Lãn Miên

Hùng Vương Hay Lạc Vương (3)

1 bài viết trong chủ đề này

Hùng Vương hay Lạc Vương (3)

Hùng 雄, nguyên gốc phát âm và nghĩa chữ của nó có nghĩa là Vùng rộng, nhưng là vùng rộng của totem chim, tức của dân Tiên Rồng là dân Lạc Việt =Bách Việt (cũng thấy nhiều câu đối thời Trần viết chữ Tiên Tổ 仙祖 không phải là chữ Tiên 先là đầu tiên, mà là chữ Tiên仙 là rồng tiên, bởi chữ Tổ đã có nghĩa là rồng, kết cấu kiểu Việt, như Vợ Chồng, Mẹ Cha, mẹTiên cha Rồng của dân thờ Bà Trời, có đạo Mẫu). Hàng nghìn năm sau thời Hùng Vương vẫn thấy trong cổ thư chữ Hùng nghĩa là Vùng rộng. Ví dụ “Tam quốc chí. Sĩ Nhiếp truyện 三 国 志 • 士 燮 传” viết: “Nhiếp huynh đệ bỉnh vi liệt quận, hùng trưởng nhất châu, thiên tại vạn lý, uy tôn vô thượng 燮 兄 弟 并 为 列 郡, 雄 长 一 州,偏 在 万 里,威 尊 无 上, hùng trưởng nhất châu nghĩa là làm trưởng vùng rộng là một châu. Thời nhà nước Hùng Vương tức nhà nước Văn Lang ở nam Dương Tử cách nay 5000 năm là của cư dân Việt, trồng lúa nước và có tục ăn trầu. Chữ Việt 粤 ấy viết gồm bộ Vuông 口là vùng, trong có bộ Thái 采 là ánh nắng, nghĩa là dân Cháy thờ mặt trời, và bên dưới là hình cái Cày 亏 (Cày=Cháy=Chài=Thái, nghề đốt rẫy làm nương và nghề sông nước đánh cá). Nhưng nghề buôn bán cũng đã có, thể hiện ở cặp từ đối nảy sinh theo QT nở âm dương của từ Buôn nở ra hai từ Bán/Bối. Bán=Phán=Mạn=Mại=Mai=Mơi. Bối=Mối=Môi=Mua=Mãi. Về sau hay dùng cặp đối Bán/Mua hoặc Mại/Mãi. Chè mạn là chè đã gia công sấy để bán, khác chè xanh thường là vườn nhà có, không phải mua. Người trung gian cho thương vụ bán mua gọi là bà Mai / Mối, mà thường hay gọi tắt là bà Mai hoặc bà Mối. Chữ Phán là chữ viết nho của từ Bán, có nghĩa chỉ là bán nhỏ lẻ, phát triển lên thì dùng từ Thương Mại, Mại tương đương bán sỉ (nghề mại dâm là nói chủ chứa bán sỉ, còn mãi dâm là nói hành vi mua dâm). Ngày nay từ khoa học, từ thương nghiệp viết dài dòng quá, nhức đầu. Ví dụ đọc văn bản thấy có “nghề nuôi trồng “nhuyễn thể hai mảnh vỏ”, rồi giám định xuất khẩu “nhuyễn thể hai mảnh vỏ”. Cái loài ấy người Việt cổ đại chia ra là các loài Ngao (có hai vỏ trắng đục) và các loài Ngán (có hai vỏ màu rêu trong có xà cừ), khác với loài ốc là nó chỉ có một cái ốc làm nhà của nó, mà chữ nho viết Ốc nghĩa là cái nhà. Cái tên chung chỉ loài “nhuyễn thể hai mảnh vỏ” ấy là loài Ngao Ngán, nâng ý lên “ngao ngán” có nghĩa là nhiều vô số kể. Cổ thư viết “Người Việt cổ ăn nhiều nghêu sò ốc hến”. Bởi vậy đồng tiền đầu tiên trong giao dịch buôn bán cũng là của người Việt, đó là cái Bối. Vì “Lạc dân theo nước lên xuống mà làm ruộng” nên quen lội Bùn, Bùn lắng thì Bồi thành Bãi, người ta phải Bới ra mới nhặt được cái loài “nhuyễn thể hai mảnh vỏ” ấy. Vì hai mảnh vỏ nên luộc chín nó tách ra thành cái Bẹ có hai mảnh tách đối nhau. Cái Bẹ Đối ấy người ta gọi là Bối ( QT lướt: Bẹ Đối=Bối). Rồi chọn loại Bối nào đẹp nhất, sặc sỡ nhất làm tiền, nho viết là chữ Bối. Có Bối mới dùng để Đổi hàng ( QT thay tơi: Bối=Đổi). Và “Bối để trao Nhau” (lướt)=Báu, nho viết là chữ Bảo, sau có từ đôi nhấn mạnh ý là Bảo Bối. Kẻ có nhiều Bối tức Báu thì Có Báu=Qúi Báu (QT thay tơi: Có=Qúi). Vỏ Bối xấu không dùng thì rơi vãi ở bếp, vô tình nó bị nung nóng lên, nóng quá bỏng tay, đổ vội xuống nước nó sủi Bọt lên ùng ục rồi nhão ra thành như Bùn, nhưng màu thì Bạc trắng, lúc ấy là lúc Vỏ Bối=Vôi (QT lướt: Vỏ Bối=Vôi). Truyền thuyết trầu cau, và người dân có thói ăn trầu, dân ấy là dân đã lấy Bối làm tiền đầu tiên (cách nay cả vạn năm). Ở đâu có dân ăn trầu là ở đó thời cổ đại thuộc địa vực nước Văn Lang. Cổ thư viết “Lạc tướng có ấn đồng” thì tức là trước đó hàng ngàn năm đã có chữ viết. Có chữ viết, có triện đồng đương nhiên là có kẻ trí thức. Kẻ ấy người Việt chỉ gọi gọn lỏn là Kiệt Hiệt (QT lướt: “Kẻ Việt”=Kiệt, “Hiểu vùng Việt”=Hiệt). Đến đầu công nguyên mới có Hứa Thận giải thích chữ Kiệt 桀là: cái ở trên của mọc. Đó là cái đầu mầm của hạt giống đang mọc, nó có sức sống mạnh vô cùng, mềm nhỏ như vậy mà nó đội bật mọi đè nén là cục đất khô nặng hơn nó cả trăm lần để vươn lên tự do, nhìn cái măng tre mọc là thấy khủng, bởi vậy măng mọc thẳng là huy hiệu của thiếu nhi Việt Nam ( Hứa Thận hướng dẫn đọc đúng: lướt Cừ 渠 Liệt 烈 = Kiệt, lái Cừ Liệt=Kiệt Lừ). Chữ Hiệt 黠, Hứa Thận giải thích: chất xấm tốt vậy, đọc: lướt Hồ 胡 Cát 吉 =Hạt, lái Hồ Cát=Hạt Cồ. Cái hạt cồ nghĩa là hạt giống to ấy lại có nghĩa là “chất xám tốt”, vậy thì đúng trí thức là hạt giống tốt để đưa đất nước phát triển, nhưng phải là “Hiểu vùng Việt” = Hiệt, tức phải hiểu lịch sử Văn Lang 5000 năm văn hiến ở nam Dương Tử thì mới thành hạt giống tốt được.

Share this post


Link to post
Share on other sites