Lãn Miên

Trục Thời Gian

1 bài viết trong chủ đề này

.

Trục thời gian

Thời gian căn cứ Trời, Trời đang Ủ một cái vô hình, đó là cái Trời Ủ, đọc lướt là Trụ. Trời Ủ=Trụ (QT lướt), chữ nho viết (trụ 宙), tra từ điển: Trụ 宙 nghĩa là Thời Gian. Trục thời gian nếu coi là một đường thẳng thì nó sẽ có hai chiều là Trước và Trễ (cùng tơi “Tr” với chuyển động Trườn và cùng tơi với Trời). Trong QT Nở, nếu đặt cái tế là Trườn (chỉ sự chuyển động) vào trong NÔI khái niệm, thì nó sẽ sinh ra cặp từ đối là Trước/Trễ, trườn về phía quá khứ là Trước, trườn về phía tương lai là Trễ.

Trên con đường là trục thời gian ấy nếu ta Xe (tức là Đi, Xe theo QT thay tơi và QT thay rỡi thì có các từ chuyển động là: Xe=Che=Chuyên=Chuyền=Chuyển=Chạy=Chở=Chao=Giao=Giơ=Di=Dê=Dã=D=Day=Sảy=Xay=Xê=Xịch=Dịch=Nhích=Hích=Hành . Che là chạy xe ép mía để làm mật), thì khi xe về phía quá khứ sẽ là Xưa, xe về phía tương lai sẽ là Xuôi. Cặp từ đối Xưa/Xuôi là chỉ hai hướng của trục thời gian. Trên trục thời gian ấy nếu lấy Ngày làm điểm hiện tại thì xe về phía quá khứ là Ngày Xưa, đọc lướt là Ngửa. Ngày Xưa=Ngửa (QT lướt). Ngửa=Ngược (QT thay rỡi). Ngày Trước=Ngược (QT lướt). Xe về phía tương lai là Ngày Xuôi, đọc lướt là Nguôi. Ngày Xuôi=Nguôi (QT lướt). Nguôi là bất tận theo trục thời gian. Nguôi Mãi=Ngoai (QT lướt). Nguôi Nguôi mãi=Nguôi Ngoai. Nguôi Ngoai là từ đôi để nhấn mạnh ý Nguôi. Nếu Nguôi đến Tận thì thành “nguôi nặng nguội”=Nguội. Nguội=Ngỏm (QT lướt). Cặp đối nguyên thủy là Ngược/Nguôi. Cặp Ngược/Xuôi cũng là cặp đối, nhưng gọi là cặp đối lộn nôi. Trên trục thời gian nều ta Đi về phía quá khứ thì là Đầu, về phía tương lai thì là Đuôi. Đầu/Đuôi là cặp từ đối của trục thời gian. Trên trục thời gian nếu ta Tiến về phía quá khứ thì là Tiên, về phía tương lai thì là Tà. Tiên/Tà là cặp từ đối của trục thời gian. Trên trục thời gian nếu ta Chạy về phía quá khứ thì là Chớm, về phía tương lai thì là Chuôi. Chớm/Chuôi là cặp từ đối của trục thời gian. Trên trục thời gian nếu ta Sảy (sảy chân) về phía quá khứ thì là Sớm, về phía tương lai thì là Sau. Sớm/Sau là cặp từ đối của trục thời gian. Trước/Sau cũng là cặp từ đối về thời gian, nhưng là cặp từ đối lộn nôi.

Nếu chỉ lấy một khoảng thời gian nhất định để khảo sát sự vật kể từ khi nó xuất hiện đến khi nó kết thúc, ví dụ như ta thấy mặt trời trong ngày từ khi mọc đến khi mất, ta có nhiều cặp từ đối thể hiện cái đó: Mọc/Mất, Thò/Thất, Có/Cùng (Chót Cùng đọc lướt là Chung; Chót Cùng=Chung), Ló/Lặn, Rộ/Rụi, Ra/Rồi, Lộ/Liễu, Trổ/Trốn, Chộ/Chết, Hiện/Hết, Tại/Tắt, Nở/Nấp, Xuất/Xếp, Ngỏ/Ngoẻo, Ngụy/Ngỏm . (Ngụy là sự xuất hiện như quỉ, không chính danh). Thò Ngụy đọc lướt là Thủy, Thò Ngụy=Thủy (QT lướt). Cặp đối Thủy/Chung (Thò Ngụy/Chót Cùng) chỉ là một cặp từ đối hệ quả, và cũng là cặp từ đối lộn nôi.

Qua qui tắc sinh ra các từ trên trục thời gian như trên, sẽ hiểu rõ được gốc của từ ghép Vườn Tược và Nhà Cửa.

Vườn tược, nhà cửa

Ví dụ một bà cụ nông dân VN nói: “Tôi đẻ ra và nuôi lớn mười đứa con, con thứ tôi cho chúng nó đi làm ăn lập nghiệp ở xa hết, chỉ giữ con cả làm ăn ở nhà để trông coi nhà cửa, vườn tược”. Từ điển Tiếng Việt (NXB KHXH Hà Nội 1977) giải thích từ Nhà Cửa là “nhà ở nói chung, ví dụ: nhà cửa sạch sẽ” (trang 562), từ Vườn Tược giải thích là “ vườn nói chung” (trang 868). Ngôn từ Việt đâu có nghèo ý như vậy. Nếu Nhà Cửa là “nhà ở nói chung” thì trong nhà đã có các loại cửa rồi, cần gì phải nói “Nhà Cửa” nữa. Thực ra từ “Cửa” trong từ ghép “Nhà Cửa” không phải là chỉ cái cửa, mà nó là kết quả lướt của cụm từ “của xưa”. Của Xưa=Cửa (QT lướt). Nhà Cửa=nhà của xưa (di sản). Từ “Tược” trong từ ghép “Vườn Tược” không phải là không rõ nghĩa, như các nhà ngôn ngữ học Việt Nam nhận định “trong từ ghép hai tiếng, thông thường chỉ có tiếng đầu rõ nghĩa, còn tiếng sau chưa rõ nghĩa, nó như là một từ chờ, chưa được sử dụng độc lập”. Thực ra Tược là kết quả lướt của cụm từ “từ trước” hay “từ tổ tiên trước”.TừTrước=Tược (QT lướt). Vườn Tược là “vườn từ tổ tiên trước” tức “vườn cũ” (di sản). Bà cụ chỉ nói “Nhà Cửa, Vườn Tược” mà đã như là thành ngữ, có nghĩa là “di sản vật thể của gia đình” như ta nói theo kiểu Hán hóa ngày nay. Từ điển Tiếng Việt cũng giải thích: Quốc Học là “nền văn hóa của nước mình”, vậy thì rõ ràng là đã giải thích từ Quốc là kết quả lướt của cụm từ “của nước”. Của Nước=Quốc (QT lướt). Nhưng lại giải thích Quốc Gia là Nước (1) và Nhà Nước (2). Quốc Gia chỉ có một nghĩa là Nhà Nước, là nhà của nước tức cái chính phủ, là “đại diện của Nước”, như nói “nguyên thủ quốc gia” chứ không nói “nguyên thủ Nước”, phủ là cái nhà công, như “phủ chủ tịch”, chứ “quốc gia” không có nghĩa là Nước được, nếu nói “Các quốc gia họp nhau tại hội nghị…” là đúng, còn nói “Các nước họp nhau tại hội nghị…” là sai ngữ pháp. Nước là Quốc Thổ tức Đất Nước, còn Quốc Gia là Nhà Của Nước, hay Nhà Nước, xếp theo ngữ pháp Việt. Qui tắc Lướt là một trong các QT làm cho ngôn từ Việt đa âm tiết biến thành đơn âm tiết, hàng vạn năm trước. Đến thời đầu công nguyên Hứa Thận còn vận dụng QT Lướt để hướng dẫn cách đọc chữ nho đúng âm Việt trong cuốn “Thuyết văn giải tự”.

Theo QT cũng giải thích được nguồn gốc từ Bói Toán. Cứ nhìn vào chữ NÔI, là cái nôi khái niệm thì chữ O ở giữa là chủ yếu của cái Lõi, giữa ruột là bí ẩn nhất. Lịch sử của từ Bói là từ Mo đến Bói rồi đến Bốc. Mo=Moi=Bói=Bốc ( QT thay tơi và QT thay rỡi). Một ông Thầy Mo là một con người cụ thể, nhưng về khái niệm thì “thầy mo” là khái niệm trừu tượng do lấy từ khái niệm cụ thể là cái Mo cau. Mo nang là cái bọc kín buồng nụ cau khi chưa nở ra. Khi ấy thì chỉ có cái Mo ấy là biết được buồng cau có bao nhiêu nụ, bởi người ngoài đều không thể nhìn thấy. Lúc ấy cái Mo giống như nhà ngoại cảm thấy được thế giới âm, những người khác không thấy được, chỉ có thể biết qua truyền đạt của nhà ngoại cảm. Do vậy Mo đã được trừu tượng hóa để thành từ chỉ Thầy Mo. Thầy Mo đương nhiên phải Mò, nhưng thầy đã hiểu một cái nguyên lý mà người khác chưa biết nên thầy mới mò được ra, Mò Coi=Moi ( QT lướt). Moi là có dự đoán trước mới dám moi, moi cua cũng vậy thôi, không dám bạ đâu cũng Moi. Biết Moi=Bói (QT lướt), Bói là từ chỉ khái niệm trừu tượng, “Biết trước nguyên lý để tìm ra sự thật mà Coi”=Bói, nó khác với khái niệm cụ thể như Bới và Bươi chỉ là theo bản năng, như con gà dù đã đứng trên đống thóc mà nó vẫn vừa mổ ăn vừa thỉnh thoảng bươi như trên đất không có tí mồi nào, dù rằng Bươi=Bới=Bói (QT thay rỡi) là cùng nôi khái niệm, nhưng sắc thái các từ là khác nhau. Khi con người biết làm thuốc bằng cây cỏ để chữa bệnh (thời đại Thần Nông của người Việt) thì thầy lang Bốc thuốc. Bốc cũng như Bói, nhưng là “Bói sao cho khỏi Độc”=Bốc (QT lướt) . Việc của Thầy Lang gọi là Bốc thuốc vì Thầy đã biết nguyên lý, loại dược thảo gì, liều lượng bao nhiêu cho đủ một thang có công hiệu chữa chứng bệnh cụ thể. Người đạo Hồi ăn bốc chứ không dùng đũa, nhưng bốc ấy cũng phải có kỹ năng khéo léo của các ngón tay, chứ không phải là hốt vô tội vạ, như thầy Lang mát tay một Bốc là đúng mấy chỉ như Thầy dự định. Xem Bói=Chiêm Bốc là nói việc người ngoài đến nhờ Thầy, việc của Thầy chỉ có là Bói hoặc Bốc. Toán cũng như Bói, Tìm Oan=Toán (QT lướt), tìm oan là tìm cái oan khuất, là cái chưa hiểu thực chất, muốn Tìm Oan=Toán được cũng phải biết trước nguyên lý, như làm toán là dựa công thức của nguyên lý để tìm ra ẩn số. Bói Toán là một từ đôi, chỉ cái công việc đặc thù là Bói Toán. Có nguyên lý đúng thì Bói Toán ra đúng. Bói Toán không thể đồng nghĩa với dự đoán hay tiên tri. Dịch từ Việt cũng chẳng phải dễ.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites