Posted 25 Tháng 4, 2008 Lặng lẽ nơi đầu ngõ, bên những mảng tường loang, đứng riêng một góc, xa khuất, tưởng chừng chẳng dính dáng gì đến số phận làng quê và thân phận con người nơi đó, chiếc cổng làng đã chứng kiến bao thăng trầm và dường như nó biểu trưng cho sự uy nghi, nền nếp riêng của mình. Một chiếc cổng bằng gỗ cũ kỹ đã tróc sơn, mọt cánh hay một chiếc cổng xây bằng gạch rêu phong đã mọc đầy là hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc bộ Việt Nam dù xu hướng đô thị hoá đã len lỏi nơi đây. Những chiếc cổng làng có vẻ như không còn hợp với những con đường bê tông mở rộng, với những xe công nông, ôtô tải ra vào phục vụ những nhu cầu thường nhật ngày càng lớn của người dân nông thôn. Nhưng trong một góc tâm thức nào đó của người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng thân thương và đặc trưng của mỗi làng quê truyền thống. Cổng làng là một trong những bộ phận cấu thành không thể thiếu của làng quê cổ truyền vùng Bắc Bộ. Lặng lẽ nơi đầu ngõ, bên những mảng tường loang, đứng riêng một góc, xa khuất, tưởng chừng chẳng dính dáng gì đến số phận làng quê và thân phận con người nơi đó, chiếc cổng làng đã chứng kiến bao thăng trầm và dường như nó biểu trưng cho sự uy nghi, nền nếp riêng của mình. Lưỡi dao thời gian khoét sâu vào từng viên gạch, trơ mòn, trũng lõm sâu hút như hốc mắt người già. Ðôi chỗ, nước mưa ngấm lâu ngày, gạch chảy dài từng vệt đỏ như huyết ngỡ như lệ xót thương giỏ thành máu... Cổng làng ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng. Cổng làng chủ yếu có ở những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã, đặc biệt là vùng đất châu thổ sông Hồng. Dù to dù nhỏ, dù xây bằng gạch hay ghép đá, chiếc cổng làng chính là dấu ấn minh chứng cho một nếp làng bề thế, chỉn chu. Cửa nhà trong làng có thể xộc xệch, sơ sài; con người có thể lam lũ, nhếch nhác nhưng cổng làng thì phải đàng hoàng, chững chạc. Ðơn giản chỉ bởi cổng làng là bộ mặt, là biểu tượng của làng quê, phần nào thể hiện được cốt cách của làng, tư chất của mỗi người dân trong làng. Kiến trúc cổng làng xưa không cầu kỳ, phô trương mà chỉ nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trong khoảng không gian của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cổng làng thường được đặt ở vị trí trang trọng nhất, dễ nhìn thấy nhất và thường thì chỉ có một cửa chính nhưng ở nhiều nơi, liền với cửa chính còn có hai cửa phụ thấp và nhỏ hơn, được xây dựng trang trí hài hoà với cổng chính, tạo thành một thể kiến trúc thống nhất tựa như những ngôi tam quan của chùa, hay như những bức cửa mã ở đình làng. Ở những chốn quê nghèo, cổng làng mộc mạc lắm. Hai bên trụ gạch thấp nhỏ, khiêm nhường đỡ một tấm xà cũng bằng gạch, thế là thành cổng làng. Không một nét vẽ trang điểm, không màu mè, thậm chí không một nét chữ tên làng, vậy mà chính những chiếc cổng vô danh như thế lại trở nên thân thiết gắn bó vô chừng. Trên thân cổng không biết bao nhiêu dấu vết của tuổi thơ. Chỗ đất ấy đã mòn nhẵn dấu tay trẻ những bận chơi ô ăn quan, đánh bi, đánh đáo. Chỗ đất ấy mịn êm như tấm chiếu cho lũ trẻ làng tha thẩn, lê la đứng ngồi ngóng mẹ về những buổi chợ quê. Cổng làng cũng là nơi dừng chân đặt gánh những vai lúa nặng trĩu nước đồng những ngày mùa bận rộn, dăm ba câu chuyện, mấy lời góp nhặt cũng đủ vợi nỗi cực nhọc. Ở đấy rất nhiều gió từ ngoài đồng lùa về, bao nhiêu mồ hôi tự nhiên ráo khô. Con đường đi qua cổng làng, để lại theo nǎm tháng những lớp bụi quê vô thường, vô thức, chứng kiến không biết bao nhiêu sự kiện lớn của làng. Thương nhau cũng hò hẹn ở chốn cổng làng, rồi khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng, trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư... Những người con xa xứ, khi về lại quê nhà, bước qua cổng làng là biết mình đã về tới mái nhà thân yêu, về được lại mảnh đất chôn rau cắt rốn, chợt thấy lòng ấm lại. Có cả niềm hân hoan, nỗi bịn rịn ươn ướt trên mi, quệt vào vách cổng, sướt trên cột cổng. Và có ai mỗi khi xa quê không ngoái nhìn lại, nhìn lần cuối tam quan làng mình. Cổng làng được dùng như một qui ước không gian hơn là một giới hạn địa lý của làng. Nó chẳng ngǎn che được gì về vật lý lẫn thị giác. Vậy mà làng không cổng chẳng khác gì nhà không cửa. Nó như một dấu hiệu đánh mốc trong và ngoài của không gian làng - đó là một phần của văn hóa làng. Cái kiểu đánh dấu này luôn tồn tại trong tâm thức người Việt. Một buổi giao lưu trong thiên nhiên, một đám hội hè, hễ có nhiều quần thể khác nhau thì thế nào cũng dựng cổng, định vị "xác định chủ quyền" dẫu thực tế chẳng có gì ngǎn cách. Cổng làng như một nghi thức trong cấu trúc môi trường làng. Có cổng thì ở sát rìa làng, có cổng thì ở tít đầu đường, chỗ giao với cái quan (đường cái) và làng. Vị trí địa lý, vị trí qui ước cũng chỉ làm cái việc đánh mốc không gian làng. Tính mập mờ nước đôi dựa trên cái vô hình, hàm nghĩa hợp với lối tư duy của làng dễ giải thích các hiện tượng thiên nhiên và xã hội của làng. Nắng mưa, may rủi, được mất, hên xui dễ được chấp nhận hay bằng lòng với lối nghĩ này. Vẻ đẹp của cổng làng gắn với nền văn minh lúa nước, mang tính phác họa, gợi nên những ước vọng của cộng đồng từ đời này qua đời khác, nơi như có dáng đứng của cha, có vòng tay của mẹ, nơi tâm điểm để cho ta lượng đo sức mình khi đi xa và ngược lại nó cũng là nơi hút về những nỗi nhớ, những hoài niệm về quê hương. Nguồn VITINFO Share this post Link to post Share on other sites