cách vô thức qua bao thế hệ, có thể đây là một thông điệp ngàn đời muốn nhắn nhủ rằng chủ nhân đích thực của nền văn minh phương Đông là con Rồng cháu Tiên với nền văn hiến 5000 năm huyền vĩ. Hai câu truyện “Hổ và Mèo” và “Trí khôn của ta đây” trùng lặp với sự giải mã theo cơ sở Lý học Đông phương, xác nhận hai phương Chấn và Cấn là hai cung Sức Khỏe và Tri Thức mà qua đó chủ nhân đích thực của nền văn minh phương Đông muốn nhắn gửi một điều sâu thẩm rằng tri thức Đông phương là sức mạnh linh hoạt và biến chuyển (qua hình ảnh Mèo và Người) không dể bị áp chế bởi sức mạnh võ biền (hình ảnh Hổ) và nền tảng của nền văn minh ấy là đạo lý Nhân Nghĩa sâu sắc. Có thể đây không phải là một chứng minh, nhưng ít ra cũng là một cách nhìn đầy thú vị của riêng người viết, khi liên hệ những yếu tố của kho tàng văn hóa Việt với tri thức Lý học Đông phương nhằm tạo một sự hứng khởi trên con đường nguyên cứu khám phá trong biến bờ Lý học Đông phương huyền vĩ. Không dám cho rằng là đúng khi tính bao hàm của cơ sở Lý học Đông phương quá rộng lớn so với sự nhận thức hạn hữu của con người.Tp HCM, tháng 3-2010 Thiên Đồng-----------------------------------------------------Tham khảo:- Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003- Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.- Dịch học ngũ linh, tg Cao Từ Linh, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006.- Nhập môn chu dịch dư đoán học, tg Thiệu Vỹ Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996.web: www.wikipedia.org 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites