Guest

Vợ Chồng Già Bị 7 Đứa Con Đẩy Ra Ăn Tết Ngoài Đường Cùng Cỗ Quan Tài

2 bài viết trong chủ đề này

Sinh hạ được 7 người con, chịu bao đắng cay để nuôi nấng chúng nên người. Vậy mà, giờ đây chúng "báo hiếu" ông bà bằng những cú đấm thẳng mặt, những lời rủa sả...

Đó là bi kịch của vợ chồng cụ Nguyễn Văn Quý (84 tuổi) và cụ Nguyễn Thị Chén (82 tuổi), ngụ thôn Đồng Lư, xã Đồng Quang, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Tám năm bị con cái đẩy ra đường là tám cái Tết buồn của cặp vợ chồng bất hạnh.

Những đứa con “trời đánh”

Tìm đến thôn Đồng Lư hỏi thăm vào ngôi chùa có vợ chồng cụ già phải tá túc, mọi người đều biết chính xác: “Chắc cô chú tìm ông bà Quý hả? Tội nghiệp ông bà ấy lắm cô chú ạ, hiền lành, chịu thương chịu khó nhưng về già mất phúc. Con cái thì đông đúc, giàu có mà có đứa nào chịu nuôi bố mẹ đâu”. Rồi không kịp để khách hỏi thêm câu nào, mọi người tranh nhau kể tội mấy đứa con bất nhân của hai cụ: “Mấy hôm trước chúng nó lại vừa hành hung bố mẹ”.

Posted Image

Chuyện buồn cặp vợ chồng già bị 7 đứa con đẩy ra ăn Tết ngoài đường cùng 6 miếng gỗ đóng quan tài

Cụ bà Nguyễn Thị Chén đang cầm chổi quét sân chùa, tuổi già, mắt kém nên lẩy bẩy lia từng nhát chổi chậm chạp, cứ vài phút lại dừng tay đấm lưng. Trời Hà Nội những ngày cuối năm lạnh đến dưới 10 độ C nhưng bà cụ cho biết ông lão chồng mình từ sáng sớm đã ra đồng mò cua bắt ốc. Nghe có người muốn đến hỏi chuyện bi kịch của mình, khóe mắt nhăn nheo của bà cụ trào nước mắt: “Một đời chúng tôi vì con vì cái, nuôi nấng dựng vợ gả chồng cho chúng, không để nợ một đồng một cắc nào cho chúng. Vậy mà giờ chúng đối xử với vợ chồng tôi thế này đây”.

Cách đây 60 năm, ông bà quen nhau trong một lần đi làm thuê ở miền sơn cước rồi nên duyên vợ chồng. Về sống với nhau, ông bà lập nghiệp từ đôi bàn tay trắng trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng. Lúc vợ chồng ra ở riêng tài sản chỉ có duy nhất 20 cây tre để dựng căn nhà làm nơi tá túc tránh mưa tránh nắng.

Ông bà lần lượt sinh hạ được bảy người con, ba trai, bốn gái. Cuộc sống vốn dĩ đã khó khăn, khi bảy đứa con lần lượt chào đời thì cuộc sống càng túng quẫn hơn. Để nuôi được bảy người con thành người, ông bà đã phải chịu trăm ngàn cực nhục. Ông đi làm thuê làm mướn hùng hục suốt ngày, còn bà thì tối ngày cắm mặt trên mấy thửa ruộng kiếm miếng cơm manh áo nuôi con. Căn nhà nhỏ cũ nát đêm mưa không có chỗ nằm, ông bà nhường cho các con chỗ khô ráo, còn mình thì chịu trận giữa mưa gió. Bữa no bữa đói, nồi cơm độn

sắn ngô không đủ cho đàn con đông đúc, có bữa ông bà phải nhịn ăn nhường con.

Xã hội ngày càng càng phát triển, cuộc sống rồi cũng bớt khó khăn. Rồi ông bà dựng vợ gả chồng cho mấy đứa con lớn, mấy đứa nhỏ thì do cuộc sống khó khăn quá nên ông bà dắt lên vùng kinh tế mới ở Tiến Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội). Đến vùng kinh tế mới, do chịu khó làm ăn nên cuộc sống gia đình đã thoát khỏi cảnh túng quẫn. Lúc này ông bà dựng vợ gả chồng nốt cho mấy đứa nhỏ.

Tuy không bằng ai nhưng ông bà vẫn cố gắng lo lắng cho con cái chu đáo, 3 người con trai thì cho mỗi anh một dinh cơ khi lấy vợ, không để nợ một xu một đồng cho đứa con nào. Khi người con trai thứ ba của ông bà lấy vợ xây nhà, đứa con xui ông bà bán đất ở vùng kinh tế mới để lấy tiền xây nhà cho mình, ông bà cũng nghe theo vì cha mẹ nào chẳng “cá đuối đắm đuối vì con”.

Những bữa cơm chan nước mắt

Bà cụ giơ tay gạt dòng nước mắt rồi tiếp tục câu chuyện. Sau khi dồn hết tiền làm nhà cho anh con trai thứ ba, ông bà về ở với người con trai cả khi trong tay ông bà không còn tiền. Người con cả khi đó đã hậm hực hắt hủi ông bà với lý do: “Bao nhiêu tiền cho thằng thứ ba hết, tôi không được gì”, trong khi chính anh ta thừa hưởng mảnh đất trước đó cha mẹ cho.

Sống với người con cả, vợ chồng cụ phải làm như người đi ở. Hàng ngày hai cụ phải lấy bèo nuôi bảy con lợn, cày cấy gặt hái, đi làm sớm về muộn mới được miếng cơm để ăn. Đến mùa vụ, có khi cụ bà đi gặt được mấy gánh lúa thì con dâu mới ra đồng. Cực nhục là vậy nhưng với bản tính hiền lành chịu thương chịu khó, ông bà cắn răng không kêu nửa lời cho vừa lòng vợ chồng con cả. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì anh con cả tuyên bố thẳng thừng: “Ông bà cút khỏi nhà này, đi đâu thì đi”.

Vợ chồng cụ đành lẳng lặng ôm quần áo tìm đến nhờ vả anh con trai thứ ba. Những tưởng trước đây mình đã lo lắng bán nhà đi lấy tiền cho nó xây nhà thì con sẽ tốt với mình, thế nhưng trái lại người con này cũng không kém phần tệ bạc với cha mẹ và tỏ rõ “quan điểm”: “Ông cả không tử tế với ông bà thì tôi việc gì phải tử tế?”.

Ở đây, cảnh khổ không kém gì con cả khi đã không những phải làm lụng vất vả, họ còn năm lần bảy lượt bị con đuổi đi. Nhục nhã nhất là những bữa cơm chan nước mắt. Bữa ăn nào cũng vậy, người con trai bắt bố mẹ phải cung kính mời… vợ chồng con cái mình ăn cơm bằng câu: “Mời ông bà ăn cơm, mời các cháu ăn cơm”. Có những người làng xóm thấy vậy thì bực mình thay và phẫn nộ: “Ông bà hiền quá để nó bắt nạt, mình là bố mẹ đến bữa thì sao phải mời chúng nó”. Thử một lần “phạm thượng”, tối đó hai cụ không mời thì bị con trừng mắt nạt nộ: “À, cái nhà này ăn cơm không ai mời ai à”. Sợ ông “trời con”, ông bà run rẩy “trở về nếp cũ”: “Mời ông bà…”.

Nhẫn nhịn bao lâu những mong yên thân nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, đến một hôm gã con trai thứ ba giơ tay đấm vào mặt mẹ, vác dao kề cổ bố xua đuổi: “Bước mẹ chúng mày ra khỏi nhà, không tao cho nhát dao bây giờ” (Lời nguyên văn của cụ Chén - PV). Thấy bố mẹ lủi thủi ôm mớ quần áo rách bước đi, gã còn thẳng thừng tuyên bố: “Còn quay về đây thì đập chết”.

Vẫn còn một niềm hi vọng nữa là người con trai thứ. Biết bố mẹ phải lang thang ngoài đường, anh này đón ông bà lên ở cùng nhưng cũng được vài hôm. Phải sống trong cảnh những lời nói móc máy của cô con dâu ra rả trong nhà suốt cả ngày, ông bà cảm thấy sống còn khổ hơn chết. Nước mắt lưng tròng, không còn nơi nương tựa vợ chồng cụ lang thang đây đó, đến khi không còn chỗ nào nữa đành phải vào ở nhờ nhà chùa. Tám mươi năm cuộc đời vất vả làm lụng, gia tài các cụ có trong tay là bảy đứa con bất hiếu và bất lực, sau miếng ván dùng để đóng áo quan khi chết cùng 3 bao tải đựng lá khô dùng đun nấu. Người làng thấy vậy liền thương tình người cho cái bát, người cho manh chiếu, người cho cái giường cũ để các cụ dựng thành cái “tổ ấm” cuối đời.

Rơi lệ nghe những kỷ niệm buồn

3 người con trai thì vậy, những người con gái cũng không “khá khẩm” gì hơn. “Mấy đứa con gái thì một đứa lấy chồng ở Xuân Mai, một đứa lấy ở trại Bà Nhà, một đứa ở Cố Đụng (đều là những địa điểm gần nơi ông bà đang ở nhờ - PV), còn đứa út thì lấy chồng ở làng Đồng Lư này thôi”, bà lão nhẩm đếm. 3 đứa con gái của cụ theo lời kể của bà lão tội nghiệp thì kinh tế đều khá giả, chỉ có cô út lấy chồng ở làng thì nghèo “rớt mồng tơi”. Chẳng biết giàu sang cỡ nào nhưng mấy đứa con gái hàng năm không ngó ngàng tới bố mẹ, năm thì mười họa mới mua cho ông bà mấy viên thuốc, Tết nhất may ra cho được túi kẹo cái bánh. Riêng cô con út cùng làng thương cha mẹ già thì thỉnh thoảng ghé qua nhưng nghèo quá, nuôi còn chưa nổi nói gì lo cho cha mẹ già.

Trở lại câu chuyện những người con trai. “Sòng phẳng” mà nói thì lúc ra nhà chùa ở, hai cụ vẫn chưa đến nỗi không còn “miếng đất cắm dùi” vì vẫn còn một sào ruộng để cấy lúa sinh nhai. Thế nhưng tài sản cuối cùng này cũng bị đứa con trai cả tranh cướp. Đã mấy lần cô út đi giúp bố mẹ già làm ruộng thì bị vợ chồng anh cả vác cuốc đuổi đánh, không cho làm hộ vì “đó là ruộng của tao, mày đừng có động vào”,

Chưa hết, mấy năm trước hai cụ đến tuổi thượng thọ nên được hưởng chính sách của Nhà nước, theo quy định thì phải có sổ hộ khẩu, chính quyền mới có thể làm giấy tờ chúc mừng, làm chế độ. Vẫn đứng tên trong hộ khẩu gia đình con trai cả, ông bà lủi thủi về van vỉ con cho mượn cái sổ hộ khẩu để làm giấy tờ cũng bị đứa con từ chối thẳng thừng. Khi người cha về van vỉ: “Con cho bố mượn sổ hộ khẩu một lát, bố chỉ mang đi photocopy rồi trả ngay” thì đứa con nại ra lý do “Sổ đang ở nhà trưởng thôn”. Lóc cóc tìm đến nhà trưởng thôn thì được biết rằng con đã lừa mình, ông lão lại lộn trở lại nhịn nhục xin mượn lần nữa thì con trai – con dâu đùn đẩy nhau. Uất ức, người cha gạt nước mắt lủi thủi quay đi và thề “không bao giờ bước chân đến đây nữa”.

Cũng có những lúc ông bà lão 80 này được những đứa con “đối xử tử tế” một cách bất thường. Đó là những lúc chúng cần các cụ làm “con ở”. Thằng con trai thứ ba của họ là một ví dụ, khi vợ sinh nở thì người này tới đón vợ chồng cụ vào. Đã “cảnh giác” sau nhiều lần bị lợi dụng nên cụ ông không đi vì nghĩ “nó chỉ đạo đức giả”, riêng cụ bà thương con thương cháu nên theo vào chăm sóc, giặt giũ, làm lụng “phục vụ” gia đình con. Lời ông cụ đã đúng khi đứa cháu đã cứng cáp, vợ chồng đứa con lại đuổi bà đi: “Bà đi làm lấy mà ăn, không được ở đây nữa”. Gần 10 năm nay thấy ông bà lão chui rúc trong căn lều rách, nhiều người hàng xóm khuyên: “Hai cụ đi ở nhờ đình chùa làm gì cho khổ, về làm một túp lều ở góc vườn nhà thằng con mà ở”. Phong phanh nghe thấy, đứa con ngang ngược nói bóng gió: “Về tao không cho làm, tao “băm” chết”.

Với những “kinh nghiệm xương máu” từ những đứa con, bà cụ thành thật: “Chẳng biết rồi khi chúng tôi chết chúng có để ý đến bố mẹ không, hay lại phải nhờ cậy đến chính quyền, đến dân trong làng”. Những đứa con trai chưa từng một lần đến xem túp lều nơi cha mẹ trú thân, chưa từng một lần ngó ngàng để ý bố mẹ còn sống hay chết. Táng tận lương tâm hơn, chúng còn cấm tiệt các con không được chào hỏi, không được ra chơi với ông bà. Những đứa con dâu “rách giời rơi xuống” thì đã đành, nhưng những đứa cháu có lẽ đã được bố mẹ “huấn luyện” nên có gặp ông bà hay cô út ngoài đường chúng cũng “bơ” đi như người dưng nước lã.

Một luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội cho biết, trong vụ việc này cơ quan công an thậm chí có thể khởi tố những đối tượng là con của ông bà về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo Bộ luật Hình Sự, người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng nuôi dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật; mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng; hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 2 tháng đến 1 năm.

Chúng tôi hỏi tại sao hai cụ không nhờ chính quyền địa phương can thiệp sự việc, ít nhất nếu con cái không nuôi cha mẹ thì cũng phải trả các cụ mảnh ruộng cho các cụ kiếm gạo chứ? Cụ bà nghẹn ngào: “Chính quyền cũng không làm gì được mấy thằng con tôi. Ở đây chúng nó chửi nhau hết với họ hàng rồi đến hàng xóm, sống một mình mà không chơi với ai cả”. Chị út khi đó vừa đến thăm mẹ cũng gục đầu nức nở: “Trước kia khi anh tôi kề dao vào cổ bố dọa chém, chính quyền và dân quân có đến bắt anh ta viết giấy cam đoan không được hành hung bố mẹ nữa nhưng chỉ hôm trước hôm sau lại đâu vào đấy. Tôi thì cũng đau lòng lắm nhưng “lực bất tòng tâm” các anh chị ạ, muốn nuôi bố mẹ mà sức không nổi vì nghèo, lại lấy chồng nên phải lo nhà chồng”.

Sống khổ hơn chết

Góc nhà nơi ông bà lão “trời đày” này trú ngụ rộng khoảng dăm m2, chiếc giường xin được ở đâu nên hai chân còn, hai chân phải lấy gạch kê lên. Người già đã khó ngủ, đêm mùa đông càng khó ngủ hơn khi gió cứ len lỏi qua cửa sổ thốc vào nhà dù hai cụ đã cẩn thận nhét đầy ni long, giẻ rách vào các khe hở. “Nghĩ cực lắm, chúng tôi có làm gì nên tội đâu mà lại bị đày đọa thế này. Nhưng vợ chồng tôi cũng kiên gan lắm đấy, nhiều khi cũng muốn phát điên hay cắn lưỡi mà chết, nhưng bây giờ mà chết thì chính quyền với làng xóm lại khổ nên sống được ngày nào cứ cố sống. Đêm nào cũng nước mắt chảy xuôi, cụ Chén nói.

Đọc đến đây, nhiều người sẽ thắc mắc ông bà lão sinh sống bằng gì. Bà cụ cho biết ngoài việc ông lão ngày ngày đi mò cua bắt ốc, người trong làng còn mỗi người giúp một chút, hôm thì cho lon gạo, hôm thì cho ít muối, mà người già ăn ít, chẳng có nhu cầu mua sắm gì nên ông bà vẫn cầm cự được. “Năm nay là cái Tết thứ tám vợ chồng tôi ở đây rồi, Tết nhất chẳng có gì, cứ nhìn nhà người ta con cái sum vầy thì mình lại khóc. Mình có đến bảy đứa con, hàng chục đứa cháu mà lại khốn khổ khốn nạn nhất cái làng này”, cụ Chén khóc.

Rồi cụ bà ngóng ra ngoài xem cụ ông đã về đi mò cua bắt ốc về chưa, chép miệng thương chồng: “Khổ thân ông ấy, tôi thì ốm đau nên mọi việc đều phải ông ấy làm. Sáng nay tôi bảo trời vẫn rét lắm, đừng đi ra đồng lặn lội nữa mà ông ấy vẫn gạt đi, bảo là Tết đến nơi rồi phải kiếm mớ ốc con tép bán kiếm tiền mua nén nhang cúng tổ tiên. Trời rét thế này tôm tép cũng trốn sạch, có khi mình còn chết rét ấy chứ”. Cụ bà kể lại cụ ông ngày may mắn thì cũng kiếm được vài con ốc bán lấy dăm ngàn, có ngày đi từ sáng đến tối mới về mà tay không vì “tay đưa thìa cháo lên miệng còn run, mắt kèm nhèm thì làm sao bắt được tôm tép. Có ngày bắt được nửa giỏ ốc về nhưng đổ ra tôi mới thấy quá nửa toàn là… vỏ ốc. Những ngày không có gì ăn hay gần hết cái ăn, hai cụ phải nấu cháo húp dằn lòng, hoặc cố đi nhặt nhạnh rau dại ăn trừ bữa. Chùa cũng không có nước, hàng ngày cụ ông lọc cọc kéo xe bò từ giếng làng về để dùng sinh hoạt.

Ấy là mấy hôm trước ông lão vừa đi viện về, vậy mà vừa xuất viện hôm trước hôm sau lại đã lọ mọ ra đồng tìm cái ăn. Nhắc đến chuyện này, bà cụ lại rưng rưng nước mắt nhớ “bạn”. “Bạn” của bà là một con chó gầy giơ xương, tám năm nay lủi thủi quanh quẩn cùng ông bà, lúc ông đi kiếm ăn thì bầu bạn với bà, cho bà vỗ về. Vậy nhưng hôm ông lão ốm, nhà làm gì có đồng nào xu nào nên bà chạy nháo nhác khắp làng hết vay rồi xin cũng chỉ được vài chục ngàn. Bà lão đành gọi lái chó đến bán “bạn” mình đi. Bà vỗ về “bạn” trước khi người lái chó thòng dây vào cổ con chó ốm: “mày thông cảm, hoặc là chồng tao chết, hoặc là mày chết. Thôi “mày” đi thay ông ấy”. Không rõ con chó lẽ cũng hiểu tình cảm của bà lão, hay vì đói quá nên chẳng còn sức ăng ẳng kêu như những con chó khác khi bị bán, chỉ mắt long lanh nước nhìn bà chủ ngoảnh mặt đi.

Trong cuộc đời này không nỗi buồn nào buồn bằng nỗi buồn con bất hiếu – cha mẹ bị hắt hủi. Ai cũng có mẹ có cha nên chạnh lòng trước thảm cảnh của hai cụ, chúng tôi cũng muốn khóc nhưng phải cố dằn lòng vì khóc không giúp được gì cho hai cuộc đời khổ sở cùng cực này, chỉ mong thông qua mặt báo chuyển tải đến hàng triệu bạn đọc trên cả nước lời khẩn cầu có một sự đóng góp nhỏ giúp đỡ hai cuộc đời này. Lẩn thẩn nghĩ lại thấy hai cụ ngày xưa đã nghèo, nay còn nghèo hơn nữa: 60 năm trước khi lấy nhau các cụ còn có mơ ước về những đứa con là “của để dành” và 20 cây tre làm nhà; nay cuối đời các cụ còn gì ngoài sự thất vọng về đạo lý làm người và 6 miếng gỗ mới chỉ đủ làm một chiếc áo quan, lại động chạm đến nỗi áy náy của bà cụ: “Hai người chết chung thì còn chôn một hòm được, nếu không chết cùng nhau thì chẳng lẽ một người lại… bó chiếu?”…

Người Việt Nam vốn coi trọng các giá trị đạo đức truyền thống, coi các chuẩn bực đạo đức là thước đo nhân cách con người. Trong đó mối quan hệ trong gia đình đặc biệt được đề cao, bởi vì đó là nguồn gốc, rường cột là nền tảng cho các mối quan hệ khác. Trong quan hệ gia đình thì chữ hiếu lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Người Việt rất coi trọng đạo hiếu, vậy nên những bậc đại hiếu, chí hiếu trong thiên hạ đều rất được đề cao, coi trọng, được người đời ca tụng, là tấm gương cho đời sau. Ngược lại những kẻ làm con mà bất hiếu, bị xã hội chê trách, bị người đời lên án, và sẽ phải nhận một hậu quả tất yếu. Đạo hiếu không kể đó là người sang hay kẻ hèn, người ở địa vị xã hội cao hay thấp mà cốt ở sự thể hiện lòng hiếu thảo cua mình mà thôi. Trong lịch sử, trong dân gian hay trong văn học đều có rất nhiều những tấm gương như thế.

Phúc Nguyên

Mọi sự giúp đỡ xin gửi về:

1. 1. Ông Nguyễn Văn Quý và bà Nguyễn Thị Chén: thôn Đồng Lư, xã Đồng Quang, huyện Quốc Oai (Hà Nội).

2. Hoặc gửi về Quỹ Tấm Lòng Việt Nam - Báo điện tử Giáo dục Việt Nam

- Địa chỉ: số 147 Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội

- Tel: 04.6261.0666 – 04.6261.0888

3. Qua Ngân hàng:

- Tên Tài khoản: Báo điện tử Giáo dục Việt Nam

- Tài khoản số: 1507201058249 tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, chi nhánh Cầu Giấy

- Email: tamlongvietnam@giaoduc.net.vn

Lưu ý:

- Khi chuyển tiền ủng hộ cho một hoàn cảnh cụ thể, đề nghị Bạn đọc ghi rõ tên hoàn cảnh hoặc Mã số của hoàn cảnh.

Pháp luật & Thời đại

=====================

Xã hội có loại người không bằng cầm thú vầy sao?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vụ vợ chồng già bị con đuổi cùng cỗ quan tài: Con trai "tố ngược"

Thứ tư 01/02/2012 06:57 (GDVN) Anh Nguyễn Văn Đại, con trai thứ 3 của ông bà Quý Chén cho rằng những câu chuyện của ông bà và em gái anh kể hoàn toàn sai sự thật.

  • Vợ chồng già bị đuổi khỏi nhà với cỗ quan tài: Con gái út lên tiếng
  • Vợ chồng già bị 7 đứa con đẩy ra ăn Tết ngoài đường cùng cỗ quan tài
Sau một loạt những câu chuyện buồn mà ông Nguyễn Văn Quý (84 tuổi) và bà Nguyễn Thị Chén (80 tuổi) đã chia sẻ với báo giới, lần đầu tiên, những người con trai, con gái của 2 ông bà đã lên tiếng. Trong cuộc gặp gỡ với chị Nguyễn Thị Thoa (35 tuổi) là con gái út của ông bà, chúng tôi đã được nghe chị trần tình về hoàn cảnh gia đình cũng như những câu chuyện buồn. Những điều mà chị nói ra, nhìn chung khá thống nhất với các chi tiết trong câu chuyện của ông bà Quý Chén.

Tuy nhiên để lắng nghe tiếng nói từ nhiều phía, phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã tìm gặp 1 trong số 3 người con trai của ông Quý. Đó là anh Nguyễn Văn Đạt. Điều bất ngờ là anh này cho rằng, lời bố mẹ và em gái mình nói là sai sự thật.

Thậm chí, anh Đạt còn thể hiện bức xúc: "Chuyện ông bà bỏ ra đình ở, mà không ở nhà thờ phụng tổ tiên, không ở với con cái là điều không chấp nhận được. Chính có sự hậu thuẫn của chính quyền địa phương, chấp nhận cho tá túc ở đình làng, nên họ càng không muốn về với con cháu".

Nhà anh Nguyễn Văn Đại cách đình làng Đồng Lư (Đồng Quang, Quốc Oai, Hà Nội), nơi ở của ông bà Qúy Chén chưa đầy 1km. Đó là một ngôi nhà 2 tầng, khá khang trang, sạch sẽ. Đồ đạc trong nhà dù không phải những thứ đắt tiền, nhưng được bài trí khá cẩn thận, quy củ.

Mở đầu cuộc nói chuyện anh Đại nói rằng, bố mẹ anh sinh ra được 7 người con. Trong 3 người con trai, anh là nhỏ nhất. Lúc mới trưởng thành, anh đã đi làm ăn xa rồi lấy vợ ở Hòa Bình. Khi trở về, thì đã nghe dân làng đồn rằng anh Nguyễn Văn Trượng (anh trai cả trong nhà) đánh đuổi bố mẹ. Lúc đó anh đón bố mẹ về nuôi. Do đó, nếu như ông bà Quý Chén nói rằng anh đánh ông bà, là điều không chấp nhận được.

Khi được hỏi, theo anh vì sao những người nhà anh Đại đưa ra những thông tin sai lệch, anh Đại nói, có lẽ bởi họ không thích vợ chồng anh. Và anh nhắn nhủ với bố mẹ mình rằng, dẫu có nghèo khổ, ăn rau ăn cháo cùng con cái, thì ông bà hãy về ở cùng các con. Bản thân anh không đến đón ông bà nữa bởi vì mỗi lần đến đón, ông bà lại làm um lên, làm xấu con cái.

Về thông tin anh đã “dụ” bố mẹ bán mảnh đất ở vùng kinh tế mới, lấy tiền mua mảnh đất hiện tại, anh Đại cũng phản đối kịch liệt. Anh nói rằng, đất và nhà hiện tại gia đình anh đang sinh sống được mua bằng tiền bán đất thật.

Nhưng đó không phải bán đất ông bà Quý Chén, mà là 2 sào đất mà bên vợ cho lúc 2 người mới cưới nhau. Anh Đại nói thêm, ở vùng này, trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ là thuộc về con trai cả trong nhà, trừ khi con cả mất đi thì mới ủy quyền cho các con trai khác bên dưới.

Tuy nhiên, khi bố mẹ anh bị đuổi, chính anh lại là người đón ông bà về nuôi dưỡng, như vậy về bổn phận làm con là đã hoàn thành tốt. Lúc bà Chén bị ốm 6 tháng, điều trị ở bệnh viện Quân Y 103, cũng một tay vợ chồng anh lo tiền thuốc thang, viện phí. Nhưng khi khỏe mạnh, ông bà lại dọn về đình làng ở tiếp.

Về chuyện lo tết nhất cho bố mẹ, anh Đại nói rằng, hiện nay kinh tế nhà anh không thuộc diện dư giả, lại nuôi thêm 3 đứa con đang tuổi ăn học, mọi chi tiêu trong nhà chỉ trông vào đồng tiền ít ỏi mà anh đi làm thuê, làm mướn nên cũng chưa lo vẹn toàn được cho bố mẹ. Tuy nhiên, ngày tết, vợ chồng anh vẫn đến thăm, mừng tuổi các cụ. Do đó, lời em gái anh nói với các phóng viên hoàn toàn.

Nói về nguyên nhân chính khiến ông bà Qúy Chén rời nhà đến đình làng ở nhờ, anh Đại thẳng thắn nói, chuyện này có nguyên nhân từ 2 phía. Nếu đổ lỗi cho vợ chồng anh cũng chưa hẳn đúng. Rồi anh kể, sau khi mua đất làm nhà, vợ chồng anh rất túng thiếu, mọi sinh hoạt trong gia đình rất kham khổ, bó buộc. Chính vì không chịu được khổ nên ông bà đã chuyển ra ngoài ở. Bản thân anh cảm thấy không làm gì hổ thẹn với các đấng sinh thành.

Anh Đại nói, anh chỉ là một người nông dân nghèo, nhưng không vì thế mà quên đi những đạo nghĩa thông thường. Hàng ngày anh vẫn chú trọng dạy các con của mình phải hiếu thảo, ngoan ngoãn với bố mẹ. Thậm chí anh không ngại treo lên tường 5 điều để dạy dỗ con cái, mặc dù không phải người giỏi chữ nghĩa. 2 đứa con lớn của anh cũng là những đứa trẻ học giỏi có tiếng ở địa phương (lời ông phó chủ tịch xã). Đây có lẽ chính là điều làm phóng viên ngạc nhiên nhất trong cuộc nói chuyện này.

Trước những thông tin có phần trái ngược mà anh Đạt cung cấp, phóng viên báo Giáo dục Việt Nam tiếp tục tìm đến những người hàng xóm của gia đình và đại diện chính quyền địa phương. Những người này đều khẳng định: "chuyện ông bà Quý, Chén bị con cái trong nhà ngược đãi thì người dân địa phương đã biết từ lâu". Mời độc giả tiếp tục theo dõi.

Trích từ http://www.baomoi.co...uoc/7792255.epi

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay