Lãn Miên

Hùng Vương Hay Lạc Vương (4)

1 bài viết trong chủ đề này

Theo các qui tắc tạo ngôn từ Việt mà Lãn Miên nêu ra một cách ngớ ngẩn là: QT nở (chia âm dương), QT lướt, QT thay (thay Tơi hoặc thay Rỡi) thì chỉ một cái âm tiết là tiếng “Bùn” cũng thấy được bóng dáng của nước Văn Lang cổ đại, nơi có nền văn minh lúa nước sớm nhất của nhân loại, là nó nằm ở đâu. Mà chính sử từng ghi: “Nước Văn Lang bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn”, đó cũng chính là vùng rộng lớn mà khảo cổ học phát hiện ra trống đồng. Đồng tiền bằng kim loại đồng, hình tròn có lỗ nhỏ hình vuông ở giữa là do người Việt làm ra đầu tiên, nó là hình tượng của bầu trời tròn như cái bánh dầy, rộng bao la ôm lấy trái đất vuông như cái bánh chưng. Người Việt gọi đơn vị tiền là “Đồng”, một tiếng “đồng” ấy đã có ý nghĩa rất “rộng” như không gian văn hóa “rồng”, như không gian giao lưu thương mại của cộng đồng các dân tộc phương đông, nơi thời cố đại lan truyền văn hóa “trống” “đồng” bằng vật liệu kim loại “đồng” của “cộng” “đồng” cư dân Bách Việt. Người Việt cũng từng đúc tiền bằng kim loại Bạc và gọi là đồng Bạc, dùng cho đến tận năm 1945 (thời thuộc địa thực dân có đồng Bạc của Đông Dương, cũng đúc bằng hợp kim bạc, dân gian gọi là đồng Bạc hoa xòe vì có đúc nổi hình cánh hoa), cũng như Thái Lan gọi đơn vị tiền là Bạt. Chính vì lấy kim loại Bạc làm đơn vị giá trị nên mới có từ Ngân Hàng. Nhưng để có được những cái trên thì xa xưa nữa hàng vạn năm trước người Việt đã từng dùng Bối 贝 làm tiền, như đã giải thích ở đoạn trên. Từ Bùn là thuần Việt thì Bối cũng là thuần Việt (Hán ngữ không có âm tiết Bùn chỉ đất nhão do nước làm cho bấy nhuyễn, mà gọi là “ní”). Bùn=Bấy=Nhầy=Nhuyễn=Nhão=Lạo=Lầy=Nầy=Nê 泥 = “Ní 泥”. Bùn vì nhão cho nên nó Bám chứ không dính, rửa nước là trôi ngay, nó chỉ là sém dính thôi, cho nên còn gọi là Sình (QT lướt: Sém Dính=Sình). Nếu dân Bùn ở Bản hay ở Buôn (dòng Tiên) quanh năm luôn phải “tay Bùn” thì dân Lầy ở Làng (dòng Rồng) cũng quanh năm luôn phải “chân Lấm” để làm ruộng lúa nước mới có được xã hội Bản Làng = Bang (QT lướt: Bản Làng = Bang), đứng đầu Bang là ông Lớn Bang = Lãnh Bang =Lang(QT lướt: Lãnh Bang = Lang), mới có được đồng Bạc để trao đối khi Buôn Bán, mới tạo được cái quốc gia là Vuông Lang = Văn Lang. Những kẻ “chân Lấm tay Bùn” và những kẻ hàng tôm hàng cá ở chợ là những kẻ làm nên ngôn từ Việt đầu tiên từ những vật cụ thể mắt thấy tay sờ, rồi ngôn từ mới được nâng nghĩa lên thành ngôn từ của văn học dân gian, rồi tiếp đến được trừu tượng hóa thành ngôn từ triết học (ví dụ từ Vũ Trụ, đã từng giải thích). Qui tắc lướt là đã hình thành tự nhiên trong lối nói của người Việt. QT lướt cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tiếng Việt từ ngôn ngữ Nam Á đa âm tiết trở thành ngôn ngữ đơn âm tiết, “đơn âm thành nghĩa”. Lối Lướt ấy đã có hàng vạn năm trước. Ngôn từ Việt chẳng đã có cái nôi khái niệm: Lời=La=Lối=Lái=Láy=Lướt=Lóng=Luyến. Lối lướt ấy là có trước, nên đến đầu công nguyên Hứa Thận mới vận dụng để hướng dẫn đọc cho đúng âm của mỗi từ Việt bằng cách mượn âm của hai từ khác mà lướt lại, gọi là “thiết 切”. Theo QT thay (thay Tơi và thay Rỡi) thì: Cắt=Xắt=Xát=Lát=Liếc=Lướt=Lướt-Thướt=Thiết 切, cũng chỉ là một động tác gọn Lẻm như một lát cắt. Nếu không vận dụng QT lướt như Hứa Thận từng vận dụng (mục đích để đọc đúng âm) thì làm sao giải thích được (mục đích tìm gốc từ), rằng tại sao người Kinh gọi con vật thuần dưỡng đầu tiên của nhân loại tức con chó (khoa học thế giới đã chứng minh, chó là đầu tiên do người ĐNÁ thuần dưỡng) là Chó mà người Tày, Lào, Thái Lan lại gọi là con Má (tiếng Việt, “chó má” là nhiều loại chó nói chung, qui tắc “từ đôi”). Hay là phải lục trích sách Tàu hay sách Pháp thì mới giải thích nổi? Đơn giản: người Kinh khi ăn, thừa thì quẳng cho con vật thuần dưỡng đầu tiên ấy, kèm theo câu “cho nó !” (QT lướt Cho Nó = Chó, “phản thiết 反 切” như Hứa Thận hướng dẫn thì Cho Nó = Chó No, hay Cho Nó = No Chó, theo kiểu lái Bắc Bộ), đều thành cái tên “Chó” để chỉ con vật trung thành ấy. Người Lào khi ăn, thừa thì quẳng cho con vật thuần dưỡng đầu tiên ấy kèm theo câu “mừ ná !” (mày nhá !), (QT lướt: Mừ Ná = Má, hay lái Mừ Ná = Má Nừ), thành cái tên “Má” để chỉ con vật trung thành ấy. “Mừ” là ngôi thứ hai, ( tiếng Tày, Lào, Thái Lan) như “Mày” của tiếng Kinh. Mà “Mày” là do gốc từ “Muôi” là con số Một của tiếng Khơ Me, thứ nhất là Muôi = Một thì phải đến ngôi thứ hai là Mày (QT thay Rỡi và thay Tơi: Mày=May=Mạy=Mới=Mai=Hai) là phải “mới” hơn là “một”, tiếng Lào có Bản Mạy là Bản Mới, tiếng Thái Lan có Bản Mai là Bản Mới. Theo QT nở: “Mỗi” sẽ nở chia âm-dương ra thành Mô/Một, “Một” lại nở chia âm-dương ra thành Mất/Mai). Thời nước Văn Lang của Vua Hùng, Vua Hùng phong đất cho những ai có công ( QT lướt: "Phát cho đất trong một Vòng" = Phong 封) thì người có công lớn nhất gọi là Cả, khi giao đất, Vua phán: “Cả trông !” (QT lướt: Cả Trông = Công, đó là chức Công 公, lo mà trông coi nhá ). Khi giao đất cho người có công thứ hai, Vua phán: “Hai đầu !” (QT lướt: Hai Đầu = Hầu, đó là chức Hầu 侯, lo mà cầm đầu nhá). Khi giao đất cho người có công thứ ba, Vua phán: “Ba nhá !” (QT lướt: Ba Nhá = Bá, đó là chức Bá 伯, lo mà nắm nhá). Khi giao đất cho người có công thứ tư, Vua phán: “Tư giữ !” (QT lướt: Tư Giữ = Tử, đó là chức Tử 子, lo mà giữ nhá). Khi giao đất cho người có công thứ năm, Vua phán: “Năm làm !” (QT lướt: Năm Làm = Nam, đó là chức Nam, lo mà làm tròn trách nhiệm nhá). Nếu cứ căn cứ vào cái chữ nho, do thư lại người Hán đời sau mượn để ký âm, ghi thành chính sử, thì các chữ theo biểu ý của nó chẳng có logic gì cả với 5 cái chức Công 公 (nghĩa là “ông”), Hầu 侯( nghĩa là “đợi”), Bá 伯( nghĩa là “bác”), Tử 子 (nghĩa là “con trai”), Nam 男 (nghĩa là “đàn ông”). Người Việt vẫn lấy thứ tự để đếm con cái trong nhà là: Cả, Hai, Ba, Tư, Năm…, Vua Hùng cũng theo thứ tự ấy của ngôn ngữ dân gian để gọi một cách tự nhiên thành tên riêng của chức hoặc tước mà thôi. Trong bản đồ cổ đại , những Quốc (là Của Nước) nhỏ ly ty, đứng đầu là một trong năm chức trên (gọi là Chư Hầu Quốc = Thứ Hai Của Nước, những Thứ Hai của Nước, tức những Chư Hầu của nước so với Nước là trung ương, là Chỗ Giao tức Giao Chỉ), đều là của người Việt cổ thuộc Nước Văn Lang, của tộc người có Lắm Nác nhỏ ấy nên gọi là Lạc ("Lắm Nác của người Việt" gọi lướt thành Lạc Việt). Đến thời Xuân Thu thì mới thành lập lại thành những quốc gia lớn gọi là Bách Việt.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites