Thiên Đồng

Đạo Mẫu Việt Nam

5 bài viết trong chủ đề này

Đạo mẫu ở Việt Nam

(Ngô Đức Thịnh) Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt và một số tộc người khác, tục thờ Nữ thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Đạo Mẫu) có vai trò và vị trí khá quan trọng, nó đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người, do vậy, nó phổ biến khá rộng khắp, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền núi.

Từ Đạo Mẫu, ngoài những nghi lễ thờ cúng, nó còn sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa – nghệ thuật, tạo nên một thứ “văn hóa Đạo Mẫu”, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc.

Posted Image

GS-TS Ngô Đức Thịnh

Sau đây, chúng tôi trình bày những nét rất cơ bản của thứ tôn giáo tín ngưỡng này với tên gọi chung là Đạo Mẫu.

  • I. Từ Thờ Nữ Thần Đền Thờ Mẫu và Tam Tòa Thánh Mẫu (Đạo mẫu)
  • 1. Từ thờ Nữ thần đến thờ Mẫu
Ở Việt Nam, chưa ai thống kê một cách hệ thống và đầy đủ các Nữ thần được nhân dân tôn vinh và thờ phụng, tuy nhiên, không ngần ngại khi cho rằng việc thờ phụng này đã có từ rất lâu đời và phổ biến ở nhiều dân tộc, ở đồng bang cũng như miền núi, hiện còn quan sát thấy ở cả nông thôn lẫn đô thị.

Hãy lấy cuốn sách cổ “Hội chân biên”, in năm 1847 đời Thiệu Trị, do Thanh Hòa Tử tập hợp, thì trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì đã có 17 là Tiên nữ. Còn trong cuốn sách “Các Nữ thần Việt Nam” viết đời nay, thì đã tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của nước ta. Trong sách: “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam”, trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Dầy thờ Mẫu Liễu, người ta cũng tìm thấy hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần.

Trong vốn huyền thoại và truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần gần với việc tạo lập bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt Trời – Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa cùng ông Tử Tượng đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các hiện tượng: Mây, mưa, sấm, chớp (Tứ Pháp) cũng được thần thánh hóa và mang tính nữ. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được gắn với các Bà: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa…

Đến biểu tượng đất nước – quê hương – dân tộc cũng gắn với các Mẹ (Mẫu): Mẹ Âu Cơ của Lạc Việt, Mẹ Quê hương – xứ sở Pô Inh Nưga của người Chăm. Các Mẹ sản sinh ra các giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, các Mẹ là tổ sư các nghề: dệt, tằm tang, làm muối, nghề mộc, làm bánh, ca công… Rồi phụ nữ ra trận “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh’ đứng ra chấp chính quốc gia cũng trở thành các Nữ tướng – Nữ thần: Hai Bà Trưng, Triệu ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám. . .

Các vị nữ thần kể trên từ bao đời nay đã được nhân dân ta tôn làm Thần, Thánh, được Triều đình ban sắc phong là “Thượng đẳng thần”, là Thành hoàng của nhiều làng, trong đó Liễu Hạnh công chúa được dân gian tôn vinh là một trong “Tứ bất tử” của đất nước.

Posted Image


Mẫu Liễu Hạnh

Trong các huyền thoại và truyền thuyết kể trên, có những cái xuất phát từ những thực tế lịch sử, tuy nhiên, không ít trường hợp là kết quả của sự thêu dệt hoang đường, phi thực. Nhưng đó lại là thực tế hiển nhiên, đó là vai trò và vị trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thực tế này hoàn toàn có thể lý giải được trên cơ sở xem xét môi trường tự nhiên. đời sống sản xuất, chiến đấu, xã hội cổ truyền của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam.

Trong hàng các nữ thần, một số vị được tôn vinh là Mẫu Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu… Như vậy, Mẫu là Nữ thần, nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Về mặt danh xưng “Mẫu’ là từ gốc Hán – Việt, còn thuần Việt là “Mẹ - Mà’. Mẹ, Mụ là danh xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân thiết của con cái với người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh: Mẹ Âu Cơ Mẫu Liễu, “Mẫu nghi thiên hạ”. . .

Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng cách tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu thường trên quan hệ tới các trường hợp sau:

- Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu nhất là Mẫu Tam phủ

- Tứ phủ: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng thiên (có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu), Mẫu Thiên Ya Na…

- Các Thái hậu (Mẹ vua), Hoàng hậu (vợ vua), Công chúa (con gái vua) có tài năng, công đức, khi mất hiển linh và được tôn xưng là Mẫu: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, như Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ Lý Thần Tông, ỷ Lan, con gái Vua Hùng Nghị Vương thờ ở đền Cao Mại (Vinh Phú), Ỷ Lan – Mẫu nghi thiên hạ.

- Các trường hợp khác cũng tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu: Diệp Phu nhân – Quốc Mẫu – Thánh ân thờ ở đền Trần lên – Yên Bái. Thần núi Tam Đảo – Quốc Mẫu Sơn Thượng đẳng thần, Mẹ Thánh Gióng – Vương Mẫu. . .

Cùng hệ thống này ở miền Trung và nhất là Nam Bộ, một số nữ thần cũng được tôn vinh là Mẫu: Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), “chúa” Bà Chúa Xứ (Núi Sam), Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Sắt… Như vậy các Mẫu – Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng. “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta.

  • 2. Từ thờ mẫu đến Mẫu Tam phủ ‘ Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu)
  • Không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) mà từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ là bước phát triển về nhiều mặt. Tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố nội sinh vừa có nhân tố ngoại sinh.
Mẫu Tam phủ – Tứ phủ so với tín ngưỡng thờ Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có bước phát triển đáng kể về tính hệ thống. Trước nhất, vốn là một tín ngưỡng dân gian mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng – Mẫu – Quan – Chầu – ông Hoàng, Cô, Cậu…) tương đối rõ rệt. Một điện thần với trên 50 vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, mặc dù trên Thánh Mẫu còn có Ngọc Hoàng, nhưng đó là lớp ảnh hưởng Đạo giáo sau này và nặng về hình thức.

Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước đầu đã chứa đựng ‘những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên – Miền trời, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) – Miền đất, Mẫu Thượng Ngàn – Miền đồi núi, Mẫu Thoải – Miền nước. Mẫu là một lực lượng sáng tạo và cai quản vũ trụ, đã hóa thân thành bốn, cai quản 4 miền của vũ trụ.

Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước dầu đã thể hiện một ý thức nhân sinh, - ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước, chứa đựng lòng yêu nước - một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.

Mẫu Tam phủ – Tứ phủ đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ Hầu bóng (lên đồng) và lễ hội kháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ” là một điển hình.

Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, chúng ta đặc biệt chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI trở đi – giai đoạn xuất hiện Mẫu Liễu – quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành một vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ.

Tất nhiên, sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này ở vào khoảng thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ảnh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, một xã hội buôn bán, nhất là buôn bán chợ quê phát triển, gắn với vai trò của người phụ nữ; xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được “đời thường hóa”, gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, thân phận của con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày. tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước, theo gót người Việt tiền để “Mẫu hóa” các tín ngưỡng bản địa khác, vừa có cơ hội tập trung thành trung tâm thờ Mẫu lớn, như Phủ Dầy (Nam Định), Hòn Chén (Huê), Phủ Tây Hồ (Hà Nội).

Và cùng với sự xuất hiện vị thần chủ này, thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ – lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn.

Posted Image

Tất nhiên, bên cạnh sự “lên khuôn”, hệ thống hóa nói trên, trong Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố tín ngưỡng, ma thuật, những sắc thái và biến dạng địa phương. . . khiến nhiều người mới bước vào tìm hiểu có cảm giác như lạc vào thế giới thần linh hỗn độn, phi hệ thống, tùy tiện.

  • Để từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà vua đã từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông cho phép Trần Lộc lập ra Nội Đạo Tràng.
Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ – Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ Hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu – Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn.

Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một thứ Đạo giáo dân gian đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn – Đạo Mẫu.

Từ đây, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ về Đạo Mẫu

Posted Image
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lên đồng


(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ.

Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đồng)… Về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội Đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bởi hầu về Hội Đồng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ)như đi trên than hồng, xiên lình(dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên qua hai má và xuyên qua quả cau trong miệng thanh đồng), ăn lửa,lên đai (1 hình thức thắt cổ,có người được gọi là sát căn,có khi lên 3 đai)…

Posted Image


Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng ,Thanh Đồng là nam giới và được gọi là “cậu” ,nữ giới được gọi là “Cô hoặc Bà Đồng”. “Cậu” thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng ) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt…Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều “giá”. Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên “cậu” một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một “giá” mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng… sao cho tương xứng với “giá” này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa..Điệu múa của Thanh Đồng cũng được thay đổi theo đặc điểm của “giá”. “Giá” quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không,múa cờ ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa ,múa khăn lụa ,múa đàn , múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân … Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. Số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá.

Posted Image

Một buổi lên đồng

Trong lúc Thanh Đồng đang hoá thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát.Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống…Ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là noi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất.

Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là “Cung văn”) sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước…Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ở Việt Nam có câu hát “cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng” là để chỉ sự này.

Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ở Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hồn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng.

Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu… Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm-dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đồng bị chính quyền xem là hoạt động mê tín dị đoan do nhiều trường hợp việc lên đồng đã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiều ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản.

Tú Xương đã viết 1 bài thơ “Lên đồng” :

Khen ai khéo vẽ sự lên đồng

Một lúc lên ngay sáu bảy ông

Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm …gỗ,

Ra oai, bà giắt cái …khăn hồng.

Cô giương tay ấn, tan tành núi,

Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông.

Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ?

Hay là đồng sợ súng thần công ?

Phản hồi bài thơ của Tú Xương :

Chẳng ai vẽ được sự lên đồng

Năm tòa Quan Lớn gọi Tôn Ông

Sát quỉ, Tôn Ông dùng thanh kiếm Thánh

Ra oai, Chầu Bà Chiếu Hào Quang.

Cô giương tay ấn, ban Gia lộc ,

Cậu chỉ ngọn cờ trăm nhà vui .

Đồng giỏi nhưng không thể giúp nước ?

Vì Đồng còn dở việc cứu dân!!

gửi cụ Tú Xương

Thiên sinh tạo hoá phép ảnh đồng

Hội đồng quan lớn hiệu tôn ông

sát quỷ hô thần thanh kiếm thánh

ra uy tạo gió phép hô phong

Cô ra tay cứu bao người sống

cậu ứng phép thần đục hoá trong

ai bảo là đồng ko giúp nước

âm phù dương trợ chẳng kể công

bao đời nay.quyền trời phép thánh quyền sơn lâm phép sơn trang cứu nhân độ thế âm phù dương trợ bao triều đại dc gia phong gia tặng uy nghiêm tôn kính trong cách mạng các đền phủ ko chỉ là nơi hương khói phụng sự mà nhiều nơi là căn cứ cách mạng nơi cứu dân đọ thế

“ai bảo là đồng ko giúp

âm phù dương trợ chẳng kể công”

Posted Image

Nhập đồng...hút thuốc

Lên đồng là một nét đẹp trong văn hóa dân gian của dân tộc việt chúng ta cần bảo tồn và phát triển đấu tranh với những hành vi lợi dụng văn hóa hầu đồng để hành nghề mê tín dị đoan. trong nhiều năm trở lại đây đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách về phát triển văn hóa đặc biệt từ khi có ánh sáng của NQTW5 khóa VIII vè phát triển nền văn hóa trong tình hình mới thì thật sự công tác văn hóa ngày thêm rộng mở và đwowcj phát triển bên cạnh quan họ bắc ninh, hát xầm, hát ả đào . . . thì Hầu đồng đã đwowcj quan tam. mà gần đây nhất là lễ hội hầu đồng đã được bộ Văn hóa TD TT và UBND tình Hà Nam tổ chức tại Đền Lảnh – Duy Tiên – Hà Nam.

Share this post


Link to post
Share on other sites

  • Để từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà vua đã từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông cho phép Trần Lộc lập ra Nội Đạo Tràng.
Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ – Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ Hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu – Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn.

Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một thứ Đạo giáo dân gian đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn – Đạo Mẫu.

Tiến sĩ giáo sư gì mà quan niệm thật sai lầm.

Đạo Giáo là đạo Việt Nam chính gốc. Đền thờ Ngọc Hoàng thượng đế bằng đá ở Hưng Yên có cách đây trên 2200 năm, tức là trước cả thời Bắc thuộc:

http://www.anninhthudo.vn/Giai-tri/Den-tho-Ngoc-Hoang/370317.antd

Mẫu Thoải hay Mẫu Thủy là vợ của Kinh Dương Vương, con gái Thần Long Động Đình, có cách đây trên cả 4000 năm.

Các vị mẫu khác (Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn) cũng đều là con vua Bát Hải Động Đình hay vua Biển Đông từ thời Kinh Dương Vương...

Chỉ có thể nói ngược lại: đạo Giáo từ Việt nam đã lan sang "lãnh thổ" Trung Quốc.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đây cũng là một cách hiểu về tín ngưỡng của Việt Nam :

Nói như ông này thì trước thế kỷ XVI dân ta không có đạo mẫu sao ?

Đi lễ chùa, người Việt không hiểu gì về đạo Phật

Posted Image - Đến chùa cầu tiền tài địa vị, thậm chí còn phân biệt Đức Phật ở chùa nào thiêng hơn…

Chen chân lên chùa cầu phúc, cầu an

Những hình ảnh nhức nhối nơi cửa Phật

Đền Trần 2012: Trả lại giá trị thật cho lá Ấn

Ngỡ ngàng đêm khai Ấn đền Trần bình yên

Mang tiền thật vay tiền ảo ở Đền Bà Chúa Kho

Nam Định, Thái Bình “tranh nhau” lễ hội Đền Trần?

Trước những hiện tượng xảy ra phổ biến như hoang phí vung tiền lẻ tràn ngập khắp nơi, mê muội cầu tài lộc, chen lấn xô đẩy… tạo nên những hình ảnh xấu trong các mùa lễ hội. Vietnamnet có cuộc trao đổi với Thạc sĩ Trần Văn Phương (Giảng viên Khoa Văn hóa – Phát triển, HV Báo chí và tuyên truyền) để làm rõ nguyên nhân và các yếu tố gây nên các hiện tượng xấu đáng báo động trong các mùa du lịch văn hóa tâm linh.

Đức Phật là một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần!

- Phật Giáo tại Việt Nam đang được người Việt nhận thức thế thế nào thưa ông?

- Phật Giáo không phải là tôn giáo bản địa của người Việt, đó là một tôn giáo ngoại lai có nguồn gốc từ Ấn Độ. Phật Giáo được du nhập vào Việt Nam không hoàn toàn trực tiếp mà có thêm từ một vài nước thứ ba. Vì vậy Phật Giáo tại Việt Nam đã có nhiều bị thay đổi đi một phần và không còn nguyên bản như chính nơi xuất phát của nó. Vì vậy Phật Giáo ở Việt Nam có rất nhiều dòng khác nhau. Nhưng nguy hại, trong một số bộ phận người dân, Phật Giáo đã bị nhận thức không đúng so với giá trị nguyên bản.

Posted ImageThạc sĩ Trần Văn Phương (Giảng viên Khoa Văn hóa – Phát triển, HV Báo chí và tuyên truyền)

- Vậy Phật Giáo ở Việt Nam bị hiểu sai như thế nào?

Đó là ở sự nhật thức đứng đắn về Đức Phật. Lối tiếp nhận đơn giản kiểu quan niệm của nhiều người Việt cho rằng Đức Phật trở thành một vị thần thánh có nhiều phép thần thông. Họ cho rằng Đức Phật càng gần gũi với họ càng tốt để dễ dàng ban phát, phù hộ cho mình. Điều này dẫn đến tình trạng họ tìm đến Đức Phật để cầu xin cho mình những giá trị thực tiễn như tiền tài, may mắn, địa vị… trong cuộc sống mà quên đi rằng Đức Phật chỉ là là một nhà tư tưởng và họ mới chính là chủ thể quyết định chính cuộc sống của mình.

- Người đến cửa Phật mới chính là người quyết định cuộc sống cho mình, xin ông làm rõ ý này ?

Phật Giáo là một tư tưởng triết học lớn, do đức Thích Ca Mâu Ni là người khởi sướng. Chính vì vậy hình tượng Đức Phật là đại diện Phật Giáo chính là đại diện cho những tư tưởng triết học và giáo lý mà bản thân Phật Giáo muốn đem đến cho người dân. Đó là những khuyên răn về việc hướng thiện, về luật nhân quả tức là tự mình làm việc thiện sẽ nhận lại cho mình những điều tốt đẹp.

Chính vì vậy người đến với Phật không phải để cầu xin ban phát những điều tốt cho mình mà để tìm đến những giáo lý của Phật Giáo để phải tự xuất phát từ bản thân mình làm những việc thiện thì mới mong tự nhận lại cho mình những điều tốt đẹp. Vì vậy Đức Phật ở đây chỉ mang ý nghĩa như một nhà tư tưởng chứ không phải là một vị thần thánh.

Posted ImageĐến Chùa không phải để cầu xin may mắn và tài lộc liệu có đúng với tinh thần Phật Giáo?

- Nguyên nhân do đâu khiến nhiều người Việt Nam lại có sự nhận thức sai về Phật Giáo như vậy, theo ông?

Xưa kia, vì Việt Nam là một nước nông nghiệp nên trong quá trình tồn tại và phát triển đã phải chịu sự chi phối rất nhiều của tự nhiên, trong đó có những yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Thời đó với trình độ nhận thức hạn hẹp đã cho rằng “Vạn vật hữu linh” tức là mọi sự việc xảy ra đều có sự ảnh hưởng của một vị thần nào đó. Chính vì vậy khi du nhập vào Việt Nam với sự dung dị và hòa bình, dẫn đến Phật Giáo đã giảm bớt tính hàn lâm và tự biện vốn có của nó.

Ngày nay, do nhiều tác động của cuộc sống vật chất đặc biệt là sự kém hiểu biết một bộ phận người dân do chỉ đến với Phật Giáo theo tư cách những người không nghiên cứu hay tu hành, cộng thêm tâm lí đám đông mới dẫn sự lệch lạc như vậy về quan niệm về Phật Giáo. Chính vì hiểu sai nên dẫn đến những hành động chưa đúng thậm chí là sai lệch gay ra nhiều sự biến tướng, sai lệch trong các hoạt động văn hóa tâm linh.

Cùng thờ một đức phật, có chùa lại thiêng hơn?

-Ông giải thích sao về hiện tượng một vài ngôi chùa cứ đến mùng 1 hoặc ngày rằm ùn ùn người dân đổ về cúng lễ?

Đó cũng là sự hiểu sai về Đức Phật như một vị thánh thần đã nói ở trên. Không có chuyện Đức Phật ở chùa Hà lại thiêng hơn ở chùa Thánh Chúa trong đại học Sư phạm Hà Nội gần đó. Bản chất đều là cùng thờ một Đức Phật tư bi hỉ xả, phổ độ chúng sinh. Người đến thờ Phật để tu bản thân mình chứ không phải coi Đức Phật như một vị thánh đem đi điều không may mang đến điều tốt lành mà coi thánh nơi này thiêng hơn thánh nơi khác.

Posted ImageCùng là thờ Phật, có chùa lại thiêng hơn...? (Ảnh: Khôi Ngô)

- Là một người nghiên cứu, ông còn thấy những biểu hiện sai lệch nào khác về việc thờ Đức Phật của người dân?

Có rất nhiều, ví dụ như việc dân dã hóa Đức Phật nay đã biểu hiện rất rõ. Ví dụ như việc thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo nhưng khi bắt đầu khấn nhiều người lại khấn câu đầu tiên là “Nam mô a di đà phật”. Tín ngưỡng thờ mẫu không phải là phật giáo, nhưng khi nhiều người đến phủ Tây Hồ, phủ Dầy câu đầu tiên khấn cũng lại là “Nam mô a di đà phật”.

Biểu hiện về mặt vật chất như: Chùa là thánh đường thờ Phật thì nhiều nơi lại đưa cả thờ Mẫu là một tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt thế kỉ 16 để đưa vào trong chùa. Thậm chí ngay cả đức thánh Trần Hưng Đạo cũng được vào trong ngồi chùa thờ cùng với Phật.

Hay là chuyện đi chùa thì lại cúng mặn, đốt vàng mã, thắp hương, công đức tiền lẻ bừa bãi… tất cả cũng đều bắt nguồn từ nhận thức sai lệch hoặc thiếu hiểu biết của người dân khi đến cửa Phật…

Để hiểu rõ hơn về các nghi thức cũng như nguồn gốc về các nghi thức khi tới cửa Phật làm sao cho đúng, xin mời độc giả xem tiếp kì sau: Đến chùa thắp mấy nén hương, dâng lễ gì cho đúng?

Hoàng Nguyên (thực hiện)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cóc Vàng chép được bài này chuyển lên để làm tư liệu tham khảo ,mong ai hiểu về đạo mẫu thì phân tích với .

Sơ lược về tín ngưỡng thờ Mẫu và Tam, Tứ Phủ...Dành cho ai quan tâm....

Đăng ngày: 16:27 26-04-2011Thư mục: Văn hoá- Xa Hoi

Posted Image

1.MỞ ĐẦU:

Đã từ lâu tâm linh, tín ngưỡng đã đóng vai trò rất quan trọng đối với người dân Việt.Trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là tập tục phổ biến và có từ lâu đời. Đó là tập tục thờ các vị nữ thần có từ thời nguyên thuỷ với các nữ thần đại diện cho thiên nhiên như Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Lúa… đến các vị nữ anh hùng , các vị Công Chúa, Hoàng Hậu, hay bà Tổ cô của dòng họ, bà Tổ nghề của một làng nghề… trong dân gian.Các vị nữ thần thường được nhân gian suy tôn là Thánh Mẫu .Đó vừa là vị thần có quyền năng màu nhiệm vừa là người mẹ bao dung che chở cho đàn con thơ, vừa huyền bí lại vừa gần gũi.

Một tín ngưỡng có sức ảnh hưởng rộng rãi ở nước ta là tín ngưỡng thờ Mẫu và tam,tứ phủ với nghi lễ đặc trưng là hầu đồng (hầu bóng, lên đồng...).Trong tín ngưỡng này, Thánh Mẫu được tôn thờ là vị thần chủ quyền năng cai quản toàn vũ trụ.Theo quan điểm đó vũ trụ được chia ra làm ba miền (ứng với tam phủ) hoặc bốn miền (ứng với tứ phủ).

==================================================

2.QUAN NIỆM VỀ TAM PHỦ , TỨ PHỦ:

Quan điểm thứ nhất

* Tam phủ gồm :

1. Đệ Nhất Thiên Phủ

2. Đệ Nhị Địa Phủ

3. Đệ Tam Thoải Phủ

* Tứ phủ gồm :

1. Đệ Nhất Thiên Phủ (cõi trời)

2. Đệ Nhị Địa Phủ ( cõi đất)

3. Đệ Tam Thoải Phủ ( miền sông nước)

4. Đệ Tứ Nhạc Phủ ( miền núi rừng)

Quan điểm thứ hai

Sự sắp xếp theo thứ tự trên của các phủ ( Thiên, Địa, Thuỷ, Nhạc) có lẽ theo lịch sử xuất hiện của tam, tứ phủ.Theo quan điểm đó thì tam phủ có truớc và tứ phủ có sau với sự ra đời của nhạc phủ.Trong các khoa cúng và các bản chầu văn ngày nay hầu như đều ghi thứ tự tứ phủ là Thiên, Địa, Thuỷ, Nhạc.Song song với đó quan niệm tứ phủ với một trật tự khác cũng rất phổ biến đó là Thiên ,Nhạc ,Thuỷ , Địa với danh hiệu của bốn phủ như:

* Tam phủ gồm :

1. Đệ Nhất Thiên Phủ

2. Đệ Nhị Nhạc Phủ

3. Đệ Tam Thoải Phủ

* Tứ phủ gồm :

1. Đệ Nhất Thiên Phủ (cõi trời)

2. Đệ Nhị Nhạc Phủ ( miền núi rừng)

3. Đệ Tam Thoải Phủ ( miền sông nước)

4. Đệ Tứ Địa Phủ ( cõi đất)

Quan điểm này ngày nay rất phổ biến và nhiều người không còn biết đến sự sắp xếp trật tự tứ phủ như xưa kia nữa.Quan niệm thứ tự của tứ phủ như vậy cũng rất hợp lý theo mặt không gian từ cao xuống thấp.Cao nhất là tầng trời (Thiên); sau đó đến vùng cao nguyên rừng núi ( Nhạc); sau đến vùng đại dương sông nước (Thuỷ hay còn đọc chệch là thoải),rồi mới đến vùng địa phủ.

Tứ Phủ được đặc trưng bởi bốn màu Posted Imageàu đỏ (thiên phủ); Màu xanh (nhạc phủ) ; Màu trắng (thoải phủ) ; Màu vàng (địa phủ). Để dễ theo dõi ta lập bảng tổng hợp sau:

Posted Image

Tín ngưỡng thờ tam phủ tứ phủ thật diệu kỳ, tuy có nhiều quan điểm khác nhau nhưng lại không hề mâu thuẫn bởi vì chung quy lại đó đều là tôn thờ Thánh Mẫu tôn thờ toàn vũ trụ .

==================================================

3.TAM TÒA THÁNH MẪU:

Tam tòa Thánh Mẫu được coi là ba vị Thánh Mẫu quyền năng tối cao,tương ứng với tam phủ và tứ phủ như vừa trình bày . Xét quan điểm thứ nhất, trong các khoa cúng thưởng thỉnh danh hiệu các vị Thánh Mẫu như sau:

1. Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên ,Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa

2. Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Liễu Hạnh Công Chúa

3. Mẫu Đệ Tam Thuỷ Cung, Xích Lân Công Chúa

4. Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Sơn Lâm Công Chúa

Có bốn vị thánh Mẫu tương ứng với bốn phủ nhưng tam tòa Thánh Mẫu thì chỉ nói về ba trong số bốn vị Thánh Mẫu mà thôi. Chính vì vậy nên có nhiều quan điểm về thứ bậc trong Tam Tòa Thánh Mẫu. Ta thường gặp 2 quan điểm sau:

Posted Image

Hai quan điểm này dường như giống trong quan điểm về tam phủ đã nói ở trên (

thiên - địa- thoảithiên - nhạc -thủy). Có điều Mẫu Liễu Hạnh được coi là thần chủ là khởi nguồn của tín ngưỡng này nên cả trong hai quan điểm đều có nói đến ngài. Quan điểm thứ nhất thường thấy trong các bản văn cúng, các bản chầu văn. Quan điểm thứ hai lại rất thường gặp trong việc thờ tự. Mẫu Liễu Hạnh vừa là Mẫu Địa Tiên vừa được coi là Thiên Tiên Thánh Mẫu .Thần tượng của ngài thường được tôn trí với trang phục màu đỏ và ngự bên trái là Mẫu Thượng Ngàn ( trang phục màu xanh) và bên phải là Mẫu Thoải ( trang phục màu trắng):

Posted Image

Nhiều nơi thờ tam tòa Thánh Mẫu là tam thế giáng sinh của Mẫu Vân Hương ( Mẫu Liễu Hạnh) ứng với ba lâng giáng trần của ngài : lần đầu ở Vỉ Nhuế, Đại Yên, Nam Định lần thứ hai ở Phủ Giày, Nam Định và lần thứ ba ở Đông Thành, Kẻ Sóc, Nghệ An ( có ý kiến cho rằng lần thứ ba Mẫu giáng là ở Nga Sơn Thanh Hóa).Cụ thể như cung Mẫu trong phủ chính Tiên Hương, cung Mẫu đền Dâu ( Ninh Bình)... đều thờ tam thế Vân Hương Thánh Mẫu. Ta cũng thường gặp nhiều nơi ban thờ đề tam tòa Thánh Mẫu nhưung chỉ tôn trí một pho tượng Mẫu mà thôi.

Xét về mặt lịch sử có lẽ tam toà Thánh Mẫu xuất phát từ tục thờ tam phủ ứng với ba vị Mẫu Thiên Địa Thoải, mặc dù tín ngưỡng sau này đổi thành tứ phủ nhưng tam toà Thánh Mẫu vẫn không đổi. Tam toà không chỉ nói về số lượng ,số đếm thông thường mà còn nói về sự bao quát, đầy đủ mà người xưa đã xây dựng.Số ba có thể nói là một số thiêng chúng ta thấy có Tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), Tam thời (Quá khứ, Hiện tại, Tương lai), Tam vô lậu học (Giới, Định, Tuệ)…Ngoài ra thì người phương đông cũng thường dùng số lẻ trong việc thờ cúng .Với quan niệm số lẻ là sự cân bằng âm dương (số lẻ là tổng của số lẻ và số chẵn)….Tam tòa Thánh Mẫu cũng ứng với tam thân Thánh Mẫu , là biểu tượng của quyền năng thâu tóm toàn vũ trụ , Bởi lẽ, xét về tâm linh thì bốn vị Mẫu chính là đại diện cho một vị Thánh Mẫu duy nhất đó là người mẹ của tâm linh.mà cũng có thể đơn giản đó là biểu tượng của người mẹ bất diệt trong lòng người dân Việt Nam

==================================================

4.HỆ THỐNG CHƯ THẦN TRONG TÍN NGƯỠNG:

Tín ngưỡng tam tứ phủ dưới ảnh hưởng của Phật giáo và đạo giáo (Trung Hoa) tôn thờ chư Phật , Bồ Tát... và rất nhiều vị thần như Vua Đế Thích, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thập Điện Minh Vương, Bát Hải Long Vương….Các vị thần được nhắc đến khá đầy đủ trong bản văn Công Đồng.Tuy nhiên với tín ngưỡng bản địa thờ các vị thần nước Nam thì các vị thần của đạo giáo cũng khá mờ nhạt, đa số người ta chỉ biết tới Ngọc Hoàng Thượng Đế (Vua Cha Ngọc Hoàng) và Bát Hải Long Vương (Vua Cha Động Đình).Còn lại các vị thánh đa số là các vị thần bản địa và được chia làm các hàng bậc rõ rệt như sau:

- Tam Bảo: Chư Phật, Bồ Tát...

- Các vị Vua cha như Ngọc Hoàng Đại Đế.,Vua Cha Bát Hải...

- Tam Toà Thánh Mẫu

- Hàng Quan Lớn (Ngũ vị tôn Quan)

- Hàng Thánh Chầu (Thập Nhị Chầu Bà )

- Hàng Thánh Hoàng (Thập vị thánh Hoàng)

- Hàng Thánh Cô (Thập nhị Tiên Cô)

- Hàng Thánh Cậu (Thập nhị Thánh Cậu)

- Các vị Thánh khác ( không được xét vào hàng tứ phủ)

- Thanh xà, bạch xà, ngũ hổ...

Hệ thống chư vị thánh thần trong tín ngưỡng tứ phủ đã được xây dựng từ thời xưa. Nhiều khảo cứu dẫn đến kết luận khởi đầu là việc thờ Mẫu Vân Hương ( Mẫu Liễu Hạnh) từ thời Hậu Lê, sau đó là sự phát triển đưa thêm nhiều vị nữa vào thờ và đưa Mẫu Vân Hương thành ngôi vị thần chủ cao nhất ( ứng với Tam Tòa Thánh Mẫu) .Đến ngày nay hệ thống chư thần tứ phủ đã được xem là cố định. Các vị thánh khác được phối hợp thờ cùng tứ phủ , hay thậm chí được các thanh đồng hầu bóng giá đó nhưng vẫn được coi là vị thần ngoài tứ phủ . Lấy thí dụ như các giá Chúa Tây Thiên, Chúa Nguyệt Hồ, Bà Chúa Kho,... .Các đền thờ những vị thần địa phương những vẫn kết hợp thờ tứ phủ, và khi hầu bóng các giá đó thường gọi là giá thánh thủ đền. Các vị thủ đền có thể được hầu riêng trước khi hầu tứ phủ như giá chúa Nguyệt Hồ được hầu sau giá Mẫu (Thánh Mẫu vẫn được coi là cao nhất nên phải hầu ngài đầu tiên) và trước khi hầu các giá tứ phủ ( thường bắt đầu là giá các quan lớn). Cũng có trường hợp các vị thánh bản đền được hầu sau khi thỉnh giá cuối cùng của một hàng nào đó. Thí dụ có thể hầu giá bà chúa kho sau giá chầu bé, hầu giá Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Bé, hầu giá cô cam đường sau giá Cô Bé.Cũng nhiều trường hợp các vị thần ngoài tứ phủ lại được coi là tương ứng với vị thánh trong tứ phủ: ví dụ như giá chúa bà năm phương có thể hầu sau giá chầu đệ tứ và sau giá chầu năm ( coi Chuá Bà Năm Phương tương ứng với ngôi vị số năm trong hàng chầu), hầu giá Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Nhị và sau giá Chầu Tam ( coi Chúa Thác Bờ tương ứng với ngôi vị số ba trong hàng chầu)

Mặt khác tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ Phủ còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo, đa số các chùa miền Bắc đều có thờ Mẫu với quan điểm “tiền Phật, hậu Mẫu” .Ngoài ra tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ còn kết hợp thờ với các tín ngưỡng dân gian khác như

tín ngưỡng thờ Trần Triều, thờ các vị thần địa phương (Chủ yếu là nữ thần), thờ ngũ hổ, thanh xà bạch xà,thổ công,thần núi, ….

Nói đến tứ phủ (cũng như tam phủ) là nói đến toàn vũ trụ.Vì thế khi nói Tứ Phủ Thánh Chầu,Tứ Phủ Thánh Hoàng….người ta liên tưởng tới toàn bộ chư thánh Chầu,Thánh Hoàng…chứ không phải đích danh chỉ một vài vị.Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn linh muốn nói đến toàn bộ chư thần, với sự linh diệu của tín ngưỡng thờ Mẫu

Như vậy tín ngưỡng thờ Tam, Tứ Phủ có một quan niệm rất bao quát, không chỉ thờ cố định số lượng các vị thần mà là tôn thờ toàn vũ trụ.Và tất cả cũng có khi đơn giản gần gũi đó chỉ là một vị thần ,đó là Thánh Mẫu.Thánh Mẫu là người mẹ luôn che chở dạy dỗ, thương yêu muôn loài.Tuỳ vào căn duyên mà biến hiện ,hóa thân phù đời giúp nước.Vì thế khi đặt câu hỏi có bao nhiêu vị Thánh Mẫu thì chúng ta có thể trả lời có muôn vàn vị Thánh Mẫu, nhưng cũng có thể trả lời là chỉ có một vị Thánh Mẫu duy nhất ,đó chính là điều kỳ diệu của tâm linh, như năm chữ : vạn pháp duy tâm tạo vậy

==================================================

5.CÁC NGHI LỄ TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU:

1- Hành hương , đi lễ cầu an tại các đền phủ.

2- Lập đàn cúng lễ các nghi lễ như Tụng kinh , dâng sao giải hạn, di cung hoán số, trả nợ tào quan, thí thực..

3- Đội bát nhang (tôn nhang bản mệnh)

4- Dâng văn thờ

5- Hầu bóng

6- Các nghi lễ khác.....

6.GIỚI THIỆU CÁC VỊ THÁNH QUA MỘT SỐ BỨC TRANH THỜ

*Tranh Tứ Phủ Công Đồng

Posted Image

Tứ phủ công đồng là bức tranh thờ chung tất cả các vị thánh tứ phủ ( công: chung, đồng là cùng).Tranh vẽ các vị thánh đại diện cho các hàng bậc như sau:

- Trên cùng là đức quán thế âm bồ tát, ngài đại diện cho Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng trong đạo Phật. Theo huyền tích lưu lại thì Vân Hương Thánh Mẫu ( Mẫu Liễu Hạnh) quy y tam bảo và là đệ tử của đức Phật sau này ngài nên chính quả được tương truyền là Mã Hoàng Bồ Tát. Trong các đền thờ có thể thờ phật mẫu chuẩn đề, Phật Thích Ca, hay tam thế Phật.. làm đại diện

- Hàng thứ hai : là Đức Ngọc Hoàng thượng đế ( ngồi giữa), hai bên là hai quan hầu cận ( thường là quan nam tào, bắc đẩu) .Có nhiều nơi thờ tam phủ ba vua (ba vị vua cha) là ba vị vua ứng với tam phủ thiên ,địa ,thoải là ngọc hoàng thượng đế ( thiên phủ), Diêm vương ( địa phủ), bát hải long vương( thoải phủ) , thông thường trong tam vị vua cha thì vua cha ngọc hoàng và vua bát hải là có ghi chú thích danh hiệu còn vị vua thứ ba thường để trống và không có chú thích gì, Theo phúc yên thì vị này có thể coi là địa phủ thần vương ( diêm vương) hay nhạc phủ thần vương ( nhạc phủ) đều được. Nhiều người cho rằng các vị vua này là xuất phát từ đạo giáo bên Trung Hoa ( có người còn cho rằng tam vị vua thờ là tam thanh: thái thanh, thượng thanh, ngọc thanh) nhưng rõ ràng Tam vị Vua Cha là các vị thần ứng với tín ngưỡng thờ tam phủ, tứ phủ và đã được Việt hóa khá nhiều. Vua Động Đình Hồ Bát Hải Long Vương được thờ ở đền Đồng Bằng Thái Bình, Vua cha Ngọc Hoàng được dân gian gọi với tên dân dà là ông trời ( ông giời)....Các vị Vua cha tuy có thứ bậc cao hơn Thánh Mẫu nhưng lại không có sức ảnh hưởng và ngôi vị thực sự trong tâm linh người Việt.

- Hàng thứ ba : là tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu Đệ Nhất (áo đỏ), Mẫu Đệ Nhị (áo xanh), Mẫu Đệ Tam (áo trắng).

- Hàng thứ tư : là ngũ vị tôn quan : Quan Đệ Nhất ( áo đỏ), Quan Đệ Nhị ( áo xanh), Quan Đệ Tam ( áo Trắng), Quan Đệ Tứ (áo vàng), Quan Đệ Ngũ (áo xanh da trời đậm)

- Hàng thứ năm : là tứ phủ thánh Chầu với các vị đại diện là Chầu Đệ Nhất ( áo đỏ), Chầu Đệ Nhị ( áo xanh), Chầu Đệ Tam ( áo trắng), Chầu Đệ Tứ (áo vàng), Chầu Lục ( phía ngoài cùng bên phải), Chầu Bé ( phía ngoài cùng bên trái)

- Hàng thứ sáu: là tứ phủ thánh hoàng với đại diện là ông Hoàng Cả ( áo đỏ), Hoàng Bơ ( áo trắng), Hoàng Bảy ( áo xanh lam đậm). Hoàng Mười ( áo vàng)

- Hàng thứ bảy : là tứ phủ thánh cô ( bên trái) và tứ phủ thánh cậu ( bên phải). +Phía bên trái có các vị đại diện là Cô Bơ ( áo trắng), Cô Tư ( áo vàng), Cô Chín (áo hồng) và Cô Bé Thượng Ngàn ( áo chàm xanh).

+ Phía bên phải có các vị đại diện là Cậu Cả ( áo đỏ), Cậu Bơ ( áo trắng), Cậu Tư ( áo vàng), và Cậu Bé ( áo xanh)

Qua bức tranh ta thấy các vị thánh đại diện ở mỗi hàng đều tương ứng với tứ phủ (một cách tương đối) :

Thiên phủ ( màu đỏ hoặc hồng)

Nhạc Phủ ( màu xanh lá cây, xanh chàm..)

Thoải Phủ ( màu trắng)

Địa Phủ ( màu vàng)

Tín ngưỡng thờ Mẫu , tam, tứ phủ là tín ngưỡng tôn thờ toàn vũ trụ ( thiên địa thủy nhạc) có thờ cả nam thần-nữ thần; thiên thần- nhân thần ; Các vị hiển tích ở miền xuôi cũng như miền ngược..... Cao hơn hết là Thánh Mẫu , người mẹ của tâm linh luôn có lòng bao dung độ lượng thương xót chúng sinh. Cửa Mẫu luôn rộng mở để chờ đón chúng ta, những khi vui hãy tìm đến Mẹ, lúc ta buồn hãy mở lòng tâm sự với Mẹ, Lúc khốn khó lại tìm đến mẹ để cầu xin mẹ che chở giúp đỡ chúng ta. Hãy an tâm trong cuộc sống bởi ta đã có mẹ, luôn có mẹ và mãi mãi có Mẹ. Mẹ là tất cả:

Mỗi người mỗi nước mỗi non

Đã về cửa mẹ như con một nhà...

*Tranh Tam Phủ Công Đồng

Posted Image

Tranh thờ tam phủ Trong bức tranh:

- phía trên cùng là Quán Âm Bồ Tát ( dân gian hay gọi là Phật Bà Quán Âm), hai bên có kim đồng ngọc nữ hầu cận

- hàng thứ hai là tam phủ ba vua ( tam vị đức vua, ba vị vua cha..) gồm

+ Thiên Phủ Thần Vương ( áo đỏ)

+ Nhạc Phủ Thần Vương ( áo xanh)

+ Thoải phủ long vương ( áo trắng)

và hai vị quan hầu cận

- hàng thứ ba là tam tòa Thánh Mẫu:

+ Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên ( áo đỏ)

+ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn ( áo xanh)

+ Mẫu Đệ Tam Thoải Cung ( áo trắng)

Tam phủ gồm ba phủ ( thượng thiên- thượng ngàn -thoải phủ).

*Một số bức tranh thờ khác

Posted Image

Tranh tứ phủ công đồng

Posted Image

Tranh Ngọc Hoàng và các vị thần theo đạo giáo Trung Hoa

Posted Image

BA VỊ TAM THANH

Posted Image

Thánh Hoàng cuỡi tam đầu cửu vĩ

Posted Image

Chầu Lục và các cô hầu cận

Posted Image

Chầu Bé ( Đền Bắc Lệ)

Posted Image

Cô Bơ Thoải

--------------

Một số bài văn khấn tứ phủ.

-----------------

Ngày hôm nay, kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời, đệ tử con nhất tâm tưởng vạn tâm cầu, tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ, mang miệng về tâu mang đầu tới bái yết cửa đình thần tam tứ phủ. Trên Mẫu độ, dưới gia hộ Mẫu thương, vuốt ve che chở độ trì cho con 3 tháng hè 9 tháng đông, đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, tứ thời bát tiết phong thuận vũ hòa, tai qua nạn khỏi. Mẫu cho con sáng hai con mắt, bằng hai bàn chân. Mẫu ban lộc dương, Mẫu tiếp lộc âm, cho lộc mùa xuân, cho tài mùa hạ, cho con tươi hơn lá, đẹp hơn hoa, phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói, lộc gần lộc xa, hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy, điều lành mang đến điều giữ mang đi. Mẫu cứu âm độ dương, cứu đường độ chợ, vuốt ve che chở nắn nở mở mang, cải hung vi cát cải hạo vi tường. Mẫu phê chữ đỏ, Mẫu bỏ chữ đen, cho con được chăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể. Cho con gặp thầy gặp bạn, cầu người được người, cầu của được của. Mẫu ban danh ban diện ban quyền, cho con có lương có thực có ngân có xuyến, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lad, phúc lộc đề đa, cho trên thuận dười hòa trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, nước chảy một dòng thuyền trôi một bến. Năm xung Mẫu giải xung, tháng hạn Mẫu giải hạn cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh, duyên sinh thọ trường. Đệ tử con người trần mắt thịt, việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ, tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh, ăn chưa sạch bạch chưa thông, không biết kêu sao cho thấu tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đó, 3 điều không sảy, 7 điều không sai, trăm tội Mẫu xá, vạn tội Mẫu thương. Mẫu xá u xá mê, xá lỗi xá lầm, soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội, biết lối mà lần. Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó con khó một nén, giàu làm kép hẹp con làm đơn, thiếu Mẫu cho làm đủ, vơi Mẫu cho làm đầy. Mẫu chấp kỳ lễ vật, chấp lễ chấp bái, chấp lời kêu tiếng tấu của con, bay như phượng lượn như hoa tới cửa Mẫu ngồi, tới ngai Mẫu ngự, cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.

Con niệm nam mô a di đà Phật (3 lần)

----------------

Văn khấn Công Đồng Tứ Phủ

Nam mô A Di Đà Phật(5 lễ)

Nhất thiết cung kính,nhất tâm kính lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo(3 lần)

Nam mô Phật,Nam mô Pháp,Nam mô Tăng

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(3 lần)

Nam mô đại từ,đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát(3 lần)

Con sám hối con lạy chín phương trời 10 phương chư phật,chư đại Bồ Tát,chư Thánh Hiền Tăng.

Đệ tử con muôn trung bách bái,nhất tâm cung thỉnh:

-Tam Phủ công đồng,Tứ Phủ Vạn linh

-Tam vị đức Vua cha,Đức tam thập tam thiên thiên chúa Đế Thích Đế hoàn nhân tiên Thánh đế cung duy Hiệu Thiên Trí Tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao thượng đế tối linh ngọc bệ hạ,Đức Vua cha Bát Hải Động Đình Thủy quốc Long Vương:Trấn Tây An Nam Tam Kì Linh Ứng Vĩnh Công đại vương Thượng đẳng tối linh thần.

-Thiên tiên Cửu Trùng Vương Mẫu,Cửu thiên huyền nữ Phạm Thị Chân Nhân bán thiên Mão Dậu công chúa cập thị tòng bộ chúng

-Tam Tòa Thánh Mẫu tối tú anh linh:Đệ Nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh công chúa,đệ nhị thượng ngàn,Lê Mại Đại Vương, Diệu Tín,Diệu Nghĩa thiền sư Bạch Anh Quản trưởng sơn trang công chúa,Đệ Tam Thoải Phủ Xích Lân Long Nữ công chúa.

-Trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương Quốc Công Tiết Chế Thượng đẳng phúc thần ngọc bệ hạ.

Trần triều vương phụ,vương mẫu,vương phi phu nhân,vương huynh ,vương đệ,vương tử,vương hôn,vương nữ,vương tế,vương tôn chư vị tướng tá bộ hạ các quan công đồng Trần Triều uy phong lẫm liệt.

-Cung thỉnh Tam vị Chúa Mường:đệ nhất Tây Thiên,đệ nhị Nguyệt Hồ,đệ tam Lâm Thao

_Chúa Bà Cà Phê ,Tiên Chúa Thác Bờ-Hòa Bình công chúa,Ngũ Phương Bản Cảnh Chúa bà bạch hoa công chúa tối tú tối linh,hội đồng chúa bói,hội đồng chúa chữa,hội đồng chúa Mán,hội đồng chúa Mường,lục cung chúa chầu các bộ sơn trang,sơn lâm công chúa,tam thập lục cung công chúa,lục thập hoa giáp thần nương.

-Cung thỉnh tứ phủ chầu bà,Năm tòa quan lớn,10 dinh các quan.Bát bộ sơn trang thập nhị tiên cô trên ngàn dưới thoải,Thủ điện công chúa tối tú tối linh.Con kính lạy tứ phủ quan hoàng.Kim niên đương cai Thái Tuế Chí đức tôn thần,đương cảnh thành hoàng bản thổ liệt vị đại vương.Đức hoàng triều đức hoàng quận.Thượng Thanh Bản Mệnh nguyên thần chân quân,Thiên Tào Hoa Giáp thủ mệnh công chúa,Ông thủ đầu đồng chầu bà quyền cai bản mệnh giáng phúc lưu ân trừ tai giải ách.Tứ phủ thánh cô,tứ phủ thánh cậu,cậu bé bản đền,cô bé bản đền.Ngũ lôi thiên tướng, ngũ hổ đại thần chư vị các quan, thiên thiên lực sĩ ,vạn vạn tinh binh,binh hùng tướng mạnh,chư tư quan tướng,giáng đền giáng phủ,tế thế cứu dân.Thanh Xà đại tướng,Bạch Xà đại quan.Thổ công chúa đất chư vị tôn thần bản sứ.

Con kính lạy công đồng các giá ,hội đồng các quan ,trên ngàn dưới thoải ,18 cửa rừng,12 cửa bể,cửa đình thần tam tứ phủ tối tú anh linh,tối cao,tối sáng,tận thương tận độ!

Hôm nay là ngày...tháng...năm...

Đệ tử con là.....(tuổi)thê........(tuổi)sinh nam tử.....(tuổi)nữ tử.............v.v.............

đồng gia quyến đẳng

Ngụ tại địa chỉ:............................................ ......................

Ngày hôm nay cát nhật đương thời,đệ tử con tâm thành chí nguyện 1 dạ 1 lòng mộ đạo ân cần,đường xa không quản mưa nắng không nề,nhất tâm về bái yết cửa cha cửa mẹ của đình thần tam tứ phủ.Cúi xin Phật thánh thương xót giáng đền giáng phủ ,xe loan giá ngự, chấp lễ chấp bái,chứng minh công đức, giáng phúc lưu ân cho quốc thái dân an,mưa thuận gió hòa,thiên hạ thái bình,muôn nhà được hưởng ấm no hạnh phúc,phù hộ độ trì cho gia đình con được toàn gia an lạc công việc hanh thông,người người được chữ bình an,tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng,lộc tài tăng tiến,tâm đạo mở mang sở cầu tất ứng sở nguyện tòng tâm,ngũ phúc lâm môn,thân tâm an lạc, quả đạo viên thành,đầy thuyền mãn quả,gia đạo hưng thịnh.Có lộc có tài có ngân có xuyến để trên lo được việc thánh dưới gánh được việc trần,thần hôn phụng sự cửa đình thần tam tứ phủ được mãn chiều xế bóng.Xin các Ngài thương lời con kêu nhận lời con khấn,nhất tội ngài nhất xá,vạn tội ngài vạn thương!

Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!!

Cung thỉnh công đồng Tổ tiên nội ngoại,Tổ Cô Mãnh Tướng,cậu bé cô bé tại gia đẳng đẳng chư vị chân linh sống vi anh tử vi linh về hầu cửa Phật cửa Thánh trên tấu thượng thiên,dưới tấu tòa vàng thoải phủ,kêu thay lạy đỡ cho con cháu cháu chắt của Tổ được kêu thấu,tấu nổi,đắc lễ đắc bái đắc yêu đắc cầu.Đức Tổ cao minh tận thương tận độ!!!

----------------

con nam mo a di da phat (3 lan )

con lay chin phuong troi muoi phuong phat chu phat muoi phuong 10 phuong chu phat ngu phuong ngu phat thap phuong thap phat

de tu con nhat tam cung thinh tam phu cong dong tu phu van linh van phep van linh muon trung bach bai

nhat tam cung thinh tam vi duc vua cha

duc vua cha de thich thien phu chi ton

duc vua cha ngoc hoang thuong de

duc vua cha bat hai dong dinh

de tu con an may cong duc tam toa thanh mau doi co hau can

de nhat thien tien quynh hoa dung lieu hanh cong chua sac phong che thang hoa dien dai vuong gia phong tien huong thanh mau

de nhi truong son lam son trang cong chua thanh tien le mai dai vuong ngoc be ha dieu tin dieu nghja thien su

de tam thoai phu xich lan long nu bach ngoc ho chung thuy tinh cong chua thanh tien ngoc be ha

nhat tam cung thinh duc dai vuong tran trieu hien thanh quoc cong tiet che nhan vu hung dao dai vuong tran quoc tuan thuong dang phuc than ngoc be ha

sam hoi duc ong de tam dong hai nhj vi vuong co de nhat vuo9ng co de nhi vuong co quyen thanh cong chua dai hoang cong chua co be cua suot cau be cua ong

con sam hoi vuong phu vuong mau vuong tu vuong ton ngu phuong ngu nhac kiep bac linh tu

cung thinh tam vi chua muong chua thuong dong cuong tuan quan de nhi to chua boi nguyet ho chua de tam thac bo hoa binh cong chua de tu con an may cong duc cua hoi dong chua muong chua man bat bo son trang thap nhj tien nang sam hoi cac toa son lam son trang tren ngan duoi thoai

cung thinh ngu vi ton ong hoi dong quan lon

nhat tam cung thinh tu phu chAU BA

nhat tam kieu thinh ong cai dau dong ba chua ban menh

cung thinh tu phu quan hoang \

ong bo thoai phu ong bay bao ha tran thui tren dat lao cai ong muoi tran thu nghe an

sam hoi tu phu thanh co tu phu thanh cau nhat tam kieu thinh co be ban den cau be ban phu vao tau cha ra bach me

sam hoi cac bong cac gia cac toa cac vi thu den thu dien cong chua

cung thinh nam dinh ngu ho bach xa dai tuong

ngayhom nay de tu con dau doi lenh menh lm toi con nguoi duong the so he thien cung cha cham linh me bat dong nhat a1 long tong 1 dao quy goi dap dau keu trc cua cha cua me de mau do cho con duoc yen can yen so yen so thien dinh tren mau tau de dinh duoi ha trinh cac cung .mau vuot mau ve mau che mau cho nan no mo mang trong cay dap goc no canh sanh ngon.cho con cau tai dac cay tai sai canh loc .cho tron gia chung nuoc chay mot dong thuyen do 1 ben de 3 thanng he chin thang thu co tai co loc de tren lo viec thanh duoi ganh vac vc tran .mau cho con cao tay boi gioi tay dong de cuu nguoi kho do ng me .tran gian con nham vo so loi vo cung am chua tuong duong chua to nham mau doi loi mau tha cho con tai qua nan khoi cho vo tai vo nan vo han vo lo .cac un cac tieu hoc hanh thong mjh sang suot

Nguồn trích dẫn (0)

Share this post


Link to post
Share on other sites